Thứ Bảy, 6 tháng 3, 2021

Trong vườn hoa thơ 2

Trong vườn hoa thơ 2

7- Đôi vần hoa xưa

Ông bạn Vân Đình cùng một một bạn thanh niên đến Vườn Hoa Thơ trách Lão Giữ Vườn:
- Dường như Lão Giữ Vườn có ý muốn phục hưng thơ chữ Hán?
- Chữ Hán, chẳng những ở Việt Nam mà ở nhiều nước khác cõi Á Châu đồng văn cùng  Việt Nam, đã bị coi là “món đồ cổ” rồi. Tôi làm sao mà phục hưng nổi.
- Đã biết vậy, sao lâu nay trong Vườn Hoa Thơ chỉ thấy chưng bày toàn thơ chữ Hán? Trong Vườn thơ Việt Nam không có hoa thơm cỏ lạ hay sao?
- Sao lại không? Nhưng “tuần tự nhi tiến”, và “ăn trái nhớ kẻ trồng cây”. Thơ Việt Nam ngày nay được hoa lệ phong phú, phần lớn là nhờ chữ Hán. Cho nên Lão nói thơ chữ Hán trước khi nói đến thơ chữ Việt, là có ý “ẩm thủy tư nguyên”.
Ông bạn thanh niên nói:
- Đám thanh niên chúng cháu hiện nay, hầu hết đều dốt chữ Hán. Cho nên không nhiều người thích thơ chữ Hán.
Bạn Vân Đình tiếp:
- Chẳng những không thích thơ chữ Hán, mà cả những thơ chữ Việt làm theo luật thơ Đường cũng đều bị bạn trẻ được kỳ thị. Muốn cho những hoa thơ chưng bày nơi vườn Lão được giới thiệu thanh niên chú ý thì Lão Giữ Vườn nên theo thị hiếu của thời đại.
Lão cười:
- Người thời nay, nhất là giới thanh niên, thích thơ Mới, thơ Tự Do hơn thơ luật. Nhưng không vì hoa oeillet, glaieul, hoa hường Đà Lạt… bán được đắt giá và dễ dàng mà Lão phụ hoa mai, hoa cúc, hoa lan, hoa tường vi… Mọc nơi rừng sâu, dậu vắng, hang thẳm, vườn quê… Chẳng những lão không phụ mà lão còn yêu quí, nâng niu hơn cả hoa nước ngoài đem trồng nơi Đà Lạt đắc địa, nơi vườn giàu sang sẵn phân sẵn nước.
Bạn Vân Đình hỏi:
- Như thế Lão Vườn chú trọng đến thơ Đường Luật hơn các thể khác mà làng thơ hiện đại ưa dùng?
- Không đúng lắm. Trong Vườn Hoa Thơ, lão đón tiếp tất cả các bạn trồng hoa thiếu “đất dụng võ”, không phân biệt cũ mới. Những nhà thơ cũ như Đông Hồ, Bùi Khánh Đản…, những nhà thơ mới như Vũ Hoàng Chương, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa..., là những nhà “cự phú”, vườn ruộng cò bay, tất không bao giờ để chân để mặt đến thẻo vườn cỏn con và hẻo lánh này. Bởi vậy các bạn “hàn sĩ” trồng hoa đều là khách quí của Vườn Hoa Thơ lão giữ, và lão sẵn sàng dành chỗ để chưng bày những đóa hoa những khóm hoa có sắc có hương.
Ông bạn thanh niên đề nghị:
- Vì chưa rõ chủ trương của Bác nên khách làm thơ “không đất dụng võ” chắc chưa gởi hoa đến cho Vườn. Vậy xin đề nghị bác chưng bày cho xem một ít danh hoa của cổ nhân mà lâu nay sách báo quốc âm ít đề cập đến. Cháu đoán chắc trước  khi mở vườn bác đã tích trữ được nhiều. Nhân tiện xin bác cho biết qua tánh chất của mỗi loại hoa xưa còn được lưu thế.
- Vườn mới mở còn nhiều đất hoang, thể lời ông bạn. Lão xin múa gậy thử. Nhưng vì vườn tuy còn nhiều đất hoang song phạm vi không được rộng và thì giờ của các bạn cũng như của lão không hơn chi phạm vi của vườn, nên lão chỉ xin nói về hoa Đường Luật và nói một cách “trói voi bỏ rọ” để mua vui mà thôi:
Thể thơ Đường luật được áp dụng trong làng thơ Quốc âm mới từ đời Trần (1225 -1400). Người khởi xướng là Hàn Thuyên, nên thơ Quốc âm làm theo thể Đường Luật thường gọi là Thơ Hàn Luật.
Đề 1 tập thơ quốc âm làm theo thể Đường luật , một nhà thơ cận đại có câu:
Vơ vẩn tơ vương hồn Đại Việt
Thanh tao thép luộc giọng Hàn Thuyên.
Thơ quốc âm đời Trần còn truyền tụng không được mấy Lão được đọc một số thơ mượn tích Chiêu Quân Cống Hồ để chỉ trích việc vua Trần Nhân Tông gả Huyền Trân Công Chúa cho Chế Mân, và một ít thơ của vua Hậu Trần Trùng Quang Trần Quý Khoách cùng nghĩa sĩ Nguyễn Biểu. Văn chương phần nhiều có vẻ chất phác. Đó là những đóa hoa có sắc có hương, song sắc hương không mấy nồng nàn thắm đượm. Lão có thể ví với hoa vạn thọ, hoa ngâu.
Đó là tánh chất tổng quát, chớ đi vào chi tiết thì cũng có lắm câu rất điêu luyện. Như câu:
Lãng uyển Xuân tàn tin én dứt
Hành dương non thẳm chiếc nhàn khơi
Trong bài nói về Vương Tường, tức Chiêu Quân rời Cung Hán sang đất Hồ. Chỉ vài nét chấm phá mà gợi không biết bao nhiêu tình bao nhiêu cảnh, khiến lòng người đọc cùng người trong cuộc sanh trăm mối buồn thương.
Lại như câu:
Quanh tường một bức khăn là rủ
Treo nguyệt ba canh bóng quế cao
Trong bài tả cảnh Vương Tường tự ải. Tả cảnh thắt cổ đến như thế là tuyệt diệu. Lối văn ảnh tượng sử dụng thật đã đến mức tinh vi.
Cũng thuộc hàng giai tác, câu:
Chiếu phụng mươi hàng tơ cặn kẽ
Vó câu nghìn dặm tuyết xông pha.
Trong  bài thơ vua Trùng Quang tặng sứ giả Nguyễn Biểu, và câu của Nguyễn Biểu họa vận thơ vua Trùng Quang:
Đường mây vó ký lần lần trải
Ai tuyết cờ mao thức thức pha.
Thơ đời Lê (1428 -1788) còn truyền được nhiều hơn thơ đời Trần.
Thơ đời Trần chịu ảnh hưởng thơ Trung Hoa sâu đậm. Lời thơ có phần nặng nề và điển tích dùng có hơi lạm. Thơ đời Lê tiến bộ hơn. Văn chương đã nhẹ nhàng trôi chảy, nhưng vẫn còn giữ vẻ chất phác của tiền triều.
Đời Lê có 3 nhà thơ tiêu biểu.
- Nguyễn Trãi với Quốc Âm thi tập,
- Lê Thánh Tông với Hồng Đức Quốc Âm thi tập
- Nguyễn Bỉnh Khiêm với Bạch Vân Quốc Ngữ thi tập.
Lão sánh thơ Nguyễn Trãi với hoa Dã Cúc (Chrysanthème sauvage), thơ Lê Thánh Tông với hoa Thục Quỳ tức hoa Hướng dương (Tournesol), thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm với hoa Điệp (papilionacé).
Thơ Hàn Luật của Nguyễn Trãi ít được phổ biến. Trong các sách giáo khoa và các tập thi tuyển, hầu hết chỉ nói đến những bài Gia Huấn Ca làm theo thể Lục Bát và Song Thất Lục Bát. Lão xin giới thiệu một ít thơ Hàn Luật mà lão đã thuộc vì có nhiều chất thơ:
-  Hương cách gác vân thu lạnh lạnh,
Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh 
-  Đêm thanh nguyệt hiện ngoài hiên trúc
Ngày vắng chim kêu dưới khóm hoa.
- Bến liễu mới dời thuyền đón nguyệt,
Gác vân còn chứa bút đeo hương.
- Lòng một tấc son còn nhớ chúa
Tóc hai phần bạc bởi thương thu.
- Một thân lẩn quẩn đường khoa mục
Hai chữ mơ màng việc quốc gia.
- Sách cũ ngày tìm người hữu đạo
Trì thanh đêm quyến nguyệt vô tâm. Vân vân…
Thơ vua Lê Thánh Tông được truyền tụng là những bài Vịnh Thằng Bồ Nhìn, vịnh Cây Chổi, vịnh Thằng Mõ, v.v… mà có nhiều người cho là “có khí tượng đế vương”. Ngoài ra còn nhiều giai tác mà vị thơ không bị khẩu khí vua chúa làm hư hao.
Có nhiều câu trác luyện. Như Điếu Lê Khôi:
Tể tướng bếp tàn mai lạnh vạc
Tương quân doanh vắng liễu chau mày.
Như Vịnh làng Tam Chế:
Mênh mang khóm nước nhuộm màu lam
Chất ngất đỉnh non lồng bóng quế
Như đề Chùa Quang Khánh xã Dưỡng Mông:
Dòng thanh rẽ rẽ trần hiu quạnh
Gác thẳm làu làu ngọc giá đông
Sực mức đưa hương hoa mượn gió
Líu lo chào khách vẹt thay đồng. Vân vân…
Thơ của Lê Thánh Tông phần nhiều chép trong Hồng Đức Quốc Âm thi tập và một số ít chép trong các sách thi tuyển và ghi ở các bia.
Trong Hồng Đức Quốc Âm Thi tập, ngoài thơ vua Lê Thánh Tông còn có thơ nhiều người khác không biết tên. Có nhiều bài văn lưu loát chẳng kém văn đời nay. Như:
VỊNH CANH MỘT
Chập tối trời vừa mọc đẩu tinh
Ban khi trống một mới thâu canh
Đầu nhà khói tỏa lồng sương bạc
Sườn núi chim gù ẩn lá xanh
Tuần điếm kìa ai khua mõ cá
Dâng hương nọ kẻ nện chày kình
Nhà Nam nhà Bắc đều no mặt
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình.
VỊNH MỴ Ê
Thờ chúa thờ chồng hết tấc thương
Một mình trọn đạo việc cương thường
Non thiêng dễ hóa hồn Tinh Vệ
Nước biếc khôn nhìn mặt Phạm Vương
Dòng bạc thề cùng thu có nguyệt
Sử xanh chép để bút còn hương
Rày mừng thấy tin rồng đến
Phủ mưa đào khắp bốn phương. Vân vân…
Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được nhiều sách chép nên đã phổ cập khắp làng phong nhã trong nước. Những khách yêu thơ, không mấy ai không thuộc những câu đã trở thành tục ngữ, như:
- Còn bạc còn tiền còn đệ tử
Hết cơm hết áo hết ông tôi
- Thớt có tanh tao ruồi đến đỗ
Gang không mật mỡ kiến bò chi.
- Nhụy kết hoa thơm ong đến đỗ
Mỡ bùi mật ngọt kiến nào đi.
Vân vân…
Không mấy ai không thuộc những câu vịnh cảnh nhàn:
- Cửa trúc vỗ tay cười khúc khích
Hiên mai tréo cẳng hát nghêu ngao.
- Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao.
- Niềm xưa trung ái thề không phụ
Cảnh cũ điền viên thú đã quen. Vân vân… 
Trong tập Bạch Vân, cũng như trong Hồng Đức và trong Quốc âm của Ức Trai, thường thấy những bài thơ câu 6 chữ chen lẫn cùng câu 7 chữ. Đó là lối thơ Lục Ngôn thịnh hành ở đời Lê (2). Như:
Đạo thánh hiền hay mến khó khăn
Quyền môn chốn ấy biến chen chân
Hứng phong nguyệt chè ba chén
Thú thanh nhàn lều một căn.
Quét cửa Nho chờ khách đến
Trồng cây đức để con ăn.
Được thua phú quí dù Thiên mệnh
Chen chúc làm chi cho nhọc nhằn.
(Bạch Vân)
Từ NGUYỄN TRÃI đến NGUYỄN BỈNH KHIÊM thơ Hàn Luật đã bước được nhiều bước khá dài.
- Chữ dùng đã thành thục,
- Âm điệu đã nhịp nhàng,
- Câu thơ đã hết vẻ ngượng ngập, trái trấp mà trong thơ Ức Trai và Hồng Đức thường vấp phải.
Nhưng thơ của ba nhà đều mang tánh cách chung là:
- Thiên về lý trí và đạo đức,
- Còn giữ vẻ chất phác hoặc ít hoặc nhiều,
- Sử dụng cảnh vật theo quan niệm cổ điển,
- Dùng nhiều chữ mà hiện nay không còn phổ biến. (3)
Ngoài ba tập thơ thượng dẫn, nhà Lê còn để lại hai tác phẩm lớn là Tô Công Phụng Sứ, và Lâm Tuyền Kỳ Ngộ.
Đây cũng là hai tập truyện bằng thơ Đường Luật như tập Vương Tường đời Trần.
TÔ CÔNG PHỤNG SỨ nói về tích Tô Võ đi sứ Hung Nô bị bắt đày lên núi tuyết chăn dê.
LÂM TUYỀN KỲ NGỘ là chuyện Bạch Viên kết duyên cùng Tôn Các. (4) Văn chương hai tập thơ này có phần lưu loát hơn tập Vương Tường, song không có câu xuất sắc như Vương Tường. Tập Tô Công thiêng về đạo đức. Tập Lâm Tuyền đã mang nhiều tính chất tình cảm, nên mùi vị bớt khô khan.
Xin giới thiệu đôi vận:
- Tuy vui yến nhạc nơi Hồ điện
Hằng tưởng uy nghi thuở Hán đình.
- Mây núi Bắc tan gương quế rạng
Sương trời Tây đến tiết tùng cao.
- Bể Bắc năm chầy dê chửa đẻ
Trời Nam nẻo diễn nhạn không thông.
- Hao chữ cần lao non Thái nặng
Một niềm ưa ái bóng thu trong.
(Tô Công Phụng Sứ)
- Sen phô đáy nước lồng gương nguyệt
Cúc nhiễu chân thềm lẫn vẻ sao.
Hoa đỡ long lanh rèm bích ngọc
Hương đưa sực nức gác quỳnh dao.
- Kết tóc về đâu duyên gắn bó
Xe tơ nên nỗi nghĩa riêng tây
Trải từ gặp gỡ bao thu ấy
Sớm đã nâng niu những đứa này.
- Rừng thẳm buồn trông mây lác đác
Non xanh thẹn thấy nhạn bơ vơ.
- Nửa gối mơ màng tim điệp rủ
Năm canh mong mỏi sứ hồng bay…
(Lâm Tuyền Kỳ Ngộ)
Đó là những đóa hoa rừng, nhựa sống có thừa, song hương sắc chưa đủ say lòng người thưởng thức.
Vân Đình:
- Thơ Hàn Luật vì là giống Trung Hoa đưa sang, phải đợi lâu ngày cho hạp thủy thổ mới trở thành giống hoa Việt Nam hoàn toàn, mới đơm hoa trỗ sắc nồng đượm. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như thơ Lục Bát Song Thất Lục là giống hoa của đất nước, sản xuất từ  những câu tục ngữ ca dao, xin hỏi lão vườn hai thể “quốc nội” ấy ở đời Trần đời Lê có được phát đạt lắm chăng?
Lão cười:
- Lão đâu phải nhà viết văn học sử mà hỏi những điều cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng mới có thể phát biểu được chính xá. Nhưng lão cũng xin thưa những gì lão biết, một cách tổng quát và đơn sơ:
Về ca dao nhiều sách báo đã nói nhiều rồi. Xin miễn bàn. Lão chỉ xin nói qua về các tác phẩm còn lưu thế.
- Đời Trần thì có TRINH THỬ TRUYỆN mượn chuyện một con chuột bạch biết giữ trọn trinh tiết với chồng.
Đây là một bài ngụ ngôn trường thiên làm vào khoảng niên hiệu Long Khánh (Trần Duệ Tông - 1374-1377), ngụ ý chỉ trích Hồ Quý Ly. Văn làm theo thể Lục Bát.
Theo cụ Bùi Kỷ thì tác giả là nhà xử sĩ Hồ Huyền Quy. Nhưng các nhà khảo cứu văn học chưa tìm ra lai lịch của nhà xử sĩ ấy.
- Đời Lê thì có Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi. Làm từng bài một, theo thể lục bát có song thất lục bát có.
Ngoài Nguyễn Trãi còn có Lê Đức Mao. Họ Lê có một bài  làm cho ả đào hát chúc làng vào những ngày hội xuân. Bài gồm 128 vế, khi thì song thất lục bát, khi thì lục bát, thỉnh thoảng lại chen đôi câu nói lối, hoặc ngũ ngôn, thất  ngôn Đường Luật.
- Đời Mạc có Hoàng Sĩ Khải còn để lại bài Tứ Thời Khúc Vịnh gồm 340 vế làm theo thể song thất lục bát.
Những áng văn chương ấy lời vẫn còn nặng và lắm chỗ có phần quê vụng. Sánh với thể Đường Luật thấy cũng không hơn gì.
Thử trích đôi câu làm mẫu:
Bỗng nghe bên cội bích đào
Tiếng con muông sủa bào hao rậy ràng
Chẳng là chuột bạch bên tường
Cong đuôi mà chạy vội vàng hãi kinh…
(Trinh Thử  truyện)
Thấy ai đói rét thì thương
Rét thì cho mặc đói thường cho ăn
Thương người như thể thương thân
Người ta phải bước khó khăn đến nhà.
Đồng tiền bát gạo đem ra
Rằng đây cần kiệm gọi là làm duyên…
May ta ở chốn bình yên
Nhà người tàn phá chẳng nên cầm lòng…
(Gia Huấn Ca)
Xuân nhật tảo khai gia cát hội
Hạ đình thông xuống thái bình âm
Tàng câu mở tiệc năm năm
Miếu Chu đối việc chăm chăm tấc thành
Hương dâng ngào ngạt mùi thanh
Loan bay khúc múa hoa quanh tiệc ngồi…
(Lê Đức Mao)
Thiều quang đến, lòng người hớn hở
Thuở ba dương là cỡ lập xuân
Đâu đâu chịu lệnh đông quân
Cửa Giao lừng lẫy đón xuân rước về
Khắp tư bề non sông hoa cỏ
Hết cùng lên cõi Thọ đài Xuân
Nhà nhà tống cựu nghinh tân
Tú mi là thiếp nghi Xuân là bùa…
(Tứ Thời Khúc Vịnh)
Ông bạn thanh niên:
- Nghe khô khan quá!
Lão cười:
- Thì lão đã nói thơ Lục Bát và Song Thất Lục Bát đời Trần Lê không hơn thơ Đường Luật. Như thế đâu có phải tại thể thơ. Thể thơ một khi vào tay lão luyện thì “quốc nội” hay “quốc ngoại” gì cũng đều trở thành những lợi khí sắc bén như đao kiếm vào tay kẻ võ nghệ cao cường.
Vân Đình ngắt lời lão:
- Như vậy chẳng là các thi nhân đời Trần đời Lê, nghệ thuật làm thơ chưa được tinh luyện?
- Không thể bảo nghệ thuật làm thơ chưa tinh luyện. Nghệ thuật của quí ngài rất tinh luyện, nhưng vì quí ngài quen sử dụng Hán tự nên khi bước sang quốc âm bị ngỡ ngàng ngượng ngập. Cũng như người Việt Nam được nuôi dưỡng từ thuở bé theo lối sống Tây Phương, lớn lên ra giao thiệp cùng đồng bào trông lúng túng như người phương xa mới đến.
- Thời vua Lê chúa Trịnh thơ quốc âm có tiến bộ hơn chăng?
- Những áng văn chương còn truyền lại, như những tập thơ của chúa Trịnh, lão xem vẫn không hơn gì đời Trần đời Lê. Chất thơ vẫn chưa đầy đọng, vị thơ chưa được đượm nồng. Phải đợi đến thời Lê mạt Nguyễn sơ văn chương quốc âm mới phát đạt và đến Thịnh Nguyễn mới toàn thịnh. Thời này hoa thơ trong vườn quốc âm mới có hải đường, thược dược, tường vi, mẫu đơn…, mới có cúc đại đóa, cúc Tây Thi, cúc bạch ngọc, mới có sen hồng sen trắng, mới có hoa hồng vàng hoa hồng điều hoa hồng tím, mới có hoa anh đào nở nơi nao cao, hoa ngô đồng nở trước lăng miếu….
Ông bạn thanh niên:
- Xin cho biết một ít giống mà lão vườn có sẵn trong tay.
- Những danh hoa Lê mạt Nguyễn sơ lão có, thiên hạ đều có, vì các cô hàng hoa đã chiết trồng và hái bán khắp thành thị thôn quê.
Vân Đình:
- Nhưng chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa. Lão Vườn thử cho nghe tôn ý.
- Lão cùng nói cùng bạn quen thân:
Hoa là Thơ của Đất. Thơ là Hoa của Người. Cho nên Thơ cũng như  hoa, có trăm hình nghìn sắc và muôn hương.
Ca dao có câu:
Chơi hoa cho biết mùi hoa
Hoa lang tim tím hoa cà xanh xanh.
Và dưới mắt thi nhân:
Hoa nào hoa lại không hương sắc
Một cánh hoa tươi một mảnh tình.
Đó là Hoa mà cũng là Thơ, tức là Hoa Thơ hay Thơ Hoa.
Những giai phẩm của Trần, Lê , Mạc, Trịnh như trên đã nói, là hoa nội hoa rừng, sức sống dồi dào mạnh mẽ, nhưng hương thơm sắc đẹp chưa quyến rũ lòng khách tài tử yêu hoa.
Khoái mặt khoái tâm là Hoa Thơ cận đại:
- Thơ Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du là những luống hoa hường nhiều hương nhiều sắc, lóng lánh sương mai dưới một bầu trời nửa mờ nửa sáng.
- Thơ Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm là vườn hoa đào nở hồng trong màn mưa phùn trắng nhẹ bay theo chiều gió lành lạnh lúc hừng đông.
- Thơ Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như hầu là những gốc mai già cổ kính đầy hoa xuân, đứng soi mình trong dòng suối chảy róc rách, và đưa mùi hương lành lạnh bay chập chờn dưới bóng trăng lồng bóng hoàng hôn.
- Thơ bà Huyện Thanh Quan là những đóa mẫu đơn cắm trong bình Khang Hy để nơi phòng khách, vừa nồng diệm vừa trang nghiêm, như một giai nhân ngồi đốt trầm đọc sách.
- Thơ Tam Nguyên Yên Đỗ là những khóm cúc vàng cúc trắng nở trong sương nơi dậu vắng, hay trồng trong chậu sứ cổ chốn phòng văn, nhã đạm và thanh cao, như tao nhân đứng tựa bên rào trúc.
- Thơ Tôn Thọ Tường là những nhánh tường vi ló ra ngoài tường cạnh đường ít người qua lại, nửa khoe khoang nửa khép nép, thật duyên dáng mặn mà.
- Thơ Chu Mạnh Trinh là hoa anh đào quyến gió xuân, thướt tha yểu điệu, như cô tình nhân có giáo dục, âu yếm nhưng không chút lả lơi.
- Thơ Hồ Xuân Hương là hoa Hòe nở trước sân rồng, sắc vàng chói ngời ánh nắng hạ, ngạo nghễ mà ung dung, thỉnh thoảng tuôn cánh úng nhụy tàn lên tóc râu những hàng đai vàng mũ bạc.
- Thơ Chiêu Lý Phạm Thái là những khóm ngô đồng nở hoa trước lăng vua Tự Đức, dịu dàng nhưng hiên ngang và cương dõng, như một nữ hiệp tuyệt sắc đương vút mình tung kiếm giữa không trung.
Vân vân…
Đại khái là thế. Nhưng trong vườn tường vi vẫn có mai có cúc, trong vườn lan cúc vẫn có mẫu đơn hải đường….
Ví dụ bên cạnh những câu thơ kỳ cổ trong Cung Oán Ngâm Khúc:
Cầu thệ thủy nằm trơ cổ độ
Quán thu phong đứng rũ tà huy
Phong trần đến cả sơn khê
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này…
Vẫn có những câu nùng diệm và phong tình đến nỗi những người luôn có bóng dáng ông thánh ông hiền ở trước mặt cũng phải mường tượng mơ màng:
Cái đêm hôm ấy hôm gì
Bóng dương lồng bóng đêm trập trùng.
Liền thược dược mơ màng thụy vũ
Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu
Cành xuân hoa chúm chím chào
Gió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai.
Xiêm nghê nọ tả tơi trước gió
Ao vũ kia lấp ló trong trăng
Sanh ca mấy khúc vang lừng
Cái thân Tây tử lên chừng điện Tô
Đệm hồng thúy thơm tho mùi xạ
Bóng bội hoàn lấp ló trăng thanh
Mây mưa mấy giọt chung tình
Đình Trầm hương khóa một cành mẫu đơn…
Và câu luận trong bài Khóc Quan Phủ Vĩnh Tường, mà các nhà soạn những tập thi tuyển thường lấy một câu khác thay vào:
Nắm xương dưới váng châu mày khóc
Hòn máu trên tay mỉm miệng cười (1)
Là một đóa quỳnh hoa nhụy vàng cánh tuyết, chờn vờn dưới bóng trăng giữa lúc trời khuya lành lạnh, nửa như hư nửa như thiệt, hồn Đạm Tiên trong mộng Thúy Kiều.
Đó là ý kiến phát biểu với tấm lòng yêu thơ và lòng kính trọng người trước. Chắc không khỏi chủ quan. Song nghĩ sao nói vậy, thấy sao nói vậy, thương được nhờ ơn ghét cũng nhờ.
Vân Đình:
- Bá nhân bá y, bận chi ghét cùng thương. Xin hỏi lão các bậc tiền bối sở trường về Lục Bát Song Thất Lục Bát có sở trường về Đường Luật và các vị sở trường về Đường Luật có sở trường về hai thể kia chăng?
- Cụ Nguyễn Du, bà Đoàn Thị Điểm không thấy có thơ Đường Luật về Quốc âm lưu truyền. Nhưng thơ Hán Văn thì rất nhiều. Bà Huyện Thanh Quan và Tôn Thọ Tường không thấy có thơ lục bát và song thất lục bát. Các vị thơ Đường Luật khác thì vẫn có kẻ ít người nhiều. Như Phạm Thái, Nguyễn Khuyến thì có nhiều, Chu Mạnh Trinh, Hồ Xuân Hương… có ít.
Riêng về Ôn Như Hầu thì còn lại một tập thơ Đường Luật nhan đề là Ôn Như Hầu Thi tập. Lão nhớ được một ít câu:
Gió lọt kẽ mành lưng gió dẹp
Trăng lồng cửa sổ mặt trăng vuông.
(Tức cảnh)
Dế gọi người nằm thiên cổ dậy
Sương trùm cảnh đứng tứ canh đi.
(Canh tư)
Câu trên có tánh cách tiểu xảo, câu dưới vế trên hay. Vế dưới có phần gượng gạo, nhất là chữ “tứ canh”. Không bằng những câu:
Man mác cảnh đâu ngoài vạn dặm
Bâng khuâng sự những mấy trăm năm.
(Nghe dế kêu)
Trú dạ mênh mang thuyền hạo kiếp
Cổ kim man mác võng huyền cơ.
(Nhân thế)
Thật là những đóa hoa sen nở trong ao nghìn mẫu của một ngôi chùa cổ thâm u.
Bạn thanh niên:
- Chúng cháu ưa chuộng mới thật. Nhưng những đóa hoa thơ như những đoá bác đã chưng bày làm cho cháu thích thú có kém gì hoa oeillet, Glaieul, mimosa… Dalat. Nghiệt nỗi những thơ Đường Luật mà chúng cháu thường gặp, cổ cũng như kim, hầu hết đều không tươi bằng hoa nở ngày, hoa vạn thọ, thì bảo chúng cháu không đi tìm giống ngoại quốc sao đành?
Lão biểu đồng. Vân Đình hỏi:
- Ngoài quí vị đã kể trên, thời Thịnh Nguyễn còn nhà thơ nào đã đi đến diệu xứ nữa chăng?
- Còn nhiều. Lục bát và song thất thì có cụ Tú Nguyễn Diêu, cụ Đào Tấn… ở Bình Định. Đường Luật thì có Tương An Quận Vương, con vua Minh Mạng.
Có dịp, lão sẽ xin đưa quí bạn đến xem vườn hoa của quí vị Tiền Bối này, những vườn hoa đầy hương sắc, nhất là vườn cụ Đào Tấn rộng hàng trăm mẫu mà trước kia vua Tự Đức đã hết lời ban khen.
Giờ đây chỉ xin giới thiệu một vài đóa lão đã hái cho Vườn Hoa Thơ của nhà:
Xông lướt chân trời nhẹ nhẹ
Đoái cung thiềm điện quế xa xa
Gấm thêu mấy thức yên hà
Giang san một bức trời đà vẽ nên
Rước người hoa chẳng biết tên
Hơi hương đưa thấu vào rèm gió trăng.
(Nguyễn Diêu)
Hồ động phăng phăng lối cũ
Việc nhãn tiền tán tụ chòm mây
La Phù một giấc hay hay
Bóng trêu thu nguyệt mùi gây xuân sầu
Thuyền đâu trăng nước đâu đâu ?
Màu lam thoát đã về cầu thần tiên…
(Đào Tấn)
Vàng thếp giếng ngô sa lá gió
Bạc xuy dậu cúc nảy chồi sương
(Thu cảm - Tương An)
Thảm lấp Phủ Câu sông một giải
Sầu giăng Long Thọ núi liền giây.
(Thiên Mụ cảm tác - Tương An)
Đuốc ngọc canh khuya trời một góc
Vườn đào thề cũ ruột trăm chiều
(Quan Vũ - Tương An)
Tương An Quận Vương chẳng những tài về Đường Luật mà lục bát và song thất cũng rất tài:
- Khối sầu ai đắp nên thành
Giao chen đũa ngọc tằm đoanh khúc vàng
- Phân tay bốn giọt lệ tình
Lầu cao trăm thước xem mình như không.
- Lạ thay màn tuyết trương chiên
Giấc phong trần để cho duyên lạnh lùng. 
- Bốn giây ứa máu tỳ bà
Ngỡ ngàng trăng Hán phôi pha gió Hồ. 
- Chốn chiến trường đống xương trắng nhẻ
Người diễn khơi hồn ghé khuê môn
Chơi vơi sóng phủ sầu dồn
Mượn câu tinh vệ chiêu hồn đại phu…
(Hoài Cổ Ngâm) 
Đó, theo lão, là những đóa thược dược ngậm xưa xuân, những đóa hải đường ngủ nơi đình Trầm hương khóa.
Ông bạn thanh niên:
- Cháu đã học xong chương trình phổ thông đệ nhị cấp. Cháu cũng đã xem nhiều sách in thơ xưa. Nhưng cháu không thấy các giáo sư quốc văn đề cập tới các thi nhân tiền bối Nguyễn Diêu, Đào Tấn, Tương An Quận Vương. Cháu cũng không thấy tập thi tuyển nào in thơ của quí vị!
- Không có gì lạ. Cơ quan đầu não của nền văn hóa Giáo Dục Việt Nam, các nhà thơ viết văn học sử, các nhà sưu tầm văn thơ cổ…, thời Tiền Chiến Hà Nội, thời Hậu Chiến Sài Gòn, các quí vị kia cũng như nhiều vị có tác phẩm lưu thế khác ở lại Trung Việt. Nếu Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn giữ bộ Giáo Dục được vài ba năm thì lão chắc thi ca quốc âm của Trung Việt cũng được khai thác như Bắc Việt và Nam Việt. Người có tài, có tâm thường không có quyền thế, không có phương tiện, còn người có quyền thế có phương tiện thì thường không có tâm hoặc không có tài. Cho nên nền văn học cổ của nước nhà đành chịu cảnh nghèo nàn thiếu thốn, mặc dù tài liệu rất dồi dào.
- Vậy bác gắng đảm đương việc sưu tập và công bố trên Vườn Hoa Thơ những giai phẩm của Trung Việt.
- Sức người có hạn, phạm vi Vườn Hoa cũng có hạn. Thêm nữa vườn ở nơi hẻo lánh, người sống trong cảnh lẻ loi. Biết làm sao được?
Vân Đình:
- Ngày xuân còn dài. Việc đó để đó. Xin hỏi một câu nữa: Những áng văn chương lão vườn đã thuộc đó có ảnh hưởng chi đến sự nghiệp tinh thần của lão chăng?
- Bọc hoa lan hoa huệ trong túi thì làm sao không thấm ít nhiều hương. Chính nhờ thơ Phạm Thái, Ôn Như Hầu, bà huyện Thanh Quan, Tương An Quận Vương… mà lão rút ra được nhiều phép tắc để áp dụng cho thơ mình. Về kỷ luật làm thơ, ông cha chúng ta học theo Trung Hoa mà có lắm điểm không khác các nhà thơ tượng trưng Pháp… Cho nên những nhà thơ Mới thạo thi pháp của phái Thơ Cũ, như Chế Lan Viên là một, không bao giờ khinh khi di sản tinh thần của tiên nhân để lại.
Bóng cây mận đã tròn, đường về đã rộn bước chân và tiếng xe của các công chức tư chức tan sở. Vân Đình cùng ông bạn thanh niên đứng lên:
Ta về ta ngắm hoa ta
Trải bao mưa nắng hoa nhà vẫn tươi.
Chú thích:
(1) Trong các sách thường chép:
Đòn cân tạo hóa rơi đâu mất
Miệng túi càn khôn xếp lại rồi.
(2) Xem bài nói về Thơ Lục Ngôn ở tập sau.
(3) (4) Xem tập GIỌNG HÀN THUYÊN nói kỹ về thơ Hàn Luật ở đây chỉ nói đại lược.
8- Cành hoa đỗ quyên
Khách cùng Lão đương dạo Vườn thì nghe cuốc kêu nơi bờ lách. Khách cao hứng ngâm bài ĐÊM NGHE CUỐC KÊU của Tam Nguyên Yên Đỗ:
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ?
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước phải nằm mơ
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.
Ngâm rồi hỏi:
- Lão Vườn có công nhận là một danh hoa chăng?
Vốn theo thuyết “văn hoành công khí”, lão không ngần ngại, đáp:
- Tam Nguyên Yên Đỗ là một tay thi bá. Cụ có nhiều giai tác lưu thế. Song bài này chưa chắc là của cụ và theo ý lão, chưa có thể liệt vào hàng danh ba. Lão chỉ thích có cặp trạng, nhưng không phải cặp trạng ông bạn vừa đọc mà cặp trạng lão được nghe truyền:
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Muôn dặm hồn tan bóng nguyệt mờ.
Khách trợn mắt:
- Sách nào cũng chép là “sáu khắc hồn tan” kia mà.
Lão cười:
- Những sách ấy có phải do Nguyễn Khuyến in ra chăng? và người in những sách ấy có in theo bản thảo do tự tay  tác giả viết ra chăng?
- Chẳng lẽ tất cả các sách đều sai?
- Cổ nhân dạy rằng “tận tin thơ bất như vô thơ”,
- Vậy thì tin vào đâu?
- Tin vào lẽ phải sau khi đã suy xét kỹ càng. Chúng ta chớ quên rằng ngày xưa các cụ làm thơ Quốc âm chỉ để tiêu khiển, chớ ít người coi là sự nghiệp văn chương, nên làm rồi đọc nghe chơi chớ không mấy khi chép lại. Những bài đặc sắc được truyền từ miệng người này sang miệng người nọ, rồi từ đời này sang đời nọ, không khác gì những câu ca dao… Cũng có người cẩn thận ghi chép vào giấy. Nhưng ghi đi chép lại nhiều lần thành "tam sao thất bổn”. Đến khi chữ quốc ngữ thịnh hành, những người yêu văn thơ xưa ra công sưu tầm đăng lên sách báo. Song nghe sao chép vậy thấy sao chép vậy chớ không biện biệt thị phi, cho nên có lắm câu sai hẳn nguyên tác, sai có khi đến vô nghĩa. Bởi vậy nếu tin vào sách, nhất là sách do những người in ra chỉ nhằm mục đích tài chánh chớ không phải để bảo tồn di sản tinh thần của ông cha, thì không nên tin như Thúy Kiều đã tin Hồ Tôn Hiến.
Khách tỏ vẻ chưa hoàn toàn đồng ý. Lão tiếp:
- Chẳng những thơ văn của người xưa mới bị cảnh tam sao thất bổn. Những nhà văn thơ hiện đại cũng thường bị “người ngoài” làm sai văn thơ mình, hoặc vô tình hoặc hữu ý. Lão xin lấy lão làm điển hình, và đơn cử ra một trường hợp:
Bài ĐÊM TÌNH trong MÙA CỔ ĐIỂN in năm 1941 cũng như trong bản in lại năm 1960, câu kết là:
Phòng hương thương kẻ ngồi nương triện
Tình gởi mây xa lệ ngập ngừng.
Khách hỏi:
- Sao lão không cải chính?
- Sách ra đã ba năm nay, mà anh Trần Thúc Lâm mới cho biết đây, thì cải chính sao kịp nữa. Huống hồ chữ sai ấy không có hại đến ý nghĩa câu thơ bao nhiêu.
Đó là thơ mình in vào sách người, có chỗ sai là việc thường. Đến thơ mình in nơi sách mình mà vẫn có chỗ sai mới là việc “bất thường”. Lão cũng xin lấy lão làm chứng, mặc dù biết rằng “cái ta là cái đáng ghét”:
Trong MÙA CỔ ĐIỂN do Tân Việt xuất bản năm 1960, lão có thêm một số bài làm thời Kháng Chiến chống Pháp (1945-1954). Trong đó có bài BỊ AN TRÍ câu phá vốn là:
Vô quá mà vô cải hóa đường.
Thợ in lại sắp lộn là:
Vô hóa mà vô cải hóa đường.
Khách hỏi:
- Lão không xem morasse sao?
- Lão đâu có ở Sài Gòn mà xem. Giao cho nhà xuất bản lo lấy. Đến khi in xong, lão cũng có xem qua, song không thấy. Bởi lắm khi sách để trước mặt mà mắt lại đọc bản thảo ở trong lòng! Vừa rồi ông bạn Phan Ngọc Châu ở Sài Gòn viết thư hỏi lai lịch chữ “Vô hóa" Rằng: “Có phải từ ngữ tôn giáo chăng? Nhưng nhất định là không phải “nan hóa” (phụ nhân nan hóa). Có bạn đã đoán là “vô quá”, với ý nghĩa là không có lỗi lầm mà bị đưa đi cải hóa. Đó là phỏng đoán… chớ biết đâu tác giả dùng chữ: “vô hóa” là có xuất xứ hẳn hoi, để nói mình là hạng người mà không có thế lực nào có thể biến hóa tư tưởng được?”
Lão bật cười: “Vì một chữ in sai mà làm phiền người đọc đã dữ!,”
Lão phải đem “kinh nghiệm bản thân” ra để cho quý khách thấy rõ rằng không nên tận tín thơ.
Khách hỏi vặn:
- Như vậy câu “muôn dặm hồn tan bóng nguyệt mờ” của lão vườn đưa ra có đúng với nguyên tác chăng?
- Lão đâu dám quả quyết vì lão đầu thai sau cụ Yên Đỗ đến nửa thế kỷ và chưa hề thấy bút tích của cụ. Nhưng nếu đem so sánh câu “muôn dặm...” với câu “sáu khắc...” thì những người có trí phán đoán chắc không ai không công nhận rằng câu “muôn dặm” hơn hẳn câu “sáu khắc”.
Trước hết chúng ta xét về chữ “sáu khắc...”. “Năm canh...” mà đối “sáu khắc” thì quá tầm thường mà cụ Yến Đỗ không phải là tay tầm thường.
Khách phản đối:
- Năm canh là đêm, sáu khắc là ngày. Đối chỉnh cả chữ lẫn ý. Như thế là tuyệt chớ sao gọi là tầm thường?
Lão cười:
- Ông bạn chắc nhớ chuyện “bà quán ra đối cho thầy tú”?
- Không nhớ. Xin cho nghe.
- Một thầy tú ngủ trọ nơi một quán cơm, không có tiền trả cho bà quán. Bà quán đề nghị: “Tôi ra cho thầy một câu đối, nếu đối được thì xí xóa tiền trọ tiền cơm”. Thầy tú chấp thuận. Bà quán ra đối:
Sớm mai gà gáy ó o
Thầy tú thức dậy mà lo tiền hàng.
Thầy tú nói: “Để bà dễ nhớ, tôi đối từng chữ một, chịu không?” Bà quán chịu.
Thầy tú: “Sớm mai”, tôi đối với “chiều tối”, “gà gáy ó o” , tôi đối với “heo kêu ụt ịt”, được không?
Bà quán: Được.
Thầy tú: “Thầy tú”, tôi đối với “bà quán”, được không?
Bà quán: Hay!
Thầy tú: “Thức dậy”, tôi đối với “nằm xuống”.
Không đợi thầy tú hỏi “được không” bà quán gật đầu tán thưởng. Thầy tú cao hứng tiếp:
- “Mà lo” đối “Mà lắng”. “Tiền” đối “gạo”, “Hàng”, đối “Lụa”. Chỉnh không?
Bà quán hoan hỷ đáp:
- Tuyệt.
Thầy tú xách dù đi nhanh. Ngồi một mình bà quán lẩm bẩm đọc lại câu đối và gật gù khen:
- “Sớm mai gà gáy ó o”  mà đối “Chiều tối heo kêu ụt ịt” thì giỏi thật. Đáng đậu tú tài. Còn “Thầy tú thức dậy” mà đối “bà quán nằm xuống” thì thật hợp cảnh hợp tình. Ý vị!
Đến đó bà quán trầm ngâm giây lát rồi vụt thét:
- “Bà nằm xuống” tưởng nằm xuống làm giống gì, chớ nằm xuống mà.. mà… mà “lắng gạo lụa” là cái quái gì? Hỡi thầy tú?
Khách cười nhưng lại mắng:
- Lão vườn ba hoa quá!
Lão đáp:
- Gỏi gà phải trộn rau răm, xáo thỏ phải thêm đậu phụng, mới thích khẩu chứ. Huống nữa lão phải dông dài để ông bạn thấy rằng cũng vì cứ lo việc đối chọi mà có lắm người quên nghĩ đến ý nghĩa câu thơ, thường tạo ra những bài thơ không hồn, khiến các nhà Thơ Mới có cớ để mạt sát thơ Đường Luật. Lưu Trọng Lư bảo rằng làng thơ cũ chỉ chú trọng đến việc đối chọi “con chó đi ra, con gà đi lại”.
- Họ Lưu vơ đũa cả nắm!
- Cũng bởi mình có đũa, nên họ mới vơ được. Chớ nếu không vết thì tha hồ cho người thổi lông.
Lão nói thêm:
- Cổ nhân đặt ra phép đối trượng trong luật thơ là cốt để cho câu thơ được thăng bằng, điệu thơ khỏi bị lệch lạc. Cổ nhân nặng phần ý hơn phần chữ. Cho nên khi ý cân xứng mà chữ đối không chỉnh cũng không sao. Ví dụ câu sau đây của Tam Nguyên Yên Đỗ:
Bạn già lớp trước nay còn mấy.
Chuyện cũ mười phần chín chẳng như.
Sợ lão dông dài thêm, khách chận lại:
- Hãy trở lại cùng “năm canh” và “sáu khắc”.
- Lão nói: “sáu khắc” đối với “năm canh” là tầm thường, vì ai đối chẳng được, hà tất phải cụ Yên Đỗ. Thêm “thời gian” đối với “thời gian” còn lý thú gì nữa? Huống hồ ông bạn nghĩ xem cụ Yêu Đỗ nghe cuốc kêu lúc nào?
- Nghe lúc ban đêm, vì câu bảy nói “Thâu đêm ròng rã kêu ai đó”.
- Như vậy sao dùng chữ “sáu khắc” là ban ngày?
- Có người giải rằng “con cuốc kêu ra máu suốt đêm (năm canh) đến sáng ngày (sáu khắc) máu khô lăn ra chết (hồn tan)”.
- Đó là cưỡng giải. Đương còn đêm mà sao đã biết đến việc ban ngày chưa tới?
- Theo tôi thì tác giả nhân cảm xúc vì tiếng cuốc lúc ban đêm mà liên tưởng đến tiếng cuốc lúc ban ngày.
- Như thế thì mạch thơ bị đứt, trạng luận không chuyển tiếp nhau. Để ông bạn dễ lãnh hội, lão xin hỏi: Ba chữ “Bóng nguyệt mờ”, tác giả có thác ý hay chỉ dùng để tả cảnh mà thôi?
Khách ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đáp:
- Nhất định tác giả có thác ý.
- Vậy chúng ta xét thử: Tại sao bóng nguyệt mờ? Có phải vì tiếng cuốc kêu chăng?
- Phải.
- Trong đêm khuya, vừa nghe tiếng cuốc kêu vừa thấy bóng trăng mờ, mà bảo rằng trăng mờ do cuốc kêu, thì không ai bắt bẻ được. Chớ ban ngày không có tiếng cuốc kêu, bóng trăng cũng vẫn mờ kia mà. Nếu nói "ban ngày tiếng cuốc kêu, hoặc hồn cuốc tan ra làm mờ bóng trăng” thì các em bé nghe cũng phải cười vậy.
Đó là nói lý.
Còn về ý, theo tôi thì tác giả dùng “bóng nguyệt mờ” để diễn tả ảnh hưởng của tiếng cuốc đối với vũ trụ mà mặt trăng là phần tử nổi bật lúc ban đêm và ở xa chúng ta muôn dặm. Cho nên chữ “muôn dặm” để vào câu thơ thật là đắc địa:
“Muôn dặm hồn tan bóng nguyệt mờ”.
Câu “Năm canh máu chảy…” nói về thời gian.
Câu “Muôn dặm hồn tan…” nói về không gian
Chữ “năm canh” ngậm ý liên tục, không ngừng của tiếng cuốc.
Chữ “muôn dặm” ngậm ý thần giao cách cảm của những tâm hồn giống nhau.
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Muôn dặm hồn tan bóng nguyệt mờ
Lời đã chỉnh ý lại hàm súc:
Cuốc kêu ròng rã suốt năm canh, kêu không ngừng, kêu không mỏi, kêu đến hầu tuôn ra huyết, hồn tan khắp không gian, đến nỗi vầng trăng ở tận muôn dặm xa cũng phải mờ vì cảm động! Thế mà bốn bề quạnh hiu không có một tiếng lòng đáp lại, dường như không ai thấu nỗi đau khổ của người mất nước mà con cuốc là hiện thân, là tượng trưng! Nhưng không lẽ, vì trăng ở tự muôn xa và không liên hệ chi đến sự tồn vong của đất nước này, mà còn thông cảm được nỗi đau thương trong tiếng cuốc, huống hồ những người chung cảnh chung tình. Biết đâu trong cảnh vắng vẻ của đêm hè lại không có nhiều người xót xa cho cảnh nước mất, khi nghe cuốc kêu như mình, nhưng vì biết rằng bất lực như mình, nên đành lặng tiếng im hơi.
Khách nói:
- Giảng như thế e đi ra ngoài câu thơ quá xa chăng?
Lão đáp:
- Những thơ hay đều có ý tại ngôn ngoại, cũng như đàn hay có ngoại huyền chi thanh, món ăn ngon có ngoại vị chi vị. Có nhận thức được những ý ở ngoài lời nói, tiếng đàn ở ngoài giây tơ, vị ngon ở ngoài chất vị, thì mới hưởng được chân thú chân vị luôn luôn ẩn tàng.
- Còn những câu kia?
- Không xứng với hai câu này. Kể cũng đáng tiếc. Song một bài thơ, thà được một câu tuyệt tác còn hơn câu nào cũng trung bình.
Khách mỉm cười từ giã.
Ngoài bờ lách, tiếng cuốc vẫn đưa sầu lửng lơ.
9-Thơ xuân vườn cũ
Tặng Nguyễn Đồng. 
Hoa là thơ của Đất. Thơ là hoa của Người. Mà Thơ cũng như Hoa đều thích khí ôn cho nên:
Năm năm, mỗi lần xuân đến thì Thơ cũng như hoa đua nhau nở khắp thành thị, thôn quê. Nhưng hầu hết là thơ mới làm, hoa mới sanh. Ngắm những cái mới quá nhiều, hẳn cũng có bạn muốn tìm thú vị trong cái cũ. Nghĩ vậy nên lão lục ra đây đôi vần hoa thơ nở trong những mùa xuân từ thuở trước, để hiến cho những ai ưng tìm mới trong xưa.
Cổ nhân thường nói rằng:
- Đường thi, Tấn tự, Hán văn chương, nhân gian tuyệt phẩm.
Nghĩa là: Thơ đời nhà Đường, chữ đời nhà Tấn, văn chương đời nhà Hán, đó là những nghệ phẩm tuyệt diệu trong thế gian.
Cho nên nói đến hoa thơ thì trước hết phải nói đến giai phẩm của Đường nhân vậy.
Đây xin giới thiệu một bài của TÔ ĐĨNH đời Thịnh Đường, nhan đề là XUÂN NHẬT HẠNH VỌNG XUÂN CUNG, nghĩa là Ngày Xuân vua du hành cung Vọng Xuân:
Xuân vọng Vọng Xuân xuân khả liên,
Cánh phùng tình nhật liễu hàm yên.
Cung trung hạ kiến Nam sơn tận.
Thành thượng bình lâm Bắc đẩu huyền.
Tế thảo thiên thừa hồi liễn xứ,
Phi ba cổ lạc võ trường tiền.
Thần du đối thử hoan vô cực,
Điểu rộng ca thanh tạp quản huyền.
Tạm dịch:
Nhìn xuống Vọng Xuân xuân đáng yêu
Ngày xanh quyến liễu khói lồng theo.
Trập trùng cung dưới Nam sơn dựng,
Vòi vọi thành ngang Bắc đẩu treo.
Đoanh dấu xe loan làn cỏ mướt,
Lồng chung rượu thọ cánh hoa gieo.
Ngự chơi cảnh ấy vui khôn xiết,
Chim họa đàn ca tiếng dập dìu.
Đó là chút tình xuân trước cảnh thái bình thạnh trị. Văn chương trang nhã đài các. Tuy không có câu nào nói đến cái TA, nhưng khách xem thơ cũng nhận biết được tác giả là người ở trong cảnh đắc ý.
Con người đắc ý càng tăng. Trái lại, đối với những người gặp cảnh bất như ý, thì cái vẻ tươi thắm ở bên ngoài chỉ đồ thêm nỗi chua chán ở bên trong cho đậm nét. Như BẠCH CƯ DỊ, lúc bị trích nơi Giang Châu, đối Xuân có bài:
XUÂN GIANG
Viêm lương hôn hiểu khổ suy thiên
Bất giác Trang châu dĩ nhị niên.
Hải các chỉ thinh triêu mộ cổ
Thương lâu không vọng vãng lai thuyền.
Oanh thanh dục dẫn lai ba hạ
Thảo sắc câu lưu tọa thủy biên
Duy hữu xuân giang khan bất yểm:
Oanh sa nhiễu thạch lục sàn viên.
Tạm dịch:
Lần thâu nóng lạnh tối rồi mai,
Quên lửng Trung Châu năm đã hai,
Bên gác sớm hôm hồi trống vọng,
Trước lầu qua lại bóng thuyền ai?
Tiếng oanh rủ hứng đường hoa tới,
Sắc cỏ cầm chân bến lục ngồi.
Chỉ có sông Xuân nhìn chẳng chán:
Quẩn quanh sỏi đá cuốn dòng trôi.
Không nói chi đến nỗi buồn của lòng, mà không khí đìu hiu quạnh quẽ tràn ngập cả bài thơ. Nỗi buồn thương phát hiện nơi tiếng trống bóng thuyền, niềm nhớ thương che dấu dưới lời oanh sắc cỏ! Câu kết nghe như an nhàn tự tại, nhưng xét kỹ thì là một cách cố gắng làm vui, một1 lời nói để tự an ủi.
Vị buồn trong thơ dịu dàng nhưng thấm thía!
Và đó là lòng buồn của người tha hương.
Sự phải xa quê của họ Bạch là sự bắt buộc, ngoài ý muốn của mình, nên thấy xuân mà buồn, buồn cho thân phận, buồn cho hoàn cảnh. Như thế buồn đã đành. Có nhiều người đi chơi xa, lòng chưa muốn về, mà thấy xuân cũng đâm ra buồn bã. Như THÔI ĐỖ là một.
Họ THÔI có bài XUÂN TỊCH LỮ HOÀI rằng:
Thủy lưu ba tạ lưỡng vô tình
Tống tận đông phong quá Sở thành.
Hồ điệp mộng trung gia vạn lý,
Đỗ quyên chi thượng nguyệt tam canh.
Cố viên thơ động kinh niên tuyệt,
Ba phát xuân thôi mãn kính sanh.
Tự thị bất qui tiên đắc,
Ngũ Hồ yên cảnh hữu thùy tranh.
Tạm dịch:
Nước trôi hoa rụng thảy vô tình,
Đưa ngọn đông phong khuất Sở thành.
Giấc bướm não nề quê vạn dặm,
Nhành quyên da diết nguyệt ba canh.
Năm mòn mõi mắt tin nhà vắng,
Hoa ngập trùng gương mái tóc sanh.
Lòng chửa muốn về về ắt đặng,
Năm hồ khói sóng có ai tranh.
Nỗi buồn thật đượm đà, cảnh buồn thật đẹp đẽ. Đó là một bức tranh sầu đầy âm nhạc, một khúc nhạc sầu đầy màu sắc. Người thưởng thức cảm thấy một mối buồn đậm nhưng trong, nhẹ nhưng thấm, chậm chậm đi sầu vào đáy hồn.
Một mối buồn thú vị.
Và trong chỗ buồn lại có chỗ tự đắc:
Lòng chửa muốn về về ắc được,
Năm hồ khói sóng có ai tranh.
Một chút tự đắc thanh cao của con người phong lưu tài tử.
Nhưng cũng có lắm lúc kẻ phong lưu tài tử không còn có thể tự đắc được! Đó là những lúc tấm thân bị cơ hàn làm lụy.
Thi nhân ấy, vì sanh kế phải lưu lạc quê người, nhân buồn đề vào vách trọ đất Lương Hương một luật rằng:
Mãn địa du tiền mạc liệu bần,
Thùy dương nan hệ chuyển bồng thân!
Ly hoài vị ẩm thường như túy;
Khách để vô ba bất toán xuân.
Dục ngữ tánh tình tư cốt nhục,
Ngẫu đàm sơn thủy hối phong trần!
Mưu sanh tiêu tận luân đề thiết,
Du giữ thành đô mại bốc nhân.
Tạm dịch:
Tiền xanh khôn chữa được nghèo (1),
Liễu xanh khó buộc thân bèo nổi trôi.
Lòng quê chẳng rượu, say hoài!
Quán không hoa nở xui người quên xuân.
Hồn thơ lịu địu phong trần,
Thương câu cốt nhục ngại vần nước non,
Mưu sinh đôi bánh xe mòn,
Thua anh thầy bói khoanh tròn thành đô.
Xuân đến mà không đoán biết được xuân! Bảo rằng vì tại đất khách không hoa, nhưng sự thật là giả lơ để cho đỡ buồn đỡ tủi! Đau đớn quá! Những ai đã từng sống trong cảnh buồn tủi âm thầm mới thông cảm nỗi lòng đau đớn ấy! 
VIÊN TỬ TÀI, một thi bá đời Thanh, trông thấy bài thơ, cảm động, họa vận chép nơi vách, và chép bài nguyên xướng vào thi cảo của mình. Nhưng vì dưới bài thơ đề bích chỉ ghi hai chữ Hoàng Thôn, là biệt hiệu của tác giả, nên Tử Tài không đoán biết được là ai. Quyết tâm tìm cho được tác giả, Tử Tài đi đến đâu hỏi thăm đến đó.
Ba mươi năm sau Tử Tài gặp quan An sát đất Giang Nam là LAO TÔN PHÁT. Lao công nói rằng:
- Lúc ta làm quan tể tướng đất Lương Hương, thấy trên vách quán có hai bài thơ rất hay. Chủ quán muốn đập vách để xây lại. Ta tiếc bút tích của kẻ tài ba, mới chép hai bài thơ ấy đem trình quan chế phủ và xin quan ra lệnh cho tên chủ quán đừng phá vách. Quan chế phủ rất tán thương hai bài thơ, nên chuẩn y lời ta. Nhờ vậy mà còn chút di tích văn chương. Nhưng riêng tiếc là chưa được biết tác giả của hai giai phẩm ấy.
Nói đoạn vào mở rương lấy hai bài thơ đem cho Tử Tài xem, thì đó là bài xướng của Hoàng Thôn và bài họa của Viên. Chủ khách nhìn nhau cả cười, nhưng cả hai đều than là chưa tìm ra tung tích của Hoàng Thôn.
Cách mấy năm sau, tình cờ Tử Tài gặp Hoàng Thôn tại núi Lương Diêu, mới biết là họ ĐÀO tên NGUYÊN TẢO. Tử Tài kể lại câu chuyện đất Lương Hương, NGUYÊN TẢO mừng rằng mình được ba người tri kỉ (2).
Lòng buồn tả ra thơ mà được người biết đến, thì thật là vạn hạnh. Cuộc đời lưu lạc của Hoàng Thôn như thế, dù có khổ sở đến đâu, cũng đã được bù đáp xứng đáng. Không được bù đáp chút mảy may, như trường hợp Lê Cảnh Tuân, mới thật là tội nghiệp!
LÊ CẢNH TUÂN, người đời nhà Trần. Khi quân Minh sang diệt nhà Hồ rồi chiếm cứ Việt Nam ta, thì Lê Cảnh Tuân lo mưu đánh đuổi quân Minh lùng bắt, Cảnh Tuân phải đi lánh nạn phương xa. Trong khi lữ thứ, nhân lúc xuân về, có bài KHUYÊN NHẬT rằng:
Lữ quán khách nhưng tại
Khứ niên xuân hựu lai
Qui kỳ hà nhật thị?
Lão tận cố viên mai!
Nghĩa là:
Quê người khách mãi còn đây,
Xuân sang năm ngoái năm này lại sang
Ngày về? Đâu biết mà toan!
Vườn xưa luống để mai tàn hết xuân!
Thật là não nuột! Thật là chua xót! Câu “Lão tận cố viên mai” thật chan chứa tình nhớ thương đối với quê hương không người chăm sóc, và thổ lộ tất cả niềm đau đớn cho tấm thân phải chịu mòn mỏi với chí phục thù!
Văn chương tự nhiên, nhưng ý tứ vừa thâm vừa thiết! Đó là tấc lòng gởi vào thiên cổ, người hữu tâm đọc đến, ai mà không động tâm? (3)
Lê Cảnh Tuân, cũng như  Đào Nguyên Tảo, Thôi Đỗ, Bạch Cư Dị…, vì có tâm sự, nên trông xuân mà buồn. Còn Tô Đĩnh là người gặp cảnh thuận, cũng như những người gặp cảnh thuận khác, thấy xuân vui càng thêm vui. Cho nên đứng trước cảnh xuân, lòng người vui hay buồn đều do cảnh ngộ. Mà người vui xuân cũng như người buồn xuân, thảy đều chỉ thấy xuân trong một mùa: mùa xuân.
Lúc nào cũng cui xuân, mùa nào cũng thấy có xuân, chỉ có những người đã giác ngộ, như các thiền sư đời Lý đời Trần… chẳng hạn. Các ngài có nhiều bài thơ xuân tuyệt diệu. Như:
Dương liễu thâm điểu ngữ trì,
Hoa đường thiềm ảnh mộ vạn phi..
Khách lai bất vấn nhân gian sự
Chỉ bạng lan can khán thúy vi.
Đó là bài thơ tức cảnh của một nhà sư phái Trúc Lâm đời Trần, 
Tạm dịch là:
Dương liễu đầy hoa
Dịu dàng chim ca.
Thềm hoa ánh nguyệt
Mây chiều bay qua.
Khách tìm đến chơi
Hỏi chi việc đời
Lan can đứng tựa
Ung dung nhìn trời.
Thật là thanh thoát! Thật là đầy thi vị lẫn đạo vị!
Mà muốn đạo vị trong những bài thơ đầy thi vị của các thiền sư đắc đạo đời Lý, Trần…, thiết tưởng cũng nên biết qua thế nào là Xuân theo tinh thần giác ngộ.
Trong Kinh Pháp Hoa có câu rằng:
Chư pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng.
Nghĩa là “Tất cả các hiện tượng và các loài hữu tình cùng vô hình trong vũ trụ (chư pháp), xưa nay vốn tồn tại trong bản thể tịch diệt”.
Một thiền sư giác ngộ, tập thêm hai câu nữa rằng:
Xuân đáo bách ba khai,
Hoàng oanh đề liễu thượng.
Ý nói: “Xuân kia là hình bóng của bản thể tùy duyên mà hiểu hiện ra hoa thắm, liễu biếc, oanh vàng…”
Như thế, XUÂN theo tinh thần giác ngộ, là cái ĐẸP bất diệt, cái ĐẸP thường trú của Bản thể, tức là của Pháp Thân, tức là của Chân Tâm, tức là của Chân Như vậy.
Cái ĐẸP ấy, lời nói không thể diễn tả, chỉ tự mình thể hội lấy mà thôi:
Chỉ bạng lan can khán thúy vi.
Muốn thể hội được cái ĐẸP thường trú, cái ĐẸP bất hiến kia, thì phải nhìn sâu vào hiện tượng trước mắt để đạt đến Bản Thể nhiệm mầu. Khi đã đạt đến rồi, thì cái ĐẸP hiện ra ở mọi hình thức trong vũ trụ: Lúc nào ta cũng thấy Xuân, nơi nào ta cũng gặp Xuân.
Ngài Giác Hoàng Điều Ngự đời Trần, có bài thơ rằng:
Niên thiếu hà tằng hiểu sắc không,
Nhất xuân tâm sự bách ba trung.
Như kim khám phá đông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.
Tạm dịch:
Tuổi trẻ mô hồ lẽ sắc không,
Vui xuân lòng gởi khoảng trăm bông.
Chúa Đông rày đã tầng quen mặt,
Thong thả ngồi xem nhánh rụng hồng.
Lúc chưa rõ bản lai diện mục của Xuân, thì chỉ thấy xuân trong thời hoa nở, nghĩa là chỉ nhận thấy cái Đẹp trong mùa xuân. Đến khi đã chứng ngộ Bản thể rồi, thì trông thấy xuân cả trong thời hoa rụng, nghĩa là nhìn thấy cái Đẹp ở cả ngoài mùa xuân, bởi vì cái Đẹp của Pháp Thân tồn tại qua thời gian và tràn khắp mọi không gian.
VIÊN CHIẾU thiền sư đời Lý, nhìn thấy Xuân trong còi luồn qua khóm trúc, trông thấy cái Đẹp ở trong bóng núi đeo trăng vượt khỏi bức tường:
Giốc hưởng tùng phong xuyên trúc đáo,
Sơn nham đái nguyệt quá tương lai.
Thiền sư còn trông thấy xuân, trông thấy Đẹp ở trong trong những giọt mưa rơi rụng khoảng hoa ngàn, ở trong tiếng gió thoảng đưa nơi sân trúc:
Vũ trích nham hoa: Thần nữ lệ,
Phong xao đình trúc: Bá Nha cầm.
Và Ngộ An thiền sư (cũng đời Lý) nhận thấy xuân cả trong nơi than hừng lửa cháy. Thiền sư có câu:
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,
Liên phát lô trung thấp vị càn.
Nghĩa là:
Ngọc cháy đầu non không đổi chất,
Sen sanh trong lửa vẫn tươi màu.
“Ngọc cháy đầu non, sen sanh trong lửa” là Xuân là Đẹp, là hình bóng của Bản Thể thanh tịnh, là chân tướng của Pháp Thân bất diệt, nằm dưới những hiện tượng xấu xa do ác nghiệp cấu tạo. Nhưng một khi đã “khám phá Đông Hoàng diện” rồi, thì chất trong của ngọc, màu tươi của sen, cái Đẹp của Pháp Thân, cái Xuân của Bản Thể vẫn hiển hiện ra trước mắt trong mọi lúc ở mọi nơi.
Cho nên một nhà thơ đã hiểu được lẽ sắc không, thì ở trong hoàn cảnh nào cũng trong thấy cái Đẹp, ở trong cảnh ngộ nào cũng thấy an nhàn tự tại mà vui hưởng cái Xuân, cái ĐẸP bất diệt bất biến của Pháp Thân, cái xuân thường tồ thường trú của Bản Thể. Khi ấy những bài thơ viết ra đều đượm sắc xuân, và thơ Xuân không phải đợi mùa xuân của thế gian về mới nảy nở.
Chú thích:
(1) Du tiền: Một thứ cúc bông tròn như đồng tiền điếu.
(2) Chuyện này lấy ở Tùy Viên Thi Thoại.
(3) Đã nói ở bài “ Dưới mai là thơ” ở đây nhân hợp cảnh hợp tình nên nhắc lại.
10- Hương thơ mùa Đông
Mùa Đông thường mưa dầm gió bấc, cảnh vật tiêu điều, cho nên ít người thích.
Nhưng mai vẫn nở hoa.
Mà hoa và thơ tuy khác loài nhưng đồng điệu.
Cho nên không lẽ vì ít người thích mà mùa đông không có thơ?
Mùa đông vẫn có thơ. Nhưng cũng như hoa mùa đông, thơ mùa đông rất hiếm. Xưa nhất và được truyền tụng nhất có lẽ là bài sau đây:
Lò sưởi bên mình ngọn lửa hồng,
Giải sầu chén rượu lúc sầu đông.
Tuyết đưa hơi lạnh xông rèm cửa,
Gió đẩy mưa băng trải mặt sông.
Lời thơ vừa êm vừa đẹp!
Các sách quốc văn đều chép tác giả là Kim Hoa nữ học sĩ NGÔ CHI LAN, một tài nữ đời Lê.
Sự thật thì đó là một bài trích dịch bài ĐÔNG TỪ bằng Hán văn của nữ học sĩ. Không biết tác giả tự dịch lấy hay người khác mới dịch sau. Chỉ biết nguyên tác là một bài từ 8 câu có chép trong TRUYỀN KỲ MẠN LỤC của NGUYỄN DỮ, rằng:
Bửu lư bát hỏa ngân bình tiểu,
Nhất bôi La Phù phá thanh hiểu
Tuyết tương lãnh ý thấu sơ liêm
Phong đệ khinh băng lạc hàn chiểu.
Mỹ nhân kim trướng yểm lưu tô,
Chỉ hộ vân song phiến phiến hồ.
Am lý vãn hồi xuân thế giới,
Nhất châu phương tín tiểu sơn cô.
Tạm dịch theo nguyên điệu:
Lư vàng lửa nhúm sang lò bạc,
Chén rượu tiêu sầu hương bát ngát.
Hơi lọt rèm sưa tuyết lạnh lùng,
Gió đưa ao quạnh băng xao xác.
Phòng loan người ngọc trướng lưu tô,
Cửa sổ phòng văn giấy phất hồ.
Xuân đã âm thầm xoay vận thắm:
Tin mai non vắng một nhành phô.
Đó là cảnh đông dưới con mắt của một giai nhân tài cao học rộng ở trong nơi đài các phong lưu. Và sau đây là cảnh đông của một danh sĩ, khí phách hiên ngang: NGUYỄN CÔNG TRỨ:
Trời đông hơi giá như đồng,
Cái cơ lai phục đã trong hổ hàn (1)
Sang đông tiết hơi may lạnh lẽo,
Hội bế tàng chuyển máy âm dương (2)
Lôi thôi chày nhạn khua sương,
Thấp thoáng bóng ngư câu tuyết.
Lăng hàn bích khắc tùng thiên xích,
Nại lãnh hoàng lưu cúc sổ khoa (3).
Ngoài quan san tuyết đóng sương pha,
Kẻ hào hứng chốn khê kiều đắc thú.
Điểm điểm trông chừng lĩnh sấu,
Phút tin xuân đã hé đầu cành,
Đành hay âm cực dương sanh.
Văn chương hùng tráng!
Không khí bài ca trù của UY VIỄN tướng công cũng như bài từ của KIM HOA nữ học sĩ, rất trong sáng. Trong hai bài đều có sương bay, tuyết phủ…, đều có hơi may heo hắt… Song tuyết sương chẳng những không làm ảm đạm trời Thơ, mà còn điểm xuyết cảnh trời đông nên tươi đẹp, và khí đông lạnh lẽo lại là một thứ gia vị giúp thêm hào hứng cho người thơ. Hai tác giả cũng không quên nhắc đến cảnh khổ của kẻ học trò nghèo trước cơn gió lạnh, cảnh non núi bị gầy gõ vì trời đông. Nhưng nhắc tới không phải để cho dịu lòng thương xót, mà chính để làm nổi rõ vẻ tươi sáng của tương lai.
Cảnh vật là khung động tác của tâm hồn mà thơ là gương phản chiếu. Xem hai bài thơ trên, chúng ta đoán biết được bà NGÔ và ông NGUYỄN, lúc sáng tạo, đương ở trong cảnh đắc ý và trong lòng đương có một niềm hy vọng chứa chan.
Ca dao có câu:
Người vui mưa gió cũng vui
Người buồn trăng sáng hoa tươi cũng buồn.
Xem đó thì biết rằng lòng vui của con người có ảnh hưởng đến cảnh vật, còn vẻ vui tươi của cảnh vật không đổi được lòng người buồn ra vui.
Người buồn trăng sáng hoa tươi cũng buồn.
Trước cảnh “trăng sáng hoa tươi cũng buồn” thì trong cảnh trời giá đêm đông, lòng buồn sẽ buồn đến đâu nữa? Vì cảnh vui không có ảnh hưởng trực tiếp đến lòng buồn, chớ cảnh buồn đối với lòng buồn thật chẳng khác chi dầu đối với lửa. Ví như lúc chàng Họ Lưu ngồi nơi thuyền xưa nhớ thương người tình cũ, mà “gió thổi trời đông….”
Hôm nay ngồi rủ canh trường,
Nơi thuyền trọ, rượu quỳnh tương ai mời!
Người dâng rượu xa nơi trần giới,
Lạnh lùng thay gió thổi đêm đông!
Tuy người đã khuất núi sông,
Mặt hoa lẽo đẽo như lồng dưới trăng…
Mường tượng thấy thung thăng cười nói,
Tưởng chừng như người mới hôm qua…
Nào hay nghìn cổ cách xa…
Tài tình đến thế mà ra hão huyền! (4)
Thật là một trời đông gió lạnh! Nhưng một trời đông của nội tâm. Chúng ta chỉ nhận thấy ngọn gió ngoài khơi đưa nỗi lòng tác giả qua khung cửa bài thơ, lạnh lùng hiu hắt.
Trong CUNG OÁN NGÂM KHÚC của Ôn Như Hầu có câu:
Lạnh lùng thay giấc cô miên!
Mùi hương tịch mịch bóng đèn thâm u.
Đọc lên chúng ta không thấy lạnh lùng cô quạnh lắm. Đó là nhờ có mùi hương và ngọn đèn đã vô tình làm ấm bớt khí lạnh của trời Thơ. Với câu “Lạnh lùng thay…” của họ LƯU chúng ta cảm thấy hiu quạnh và lạnh lẽo đến rợn người! Phải chăng tại vì quanh mình không còn có gì khác hơn là ngọn gió lạnh? Hay tại vì bóng “người đã xa trần giới” chập chờn trong “gió thổi đêm đông”
Cũng đối cảnh trời đông nhớ người, Nữ sĩ TƯƠNG PHỐ có mấy câu lục bát:
Thu qua đông lại sang rồi,
Lạnh lùng gió bấc mấy hồi mưa bay.
Bên lòng một mối sầu tây,
Nhớ ai muôn dặm nước mây quê người.
Biệt ly chốc mấy năm trời,
Chén tương tư nhắp hồ vơi lại đầy.
Ngừng kim buồn tựa hiên tây,
Hiên tây nào biết trời Tây phương nào! (5)
Thật là lâm ly, nhưng không não nuột bằng mấy lời thở than lúc bà thân sinh của nữ sĩ tạ thế:
Anh ôi, em mất mẹ rồi!
Một trời đông lạnh mấy hồi thê lương!
Sương sa giọt lệ canh trường,
Quê nhà tang mẹ tha hương tình chồng! (6)
Cảnh tình thật quá thê thảm! Người chịu nổi phải là người có gan. Nữ sĩ TƯƠNG PHỐ đã chịu nổi thì quả là có gan vậy.
Nhưng riêng gì TƯƠNG PHỐ, hầu hết khách làng thơ đều là người giỏi chịu đựng, vì họ có một đời sống bên trong vừa dồi dào vừa mạnh mẽ, vững chắc. Những nỗi phụ phàng của mưa gió trời đông “thật ra chỉ giúp cho tâm hồn thi nhân thêm phong phú" Những vần thơ trên đây là những bằng chứng hùng hồn.
Trời đông trong thơ họ Lưu và nữ sĩ TƯƠNG PHỐ nghiêng hẳn về nội tâm còn UY VIỄNKIM HOA lại nặng bên ngoại cảnh. Tâm cảnh nhất như thì tạm đem bài sau đây làm tiêu biểu:
Chuông gióng hàn san bẵng tiếng ngân,
Ngàn xa tiếng địch cũng xa dần..
Lá thương nhánh nặng bay hầu  hết,
Trời sợ non côi xích xuống gần.
Ngần ngại gió mưa chim ẩn bóng,
Quân quầy mây khói liễu riêng xuân.
Đêm như dài lắm.. Người Vân Hớn
Trong giấc thăm nhau được mấy lần? (7)
Cảnh không thanh lịch như thơ UY VIỄN, KIM HOA, tình không dạt dào thấm thía như thơ họ LƯU, thơ TƯƠNG PHỐ. Đây là một TRỜI ĐÔNG lợt lạt, hiền hòa của một tâm hồn bình đạm.
Đó là một đóa hoa thơ ít hương ít sắc ẩn mình trong khoảng vườn hoang vắng tự nghìn xưa.
Và như đã thưa trên kia, thơ mùa đông cũng như hoa mùa đông, rất ít ỏi, nên lão nhặt được cánh nào thì đem ra vườn hoa thơ cánh nấy, để hiến cho ai người đồng điệu lòng khao khát hương thơ trong thời mưa gió lạnh lùng.
Chú thích:
(1) Xem thêm “Hương Vườn Cũ”
 Lại Phục: Sắp trở lại. Hỗ hàn: Lạnh cực độ.
(2) Bế tàng: Che lấp giấu diếm (Khi mùa đông sắp hết, tất cả mọi sự mọi vật dường như
đều thu xếp để che dấu đi.)
(3) Hai câu thơ nghĩa là: Lướt lạnh, sắc xanh của cây tùng nghìn thước thấm sâu vào thành trông thấy đậm thêm lên. Và chịu rét vài khóm cúc trải màu vàng ra trông như vàng chảy.
(4) Đây là một đoạn trong bài GIANG HỒ trích ở tập TIẾNG THU.
(5) Nhan đề là ĐÔNG BUỒN
(6) Nhan đề là MẤT MẸ Trích ở tập MƯA GIÓ SÔNG TƯƠNG
(7) Nhan đề là TRỜI ĐÔNG trích ở tập MÙA CỔ ĐIỂN.
11- Hoa tứ thời
Ông bạn già KÍNH SƠN ở Bình Khê vào thăm Lão Vườn, và tặng Vườn Hoa Thơ một khóm hoa Mùa Hạ:
Cũng thì đất chở cũng trời che.
Nồng nã làm chi lắm hỡi hè
Khắc khoải đã đau lòng cái cuốc
Băn khoăn thêm xót cật con ve
Người ngồi trướng gấm mồ hôi chã
Kẻ hái rau tần nước bọt se
Chẳng thương bồ liễu phận le the.
Ông bạn hỏi có biết tác giả là ai chăng. Lão đáp:
- Đây là một trong bốn bài Tứ Thời trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập. Cả bốn bài lão đã được đọc qua song không nhớ, vì thơ kém vị, đọc không thích khẩu khoái tâm.
Kính Sơn nói:
- Thơ thời Hồng Đức, lời văn có phần nặng, chữ dùng có nhiều chữ cổ. Bài này văn chương nhẹ nhàng trôi chảy. Tôi ngờ không phải thơ xưa quá.
- Thơ thời, Thịnh Lê phần nhiều lời còn nặng thật. Song tất cả gì gì cũng đều có ngoại lệ. Trong mùa đông có ẩn tàng khí xuân, trong mùa hè có ngầm chứa khí thu. Những gì tiềm tàng đó đôi khi thoáng hiện. Mình không suy kỹ nghĩ chín, cho là bất thường là ngoại lệ vậy thôi. Riêng nói về bài thơ này, nếu như lão không được mắt thấy trong Hồng Đức Quốc Âm thi tập thì cũng không dám tin là thơ xưa.
- Lão Vườn thường nói thơ cũng như hoa chỉ thích hợp với khí ôn hòa. Cho nên mùa hạ quá nóng, mùa đông quá lạnh, thơ và hoa không có nhiều. Tôi nhận thấy đúng.
- Chỉ đúng phần nào thôi. Mùa đông hoa ít thật. Hoa mai là linh hồn của mùa Đông. Song cũng phải đợi đến đông chí nhất dương sanh, mới ra chồi nảy nụ. Còn mùa hạ thì ngoài hoa sen dưới nước, còn có hoa ngâu trên gò, hoa lài trong vườn, hoa phượng hoa hòe trong rừng trên đường… Nắng nóng bao nhiêu, tươi thắm bấy nhiêu. Thơ của đất thì như thế. Còn hoa của người thì lão chưa được đọc nhiều bài có thể sánh với các loại hoa kia. Gần đây lão có nghe một bài:
Ai xui con cuốc gọi vào hè
Cái nóng nung người nóng nóng ghê
Ngõ trước vườn sau um những cỏ
Vàng phai thắm nhạt ngán cho huê
Đầu cành gọi bạn oanh xao xác
Trong tối đua bay đóm lập lòe
Chẳng được nồm nam cơn gió thoảng
Đàn ta ta gảy khúc Nam nghe.
Tuổi già lú lẫn, lão chắc có nhiều chỗ sai… Đem so cùng bài đời Hồng Đức thì không hơn mấy. Nhiều người bảo tác giả là cụ Tam Nguyên Yên Đỗ. Song đã có sách báo cải chính. Tiếc rằng lão không nhớ tên.
Bài này và bài trên kia giá trị ngang ngang với hoa lài hoa ngâu.
Vịnh cảnh mùa hè, cụ Tam Nguyên Yên Đỗ có câu:
Trâu già núp bụi phì hơi nắng
Chó nhỏ bên ao cắn bóng người.
Có ở vùng quê Bắc Việt, mới thấy câu này là những nét phác hoạ thần tình.
Kính Sơn gật đầu và hỏi:
- Có thể sánh với hoa sen chăng?
Vốn chủ trương “văn hoành công khí”, lão đáp:
- Hoa sen gồm đủ ba yếu tố hương, sắc, thiệt mà các danh hoa phần nhiều không có đủ. Phù dung, hải đường… có sắc không hương, mẫu đơn, tường vi…, có sắc có hương lại không có quả. Thơ phần nhiều cũng thế. Thơ mà sánh nổi với hoa sen, thật hiếm lắm. Câu thơ của cụ yên Đỗ có mùi hương của hoa cam hoa bưởi nhưng có hình sắc của hoa phượng, hoa hòe. Nghĩa là thơm, đẹp, nhưng không thanh.
Muốn tìm hoa sen phải dạo qua vườn thơ của Đương, Tống, Thanh. Trong thơ chữ Hán Việt Nam cũng có lắm bài có giá trị của hoa sen. Như thơ trong Lữ Đường Di Cảo Thi tập của Thái Thuận đời Lê Thánh Tông:
HẠ CẢNH
Nam phong đình viện nhật như niên
Diện đối thư song cổ thánh hiền
Bàng xế lựu ba hồng phún hỏa
Nhập liêm thảo sắc lục sanh yên
Nguyên hanh lý khế Bào Hy dịch
Khang phụ công qui Đế Thuấn huyền
Thiên cổ đạo tâm hô đắc khởi
Hòe long ảnh lý tịch dương thuyền.
Tạm dịch:
Thánh hiền đối bóng thư trai
Gió Nam thổi lọt ngày dài như năm..
Hồng phun lửa lựu quanh thềm
Xanh đưa sắc cỏ vào rèm khói sanh
Bào Hy vạch lẽ nguyên hanh (1)
Dân khang vật phụ công dành Đế Ngu (2)
Dấy nên lòng đạo nghìn thu
Hòe buông bóng xế dặm cù ve ngâm.. 
Câu trạng tuyệt diệu!
Trong Bích Câu Kỳ Ngộ có câu:
Đua chen thu cúc xuân đào
Lựu phun lửa hạ mai chào gió đông.
Trong Đoạn Trường Tân Thanh có câu:
Tiếng quyên nay đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông.
Nếu lão đoán không sai thì đều do nơi câu “Bàng xế lựu ba hồng phún hỏa” mà ra cả.
Kính Sơn cười:
- Biết đâu câu của Thái Thuận lại không do Bích Câu và Đoạn Trường mà ra.
Lão nhìn ông bạn mà cười:
- Có lẽ kiếp trước của Kính Sơn là Võ Tắc Thiên.
- Võ Tắc Thiên có liên quan gì với ý kiến của tôi?
- Có chứ. Võ hậu có người yêu là Lục Lang, người đẹp như tranh vẽ. Thiên hạ thường khen rằng mặt Lục Lang đẹp như hoa sen. Vô Hậu bác đi, và nói: “phải khen rằng hoa sen đẹp như mặt Lục Lang”. Tức là Võ Hậu bảo ngầm rằng hoa sen đã bắt chước Lục Lang mà đẹp.
- Nghĩa là Lão Vườn muốn nói rằng hai tác giả Bích Câu và Đoạn Trường có thể bắt chước Thái Thuận, chớ Thái Thuận không thể bắt chước Đoạn Trường và Bích Câu?
- Chính vậy. Vì Thái Thuận ở đời Lê Thánh Tông còn Bích Câu và Đoạn Trường ở vào thời Lê mạt Nguyễn Sơ.
Câu “Bàng xế lựu ba hồng phún hỏa” còn cao hơn hai câu quốc âm kia một tầng. Trong Bích Câu thì “Lựu phun lửa”, trong Đoạn Trường thì “lửa đơm bông”. Rằng hay thì thật là hay. Nhưng chất sanh chất, sao bằng sắc sanh chất, “sắc đỏ phun ra lửa”.
Câu “Nhập xiêm thảo sắc lục sanh yên” đem sánh với câu “lam Kiều nhật noãn ngọc sanh yên” trong bài Cẩm Sắc của Lý Thương Ẩn đời Đường, thì câu của Thái Thuận cũng cao hơn. Vì câu của Lý Thương Ẩn đẹp ngang hai câu của Tố Như và tác giả Bích Câu Kỳ Ngộ. (Xem thêm phần góp ý của Quách Tạo nơi Phụ trang 2 mục A)
Về văn chương về tình tứ, về mặt thơ, mặt nghệ thuật, thì cặp trạng là tuyệt diệu từ. Còn về hàm súc thì cặp luận.
Kính Sơn nói:
- Cặp luận dùng điển mắc mỏ quá. Nếu không đọc sách nhiều thì thật không hiểu tác giả muốn nói gì. Như thế là bí hiểm chớ sao gọi là hàm súc?
Lão đáp:
- Cổ nhân có ngờ đâu con cháu bỏ chữ Hán để học chữ Pháp chữ Anh. Nếu biết trước thì chắc không dùng điển làm gì cho khổ con cháu. Và những điển kia đối với chúng ta thì mắc mỏ thật, chớ đối với những người thâm Hán học thì đọc qua là hiểu ngay, vì chính là điển. Còn một điểm này nữa mà xưa nay có nhiều người hiểu lầm: Thơ hàm súc là thơ ngậm chứa nhiều ý nhiều nghĩa, chớ không phải thơ dùng nhiều điển cố. Điển cố chỉ mượn để làm cái giàu cho hoa thiên lý hương leo và nảy nở sum thạnh đó thôi. Hoa thiên lý hương là ý nghĩa tác giả gởi gấm nơi điển cố. Cho nên xem thơ phải tìm ý nghĩa ở ngoài điển cố, chớ không nên chú tâm chú mục nơi điển cố mà không thấy được chân tướng của câu thơ.
- Lão Vườn thử giải thích đại lược câu thơ ấy.
- Tác giả muốn nói rằng: Vạn vật sinh thành là nhờ bốn đức lớn của trời đất. Bốn đức lớn ấy là Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh. Nhờ vua Phục Hy khởi xướng đạo Dịch mà chúng ta được biết rõ lẽ ấy. Như vậy thì dân được khang (yên vui), vật được phụ (dồi dào) là nhờ lượng bao dung của Trời Đất chớ đâu phải nhờ Vua Thuấn  mà ông Cao Dao lại qui công cho vua Thuấn khi nghe vua Thuấn gảy khúc Nam Phong.
Đó là nghĩa đen.
Còn nghĩa bóng thì tác giả muốn ám chỉ vua Lê Thánh Tông. Triều đại vua Lê Thánh Tông được coi là một triều đại  thịnh nhất từ xưa tới nay. Vua được các nhà danh sĩ đương thời, nhất là nhóm nhị thập bát tứ trong Tao Đàn, làm thơ xưng tụng công đức. Thái Thuận ngầm chỉ trích việc tán dương nhà vua của đám danh sĩ, và phủ nhận công đức nhà vua.
Nhưng cặp luận chưa mỉa mai bằng chuyển, kết. (Xem thêm Phụ trang 2 mục B)
Chuyển và kết ngụ ý chê đạo tâm lúc bấy giờ không còn nữa. Mà đạo tâm không còn nữa thì làm gì nhà vua có thể là người có đức lớn. Những người muốn chấn hưng đạo đức có rát hầu rát họng hô hào thì cũng chẳng khác bầy ve kêu trong bóng cây ven đường cái lúc trời chiều.
Kính Sơn trầm ngâm hồi lâu rồi nói:
- Làm thơ đã khó mà xem thơ không phải dễ dàng. Lời giải thích của Lão Vườn tôi công nhận là thâm thúy, song biết có đúng ý của cổ nhân chăng?
Lão cười:
- Thái Thuận ra đời trước lão trên dưới 500 năm. Làm sao lão biết được chắc chắn là đúng hay không đúng. Lão chỉ dựa trên đôi sự kiện lịch sử, đôi mảnh tâm sự của tác giả giấu díếm trong tập Lữ Đường mà nhận xét đó thôi. Huống nữa Tây Phương có câu “Lire c’est créer”, tức “đọc là sáng tạo” thì dù không đúng ý của cổ nhân mà hợp tình hợp lý là được. Người đọc phải phong phú những gì mình đọc, thì mới có ích lợi cho mình và cho người. Cho nên hễ một bài thơ hay vào tay, thì lão thả lòng người đi ngược đi xuôi rồi đi sâu vào từng hàng từng chữ.
Dường có điều chi nghi ngờ, Kính Sơn lại hỏi:
- Lão Vườn có thể cho biết vì sao Thái Thuận làm quan cùng vua Lê Thánh Tông mà lại tỏ ý không phục vua Lê?
Không dám trả lời một cách quả quyết, vì lão chưa nghiên cứu kỹ càng về thân thế của Thái Thuận, mà mới đọc qua tiểu sử chép sơ lược trên mươi hàng, lão đáp:
- Thái Thuận đậu tiến sĩ, nhưng suốt hai mươi năm trời chỉ làm một chức quan nho nhỏ trong Các. Nếu lão không lầm thì vì có tài mà không được trọng dụng nên sanh ra bất mãn. Đó là theo thường tình trong thiên hạ mà nói, chớ biết đâu lại không còn những yếu tố khác, những yếu tố khách quan. (4)
- Muốn nhận thức thấu đáo ý nghĩa một bài thơ hàm súc, cần phải biết rõ thân thế của tác giả.
- Trường hợp sáng tác, động cơ thúc đẩy việc sáng tác… cũng là những yếu tố cần thiết.
- Trong khi chúng ta chưa nắm được những yếu tố cần thiết thì tạm bằng lòng những điều chúng ta đã nhận thức được. Có điểm này tôi cần biết thêm: Hương và sắc là cái hay cái đẹp của bài thơ. Tôi đã thấy rõ trong bài Hạ Cảnh của Thái Thuận. Còn phần Thiệt thì như sau?
- Thiệt là Trái, là Sự  ích lợi của bài thơ đối với đời. Bài thơ của Thái Thuận ngoài giá trị văn chương, còn giá trị lịch sử: Nhìn vào đó chúng ta biết được đôi cạnh khía xã hội thời Lê Thánh Tông, thời mà sách sử phần nhiều chỉ chép những điều tốt. Những bài thơ có ích cho đời tạm gọi là phục vụ nhân sinh, thường thường nghệ thuật không cao đẹp lắm. Bài của Thái Thuận thật hoàn hảo. Cho nên lão sánh với hoa sen kể không ngoa, có phải chăng hỡi ông bạn già Kính Sơn? (Xem thêm phụ trang 2 mục C)
Kính Sơn vuốt cằm không râu, khẽ khẽ ngâm:
Hè sang tán lửa càng cao
Khúc ca giải uẩn lựa vào năm đây.
Vận ống lữ tiết vừa sang hạ
Bính Đinh về hiệu lệnh Chúc Dung. (a)
Quanh ngọn tường lửa lựu phun hồng
Tràn mặt nước tàn sen nảy lục.
Trì dường tịnh trưởng tôn ông trúc (b)
Ly lạc tề khai tỷ muội hoa. (c)
Buổi thời huân mấy khúc cầm ca
Với trời đất cũng sinh sinh trưởng trưởng.
Hé mành ngọn nam phong thoảng thoảng,
Người Hy Hoàng dáng cũng dường này (d)
Thú màu dễ mấy ai hay (5) 
Đi ngang qua Vườn Hoa Thơ, nghe ông bạn Kính Sơn Nguyễn Đồng cùng lão nói chuyện về thơ mùa hè, thầy MAI CAO LƯƠNG, thầy học cũ của lão, và ông bạn NGUYỄN KHẮC TUÂN ghé vào tặng thêm cho vườn một số hoa xưa, và chỉ cho đôi chỗ sai trong cuộc đàm thoại.
Thầy Mai:
- Bài thơ Mùa Hè mà ông bạn Nguyễn Đồng đem tặng Vườn đó nhan đề là TRÁCH HÈ. Câu thứ tư, chữ  thứ tư, tôi nghe truyền là TỨC chớ không phải là XÓT (Băn khoăn thêm tức cật con ve). Câu kết, hai chữ chót là LE TE chớ không phải LE THE (Chẳng thương bồ liễu phận le te).
Nguyễn Đồng:
- Trên nổi lên với hai chữ BĂN KHOĂN mà dưới xuống chữ TỨC, tôi nhận thấy không ổn bằng chữ XÓT. Còn BỒ LIỄU vừa nói về hai giống cây yếu ớt không chịu nỗi khí nóng mùa hè vừa ngụ ý nói về thân phận người đàn bà để bổ túc cho cặp luận. Như vậy chữ LE THE là thưa thớt mà có vẻ mềm yếu lướt thướt, thiết tưởng ăn ý hơn chữ LE TE.
Nguyễn Khắc Tuân:
- Trong sách Littérature Annamite của G. Cordier, tôi thấy cũng chép là TỨC CẬTPHẬN LE TE. Chúng ta nên theo sách thì hơn. Mặc dù chữ của chúng ta sửa đó hay hơn.
Nguyễn Đồng:
- Không phải tôi tự ý sửa thơ cổ nhân. Chính tôi nghe các bậc tiền bối đọc như thế.
Nguyễn Khắc Tuân:
- Nghe miệng sao bằng thấy sách.
Lão chen vào:
- Sách dạy: Tận tín thư bất như vô thư. Huống nữa các ông viết sách kia chắc chi đã sao y chính bản do chính tay tác giả chép lấy. Các ông ấy cũng chỉ sao lại những bản sao mà thôi. Mà đã tam sao thì nhất định là thất bổn. Do đó mà cổ nhân dạy không nên tận tín thư.
Nguyễn Khắc Tuân:
- Không tin nơi sách thì tin nơi đâu bây giờ?
Thầy Mai:
- Ý Lão vườn muốn mình tin vào lẽ phải chớ gì? Nhưng trên đời có nhiều lẽ phải lắm. Lẽ phải bên này chân núi chưa hẳn là lẽ phải bên kia chân núi, lắm khi còn trái ngược là khác.
Lão cười:
- Lẽ phải của mình.
Ông bạn Nguyễn Khắc Tuân vỗ đùi cười lớn:
- Thôi, bắt được quả tang rồi!
Cử tọa chưa ai nhận thức được ẩn ý trong lời kia, thì Nguyễn Quân tiếp:
- Những thơ xưa do Lão Vườn đưa ra lâu nay, thấy có nhiều chữ nhiều câu khác với những bài trong các sách báo, tôi đã ngờ rằng Lão Vườn tự ý sửa chữa. Nay nghe lý luận của lão thì đủ bằng chứng để quả quyết rằng chính thị lão rồi chớ không còn nghi ngờ gì nữa.
Lão cười:
- Sửa thơ của cổ nhân không lợi cho bản thân. Bởi nếu sửa lỗi thì bị cổ nhân quở phải giảm thọ. Bằng sửa hay thì cổ nhân thích ý mời xuống cõi âm làm bạn cho vui, như vậy làm sao bò lên địa vị ông Bành Tổ mà lão từng ao ước được. Cho nên lão đâu có dại.
Thầy Mai:
- Nói vậy hay vậy. Thôi để tôi đọc thêm ba bài Trách Xuân, Trách Thu, Trách Đông nữa hợp với Trách Hè cho đủ tứ quý:
TRÁCH XUÂN
Xuân một năm sang chỉ một lần
Sự xuân tôi chửa thấu lòng Xuân
Cũng màu thắm ấy màu xanh ấy
Sao chốn hơn phân chốn thiệt phân
Dễ khiến má hồng lo áy náy
Thêm hương đầu bạc giận tần ngần
Thôi thôi chớ tiếc xuân qua cõi
Xuân ở cùng ta biết mấy lần.
TRÁCH THU
Nước biếc non xanh khéo hẹn hò
Thu sao lạnh lẽo mấy là thu
Rắp lòng đổi lá thay hoa chắc
Toan nỗi hờn sương giận tuyết ru
Khiến nguyệt lạnh lùng thâu trướng vóc
Xui may hiu hắt lọt chăn cù
Ví ai cho nhắn tin nhàn tới
Chẳng lẽ đau lòng khách vọng phu.
TRÁCH ĐÔNG
Chẳng thương cỏ áy nhị non cùng
Lạnh lẽo làm chi riết mấy đông!
Chiếu kẻ phòng loan ghê tựa nước
Chăn người cung quế lạnh như đồng
Khách đà thanh thảnh về xe hạc
Mình vẫn nhơn nhơn nấp bóng thông
Đêm đã thêm canh ngày bớt khắc
Làm chi riết mấy hỡi thiên công.
Đọc xong nói thêm:
- Đó là nghe sao nhớ sao thì đọc vậy. Họ Nguyễn thấy có chữ khác câu khác với sách thì chớ ngờ oan đó nhé.
Nguyễn Khắc Tuân cười:
- Nhà dột có nơi, chớ đâu phải đụng ai ngờ nấy. Tôi đọc sách của Cordier từ lúc còn đi học, cách đây trên dưới bốn mươi năm rồi, nên không thể nhớ rõ chỗ nào dị thù chăng..
Nguyễn Đồng:
- Công việc đó hãy nhượng cho các nhà khảo cổ. Vào Vườn Hoa Thơ, chúng ta nên tìm hưởng sắc đẹp hương thơm sẵn có trước mặt. Vậy chúng ta thử  xem ba bài Xuân Thu Đông có những điểm gì đặc sắc chăng?
Thầy Mai:
- Văn chương thanh lão. Và dường như tác giả là người có tài mà không được trọng dụng hoặc bị thất sủng, nên mượn lời đàn bà trách hóa công để trách đấng quân vương.
Ai nấy đều biểu đồng.
Nguyễn Khắc Tuân:
- Chữ “Sự Xuân” nghe sao nghệch nghệch không sướng. Tại sao lại không nói là “Việc Xuân”?
Lão đáp:
- Sự đây không phải là Việc, mà là phụng sự.
Thầy Mai:
- Lâu nay tôi cũng ngỡ SỰVIỆC. Phải, SỰ đây là PHỤNG SỰ. Như vậy nghĩa câu thơ mới rõ và mới xuôi: “Phụng là sự xuân lâu ngày mà chưa hiểu nổi lòng xuân”.
Nguyễn Khắc Tuân:
- Dù SỰ nghĩa là phụng sự đi nữa, đọc hai chữ “Sự Xuân” nghe cũng không sướng tai
Lão đáp:
- Mấy bài thơ đó là sản phẩm thời Hồng Đức. Cho nên chữ dùng và cách dùng chữ có phần cổ. Những bài đã có tiến bộ hơn trong Hồng Đức Quốc Âm thi Tập, nên chúng ta chỉ gặp một đôi chút lạ mắt lạ tai. Như "Sự xuân Thâu trướng vóc, Ghê tựa nước”. Chớ nếu chúng ta đọc hết tập Hồng Đức thì còn thấy nhiều điểm ngượng ngập trục trặc bội phần. Muốn khoái khẩu khoái tâm, thì nên đọc thơ  thời Lê mạt Nguyễn sơ là thời thịnh đạt của thơ Hàn luật.
Nguyễn Khắc Tuân:
- Khi nãy bạn Nguyễn Đồng có đọc bài ca trù về Cảnh Hạ của Nguyễn Công Trú. Nguyễn Tướng Công còn ba bài Xuân, Thu, Đông nữa. Tôi thuộc không sai một chữ. Lão Vườn đã có trong số hoa tàng trử chưa? Nếu cần tôi xin biếu.
- Lão ít thích lối ca trù, nên không tích trữ.
- Lão vườn không thích, mà có khách đến dạo vườn thích thì lấy gì mà đãi? Nên dự trữ thì hơn:
CẢNH XUÂN
Xuân sang hoa cỏ thêm tươi
Khoe màu quốc sắc trẻ mùi thiên hương
Đầm ấm thuở tin xuân phút bắn
Khí phát sinh rải rác trên cành
Thử tập bay bướm mới uốn mình
Muốn học nói oanh còn lạ tiếng
Liễu hoàn cựu lục oanh do tĩnh
Đào thi tân hồng điệp vị tri (6)
Mái đông phong mày liễu xanh rì
Đám tàn tuyết đầu non trắng xóa
Buổi hòa hú khí trời êm ả (7)
Hội đạp thanh xa mã dập dìu
Nghìn vàng một khắc xuân tiêu.
CẢNH THU
Trời thu bảng lảng gió chiều
Mây về ngàn Hống buồm treo ráng vàng (8)
Sang thu tiết hơi may hiu hắt
Cụm sen già lã chã phai hương
Sương dày dậu cúc đóa hoa vàng
Son nhuộm non đào cành lá đỏ
Lãnh vũ như ti trùng chức dạ
Tình thiên tác chỉ nhạn thư không (9)
Phút đâu một trận hảo phong
Trên cung Quảng xa đưa hương quế
Trời biên biếc nước xanh xanh một vẻ
Khen hóa công khéo vẽ nên đồ
Một năm được mấy mùa thu.
Lão nói:
- Bài CẢNH ĐÔNG hôm trước đã chưng bày ra vườn với một số thơ của các nhà danh sĩ khác rồi. Như vậy Vườn Hoa Thơ có đủ tứ thời hoa, khách đến vườn muốn gì có sẵn nấy.
Thầy Mai:
- Theo ý tôi thì trong vườn nên sắp xếp cho có thứ tự: Hoa đời Trần để theo hoa đời Trần, hoa đời Lê để theo hoa đời Lê…., hoa Xuân để theo hoa Xuân, hoa đông để theo hoa đông.., hoa nồng diệm để theo hoa nồng diệm, hoa thanh đạm để theo hoa thanh đạm… Như thế người xem hoa dễ nhận thức dễ thưởng giám hơn.
Lão thưa:
- Tổ chức như thế thì khoa học lắm. Nhưng trông có vẻ “học đường" quá, nhìn vào Vườn Hoa không khỏi có cảm giác nhìn một quyển sách vẽ những hình kỷ hà học chớ không phải nhìn trăng vẽ bằng lời.
Nguyễn Đồng:
- Nói chuyện thơ cũng như đi chơi rông, gặp chi nói nấy, gặp đâu ghé đó, tùy ngộ tùy nghi. Như thế mới thú. Chớ sắp đặt trước, sắp xếp cho ngay bờ thẳng lối, thì có khác gì làm việc biên khảo, sẽ không tránh khỏi khô khan.
Nguyễn Khắc Tuân:
- Điều đó để lão vườn nghiên cứu lại. Bây giờ nên trở lại với hoa thơ. Xin hỏi lão vườn: mấy bài ca trù của Nguyễn Uy Viễn có phải ý vị hơn mấy bài thơ thời Hồng Đức chăng?
- Hơn hẳn. Trong các bài, ý vị nhất là những câu thơ chữ  Hán. Tứ thật mới! Những câu ấy đều là cổ thi. Trong Ca trù, tác giả thường mượn cổ thi làm khổ giữa, chớ ít khi tự đặt lấy.
Thầy Mai:
- Nguyễn Công Trứ là một đại gia văn chương. Tác phẩm còn lưu thế chắc nhiều lắm?
Nguyễn Đồng:
- Nhiều lắm. Đã có nhiều người sưu tập thành sách. Nhưng tôi nhận thấy thơ của Nguyễn Công không hay bằng ca trù. Thơ thiên về lý trí, vị khô, lời cứng, đọc không thích thú bằng ca trù.
Lão biểu đồng và nói thêm:
- Về ca trù thì trước kia có Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát, sau này có Tản Đà. Theo chủ quan của lão thì ca trù của ba nhà này không ai sánh kịp. Câu không có chữ dư mà du dương uyển chuyển. Văn lại có nhiều hình ảnh nhưng vẫn giữ vẻ tự nhiên. Đó là những đặc điểm chung của ba nhà, nhưng mỗi nhà có mỗi cốt cách riêng biệt. Chu Thần thì hào, Uy Viên thì tráng, Tản Đà thì tao.
Nguyễn Khắc Tuân cười hả hả:
- Lão Vườn chưa già mấy mà đã lẫn, nói đuôi quên đầu. Khi nãy lão nói không thích ca trù, mà bây giờ lại vẽ rồng vẽ rắn cả mớ!
- Ông bạn lớn hơn lão có mấy tuổi mà đã nặng tai! Lão có nói không thích đâu? Lão nói ít thích chứ. Tức là có thích song không thích bằng thơ đó thôi.
Thầy Mai đứng dậy vỗ vai họ Nguyễn:
Tơ lòng rút mãi khôn cùng
Chiêng vàng đã xế dặm hồng còn xa.
Chú thích:
(1) Bào Hy: Vua Phục Hy, một thánh quân thời Tiền Sử, sống gần bốn nghìn rưỡi năm trước Kỷ Nguyên Thiên Chúa. Thủy tổ Kinh Dịch.
Vua Phục Hy khởi xướng đạo Dịch. Vua Hạ Vũ bổ khuyết. Vua Văn Vương và Châu Công Đán nhà Châu diễn giải. Khổng Tử khai triển và phát huy, làm thành bộ Kinh Dịch là bộ sách triết học của nho giáo bàn về vũ trụ và nhân sinh.
Nguyên Hanh: chữ trong Kinh Dịch.
Nguyên, hanh, lợi, trinh là bốn đức lớn của trời đất, vạn vật nhờ đó mà sinh thành.
(2) Khang phụ: Tốt lành, dồi dào, đầy dẫy.
(3) Chữ mượn trong bài ca Nam Phong của vua Thuấn và bài ca của Cao Dao khen ngợi  vua Thuấn:
- Nam Phong chi huân hề
Khả dĩ giải ngô dân chi uẩn hề.
Nam phong chi thời hề,
Khả dĩ phụ ngô dân chi tài hề.
(Đế Thuấn)
Nghĩa là:
Gió Nam ấm áp vô ngần
Dân ta trăm mối giận buồn đều nguôi
Gió nam thổi đến phía thời
Dân ta của cải gấp mười lần thêm.
- Nguyên thủ minh tai
Cổ quăng khương tai
Thứ sự cương tai.
(Cao Dao)
Nghĩa là:
Đầu não sáng suốt
Tay chân tốt lành
Ngàn việc muôn việc
Nối nhau hoàn thành.
(4) Xem thêm: Lữ  Đường Thi Trích dịch và Những Bức Thư Thơ.
(5) Tác phẩm của Nguyễn Công Trứ.
(a) Chúc Dung là thuần hỏa
(b) Nơi bờ ao trưa ông Chúc lớn lên một cách lặng lẽ.
(c) Ven hàng rào hoa chị hoa em cùng nhau nở một lượt
(d) Huy hoàng: Phục Hy Hoàng Đế.
Ống lữ: Đồ dùng để thẩm xét thanh âm.
(6) Liễu đã lấy lại màu xanh cũ, chim oanh còn nín.
Đào mới thử màu hồng tươi, còn bướm chửa hay.
(7) Hoa hú: Khí hậu ấm áp.
(8) Ngàn Hống: dãy Hồng Lĩnh tục gọi là Ngàn Hống.
(9) Mưa lạnh như tơ, trùng dệt đêm.
Trời tạnh làm giấy, nhạn viết chữ  trên không.
12- Vần hoa Bến Ngự
SÀO NAM PHAN BỘI CHÂU là một nhân vật lịch sử. Quốc dân không một ai không biết thanh danh. Nhưng phần đông đồng bào biết tiên sinh về mặt cách mạng nhiều hơn mặt văn học.
Có người đến Vườn Hoa Thơ hỏi lão:
- Sào Nam tiên sinh có phải một thi nhân chăng?
Không chút ngại ngần, lão đáp:
- Tiên sinh là một thi hào.
Thật vậy. Tài của tiên sinh có thể sánh với Tô Đông Pha đời Tống.
Ai đã từng sống gần tiên sinh, ai đã thấy tiên sinh soạn văn tế trong dịp truy điệu chí sĩ Phan Tây Hồ ở cựu Thần Kinh Huế năm Bính Dần (1962) thì phải khâm phục tài lỗi lạc của tiên sinh. Ngoài bài soạn cho toàn thể sáu bảy bài nữa cho học sinh trường Quốc học, nữ sinh trường Đồng Khánh, cho anh em thợ may, thợ cúp, anh em phu xa…, mỗi giới mỗi bài. Tiên sinh chấp tay sau lưng, chân đi đi lại lại, miệng đọc cho "đương sự” chép, như văn đã làm sẵn trong lòng. Chép xong đọc lại cho tiên sinh nghe. Không mấy khi sửa chữa. Song bài nào hợp tình hợp cảnh với giới ấy, không một câu trùng, không một ý trùng văn chương lâm ly bi tráng.
Đó là do trong lòng tiên sinh chứa đầy những phân phương thơ văn phỉ trắc nên hễ hé môi hươi bút là sanh nhụy sanh hương.
Nhưng vì suốt đời tận tụy hy sinh Cách Mạng, tiên sinh dùng thơ văn chỉ để phụng sự cách mạng chớ không phải để xây dựng sự nghiệp văn chương, chỉ mượn mùi vị văn chương làm vị mật vị đường làm bớt vị thuốc cách mạng thường chua cay đắng đót, chớ không đem tài thêm hoa dệt gấm để đua tài cùng nhã khách tao ông. Cho nên tác phẩm của tiên sinh không được phần đông khách tao đàn hoan nghênh truyền tụng. Tác phẩm của tiên sinh còn để lại hầu hết là những liều thuốc bổ bào chế với mật thơ, chớ không phải những trái cây thơm ngon có nhiều chất bổ như thơ các vị thiền sư đời Lý đời Trần. Do đó mà văn thơ của tiên sinh phổ biến cũng không được sâu rộng trong đại chúng. Bởi phần đông ai cũng như ai ưa ăn trái cây hơn uống thuốc bổ.
Ít người được biết văn nghiệp của tiên sinh là vì thế.
Riêng nói về thi ca của tiên sinh.
Tài tiên sinh như tài Tô Đông Pha, thơ tiên sinh cũng không khác thơ họ Tô: Nhiều tài ít tình, và lời văn thường trực chớ không khúc. Lắm khi còn dùng những chữ mà các nhà thơ thuần tuý không bao giờ dùng:
Tháng một đứng trên đầu tháng chạp
Ngày ta nằm dưới đít ngày tây.
Đó là một câu trong bài vịnh lịch. Trong bài thích thực câu ca dao "ăn sung nằm gốc cây sung, lấy anh thì lấy nằm chung không nằm” là một bài tiên sinh rất thích thú, cũng có những chữ không mấy nên thơ:
Ừ chơi, cho nó toi đồng bạc
Dễ chăng cho ai nếm má hồng.
Những chữ không được thanh nhã như thế thường gặp trong tác phẩm của tiên sinh. Đó là vì cũng như Tô Đông Pha, tiên sinh chỉ nặng về ý chớ không nặng về lời, chỉ chú trọng phong phú chớ không chú trọng cách điệu.
Thi ca của tiên sinh, lời không tao nhưng khí rất mạnh. Có thể sánh với hoa phượng hoa hòe nở trên cành cao với nắng hạ. Muốn thưởng thức phải nhìn từng chòm từng đám, phải biết yêu sắc vàng của dân tộc, sắc đỏ của tâm huyết, thì mới nhận thấy vẻ cao đẹp của văn chương.
Nói thế không phải bảo tuyệt nhiên thi ca của Sào Nam tiên sinh không có tường vi cẩm nhung. Những bài như HOA THUỶ TIÊN:
… Nhụy kìa vàng hoa kìa bạc lá kìa xanh
Trên mặt nước long lanh trời với bóng.
Đố ai biết thần tiên biệt chủng?
Mái Hương Giang mà tiên động tự nhiên thành.
Vô tình mới thật hữu tình
Ơn người giới thiệu cho mình gặp tiên… (1)
Bài CẢM TÁC:
… Thà không trời đất không chi cả,
Còn có non sông có lẽ nào!... (2)
Bài ĐIẾU TRƯƠNG GIA MÔ chí sĩ:
… Mây bạc nước non người vắng vẻ
Chim vàng mưa gió bạn lao xao…. (3)
Bài TIẾNG DÂN ĐẦY TUỔI TÔI:
… Đành chẳng công đâu may khỏi tội
Bao nhiêu chữ đó bấy nhiêu tâm (4)
Thật sắc hương gồm đủ, có nhưng nhị những danh thi truyền tụng xưa nay.
Tiên sinh có 1 nữ đồng chí tên Lê Thị Đàn, người xã Thế Lại Thượng, phủ Thừa Thiên. Năm canh tuất triều Duy Tân( 1910) bị thực dân bắt giam ở lao Quảng Trị, và bị tra tấn cực kỳ khủng khiếp, nhưng 1 lời không khai. Sau lấy giây lưng tuẫn nghĩa. Khi về an trí ở Bến Ngự (1925), Tiên sinh lập miếu thờ và truy tặng bà biệt hiệu là Ấu Triệu, khắc bia kỷ niệm và đề nơi miếu câu:
Tơ nhân sợi nghĩa giây lưng trắng
Dạ sắt lòng son nét máu hồng.
Văn chương tự nhiên nhưng hàm súc, mới xem dường lợt lạt nhưng càng ngẫm nghĩ càng cay đắng xót xa!
Những vần thơ khóc THÁI PHIÊN tuẫn quốc trong cuộc Duy Tân khởi nghĩa (1916) khóc NGUYỄN THÁI HỌC, NGUYỄN THI GIANG hy sinh trong cuộc hưng binh Yên Bái (1930), cũng là những viên bảo ngọc minh châu:
Trong vòng lồng chậu không chim cá,
Trước mặt non sông có đất trời
(Điếu Thái Phiên)
Mây mịt mù xanh trời vẫn hắc
Giọt chan chứa đỏ bể khôn bằng
(Lời cô  khóc cậu)
Ngại ngùng gió yếu mây trơ mực
Tức tối trời say máu úa đào.
(Lời chị khóc em)
Trong những bài văn tuyên truyền của tiên sinh cũng thường có nhiều câu nên thơ:
… Trải mấy lớp tiền nhân đựng mở
Bốn nghìn năm dãi gió dầm mưa
Biết bao công của người xưa
Gang sông tấc núi dạ dưa ruột tằm…
(Ai Quốc ca)
Than ôi lục tỉnh Nam Kỳ
Nghìn năm cơ nghiệp còn gì hay không?
Mịt mù một giả non sông
Ai ơi, ai có đau lòng chăng ai?
Từ phen lở đất nghiêng trời
Biển bơ vơ sóng, non rời rạc mây…
(Ai cáo Nam Kỳ phụ lão thư)
Chính những câu có sức truyền cảm như thế đã đánh mạnh vào tâm của người đọc, khiến họ trải lòng đón lấy những lời tuyên truyền để cho trí có thì giờ phân tách lẽ thiệt hơn.
Ngày tiên sinh đau nặng, sắp mất (1940), các bạn thân đến thăm. Cụ Huỳnh Thúc Kháng thay mặt thân bằng đọc bài sanh vãn. Tiên sinh cảm động khẩu chiếm “vài lời ghi nhớ để về sau”.
Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ,
Thiên hạ hà nhân bất thức quân.
Bảy mươi tư tuổi trót phong trần,
Nay gặp bạn mới tinh thần hoạt hiện.
Những ước anh em đầy bốn biển,
Ai ngờ trăng gió nhốt ba gian!
Sống xác thừa mà chết cũng xương tan,
Câu tâm sự gởi chim ngàn cá biển.
Mừng được đọc bài văn sinh vãn
Chữ đá vàng in mấy đoạn tâm can
Xét mình nay sức mỏng trí thêm khan,
Lấy gì đáp khúc đàn tri kỷ!
Dương dương hồ chí tại lưu thủy
Nga nga hồ chí tại cao sơn,
Đàn Bá Nha mấy kẻ thưởng âm?!
Bỗng nghe quạ khóc trộm lại đau thầm,
Chung Kỳ chết ném cầm không gảy nữa.
Nay đương lúc tử thần chờ trước cửa,
Có vài lời ghi nhớ để về sau…
Chức phường hậu tử tiến mau...
Rõ là:
Tằm xuân đến thác tơ còn vướng,
Nến sáp thành tro lệ chửa khô! (5)
Nói tóm lại: Phan Sào Nam tiên sinh tuy không lấy văn chương làm sự nghiệp, nhưng tác phẩm của tiên sinh để lại nếu ra công thu thập cả thi ca từ phú cũng có đến vài ba trăm bài. Có nhiều người suốt đời tận tụy cho thi ca, sự nghiệp cũng không hơn nổi. Và thi ca của tiên sinh tuy phần nhiều có ít tình, song phần lớn đều có biệt thú. Mà giá trị của thi ca chính ở phong phú, như lời của Viên Tử Tài và Dương Thành Trai, hai danh sĩ đời Thanh. Cho nên tôn xưng tiên sinh là Thi hào không phải vì đại danh của tiên sinh, mà vì thi nghiệp của tiên sinh vậy. 
Về thân thế và sự nghiệp văn chương cũng như cách mạng của tiên sinh đã nhiều sách báo nói đến. Nên lão chỉ đưa ra Vườn Hoa Thơ một ít giai tác và một ít thiển kiến để mua vui cùng bạn tri âm và để tạ lòng ông bạn đã có lòng chiếu cố.
Chú thích:
(1) Xem toan thiên trong bài A “Chuyện hoa trong ngày xuân”
(2) (3) Xem toàn thiên trong bài E “Thôi Xao” ở trước.
(4) Tờ Tiếng Dân do Huỳnh Thúc Kháng đứng chủ bút, Phan Sào Nam cộng tác.
(5) Dịch câu thơ của Lý Thương Ẩn:
Xuân tàm đáo tử ty phương tận
Lạp Cự thành khôi lệ vị càn.
Quách Tấn
Theo https://dinhquat.blogspot.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Những trường đại học của tôi 2XXX

Những trường đại học của tôi 2 Kèm theo lời nói, cánh tay trái lông lá của ông ta làm điệu bộ giống như chém vào không khí, còn tay phải t...