Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2024

Những trường đại học của tôi 2XXX

Những trường đại học của tôi 2

Kèm theo lời nói, cánh tay trái lông lá của ông ta làm điệu bộ giống như chém vào không khí, còn tay phải thì đút trong túi.

– Kịch sĩ. Có tiếng thì thầm trong góc, bên cạnh chỗ tôi ngồi.

– Đúng, rất giống ở rạp hát…

Trước đó không lâu tôi có đọc một cuốn sách hình như của Draper[51] nói về cuộc đấu tranh của Thiên Chúa giáo chống lại khoa học. Và tôi có cảm tưởng như người đang nói đây là một trong số những người tin một cách cuồng nhiệt vào khả năng có thể cứu vớt được thế giới bằng sức mạnh của tình yêu, những người vì lòng từ bi đối với mọi người mà sẵn sàng xả thịt họ ra và đem thiêu trên đống lửa.

Ông ta mặc một chiếc sơ mi trắng với hai ống tay rộng, khoác bên ngoài là một cái áo choàng đã cũ, xam xám. Điểm đó cũng khiến ông ta khác biệt với mọi người. Cuối bài thuyết giáo, ông ta la lên:

– Vậy các bạn đi theo Jesus hay Darwin?

Ông ta ném câu hỏi đó hệt như ném một hòn đá vào góc nhà, nơi đám thanh niên đang ngồi chen chúc, cũng là nơi những cặp mắt của các chàng trai cô gái đang nhìn ông với vẻ sợ hãi và vui sướng. Câu chuyện của ông ta có lẽ đã làm tất cả sửng sốt. Mọi người im lặng, cúi đầu đăm chiêu. Ông ta đảo mắt nhìn khắp lượt bằng cái nhìn nảy lửa và nói thêm bằng giọng nghiêm nghị:

– Chỉ có bọn Pharisee[52] mới toan kết hợp hai nguyên lí không thể dung hòa được với nhau ấy mà thôi. Và khi kết hợp hai nguyên lí ấy, chính chúng đã tự dối mình một cách đáng ô nhục, đồng thời dùng sự dối trá để làm hư hỏng mọi người…

Ông cố đạo bé nhỏ đứng dậy, cẩn thận hất hai ống tay áo ra sau, rồi bằng một giọng nhịp nhàng, vẻ lịch sự hiểm độc và một nụ cười khoan dung, lên tiếng:

– Ý kiến của ông về những người Pharisee có lẽ hơi tầm thường. Nó không những thô bạo, mà còn hoàn toàn sai lầm…

Tôi hết sức kinh ngạc thấy ông ta bắt đầu chứng minh rằng những người Pharisee là những người bảo vệ chân chính và trung thực di huấn của nhân dân Do Thái, rằng nhân dân đã luôn luôn đi theo họ để chống lại quân thù.

– Chẳng hạn hãy đọc Flavius Josephus[53]

Người theo chủ nghĩa Tolstoy đứng phắt dậy. Cánh tay vung cao như muốn chém nát và tiêu diệt Flavius, ông ta thét:

– Ngay bây giờ vẫn có những kẻ đi theo kẻ thù để chống lại bè bạn. Nhân dân không tự nguyện, họ bị người ta xua đuổi, cưỡng bức. Flavius của ông thì có nghĩa lí gì đối với tôi?

Ông cố đạo bé nhỏ và những người khác đã xé vụn vấn đề chủ yếu của cuộc tranh luận ra thành từng mảnh, vấn đề đó thế là biến mất.

– Chân lí và tình yêu. Người theo chủ nghĩa Tolstoy thét lên, cặp mắt ông ta ánh lên vẻ căm hờn và khinh bỉ.

Tôi cảm thấy mình như người say vì tiếng nói, không nắm được ý nghĩa những tiếng ấy nữa. Mặt đất đưới chân tôi như đu đưa trong cơn lốc của tiếng nói, và tôi thường thất vọng nghĩ rằng trên trái đất thật không có kẻ nào ngu ngốc và bất tài như tôi.

Người theo chủ nghĩa Tolstoy vừa lau mồ hôi trên khuôn mặt đỏ bừng vừa thét lên dữ tợn:

– Vứt sách Phúc âm đi, quên nó đi thì khỏi bị nó lừa! Cứ đem đóng đinh Jesus vào thánh giá một lần nữa đi! Như thế lại trung thực hơn!

Trước mặt tôi hiện lên một câu hỏi sừng sững như một bức tường: Làm sao đây? Nếu cuộc sống là một cuộc đấu tranh không ngừng cho hạnh phúc trên trái đất, vậy thì lòng nhân từ và yêu thương chẳng phải chỉ làm trở ngại cho thắng lợi của cuộc đấu tranh đó hay sao?

Tôi được biết tên của người đàn ông theo chủ nghĩa Tolstoy là Klopsky, biết cả chỗ ở của ông ta nữa,chiều hôm sau tôi bèn đến nhà ông ta. Ông ta sống nhờ nhà hai cô địa chủ. Khi tôi đến, ông đang ngồi với họ trong vườn, bên một chiếc bàn, dưới bóng một cây bồ đề cổ thụ. Ông ta mặc quần trắng, áo sơ mi cũng màu trắng phanh ra để lộ bộ ngực lông lá đen sì. Trông người ông ta dài thuồn thuỗn, cử chỉ vụng về, vẻ mặt khô khan, thật phù hợp với tưởng tượng của tôi về những đạo sĩ vô gia cư, những người đi truyền bá chân lí.

Ông ta cầm chiếc thìa bằng bạc múc phúc bồn tử với sữa ở đĩa lên, nuốt một cách ngon lành và chép chép cặp môi dày.

Cứ nuốt xong, ông ta lại thổi phù phù cho những giọt sữa trắng nhỏ li ti bắn khỏi hàng ria mép thưa như ria mèo. Hai cô gái, một cô đứng bên bàn đế phục dịch ông ta, cồ kia đứng tựa lưng vào thân cây bồ đề, hai tay khoanh trước ngực, mắt mơ màng nhìn lên bầu trời bụi bặm, nóng bức. Cả hai đều mặc áo dài mỏng màu tím và giống nhau đến nỗi gần như không thể phân biệt được.

Bằng một giọng dịu dàng và dễ dãi, ông ta nói với tôi về sức mạnh sáng tạo của tình yêu. Ông ta nói rằng cần phải làm nảy nở trong tâm hồn mình tình cảm đó cái duy nhất có khả năng “ràng buộc con người với tinh thần của thế giới”, với tình yêu tản mạn khắp mọi nơi trong cuộc sống.

– Chỉ có cái đó mới có thể ràng buộc được con người! Không yêu thì không thể hiểu được cuộc sống. Còn những kẻ nói quy luật của cuộc sống là đấu tranh, đó là những tâm hồn mù quáng, tất yếu sẽ bị diệt vong. Lửa không thể thắng được lửa thì sức mạnh của cái ác cũng không thể thắng được cái ác!

Khi hai cô gái ôm nhau và đi về phía ngôi nhà ở sâu trong vườn thì con người đó nheo mắt nhìn theo họ và hỏi tôi:

– Còn anh là ai?

Sau khi nghe tôi nói xong, ông ta gõ mấy ngón tay xuống mặt bàn, bắt đầu nói. Ông ta nói rằng con người ở đâu cũng vẫn là con người, và điều cần đạt tới không phải là thay đổi địa vị xã hội mà là giáo dục lòng yêu đối với mọi người…

– Con người ở địa vị càng thấp bao nhiêu thì càng gần với chân lí thật sự của cuộc sống, với sự sáng suốt khôn ngoan bấy nhiêu…

Tôi hơi hoài nghi sự am hiểu của ông ta về “sự sáng suốt khôn ngoan” ấy, nhưng tôi im lặng không nói. Tôi cảm thấy nói chuyện với tôi, ông ta có vẻ chán ngán. Ông ta nhìn tôi bằng cái nhìn như muốn xua đuổi, miệng ngáp, hai tay chắp sau gáy, chân duỗi thẳng, hai mắt nhắm nghiền vẻ mệt mỏi, miệng lẩm bẩm như đang mơ mơ màng màng:

– Phục tùng tình yêu… Quy luật của cuộc sống…

Giật mình, hai tay khua khua như muốn nắm lấy vật gì trong khồng khí, ông ta hoảng hốt nhìn chằm chằm vào tôi:

– Cái gì thế? Xin lỗi, tôi mệt quá!

Ông ta lại nhắm mắt, và, như đang cơn đau, ông ta nghiến chặt răng, hai hàm răng nhe ra. Môi dưới của ông ta trễ xuống, môi trên vểnh lên, những sợi ria mép thưa thớt xanh xanh dựng đứng.

Tôi ra về, đem theo lòng ác cảm đối với con người đó và mối hoài nghi lờ mờ về sự thành thực của ông ta.

Mấy hôm sau, một buổi sáng khi tôi đem bánh mì đến cho khách quen một ông phó giáo sư sống độc thân và rất nát rượu tôi lại gặp Klopsky. Chắc hẳn suốt đêm ông ta không ngủ, da nâu sạm, cặp mắt đỏ ngầu và sưng húp. Tôi có cảm tưởng như ông ta đang say rượu. Ông phó giáo sư to béo say khướt, mặc đồ lót, tay cầm cây đàn ghi ta, ngồi trên sàn nhà giữa đống bàn ghế, chai rượu và quần áo bẩn. Ông ta ngồi lắc lư, miệng la:

– Lòng nhân… nhân từ…

Klopsky thét, giọng gay gắt và giận dữ:

– Không có lòng nhân từ! Chúng ta sẽ chết mục vì tình yêu hoặc sẽ bị nghiến bẹp trong cuộc đấu tranh cho tình yêu tất thảy đều như nhau cả: số chúng ta phải chết…

Ông ta nắm lấy vai tôi, dẫn tôi vào phòng và nói với ông phó giáo sư:

– Đây, thử hỏi anh này xem anh ta muốn gì? Hỏi xem: Anh ta có cần tình yêu đối với mọi người không?

Ông phó giáo sư nhìn tôi bằng cặp mắt nhòa lệ và cười:

– Anh ấy là người bán bánh mì! Tôi còn nợ tiền anh ta.

Ông ta lảo đảo, thọc tay vào túi, rút ra một chiếc chìa khóa và đưa cho tôi:

– Đấy, lấy cả đi!

Nhưng ông theo chủ nghĩa Tolstoy đã đỡ lấy chiếc chìa khóa ở tay ông phó giáo sư và phẩy tay bảo tôi:

– Đi đi! Sau hãy lấy tiền.

Nói rồi ông ra cầm những cái bánh mì có nhân của tôi quẳng lên chiếc đi văng ở góc nhà.

Ông ta không nhận ra tôi, và điều đó làm tôi thấy dễ chịu. Ra về, tôi mang theo trong tâm trí những lời nói về cái chết do tình yêu của ông ta và mang trong lòng một nỗi chán ghét đối với ông ta.

Ít lâu sau, tôi nghe nói ông ta tỏ tình với một trong hai cô gái chủ nhà nơi ông ta ở, và ngay hôm đó cũng tỏ tình với cô kia. Hai chị em tâm sự với nhau, và niềm vui sướng đã biến thành nỗi tức giận chống lại tình nhân. Họ nhắn người quét sân bảo ông đạo sĩ ái tình ấy lập tức cuốn gói ngay khỏi nhà họ. Từ đó ông ta biến mất khỏi thành phố.

Ý nghĩa của tình yêu và lòng nhân từ trong cuộc sống một vấn đề đáng sợ và phức tạp đã xuất hiện trước mắt tôi rất sớm. Thoạt đầu nó xuất hiện trong tâm hồn tôi dưới hình thức một cảm giác lờ mờ nhưng sâu sắc về mối bất hòa; sau đó trở nên rõ rệt, dứt khoát, rõ ràng: “Vai trò của tình yêu như thế nào?”

Tất cả những điều tôi đã đọc đều chứa đầy tư tưởng của Cơ Đốc giáo, của chủ nghĩa nhân đạo cùng những lời kêu gào lòng thương hại. Cuộc sống đã mở ra trước mắt tôi như một sợi dây xích vô tận của sự thù địch và tàn bạo như một cuộc tranh chấp liên tục và bẩn thỉu nhằm đoạt lấy những vật nhổ mọn. Riêng tôi, tôi chỉ cần có sách vở, tất cả những cái khác đều không có ý nghĩa gì dưới con mắt tôi.

Chỉ cần bước ra phố và ngồi ở cổng một giờ đồng hồ là đủ hiểu rằng tất cả những con người đó những người đánh xe ngựa, quét sân, thợ thuyền, viên chức, nhà buôn tất thảy đều sống khác tôi và những người mà tôi yêu mến, họ mong muốn những cái khác, họ theo đuổi mục đích khác. Còn những người mà tôi kính trọng và tin tưởng thì lại cô độc, xa lạ một cách kì quái. Họ như những người thừa sống giữa thiên hạ, giữa công việc bẩn thỉu và ranh mãnh của đàn kiến cần cù xây đắp cái tổ cuộc sống. Cuộc sống đó đối với tôi hoàn toàn ngu xuẩn và buồn tẻ đến chết được. Đã nhiều lần tôi nhận thấy rằng người ta chỉ nhân đức và giàu tình thương trong lời nói mà thôi, còn trên thực tế thì họ phục tùng cái trật tự chung của cuộc sống mà chính họ cũng không nhận thấy.

Tôi cảm thấy rất khó sống.

Một hôm chàng bác sĩ thú y Lavrov, người vàng bủng và sưng húp vì bệnh phù, vừa thở vừa bảo tôi:

– Phải tàn nhẫn hơn nữa, cho thiên hạ khổ sở vì nó, cho mọi người không thể chịu đựng được nó nữa, giống như cái mùa thu đáng nguyền rủa này này!

Lúc đó là đầu mùa thu, một mùa thu mưa rét, đầy bệnh tật và những vụ tự tử. Lavrov cũng tự đầu độc bằng kali xyanua, anh không muốn đợi đến khi bệnh phù giết chết anh.

– Chữa cho súc vật, rồi lại chết như súc vật! Bác thợ may Mednikov, chủ nhà của chàng bác sĩ thú y, nói trong lúc đi đưa đám anh ta.

Bác gầy gò, mộ đạo, thuộc tất cả những bài hát ca ngợi Đức Mẹ. Bác hay đánh con cái một đứa con gái lên bảy và một thằng con trai mười một tuổi học trung học bằng roi da chập ba, còn vợ thì bác dùng gậy tre đánh vào hai bắp chân.

Bác thường than thở:

– Quan tòa quở trách tôi là bắt chước cái lối đó của người Trung Quốc, nhưng suốt đời tôi chưa hề thấy người Trung Quốc bao giờ, ngoài những hình vẽ trên các tấm biển và các bức tranh.

Một trong số những thợ làm của bác ta có biệt danh là “chồng mụ Dunka” một người lúc nào cũng rầu rĩ, hai chân thì cong đã nói về ông chủ của mình như sau:

– Tôi rất sợ những kẻ đã thơn thớt đầu lưỡi lại còn mộ đạo! Người nóng tính thì thấy ngay, và ta luôn luôn có thời giờ để lẩn tránh họ, còn kẻ thơn thớt đầu lưỡi thì họ trườn lên người anh, vừa xảo trá vừa lén lút, tựa như một con rắn nham hiểm trườn trên bãi cỏ rồi bất thình lình cắn vào chỗ sơ hở nhất của tâm hồn anh. Tôi sợ những kẻ thơn thớt đầu lưỡi lắm…

Trong những lời của “chồng mụ Dunka” một gã ton hót mềm mỏng, ranh mãnh, được Mednikov yêu mến có phần nào sự thật.

Đôi khi tôi cảm thấy những người ăn nói ngọt ngào cũng giống như những đám rêu; họ làm cho trái tim đá của cuộc sống tơi, mềm và thêm màu mỡ. Nhưng thường thường, trong khi quan sát rất nhiều người như vậy, nhìn sự thích ứng khéo léo của họ đối với những điều đê tiện cùng tính dễ thay đổi và thiếu kiên định của tâm hồn và những lời than vãn dai dẳng nghe như tiếng muỗi kêu, tôi thấy mình giống một con ngựa bị buộc chân đứng giữa đám ruồi trâu.

Đó là những điều tôi đã nghĩ lúc ở nhà lão cảnh sát đi ra.

Gió rít, những ngọn đèn đường run rẩy, có cảm giác như bầu trời đen xám đang rung động và rắc xuống mặt đất những hạt mưa tháng Mười lâm râm như bụi. Một ả gái điếm ướt lướt thướt kéo một anh chàng say rượu đi trên phố. Ả nắm tay anh ta, vừa kéo vừa giật, còn anh chàng thì lẩm bẩm điều gì đó và nức nở. Người đàn bà nói, giọng khàn khàn và mệt mỏi:

– Cái số của anh nó như thế…

“Đó!” Tôi nghĩ. “Mình cũng đang bị một người lôi đi đẩy vào những xó xỉnh ghê tởm và chỉ cho mìnhxem những cái bẩn thỉu, buồn rầu và đủ thứ người kì quặc. Cái đó làm mình mệt nhoài cả người.”

Có thể không hẳn là tôi nghĩ đúng những lời đó, nhưng quả ý nghĩ ấy đã bùng lên trong óc tôi. Chính vào buổi tối buồn bã đó, lần đầu tiên tôi cảm thấy sự mệt mỏi của tâm hồn, cảm thấy như trong tim tôi có một đám mốc ăn mòn. Từ giờ phút đó trở đi tôi bắt đầu thấy mình ngày một tồi hơn. Tôi bắt đầu nhìn minh với cặp mắt của người đứng ngoài, cặp mắt lạnh nhạt, xa lạ và thù địch.

Tôi nhận thấy hầu như trong mỗi người đều có sự kết hợp vụng về và lộn xộn của những mâu thuẫn, không những trong lời nói và hành động, mà cả trong tình cảm nữa. Trò đùa kì quái của những mâu thuẫn trong tình cảm đó đặc biệt đè nặng lên tôi. Tệ hơn nữa, ngay cả tâm hồn tôi cũng cảm nhận được trò đùa ấy. Tôi bị lôi kéo về mọi phía: đàn bà và sách vở, công nhân và giới sinh viên vui nhộn. Nhưng tôi chưa kịp tiến về phía nào cả, cứ sống “nay đây mai đó”, quay tít như một con quay. Và một cánh tay vô hình, nhưng rất khỏe, đã dùng một chiếc roi vô hình quất vào người tôi, làm bỏng rát cả da thịt.

Nghe nói Yakov Shaposhnikov phải vào nằm nhà thương, tôi bèn đi thăm anh ta. Nhưng đến đó, một mụ đàn bà to béo, méo mồm, đeo kính và trùm khăn trắng để thò ra hai cái tai đỏ như bị luộc chín, bảo tôi bằng một giọng khô không khốc:

– Chết rồi.

Thấy tôi không rời đi mà lại cứ đứng lì ra, mụ cáu tiết thét:

– Sao, còn muốn gì nữa?

Tôi cũng nổi xung:

– Mụ là đồ ngốc.

– Nikolai! Đuổi nó đi!

Nikolai đang dùng giẻ lau những sợi dây đồng. Hắn thét lên một tiếng và lấy một sợi quấn vào lưng tôi. Tôi bèn ôm lấy hắn, đem ra đường và đặt vào vũng nước cạnh cửa nhà thương. Thái độ của hắn đối với việc đó có vẻ bình thản. Hắn ngồi một phút không nói gì, hai mắt tròn xoe nhìn tôi, sau đó đứng dậy và bảo:

– Hừ, mày là đồ chó má!

Tôi đi đến vườn Derzhavin, ngồi xuống chiếc ghế dài bên cạnh bức tượng nhà thơ. Tôi cảm thấy rất muốn làm một việc gì độc ác, xấu xa, khiến cho nhiều người phải xông đến đánh tôi, để tôi có quyền đánh họ. Nhưng mặc dầu là ngày lễ, trong vườn rất vắng và xung quanh không có một bóng người. Chỉ có giólồng lộn, xua đuổi những chiếc lá khô và làm tờ quảng cáo bị bong bay phần phật trên cột đèn.

Hoàng hôn trong vắt, lạnh lẽo bao trùm khu vườn. Bức tượng đồng sừng sững trước mắt tôi. Nhìn bức tượng, tôi nghĩ: Một con người cô đơn đã từng sống trên trái đất này đó là Yakov, con người đó đã dùng tất cả sức mạnh của tâm hồn để tiêu diệt Chúa và đã chết một cách bình thường, rất bình thường! Trong điều đó có cái gì rất nặng nề, rất đáng giận.

“Còn Nikolai chỉ là một thằng ngốc. Đáng lẽ hắn phải đánh nhau với tôi hoặc gọi cảnh sát giải tôi về đồn…”

Tôi đến chỗ Rubtsov. Bác ta đang ngồi trước một ngọn đèn nhỏ, bên cạnh cái bàn trong căn buồng chật hẹp như cũi chó, đang vá áo.

– Yakov chết rồi.

Ông già giơ bàn tay cầm kim khâu lên, có lẽ định làm dấu thánh, nhưng rồi chỉ xua tay, luồn sợi chỉ và khẽ văng tục.

Sau đó bác càu nhàu:

– Tựu trung thì tất cả chúng ta rồi cũng sẽ chết, đó là cái lệ thường ngu xuẩn. Đúng như thế đấy, chú mình ạ! Anh ta thế là chết rồi. Ở đây có một lão làm nghề đúc xanh chảo, lão ta cũng đi tong rồi. Mới chủ nhật trước thôi, bọn cảnh binh bắt lão. Guri đã giới thiệu bác với lão ta. Thật là một tay thông minh! Lão có qua lại ít nhiều với bọn sinh viên. Cháu có nghe nói gì không? Bọn sinh viên nổi loạn, có đúng thế không? Này, khâu hộ bác cái áo một tí, bác chẳng nhìn thấy quỷ gì cả…

Bác đưa cho tôi cái áo rách tã cùng cái kim đã xâu chỉ, còn bác thì chắp hai tay sau lưng, bắt đầu đi lại quanh phòng. Vừa đi bác vừa ho và càu nhàu:

– Ngọn lửa nhỏ lúc thì bùng lên ở chỗ này, lúc thì bùng lên ở chỗ kia. Nhưng bị quỷ sứ thổi tắt hết, và cảnh buồn tẻ trở lại. Thành phố này là một thành phố bất hạnh. Ta phải đi khỏi đây trong lúc tàu thủy hãy còn chạy được.

Bác dừng lại, gãi đầu và hỏi:

– Nhưng đi đâu cơ chứ? Chỗ nào cũng đến rồi. Phải, đâu cũng đi rồi, và cơ thể cũng tàn tạ rồi.

Bác nhổ nước bọt và nói thêm:

– Cuộc sống như thế đấy, chó má thật! Sống mãi, sống mãi, nhưng cả thể xác lẫn tâm hồn đều chẳng thu nhận được cái gì…

Bác im lặng, đứng trong góc nhà cạnh cửa ra vào như nghe ngóng điều gì. Sau đó bác bước lại phía tôi với một dáng điệu cương quyết và ngồi lên mép bàn.

– Aleksej Maksimich của bác, bác nói với cháu điều này nhé: Yakov đã sử dụng một cách vô ích trái tim lớn của mình vào việc chống lại Chúa. Dù là Chúa hay Nga hoàng thì cũng đều không thể trở nên tốt hơn được nếu như bác phản đối họ. Điều cần làm là làm sao cho mọi người biết tự giận mình và vứt bỏ cái cuộc sống đê tiện của mình đi. Như thế đói Ôi, bác già rồi, muộn mất rồi, chẳng bao lâu nữa bác sẽ mù hẳn. Khổ quá, chú mình ạ! Khâu xong rồi à? Cảm ơn… Ta ra quán uống chén trà đi…

Trên đường đến quán, bị vấp trong bóng tối, bác nắm lấy vai tôi, miệng lẩm bẩm:

– Hãy nhớ lấy lời bác: Người ta không chịu đựng mãi đâu, đến một lúc nào đó họ sẽ nổi giận và sẽ bắt đầu phá hết họ sẽ đập nát tất cả những cái nhỏ nhen của họ thành tro bụi cho mà xem! Họ không chịu đựng mãi đâu…

Chúng tôi không đến quán vì giữa đường gặp một tốp thủy thủ đang bao vây một nhà thổ. Ớ cổng vào có công nhân của xưởng Alafuzov canh giữ.

– Ngày lễ nào ở đây cũng có đánh nhau! Rubtsov nói, vẻ hài lòng, bác tháo kính ra và khi nhận thấy trong số những người bảo vệ ngôi nhà có cả các bạn đồng nghiệp của mình, bác liền tham gia ngay vào trận chiến, miệng hò hét cổ vũ. Xưởng ta đâu, giữ vững hàng ngũ nhé! Hãy đè bẹp lũ ếch nhái ấy đi! Bắt lấy con cá chép này! Ê… ê!

Thật lạ lùng và buồn cười khi thấy ông già thông minh ấy hành động với vẻ say sưa và nhanh nhẹn như vậy. Bác len vào đám thủy thủ tàu sông, gạt những nắm tay của họ ra và lấy vai thúc ngã họ. Những người đang đánh nhau không có vẻ gì là giận dữ, đánh nhau một cách vui vẻ, để phô trương sự dũng mãnh và dư sức của mình. Đám người đen sì chen chúc ở trước cổng, dồn anh em công nhân vào đó. Tiếng gỗ gãy răng rắc. Những tiếng hét sôi nổi vang lên.

– Đánh cái tên tướng hói đầu kia đi!

Có hai người leo lên mái nhà, và từ trên đó họ cất tiếng hát một bài nhịp nhàng, hùng mạnh:

Chúng tôi không phải kẻ trộm, kẻ bịp bợm, kẻ cướp

Chúng tôi là những thủy thủ, những người đánh cá!

Tiếng còi cảnh sát rít lên, trong bóng tối lấp lánh những chiếc khuy đồng. Dưới chân bùn nước lép nhép. Nhưng từ trên mái nhà tiếng hát vẫn vang lên:

Chúng tôi quãng lưới dọc theo hai bờ khô cạn

Quãng lưới vào các hiệu buôn, các kho thóc, kho đồ.

– Khoan, không được đánh những người đã ngã…

– Ông nội ơi, cẩn thận đấy!

Một lúc sau, Rubtsov, tôi và năm người nữa cả thù lẫn bạn bị giải về đồn. Bóng tối tĩnh mịch của đêm thu tiễn chúng tôi với những tiếng hát hùng mạnh:

Ôi, chúng tôi tóm được bốn chục chú cá măng

Có thề đem về khâu áo da để mặc!

– Những con người trên sông Volga thật tốt biết bao! bác Rubtsov nói với vẻ khâm phục.

Bác xì mũi, khạc nhổ không ngớt và thì thầm bảo tôi: “Cháu trốn đi! Tìm dịp mà trốn! Cháu bò vào đồn này làm gì?”

Tôi, và theo sau tôi là một chàng thủy thủ nào đó cao lêu nghêu, chạy bổ vào một cái ngõ, nhảy qua một hàng rào, rồi một hàng rào nữa. Và từ đêm đó tôi không bao giờ gặp lại Nikita Rubtsov thông minh và yêu quý nhất của tôi nữa.

Quanh tôi trở nên vắng vẻ. Những phong trào phản đối của sinh viên bắt đầu nổ ra. Ý nghĩa của những phong trào ấy tôi không hiểu, duyên cớ vì sao tôi cũng không rõ. Tôi chỉ nhìn thấy những cảnh nhốn nháo vui mắt mà không cảm nhận được những tấn bi kịch ở bên trong. Và tôi đã nghĩ rằng vì cái diễm phúc được học tập ở trường đại học, tôi có thể chịu đựng được ngay cả những sự hành hạ, Giả sử nếu như người ta bảo tôi: “Cho mày đi học đấy, nhưng muốn thế mỗi Chủ nhật mày phải để chúng tao lấy gậy đánh cho mày một trận ở giữa quảng trường Nikolayevskaya!” có lẽ tôi cũng nhận điều kiện ấy.

Đến xưởng bánh mì của Semyonov, tôi nghe nói anh em công nhân sắp sửa đi tới trường đại học để đánh anh em sinh viên.

– Chúng ta sẽ dùng tạ để nện! Họ nói với vẻ ác ý đầy sảng khoái.

Tôi liền tranh luận, cãi nhau với họ. Nhưng bỗng chốc tôi cảm thấy, gần như với một nỗi khiếp sợ, rằng tôi không có ý muốn, không đủ lời để bảo vệ anh em sinh viên.

Tôi còn nhớ, tôi bước ra khỏi căn hầm như một người bị đánh đến tàn tật, với một nỗi buồn không sao dập tắt nổi, một nỗi buồn đủ sức giết chết con người ta.

Đêm hôm ấy tôi ngồi trên bờ sông Kaban. Vừa nhặt đá ném xuống dòng nước đen ngòm, tôi vừa suy nghĩ và nhắc đi nhắc lại mãi mấy tiếng:

“Ta làm gì đây?”

Vì buồn, tôi bắt đầu học kéo vĩ cầm. Đêm đêm tôi kéo đàn trong cửa hàng, làm cho người gác đêm và đàn chuột bị quấy rầy. Tôi thích âm nhạc và bắt đầuhọc nhạc rất say mê. Nhưng một hôm, trong lúc tôi ra ngoài, thầy giáo một tay kéo vĩ cầm trong dàn nhạc nhà hát đã mở két tiền mà tôi không khóa. Khi trở vào, tôi thấy hai túi anh ta nhét đầy những tiền. Nhìn thấy tôi ở cửa, anh ta vươn cổ, giương bộ mặt chán ngắt, nhẵn nhụi về phía tôi và nói khẽ:

– Này, đánh đi!

Cặp môi anh ta run run; từ hai con mắt trắng đã lăn ra những giọt nước mắt nhờn như dầu và to một cách kì lạ.

Tôi muốn nện cho anh chàng kéo vĩ cầm ấy một trận. Để khỏi làm điều đó, tôi ngồi thụp xuống sàn nhà, giấu hai nắm đấm xuống dưới đùi và ra lệnh cho anh ta trả tiền vào két. Anh ta lôi hết tiền ở túi ra và đi ra cửa. Nhưng rồi anh ta dừng lại và nói bằng một giọng cao vút nghe khủng khiếp và rất ngu xuẩn:

– Cho tôi xin mười rúp!

Tôi cho anh ta tiền, nhưng bỏ không học vĩ cầm nữa.

Đến tháng Chạp thì tôi quyết định tự tử. Tôi đã thử mô tả lí do của quyết định này trong truyện ngắn Một chuyện xảy ra trong cuộc đời Makar. Nhưng tôi đã không thành công: Câu chuyện vụng về, kém hấp dẫn và thiếu sự chân thực nội tại. Theo tôi, chính việc hoàn toàn thiếu chân thực ấy là một ưu điểm của nó. Những sự kiện là có thực, nhưng dường như không phải tôi giải thích những sự kiện ấy, và câu chuyện có vẻ không phải nói về tôi. Nếu không kể đến giá trị văn học, đối với tôi câu chuyện đó vẫn khá thú vị: Dường như tôi đã có thể tự chế ngự được bản thân mình.

Chú thích

[24] Pisarev (1840-1868), nhà phê bình và nhà dân chủ cách mạng người Nga.

[25] Cuốn sách của nhà bác học và nhà hoạt động chính trị nổi tiếng người Nga Aleksej Nikolaevich Bakho (1857-1946), viết năm 1883.

[26] Một đảng phái chính trị của giai cấp tiểu tư sản Nga. Phái này kêu gọi nông dân chống lại chính phủ Nga hoàng, chủ trương cải trang thành nông dân để đi xuống nông thôn, “đi vào quần chúng”. Vì vậy gọi là phái dân túy. Nhưng họ không thực hiểu rõ đời sống của nông dân, nông dân không đi theo họ. Vào những năm 90 của thế kỉ XIX, phái dân túy đi vào con đường thỏa hiệp với Nga hoàng, đại diện cho lợi ích của giai cấp phú nông, điên cuồng chống chủ nghĩa Marx.

[27] Herzen (1812-1870), nhà dân chủ cách mạng người Nga, nhà lí íuận và nhà văn.

[28] Darvvin (1809-1882), nhà sinh vật học người Anh.

[29] Garibaldi (1807-1882), anh hùng dân tộc của Ý.

[30] Tác phẩm của nhà triết học Đức Arthur Schopenhauer (1788-1860).

[31] Người Ukraina (theo cách gọi khinh miệt của người Nga thời Nga hoàng).

[32] Một vai trong vở nhạc kịch Rigoletto của Giuseppe Verdi.

[33] Những nhân vật phụ nữ trong tác phẩm của các nhà văn Ý và Pháp.

[34] Một trào lưu tư tưởng ở Nga, chủ trương “không nên dùng bạo lực để chống lại cái ác”, phủ nhận chính trị, dùng “đạo đức để hoàn thiện con người” thay thế cho đấu tranh giai cấp.

[35] Một thuyết sinh vật học duy tâm xuất hiện cuối thế kỉ XIX, chủ trương cơ năng của sinh vật là do một hoạt lực nào đó sản sinh ra chứ không phải do vật chất.

[36] Ngày thứ bảy trong tuần, người Do Thái dành để nghỉ ngơi và cầu nguyện.

[37] Đơn vị đo chiều dài của Nga bằng 0,711 mét.

[38] Cuối những năm 90 tôi thấy một tạp chí khảo cổ học đăng tin hai ngựời Nga đã đào được một kho của: một xoong tiền Ả Rập (Chú thích của tác giả).

[39] Những loại bánh khác nhau.

[40] Một bộ tộc Mông cổ sống ở Nga.

[41]Theo Kinh thánh, nữ hoàng Sheba nghe tiếng vua Solomon, đã đem lạc đà chở hương liệu, đá quý và vàng bạc đến gặp Solomon để giãi bày nỗi lòng của mình.

[42] Versta - một dặm Nga, bằng 1,06 km.

[43] Một đơn vị đo chiều dài của Nga, bằng 2,13 m.

[44] Nhóm Ý dân là một tổ chức bí mật của phái dân túy, thành lập năm 1879. Nhóm này chủ trương khủng bố cá nhân, đã từng hai lần mưu sát Nga hoàng, Plekhanov trước đây có tham gia vào nhóm Ý dân, năm 1880 ông ra nước ngoài tiếp thu chủ nghĩa Marx và cắt đứt quan hệ với nhóm Ý dân, bắt đầu dùng lí luận của chủ nghĩa Marx tiến hành cuộc đấu tranh kiên quyết chống lại phái dân túy. Cuốn sách Những ý kiến bất đồng giữa chúng ta do ông viết năm 1885.

[45] Những đường hẩm dài và hẹp dưới lòng đất, dùng làm nơi ẩn náu khỏi sự truy nã, nơi hành lễ và nơi chôn cất người chết của các tín đồ Thiên Chúa giáo những thế kỉ đầu.

[46] Generalov và A. I. Ulyanov (anh ruột V. I. Lenin) là những sinh viên của trường đại học Petersburg, những người thuộc nhóm Ý dân đã tham gia vào vụ mưu sát Nga hoàng Alexander III, bị xử tử ngày 08/5/1887.

[47] N. E. Fedoseev (1871-1898), một trong những nhà cách mạng theo chủ nghĩa Marx đầu tiên ở nước Nga, sau này ông đã sáng lập ra nhóm Marxist ở Kazan, trong đó có Lenin tham gia.

[48] Vị vua đầu tiên của nước Nga chính thức xưng Sa hoàng. Vị Nga hoàng này được gọi là Ivan Bạo chúa hay Ivan Hung Đế vì những việc làm độc ác và tàn bạo.

[49] Bebel (1840-1913), một trong những người lãnh đạo Đảng Xã hội Dân chủ Đức và Đệ nhị Quốc tế, đã từng làm thợ mộc.

[50] Một loại đồ uống lên men của Nga.

[51] Draper (1811-1882), nhà hóa học, sinh học kiêm sử học người Anh

[52] Những người Pharisee là những người thuộc một giáo phái của nước Do Thái cổ đại, phần lớn xuất thân từ tầng lớp thành thị giàu có, họ là những người ngụy thiện và khinh thường quẩn chúng nhân dân.

[53] Flavius Josephus (khoảng 37-95), nhà sử học và nhà hoạt động chính trị người Do Thái.

PHẦN III

Tôi mua ở chợ một khẩu súng lục của người đánh trống đã nạp sẵn bốn viên đạn. Tôi tự bắn vào ngực, định bắn trúng tim, nhưng viên đạn chỉ xuyên qua phổi. Một tháng sau, tôi rất ngượng, thấy mình ngu xuẩn đến cực độ, tôi lại đến làm việc ở hiệu bánh mì.

Nhưng làm ở đấy không được bao lâu, tới cuối tháng Ba, vào một buổi chiều, khi từ lò bánh mì đi tới cửa hiệu, tôi trông thấy Khokhol trong phòng của cô bán hàng. Anh ta ngồi trên một chiếc ghế cạnh cửa sổ, hút điếu thuốc lá to với vẻ đăm chiêu, mắt chăm chú nhìn đám khói.

– Anh có rỗi không? Anh ta không chào mà hỏi thẳng tôi.

– Rỗi độ hai mươi phút thôi.

– Mời anh ngồi xuống đây, chúng ta nói chuyện với nhau một lát.

Như mọi khi, anh mặc chiếc áo bằng loại vải “bao tải” bó chặt lấy người, bộ râu vàng óng buông thõng xuống bộ ngực nở, trên vầng trán bướng bỉnh nhô ra một mớ tóc cứng cắt ngắn, chân đi đôi ủng nặng nề kiểu bần nông, từ đôi ủng tỏa ra mùi si nồng nặc.

– Này! Anh ta nói khe khẽ, vẻ bình thản. Anh có muốn đến chỗ tôi ở không? Tôi ở làng Krasnovidovo cách đây bốn mươi nhăm versta xuôi theo dòng sông Volga. Tôi có một cửa hiệu nhỏ ở đó, anh sẽ giúp tôi trong việc buôn bán, việc này làm anh mất một chút ít thì giờ thôi. Tôi có nhiều sách hay, tôi sẽ giúp anh học tập. Anh đồng ý chứ?

– Vâng.

– Tới thứ sáu này, vào lúc sáu giờ sáng mời anh đến bến tàu Kurbatov, hỏi thăm chiếc thuyền từ Krasnovidovo tới, chủ thuyền là Vassili Pankov. Tuy vậy, tôi sẽ có mặt ở đó và đón anh. Thôi, tạm biệt!

Anh ta đứng dậy, chìa bàn tay to lớn ra bắt tay tôi, còn tay kia rút từ túi áo ngực ra chiếc đồng hồ quả quýt bằng bạc nặng trình trịch và nói:

– Chúng ta đã kết thúc câu chuyện trong vòng sáu phút! À, tên tôi là Mikhailo Antonovich, họ là Romass. Như thế nhé.

Anh bước ra khỏi cửa, không hề ngoái lại, bước đi có vẻ rắn chắc, thân hình cường tráng nặng như đúc ấy di chuyển một cách nhẹ nhàng.

Hai ngày sau tôi đi thuyền tới Krasnovidovo.

Băng trên sông Volga vừa bắt đầu tan, trên mặt sông những tảng băng lớn lởm chởm màu xám bập bềnh trôi theo dòng nước đục. Chiếc thuyền vượt lên trước những tảng băng, băng cọ sát vào mạn thuyền kêu ken két và bị phá tan ra thành những tinh thể nhọn hoắt. Một làn gió từ thượng nguồn thổi về như nô đùa, xua lớp sóng vào bờ. Ánh mặt trời lấp lánh làm lóa mắt, những chùm tia sáng nhỏ sáng loáng phản chiếu từ phía sườn những tảng băng màu xanh nhạt như thủy tinh. Chiếc thuyền chất đầy thùng gỗ lớn, bao tải, hòm gỗ đang căng buồm chạy. Trên bánh lái là chàng bần nông trẻ tuổi Pankov, mặc chiếc áo sang trọng bằng da cừu thuộc trên ngực có thêu một dải nhỏ nhiều màu.

Khuôn mặt anh trầm tĩnh, cặp mắt trông có vẻ lạnh lùng, tính anh lặng lẽ và ít giống một bần nông. Kukushkin, một cố nông của Pankov, cầm chiếc sào có móc ở đầu, đứng dạng chân phía mũi thuyền. Đó là một cố nông xấu xí, đầu tóc rối bù, mặc chiếc áo rách rưới, thắt dây thừng ngang lưng, đầu đội chiếc mũ nhàu nát kiểu cố đạo, khuôn mặt đầy vết tím bầm và sây sát. Anh lấy chiếc sào dài đẩy những tảng băng, miệng chửi rủa với giọng khinh miệt:

– Tránh ra… Bò đi đâu đấy…

Tôi cùng Romass ngồi dưới cánh buồm, trên những chiếc hòm, anh nói khẽ với tôi:

– Những bần nông không thích tôi, nhất là bọn phú nông! Cả anh nữa, rồi cũng sẽ bị họ ghét như vậy.

Kukushkin đặt chiếc sào dưới chân, ngang mạn thuyền, rồi quay khuôn mặt tàn tật về phía chúng tôi và nói với vẻ thích thú:

– Nhất là ông cố đạo, Antonich ạ, ông ta không thích anh đâu…

– Đúng thế. Pankov xác nhận.

– Đối với hắn, con chó đốm ấy, anh dường như một miếng xương mắc trong cuống họng!

– Nhưng tôi cũng có bè bạn, và họ cũng sẽ là bạn của anh. Khokhol nói tiếp.

Trời lạnh. Nắng tháng Ba còn rất dịu. Trên bờ sông những cành cây trụi lá đen sẫm đu đưa, ở một đôi nơi trong các khe và dưới những bụi cây trên bờ sông dốc còn sót lại những đám tuyết mịn như nhung. Khắp mặt sông là những tảng băng giống như một đàn cừu trắng đang ăn cỏ. Tôi cảm thấy mình như đang sống trong một giấc mơ.

Kukushkin vừa nhồi thuốc vào tẩu vừa triết lí:

– Anh không phải là vự lão cha cố ấy, điều đó thì khá rõ rồi. Nhưng việc của hắn là phải yêu mến chúng sinh, điều ấy đã ghi rõ trong sách, có phải thế không?

– Thế ai đã đánh anh? Romass mỉm cười hỏi.

– Lũ đốn mạt nào đó, chắc là bọn kẻ cắp. Kukushkin nói với vẻ khinh bỉ. Sau đó anh nói tiếp với giọng kiêu hãnh. Không, không phải thế, có một hồi bọn pháo thủ đã đánh tôi, chuyện đó có thật! Tôi cũng không hiểu rõ tại sao tôi còn sống sót đến ngày nay nữa.

– Vì sao họ đánh anh? Pankov hỏi.

– Anh định hỏi chuyện hôm qua hay là chuyện bọn pháo thủ?

– Phải, hôm qua ấy?

– Hừm, làm sao có thể hiểu được người ta đánh vì tội gì? Dân địa phương chúng tôi giống như những con dê, hơi một tí là húc luôn! Họ coi chuyện đánh nhau như cơm bữa ấy.

– Tôi nghĩ rằng… Romass nói.”… Họ đánh anh vì tội lắm mồm, anh ăn nói thiếu thận trọng.

– Có lẽ thế! Tính tôi hay tò mò, có thói quen cái gì cũng hỏi. Hễ nghe được chuyện gì mới là tôi vui mừng không thể tả được.

Mũi thuyền đụng mạnh vào một tảng băng, hai bên mạn thuyền nghe ào ào rất dữ tợn. Kukushkin lảo đảo nắm vội chiếc sào. Pankov nói vẻ trách móc:

– Anh hãy để ý tới công việc một chút, Stepan ạ!

– Anh cũng đừng nói chuyện với tôi nữa! Kukushkin vừa đẩy những tảng băng ra vừa lẩm bẩm. Tôi không thể cùng một lúc vừa làm công việc của mình vừa nói chuyện với anh…

Họ tranh cãi không có vẻ gì giận dữ. Romass nói với tôi:

– Ruộng đất ở đây xấu hơn so với ở Ukraina của chúng tôi, nhưng con người thì tốt hơn. Toàn là những người tài giỏi!

Tôi chú ý nghe anh và rất tin anh. Tôi thích tính điềm tĩnh và lời nói đều đều, giản dị, xác đáng của anh. Tôi có cảm giác con người này hiểu biết nhiều và anh rất trân trọng bạn bè. Tôi thích nhất là anh không hỏi tại sao tôi tự sát! Nếu là người khác ở địa vị anh thì họ đã hỏi từ lâu rồi. Mà tôi đã chán ngấy cái câu hỏi ấy. Và cũng khó mà trả lời. Có quỷ mới biết được tại sao tôi quyết định tự sát. Giá Khokhol có hỏi thì có lẽ tôi sẽ trả lời rất dài dòng và ngớ ngẩn. Tôi không bao giờ muốn nhớ lại chuyện ấy nữa, nhất là khi ở trên dòng sông Volga vừa đẹp, vừa phóng khoáng và lấp lánh này.

Chiếc thuyền bơi sát bên bờ lở; con sông phình rộng về bên trái, nước tràn vào bờ cát của cánh đồng cỏ. Có thể nhìn thấy rõ nước sông dâng lên, vỗ oàm oạp và làm rung rinh những bụi cây ven bờ, dòng nước lũ mùa xuân trong sáng chảy ầm ầm, gặp nước sông ở những chỗ đất trũng và khe đất. Mặt trời như mỉm cười, và trong ánh nắng lấp lánh, những đàn quạ mỏ vàng với bộ lông đen nhánh như thép vừa làm tổ vừa kêu quang quác vẻ bận rộn. Ở chỗ có ánh nắng, đám cỏ xanh mơn mởn mọc lên tươi tốt. Thân thể thì lạnh nhưng trong lòng như có một niềm vui lặng lẽ và cũng nảy sinh những mầm hi vọng tươi sáng, dịu dàng, mùa xuân trên trái đất thật là đẹp.

Đến trưa, thuyền của chúng tôi tới Krasnovidovo. Trên một quả núi cao bị cắt dựng đứng có một ngôi nhà thờ nóc sơn màu xanh da trời. Phía sau nhà thờ là những ngôi nhà gỗ đẹp và chắc chắn nối đuôi nhau chạy dài theo sườn núi. Những mái nhà lợp ván vàng và những lớp rạ như gấm thêu bóng loáng. Thật là giản dị và đẹp mắt.

Đã bao nhiêu lần tôi ngắm nghía ngôi làng này mỗi khi đi tàu thủy ngang qua.

Khi tôi cùng Kukushkin bắt đầu dỡ hàng ở thuyền xuống, Romass vừa chuyển cho tôi các bao tải từ trên thuyền vừa nói:

– Anh thì chắc là phải khỏe!

Và không nhìn tôi, anh hỏi tiếp:

– Không đau ngực chứ?

– Không đau chút nào.

Tôi rất cảm động với câu hỏi tế nhị của anh. Vì tôi rất không muốn để những bần nông biết chuyện tôi định tự sát.

– Sức của anh có thể nói là khỏe quá mức. Kukushkin ba hoa. Anh người tỉnh nào? Nizhny Novgorod à? Thiên hạ thường chê các anh là sống bằng đường sông nước. Và còn có một câu nữa: “Chà, hãy xem chim hải âu từ đâu bay tới.” Câu đó cũng nói về các anh đấy!

Một bần nông cao, gầy, đi chân đất, mặc áo cánh, quần dài, có bộ râu cằm loăn xoăn, đội chiếc mũ lông rậm, mái tóc hơi hung hung, rảo bước từ trên đồi xuống. Anh ta đi theo bờ dốc, trên đám đất sét nhão nhoẹt, giữa những dòng suối lấp lánh như bạc. Thỉnh thoảng anh ta lại bị trượt chân và bước loạng choạng.

Khi tới gần bờ, anh nói bằng giọng vang vang và dịu dàng:

– Chào các bạn đã về.

Anh nhìn quanh, nhấc một chiếc sào to lên, rồi lại nhấc một chiếc khác, sau đó gác đầu hai chiếc sào lên mạn thuyền rồi nhẹ nhàng nhảy lên thuyền và ra lệnh cho chúng tôi:

– Giẫm chân vào đầu sào kẻo trượt từ mạn thuyền xuống, rồi đón lấy thùng nhé. Anh bạn trẻ, lại đây đỡ một tay.

Anh đẹp như trong tranh và nom rất khỏe. Cặp mắt xanh biếc sáng một cách nghiêm nghị trên khuôn mặt hồng hào với chiếc mũi to, hơi cao của anh.

– Izot, khéo không bị cảm lạnh đấy. Romass nói.

– Ai, tôi ấy à? Đừng lo.

Sau khi lăn thùng dầu hỏa lên bờ, Izot chăm chú nhìn tôi và hỏi:

– Anh đến làm người quản lí à?

– Thử đấu với hắn một trận xem. Kukushkin gợi ý.

– Người ta lại đánh vỡ cái mặt mẹt của anh rồi à?

– Biết làm thế nào với quân ấy được?

– Quân nào?

– Bọn đánh mình ấy…

– Chà! Izot thở dài và quay về phía Romass. Xe ngựa sắp xuống đấy. Tôi đã trông thấy các anh bơi thuyền từ đằng xa. Bơi khá lắm. Antonich, anh đi về đi! Để tôi ở lại đây trông hàng cho.

Rõ ràng là anh ta đối xử với Romass rất thân mật và ân cần, thậm chí có vẻ như che chở, mặc dù Romass hơn anh đến chục tuổi.

Nửa giờ sau tôi đã ngồi trong gian phòng sạch sẽ và rất tiện nghi của một căn nhà gỗ mới xây, vách còn sặc mùi nhựa cây và xơ đay. Một người đàn bà linh lợi, có cặp mắt sắc sảo dọn bàn để sửa soạn bữa ăn trưa. Khokhol lấy sách từ trong va li ra, đặt lên giá sách ở cạnh lò sưởi.

– Phòng của anh ở trên gác xép. Anh nói.

Qua cửa sổ trần có thể nhìn thấy một vùng trong làng, đối diện với căn nhà gỗ của chúng tôi là một cái khe, ở đó có những mái nhà tắm nhô lên giữa các bụi cây. Bên kia khe là các khu vườn và cánh đồng đen sẫm lượn theo những sườn dốc đất mềm và kéo dài về phía khu rừng xanh xa xa phía chân trời. Một bần nông mặc quần áo xanh ngồi trên nóc nhà tắm, tay cầm rìu, tay giơ lên che mắt nhìn xuống phía sông Volga. Bánh xe ngựa kêu ken két. Một con bò rống lên có vẻ mệt nhọc. Tiếng suối réo ầm ầm. Một bà lão mặc toàn đồ đen từ cổng một căn nhà gỗ bước ra, vừa ngoái đầu lại phía cổng vừa nói với giọng dọa nạt:

– Chúng mày muốn chết đấy phỏng!

Nghe thấy tiếng bà, hai đứa trẻ đang lấy đá và bùn chặn dòng suối liền ba chân bốn cẳng chạy mất. Bà lão nhặt chiếc dăm gỗ vụn ở dưới đất lên, nhổ toẹt vào đó rồi ném xuống suối. Sau đó bà đưa bàn chân đi đôi ủng của nam giới giẫm nát “công trình xây dựng” của bọn trẻ và đi xuống phía sông Volga.

Ở đây tôi sẽ sống ra sao?

Người ta gọi tôi đi ăn trưa. Dưới nhà, Izot ngồi bên bàn, duỗi hai chân dài ngoằng ngoẵng với đôi bàn chân đỏ tía ra và đang nói gì đó, nhưng trông thấy tôi anh chợt im bặt.

– Anh làm sao thế? Romass cau mày hỏi. Nói đi chứ!

– Tôi đã nói hết rồi, không có gì để nói nữa. Có nghĩa là chúng ta đã quyết định như thế; chúng ta sẽ tự khắc phục. Đi đâu là anh phải mang theo súng lục hoặc một chiếc gậy to. Trước mặt Barinov ăn nói phải thận trọng, lưỡi hắn và Kukushkin như lưỡi đàn bà ấy. Còn anh bạn trẻ, anh có thích đi đánh cá không?

– Không.

Romass bắt đầu nói về sự cần thiết phải tập hợp các bần nông, những người chủ vườn nhỏ lại, lôi họ ra khỏi bàn tay bọn lái buôn. Izot chăm chú nghe rồi nói:

– Thế nào rồi bọn cường hào cũng chẳng để anh sống yên đâu.

– Chúng ta thử xem sao.

– Đấy rồi xem!

Tôi nhìn Izot và nghĩ bụng:

“Chắc hẳn Karonin[54] và Zlatovratsky [55] đã lấy những bần nông như thế này viết thành truyện đấy.”

Phải chăng tôi đã được tham gia vào một việc quan trọng và bây giờ tôi sẽ hoạt động cùng với những người có sự nghiệp chân chính?

Ăn xong, Izot nói:

– Mikhailo Antonovich, anh không nên vội vàng, việc tốt thường không thể hấp tấp được, cần phải từ từ!

Khi anh đi khỏi, Romass nói vẻ trầm ngâm:

– Anh ấy là một người thông minh, chân thật. Tiếc rằng học vấn thấp, mới biết đọc võ vẽ thôi. Nhưng anh ấy kiên quyết học. Anh hãy giúp đỡ anh ấy nhé!

Romass vừa giới thiệu cho tôi giá các mặt hàng ở cửa hiệu vừa kể chuyện đến tận tối mịt:

– Tôi bán rẻ hơn so với hai chủ hiệu khác trong làng. Tất nhiên điều đó làm họ không thích. Họ làm những chuyện đê mạt đối với tôi, định đánh tôi. Tôi sống ở đây không phải vì tôi thích hay vì buôn bán có lời, mà là vì những lí do khác. Ý định ấy cũng giống như hiệu bánh mì của các anh…

Tôi bảo rằng tôi cũng đoán được điều đó.

– Đúng… Cần phải dạy cho mọi người trí sáng suốt, phải không?

Cửa hiệu đã đóng, chúng tôi cầm đèn đi đi lại lại bên trong. Ngoài đường cũng có ai đó đi đi lại lại, rón rén trên bùn, thỉnh thoảng trèo lên bậc cửa một cách nặng nhọc.

– Đấy, anh có nghe thấy không? Có tiếng người đi lại! Đó là Migun, một bần nông sống độc thân, một con vật độc ác. Hắn thích làm điều ác giống như một cô gái đẹp thích làm đỏm. Anh nói chuyện với hắn phải thận trọng và không chỉ riêng với hắn, mà nói chung…

Sau đó, Romass trở về phòng, ngồi hút thuốc, tựa cái lưng to lớn vào thành lò sưởi và nheo mắt lại, nhả những làn khói qua bộ râu. Chậm rãi ghép những tiếng rời rạc thành những câu nói giản dị và trongsáng, anh kể rằng đã từ lâu anh nhận thấy tôi tiêu phí tuổi thanh xuân một cách vô ích.

– Anh là một người có tài năng, bản chất ngoan cường và chắc là có những mong muốn tốt đẹp. Anh cần phải học tập, nhưng làm sao đừng để sách vở che khuất mất những người xung quanh. Có một ông già thuộc giáo phái nào đó nói một câu rất đúng: “Bất cứ điều giáo huấn nào cũng đều ở con người mà ra.” Điều mà thực tế cuộc sống dạy cho anh thì đau khổ hơn những điều học được trong sách. Cách dạy của thiên hạ thường thô bạo, nhưng điều anh học được bằng cách ấy sẽ mãi mãi in sâu trong tâm khảm.

Anh nói những điều đã quen thuộc với tôi, rằng trước hết cần phải thức tỉnh trí tuệ của nông dân. Nhưng trong những lời quen thuộc ấy tôi nắm được ý nghĩa sâu sắc hơn, và dường như là mới mẻ đối với tôi.

– Sinh viên ở chỗ anh hay ba hoa về tình thương yêu nhân dân, tôi có nói với họ về việc này như sau: Không thể yêu nhân dân được đâu. “Yêu nhân dân” chỉ là lời nói suông…

Nụ cười của anh thấp thoáng sau bộ râu, anh nhìn tôi với vẻ tò mò rồi bắt đầu đi bước một trong phòng và nói tiếp, giọng chắc nịch, oai nghiêm:

– Yêu có nghĩa là tán thành, khoan dung, không dám nhận xét, dễ tha thứ. Cái đó chỉ cần thiết với đàn bà thôi. Còn đối với nhân dân, có thể nào không nhận thấy sự dốt nát của họ, tán thành những ý nghĩ sai lầm của họ, khoan dung đối với bất cứ sự đê tiện nào của họ, tha thứ tính tàn bạo của họ? Có thể như thế không?

– Không.

– Đấy! Ở chỗ anh tất cả mọi người đều đọc và hát “những bài phổ thơ của Nekrassov[56]”. Này, anh biết không, chỉ dựa vào Nekrassov thì không thể làm nên trò trống gì đâu. cần phải khuyên bảo những bần nông: “Người anh em ạ, tuy bản chất anh là người tốt nhưng anh sống tồi tàn và không biết làm gì để cho cuộc sống của anh trở nên dễ chịu hơn, tốt đẹp hơn. Con thú rừng có lẽ còn biết chăm sóc mình một cách khôn ngoan hơn anh, con thú rừng còn biết bảo vệ mình giỏi hơn anh. Thế mà các anh, những bần nông, đã sản sinh ra tất cả. Phái quý tộc, giới tu hành, các nhà bác học, vua chúa, tất cả đều là những bần nông ưước đây. Anh có thấy không? Đã hiểu chưa? Vậy thì anh hãy học cách sống để người ta khỏi làm nhục anh…”

Anh đi xuống bếp, bảo bà đầu bếp đặt ấm samovar.

Sau đó anh đưa cho tôi xem những cuốn sách của anh hầu hết là sách khoa học, trong đó có những tác giả sau: Buckle[57], Lyell[58], Lecky[59], Lubbock[60], Taylor[61], Mill, spencer[62], Darwin, trong số các tác giả Nga có Pisarev, Dobrolyubov[63], Chernyshevsky, Puskin, Chiến hạm Pallada của Goncharov[64], tác phẩm của Nekrassov.

Anh đưa bàn tay to lớn vuốt ve những cuốn sách với vẻ âu yếm hệt như vuốt ve những con mèo con, rồi anh nói với giọng vô cùng xúc động:

– Toàn là những sách hay cả đấy! Đây là một cuốn sách rất hiếm đã bị sở kiểm duyệt ra lệnh đốt. Anh muốn biết thực chất nhà nước là gì thì hãy đọc cuốn sách này!

Anh đưa cho tôi cuốn sách Leviathan của Hobbes[65].

– Cuốn sách này cũng nói về nhà nước nhưng dễ hiểu hơn, vui hơn!

Thì ra cuốn sách vui ấy là cuốn Quốc vương của Mackiaveli [66].

Trong lúc uống trà, anh kể vắn tắt về bản thân: Anh là con một người thợ rèn ở tỉnh Chernigov, đã từng làm công nhân tra dầu máy cho xe lửa ở ga Kiev, ở đó anh đã làm quen với các nhà cách mạng, đã tổ chức một nhóm công nhân tự học, vì vậy anh bị bắt và phải ngồi tù khoảng hai năm, sau đó anh bị đày tới vùng Yakutsk mười năm trời.

” Lúc đầu tôi sống cùng với dân Yakutsk, trong một ulus[67]. Tôi tưởng tôi chết mất. Anh có biết không, mùa đông ở đấy lạnh đến nỗi óc người cũng phải đông lại. Ở đấy có trí tuệ cũng bằng thừa. Sau đó, tôi nhận thấy: Đây đó rải rác có người Nga sinh sống, tuy không nhiều, nhưng dù sao vẫn có! Hình như để người Nga khỏi quá buồn chán, người ta đã chu đáo bổ sung thêm những người mới đến. Họ toàn là người tốt. Trong số đó có cả chàng sinh viên Vladimir Korolenko[68]  bây giờ anh ta cũng đã trở về rồi. Một thời gian tôi với anh ta sống với nhau rất thân, sau đó chúng tôi xa nhau. Chúng tôi có rất nhiều điểm hợp nhau, nhưng tình bạn không thể chỉ dựa trên sự hợp nhau. Anh ta là một người chín chắn, ngoan cường, có khả năng làm mọi việc. Thậm chí anh ta biết họa cả tượng thánh, cái đó thì tôi không thích. Bây giờ nghe nói anh ta viết cho các tạp chí khá lắm.

Anh nói chuyện rất lâu, đến tận nửa đêm. Có lẽ anh muốn ngay tức khắc đặt tôi bên cạnh anh một cách vững chắc. Lần đầu tiên tôi cảm thấy không gì vui sướng bằng có bầu có bạn. Sau lần định tự tử, con mắt tôi nhìn bản thân mình khác hẳn. Tôi thấy mình rất nhỏ bé, hình như có tội với ai đó, và tôi sống một cách hổ thẹn. Có lẽ Romass hiểu điều đó, anh đã cởi mở lòng mình một cách nhân từ và tự nhiên. Anh đã uốn nắn tôi. Đó thật là một ngày không bao giờ quên.

Chúng tôi mở cửa hiệu để bán hàng vào ngày Chủ nhật, sau buổi lễ sáng. Ngay khi ấy những bần nông kéo đến hiên nhà chúng tôi. Người đầu tiên tới là Matvei Barinov, bẩn thỉu, đầu tóc rối bù, tay dài như tay khỉ, vẻ nhìn lơ đãng với cặp mắt đẹp như mắt phụ nữ.

– Có nghe thấy tin gì ở ngoài thành phố không? Anh ta hỏi sau khi chào.

Rồi không chờ trả lời, anh ta quay về phía Kukushkin và kêu lên:

– Stepan! Mấy con mèo của anh lại vừa xơi mất một con gà trống nữa!

Tiếp theo, anh ta kể rằng viên tổng đốc vừa mới từ Kazan đi St. Petersburg để yết kiến nhà vua và tâu xin vua ra lệnh đuổi tất cả dân Tatar đến Caucasus và Turkestan. Anh khen ngợi viên tổng đốc:

– Một con người thông minh! Am hiểu công việc của mình…

– Tất cả những chuyện ấy đều do anh bịa đặt ra cả. Romass điềm tĩnh nhận xét.

– Tôi ấy à? Bao giờ?

– Tôi không biết…

– Antonich, sao anh thiếu tin tưởng ở con người đến thế? Barinov nói vẻ trách móc và lắc đầu ra vẻ thương hại. Tôi thương những người Tatar lắm, sống ở Caucasus phải quen mới được.

Một người bé nhỏ, gầy gò, mặc chiếc áo rách rưới thừa hưởng từ người khác, rón rén lại gần. Chứng kinh giật khiến khuôn mặt xám của ông ta méo xệch đi, cặp môi thâm sì mấp máy thành một nụ cười đau đớn. Con mắt trái sắc sảo của ông ta chớp liên tục, phía trên là cặp lông mày bạc trắng rung rung, bị những vết sẹo cắt ngang.

– Chào anh Migun! Barinov nói giọng giễu cợt. Đêm hôm qua anh đã xoáy được những gì?

– Xoáy được tiền của anh. Migun đáp, giọng lanh lảnh, sau khi ngả mũ chào Romass.

Pankov chủ nhà, đồng thời là người láng giềng của chúng tôi từ trong sân bước ra. Anh ta mặc chiếc áo vest, cổ quàng khăn đỏ, đi đôi giày calosi[69] bằng cao su, ngực đeo sợi dây bạc giống như dây cương ngựa. Anh chăm chú nhìn Migun bằng cặp mắt giận dữ.

– Con quỷ già ạ, anh mà trèo vào vườn nhà tôi thì tôi sẽ lấy cọc nện què chân cho mà xem!

– Bắt đầu câu chuyện thường lệ… Migun điềm tĩnh nói, thở dài rồi tiếp. Nếu không đánh người khác thì sống làm sao được?

Pankov bắt đầu chửi mắng Migun, nhưng Migun vẫn nói:

– Tôi đã già là thế nào? Mới có bốn mươi sáu tuổi đầu…

– Hôm lễ Giáng sinh vừa rồi anh đã năm mươi ba tuổi. Barinov thét lên. Chính anh cũng nói là năm mươi ba tuổi! Tại sao lại nói dối?

Ông lão Suslov[70], một người đã có tuổi có bộ râu dài, cùng chàng đánh cá Izot đi tới. Thế là có khoảng mươi người tụ tập với nhau. Khokhol ngồi trên bậc tam cấp, cạnh cửa ra vào, miệng ngậm tẩu, im lặng nghe câu chuyện của đám bần nông. Họ ngồi ở bậc tam cấp và trên những ghế dài nhỏ đặt ở hai bên.

Một ngày giá lạnh rực rỡ. Trên bầu trời xanh biếc vẫn ám hơi giá buốt của mùa đông có những đám mây trôi nhanh. Ánh nắng và bóng râm lung linh tắm mình trong các dòng suối và vũng nước, lúc chói lòa, lúc như vuốt ve cặp mắt bằng vẻ mềm mại như nhung. Những cô gái ăn mặc diêm dúa như những con công nhởn nhơ trên đường phố, xuôi về phía sông Volga. Khi bước qua vũng nước, họ xách gấu váy lên, để lộ những chiếc giày nặng trình trịch. Nhiều em nhỏ vác những chiếc cần câu dài trên vai chạy lăng xăng. Một toán bần nông bệ vệ vừa đi vừa liếc nhìn đám bần nông ngồi ở cửa hiệu chúng tôi và lặng lẽ nhấc chiếc mũ lưỡi trai hoặc mũ nỉ lên chào.

Migun cùng với Kukushkin thân mật bàn bạc một vấn đề không rõ ràng: Ai đánh đau hơn lái buôn hay địa chủ? Kukushkin chứng minh là lái buôn, còn Migun thì bảo vệ phương án địa chủ. Giọng nói lanh lảnh của Migun át giọng nói rời rạc của Kukushkin.

– Cụ thân sinh ra ông Fingerov từng xách râu Napoleon Bonaparte. Còn ông Rngerov có lần đã nắm lấy cổ áo lông cừu của hai người, dang tay ra và đập trán họ vào nhau đánh bốp một cái thế là xong! Cả hai đều nằm thẳng cẳng.

– Đánh thế thì ai mà chẳng ngãi Kukushkin tán thành nhưng nói thêm. Nhưng dù sao thì lái buôn vẫn ăn khỏe hơn địa chủ…

Ông lão Suslov đáng kính ngồi ở bậc tam cấp trên cùng cũng than phiền:

– Này Mikhailo Antonovich, bần nông trên trái đất này trở nên yếu đuối lắm rồi. Dưới thời địa chủ không ai được phép sống vô ích, mỗi người đều bị gắn chặt vào công việc…

– Thế thì bác hãy đệ đơn xin người ta lập lại quyền chiếm hữu nông nô đi. Izot trả lời ông lão.

Romass im lặng nhìn Izot và gõ tẩu thuốc lá vào tay vịn của tam cấp.

Tôi chờ xem khi nào Romass sẽ bắt đầu nói. Và trong khi lắng nghe câu chuyện rời rạc của đám bần nông, tôi cố tưởng tượng xem Khokhol sẽ nói những gì. Tôi có cảm tưởng rằng anh đã bỏ lỡ nhiều dịp tốt để xen vào câu chuyện của họ. Nhưng anh im lặng một cách thờ ơ và ngồi không nhúc nhích như một bức tượng gỗ, mắt theo dõi làn gió thổi trên các vũng nước làm thành những vết gợn lăn tăn và xua đuổi những đám mây, dồn chúng lại thành một đám đen kịt. Trên sông có tiếng còi tàu, ở phía dưới vẳng lên tiếng hát the thé của các cô gái và tiếng đàn phong cầm. Một gã say rượu đi xuôi xuống phố. Gã vừa đi vừa nấc và la hét, hai tay múa may, chân cong cong một cách không tự nhiên, rồi ngã vào vũng nước. Đám bần nông mỗi lúc nói một chậm rãi hơn, trong lời nói của họ lộ ra vẻ chán nản. Tôi cũng cảm thấy một nỗi buồn thầm lặng bởi bầu trời lạnh lẽo đang báo trước một cơn mưa! Tôi nhớ lại cảnh ồn ào không ngớt của thành phố, những âm thanh muôn màu muôn vẻ của nó, những bóng người thấp thoáng trên các đường phố, giọng nói rất nhanh của họ đầy những lời có sức kích động lòng người.

Trong lúc uống trà buổi tối, tôi hỏi Khokhol xem anh thường nói chuyện với những bần nông vào lúc nào.

– Nói về cái gì chứ?

– A. Khokhol nói sau khi chăm chú nghe tôi. Anh nên biết là nếu như tôi nói với họ về chuyện ấy, hơn nữa lại nói ở ngoài đường, thì tôi sẽ lại bị tống đến chỗ những người Yakutsk.

Anh nhồi thuốc vào tẩu và hút, khói thuốc lập tức bao quanh anh. Anh bắt đầu nói một cách bình tĩnh và đáng ghi nhớ rằng bần nông vốn dè dặt, hay hoài nghi. Họ sợ chính bản thân, sợ người láng giềng, sợ nhất là người ngoài. Họ được hưởng tự do chưa quá ba mươi năm[71], những người nông dân thuộc lứa tuổi bốn mươi sinh ra đã làm nô lệ và hẳn còn nhớ điều đó. Tự do là gì cái ấy thực khó hiểu. Nói nôm na thì tự do có nghĩa là ta sống theo ý ta. Nhưng ở đâu cũng có bọn quan trên, bọn này cản trở cuộc sống. Nga hoàng đã chiếm đoạt nông dân của bọn địa chủ, thế là bây giờ Nga hoàng thành chủ nhân duy nhất của tất cả nông dân. Một lần nữa câu hỏi trên lại được đặt ra: Thế thì tự do là gì? Đột nhiên một ngày kia Nga hoàng sẽ giải thích tự do nghĩa là gì. Bần nông rất tin tưởng vào Nga hoàng, chủ nhân duy nhất của tất cả đất đai và mọi của cải. Nga hoàng đã chiếm đoạt nông dân của bọn địa chủ thì cũng có thể chiếm đoạt tàu thủy và cửa hiệu của bọn lái buôn. Bần nông là người của Nga hoàng. Họ hiểu rằng nhiều chủ thì khổ, một chủ vẫn tốt hơn. Họ chờ đợi cái ngày Nga hoàng sẽ tuyên bố với họ ý nghĩa của tự do. Khi ấy thì ai muốn lấy gì thì lấy. Tất cả đều mong chờ ngày ấy đến; ai nấy đều sợ, đều sống bo bo giữ miếng, họ sợ lỡ mất cái ngày quyết định sẽ phân chia lại cho toàn thể ấy. Và họ sợ ngay chính bản thân: Họ muốn lấy thật nhiều, và có rất nhiều cái để lấy, nhưng lấy như thế nào? Tất cả đều cùng muốn lấy một thứ. Thêm vào đó khắp nơi có vô số bọn quan thù địch ra mặt đối với bần nông và cả với Nga hoàng nữa. Nhưng không có quan trên cũng không được, mọi người sẽ đánh nhau, giết nhau mất.

Một làn gió giận dữ hắt những hạt mưa xuân ào ào vào cửa kính. Bóng tối xám xịt tỏa ra trên đường phố. Trong tâm hồn tôi cũng có điều gì ảm đạm và buồn buồn.

Giọng nói bình tĩnh, khe khẽ của Khokhol lại vang lên với vẻ trầm tư:

– Cần khêu gợi những bần nông để họ dần học cách giành lấy chính quyền của Nga hoàng về tay mình, cần nói với họ rằng nhân dân phải có quyền lựa chọn cấp trên trong tầng lớp của mình: Cả cục trưởng cảnh sát, cả tổng đốc lẫn Nga hoàng…

– Cái đó phải chờ một trăm năm nữa!

– Thế anh tưởng đến ngày lễ Ba Ngôi sẽ làm xong tất cả cái đó ư? Khokhol nghiêm nghị hỏi.

Buổi tối anh đi đâu không rõ. Khoảng mười một giờ khuya tôi nghe ngoài đường có tiếng súng nổ gần đâu đây. Tôi liền lao vào bóng tối, giữa trời mưa, và gặp Mikhailo Antonovich đang đi về phía cổng. Bóng đen to lớn ấy tránh những dòng nước một cách thong thả và cẩn thận.

– Anh ra làm gì? Tôi vừa bắn đấy mà…

– Bắn ai?

– Vừa có một bọn người nào đó cầm gậy gộc xông về pbía tôi. Tôi bảo: “Đứng lại, không tao bắn!”, nhưng bọ không nghe. Thế là tôi bắn luôn một phát chỉ thiên, cũng chẳng làm hại ai cả…

Anh đứng ở phòng ngoài, vừa cởi áo vừa lấy tay vuốt bộ râu ướt và thở phì phì như ngựa.

– Thì ra đôi ủng chết tiệt này của tôi đã rách! Cần phải thay đôi khác thôi. Anh có biết lau súng lục không? Anh lau giùm, kẻo gỉ mất. Lấy dầu hỏa mà lau…

Vẻ bình tĩnh không gì lay chuyển nổi, ánh nhìn ngoan cường và lặng lẽ của cặp mắt xám của anh làm tôi khâm phục. Anh bước vào phòng, vừa chải râu trước gương vừa khuyên ngăn tôi:

– Anh đi lại trong làng phải cẩn thận hơn nữa, nhất là những ngày lễ và buổi tối. Chắc là họ cũng muốn đánh cả anh nữa đấy. Nhưng khi đi ra khỏi nhà anh chớ mang theo gậy gộc, cái đó chỉ tổ chọc tức bọn côn đồ và có thể gây cho chúng ý nghĩ là anh sợ. Sợ quái gì! Chính bọn chúng mới là tụi nhát gan.

Tôi bắt đầu sống rất dễ chịu, mỗi ngày lại mang tới cho tôi một điều mới mẻ và quan trọng. Tôi bắt đầu say mê đọc sách khoa học tự nhiên. Romass chỉ bảo cho tôi:

– Maksimich ạ, trước hết và tốt hơn hết anh cần phải biết cái đó, trí tuệ ưu tú nhất của loài người đã được đúc kết thành khoa học.

Mỗi tuần Izot đến chỗ chúng tôi ba lần vào buổi tối, tôi dạy anh tập đọc và viết. Lúc đầu anh có vẻ thiếu tin tưởng tôi, hay cười tủm, nhưng sau một số buổi học anh đã nói với giọng chân thật:

– Anh giảng khá lắm! Giá anh đi làm nhà giáo thì…

Rồi bỗng nhiên anh đề nghị:

– Nom anh có vẻ khỏe lắm! Nào, chúng ta thử dùng gậy kéo co xem ai khỏe?

Chúng tôi lấy chiếc gậy dưới bếp lên rồi cả hai ngồi xuống sàn, bàn chân tì vào nhau, người nọ cố nhấc người kia lên khỏi sàn. Khokhol cười mỉm và thúc giục chúng tôi.

– Thế nào? Cố lên chứ!

Cuối cùng Izot đã nhấc được tôi lên. Điều đó có lẽ càng làm cho anh có thêm thiện cảm với tôi.

– Không sao cả, anh khỏe lắm! Izot an ủi tôi. Thật đáng tiếc là anh không thích nghề đánh cá, nếu không thì cùng đi với tôi ra sông Volga. Ban đêm trên sông Volga đẹp như cảnh thiên đường vậy!

Anh học rất chuyên cần, tiến bộ khá nhanh và chính anh cũng lấy làm lạ. Có lần, trong giờ học, đột nhiên anh đứng dậy, lấy quyển sách trên giá xuống, nhếch cao lông mày, đọc đôi ba dòng. Rồi anh đỏ mặt nhìn tôi và nói vẻ sửng sốt:

– Tôi có thể đọc được rồi, mẹ kiếp, thật là kì quái!

Rồi anh nhắm mắt nhắc lại:

Tiếng chim rền trên bình nguyên u buồn

Như tiếng người mẹ khóc trên mồ con…

– Thấy chưa?

Mấy lần anh khe khẽ hỏi tôi, vẻ thận trọng:

– Người anh em thử giảng cho tôi rõ như thế là thế nào nhỉ? Người ta nhìn vào những đường nét này, thế mà chúng hợp lại thành tiếng, và tôi biết được những tiếng đó những tiếng mà chúng ta thường dùng. Làm sao tôi biết được chúng? Không ai nói thầm với tôi những tiếng ấy cả. Giá là những bức tranh thì đã đành. Đằng này hình như chính ý nghĩ của người ta được in sẵn trên giấy. Thế là thế nào?

Tôi biết trả lời anh ra sao? Câu nói “Không biết” của tôi đã làm anh buồn phiền.

– Trò phù thủy! Anh vừa nói vừa thở dài và soi những trang sách lên ánh sáng.

Anh có cái vẻ ngây thơ đáng yêu, trong sáng và trẻ con. Anh thường gợi tôi nhớ đến hình ảnh bần nông đáng yêu được tả trong sách. Như hầu hết những người đánh cá, anh là một con người mơ mộng, yêu dòng sông Volga, thích những đêm tĩnh mịch, thích cảnh cô đơn, thích cuộc sống trầm tư.

Anh nhìn lên các vì sao và hỏi:

– Khokhol nói rằng ở trên ấy có thể có người giống như chúng ta, anh thấy có đúng không? Giá ra hiệu được cho họ để hỏi xem họ sống ra sao nhỉ? Có lẽ họ sống sướng hơn chúng ta và vui vẻ hơn…

Thực ra thì anh hài lòng với cuộc sống của mình. Anh nguyên là một đứa trẻ mồ côi, một bần nông sống độc thân hành nghề đánh cá âm thầm và mong muốn cuộc sống của mình không phụ thuộc vào ai cả. Nhưng hình như anh có ác cảm đối với các bần nông, anh thường khuyên ngăn tôi:

– Anh đừng tưởng họ hiền lành. Họ là bọn người láu cá, giả dối, chớ tin họ! Hôm nay họ đối với anh thế này, nhưng ngày mai lại thế khác. Người nào cũng chỉ biết có mình thôi, còn công việc chung họ coi là việc khổ sai.

Anh thường nói về bọn “cường hào” với vẻ căm phẫn, một sự căm phẫn rất xa lạ đối với con người có tâm hồn dịu hiền như anh:

– Tại sao bọn chúng nó giàu có hơn kẻ khác? Vì chúng nó khôn ngoan hơn. Chó má thật, nếu như anh là một người thông minh thì anh nên nhớ rằng: Nông dân phải sống thân ái, hợp lại thành một bầy thì mới có sức mạnh! Nhưng đằng này họ lại đem chia năm xẻ bảy làng xóm ra như thể chẻ củi ấy, thế cơ chứ! Chính họ lại là kẻ thù của họ. Đó là một đám người tàn ác. Khokhol đã phải khổ sở vì bọn họ…

Izot đẹp trai, khỏe mạnh, được phụ nữ rất thích, và thường họ không để cho anh yên.

– Tất nhiên về mặt này tôi rất được chiều chuộng. Anh nói với vẻ hối hận chân thật. Đối với các ông chồng thì chuyện đó thật đáng bực mình, nếu ở địa vị họ chính tôi cũng phải bực mình. Nhưng không thể nào không thương hại phụ nữ được, họ như linh hồn thứ hai của mình vậy. Họ sống không có ngày nghỉ, không có sự âu yếm; họ làm việc quần quật như một con ngựa, ngoài ra không có gì hơn. Các ông chồng không có thì giờ để yêu thương họ, còn tôi thì lại là một người rỗi rãi. Nhiều bà vợ, ngay trong năm đầu về nhà chồng, đã bị các ông chồng cho ăn đấm. Đứng về mặt này tôi có tội lỗi, bởi vì tôi đã trêu ghẹo họ. Lúc đó tôi chỉ yêu cầu họ có một điều: Xin các mụ chớ có tức giận nhau, tôi đủ sức cho tất cả các mụ! Các mụ đừng có ghen tị nhau, tôi coi tất cả các mụ đều như nhau tuốt, tôi thương hại tất cả…

Anh vừa mỉm cười ngượng nghịu qua bộ râu vừa kể:

– Có lần suýt nữa thì tôi đã gỡ gạc được một bà, bà ấy từ thành phố về biệt thự nghỉ mát. Bà ta rất đẹp, da trắng như sữa, tóc óng như tơ, đôi mắt nhỏ xanh biếc và hiền hậu. Tôi bán cá cho bà ấy và cứ nhìn mãi. “Anh muốn cái gì?” Bà ta hỏi. “Tự bà biết.” Tôi đáp. “Thôi được.” Bà ta nói. “Đến đêm tôi sẽ tới chỗ anh, anh chờ nhé!” Đến đêm, quả bà ấy đến thật. Chỉ phải cái bà ấy ngại muỗi thôi. Muỗi đã đốt bà ấy, kết quả chẳng ăn thua gì cả. Bà ấy nói: “Tôi không thể chịu nổi, muỗi đốt tợn quá.” Và suýt nữa bà ấy khóc. Hôm sau chồng bà ấy đến, hắn làm thẩm phán thẩm phiếc gì đó. Thì ra các bà là như thế. Anh kết thúc với vẻ buồn buồn và trách móc. Muỗi đã quấy rầy cuộc sống của họ…

Izot rất khen ngợi Kukushkin:

– Anh để ý mà xem, Kukushkin là một bần nông có lòng tốt! Người ta không ưa anh ấy, thế là sai! Đúng, anh ấy có tính ba hoa, nhưng ai mà hoàn hảo cả?

Kukushkin không có ruộng đất, anh ta lấy phải một mụ bần nông nghiện rượu, người tuy nhỏ, nhưng rất ranh mãnh, khỏe mạnh và độc ác. Anh ta bán nhà cho một người thợ rèn, còn chính anh thì sống ở nhà tắm và làm thuê cho Pankov. Kukushkin rất thích tin tức, khi nào không có tin tức gì mới là anh ta tự bịa ra những mẩu chuyện khác nhau, ghép chúng lại thành một câu chuyện.

– Mikhailo Antonovich, anh có nghe đồn gì không? Tên cảnh sát ở Tinkovo đã bỏ nghề đi tu rồi. Hắn bảo hắn không muốn đánh đập bần nông nữa, đánh thế là đủ rồi!

Khokhol nghiêm nghị nói:

– Tất cả bọn quan trên sẽ bỏ các anh mà đi hết.

Kukushkin vừa gỡ những cuộn rơm, cỏ khô và lông gà trong mớ tóc rối bù màu hạt dẻ, vừa trầm ngâm:

– Không phải tất cả bọn họ đâu, chỉ có những người có lương tâm thôi. Những người đó tất nhiên cảm thấy khổ sở với cái nghề của mình. Antonich, tôi thấy hình như anh không tin vào lương tâm thì phải. Nhưng nếu thiếu lương tâm thì dù người ta có bộ óc lớn cũng không thể sống nổi! Anh hãy nghe tôi kể một câu chuyện…

Kukushkin bắt đầu kể về một mụ địa chủ “rất thông minh” nào đó:

– Trước đây có một mụ đàn bà tàn ác đến nỗi ngay cả quan tổng đốc, mặc dù chức vị khá cao, cũng phải tới thăm mụ ta. Quan tổng đốc nói với mụ: “Thưa bà, để đề phòng bất trắc bà nên cẩn thận hơn, bởi vì tin đồn về sự độc ác của bà đã truyền tới cả St. Petersburg rồi đấy!” Tất nhiên là mụ ta mời rượu quan tổng đốc rồi mới nói: “Ông cứ yên tâm mà về, tôi không thể thay đổi được tính tình của tôi đâu!” Qua ba năm lẻ một tháng, bỗng nhiên mụ ta triệu tập các bần nông và nói: “Tất cả ruộng đất của tôi bây giờ thuộc về các người, xin từ biệt các người, mong các người tha lỗi cho tôi, tôi sẽ…”

– Đi tu. Khokhol nhắc.

Kukushkin chăm chú nhìn Romass và xác nhận:

– Đúng, để trở thành tu viện trưởng! Chắc anh đã nghe câu chuyện này rồi chứ gì?

– Tôi chưa hề nghe.

– Thế sao anh biết?

– Tôi biết anh rồi mà.

Con người hay mơ tưởng hão ấy vừa lắc đầu vừa lắp bắp:

– Anh không tin mọi người tí nào cả…

Những câu chuyện của Kukushkin thường là như thế này: Những người xấu và độc ác đều sẽ chán làm điều ác và “mất tích”, nhưng thường thì Kukushkin hay cho họ đi tu như ném rác vào hố rác vậy.

Anh ta thường có những ý nghĩ đột ngột và kì quái; bỗng nhiên anh cau mày và tuyên bố:

– Chúng ta chiến thắng người Tatar thì được ích gì, người Tatar giỏi hơn chúng ta!

Nhưng có ai nói gì đến người Tatar đâu, lúc ấy đang nói về việc tổ chức một nhóm các chủ vườn.

Romass kể chuyện Siberia và chuyện gã phú nông ở vùng đó, nhưng bỗng nhiên Kukushkin lẩm bẩm vẻ đăm chiêu:

– Cái giống cá mòi nếu độ hai, ba năm không ai bắt thì chúng có thể sinh sôi đến nỗi làm biển tràn ra khỏi bờ và sẽ gây ra nạn lụt lớn cho thiên hạ. Thật là một giống cá sinh sôi nảy nở khá nhanh!

Cả làng đều coi Kukushkin là một người hão huyền, những câu chuyện và những ý nghĩ kì quái của anh khiến những bần nông tức giận, họ chửi rủa và chế giễu anh, nhưng họ vẫn luôn luôn nghe anh với vẻ thú vị và chăm chú, dường như chờ đợi được thấy một chân lí nào đó trong những chuyện bịa của anh.

– Thằng cha ba hoa.

Những người đứng tuổi gọi anh như vậy, chỉ có anh chàng hay diện Pankov là nói có vẻ chín chắn:

– Stepan là một người bí ẩn…

Kukushkin là một người rất tài ba, anh biết đóng thùng gỗ, đắp lò sưởi, biết nuôi ong, dạy các bà nuôi gà vịt, làm thợ mộc rất khéo, việc gì anh cũng có thể làm được, mặc dù anh làm chậm và có vẻ miễn cưỡng. Anh rất thích mèo, trong nhà tắm của anh có tới hàng chục con to, nhỏ, béo mập. Anh cho chúng ăn quạ khoang, quạ đen, luyện cho mèo ăn gà vịt, do đó người làng càng ghét anh tợn: Mèo của anh cắn chết cả gà con lẫn gà mẹ. Các bà hàng xóm liền săn đuổi mèo của Stepan và đánh một cách không thương xót. Ở nhà tắm của Kukushkin thường nghe thấy tiếng kêu the thé giận dữ của các bà chủ, nhưng cái đó không hề làm anh bối rối.

– Các mụ ngốc lắm, mèo là giống vật đi săn khéo hơn cả chó. Tôi luyện cho chúng quen săn gà vịt, rồi chúng ta sẽ nuôi hàng trăm con đem bán, số tiền thu được sẽ đem biếu các người, các người thật là ngốc!

Kukushkin trước đây có biết đọc biết viết, nhưng đã quên hết cả, bây giờ anh không muốn ôn lại nữa. Vốn là một người thông minh, anh có thể nắm được ý chủ đạo trong các câu chuyện của Khokhol nhanh hơn những người khác.

– Đúng, đúng. Anh vừa nói vừa nhăn nhó như một đứa bé nuốt viên thuốc đắng. Có nghĩa là Ivan Grozny[72] không có hại gì đối với đám dân quèn.

Kukushkin, Izot và Pankov thường đến chỗ chúng tôi vào buổi tối và nhiều khi ngồi đến tận nửa đêm để nghe Khokhol kể chuyện về tình hình thế giới, về sinh hoạt của các nước khác, về phong trào cách mạng của các dân tộc. Pankov rất thích cuộc cách mạng Pháp.

– Đó mới thực là sự thay đổi cuộc sống. Anh tán thành.

Cha của Pankov là một phú nông có cái bướu to ở cổ và có cặp mắt tròn xoe trông rất đáng sợ. Hai năm trước Pankov đã từ bỏ cha và “tự ý” lấy một cô gái mồ côi, cháu họ của Izot. Anh rất khắt khe với vợ, nhưng lại cho cô ta ăn mặc quần áo tỉnh thành. Cha anh nguyền rủa anh vì tính ngỗ nghịch ấy, và mỗi khi đi qua ngôi nhà gỗ mới làm của con, ông thường nhổ nước bọt với vẻ giận dữ. Pankov đã cho Romass thuê nhà và xây thêm một cửa hiệu trái với ý muốn của bọn phú nông ưong làng, vì vậy bọn họ rất thù ghét anh: Bề ngoài anh đối với họ có vẻ lãnh đạm, khi nói về họ anh thường tỏ thái độ khinh bỉ, và khi tiếp xúc với họ thì thô bạo, giễu cợt. Cuộc sống nông thôn đã làm anh cảm thấy nặng nề.

– Giá tôi biết nghề thủ công thì tôi sẽ ra quách thành phố ở…

Anh có thân hình cân xứng, thường ăn mặc rất sạch sẽ, luôn luôn giữ vẻ trang trọng và rất hay tự ái. Anh có đầu óc thận trọng và hay hoài nghi.

” Anh làm công việc này xuất phát từ lòng mình hay có tính toán? Anh thường hỏi Romass như vậy.

– Thế theo anh thì thế nào?

– Không, anh nói đi.

– Theo anh thì đằng nào tốt hơn?

– Tôi không biết! Còn theo anh thì sao?

Khokhol cứ gặng mãi, buộc bần nông ấy phải tự nói ra.

– Tất nhiên, tốt hơn cả là xuất phát từ lí trí: Lí trí khiến con người làm việc một cách tỉnh táo, có lí trí thì công việc sẽ được tiến hành chắc chắn. Còn tình cảm chỉ tổ dẫn chúng ta đi chệch đường mà thôi. Nếu chỉ dựa vào tình cảm thì có lẽ tôi sẽ gây nên nhiều tai họa! Tôi sẽ thiêu ngay lão cha cố để dạy cho lão biết: Chớ có nhúng tay bừa vào công việc của người khác!

Trong làng này có một lão cha cố độc ác, mặt như chuột chù, lão ta đã can thiệp vào mối mâu thuẫn giữa Pankov với cha anh, nên anh rất ghét.

Lúc đầu hình như Pankov có ác cảm và một thái độ gần như thù địch với tôi, thậm chí cách anh gọi tôi như là chủ gọi người ở vậy. Nhưng thái độ ấy chẳng bao lâu đã biến mất, mặc dầu tôi cảm nhận được vẻ hoài nghi ngấm ngầm của anh đối với tôi, còn tôi cũng chẳng ưa gì Pankov.

Tôi còn nhớ mãi những buổi tối trong căn phòng nhỏ và sạch sẽ có vách bằng gỗ cây ghép lại. Cửa sổ đóng kín mít, trên chiếc bàn kê ở góc phòng có một ngọn đèn, cạnh đó là một người có vầng trán cao, đầu trọc, râu dài, người đó nói:

– Thực chất của cuộc sống là ở chỗ làm sao cho con người ngày càng khác xa với súc vật…

Có ba bần nông chăm chú nghe, tất cả đều có cặp mắt trong sáng và khuôn mặt thông minh. Izot thường ngồi yên không nhúc nhích, tựa như đang lắng nghe điều gì ở phía xa mà chỉ một mình anh nghe thấy. Kukushkin liên tục trở mình như bị muỗi đốt, còn Pankov thì vừa lấy tay nhổ những chiếc râu màu vàng óng vừa lặng lẽ suy nghĩ:

– Nghĩa là dù sao thì vẫn cần phải phân chia người ta thành các đằng cấp.

Điều tôi rất thích ở Pankov là anh không bao giờ ăn nói một cách lỗ mãng với Kukushkin, cố nông của anh. Anh chú ý nghe những chuyện bịa đặt ngộ nghĩnh của con người mơ mộng ấy.

Sau khi kết thúc buổi nói chuyện, tôi trở về căn gác thượng của mình và ngồi cạnh ô cửa sổ để ngỏ, nhìn xuống dưới ngôi làng đã ngủ say và cánh đồng lặng như tờ. Ánh sao lấp lánh xuyên thủng màn đêm, những ngôi sao đó càng gần mặt đất thì trông lại càng xa xôi thêm. Sự yên lặng đã đè nặng lên tâm hồn tôi, ý nghĩ của tôi cứ tràn lan theo khoảng không gian vô tận, tôi nhìn thấy hàng ngàn thôn xóm cũng lặng lẽ bám chặt lấy mặt đất bằng phẳng như cái làng của chúng tôi vậy. Bốn bề đều tĩnh mịch, yên lặng.

Sự trống trải của đêm tối bủa vây tôi như hàng ngàn con đỉa vô hình bám chặt lấy tâm hồn tôi. Dần dần tôi rơi vào cơn mộng mị, thấy mình yếu đuối, bất lực, một nỗi lo âu mơ hồ len lỏi vào trái tim tôi. Tôi chỉ là một sinh linh bé nhỏ và không đáng kể trên trái đất này…

Cuộc sống làng quê trong con mắt tôi không có gì vui vẻ. Tôi thường nghe nói và đọc được trong sáchrằng ở nông thôn người ta sống lành mạnh và chân thành hơn ở thành thị. Nhưng ở đây tôi nhìn thấy những bần nông phải làm việc quần quật suốt ngày, nhiều người trong số họ không lấy gì làm khỏe mạnh, phải làm việc quá sức và hầu như không có người nào vui vẻ cả. Những người thợ thủ công và công nhân ở thành thị làm việc cũng vất vả không kém, nhưng họ sống vui vẻ hơn và không kêu ca phàn nàn về cuộc sống buồn tẻ chán ngán như những con người luôn cau có này. Tôi cảm thấy cuộc sống của người nông dân không hề đơn giản, luôn phải hết sức để ý đến ruộng đất và dùng nhiều mánh khóe tinh vi trong cư xử. Một cuộc sống ngu muội, ai cũng sống mò mẫm như những người mù, tất cả đều sợ hãi một cái gì đó, họ không tin cậy nhau, đối xử với nhau như lang sói.

Tôi không thể hiểu được vì sao họ lại giữ mãi ác cảm với Khokhol, Pankov và những người “của chúng tôi”, những người muốn xây dựng một cuộc sống dựa trên các nguyên tắc của lí trí.

Tôi thấy rõ ưu thế của dân thành thị, khát khao hạnh phúc của họ, óc tìm tòi mạnh bạo, những nhiệm vụ và mục đích khác nhau của họ. Thường thường, vào những đêm như vậy, tôi hay nhớ đến hai thị dân.

Tấm biển này treo trên lối ra vào nhỏ hẹp của một cửa hiệu nhỏ, giữa hai cửa sổ đầy bụi. F. Kalugin có một cái bướu trên cái đầu hói lơ thơ mấy sợi tóc vàng, mắt đeo kính lúp, ngồi bên cửa sổ. Bác ta mặt tròn, người chắc nịch, hầu như lúc nào cũng mỉm cười. Thỉnh thoảng bác cầm chiếc kìm nhỏ xíu nghi ngoáy trong bộ máy đồng hồ, hoặc hát nghêu ngao, miệng há tròn xoe dưới bộ ria mép bạc. Ở cửa sổ bên kia là Z.Nebel. Bác này có bộ tóc quăn đen sẫm, chiếc mũi to hơi khoằm, cặp mắt thô lố như hai quả mận và bộ râu cằm nhọn hoắt. Người bác khô héo, gầy còm như một con quỷ, Bác cũng tháo tháo lắp lắp những bộ phận nhỏ tí xíu và thỉnh thoảng đột nhiên kêu lên, giọng trầm trầm:

– Tra ta tam, tam, tam!

Sau lưng họ, ngổn ngang những hòm xiểng, máy móc, bánh xe, đàn hộp, quả địa cầu. Khắp nơi, trên các giá gỗ là những vật bằng kim loại đủ kiểu. Trên tường có treo nhiều đồng hồ quả lắc. Tôi sẵn sàng đứng suốt ngày xem hai người này làm việc, nhưng thân hình cao lớn của tôi thường che mất ánh sáng nên họ hằm hằm nhìn tôi và phẩy tay đuổi tôi đi. Khi bước ra khỏi cửa, tôi suy nghĩ với lòng ghen tị:

“Hạnh phúc biết bao, nếu biết làm mọi việc!”

Tôi kính trọng những con người này và tin rằng họ biết bí mật của tất cả máy móc, dụng cụ nên họ có thể chữa được mọi thứ trên đời. Đó mới thật là những con người sống cho ra sống!

Tôi không thích nông thôn, những bần nông thật khó hiểu. Các bà nhà quê đặc biệt hay than phiền về bệnh tật, nào là cái gì “đau nhói trong tim” “tưng tức trong ngực” và thường xuyên “đau quặn trong bụng”. Họ nói nhiều và thích nói đến những chuyện đó, nhất là vào ngày lễ, khi ngồi ở nhà hoặc trên bờ sông Volga. Họ dễ nổi nóng và chửi bới nhau vô cùng thậm tệ. Chỉ vì đánh vỡ một cái lọ bằng sành đáng giá mười hai kopek mà ba gia đình đã dùng gậy đánh nhau đến nỗi gãy tay một bà già và vỡ sọ một chàng trai. Những cuộc ẩu đả như vậy hầu như tuần nào cũng xảy ra.

Bọn con trai thường có thái độ trơ trẽn trắng trợn đối với các cô gái và hay trêu ghẹo họ. Bọn chúng thường đuổi bắt các cô gái ngoài đồng, tốc váy họ lên trùm kín đầu rồi lấy vỏ cây gai buộc túm chặt gấu váy lại. Trò này gọi là trò “con gái khai hoa”. Bọn con gái, phần thân dưới không có gì che chắn, kêu thét lên, chửi bới om sòm. Nhưng hình như các cô có vẻ thích thú trò chơi này và thường cố ý gỡ váy xuống một cách chậm chạp. Ở nhà thờ, trong giờ cầu kinh, bọn con trai thường véo vào mông đít con gái; có lẽ chỉ vì thế mà chúng đi nhà thờ cũng nên. Ngày Chủ nhật, cha cố từ trên tòa giảng nói xuống:

– Đồ súc sinh! Không có chỗ nào khác để tụi bay làm cái trò tầm bậy ấy hay sao?

– Ở Ukraina, người ta sống tử tế hơn và thái độ của họ đối với tôn giáo có vẻ thi vị hơn. Romass kể. Còn ở đây, tất cả những gì tôi nhìn thấy sau niềm tin vào Chúa là bản năng khiếp sợ và tính tham lam vô cùng thô bỉ. Anh biết đấy, dân ở đây không có được thứ tình yêu chân thành đối với Chúa, họ không khâm phục vẻ đẹp và sức mạnh của Chúa. Đó cũng có thể là một điều tốt, vì như thế họ càng dễ thoát khỏi tôn giáo. Tôn giáo là một thứ thành kiến vô cùng có hại, tôi có thể đoan chắc với anh như vậy!

Bọn con trai hay khoác lác, nhưng nhát gan. Đã ba lần bắt gặp tôi ở ngoài đường lúc ban đêm, bọn chúng định đánh tôi nhưng không đánh được; chỉ có một lần tôi bị bọn chúng dùng gậy nện vào chân. Tất nhiên tôi không nói với Romass những chuyện nhỏ nhặt ấy, nhưng nom thấy tôi đi khập khiễng, tự anh cũng đoán được chuyện gì đã xảy ra.

– Này, thế là anh cũng được nếm quà của chúng rồi phải không? Tôi đã bảo mà!

Mặc dầu anh khuyên tôi không nên đi chơi ban đêm, thỉnh thoảng tôi vẫn mò ra bờ sông Volga, men theo phía sau vườn rau. Tôi ngồi dưới rặng liễu, nhìn sang cánh đồng cỏ bên kia sông, qua màn đêm trong suốt. Dòng Volga lững lờ trôi trông thật trang nghiêm, mặt trăng tẻ ngắt phản chiếu xuống mặt nước ánh sáng của vầng mặt trời không nhìn thấy được. Tôi không thích trăng, ở trăng có cái gì dữ tợn. Như một chú chó, thấy ánh trăng là tôi buồn phiền, muốn sủa rống lên một cách ai oán. Tôi rất vui mừng khi biết rằng mặt trăng không phát ra ánh sáng, rằng nó là một vật thể chết và trên đó không có và cũng không thể có sự sống. Trước kia tôi tưởng tượng trên mặt trăng có những người bằng đồng ở. Thân hình họ hình tam giác, họ chuyển động như những chiếc compa và phát ra tiếng leng keng kinh người như tiếng chuông nhà thờ trong tuần chay. Tất cả mọi thứ trên đó đều bằng đồng: Cây cối, động vật - tất cả đều khồng ngớt kêu leng keng chói tai, có vẻ như thù hằn trái đất và có ác ý chống lại loài người. Tôi lấy làm thú vị được biết mặt trăng là một nơi hoang vu, nhưng tôi vẫn muốn có một mảnh sao băng lớn đâm xuống mặt trăng thật mạnh khiến nó bốc cháy và chiếu rọi xuống mặt đất thứ ánh sáng của chính bản thân nó.

Nhìn dòng Volga lay động ánh trăng óng ánh như một dải lụa thêu kim tuyến, bắt nguồn ở nơi nào xa xăm trong bóng tối và biến mất vào bóng đen của bờ sông dốc, tôi thấy dòng ý nghĩ của mình trở nên mạnh mẽ và sâu sắc hơn. Vào những lúc như thế này người ta dễ nghĩ tới một cái gì khó tả bằng lời, một cái gì xa lạ với cuộc sống ban ngày. Khối nước khổng lồ thầm lặng chảy trôi. Một chiếc tàu thủy, giống như một con chim quái gở có bộ lông màu lửa, trượt trên con đường sông rộng đen sẫm, một tiếng động khe khẽ trôi theo sau như tiếng vỗ của đôi cánh nặng nề. Sát bờ sông phía cánh đồng cỏ, trên mặt nước, lập lòe một đốm lửa, từ đấy phát ra một tia sáng đỏ. Một ngư dân đang soi cá? Cũng có thể tưởng tượng đó là một vì sao thiếu nơi nương náu từ trên trời sa xuống sông và lơ lửng trên mặt nước như một bông hoa lửa.

Những điều học trong sách vở đã biến thành những ảo tưởng kì lạ, óc tưởng tượng không ngừng dệt nên những cảnh đẹp không gì sánh được. Tôi thấy như mình đang bơi theo dòng sông trong bầu không khí dịu dàng của ban đêm.

Izot gặp tôi, ban đêm trông anh càng cao lớn và đẹp trai hơn.

– Anh lại ra đây à? Anh hỏi tôi rồi ngồi xuống bên cạnh, im lặng hồi lâu, mắt chăm chú nhìn dòng sông và ngước lên bầu trời, tay vuốt vuốt bộ râu cằm vàng óng như tơ.

Rồi anh thổ lộ với tôi ước mơ của mình:

– Học xong, tôi sẽ đọc thật nhiều sách, tôi sẽ đi dọc theo tất cả các con sông và sẽ hiểu hết mọi nhẽ! Tôi sẽ dạy người khác! Đúng. Anh bạn ạ, san sẻ nỗi lòng với mọi người thật dễ chịu biết bao! Ngay cả với phụ nữ cũng vậy, nếu tâm sự với họ, họ cũng hiểu được ta. Hôm nọ, có một mụ ngồi cùng thuyền hỏi tôi: “Khi chúng ta chết sẽ ra sao nhỉ? Tôi không tin có địa ngục, cũng không tin có thiên đường.” Thấy chưa? Anh bạn ạ, họ cũng…

Chưa tìm được từ thích hợp, anh im lặng và sau cùng nói thêm:

– … Là những tâm hồn đầy sức sống…

Izot quen sống về ban đêm. Anh nhạy cảm với cái đẹp, hay nói về cái đẹp bằng những lời dịu dàng của một đứa trẻ mộng mơ. Anh tin vào Chúa Trời như một tín đồ nhưng không hề sợ hãi. Anh tưởng tượng Chúa Trời là một ông lão to lớn, đáng kính,một người chủ lương thiện và thông minh của thế gian, Chúa Trời không thể thắng được cái ác chỉ vì “Người không kịp trở tay, số lượng con người sinh ra quá đông. Nhưng không sao, Người sẽ đến kịp, rồi anh khắc thấy! Nhưng còn thêm cả Chúa Jesus thì tôi không thể nào hiểu nổi! Đối với tôi Chúa Jesus chẳng có nghĩa gì cả. Có một Chúa Trời, thế cũng đủ rồi. Đằng này lại thêm một vị Chúa nữa! Nghe người ta nói đó là con trai của Chúa Trời. Con trai của Chúa Trời thì quan trọng gì? Chúa Trời bất tử…”

Izot thường ngồi im lặng suy nghĩ về một điều gì đó, chỉ thỉnh thoảng anh mới thở dài và bảo:

– Đúng, nó như thế đấy…

– Chuyện gì vậy?

– Đây là tôi tự bảo mình…

Rồi anh lại thở dài, mắt nhìn về phía xa xăm mờ mịt.

– Cuộc sống thật là đẹp đẽ!

Tôi tán thành:

– Đúng, thật là đẹp đẽ!

Dải nước đen sẫm như nhung chuyển động mạnh. Những ngôi sao lớn lấp lánh trên mặt nước đang trải ra một dải Ngân Hà cong cong lóng lánh ánh bạc. Trái tim như khẽ hát lên những khái niệm phi lí trí về sự huyền bí của cuộc sống.

Xa xa, trên đồng cỏ, những tia nắng xuyên qua đám mây hồng, và đây, mặt trời xòe ra trên bầu trời cái đuôi công sặc sỡ.

– Mặt trời thật là kì diệu! Izot vừa lẩm bẩm vừa mỉm cười sung sướng.

Những cây táo đua nhau nở hoa, khắp làng phủ đầy những đống tuyết màu hồng nhạt sực mùi cay cay. Mùi hương ấy tỏa rộng khắp nơi, át hẳn mùi dầu hắc và mùi phân. Hàng trăm cái cây tưng bừng nở hoa. Khoác những tấm vải xa tanh hồng rực là những cánh hoa, chúng xếp thành từng hàng đều đặn chạy suốt từ làng ra tận cánh đồng. Vào những đêm trăng thanh gió mát, những cánh hoa rung rinh như cánh bướm, lao xao, nom như những làn sóng xanh mướt và màu vàng óng tràn ngập khắp ngôi làng. Chim họa mi cất tiếng hót say sưa. Ban ngày, sáo sậu trêu chọc nhau ầm ĩ và chim sơn ca ở tít trên trời cao liên tiếp rót xuống mặt đất những tiếng ngân dịu dàng.

Vào buổi tối những ngày lễ, các cô gái và những chị em đã có chồng vừa đi dạo ngoài đường vừa hát vang, miệng há to như những con chim non, mắt đắm đuối cười như người say. Izot cũng mỉm cười như người say rượu. Anh gầy tọp đi, cặp mắt biến thành hai cái hố đen ngòm. Khuôn mặt anh càng trở nên nghiêm nghị, đẹp như một bức tượng thánh. Anh thường ngủ cả ngày và chỉ xuất hiện ngoài đường vào chập tối, vẻ mặt lo lắng, hơi đăm chiêu. Kukushkin chế giễu Izot một cách suồng sã nhưng dịu dàng. Izot chỉ nhếch mép cười, vẻ bối rối:

– Thôi đừng nhắc đến chuyện ấy nữa. Biết làm thế nào?

Rồi anh tán tụng:

– Ôi, cuộc sống thật là êm ái! Cuộc sống dịu dàng biết bao, và lời nói của người ta cũng ngọt ngào làm sao! Có những lời nói đến chết anh cũng không thể quên được. Và nếu có bỗng dưng sống lại thì anh sẽ nhớ đến những lời ấy trước tiên!

– Coi chừng, kẻo chồng họ sẽ nện cho anh một trận đấy. Khokhol vừa mỉm cười diu dàng vừa cảnh cáo Izot.

– Nện cũng phải thôi. Izot đồng ý.

Hầu như hằng đêm, cùng với tiếng hót của chim họa mi, giọng hát cao vút, truyền cảm của Migun vang lên trong những khu vườn, trên cánh đồng và bờ sông. Bác hát những bài ca rất hay với giọng ca thật là tuyệt diệu. Cũng nhờ những bài hát ấy mà những bần nông đã nhiều lần tha thứ cho các lỗi lầm của bác.

Vào các tối thứ Bảy, người kéo tới tụ tập ở cửa hiệu của chúng tôi mỗi lúc mỗi đông. Trong số họ thể nào cũng có mặt ông lão Suslov, Barinov, bác thợ rèn Krotov và Migun. Họ ngồi nói chuyện với vẻ đăm chiêu. Người này đi thì người khác lại đến, và cứ như thế cho đến tận gần nửa đêm. Đôi khi bọn say rượu làm om sòm, nhất là gã lính đã giải ngũ chột mắt và cụt hai ngón tay trái tên là Kostin. Gã xắn tay áo lên, rồi vừa hoa chân múa tay vừa bước tới gần cửa hiệu như một con gà chọi, gân cổ hét, giọng khàn khàn:

– Khokhol, thằng hiểm độc và ngoại đạo kia! Hãy trả lời đi: Tại sao anh không đi lễ nhà thờ, hả? Đồ dị giáo! Quân gây rối loạn! Hãy trả lời đi: Anh là người như thế nào?

Mọi người trêu chọc gã:

– Mishka, tại sao anh bắn đứt ngón tay của anh thế? Sợ quân Thổ Nhĩ Kì à?

Gã gây sự, nhưng mọi người túm lấy gã và vừa cười ồ, la hét vừa đẩy gã xuống khe. Gã ngã lăn lông lốc theo bờ dốc như một quả bóng, miệng thét lên nghe đến nhức óc:

– Cứu tôi với! Chúng nó giết tôi…

Sau đó gã bò lên, mình đầy bụi bặm, đòi Khokhol một chai rượu vođka.

– Vì lẽ gì?

– Vì tôi đã làm trò cười cho các anh. Kostin đáp.

Đám bần nông lại cười ồ cả lên.

Chú thích

[54] Karonin (18531892), nhà văn Nga thuộc phái dân túy. Vì tham gia phong trào dân túy ông đã bị bức hại. Phần lớn tác phẩm của ông miêu tả sự thay đói của sinh hoạt nông thôn.

[55] Zlatovratsky (18451911), nhà văn Nga thuộc phái dân túy. Nội dung tác phẩm của ông chủ yếu miêu tả cuộc sống khổ cực của nông dân và tình hình phân hóa giai cấp ở nông thôn.

[56] Nekrassov (18211878), nhà thơ lớn người Nga, nhà dân chủ cách mạng.

[57] Buckle (18211862), nhà sử học tư sản tự do người Anh, nhà xã hội học theo chủ nghĩa thực nghiệm.

[58] Lyell (17971875), nhà địa chất người Anh.

[59] G. Leckl (18381903), nhà sử học người Ái Nhĩ Lan, nhà báo.

[60] Lubbock (18341912), nhà khoa học tự nhiên người Anh, nhà nhân chủng học.

[61]Taylor (18321917), nhà nhân chủng học người Anh, nhà xă hội học.

[62] Spencer (18201903), nhà triết học người Anh.

[63] Dobrolyubov (18361861), nhà dân chủ cách mạng vĩ đại người Nga, nhà triết học, nhà phê bình văn học.

[64] Goncharov (18121891), nhà văn Nga nổi tiếng.

[65] Hobbes (15881671), nhà triết học duy vật máy móc người Anh, chủ trương chính thể quân chủ chuyên chế, ông đem nhà nước ví với con hà mã và con cá sấu hung dữ và to lớn được nói tới trong hai cuốn Thánh kinh và Ước bá kí.

[66] Mackiaveli (14691527), nhà hoạt động chính trị người Ý, nhà sử học tư sản, chủ trương quân chủ chuyên chế. Cuốn Quốc vương viết năm 1513, công bố năm 1532.

[67]Trại của dân du mục, và cũng là tên gọi làng của một số dân tộc ở Siberia.

[68] Vladimir Korolenko (18531921), nhà văn nổi tiếng, nhà hoạt động xã hội người Nga.

[69] Giày cao su đen bọc ở ngoài một đôi giày khác để đi trên tuyết

[70] Tôi không nhớ rõ tên những người bần nông và có thể lẩm lẫn nhớ sai (chú thích của tác giả).

[71] Ngày 19 tháng 2 năm 1861, Nga hoàng hạ lệnh bãi bỏ chế độ nông nô. Kể từ khỉ nông nô được giải phóng đến năm 1888 mới chưa đầy 28 năm.

PHẦN IV

Một hôm, vào buổi sáng ngày lễ, lúc bà làm bếp vừa nhóm xong lò và đi ra sân, còn tôi đang ở cửa hiệu, bỗng trong bếp phát ra một tiếng “ùng” rất mạnh. Cửa hiệu rung chuyển, những hộp bánh kẹo bằng sắt tây rơi từ trên giá gỗ xuống, kính vỡ loảng xoảng, trên sàn nhà có tiếng rơi lộp bộp. Tôi nhảy xổ vào bếp, những luồng khói đen từ cửa bếp ùa vào phòng, và sau đó có tiếng nổ lép bép cùng tiếng kêu răng rắc.

Khokhol nắm lấy vai tôi:

– Đứng lại…

Ngoài cửa có tiếng kêu khóc của bà làm bếp.

– Ôi, mụ ngốc…

Romass chui vào đám khói, kêu to, văng ra một câu chửi rất tục và hét:

– Im đi! Mang nước lại đây!

Trên sàn bếp, những thanh củi bốc khói, vỏ bào bốc cháy, gạch nằm ngổn ngang, miệng lò đen ngòm trống rỗng như mới được quét sạch. Tôi sờ thấy thùng nước trong đám khói mờ mịt, hắt nước vào lửa trên sàn rồi lại quẳng những thanh củi vào bếp lò.

– Cẩn thận! Khokhol vừa nói vừa dắt tay bà làm bếp, đẩy bà ta vào phòng và ra lệnh:

– Khóa cửa hiệu lại! Phải cẩn thận đấy, Maksimich! Có thể còn nổ nữa… Nói rồi anh ngồi xổm, xem xét những thanh củi mà tôi vừa mới quẳng vào lò.

– Anh làm gì thế?

– Chà! Trông đây này!

Anh giơ cho tôi xem một thanh củi tròn nứt toác, tôi nhìn thấy bên trong có một lỗ khoan ám khói trông rất kì lạ.

– Anh rõ chưa? Bọn quỷ sứ đã nhồi thuốc nổ vào củi. Đồ ngốc! Một funt thuốc nổ thì làm được cái quái gì kia chứ?

Anh đặt thanh củi sang một bên, vừa rửa tay vừa nói:

– May mà Aksinya đã đi ra ngoài sân, không thì giập xương mất…

Luồng khói đầy khí than đă tan, tôi thấy bát đĩa trong ngăn tủ bị vỡ, toàn bộ các ô cửa kính bị sức ép của vụ nổ bắn văng khỏi khung cửa sổ, gạch ở cửa lò cũng long ra.

Tôi không bằng lòng với sự bình tĩnh của Khokhol trong giờ phút này. Hình như cái việc ngu xuẩn ấy không làm anh tức giận chút nào. Ngoài đường, bọn trẻ con chạy loăng quăng và kêu inh ỏi:

– Nhà Khokhol cháy! Cháy!

Một mụ nào đó khóc lóc than thở. Aksinya ở trong phòng kêu lên lo lắng:

– Mikhailo Antonich, người ta đang phá cửa hiệu xông vào!

– Này, này, khẽ chứ! Anh vừa nói vừa lấy khăn mặt lau bộ râu cằm ướt sũng.

Những bộ mặt lông lá, nhăn nhó vì sợ hãi và tức giận ngó qua các ô cửa sổ để ngỏ, mắt nheo lại vì khói cay. Một người rú lên, vẻ kích động:

– Tống cổ bọn chúng nó ra khỏi làng! Nhà chúng nó hay có chuyện om sòm lắm! Cái gì thế?

Một gã bần nông bé nhỏ tóc hung vừa làm dấu thánh giá vừa mấp máy môi và định chui qua cửa sổ, nhưng không chui lọt. Tay phải gã cầm chiếc rìu, còn tay trái thì run run nắm bệ cửa sổ, nhưng bị tuột tay.

Romass cầm thanh củi trong tay, hỏi gã:

– Mày định leo đi đâu?

– Vào chữa cháy, anh bạn ạ…

– Có cháy chiếc gì đâu nào…

Gã bần nông sợ hãi há hốc mồm, lỉnh mất. Romass bước ra bậc tam cấp của cửa hiệu, giơ thanh củi lên và nói với đám người đứng đó:

– Trong các anh có người đã nhồi thuốc nổ vào thanh củi tròn này rồi nhét vào đống củi của chúng tôi. Nhưng thuốc nổ ít quá nên chẳng ăn thua gì cả…

Tôi đứng sau Khokhol, nhìn đám đông và nghe gã bần nông cầm rìu kể với vẻ sợ hãi:

– Nó dám vung thanh củi lên dọa tôi…

Gã lính Kostin say khướt hét toáng:

– Tống cổ nó đi, đồ yêu quái! Lôi nó ra tòa…

Nhưng số đông đều im lặng, chăm chú nhìn Romass và hoài nghi nghe anh nói tiếp:

– Muốn làm nổ tung một căn nhà gỗ cần phải có nhiều thuốc nổ. Thôi, các người giải tán đi thôi…

Có người hỏi:

– Trưởng thôn đâu?

– Cần phải đi tìm cảnh sát thôn.

Mọi người giải tán chậm chạp, miễn cưỡng như tiếc rẻ một cái gì đó.

Chúng tôi ngồi vào bàn uống trà. Aksinya rót nước cho mọi người, lúc này trông bà dịu dàng và phúc hậu hơn bao giờ hết. Bà liếc nhìn Romass với vẻ thông cảm:

– Anh không kiện cho chúng một mẻ, thành thử chúng cứ tác oai tác quái mãi.

– Họ làm thế mà anh không tức giận à? Tôi hỏi.

– Không có đủ thì giờ để tức giận từng hành động ngu xuẩn như vậy được.

Tôi nghĩ bụng: “Giá tất cả mọi người đều bình tĩnh giải quyết công việc của mình như vậy nhỉ!”

Nhưng anh đã chuyển sang nói chuyện sắp đi Kazan và hỏi tôi xem cần mang những sách gì về.

Đôi khi tôi cảm thấy trong tâm hồn anh có một thứ máy móc đang chạy như máy của một chiếc đồng hồ, nó đã được lên dây cót từ khi anh sinh ra và cứ thế chạy suốt đời. Tôi yêu mến Khokhol và rất kính trọng anh, nhưng tôi muốn anh bực tức với tôi hoặc với một người nào đó, muốn anh quát tháo và giậm chân, dù chỉ một lần thôi. Song hình như anh không muốn hoặc không thể bực tức. Khi người ta châm chọc anh bằng những hành động ngu xuẩn hoặc đê tiện, anh thường chỉ nheo cặp mắt xám với vẻ giễu cợt, nói một câu gì đó, thường là rất đơn giản và tàn nhẫn, bằng lời lẽ ngắn gọn và lạnh lùng.

Chằng hạn như có lần anh hỏi Suslov:

– Lão già kia, lão sống đạo đức giả như thế để làm gì, hả?

Cặp má vàng bủng và cái trán của ông lão từ từ chuyển thành màu đỏ tía. Hình như chân những sợi râu bạc phơ của ông lão cũng biến thành màu đỏ.

– Việc đó nào có lợi gì cho lão đâu, mà lão còn mất uy tín là đằng khác.

Suslov cúi đầu đồng ý:

– Đúng, không có lợi thật!

Sau đó Suslov nói với Izot:

– Anh ta mới thật là người biết dẫn đường chỉ lối! Chúng ta cần phải lựa chọn những người như vậy làm quan mới được…

… Romass dặn dò vắn tắt và rõ ràng những điều tôi cần phải làm khi anh đi vắng. Tôi có cảm tưởng anh đã quên việc người ta định dùng vụ nổ để dọa nạt anh như là người ta quên việc bị ruồi muỗi đốt vậy.

Pankov bước tới, anh nhìn quanh bếp lò và cau mày hỏi:

– Các anh không sợ à?

– Ồ, có gì đáng sợ đâu?

– Chiến tranh đấy!

– Ngồi xuống đây uống trà đã.

– Nhà tôi đang đợi.

– Anh ở đâu về thế?

– Đi đánh cá. Đi với Izot.

Anh trở ra. Khi đi qua bếp, anh nhắc lại với vẻ đăm chiêu:

– Chiến tranh đấy.

Anh thường nói với Khokhol bằng những lời vắn tắt y như họ đã nói hết với nhau từ lâu tất cả mọi điều quan trọng và phức tạp. Tôi nhớ có lần sau khi nghe Romass kể câu chuyện về triều đại Ivan Grozny, Izot nói:

– Một ông vua chán chết!

– Một tên đồ tể. Kukushkin bổ sung.

Còn Pankov thì nói với vẻ quả quyết:

– Hắn chẳng lấy gì làm sáng suốt. Hắn đã sát hại các vương công và thay thế vào đó những tên tiểu quý tộc. Hắn còn rước về bọn ngoại quốc nữa. Như thế đúng là thiếu sáng suốt. Tiểu địa chủ tồi hơn đại địa chủ. Con ruồi không phải như chó sói; dùng súng không bắn chết nó được, nhưng nó quấy rầy còn khổ hơn là chó sói.

Kukushkin đến, tay xách thùng đất sét nhào với nước. Anh vừa lấy gạch xây lại bếp lò vừa nói:

– Lũ quỷ ấy cứ tưởng bở! Ngay đến con rận trên mình cũng không thể giết được còn định đi giết người khác! Antonich, anh đừng chở nhiều hàng về cùng một lúc, tốt hơn cả là chở về in ít thôi, nhưng thường xuyên hơn, không có thì coi chừng đấy, người ta sẽ thiêu cả anh cho mà xem! Hiện nay anh đang tổ chức cái đó, anh hãy liệu mà đón lấy tai họa!

“Cái đó” ở đây ám chỉ nhóm của các chủ vườn hoa quả, “cái đó” làm cho bọn phú nông trong làng rất khó chịu. Khokhol nhờ sự giúp đỡ của Pankov, Suslov và thêm hai, ba bần nông biết điều, hầu như đã thu xếp ổn thỏa “cái đó”. Đa số những người trong làng bắt đầu có thái độ tốt với Romass, số người mua hàng ở cửa hiệu tăng lên rõ rệt, ngay cả những bần nông “vô dụng” như Barinov và Migun cũng cố gắng giúp đỡ Khokhol bằng mọi cách.

Tôi rất thích Migun, tôi yêu những bài hát hay và buồn của bác ta. Khi hát, bác thường nhắm mắt lại,lúc đó khuôn mặt đau khổ của bác không còn bị co giật nữa. Bác sống trong những đêm tối trời, khi bầu trời không có trăng hoặc ánh trăng bị những đám mây dày đặc che khuất. Có hôm, ngay từ chập tối bác đã bảo nhỏ tôi:

– Lát nữa ra sông Volga nhé!

Ra tới bờ sông, tôi thấy bác đang ngồi ở đuôi con thuyền độc mộc nhỏ của bác, hai chân đen sì và cong cong thả xuống mặt nước đen ngòm. Bác vừa sửa lại những dụng cụ bị cấm dùng để đánh cá tầm, vừa thì thầm:

– Khi mà bọn quý tộc nhạo báng tôi, thôi được, tôi có thể chịu đựng, chó má thật, chúng nó có địa vị, biết được những điều mà tôi không biết. Nhưng khi một ông bạn bần nông chèn ép tôi thì làm sao tôi có thể chịu đựng được? Chúng ta khác gì nhau? Họ có trong túi đồng rúp, còn tôi chỉ có đồng kopek thôi, khác nhau chỉ có thế!

Khuôn mặt Migun giần giật một cách đau đớn, lông mày nhướn lên, ngón tay động đậy rất nhanh, bác vừa tháo vừa lấy giũa giũa nhọn những lưỡi câu, giọng nói chân thành của bác khẽ vang lên:

– Tôi bị coi là một tên ăn trộm, đúng, tôi là kẻ có tội! Nhưng tất cả mọi người cũng đều sống bằng nghề trộm cướp cả thôi, tất cả đều hút máu và cắn xé lẫn nhau. Thật vậy. Chúa không ưa chúng ta, nhưng quỷ lại nuông chiều chúng ta.

Dòng sông đen sẫm trườn bên cạnh chúng tôi, những đám mây đen bay ngang trời; trời tối quá, không thể trông thấy bờ bên kia của cánh đồng cỏ. Những gợn sóng khẽ dạt vào bãi cát ở bờ sông, rửa sạch chân tôi như muốn kéo tôi đi cùng vào bóng tối vô tận trôi về đâu không rõ.

– Con người ta cần phải sống chứ? Migun vừa thở dài vừa hỏi.

Ở trên núi vọng xuống tiếng chó sủa buồn bã. Như qua một giấc mơ, tôi nghĩ: “Nhưng sống như bác thế này thì sống làm gì kia chứ?”

Mặt sông yên tĩnh, đen ngòm đầy ghê sợ. Bóng tối ấm áp bao trùm và trải dài vô tận.

– Người ta sẽ giết Khokhol mất. Coi chừng, họ sẽ giết cả anh nữa đấy. Migun lẩm bẩm, rồi đột nhiên khẽ hát một bài:

Mẹ tôi yêu mến tôi,

Người thường hay nói:

– Yasha, con ơi,

Con yêu quý của mẹ,

Con hãy sống lặng lẽ…

Bác nhắm mắt, giọng bác cất lên mạnh mẽ hơn và da diết hơn, ngón tay vừa tháo sợi dây câu vừa từ từ động đậy:

Tôi không nghe lời mẹ,

Ôi, tôi chẳng chịu nghe…

Tôi có một cảm giác kì lạ: Dường như đất dưới chân tôi bị dòng nước đen ngòm nặng nề xói lở, đang sụt xuống, còn tôi thì trượt và rơi từ mặt đất xuống một chốn tối om, nơi mặt trời vĩnh viễn bị vùi lấp.

Migun kết thúc bài hát cũng đột ngột như lúc bắt đầu. Bác lặng lẽ đẩy chiếc thuyền xuống nước, ngồi vào đó rồi gần như im lìm biến mất trong bóng tối. Tôi nhìn theo bóng bác và suy nghĩ.

“Những con người ấy sống để làm gì nhỉ?”

Tôi có một người bạn khác là Barinov. Tính anh ta bừa bãi, khoác lác, lười biếng, hay đặt điều và lang bạt không thể ở đâu yên. Anh đã từng sống ở Moskva. Anh vừa khạc nhổ vừa nói về Moskva như sau:

– Đấy là một thành phố địa ngục! Hổ lốn. Nhà thờ có tới mười bốn ngàn lẻ sáu cái, còn dân chúng thì toàn bọn bịp bợm. Tất cả đều ghẻ lở như lũ ngựa, thật đấy! Bất chấp là thương gia, quân nhân hay tiểu thị dân tất cả đều vừa đi vừa gãi. Đúng, ở đấy có súng thần công, một vật khổng lồ! Chính tay Pyotr Đại đế đúc để bắn bọn phiến loạn. Có một mụ quý tộc vì tình đã nổi dậy chống ông ta. Ông ta chung sống với mụ đúng bảy năm, ngày này qua ngày khác, sau đó bỏ mụ cùng với ba đứa con. Mụ ta tức giận, và thế là nổi loạn. Ông anh có biết không, cứ mỗi lần súng thần công của ông ta nổ vào bọn phiến loạn là lập tức chín ngàn ba trăm linh tám người bị chết. Ngay cả ông ta cũng hoảng sợ. Ông nói với đức tổng giám mục Filaret: “Không được, phải bít cái của khỉ ấy lại kẻo nó cứ cám dỗ!” Thế là người ta bít lại…

Tôi nói với Barinov rằng tất cả những chuyện đó đều nhảm nhí, anh ta tức giận:

– Trời ơi! Anh này mới khó tính chứ! Câu chuyện này là do một người thông thái kể tỉ mỉ cho tôi nghe, thế mà anh…

Barinov cũng đã từng tới Kiev “lễ thánh”, anh kể:

– Thành phố ấy cũng nằm trên đồi núi như làng ta, cũng có một con sông, nhưng tôi quên mất tên rồi. So với sông Volga thì con sông đó chỉ giống như một cái ao nhỏ! Nói thẳng ra, thành phố ấy rất hỗn loạn. Tất cả các đường phố đều quanh co và dôc. Dân ở đấy toàn là người Khokhol, nhưng không như Mikhailo Antonovich, mà là nửa Ba Lan, nửa Tatar. Họ chỉ nói lúng búng, không nói to. Người nào đầu tóc cũng rối bù, bẩn thỉu. Họ ăn nhái, mỗi con nhái ở đó nặng khoảng mười funt. Họ cưỡi bò và thậm chí dùng bò để cày. Bò của họ thật là tuyệt, con bé nhất cũng to gấp bốn lần bò của chúng ta. Mỗi con nặng tám mươi ba pood. Ở đấy, có năm mươi bảy ngàn tu sĩ và hai trăm bảy mươi ba giáo chủ… Ồ, anh này rõ lạ chửa! Anh làm sao tranh cãi nổi với tôi? Tất cả cái đó chính mắt tôi đã trông thấy, còn anh, anh đã đến đấy chưa? Chưa đến. Đó! Ông anh thấy đấy, tôi ưa nhất là những điều chính xác…

Barlnov thích dùng con số, tôi dạy cho anh biết tính cộng và tính nhân, nhưng anh lại không chịu học tính chia. Anh say mê nhân những con số lớn và thường hay bị nhầm lẫn. Anh lấy gậy viết lên cát một dãy số dài rồi nhìn những con số đó bằng cặp mắt tròn xoe ngây thơ đầy kinh ngạc. Anh thốt lên:

– Con số này không ai có thể đọc nổi!

Anh là người luộm thuộm, đầu tóc rối bù, quần áo rách rưới, khuôn mặt anh có thể nói là đẹp, anh có bộ râu cằm loăn xoăn nom vui nhộn, cặp mắt xanh luôn nheo cười với nụ cười ngây thơ. Ở anh và Kukushkln hình như có điểm gì giống nhau, và có lẽ vì vậy mà họ xa lánh nhau.

Barinov đã hai lần tới biển Caspian đánh cá, anh luôn luôn mơ tưởng đến biển:

– Ông anh ơi, không thể ví biển với bất cứ cái gì được. Đứng trước biển anh chỉ như một con ruồi thôil Nếu anh nhìn ra biển, anh sẽ có cảm giác như không thấy mình đâu nữa! Cuộc sống ở đấy thật là thú vị. Mọi người đều đổ xô ra biển, ngay cả một ông tu viện trưởng cũng ra đó. Ông ta đâu phải loại thường, cũng là người làm việc. Lại có cả một ả làm bếp nữa, cô ta vốn là nhân tình của một ông biện lí. Anh xem, như vậy thì còn đòi gì nữa? Nhưng cô ả không chịu và đã nói với ông kia: “Anh biện lí ạ, anh đối với em rất tốt, nhưng dù sao thì cũng xin từ biệt anh!” Bởi vì rằng ai đã nhìn thấy biển, dù chỉ một lần thôi, người đó sẽ lại bị hấp dẫn tới đó. Ớ đấy rộng mênh mông như ở trên trời vậy, không có cảnh chen chúc xô đẩy nhau! Tôi cũng sẽ tới đó ở suốt đời. Tôi không thích đông người, có vậy thôi! Tôi muốn sống như một ẩn sĩ ở sa mạc, nhưng tôi chưa biết sa mạc nào tốt…

Anh ta giống như một con chó vô chủ chạy loăng quăng trong làng; mọi người khinh bỉ anh nhưng vẫn nghe những câu chuyện của anh một cách say sưa như nghe những bài hát của Migun vậy.

– Hắn nói láo tài thật! Kể cũng hay!

Những chuyện bịa đặt của anh ta đôi khi làm chocả đầu óc những người thực tế như Pankov phải bối rối. Một hôm bần nông hay hoài nghi ấy đã nói với Khokhol:

– Barinov chứng minh rằng sách vở chưa nói hết về Grozny, còn nhiều điều bí ẩn. Hình như Grozny vốn là một con ma hiện hình, hay biến thành một con chim đại bàng. Do đó, từ thời hắn làm vua, người ta mới khắc chim đại bàng trên những đồng tiền để kỉ niệm hắn.

Đã bao lần tôi nhận thấy rằng người ta thích những chuyện bịa đặt kì quái, đôi khi được bịa ra một cách vụng về, hơn là những câu chuyện đúng đắn về cuộc sống thực.

Nhưng khi tôi nói với Khokhol điều ấy thì anh chỉ mỉm cười:

– Cái đó rồi sẽ qua! Chỉ cần mọi người học được cách suy nghĩ là họ khắc biết tìm đến chân lí. Anh cần phải hiểu cả những con người kì lạ như Barinov và Kukushkin nữa. Nên biết, đó là những nghệ sĩ, những nhà sáng tác. Có lẽ Jesus cũng là một con người kì lạ như vậy. Anh phải đồng ý với tôi rằng nhiều chuyện Jesus bịa cũng khá đấy chứ…

Tôi lấy làm lạ rằng tất cả những người này rất ít và không thích nói đến Chúa. Chỉ có ông lão Suslov là thường nói vẻ tin chắc:

– Tất cả đều do ý Chúa!

Nhưng bao giờ tôi cũng nghe thấy trong lời nói ấy có cái gì tuyệt vọng, sống với những người này rất thú vị, trong những đêm trò chuyện tôi đã học được ở họ nhiều điều. Tôi có cảm tưởng rằng mỗi vấn đề Romass nêu lên giống như một cây cổ thụ đâm sâu rễ vào cuộc sống, ở đó, trong lòng cuộc sống, những nhánh rễ này bện chặt với rễ của một cây cổ thụ khác cũng to lớn như vậy, và trên mỗi cành cây đều nảy nở những ý nghĩ chói lọi, những lời nói ngân vang. Tôi cảm thấy mình lớn lên và hút được chất mật bổ dưỡng của sách vở. Tôi ăn nói đã vững vàng hơn, và nhiều lần Khokhol đã phải vừa mỉm cười vừa khen tôi:

– Maksimich, anh hành động khá lắm!

Tôi cảm ơn anh về những lời khen ngợi ấy biết chừng nào!

Pankov thỉnh thoảng cũng dẫn vợ đến. Chị ta nhỏ nhắn, khuôn mặt dịu dàng và cặp mắt xanh thông minh, ăn mặc “theo lối tỉnh thành”. Chị rón rén ngồi một góc, môi mím chặt với vẻ khiêm tốn, nhưng một lát sau chị há hốc miệng ngạc nhiên và cặp mắt mở to sợ hãi. Đôi lúc nghe thấy một lời sắc sảo, chị cười ngượng nghịu và lấy tay che mặt. Còn Pankov thì nháy mắt ra hiệu cho Romass:

– Cô ấy cũng hiểu đấy nhé!

Thường có một số người điệu bộ thận trọng hay lui tới chỗ Khokhol. Khokhol cùng với họ lên gác thượng, chỗ tôi ở, và ngồi đấy hàng giờ.

Aksinya đưa thức ăn và nước uống lên cho họ; họ ngủ ở đấy, không ai trông thấy cả, trừ tôi và bà làm bếp trung thành với Romass như một con chó trung thành với chủ, bà luôn miệng cầu nguyện cho anh ta. Đêm đêm, Izot và Pankov chở thuyền đưa những vị khách này lên một chiếc tàu thủy đi ngang qua hoặc đưa họ tới bến tàu ở Lobyshki. Từ trên núi, tôi theo dõi chiếc thuyền bé bằng hạt đậu thấp thoáng trên dòng sông đen sẫm hoặc bàng bạc dưới ánh trăng, một ánh đèn lung linh trên mặt nước thu hút sự chú ý của viên thuyền trưởng. Tôi nhìn và cảm thấy như mình đang tham dự vào một công việc to lớn, bí mật.

Mariya Derenkova từ thành phố về, nhưng tôi không còn thấy ở cô ta cái nhìn đã từng làm tôi bối rối nữa. Bây giờ tôi thấy cặp mắt của cô là cặp mắt của một cô gái sung sướng vì biết rõ vẻ đẹp của mình và vui mừng vì có một người to lớn để râu cằm đang theo đuổi. Anh nói chuyện với cô cũng với vẻ bình thản và hơi có chút giễu cợt như với tất cả mọi người, chỉ khác ở chỗ là anh hay vuốt râu và cặp mắt của anh sáng lên một cách ấm áp hơn. Giọng nói thanh thanhcủa cô vang lên vui vẻ, cô mặc áo dài xanh, trên mái tóc vàng óng buộc một chiếc nơ xanh. Đôi bàn tay trẻ con của cô không lúc nào yên, dường như đang tìm cách nắm lấy một vật gì đó. Cô hầu như luôn miệng khe khẽ hát, miệng không há to, và lấy khăn mùi soa phe phẩy khuôn mặt hồng hào nom mệt mỏi. Ở cô như có cái gì khiến tôi phải bối rối khác trước, khó chịu và bực bội. Tôi cố sức tránh gặp mặt cô.

Vào trung tuần tháng Bảy Izot bỗng nhiên mất tích. Có tin đồn rằng anh bị chết đuối. Khoảng hai ngày sau, tin đó đã được xác thực: Cách làng khoảng bảy dặm xuôi theo dòng sông, người ta thấy chiếc thuyền của anh bị thủng đáy và mạn thuyền vỡ dạt vào phía bờ sông giáp cánh đồng cỏ. Người ta đoán tai nạn này có lẽ vì Izot ngủ quên và thuyền của anh đâm vào mũi ba chiếc sà lan đậu cách làng khoảng năm dặm xuôi theo dòng sông.

Khi xảy ra tai họa, Romass đang ở Kazan. Tối hôm đó, Kukushkin tới cửa hiệu tìm tôi. Anh ngồi xuống đống bao tải, uể oải, lặng thinh nhìn xuống chân, rồi vừa hút thuốc vừa hỏi:

– Khi nào Khokhol về?

– Tôi không rõ.

Anh bắt đầu lấy lòng bàn tay xát mạnh vào khuôn mặt sứt sẹo, khẽ chửi những câu tục tằn rồi gầm lên như bị hóc xương.

– Anh làm sao thế?

Anh cắn môi, liếc nhìn tôi. Cặp mắt anh đỏ ngầu, hàm răng run cầm cập. Thấy anh không nói được, tôi lo lắng chờ đợi một tin buồn. Cuối cùng, anh nhìn ra ngoài đường, cố gắng lắm mới lắp bắp được mấy câu:

– Tôi cùng đi với Migun. Xem chiếc thuyền của Izot. Đáy thuyền có vết rìu bổ, anh rõ chưa? Nghĩa là Izotuska[73] bị giết! Nhất định thế…

Anh vừa lắc đầu vừa chửi rủa không tiếc lời, giọng nói nóng nảy, khô khan của anh nghe như nức nở, sau đó anh im lặng và bắt đầu làm dấu thánh giá. Tôi không thể chịu nổi khi nhìn thấy bần nông này muốn khóc mà không khóc được và không biết sao để khóc. Toàn thân anh run lên, nghẹt thở vì tức giận và buồn rầu. Anh đứng bật dậy, lắc đầu, bỏ đi.

Chiều hôm sau, bọn trẻ con tắm sông thấy xác Izot nằm dưới gầm một chiếc sà lan hỏng. Chiếc sà lan nằm chếch phía trên làng một chút, nửa đáy ghếch lên những tảng đá ở bờ sông, nửa kia ngâm dưới nước. Thân hình dài thuồn thuỗn của Izot nằm sóng soài dưới chiếc sà lan, gần phần đuôi, người mắc vào chỗ bánh lái hỏng nát. Anh nằm úp mặt xuống đất, sọ bị bổ vỡ toang, trống rỗng, nước đã xói hết óc ra ngoài. Chàng đánh cá ấy bị người ta bổ rìu từ phía sau, gáy anh như bị một nhát rìu đẽo vạt. Dòng nước chảy lay động xác Izot, đẩy hai chân anh dạt vào bờ, làm động đậy hai cánh tay. Có cảm giác như anh đang gắng sức bò lên bờ.

Khoảng hai chục tên phú nông đứng trên bờ, vẻ mặt đăm chiêu và cau có, còn các bần nông thì chưa đi làm đồng về. Viên trưởng thôn, một tên bất lương và nhút nhát, vừa chạy ngược chạy xuôi vừa vung vẩy chiếc ba toong. Hắn khịt khịt mũi và đưa ống tay áo sơ mi màu hồng lên quệt. Tên chủ hiệu Kuzmin to béo, bụng phệ, đứng dạng hai chân, hết nhìn tôi lại nhìn Kukushkin. Hắn cau mày hăm dọa, nhưng nước mắt đã ứa ra trong cặp mắt trắng dã, và tôi thấy bộ mặt rỗ của hắn có vẻ tội nghiệp.

– Ôi, thật là đểu giả! Viên trưởng thôn vừa khóc vừa chạy lon ton bằng đôi chân khòng khòng. Chao ôi, bọn bần nông tệ quá!

Cô con dâu của hắn, một cô ả béo ụt ịt, ngồi trên tảng đá, mắt lờ đờ nhìn xuống mặt nước, tay run run làm dấu thánh giá. Miệng cô ả mấp máy, môi dưới dày và đỏ choét trễ xuống trông thật khó coi, nom như mõm chó, để lộ hàm răng vàng khè như răng cừu.

Đám con gái và trẻ con từ trên núi đổ xuống như những hòn đất; những bần nông, mình đầy bụi, vội vã đi tới. Trong đám đông có tiếng nói lao xao khe khẽ và dè dặt:

– Lão bần nông ấy hay gây sự lắm.

– Ai kia?

– Kukushkin, hắn là một tay hay gây sự…

– Một mạng người chết oan…

– Izot vốn là người hiền lành…

– Hiền lành à? Kukushkin vừa xông đến chỗ đám bần nông vừa la lớn. Thế tại sao các người lại giết anh ta, hả? Quân đê tiện!

Đột nhiên có một mụ nào đó cười rộ lên như người loạn thần kinh. Tiếng cười của mụ giống như một cái roi mây quất vào đám đông. Đám bần nông thét lên, xông vào nhau, chửi bới, kêu gào ầm ĩ. Kukushkin nhảy bổ đến chỗ tên chủ hiệu, vung tay tát vào cái má xù xì của hắn.

– Này, đồ súc sinh!

Anh vung hai nắm đấm, rồi lập tức nhảy ra khỏi đám ẩu đả và cất tiếng gọi tôi, giọng gần như vui vẻ:

– Đi đi, họ sắp đánh nhau đấy!

Anh đã bị đánh. Anh nhổ máu ở chỗ môi bị rách ra, nhưng khuôn mặt anh ánh lên niềm vui sướng…

– Anh có trông thấy tôi tát thằng Kuzmin không?

Barinov chạy đến chỗ chúng tôi, hoảng hốt nhìn đám đông đang xúm lại bên chiếc sà lan. Từ đám đông phát ra giọng viên trưởng thôn:

– Không, anh phải nói rõ, tôi nể nang ai nào? Anh nói đi!

– Ta phải chuồn ngay khỏi đây thôi. Barinov vừa càu nhàu vừa đi lên dốc.

Buổi chiều hôm ấy thật là oi bức, không khí nặng nề, ngột ngạt làm người ta thấy khó thở. Mặt trời đỏ tía đã lặn vào đám mây xanh dày đặc, phản chiếu ánh đỏ lấp lánh trên các bụi cây. Đâu đây có tiếng sấm ì ầm.

Trước mặt tôi là cái xác của Izot đang động đậy. Trên cái sọ vỡ, những sợi tóc thẳng ra xuôi theo dòng nước như dựng đứng cả lên. Tôi nhớ lại giọng khàn khàn và những lời nói rất hay của anh:

“Trong mỗi người đều có cái ngây thơ, cũng cần phải dựa vào cái ngây thơ đó! Thí dụ như Khokhol chẳng hạn: Anh ta có vẻ sắt đá, nhưng tâm hồn lại rất ngây thơ!”

Kukushkin bước bên cạnh tôi, tức giận:

– Rồi tất cả bọn mình cũng đến bị như thế… Trời ơi, thật là ngu xuẩn!

Khoảng hai ngày sau, mãi khuya Khokhol mới về. Chắc anh rất hài lòng về chuyện gì đó, nên có vẻ dịu dàng khác thường. Khi tôi mở cửa cho anh vào nhà, anh vỗ vai tôi:

– Maksimich, anh lại thiếu ngủ rồi!

– Izot bị giết rồi.

– Saao?

Đôi gò má anh phồng lên như những cái u và bộ râu cằm rung rung như những dòng nước chảy ròng ròng xuống ngực. Quên cả bỏ mũ, anh đứng giữa phòng, nheo mắt và lắc đầu:

– Thế đấy. Không biết ai giết chứ? Phải, tất nhiên… Anh từ từ bước tới cửa sổ và ngồi ở đó, hai chân duỗi ra. Tôi đã bảo anh ta rồi mà… Có cấp trên nào đến chưa?

– Hôm qua có viên trưởng thôn đến.

– Thế, kết quả ra sao? Anh hỏi rồi lại tự trả lời. Tất nhiên là chẳng được gì?

Tôi bảo anh rằng viên trưởng thôn, giống như mọi khi, đứng về phía Kuzmin và ra lệnh bỏ tù Kukushkin vì tội đã tát tên chủ hiệu.

– Hừ, thế thì còn biết nói gì nữa!

Tôi xuống bếp đun nước.

Trong lúc uống trà, Romass nói:

– Đám dân này thật đáng thương, họ giết chết những người ưu tú của họ. Có thể là họ sợ những người đó. Những người đó “không hợp rơ” với họ, như ở đây người ta vẫn thường nói. Lúc tôi bị đày đi Siberla, một người tù khổ sai đã kể cho tôi nghe một câu chuyện. Hắn làm nghề ăn cắp, hắn có cả một bọn năm người. Bỗng một hôm một người nói: “Các cậu ạ, chúng mình nên bỏ cái nghề ăn cắp này đi, dù sao thì cũng sống hoài sống khổ!” Thế là vì câu nói đó, bọn chúng đã bóp cổ anh ta khi anh ta say rượu ngủ mê. Người tù khổ sai không tiếc lời khen người bị giết, hắn nói: “Tôi không thương tiếc ba người mà sau này tôi đã trừ khử, cho tới nay tôi chỉ tiếc mỗi anh bạn ấy, anh ta là một người tốt, thông minh, vui vẻ, có tâm hồn trong sạch.” Tôi hỏi: “Vì sao các anh lại giết anh ấy, các anh sợ anh ấy tiết lộ chứ gì?” Hắn tỏ vẻ bực mình: “Không phải, anh ta sẽ không vì tiền hoặc vì bất cứ thứ gì mà tiết lộ đâu! Chỉ vì chúng tôi không hợp làm bạn với anh ta nữa, tất cả chúng tôi toàn là những người có tội, còn anh ta thì dường như là một người chính trực. Như thế không được!”

Khokhol đứng dậy và đi lại trong phòng, hai tay chắp sau lưng, môi ngậm tẩu, anh mặc chiếc áo sơ mi trắng kiểu Tatar dài đến tận gót chân. Anh giậm chân đến thình một cái rồi khẽ nói, vẻ trầm ngâm:

– Đã nhiều lần tôi thấy cái cảnh người ta sợ hãi người chính trực, người ta gạt bỏ người tốt ra khỏi cuộc sống. Có hai kiểu đối xử với những người này: Hoặc là người ta tìm mọi cách thủ tiêu họ sau khi đã săn đuổi họ rất khéo, hoặc là lấy lòng họ, khúm núm trước mặt họ như những con chó. Thái độ thứ hai ít gặp hơn. Còn học cách sống của họ, bắt chước họ thì người ta lại không thể làm được và không biết làm. Cũng có thể là không thích chăng?

Anh cầm lấy cốc nước chè nguội lạnh, tiếp:

– Có thể là người ta không thích! Anh thử nghĩ xem: Người ta tốn nhiều công mới tạo ra được cho mình một cuộc sống yên ổn, họ đã quen với nếp sống ấy rồi, bỗng nhiên có một người nào đó phản đối họ và nói: “Các anh sống như vậy không được!” Không được à? Nhưng chúng tôi đã dốc hết phần sức lực dồi dào nhất của mình vào cuộc sống ấy rồi, anh cút đi cho rảnh mắt! Hãy nện cho ông thầy, người chính trực ấy một trận. Chớ có quấy rầy! Dù sao thì chân lí đầy sức sống vẫn thuộc về những người nói câu “Các anh sống như vậy không được!” Chân lí thuộc về họ. Như thể chính là họ đẩy cuộc sống tiến lên phía trước tốt đẹp hơn.

Anh chỉ tay lên giá sách và nói thêm:

– Đặc biệt là những cuốn sách này! Chà, giá mà tôi biết viết sách thì tốt biết bao! Nhưng tôi không có tài làm việc ấy, vì những ý nghĩ của tôi rất nặng nề và lộn xộn.

Anh ngồi vào bàn, chống khuỷu tay, hai tay bóp đầu:

– Thương Izot quá đi mất…

Rồi anh ngồi im lặng hồi lâu.

– Thôi, chúng ta đi ngủ đi…

Tôi trở về gác thượng, ngồi bên cạnh cửa sổ. Trên cánh đồng bỗng nổi lên những tia chớp nguồn bao lấy nửa bầu trời. Dường như mỗi khi vết sáng đỏ trong suốt loang ra trên bầu trời thì mặt trăng lại rùng mình sợ hãi. Tiếng chó sủa não nùng. Nếu không có tiếng sủa ấy thì có thể tưởng như mình đang sống trên một hòn đảo hoang vắng. Có tiếng sấm ì ầm xa xa, một luồng hơi ấm nặng nề ngột ngạt lùa vào cửa sổ.

Trước mắt tôi là hình ảnh xác Izot nằm trên bờ, dưới bụi liễu. Khuôn mặt xanh xao của anh hướng lên trời, còn cặp mắt trong sáng như thủy tinh mang ánh nhìn cương trực, hướng nội. Bộ râu vàng óng dính bết lại thành những cục nhọn hoắt, bên trong ẩn náu cái miệng há ra một cách kì quái.

“Maksimich ạ, cái chính là lòng tốt, là sự thân ái! Tôi thích ngày lễ Phục sinh, bởi vì đó là ngày lễ thân ái nhất!”

Chiếc quần dài xanh khô cong vì nắng gắt dính chặt vào hai bắp chân xanh lợt của Izot được nước sông Volga rửa sạch. Ruồi nhặng kêu vo ve trên mặt anh; từ cái xác ấy bốc lên mùi tanh lợm nồng nặc.

Có tiếng bước chân nặng nề trên cầu thang. Romass khom lưng chui qua cửa rồi bước vào, anh ngồi xuống giường tôi, một tay nắm bộ râu cằm.

– Anh có biết không, tôi sắp lấy vợ! Thật đấy!

– Phụ nữ tới đây ở, e không chịu nổi…

Anh chăm chú nhìn tôi, như chờ đợi xem tôi sẽ nói gì thêm. Nhưng tôi không tìm ra chuyện gì để nói. Những ánh chớp tràn vào phòng làm cho gian phòng tràn ngập một thứ ánh sáng huyền ảo.

– Tôi sẽ lấy Masha[74] Derenkov…

Tôi bất giác mỉm cười, vì trước đây tôi chưa hề nảy ra ý nghĩ rằng cô gái ấy lại có thể được gọi là Masha. Tôi không nhớ bố hoặc anh em cô có gọi cô là Masha như vậy không.

– Anh cười cái gì thế?

– Có gì đâu.

– Anh tưởng tôi già so với cô ấy ư?

– Ồ, không phải!

– Cô ấy nói với tôi rằng anh cũng đã từng yêu cô ấy

– Có lẽ đúng.

– Thế bây giờ thì thế nào? Thôi rồi chứ?

– Vâng, có lẽ là như vậy.

Anh buông bàn tay đang nắm râu ra và nói khẽ:

– Đối với lứa tuổi các anh thì chuyện đó thường là “có lẽ”, còn đối với lứa tuổi chúng tôi thì chuyện ấy không phải là “có lẽ” nữa, vả lại cũng không có sức để mà suy nghĩ!

Romass mỉm cười, để lộ hàm răng chắc khỏe, anh nói tiếp:

– Antony[75] sở dĩ thua bá vương Octavianus ở Actium vì đã bỏ hạm đội và nhiệm vụ chỉ huy của mình, quay thuyền chạy theo Cleopatra khi Cleopatra sợ hãi rời bỏ trận địa. Đấy, sức mạnh của tình yêu là thế đấy!

Romass đứng dậy, vươn vai và như buột miệng nhắc lại:

– Thế là tôi sắp lấy vợ rồi!

– Bao giờ?

– Mùa thu này. Khi chúng ta thu hoạch táo xong.

Anh bước ra, lúc đi ngang qua cửa, đầu anh cúi thấp hơn mức cần thiết. Tôi lên giường, nghĩ bụng có lẽ tốt hơn cả mùa thu này tôi sẽ rời khỏi nơi đây. Anh ta kể về Antony để làm gì? Tôi không thích câu chuyện đó.

Đã đến lúc trẩy những loại táo chín sớm. Năm nay được mùa táo, những cành táo nặng trĩu quả sà xuống tận mặt đất. Mùi hăng hắc tỏa khắp các khu vườn, bọn trẻ con ríu rít ở đó, chúng nhặt nhạnh những quả táo bị sâu ăn và những quả táo màu vàng, màu hồng bị gió làm rụng.

Vào những ngày đầu tháng Tám, Romass từ Kazan trở về, mang theo một thuyền hàng hóa và một thuyền nữa chất đầy hộp. Một buổi sáng ngày thường, vào khoảng tám giờ, Khokhol vừa mới tắm rửa, thay quần áo xong, sửa soạn uống trà và vui vẻ nói:

– Ban đêm bơi thuyền trên sông thật là tuyệt…

Bỗng anh khịt khịt mũi và hỏi với vẻ lo lắng:

– Hình như có mùi gì khen khét thì phải?

Ngay lúc ấy, ngoài sân vang lên tiếng gào thét của Aksinya:

– Cháy nhà!

Chúng tôi lao ra sân và nhìn thấy bức vách nhà kho phía vườn đang bốc cháy. Trong kho có để dầu hỏa, hắc ín và dầu mỡ. Suốt mấy giây chúng tôi sửng sốt nhìn những lưỡi lửa vàng rực bị ánh mặt trời sáng chói làm bạc màu, đang liếm bức vách và uốn cong lên mái nhà. Aksinya mang tới một thùng nước, Khokhol đổ hết thùng nước lên bức vách đang bốc cháy, sau đó quẳng thùng xuống và nói:

– Hỏng bét rồi! Maksimich, lăn các thùng gỗ ra ngay đi! Aksinya, chạy ngay vào cửa hiệu đi thôi!

Tôi vội lăn thùng hắc ín ra ngoài sân rồi ra ngoài đường, sau đó quay trở lại lăn tiếp thùng dầu hỏa, nhưng khi tôi vừa xoay thùng dầu hỏa thì thấy nút thùng bị mở tung và dầu chảy lênh láng ra mặt đất. Trong lúc tôi đi tìm nút, những ngọn lửa nhọn hoắt như những cái chêm, không chờ đợi tôi, đã lách qua phòng ngoài bằng ván ghép của nhà kho; mái nhà nổ lốp đốp và có tiếng gì vang lên như giễu cợt. Lăn thùng dầu vơi ra đến ngoài, tôi nhìn thấy ở ngoài đường đàn bà và trẻ con từ khắp nơi vừa chạy tới vừa kêu rú lên.

Khokhol và Aksinya khuân hàng hóa trong cửa hiệu ra, chuyển vào khe. Một mụ già tóc bạc vận đồ đen đứng ở giữa đường, vừa giơ nắm đấm đe dọa vừa kêu the thé:

– Aaa, đồ quỷ sứ!…

Chạy trở vào nhà kho, tôi thấy trong kho mù mịt những khói, trong đám khói có tiếng kêu ầm ầm, tiếng nổ lốp đốp. Những dải lửa đỏ ngoằn ngoèo từ mái nhà buông thõng xuống. Bức vách đã biến thành một hàng rào sắt đỏ rực. Khói làm tôi nghẹt thở và tối cả mắt. Tôi gắng sức lắm mới lăn được thùng dầu tới gần cửa kho, nhưng thùng bị mắc vào cửa, không lăn tiếp được nữa. Những tia lửa từ trển mái nhà rơi xuống người tôi, làm cháy cả da thịt. Tôi kêu cứu, Khokhol chạy tới nắm lấy tay tôi và kéo ra ngoài sân.

– Chạy đi! Nổ bây giờ…

Anh nhảy bổ vào phòng ngoài, tôi cũng chạy theo anh rồi lên gác thượng, trên đó tôi có để nhiều sách vở. Sau khi quăng hết sách qua cửa sổ, tôi định quăng theo cái hòm mũ, nhưng cửa sổ hẹp quá không nhét vừa cái hòm, tôi lấy quả cân nửa pood đập khung cửa. Đột nhiên, một tiếng nổ đinh tai, trên mái nhà có tiếng rào rào, tôi hiểu rằng thùng dầu đã phát nổ. Mái nhà trên đầu tôi bắt đầu bốc cháy, nổ lép bép. Luồng lửa màu hung vừa chảy ròng ròng bên ngoài cửa sốvừa ngó nhìn vào phía trong. Nóng quá, không thể nào chịu nổi, tôi liền lao về phía cầu thang, nhưng những đám khói dày đặc đã bốc lên, những con rắn đỏ lòm bò theo bậc cầu thang. Phía dưới, trong phòng ngoài, có tiếng răng rắc nghe như hàm răng sắt của ai đang gặm gỗ. Tôi bối rối quá. Bị khói làm mờ mắt và ngạt thở, tôi đứng lì ra trong mấy giây, mấy giây ấy dường như dài vô tận. Một khuôn mặt vàng vàng, râu hung hung, ngó vào chiếc cửa sổ tò vò phía trên cầu thang, nhăn nhó với vẻ lo lắng rồi biến mất. Ngay khi ấy, những ngọn lửa giống như những ngọn giáo đẫm máu đã đâm thủng mái nhà.

Tôi nhớ là lúc đó tôi cảm tưởng rằng tóc trên đầu tôi nổ lép bép, ngoài ra tôi không nghe thấy tiếng gì khác. Tôi hiểu rằng chết đến nơi rồi, hai chân tôi nặng trình trịch, mắt đau nhức, mặc dù tôi đã lấy tay che kín.

Bản năng sinh tồn đã mách cho tôi một lối thoát duy nhất: Tôi ôm lấy đệm gối và bó vỏ cây gai, lấy cái áo lông cừu của Romass trùm lên đầu rồi nhảy qua cửa sổ.

Khi tôi tỉnh lại ở bờ khe, tôi thấy Romass ngồi xổm trước mặt:.

– Có việc gì không?

Tôi đứng dậy, ngơ ngác nhìn căn nhà gỗ của chúng tôi đã tiêu tan, tất cả biến thành những đám vỏ bào đỏ rực, những lưỡi lửa đỏ hồng như lưỡi chó liếm mảnh đất đen phía dưới ngôi nhà. Các cửa sổ thở ra những luồng khói đen, trên mái nhà xuất hiện những bóng hoa vàng rung rinh.

– Sao, có việc gì không? Khokhol kêu lên.

Khuôn mặt anh đầm đìa mồ hôi và nhọ nhem bồ hóng. Anh khóc, nước mắt đục ngầu chảy ròng ròng, cặp mắt chớp chớp có vẻ sợ hãi, vỏ cây gai lẫn lộn cả trong bộ râu ướt sũng. Tình cảm mãnh liệt dạt dào ấy khiến tôi cảm thấy như có một làn sóng tươi vui giội khắp người. Thấy chân trái đau nhức, tôi nằm xuống và nói với Khokhol:

– Tôi bị sái chân.

Anh sờ nắn chân tôi rồi thình lình giật mạnh. Tôi thấy đau nhói, nhưng sau vài phút tôi vui sướng không sao tả siết. Tôi khập khiễng mang những món đồ đã chạy được tới nhà tắm của chúng tôi. Romass, miệng ngậm tẩu, vui vẻ nói:

– Tôi cứ đinh ninh rằng anh đã chết cháy khi thùng dầu nổ và dầu vọt tung lên cả mái nhà. Lửa dâng cao như một cái cột, rất cao, sau đó trên trời bỗng xuất hiện thứ gì giống như cái nấm và toàn bộ căn nhà gỗ lập tức chìm trong biển lửa. Tôi cứ yên trí là Maksimich đi đời rồi!

Anh đã trở lại vẻ bình tĩnh mọi khi. Anh xếp đặt gọn gàng đồ đạc thành một đống rồi nói với Aksinya lúc đó mặt mày nhem nhuốc, đầu tóc rối bù:

– Bà ngồi đây canh giữ đồ đạc kẻo mất cắp, tôi đi chữa cháy đây.

Trong đám khói dưới khe có những mảnh giấy trắng bay lả tả.

– Chà. Romass nói. Tiếc đống sách quá! Toàn là sách quý cả…

Bốn căn nhà gỗ đã cháy rụi. Ngày hôm đó lặng gió, lửa từ từ lan sang bên phải và bên trái. Những cái móc lửa mềm dẻo bám lấy các hàng rào và mái nhà như miễn cưỡng. Cái lược lửa đỏ rực chải các mái nhà tranh, những ngón tay lửa cong queo sờ soạng các hàng rào, nô giỡn trên đó giống như gảy đàn gusli vậy. Trong không khí mù mịt khói, vang lên tiếng ca của ngọn lửa và tiếng tí tách khe khẽ của gỗ cháy, ngọn lửa như rên rỉ cười trên nỗi đau khổ của kẻ khác. Những “con quạ” lửa vàng chói từ đám khói sà xuống mặt đường và các sân nhà. Đám bần nông và đàn bà chạy ngược chạy xuôi một cách vô tích sự, ai nấy đều lo cho nhà mình và luôn miệng la ầm ĩ:

– Nước! Nước!

Nguồn nước rất xa, mãi tận chân núi, dưới sông Volga. Romass nhanh chóng tập hợp các bần nông lại thành một khối, anh vừa nắm lấy vai họ vừa đẩy, rồi phân họ thành hai tốp và ra lệnh phá các hàng rào và các nhà xép ở hai bên khu vực bị cháy. Họ ngoan ngoãn nghe theo anh, và thế là cuộc chiến đấu khá khôn khéo với thần lửa đang nằng nặc muốn thiêu hủy toàn bộ “cơ đồ”, toàn bộ dãy phố, bắt đầu. Nhưng họ làm việc vẫn có vẻ dè dặt và không gắng sức, giống như làm hộ người khác vậy.

Tôi vui sướng, thấy mình mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Ở cuối phố, tôi trông thấy một đám phú nông do viên trưởng thôn và Kuzmin cầm đầu. Họ đứng như những khán giả, không làm gì cả, vung tay, múa gậy và kêu la ầm ĩ. Một toán bần nông từ cánh đồng phi ngựa về, mình cúi rạp, khuỷu tay cao đến tận mang tai. Cánh đàn bà hướng cả về phía họ kêu la, bọn trẻ con thì chạy lăng xăng.

Lại thêm mấy gian nhà của một hộ nữa bốc cháy, cần phải mau mau tháo dỡ bức vách chuồng bò. Bức vách này đan bằng những cành cây to và đã được trang điểm bằng những băng lửa đỏ rực. Toán bần nông bắt đầu chặt lớp cọc hàng rào. Những đốm lửa và than rơi xuống, họ vội nhảy tránh sang một bên, lấy tay đập lửa trên áo cánh.

– Đừng sợ! Khokhol kêu.

Tiếng kêu đó chẳng ăn thua gì. Anh bèn lột mũ của một người nào đó chụp lên đầu tôi:

– Anh chặt từ đầu kia, còn tôi chặt ở đây!

Tôi chặt được một hai cái cọc thì bức rào bắt đầu lung lay. Tôi liền leo lên bức rào, tay nắm lấy đầu trên của nó, Khokhol vội kéo hai chân tôi. Thế là cả dãy hàng rào đổ ụp xuống, phủ lên người tôi gần lút đầu. Toán bần nông cũng xúm vào kéo hàng rào ra ngoài đường.

– Có bị bỏng không? Romass hỏi.

Thái độ săn sóc của anh khiến tôi thêm mạnh và nhanh nhẹn. Tôi muốn trổ tài trước mặt con người thân thiết ấy, và tôi làm việc như điên như dại, cốt sao xứng đáng với lời khen của anh. Trong khi ấy, những trang sách của chúng tôi vẫn đang bay lượn trong đám khói như những con bồ câu.

Ở phía bên phải, người ta đã dập tắt được một phần, không cho đám cháy lan rộng, nhưng ở phía bên trái, đám cháy vẫn mỗi lúc một lan rộng và đã lan đến ngôi nhà thứ mười. Sau khi phân công một số bần nông ở lại ngăn chặn mánh khóe của “đàn rắn” lửa, Romass thúc một số đông sang phía bên trái. Khi chạy qua trước mặt bọn phú nông, tôi nghe thấy một tên thốt lên, giọng tàn nhẫn:

– Một vụ đốt nhà!

Tên chủ hiệu nói:

– Cần phải lục soát nhà tắm của nó xem sao!

Những lời nói đó đã lọt vào trí nhớ tôi một cách khó chịu.

Tôi biết rằng sự kích động, đặc biệt là cảm giác phấn chấn, làm tăng thêm sức mạnh. Tôi được kích động nên đã làm việc quên mình và cuối cùng kiệt sức. Tôi nhớ là tôi ngồi trên mặt đất, tựa lưng vào vật gì nong nóng. Romass lấy nước ở thùng tưới vào người tôi. Đám bần nông vây quanh chúng tôi, nói lúng búng với vẻ kính trọng:

– Thằng cha thế mà khỏe!

– Thằng ấy sẽ không phản bội ai…

Tôi nép đầu vào chân Romass và bắt đầu khóc một cách đáng hổ thẹn. Anh vuốt mái đầu ướt của tôi và nói:

– Anh nghỉ đi! Thôi đủ rồi.

Kukushkin và Barinov, cả hai cùng bị ám khói đen như quỷ sứ, dẫn tôi tới khe và an ủi:

– Không sao, người anh em ạ! Mọi việc đều xong cả rồi.

– Anh sợ à?

Tôi chưa kịp nghỉ ngơi cho lại sức và hồi tỉnh thì bỗng thấy khoảng mười tên “phú nông” đi xuống khe về phía nhà tắm của chúng tôi, đi đầu là viên trưởng thôn, tiếp theo sau là hai tên cảnh sát thôn đang kèm chặt tay Romass lôi đi. Anh không đội mũ, tay áo sơ mi ướt đẫm rách tơi tả, miệng ngậm chặt tẩu, mặt cau có trông rất đáng sợ. Gã lính Kostin vung gậy, thét lên như điên dại:

– Đem tên dị giáo này quẳng vào lửa thôi!

– Mở cửa nhà tắm ra…

– Bẻ khóa mà vào, chìa khóa mất rồi. Romass nói to.

Tôi nhổm dậy, nắm lấy cái cọc dưới đất và đứng ngay cạnh Romass. Hai tên cảnh sát thôn lùi lại phía sau, còn viên trưởng thôn thì rít lên với vẻ sợ hãi:

– Những người thuộc chính giáo không được phép bẻ khóa!

Kuzmin vừa chỉ tôi vừa kêu:

– Kìa, lại thêm một thằng nữa… Nó là ai?

– Bình tĩnh, Maksimich. Romass nói. Họ tưởng tôi giấu hàng ở nhà tắm và tự tay đốt cửa hiệu.

– Cả hai đứa chúng mày!

– Bẻ khóa đi!

– Những người thuộc chính giáo…

– Chúng tôi chịu trách nhiệm!

– Trách nhiệm của chúng tôi…

Romass nói thầm:

– Anh đứng áp lưng vào lưng tôi! Kẻo chúng nó đánh từ phía sau lại…

Ổ khóa cửa nhà tắm bị bẻ gãy, mấy tên lập tức xô vào rồi lại vội vàng lẻn ra ngay. Trong khi đó, tôi nhét cái cọc vào tay Romass và nhặt một cái cọc nữa ở dưới đất lên.

– Không có gì cả…

– Không có gì cả?

– Chà, lũ quỷ sứ!

Một tên nói, giọng sợ sệt:

– Công toi rồi, các bạn bần nông ạ…

Vài giọng nói đáp lại dữ tợn như say rượu:

– Công toi cái gì cơ?

– Đem quẳng tụi chúng nó vào lửa thôi!

– Quân gây rối loạn…

– Tụi chúng định âm mưu tổ chức các nhóm sản xuất!

– Tụi kẻ cắp! Cả lũ chúng nó đều là bọn kẻ cắp!

– Im đi! Romass kêu to. Các anh đã thấy đấy, ở nhà tắm của tôi có giấu giếm hàng hóa gì đâu, các anh còn cần gì nữa nào? Tất cả đều bị cháy hết, chỉ còn lại có thế, các anh thấy chưa? Tôi đốt tài sản của tôi thì được gì?

– Được bảo hiểm!

Lại một chục cái họng nữa thét lên dữ tợn:

– Còn nhìn chúng nó làm gì nữa?

– Đủ rồi! Chúng ta đã chịu đựng nhiều rồi…

Chân tôi run run và cặp mắt như tối sầm lại. Qua lớp sương mù đo đỏ tôi nhìn thấy một loạt những gương mặt hung dữ với những cái mồm nom như những cái lỗ đầy lông lá. Tôi khó nhọc lắm mới nén được ý nghĩ tức giận muốn đánh cho lũ này một trận. Bọn chúng nhảy xung quanh chúng tôi, miệng thét:

– A ha! Chúng nó cầm cọc kìa.

– Cầm cọc à?!

– Tụi chúng nó sẽ vặt râu tôi. Khokhol nói, và tôi thấy như anh nhếch mép cười. Maksimich ạ, anh cũng sẽ có phần đấy, chà! Nhưng phải bình tĩnh, bình tĩnh…

– Coi chừng, thằng trẻ có rìu đấy!

Quả thực, sau thắt lưng quần tôi có một chiếc rìu thợ mộc lòi ra mà tôi quên bẵng đi mất.

– Tụi chúng có vẻ nhát gan lắm. Romass nói. Nhưng anh không được dùng đến rìu, nếu…

Có một gã bần nông nhỏ bé và thọt chân mà tôi không quen biết bước tập tễnh trông thật buồn cười, miệng la hét như điên dại:

– Cứ lấy gạch đứng xa mà ném vào tụi chúng nó! Có giỏi đánh vào đầu tao!

Gã nắm lấy một hòn gạch vỡ, vung lên và ném vào bụng tôi. Nhưng tôi chưa kịp phản đòn thì Kukushkin như một con chim kền kền từ phía trên lao vào gã, hai người ôm lấy nhau và lăn vào khe. Theo sau Kukushkin là Pankov, Barinov, bác thợ rèn và khoảng một chục người nữa chạy tới. Ngay lúc ấy Kuzmin nói giọng trịnh trọng:

– Mikhailo Antonovich! Anh là một người thông minh, anh biết đấy: Đám cháy đã làm cho những bần nông phát điên lên được…

– Maksimich! Chúng ta ra bờ sông thôi, đi tới quán ăn. Romass nói rồi rút tẩu ở miệng ra, nhét mạnh vào túi quần.

Anh lấy cọc chống và mệt nhọc lắm mới bò lên được khỏi cái khe. Kuzmin đi cạnh anh và nói gì đó. Romass không thèm nhìn hắn, anh đáp:

– Cút ngay đi, đồ ngốc!

Ở chỗ căn nhà gỗ của chúng tôi có một đống than vàng óng đang cháy âm ỉ, ở giữa nhà là lò sưởi, một làn khói xanh từ ống khói hãy còn nguyên vẹn bay lên bầu không khí nóng bỏng. Những cái chân giường bằng sắt đỏ rực nhô ra như chân nhện. Những cột chống cháy sém đứng sừng sững bên cạnh đống lửa như những người gác cổng vận đồ đen, một cái cột đội chiếc mũ bằng than đỏ có những ánh lửa nhỏ ở trên trông như lông gà trống.

– Sách bị cháy hết cả. Khokhol vừa thở dài vừa nói. Thật đáng tiếc!

Tụi trẻ con lấy gậy lùa những thanh củi lớn bị cháy sém vào vũng nước bẩn ở ngoài đường như lùa đàn lợn con… Củi kêu xèo xèo và tắt ngấm, tỏa khắp không gian một thứ khói trăng trắng, mùi hăng hăng. Một đứa bé khoảng lên năm, tóc trắng, mắt xanh, ngồi ở vũng nước ấm, đen ngòm, lấy gậy nện vào chiếc thùng méo mó, say sưa với những tiếng gõ vào sắt. Những người bị cháy nhà bước đi buồn bã, họ thu dọn các món đồ dùng còn lại trong nhà thành một đống. Các bà thì khóc lóc, chửi rủa, cãi nhau vì những khúc gỗ cháy sém. Cây cối trong các khu vườn đằng sau đám cháy đứng trơ ra, nhiều cây vì bị nóng lá đã biếnthành màu hung, những cành táo trĩu quả đỏ thắm lộ ra càng rõ hơn.

Chúng tôi xuống sông tắm rửa rồi lặng lẽ ngồi uống trà ở cái quán trên bờ sông.

– Bọn cường hào đã hoàn toàn thất bại. Romass nói.

Pankov đi tới, vẻ mặt trầm ngâm và dịu dàng hơn mọi khi.

– Cái gì thế, anh bạn? Khokhol hỏi.

Pankov nhún vai, đáp:

– Ngôi nhà của tôi đã được bảo hiểm rồi.

Chúng tôi im lặng, đưa mắt chăm chú thăm dò nhau một cách kì lạ, như những người không hề quen biết.

– Mikhail Antonich! Bây giờ anh định thế nào?

– Để tôi suy nghĩ đã.

– Anh nên rời khỏi đây thôi.

– Để tôi xem sao đã.

– Tôi có kế hoạch rồi. Pankov nói. Chúng ta ra ngoài nói chuyện đi!

Họ đi ra.

Tới cửa, Pankov quay lại bảo tôi:

– Anh, anh không phải là kẻ nhút nhát! Anh có thể sống ở đây được, bọn chúng sẽ sợ anh…

Tôi cũng đi ra phía bờ sông, nằm dưới bụi cây ngắm dòng sông.

Trời nóng bức, mặc đù mặt trời đã lặn về tây. Tất cả nbững chuyện xảy ra ở làng này mở ra trước mắt tôi như một cuộn giấy lớn, tất cả những việc đó dường như được vẽ trên dải sông bằng đủ màu. Tôi cảm thấy buồn. Nhưng chẳng bao lâu, mệt mỏi đã thắng và tôi ngủ thiếp đi.

– Này! Có tiếng ai gọi trong giấc mơ và tôi cảm thấy như có ai lay và cố kéo tôi đi. Anh chết rồi hay sao vậy? Tỉnh dậy đi!

Bên kia sông, một vầng trăng đỏ tía, to như bánh xe, tỏa sáng trên cánh đồng cỏ. Barinov cúi xuống, lay tôi.

– Về ngay, Khokhol đang đi tìm anh đấy, anh ấy đang lo!

Barinov đi theo tôi, càu nhàu:

– Anh không được bạ đâu ngủ đấy! Nhỡ có người đi lại trên núi, vô ý sẩy chân làm đá rơi vào anh thì sao? Cũng có thể có người cố ý làm như vậy. Ở chỗ chúng ta người ta không đùa đâu. Anh bạn phải biết, dân ở đây chỉ nhớ điều ác thôi. Ngoài điều ác ra, họ chẳng nhớ gì cả.

Trong bụi cây trên bờ sông có ai khẽ động làm cành cây rung rinh.

– Tìm thấy chưa? Giọng nói ngân vang của Migun.

– Tôi đang dẫn về đây. Barinov đáp.

Đi được khoảng mười bước, Barinov vừa thở dài vừa nói:

– Anh ta chuẩn bị ăn cắp cá đấy. Cuộc sống của Migun cũng chật vật lắm!

Romass đón tôi bằng một câu trách bực tức:

– Tại sao anh lại đi chơi như thế? Anh muốn người ta nện cho anh một trận hay sao?

Khi chỉ còn lại hai người chúng tôi, anh khẽ càu nhàu:

– Pankov đề nghị anh ở lại đây với anh ấy. Anh ấy muốn mở cửa hiệu. Tôi không dám khuyên anh. Còn tôi, tôi đã bán cho anh ấy tất cả những gì còn lại, tôi sẽ rời đi Vyatka và ít lâu sau tôi sẽ viết thư mời anh đến chỗ tôi. Anh có đến không?

– Để tôi suy nghĩ đã.

– Cứ việc suy nghĩ kĩ đi.

Anh nằm xuống sàn, loay hoay một lát rồi im lặng. Tôi ngồi bên cạnh cửa sổ, nhìn xuống dòng Volga. Ánh trăng phản chiếu xuống mặt nước khiến tôi nhớ lại những ngọn lửa của đám cháy. Sát phía bờ bên cánh đồng cỏ, một chiếc tàu kéo có bánh lái đậpphành phạch nặng nề xuống mặt nước. Ba ánh lửa trên cột buồm bơi trong bóng tối, đụng phải các vì sao và thỉnh thoảng che lấp chúng.

– Anh giận những bần nông à? Romass hỏi, giọng ngái ngủ. Không nên. Họ chỉ là những người ngu xuẩn. Độc ác là ngu xuẩn.

Những lời nói của anh cũng không thể an ủi, xoa dịu được cơn tức giận và sự phẫn nộ sâu sắc của tôi. Tôi nhìn thấy trước mắt mình những cái mõm thú vật đầy lông lá đã văng ra tiếng thét độc ác: “Cứ lấy gạch đứng xa mà ném vào tụi chúng nó!”

Hồi đó, tôi chưa biết quên đi những gì mà tôi không cần nhớ. Thật vậy, tôi thấy trong số họ từng người riêng lẻ cũng không độc ác lắm, và thường là hoàn toàn cô độc. Thực ra, đó là những con thú lương thiện. Có thể dễ dàng bắt bất cứ người nào mỉm cười một cách ngây thơ, bất cứ người nào cũng có thể nghe, với lòng tin thơ trẻ, những câu chuyện đi tìm lí trí và hạnh phúc, về những kì công của lòng độ lượng.

Đối với tâm hồn kì lạ của những người này thì tất cả những gì khêu gợi ước mơ về một cuộc sống dễ chịu theo ý muốn riêng đều đáng quý cả.

Nhưng ở những cuộc hội họp trong làng hoặc ở quán ăn trên bờ sông, khi những người này tụ tập lại thành đám đông đen kịt, họ giấu đi đâu tất cả những cái tốt đẹp của họ. Họ giống như cha cố khoác chiếc áo lễ dối trá và giả nhân giả nghĩa. Ở họ bắt đầu lộ ra sự khúm núm của con chó trước kẻ mạnh, và lúc đó nhìn họ thật đáng ghét. Hoặc cũng có khi lòng họ bỗng nhiên tràn ngập sự độc ác của giống chó sói, họ dựng tóc gáy, nhe răng, la hét một cách thô lỗ, sẵn sàng đánh nhau, và đánh nhau chỉ vì những chuyện bé mọn. Trong những phút giây đó, họ thật đáng sợ và có thể phá hủy cả nhà thờ mà tối hôm qua họ vừa đi lễ một cách hiền lành ngoan ngoãn như những con cừu đi vào chuồng. Trong số họ cũng có những người thích mơ mộng và những người có tài kể chuyện, nhưng họ không được ai yêu mến: Họ sống để làm trò cười cho làng xóm, không được giúp đỡ, bị khinh bỉ.

Tôi không biết sống và cũng không thể sống giữa những con người này. Tôi giãi bày tất cả những ý nghĩ cay đắng của tôi cho Romass nghe hôm chúng tôi chia tay nhau.

– Anh kết luận khá sớm. Romass nhận xét, vẻ trách móc.

– Nhưng tôi biết làm thế nào, nếu như kết luận này đã được hình thành rồi?

– Kết luận ấy không đúng! Không có căn cứ.

Anh dùng những lời lẽ nhã nhặn, cố làm cho tôi tin rằng tôi không đúng, tôi sai lầm.

– Không nên vội chê trách! Chê trách thì dễ thôi, anh không nên mê cái đó. Nên bình tĩnh nhìn nhận mọi chuyện, nên nhớ một điều: Mọi vật đều phát triển, mọi vật đều đi tới sự tốt đẹp hơn. Chậm ư? Nhưng vững chắc! Anh hãy nhìn khắp mọi nơi, hãy thăm dò mọi cái, hãy can đảm, nhưng chớ có vội chê trách. Thôi, tạm biệt anh bạn thân mến!

Cuộc tạm biệt này kéo dài khá lâu, mãi mười lăm năm sau chúng tôi mới có dịp gặp lại nhau ở Seidlitz, sau khi Romass lại bị đi đày thêm chục năm ở vùng Yakutsk vì vụ án “phái dân quyền”[76].

Khi Romass rời khỏi Krasnovidovo, lòng tôi tràn ngập một nỗi buồn nặng trĩu như chì. Tôi bắt đầu lang thang khắp làng như con chó mất chủ. Tôi cùng với Barinov đi khắp các thôn xóm làm công cho những bần nông khá giả, đập lúa, dỡ khoai, dọn vườn. Tôi sống ở nhà tắm của Barinov.

– Này Aleksej Maksimich, ông tướng không có quân, cậu định thế nào, hả? Anh hỏi tôi trong một đêm mưa gió. Ngày mai chúng ta có nên đi biển không? Này! Ở đây làm quái gì kia chứ? Ở đây người ta không thích những người như chúng ta đâu. Hơn nữa, chưa biết chừng, một ngày nào đấy chúng ta sẽ bị rơi vào tay một gã say rượu cũng nên…

Không phải lần đầu tiên Barinov nói câu đó. Không hiểu tại sao anh cũng cảm thấy buồn rầu, hai cánh tay dài như tay vượn của anh buông thõng hai bên sườn, anh nhìn quanh với vẻ chán nản, như bị lạc vào rừng rậm vậy.

Mưa quất vào cửa sổ nhà tắm, một dòng nước tràn vào góc nhà rồi chảy ồ ồ xuống đáy khe. Những tia chớp nhợt nhạt của cơn dông cuối cùng lóe lên yếu ớt.

Barinov khẽ hỏi:

– Ngày mai chúng ta đi chứ?

Thế là chúng tôi ra đi.

Chú thích

[72] Ivan Grozny tên tục của vua Ivan IV (15301584) Nga hoàng đầu tiên.

[73]Tức lzot, cách gọi thân mật.

[74]Tức Mariya, cách gọi thân mật.

[75] Antony (sống khoảng năm 8330 trước Công nguyên), nhà hoạt động chính trị La Mã, thân cận với nữ vương Ai Cập Cleopatra, dựa vào sự giúp đỡ của Ai Cập để cứu chính quyền La Mã. Năm 31 trước Công nguyên bị thất bại trong cuộc nội chiến ở Actium và tự sát năm 30 trước Công nguyên.

[76] “Phái dân quyền” là một chính đảng của giai cấp tiểu tư sản Nga do những phẩn tử trí thức và phần tử dân túy địa phương thành lập vào năm 1893, tuy hiệu triệu cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhưng không có quan hệ gì với giai cấp công nhân. Năm 1894, toàn bộ những phần tử chủ yếu của phái này bị cảnh sát của Nga hoàng bắt.

PHẦN V

Đêm thu bơi thuyền trên sông Volga thú vị không thể tả được. Tôi ngồi ở phía đuôi sà lan, ngay cạnh gã điều khiển lái nom như con quái vật to đầu,mình đầy lông lá. Gã vừa lái vừa giậm chân thình thịch xuống sàn và thở thườn thượt:

– O..o..oop!… O..rrooop!…

Phía đuôi sà lan, làn nước mênh mông đặc quánh như nhựa, khẽ vỗ oàm oạp và chảy như một dải lụa. Trên mặt sông cuồn cuộn những đám mây thu đen kịt. Xung quanh chỉ thấy bóng tối từ từ chuyển động, xóa sạch đôi bờ. Mặt đất như tan vào bóng tối, biến thành một chất nước và khói. Cả cái khối ấy chảy mãi không ngừng tới nơi nào đó phía dưới, tới một khoảng hoang vu, nơi không có ánh mặt trời, không có trăng sao.

Ở phía trước, trong bóng tối ẩm ướt, một chiếc tàu kéo nom không rõ hình dạng. Chiếc tàu chuyển động nặng nề, thở phì phì như phải chống lại một lực kéo mạnh mẽ. Ba ánh lửa hai ánh trên mặt nước và một ánh ờ tít trên cao đi kèm chiếc tàu. Gần phía tôi có bốn ánh lửa nữa bơi dưới những đám mây đen, giống như những con cá vàng. Trong số này, một ánh lửa là chiếc đèn treo trên cột buồm cái sà lan của chúng tôi.

Tôi thấy mình như bị giam trong một cái bong bóng lạnh lẽo và đầy dầu mỡ. Cái bong bóng đó đang khẽ trượt trên mặt phẳng nghiêng, và tôi bị dính chặt vào đó như một con ruồi con. Tôi cảm thấy sự chuyển động dần dần ngừng lại và sắp đến lúc dừng hẳn. Chiếc tàu thủy sẽ thôi rú và bánh lái sẽ ngừng đập trên mặt nước đặc quánh. Tất cả các tiếng động sẽ bay đi hết như lá rụng khỏi cây, sẽ bị xóa sạch như những dòng chữ phấn. Và lúc ấy, sự bất động, im lặng sẽ hoàn toàn vây chặt lấy tôi.

Lúc ấy, cái người to lớn, mặc chiếc áo tulup rách rưới, đội chiếc mũ lông cừu xù xù đang bước đi ở bên cánh tay lái kia cũng sẽ dừng lại, đứng im tựa như trúng bùa mê vĩnh viễn và sẽ không còn gầm lên những tiếng quái dị:

– Orr..oop! Oo..oorr!

Tôi hỏi gã:

– Anh tên là gì?

– Mày cần biết để làm gì? Gã đáp, giọng khàn khàn.

Lúc hoàng hôn, khi sà lan rời khỏi Kazan, tôi nhận thấy con người với điệu bộ vụng về như con gấu này có bộ mặt đầy lông lá và chột một mắt. Gã đứng tựa vào tay lái, dốc một chai rượu vodka vào chiếc gáo gỗ rồi uống hai hơi cạn hết chỗ rượu như ta uống nước vậy, sau đó gã cắn một quả táo. Khi chiếc tàu kéo giật mạnh chiếc sà lan, gã vội nắm chặt lấy tay lái, nhìn lên vầng mặt trời đỏ rực, lắc đầu và nghiêm nghị nói:

– Lạy Chúa phù hộ cho!

Chiếc tàu thủy đi từ hội chợ Nizhny tới Astrakhan, kéo theo bốn chiếc sà lan chở đầy sắt tấm, những thùng đường và những cái hòm rất nặng, tất cả đều là hàng cung cấp cho Ba Tư. Barinov lấy chân đá đá vào những cái hòm, hít hít rồi suy nghĩ và nói:

– Chắc chắn là súng ống của nhà máy Izhevsk…

Gã lái sà lan liền thụi cho anh một quả vào bụng và hỏi:

– Việc gì đến mày nào?

– Tôi nghĩ bụng thế thôi…

– Hừ, mày có muốn ăn một quả đấm vào mặt không?

Chúng tôi không có tiền để mua vé đi tàu khách.

Nhờ “lòng nhân đức”, chúng tôi được đi nhờ trên một chiếc sà lan. Tuy chúng tôi cũng phải “luân phiên gác” như các thủy thủ nhưng những người trên sà lan vẫn xem chúng tôi chẳng khác gì một lũ ăn mày.

– Thế mà anh nói đây là “nhân dân”. Barinov trách tôi. Ở đây tôi chỉ thấy: Ai trèo cao thì được ngồi lên đầu kẻ khác, ai trèo thấp thì bị kẻ khác cưỡi đầu…

Bóng tối dày đặc đến nỗi không trông thấy rõ cái sà lan, chỉ lờ mờ những cột buồm nhọn hoắt được ánh đèn chiếu sáng trên nền những đám khói đen sặc mùi dầu lửa.

Thái độ im lặng và cau có của gã lái sà lan làm tôi tức giận. Tôi bị đội trưởng đội thủy thủ phái tới “gác” ở chỗ tay lái để giúp “con thú dữ” này. Đến các chỗ rẽ, gã theo dõi sự chuyển động của những ánh lửa và khẽ bảo tôi:

– Này, nắm lấy!

Tôi vội chạy lại và quay chiếc tay lái.

– Được rồi. Gã càu nhàu.

Tôi lại ngồi xuống sàn. Khó lòng mà nói chuyện được với con người này, gã trả lời tôi bằng những câu hỏi: “Việc gì đến mày?”

Gã đang nghĩ gì? Khi chúng tôi đi qua chỗ dòng nước màu vàng của sông Kama đổ vào dải nước màu thép của sông Volga, gã nhìn về phía bắc và càu nhàu:

– Đồ vô lại!

– Ai cơ?

Gã không trả lời.

Đâu đây xa xa, trong bóng tối thăm thẳm, có tiếng chó sủa rống lên. Âm thanh ấy làm tôi nhớ đến những tàn dư nào đó của cuộc sống còn chưa bị bóng tối đè bẹp. Nó hình như ở xa lắm, không thể đi tới được và cũng không cần thiết.

– Lũ chó vô dụng. Chỗ nào cũng thấy chúng. Gã cầm lái bỗng nhiên nói.

– Ở đâu, ở đây à?

– Khắp nơi. Ở chỗ tao chó thật y như thú dữ…

– Anh người ở đâu?

– Vologda.

Rồi những lời nặng nề, thô lỗ nối đuôi nhau tuôn ra như những củ khoai lọt khỏi cái bao rách:

– Cái thằng đi cùng với mày là ai đấy, chú bác à? Theo tao nó là một thằng ngốc. Tao có một ông chú rất thông minh. Ông ấy ngang tàng lắm… Lại giàu có. Chủ bến tàu ở Simbirsk. Mở quán ăn ở bờ sông.

Gã nói ra tất cả những lời đó chậm rãi và hình như khó nhọc lắm. Sau đó gã hướng cặp mắt mờ đục về phía ngọn đèn treo trên cột buồm và ngắm nghía xem ngọn đèn giống như con nhện vàng ấy bò trong màn đêm như thế nào.

– Nắm lấy, kìa… Mày biết đọc biết viết phải không? Mày có biết ai viết ra pháp luật không?

Không đợi tôi trả lời, gã tiếp tục:

– Người ta nói linh tinh lắm: Có người bảo là Nga hoàng, có người nói là tổng giám mục, có người nói là Viện Nguyên lão (Cơ quan tư pháp và hành chính cao nhất cùa nước Nga cũ). Tao mà biết chắc là ai viết, tao sẽ đi đến chỗ hắn ta và bảo: Ngài hãy viết pháp luật làm sao để tôi không những không thể đánh người, mà còn không thể giơ nổi tay lên đánh nữa! Pháp luật phải như sắt mới được. Như chiếc chìa khóa ấy. Cứ khóa trái tim tôi lại, và thế là hết! Lúc đó tôi sẽ xin đảm bảo! Còn bây giờ thì tôi không thể đảm bảo được. Không thể!

Gã lẩm bẩm một mình, giọng mỗi lúc một khẽ và rời rạc hơn, trong lúc đó tay gã khẽ đấm xuống cán gỗ của tay lái.

Có người từ trên tàu thủy gọi loa xuống, và cái giọng khàn khàn của gã lái đâm ra thừa, giống như tiếng chó sủa đã bị đêm tối dày đặc hút mất. Hai bên thành tàu, những ánh lửa như bị nhấn chìm bởi dòng nước đen ngòm, chiếu sáng cảnh vật một cách yếu ớt. Những đám mây đen kịt sũng nước trôi trên đầu chúng tôi. Chúng tôi càng ngày càng trượt sâu vào trong lòng bóng tối câm lặng.

Gã lái sà lan cau có phàn nàn:

– Họ đẩy tôi tới đâu? Lòng tôi đau thắt lại.

Sự bàng quan đã xâm chiếm tôi, sự bàng quan cộng với nỗi buồn lạnh lẽo. Tôi buồn ngủ quá.

Ánh bình minh yếu ớt và ảm đạm vắng bóng mặt trời khẽ rón rén lách qua những đám mây đen một cách khó nhọc, nhuộm nước sông thành màu chì và để lộ ra những bụi cây màu vàng trên bờ, những cây thông phủ một lớp gì như sắt gỉ với những cành đen sẫm, một dãy nhà gỗ của thôn quê và bóng một bần nông trông hệt như tạc bằng đá. Một con chim hải âu bay phía trên sà lan, đôi cánh cong của nó vỗ phành phạch.

Tôi và gã lái sà lan được đổi kíp. Tôi chui xuống dưới miếng vải bạt và ngủ thiếp đi; nhưng chẳng bao lâu tôi cảm thấy như vậy tiếng giậm chân và tiếng kêu la đánh thức tôi. Tôi thò đầu ra ngoài miếng vải bạt và nom thấy ba thủy thủ đang ghì chặt gã lái sà lan vào vách “buồng lái”, la thét í ới:

– Petrukha, không nên thế!

– Chúa phù hộ cho cậu, không sao đâu mà!

– Thôi đi cậu ơi!

Gã lái sà lan bắt chéo cánh tay, ngón tay nắm chặt lấy vai. Gã đứng bình thản, chân dận một gói tay nải xuống sàn, rồi lần lượt nhìn tất cả mọi người và năn nỉ bằng giọng khàn khàn:

– Hãy để cho tôi thoát khỏi tội lỗi!

Gã đi chân đất, đầu không đội mũ, mặc áo cánh và quần dài. Mớ tóc đen rối bù dựng đứng trên đầu gã và buông thõng xuống cái trán dô bướng bỉnh. Dưới trán, cặp mắt chuột chù ti hí đỏ ngầu mang vẻ cầu khẩn và lo lắng.

– Khéo cậu chết đuối mất! Có người bảo gã.

– Tôi ấy à? Không đời nào. Các cậu cứ buông ra! Nếu không buông ra, tôi sẽ giết lão ta! Khi nào chúng ta tới Simbirsk là tôi…

– Thôi đi nào!

– Ối, các cậu ơi…

Gã từ từ dang rộng hai cánh tay ra và quỳ xuống. Hai tay áp vào “buồng lái” như người bị đóng đinh trên thánh giá, gã nhắc lại:

– Hãy để cho tôi thoát khỏi tội lỗi!

Trong giọng nói ồ ồ của gã như có điều gì rất xúc động. Hai cánh tay vươn dài như hai mái chèo, bàn tay run run, lòng bàn tay hướng về phía mọi người. Bộ mặt gấu với bộ râu xồm xoàm của gã cũng run run, cặp mắt chuột chù mù dở nom giống hai hòn bi đen sì nhô ra từ hai hốc mắt. Hình như có một bàn tay vô hình đã nắm chặt lấy cổ họng gã và đang cố bóp cho tắc thở.

Những bần nông lặng lẽ tránh ra để nhường lối cho gã, gã đứng dậy vụng về, nhấc tay nải lên và nói:

– Thế chứ, xin cảm ơn tất cả!

Gã bước tới gần thành sà lan rồi đột nhiên nhảy xuống sông một cách rất nhẹ nhàng. Tôi cũng lao ra phía thành sà lan và trông thấy Petrukha đang lúc lắc đầu, trên đầu đội tay nải trông như đội mũ vậy. Gã bơi xiên dòng sông tới phía bờ cát, ở đấy các bụi cây bị gió đánh nghiêng ngả, tung những chiếc lá vàng xuống nước như đón chào gã.

Đám bần nông nói:

– Dù sao thì như vậy là hắn cũng đã tự kiềm chế được!

Tôi hỏi:

– Hắn điên à?

– Sao lại điên? Không phải, đó là hắn muốn tự cứu vớt linh hồn…

Petrukha đã bơi đến một chỗ nông. Gã đứng đấy, nước tới ngực, và vẫy gói tay nải trên đầu.

Anh em thủy thủ gào to:

– Từ biệt!

Có người hỏi:

– Hắn không có giấy thông hành thì làm thế nào?

Một thủy thủ tóc hung, chân khoằm, tồ vẻ thích thú kể cho tôi:

– Hắn có một ông chú ở Simbirsk, ông ta đối xử với hắn rất tàn ác và đã làm hắn phá sản. Do đó hắn có ý định giết ông chú. Nhưng chính hắn lại tiếc thân,nên đã tránh đi để khỏi phạm tội. Bần nông ấy giống như một con thú dữ, nhưng lại rất lương thiện! Hắn là một người tốt…

Lúc này bần nông tốt ấy đang bước trên dải cát hẹp, ngược dòng sông và sau đó biến mất trong một bụi rậm.

Anh em thủy thủ là những người tốt, tất cả đều là đồng hương của tôi, những người Volga chính cống. Đến tối, tôi đã cảm thấy mình như một người thân thuộc của họ. Nhưng đến hôm sau, tôi nhận thấy họ nhìn tôi với vẻ khó chịu và hoài nghi. Tôi đoán ngay rằng quỷ sứ đã kéo lưỡi Barinov ra và con người hay mơ tưởng hão huyền này đã kể chuyện gì đó với anh em thủy thủ đây.

– Anh đã kể chuyện tôi rồi phải không?

Anh gãi gãi đầu với vẻ bối rối và thú nhận, cặp mắt đàn bà như khẽ mỉm cười:

– Tôi có kể một ít!

– Ra thế! Tôi đã bảo anh đừng nói gì cơ mà?

– Tôi đã cố im lặng, nhưng vì câu chuyện hay quá. Lúc ấy chúng tôi đã định đánh bạc, nhưng người bẻ lái giật mất quân bài. Buồn quá đi mất! Thế là tôi…

Sau những lời căn vặn, tôi mới vỡ lẽ rằng Barinov vì buồn chán nên đã thêu dệt ra một câu chuyện rất ngộ nghĩnh; cuối câu chuyện, Khokhol và tôi, giống như những người Viking thời xưa, đã dùng rìu bổ vào đám bần nông.

Đối với Barinov thì tức giận cũng vô ích, vì anh ta chỉ nhìn thấy chân lí ở bên ngoài thực tế. Một hôm, tôi cùng với anh đi tìm việc làm, trong lúc ngồi nghỉ ở bờ khe trông ra cánh đồng, anh khuyên bảo tôi với giọng tin tưởng và dịu dàng:

– Nên lựa chọn chân lí theo sở thích! Kia kìa, ở bên kia khe có một đám dê đang ăn cỏ, một con chó đang chạy, một người chăn súc vật đang đi đi lại lại. Nhưng những cái ấy có liên quan gì đến ta không? Những cái đó mang lại cho tôi và anh lợi ích gì? Anh bạn thân mến ơi, anh thử nhìn mà xem: Người ác sờ sờ ra đấy, còn người thiện thì ở đâu? Người thiện còn chưa được người ta tưởng tượng ra đấy thôi!

Tới Simbirsk, anh em thủy thủ đề nghị chúng tôi rời khỏi sà lan lên bờ với thái độ rất bất nhã.

– Các anh là hạng người không hợp với chúng tôi. Họ nói.

Họ lấy thuyền chở chúng tôi vào bến Simbirsk, và chúng tôi cứ ngồi trên bờ hong cho khô quần áo, trong túi chỉ có cả thảy ba mươi bảy kopek.

Chúng tôi vào quán uống trà.

– Chúng ta sẽ làm thế nào bây giờ?

Barinov nói với vẻ quả quyết:

– Còn làm thế nào nữa? Nên đi tiếp.

Chúng tôi đi lậu vé tới Samara trên một chiếc tàu chở khách. Đến Samara, chúng tôi làm thuê trên một chiếc sà lan; bảy ngày sau thì tới bờ biển Caspian một cách thuận lợi. Ở đấy chúng tôi tìm được việc làm trong một làng chài nhỏ trên bãi đánh cá bẩn thỉu Kabankul Bai của dân Kalmyk.

Maxim Gorki

Trần Khuyến - Cẩm Tiêu

Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Những trường đại học của tôi 2XXX

Những trường đại học của tôi 2 Kèm theo lời nói, cánh tay trái lông lá của ông ta làm điệu bộ giống như chém vào không khí, còn tay phải t...