Kim Dung giữa đời tôi 6
Vi Tiểu Bảo và phép thắng lợi tinh thần
Khi xây dựng nhân vật AQ (AQ chính truyện), Lỗ Tấn đã khai sinh ra một khái niệm
có thể nâng lên thành hàng triết thuyết: thắng lợi tinh thần. Theo Lỗ Tấn, về mặt
thể chất, anh có thể bị người ta đánh cho u đầu tét trán, bị người ta đè ra lột
sạch tiền bạc. Về tinh thần, người ta có thể coi anh là một thứ người không ra
người, khinh miệt anh. Nhưng anh vẫn cúi đầu cam chịu và tự cho mình uống một
liều nước đường; tự dối lòng mình rằng anh là cha của những kẻ đã đánh anh, đã
làm nhục anh. Anh coi những kẻ đó ngu hơn anh.
AQ khi bị đánh thường tự an ủi: “Cái đời thật lạ lùng, con mà lại dám đánh
bố”. Bị đánh đau hơn, bị đè đầu xuống đất, AQ lại la lên: “Tao là con
trùn, được chưa nào?”. Rồi AQ mắng thầm kẻ đè đầu mình: “Đồ ngu, ngươi
đánh con trùn mà cứ tưởng đánh được ta.” Thậm chí khi ở một mình, nghĩ đến
trận đòn vừa qua, AQ lại tự đưa tay lên vả vào má mình và tưởng tượng ra mình
đang vả vào má một ai đó! AQ áp dụng tư duy phân thân, cho rằng mình không phải
là mình nữa, mình đang thắng lợi vì được vả vào má một thằng tên là AQ nào đó.
AQ của Lỗ Tấn ra đời năm 1927. Vi Tiểu Bảo của Kim Dung ra đời năm 1968. AQ là
con người của bối cảnh xã hội sau Cách mạng Tân Hợi 1911 nhưng là nhân vật đại
biểu của dân tộc Trung Hoa suốt mấy ngàn năm. Đây là con người cổ điển. Vi Tiểu
Bảo là con người trong bối cảnh xã hội sau biến cố lịch sử Mãn Thanh xâm lược
và chiến được Trung Quốc năm 1643 nhưng lại là con người rất hiện đại. Cả hai
anh cổ điển và hiện đại đó đều cùng có chung một tư duy lớn: phép thắng lợi
tinh thần.
Vi Tiểu Bảo ở trong Lệ Xuân viện, thành Dương Châu chỉ là một thứ tiểu lưu
manh. Nghề nghiệp của Bảo là đi mua quà vặt cho các kỹ nữ và làm chuyện lặt vặt
theo sự sai khiến của khách làng chơi.
Bảo thường bị người ta mắng nhiếc là quân chó đẻ, đồ súc sinh. Tất nhiên, Bảo
không dám mở miệng mắng lại, vì mắng lại là bị đòn ngay. Nhưng hễ không mắng ra
miệng được thì Bảo lại mắng thầm: “Ngươi mới là quân chó đẻ, ngươi mới là
đồ súc sinh”. Sau mỗi câu mắng thầm, Bảo cảm thấy khoan khoái như được mắng thật.
Phép thắng lợi tinh thần của Vi Tiểu Bảo cao cường hơn người đồng quốc AQ mấy bực.
Điều khoan khoái nhất của Vi Tiểu Bảo là năm 13 tuổi được đi đến chỗ bọn Thiên
Địa hội đang hoạt động phản Thanh phục Minh ở bắc Kinh. Lần đầu tiên Bảo được gọi
là “Vi gia”. Vi gia tức là ngài họ Vi. Vi Tiểu Bảo tưởng tai mình nghe lầm.
Cái mặc cảm mười mấy năm bị gọi là quân chó đẻ, đồ súc sinh từng khiến Bảo cảm
thấy mình thuộc lớp hạ tiện nhất thiên hạ đột nhiên biến mất bởi hai chữ “Vi
gia”.
Từ thời điểm đó, Vi gia của chúng ta tự cho phép được mắng thầm tất cả mọi người,
kể cả những nhân vật thượng đẳng mà chế độ quân chủ Trung Hoa từng kính trọng.
Thái hậu, tức mẹ của nhà vua, bị mắng là “mụ điếm già”. Công chúa, em gái
vua, bị mắng là “con đượi non”. Thượng thiện thái giám, người coi sóc tất
cả các đầu bếp chuyên nấu ăn cho hoàng gia, bị gọi là “lão con rùa”. Hoàng
cung, nơi đẹp nhất kinh thành Bắc Kinh và đẹp nhất nước Trung Quốc, bị coi là
nơi trá ngụy nhất thiên hạ, giá trị chỉ ngang với kỹ viện. Kim Dung viết ra một
câu khiến người đọc kinh hãi: “Hoàng cung và kỹ viện là hai nơi trá ngụy nhất thiên hạ”. Tư duy đó có thể có nhà văn chưa nghĩ đến, cũng có thể có nhà
văn đã nghĩ đến nhưng chưa viết ra được. Chỉ có Kim Dung là viết ra và được
phát biểu qua cái loa phóng thanh Vi Tiểu Bảo của mình.
Khái niệm kỹ viện trở thành tiêu chuẩn, thước đo mọi giá trị trên đời của Vi Tiểu
Bảo. Nhìn cách thiết trí một căn phòng trong hoàng cung hay trong một nhà đại
phú, Bảo lập tức so sánh ngay với cách thiết trí một căn phòng trong Lệ Xuân viện.
Nhìn cách ứng xử của thái hậu, Bảo so sánh ngay với má má của mình, một kỹ nữ về
già ở thành Dương Châu. Gặp mặt Kiến Ninh công chúa, Mộc Kiếm Bình quận chúa và
Phương Di tiểu thư thuộc lực lượng Mộc vương phủ ở Vân Nam, Vi Tiểu Bảo cũng
đem ba cô gái nhỏ tuổi này so sánh với các kỹ nữ trẻ ở Lệ Xuân viện. Dưới mắt
Vi Tiểu Bảo, phụ nữ là người tầm bậy nhất thiên hạ. Khái niệm đẳng cấp xã hội ở
đây không còn nữa, cái còn lại là tố chất con người, hễ ngươi là con người thì
dù mang danh cao quý cũng chẳng hơn gì, thậm chí còn thua xa những kỹ nữ thành
Dương Châu. Ở chừng mực nào đó, phép thắng lợi tinh thần của Vi Tiểu Bảo là có
cơ sở để tin cậy chứ không lạc quan quá đánh như phép thắng lợi tinh thần của
AQ.
Phép thắng lợi tinh thần tạo cho Vi Tiểu Bảo một niềm tin mãnh liệt: tin rằng
mình hơn người, hơn đời, tinh rằng mình cao quý hơn thiên hạ và tin rằng mình sẽ
thắng. Về võ công, Vi Tiểu Bảo chỉ học lóm, học mót; kết hợp một cách lộn xộn
võ công của nhiều phái, nhiều người, bá đạo cũng có mà vương đạo cũng có. Về kiến
thức văn hóa, Bảo dốt đặc, được Khang Hy khái quát trong phạm vi 5 chữ: “gã
bất học vô thuật”. Về đẳng cấp xuất thân, Bảo thuộc loại hạ tiện nhất của Trung
Quốc, còn thua xa cả AQ. Chỗ tựa duy nhất giúp Vi Tiểu Bảo tiến tới là phép thắng
lợi tinh thần. Cứ coi thiên hạ không ra cái giống gì, cứ coi đối phương là đồ
ngu dốt, cứ tự cảm thấy mình là cao quý thì sẽ thắng lợi. Và trong những tình
huống cụ thể, dùng phép tiểu xảo lưu manh biến thua thành thắng. Câu nói thời
danh của Bảo nghe ra vừa có vẻ huênh hoang khoác lác vừa có cơ sở để tin cậy là
câu: “Binh đến thì tướng ngăn, nước tràn thì đất lấp”.
Đánh nhau với người La Sát ở biên giới Trung-Nga, gặp tiết trọng đông, tuyết
rơi ngập trắng xóa. Người La Sát đã xây dựng thành trì kiên cố, ở trong nhà có
lò sưởi, chỉ đợi quân Thanh đến là giã trọng pháo xuống thì mười Vi Tiểu Bảo
cũng toi mạng. Thế nhưng trong một lần trễ quần xuống đi tiểu, Vi Tiểu Bảo chợt
nhận ra nước tiểu đóng ngay thành băng. Từ thực tế đó, Bảo ra lệnh cho quân làm
ống thụt, đem chảo lớn nấu băng tuyết thành nước sôi, hút vào trong súng và bắn
lên thành trì người La Sát. Nước bắn ra nửa chừng hóa băng lạnh, tạo thành một
trận mưa băng trút xuống thành trì người La Sát, vô hiệu hóa mọi hoạt động của
họ.
Cuối cùng, quân Thanh hạ được thành, bắt được tướng chỉ huy. Một chương “Vi
Tiểu Bảo niệu xạ Lộc Đỉnh sơn” vừa hài hước, vừa thú vị trong Lộc Đỉnh
ký tưởng đã quá đủ để nói lên phép thắng lợi tinh thần của Vi Tiểu Bào; chỉ
một chút nước tiểu quý giá của Vi Nguyên soái cũng đủ làm cho thành Lộc Đỉnh đầu
hàng.
Khác với Lỗ Tấn, Kim Dung đã đề xuất ra được một phép thắng lợi tinh thần tích
cực. AQ khom người xuống, cam chịu, để tự huyễn hoặc mình là thứ cao quý; Vi Tiểu
Bảo rướn người lên dùng tiểu xảo đạt thắng lợi cũng để tự huyễn hoặc mình là thứ
cao quý. Ở mỗi thời điểm lịch sử khác nhau, mỗi thời đại khác nhau, phép thắng
lợi tinh thần được thể hiện và lý giải một cách khác nhau nhưng tựu trung vẫn
là thắng lợi tinh thần. Phép thắng lợi tinh thần của Kim Dung đi vào bề rộng,
phép thắng lợi tinh thần của Lỗ Tấn đi vào chiều sâu. Chung cục, AQ bị giết bởi
một bản án oan nhưng Vi Tiểu Bảo thì vẫn sống nhởn nhơ với một gia đình bảy bà
vợ và một gia tài kếch xù bậc nhất trong các nhà hào phú Trung Quốc. Ấy bởi vì
Vi Tiểu Bảo là một con người rất hiện đại.
VI Tiểu Bảo và nghệ thuật làm quan
Khi “lỡ” đưa Vi Tiểu Bảo từ Dương Châu lên Bắc Kinh rồi lọt vào hoàng cung nhà
Thanh, Kim Dung cũng đồng thời hư cấu ra một… nghệ thuật làm quan để giúp cho
nhân vật ấy trở thành một con người quyền uy tột đỉnh dưới triều Khang Hy, khiến
hàng vạn viên quan trong Bát kỳ Mãn Châu phải kính nể. Vậy đâu là nghệ thuật
làm quan của Vi Tiểu Bảo?
Kim Dung tỏ ra khá cà rỡn khi đặt tên cho nhân vật của mình: Vi là cái gì nhỏ
xíu, Tiểu là cái gì nho nhỏ, Bảo là cái gì quý báu. Kết hợp ba ngữ nghĩa đó, Vi
Tiểu Bảo có nghĩa là cái gì quý giá mà nhỏ xíu xìu xiu. Vậy trong cơ thể một
người đàn ông Trung Quốc ở một xã hội nông nghiệp lạc hậu thời Khang Hy, khi chế
độ đa thê được mặc nhiên công nhận thì cái gì nhỏ xíu xìu xiu được xem là cái
quý nhất? Có thể hiểu “quý danh” Vi Tiểu Bảo có nghĩa là “thằng… cu” theo cách
gọi nôm na của người Việt Nam. Đưa một nhân vật như vậy để phong quan tới đệ nhất
đẳng công tước, Kim Dung quả là một ông trùm hài hước.
Tuy vậy, quan lại dưới triều Khang Hy nhà Thanh có hai loại: loại được tin cẩn là
các quan lại xuất thân từ Bát kỳ thuộc dân tộc Mãn Châu; loại ít được tin cẩn
là quan lại gốc Hán, cho dù học có trình độ học vấn, khả năng trị dân và kình
trung đối với nhà Thành. Cứ đem tiêu chí đó mà xét thì Vi Tiểu Bảo trong tác phẩm
Lộc Đỉnh ký hoàn toàn không xứng đáng để trở thành một viên quan có chức vụ nhỏ
xíu như hạt đậu dưới triều Khang Hy chút nào.
Vì vậy, như cách Lỗ Tấn xây dựng nhân vật AQ, Kim Dung cũng tạo cho nhân vật một
lý lịch hết sức mù mờ. Họ Vi của y là lấy theo họ mẹ, bà Vi Xuân Phương. Ngay
tác giả Kim Dung cũng không xác định được dân tộc của Vi Tiểu Bảo là Hán, Mãn,
Mông, Tạng hay Hồi.
Để che đậy cái gốc xuất thân thấp hèn của mình mà làm quan, Vi Tiểu Bảo phải tự
nặn ra một lý lịch hết sức hàm hồ. Đại để, Bảo khoe với người khác rằng mình xuất
thân trong một gia đình danh giá, có người chú ruột (?) rất phong lưu là Vi Đại
Bảo. Khi Bảo về công cán tại Dương Châu để xây dựng tòa Trung Liệt từ, các quan
lại địa phương đón tiếp Bảo rất long trọng. Hỏi đến dòng dõi, Bảo nói ấm ớ rằng
tổ phụ họ Vi. Tuần phủ Dương Châu nổi tiếng là tay học cao hiểu rộng cho rằng Bảo
thuộc hậu duệ của bậc trung thần Vi Niết, làm quan nổi tiếng thanh liêm. Tất
nhiên là Vi Tiểu Bảo không phản đối. Bảo cứ để mặc xác các quan tán tụng, không
công nhận cũng như không phủ nhận.
Nên nhớ trước đó, Khang Hy đã phong cho Vi Tiểu Bảo làm Chánh đô thống Hoàng kỳ,
tước phong Ba Đồ Lỗ, đi công cán được khoác áo choàng màu vàng. Mà hoàng kỳ (đạo
cờ vàng) là một trong Bát kỳ đã có công vượt quan ải tiến vào Trung Hoa tiêu diệt
nhà Minh năm 1643. Thấy Vi Tiểu Bảo mặc áo khoác vàng, thiên hạ cứ ngỡ Bảo thuộc
dân tộc Mãn Châu chính cống. Bảo tự đặt cho mình cái tên nửa Hán nửa Mãn cũng rất
mơ hồ: Hoa Sai Hoa Sai Tiểu Bảo. Cái họ Hoa Sai Hoa Sai đọc như thế nào thì
ngay cả người Mãn Châu nghĩ đến bể óc cũng không hiểu ra được.
Ban đầu, Vi Tiểu Bảo chưa biết tham ô, chỉ biết ăn chặn lặt vặt. Hắn chỉ thực sự
hiểu rằng làm quan là phải biết tham ô, phải biết nhận hối lộ từ khi được vua
Khang Hy phái đi giám sát đoàn kiểm kê tài sản tại nhà tên phản thần Ngao Bái.
Nguyên trưởng đoàn kiểm kê là Lại bộ Thị lang Sách Ngạch Đồ. Khang Hy không tin
lão cáo già này lắm nên sai Vi Tiểu Bảo đi theo để giám sát công việc kiểm kê.
Trong nhà Ngao Bái có sẵn bàn thờ Phật, Sách Ngạch Đồ nảy ra ý tưởng muốn được
kết nghĩa làm anh em với Vi Tiểu Bảo. Năm ấy, Sách Ngạch Đồ 65 tuổi, Vi Tiểu Bảo
mới 13 tuổi. Họ lạy nhau tám lạy xưng là huynh đệ. Mà hễ kết nghĩa với nhau thì
có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu, Sách Ngạch Đồ xúi Vi Tiểu Bảo: “Hiền
đệ muốn lấy vật gì thì cứ lấy”. Lão cầm hai xâu châu báu, một chuỗi ngọc phỉ
thúy, một lưỡi trũy thủ, một bảo y bằng tơ tằm đưa cho Vi Tiểu Bảo. Lão lại dạy
cho Vi Tiểu Bảo một câu thiệu rất gọn: “Ngàn dặm làm quan chỉ vì tiền”.
Biên bản kiểm kê thể hiện rõ gia tài của Ngao Bái trị giá 2.353.148 lạng bạc (tức
là hai trăm ba mươi lăm vạn ba ngàn một trăm bốn mươi tám lạng). Sau khi kiểm
kê xong, Sách Ngạch Đồ đề nghị Vi Tiểu Bảo xóa bớt một nét của chữ Nhị (hai) để
chỉ còn chữ Nhất (một). Biên bản kiểm kê còn lại con số 1.353.148 lạng. Vậy là
Sách Ngạch Đồ cùng Vi Tiểu Bảo đã nuốt mất 100 vạn lạng bạc (tức 1 triệu lạng).
Sách Ngạch Đồ chia đôi số tiền đó, để cho quan giám sát Vi Tiểu Bảo ăn trọn 50
vạn lạng; phần lão 50 vạn lạng. Lão tự trích phần của mình ra 5 vạn lạng làm
quà cho bọn cung phi, thái giám và các thành viên trong đoàn kiểm kê tài sản. Mới
ngay một cuộc giám sát đầu tiên, Vi Tiểu Bảo đã trở thành một nhà đại phú hào
nhỏ tuổi nhất tại thành Bắc Kinh.
Nhận của hối lộ là một cái gì rất xa lạ với Vi Tiểu Bảo. Nhưng đại ca Sách Ngạch
Đồ đã dạy thằng tiểu đệ rất nhiều bài căn bản nên trình độ ăn hối lộ của Vi Tiểu
Bảo được nâng cao và không ngừng phát triển. Con Trai của Ngô Tam Quế là Ngô Ứng
Hùng từ Vân Nam lên thành Bắc Kinh chầu vua Khang Hy. Biết rằng thế nào Ngô Ứng
Hùng cũng đem lễ vật để lo lót cho các quan, Sách Ngạch Đồ dạy Vi Tiểu Bảo trước: “Chút
nữa đây, bất luận Ngô Ứng Hùng đưa lễ vật cho hiền đệ trọng hậu thế nào, hiền đệ
cũng đừng tỏ ra vui mừng. Hiền đệ chỉ nên hững hờ nói: “Thế tử đến Bắc Kinh đường
xa vất vả quá”. Nếu gã thấy hiền đệ tỏ ra vui mừng thì cho à mọi việc đã xong,
sau này không đưa thêm món nào khác. Hiền đệ lộ vẻ lãnh đạm là gã nhất định tưởng
hiền đệ chê lễ vật tầm thường và hôm sau tất đem đến một phần trọng hậu nữa”.
Vi Tiểu Bảo sướng quá, gọi phương pháp của Sách Ngạch Đồ là “gõ cần bẫy”.
Quả nhiên, Bào áp dụng đúng “bài bản”, khiến Ngô Ứng Hùng phải đem tiền
quà tặng Bảo liên tục. Từ đó, Vi Tiểu Bảo trở thành “tiến sĩ ngành hối lộ
học”. Hắn ăn hối lộ càng ngày càng dạn tay, càng ngày mặt càng tỉnh bơ. Đưa Kiến
Ninh công chúa qua Vân Nam theo lệnh vua gả cho Ngô Ứng Hùng, hắn moi được của
Ngô Tam Quế mấy trăm vạn lạng bạc. Về Dương Châu đi công cán, hắn cũng ăn được
của các quan lớn nhỏ ở Dương Châu một mớ. Ra Đài Loan thăm nhân dân miền đất mới
tiếp quản, hắn lại bợ được mấy trăm vạn lạng nữa. Gia tài của hắn ngày càng nặng
nề hơn. Hắn đổi hết ra ngân phiếu do các tiệm vàng danh tiếng ở Bắc Kinh phát
hành để bọc theo cho gọn. Càng có tiền, hắn càng chi sộp cho bọn thái giám, thị
vệ và các quan lại thất cơ lỡ vận. Hắn lại đem một số lớn tiền tặng các anh em
Thiên Địa hội xài giùm. Hắn rút ra được một bài học rất kỳ dị: Muốn ăn được
của hối lộ lâu dài, phải biết làm công tác… “từ thiện xã hội”. Để làm quan lâu
dài hưởng được nhiều bổng lộc trời cho thì trước hết phải biết tặng quà cáp cho
bọn đồng liêu và thi ân bố đức cho bọn thuộc hạ. Thế nhưng lần chi tiền đau nhất
trong đời hắn là khi cứu trợ nạn nhân bão lụt tại Đài Loan. Khang Hy ra lệnh
trong cung tiết giảm các khoản chi phí được đâu chừng 5 vạn lạng. Nhà vua động
viên hắn tham gia cứu trợ, hắn dại dột móc ra hơn 200 vạn lạng khiến nhà vua phải
kinh hãi. Cứu trợ xong, hắn tự mắng mình ngu!
Dù nịnh chẳng phải chuyện dễ với mọi người, Vi Tiểu Bảo vẫn có khả năng nâng nịnh
lên thành một nghệ thuật kinh điển, có bài bản rõ ràng. Phải nịnh sao cho người
nghe nịnh sướng tai mà không có cảm giác mình bị nịnh, tưởng rằng đối tượng ăn
nói chân tình mới là ảo diệu. Vi Tiểu Bảo đã từng ca ngợi Khang Hy là “Điểu,
Sâng, Ủy, Sang” (Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang). Cao hơn một chút, hắn ca ngợi
Khang Hy là một bậc thánh minh, “ngồi trong cái gì mà quyết đoán ra được
cái gì” (hắn không thuộc nổi câu “Ngồi trong trướng mà quyết đoàn ra
được ngàn dặm”). Cách nịnh khôn nhất của hắn là kể những chuyện tào lao, thuộc
lòng một số từ ngữ nhưng vẫn giả bộ quên hoặc không biết. Khang Hy không biết hắn
giả bộ bèn nhắc đúng từ ngữ đó; lúc bấy giờ hắn mới giả bộ kinh dị hỏi lại: “Ủa,
thánh thượng cũng biết cái đó ư?”, hoặc “Ủa, thánh thượng cũng có mặt ở đó
ư?”. Nhà vua không biết hắn giả nai, cứ tưởng hắn chân tình nên mặt rồng hớn hở.
Trong nghệ thuật làm quan, bao gồm che đậy lý lịch, tham ô và ăn của hối lộ,
chia tiền tham ô cho kẻ dưới, Vi Tiểu Bảo là nhân vật hạng nhất. Riêng trong
nghệ thuật nịnh, hắn đành rớt xuống hạng nhì. Kim Dung kể rằng có một lần Khang
Hy thiết triều hỏi ý bọn quần thần về việc triệt hạ phiên vương Ngô Tam Quế.
Các quan bàn tới bàn lui, chẳng ai đưa ra được ý kiến nên hay không nên. Nhà
vua lại hỏi đến Binh bộ Thượng thư Minh Châu. Minh Châu tâu: “Bệ hạ nhìn
xa trông rộng, tuy là đưa chuyện ra để hỏi bọn tiểu thần nhưng chủ kiến thì đã
có rồi. Bọn tiểu thần cứ nhắm mắt làm theo lời dạy của bệ hạ thì muôn việc đều
thành sự”. Nghe Minh Châu nịnh, Vi Tiểu Bảo phải công nhận là lão nịnh hay, xứng
đáng đạt học vị “tiến sĩ nịnh”. Tự xét mình, Vi Tiểu Bảo biết mình nịnh giỏi
lắm thì cũng chỉ cấp ”cử nhân”. Và Vi Tiểu Bảo đành đau thương tôn vinh
Minh Châu là… “bợ đít đại vương”.
Vi Tiểu Bảo và kỹ thuật xuyên tạc thông tin
Vi Tiểu Bảo tuy xuất thân từ động điếm Lệ Xuân viện thành Dương Châu, không được
học hành nhưng lại “lỡ” bị Kim Dung đưa lên làm quan lớn dưới triều Khang Hy.
Dưới triều Khang Hy, nên báo chí của Trung Quốc chưa ra đời, chưa có nhà nho
nào được gọi là… nhà báo. Vi Tiểu Bảo không phải là nhà nho và tất nhiên cáng
không phải là nhà báo. Ấy vậy mà kỹ thuật xuyên tạc thông tin, kỹ thuật bôi đen
hoặc tô hồng thượng thừa của nhân vật này xứng đáng liệt vào bậc nhất thiên hạ.
Có tay Nhất kiếm vô huyết Phùng Tích Phạm đánh kiếm nhanh vô địch. Phạm đâm cô
hầu bé bỏng Song Nhi của Vi Tiểu Bảo nhưng cô đỡ được, vết thương rịn ra một
chút máu. Thế là Vi Tiểu Bảo liền xuyên tạc ngoại hiệu Nhất kiếm vô huyết (đánh
một chiêu kiếm không thấy máu đổ) của Phạm thành Bán kiếm hữu huyết (đánh gãy nửa
cây kiếm mới chảy máu). Từ cái “loa phóng thanh” Vi Tiểu Bảo, người trên giang
hồ từ đó đều gọi Phùng Tích Phạm là Bán kiếm hữu huyết.
Tiếng Nga vốn là một trong số ngôn ngữ khó học bậc nhất thì hỏi là sao một gã bất
học vô thuật như Vi Tiểu Bảo đọc cho đúng âm? Cho nên, khi lưu lạc sang Nga hay
về sau khi đi công cán đàng hoàng, Bảo vẫn cứ thoải mái xuyên tạc tên người nước
ngoài mà chẳng một ai cản miệng gã nổi. Có hai tay thân binh của công chúa Tô
Phi Á (Sophia, người tình La Sát của Vi Tiểu Bảo) thường lui tới đem thư tín,
quà cáp cho gã; một tay tên là Denilov, đọc âm Trung Quốc là Tề Nặc Lạp Phu;
tay kia tên Vabasky, đọc ra là Hoa Bá Tư Cơ. Vi Tiểu Bảo có một cách riêng để gọi
tên hai người này là Vương Bát Tử Kê (con gà chết không nạn) và Trư La Nọa Phu
(con heo dơ bẩn thối tha). Đời nào hắn có thể đọc cho đúng!. Tới nước Thụy Điển
mà Bảo còn đọc là “nước Thụy cái gì đó” thì làm sao bắt gã phát âm đúng hai tên
Denilov và Vabasky cho chuẩn được.
Nhưng tôi vẫn tin rằng kỹ thuật xuyên tạc thông tin cao cường nhất của Vi Tiểu
Bảo vẫn là cách “Di hoa tiếp mộc” (Dời hoa nối cây). Dựa vào lời nói của người
khác, Vi Tiểu Bảo đưa đầy, thêm thắt thông tin vào, tạo ra một lượng thông tin
nửa thật nửa giả, gieo vào lòng người sự hoang mang, dao động. Kỹ thuật xuyên tạc
này gần giống cách làm… báo lá cải, sử dụng thông tin của người khác để chống lại
chính họ. Tôi đồ chừng nếu Vi Tiểu Bảo sống lại, được giao làm… tổng biên tập một
tờ báo thì tờ báo ấy lá cải phải biết. Đọc Lộc Đỉnh ký, tôi nhớ có một đoạn giả
thái hậu biết được chuyện Vi Tiểu Bảo sắp lên Ngũ Đài Sơn. Mụ này cho người tra
tấn Vi Tiểu Bảo, buộc gã phải khai ra mật khẩu để liên lạc với Thụy Đống (thực
sự là Thụy Đống đã bị gã giết chết). Thực sự thì Bảo có biết mật khẩu với đường
khẩu gì đâu, chẳng qua là bị đánh đau quá, hắn phải buột miệng nói bậy. Bảo liền
nhớ ra mật khẩu của Thiên Địa hội mà hắn đang tham gia, đại ý câu mật khẩu là
thuốc cao (thuốc dán) giá bao nhiêu, dán vào có sáng mắt ra hay không… Bảo bèn
dựa vào câu đó nhưng thay thuốc cao bằng… đường phèn: Đường phèn bán bao nhiêu,
ăn vào có ngọt không… Cách xuyên tạc thông tin của Bảo gây ra một hậu quả cực kỳ
tai hại. Giả thái hậu tưởng gã khai thật, bèn ra lệnh cấm quân bắt hết ráo bọn
bán đường phèn ở thành Bắc Kinh. Từ một thông tin tào lao của Bảo, mấy ngàn
sinh mạng người buôn gánh bán bưng bị tiêu diệt!.
Kỹ thuật xuyên tạc thông tin của Vi Tiểu Bảo khiến các vị đại thần triều Khang
Hy đều sợ hãi. Thế mạnh của Vi Tiểu Bảo là luôn kề cận nhà vua, được nhà vua đặc
biệt tin dùng. Ai cũng sợ Vi Tiểu Bảo ghét mình, đến bên nhà vua ton hót đưa đầy
cho mấy câu, nhẹ thì mất chức, nặng thì mất đầu. Vi Tiểu Bảo biết được thế mạnh
đó nên luôn luôn lấy “con cọp” Khang Hy để dọa nạt các đại thần. Lộc Đỉnh
ký có mấy chương thuật chuyện Bảo đưa công chúa Kiến Ninh qua Vân Nam gả
làm dâu nhà Bình Tây vương Ngô Tam Quế nhưng thực chất là dọ thám xem Ngô Tam
Quế có ý tạo phản hay không. Bảo đến Vân Nam thấy binh lính của Quế tinh nhuệ,
thành Côn Minh to lớn, dinh cơ của Quế đồ sộ bèn nảy ra ý định làm tiền. Đầu
tiên, Bảo nắn gân bằng cách nói huỵch toẹt rằng Bảo theo lệnh vua qua Vân Nam
xem Quế có ý định tạo phản hay không. Câu nói này làm Ngô Tam Quế và bá quan ở
Vân Nam sợ đến xanh mặt. Tiếp theo, Bảo khen Quế hơn cả nhà vua, dinh của Quế
còn lớn hơn cả hoàng cung ở Bắc Kinh. Ngô Tam Quế nghe hắn khen tới đó đã muốn
“bậy” ra quần. Cuối cùng, Bảo kết luận Quế đã quá vinh hoa, quá phú quý, sướng
hơn cả vua Khang Hy vậy thì còn muốn tạo phản chống Khang Hy làm gì nữa. Bảo hứa
sẽ về tâu lại với nhà vua là Quế không bao giờ tạo phản (vì ngu sao tạo phản?).
Ngô Tam Quế vừa sợ vừa tức nhưng phải luôn miệng vâng dạ cho xuôi, lại thề suốt
đời trung thành với Khang Hy. Lão phải nhả ra cho Vi Tiểu Bảo 300 vạn lạng bạc,
chưa kể đến các món quà biếu lặt vặt.
Nên nhớ Vi Tiểu Bảo không bao giờ nhận mình sai lầm, kể cả khi hắn biết rõ mình
sai lầm 100%. Kỹ thuật xuyên tạc thông tin cứ vậy mà phát triển, đặc biệt là
trong trường hợp hắn muốn vu hãm địch thủ của mình vào đất chết. Có một lần Bảo
sang nhà tịnh địch cũ là Trịnh Khắc Sảng để đòi nợ. Sảng vét hết tiền bạc, tư
trang của vợ con, trong đó có một cành phụng thoa, món trang sức cài trên mái
tóc rất phổ biến của các phụ nữ nhà quan trung Quốc. Bảo cầm cành phụng thoa
lên. bắt đầu xuyên tạc. Theo Bảo, phụng là hình ảnh tượng trưng cho hoàng hậu;
vợ Trịnh Khắc Sảng dung cạnh phụng thoa thì có nghĩa là muốn làm hoàng hậu, còn
bản thân của Trịnh Khắc Sảng thì đã có ý muốn làm hoàng đế. Trịnh Khắc Sảnh
nghe hắn vu hãm, quỳ mọp xuống lạy muốn gần chết. Nhưng thầy của Sảng là Phùng
Tích Phạm biết rõ đạo lý ở đời, nói thẳng cho Bảo hay là tất cả các tiểu thư
con nhà quan ở thành Bắc Kinh đều dùng phụng thoa, bảo đừng có hòng vu khống Trịnh
Khắc Sảng. Nắm được câu nói đó, Bảo xoay lại Phùng Tích Phạm: “Hóa ra
Phùng đại nhân đã nhìn thấy hết các vị tiểu thư con nhà quan ở thành Bắc Kinh rồi.
Thật là lợi hại! Chẳng hay nhan sắc của tiểu thư con của thượng thư bộ binh ra
thế nào?”. Thượng thư bộ binh triều Khang Hy là Minh Châu, Bảo xuyên tạc kiểu
này chẳng khác nào bảo Phùng Tích Phạm là một thứ dâm tặc, chuyên đi dòm dỏ con
gái nhà quan, kể cả con gái của Minh Châu. Nghĩa là cỡ nào Vi Tiểu Bảo cũng vu
hãm được đối thủ.
Kỹ thuật xuyên tạc thông tin đã có từ lâu, ít nhất là dưới triều Khang Hy du thời
đó nghề báo chưa xuất hiện. Kỹ thuật ấy còn rơi rớt lại ngày nay, hình thành những
trang báo lá cải và những nhà báo chuyên xuyên tạc thông tin. Hễ ai cho họ xơ
múi được thì họ viết bào bốc thơm hoặc viết bài giải vây cho người đó. Hễ ai không
chịu cho họ xơ múi thì họ tìm cách đánh, hết số này kéo rê đến số kia, bôi nhọ
không thương tiếc. Hễ ai có ý kiến phản hồi thì họ dùng thông tin phản hồi đó để
tiếp tục đánh lại người phản hồi. Nhưng trang báo thuộc loại “di hoa tiếp
mộc” xuất hiện khá nhiều trên các mặt báo ấy, tung hỏa mù vào dư luận xã hội
khiến bạn đọc đâm ra hoài nghi, không biết được ai nói đúng, ai nói sai, chuyện
nào phải, chuyện nào quấy.
Vi Tiểu Bảo đã chết cách đây ít nhất 230 năm nhưng kỹ thuật xuyên tạc thông tin
kiểu của Bảo vẫn còn tồn tại trong hoạt động báo chí hiện đại. Có người nói Vi
Tiểu Bảo đã sống lại và đi làm báo; rằng các bài báo của Bảo không ra chi nhưng
giúp Bảo giàu lên rất nhanh, có cả xe hơi nhà lầu, đất đai rộng lớn. Ban đầu,
tôi không tin. Nhưng từ khi đọc được nguồn tin từ các cơ quan pháp luật đã tịch
thu các tài sản bất chính gần 3 tỷ đồng của một nhà báo nọ vì người này đã có
công dùng báo chí yểm trợ cho một đại gia đục khoét tiền nhà nước thì tôi tin rằng
Vi Tiểu Bảo đã sống lại và kỹ thuật xuyên tạc thông tin vẫn còn đó.
Lý Tự Thành - Chính sử và tiểu thuyết
Trong bộ tiểu thuyết võ hiệp Lộc Đỉnh ký, Kim Dung đã dành ít nhất ba chương
nói về nhân vật Lý Tự Thành. Trong chính sử Trung Quốc, Lý Tự Thành là một nhân
vật có thực, đã từng làm triều Minh sụp đổ. Xung quanh nhân vật này, có khá nhiều
huyền thoại ly kì...
Lý Tự Thành, người huyện Mễ Chi, tỉnh Thiểm Tây. Ông sinh năm 1606, dưới triều
Minh, còn có tên là Lý Sấm. Đời vua cuối cùng của triều Minh, Sùng Trinh hoàng
đế, là một hôn quân nhu nhược, đắm say sắc dục. Ở miền Đông Bắc Trung Quốc, dân
tộc Mãn Châu dựng lên triều Thanh, có tham vọng vượt Sơn Hải quan tiến đánh
Trung Quốc. Loạn lạc nổi lên khắp nơi, Lý Tự Thành cũng dựng cờ khỏi nghĩa tại
Thiểm Tây. Đây là cuộc khởi nghĩa nông dân có quy mô tầm cỡ nhất dưới thời Sùng
Trinh hoàng đế.
Trong Lộc Đỉnh ký, Kim Dung mô tả Lý Tự Thành là "một vị lão
tăng thân hình cao lớn...tay cầm thiền trượng... Vị lão tăng này mặt vuông, dưới
cằm có hàm râu xanh, mục quang loang loáng như điện, lộ vẻ uy mãnh phi thường...
Lão đứng trước cửa đồ sộ như một trái núi nhỏ, tướng mạo như hùm beo sư tử, khí
thế đủ làm cho người ta phát sợ...". Kim Dung cũng cho biết con người của
Lý Tự Thành rất nhiều lông lá, tiếng nói rỗn rảng, khi ngủ ngáy rất dữ dội.
Nhưng văn chương tiểu thuyết thì bao giờ cũng là văn chương tiểu thuyết. Minh
sử cho biết Lý Tự Thành bị mù một mắt. Con mắt ấy bị mù là do mũi tên của
tướng Minh - Trần Vĩnh Phúc bắn vào khi Lý Tự Thành đánh vào Biện Lương (phủ
Khai Phong).
Lý Tự Thành khởi nghĩa năm 1637, tự xưng là Phụng Thiên Xướng Nghĩa Đại nguyên
soái. Cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Thành gắn liền với huyền thoại về một đại mỹ
nhân thời Minh mạt. Tên người phụ nữ ấy là Trần Viên Viên.
Trần Viên Viên là một danh kỹ đất Tô Châu, hát hay đàn giỏi, nhan sắc cực kì diễm
lệ, được bọn quan lại và phú hào Tô Châu phong làm đệ nhất đại mỹ nhân. Năm
1640, Sùng Trinh hoàng đế say mê quý phi họ Điền mà xao nhãng hoàng hậu họ Chu.
Cuộc chiến tranh lạnh xảy ra giữa Chu hoàng hậu và Điền quý phi. Chu quốc trượng
về Tô Châu mua Trần Viên Viên, tiến vào cung hầu hạ Sùng Trinh hoàng đế để nhà
vua quên bớt Điền quý phi. Sùng Tỉnh gần gũi với Viên Viên một thời gian rồi
cho bà trở lại tư dinh Chu quốc trượng. Viên đại tướng quân Ngô Tam Quế gặp Trần
Viên Viên thì say đắm ngay. Lúc bấy giờ, quân Thanh đang áp sát biên giới Sơn Hải
quan. Sùng Trinh ban Trần Viên Viên cho Ngô Tam Quế và ra lệnh cho Quế về trấn
giữ Sơn Hải quan. Quế gởi Viên Viên ở lại Bắc Kinh và ra đi.
Năm 1643, Lý Tự Thành đánh vào Bắc Kinh bức tử Sùng Trinh hoàng đế ở núi Môi
Sơn, chiếm đoạt toàn bộ kho báu nhà Minh. Vật quý giá nhất trong kho báu ấy là
nàng Trần Viên Viên tài hoa và xinh đẹp. Lý Tự Thành lên ngôi vua, tự xưng là Đại
Thuận hoàng đế, Phụng Thiên vương. Đêm đêm, sau những trận đánh đẫm máu, vị
hoàng đế thô hào lỗ mãng ấy lại quay về cung cấm với chiến lợi phẩm biết nói.
Được tin Lý Tự Thành đã chiếm được Bắc Kinh đoạt người đẹp Trần Viên Viên, Ngô
Tam Quế mở cửa đầu hàng Mãn Châu. Nhà Thanh phong ngay cho Ngô Tam Quế làm Bình
Tây vương, đưa quân về Bắc Kinh. Ngô Tam Quế đánh đuổi vừa quân lính nhà Minh,
vừa quân lính của Đại Thuận hoàng đế Lý Tự Thành; thế mạnh như chẻ tre. Lý Tự
Thành chạy về hướng núi Cửu Cung. Thuận Trị lên ngôi vua tại Bắc kinh cùng năm
1643, mở ra Thanh triều trên đất Trung Quốc. Số phận Lý Tự Thành ra sao?
Sách sử Trung Quốc cận đại cho rằng Lý Tự Thành chết vào năm Thuận Trị thứ ba
(1645). Minh sử viết: "Lý Tự Thành bị bọn dân quê vây,
không thoát được nên thắt cổ tự tử". Sách Minh quý bắc lược lại
đưa ra một cách lý giải khác: "Lý Tự Thành bị bệnh, chết trong núi La
Công". Phải nói rằng Thuận Trị hoàng đế của nhà Thanh rất ngại Lý Tự
Thành. Nhà vua sai các tướng lĩnh truy kích Lý Tự Thành phải tìm cho ra những bằng
chứng về cái chết của nhân vật thủ lĩnh phong trào nông dân này. Tướng Hà Đằng
Giao (người Hán) gởi bản tâu về Bắc Kinh, có đoạn: "Không có chứng cứ
gì về cái chết của Sấm, thủ cấp của Sấm cũng không thấy". Tướng A Tế Cách
(Mãn Châu) cũng có bản tấu về, có đoạn: "Có tên hàng binh ra trình rằng
Lý Tự Thành chạy vào núi Cửu Cung, bị dân quê vây, tự thắt cổ mà chết".
Nói chung, chẳng có ai có được bằng chứng đích xác khẳng định Lý Tự Thành đã chết
và chết như thế nào. Tất cả đều chỉ là tin đồn, lời khai...
Trong khi đó, có hai tư liệu lịch sử khác lại cho rằng Lý Tự Thành vẫn còn sống.
Sách Phong Châu kí viết: "Lý Tự Thành chạy trốn đến Giáp
Sơn, xuất gia đi tu, bảy mươi tuổi mới chết ở tư thế ngồi...". Giang Dục
Chí lại viết Lý Tự Thành mộ chí, có đoạn: "Lý Tự Thành quả thực
chạy về Phong Châu... cưỡi ngựa mà đi, đến Giáp Sơn đi tu, chết mộ vẫn
còn". Theo Giang Dục Chí, tháp xây trên mộ Lý Tự Thành có hàng chữ "Phụng
Thiên Ngọc hòa thượng". Giang Dục Chí cũng khẳng định rằng Lý Tự Thành đi
tu năm Thuận Trị thứ nhất và "thắng làm vua, bại làm sư là cách sống
của người Trung Quốc".
Kim Dung viết Lộc Đỉnh ký xây dựng nhân vật Lý Tự Thành trên cơ sở
tham khảo các tài liệu từ Phong Châu kí và Lý Tự Thành mộ chí.
Trong Lộc Đỉnh ký, Lý Tự Thành sống đến sau năm Khang Hy thứ 10 (1672),
khi Vi Tiểu Bảo làm Tứ hôn sứ gả công chúa Kiến Ninh qua Vân Nam làm vợ Ngô Ứng
Hùng, con trai Bình Tây vương Ngô Tam Quế. Rõ ràng Kim Dung gọi Lý Tự Thành là
một lão tăng. Vị "lão tăng" này cũng rất lợi hại: tìm đến ngoại thành
Côn Minh, biết người tình cũ Trần Viên Viên đang đi tu, không sống chung với
Ngô Tam Quế nữa, bèn nối lại cung đàn xưa. Mối quan hệ vụng trộm ấy đã đơm hoa
kết quả: cô gái xinh đẹp A Kha ra đời. Người ngoài cứ ngỡ A Kha là con của Ngô
Tam Quế; chỉ có Lý Tự Thành và Trần Viên Viên mới biết rõ. A Kha là con riêng của
họ, đứa con của mối tình bà vãi-ông sư!
Tất nhiên, tiểu thuyết vẫn là tiểu thuyết, tác phẩm tiểu thuyết không thể thay
thế cho ác phẩm lịch sử. Nhưng ngay những sách sử thời Minh mạt - Thanh sơ vẫn
không xác định được cái chết, cái sống của Lý Tự Thành thì bảo sao Kim Dung
không lãng mạn phóng bút cho nhân vật Lý Tự Thành của mình ở tuổi 70 vẫn sinh
ra cô con gái xinh đẹp tuyệt vời, vẫn cầm cây thiền trượng đánh nhau với Hán
gian Ngô Tam Quế trước mặt người tình Trần Viên Viên. Ai cấm được nhà văn hư cấu
trên thực tế của lịch sử. Như vậy, đối với sử sách Trung Quốc, cái chết của Lý
Tự Thành, người "anh hùng nông dân" vẫn còn là một nghi án.
Để hóa giải những thắc mắc từ nghi án ấy, người ta đọc Lộc Đỉnh ký của
Kim Dung.
Chú thích:
Danh xưng của Lý Tự Thành là Phụng Thiên vương. Chữ Vương (王) thêm một dấu chấm thành ra chữ Ngọc (玉). Phụng Thiên Ngọc hòa thượng chính là như vậy.
Đau Thương A Tử
Trong năm 1997, cuốn phim Video nhiều tập Thiên Long bát bộ do Hồng
Kông sản xuất được Fafilm Việt Nam cho phép phát hành đã trở thành một hiện tượng
phim video nổi bật, hấp dẫn nhiều người, nhiều giới thưởng ngoạn. Cuốn phim được
xây dựng dựa theo tác phẩm nổi tiếng cùng tên Thiên Long bát bộ của
nhà văn Kim Dung; bộ tiểu thuyết này còn có tên là Lục mạch thần kiếm. Thực
ra, trong bộ tiểu thuyết đồ sộ này, tác giả dành riêng bốn cuốn để viết về mối
quan hệ Tiêu Phong và A Tử, tách ra thành một phần Tiêu Phong - A Tử truyện.
Trong phim, Tiêu Phong, người anh hùng Khất Đan khôi vĩ được giao cho Huỳnh Nhật
Hoa; A Tử, cô gái nhỏ bé xinh đẹp nhưng cực kì độc ác người Hán tộc được giao
cho nữ diễn viên Lưu Ngọc Thúy.
A Tử tên đầy đủ là Đoàn A Tử, con của Đoàn Chính Thuần hoàng thái đệ của Đoàn
Chính Minh (vua nước Đại Lý) và bà Nguyễn Tinh Trúc, một tình nhân của Đoàn
Chính Thuần. Đó là một mối tình ngoại hôn, họ sinh được hai cô con gái: cô lớn
chuyên mặc áo hồng được đặt tên là A Châu, cô bé chuyên mặc áo tía được đặt tên
là A Tử. Thuở nhỏ, A Tử lạc mất cha mẹ, quy đầu làm môn hạ phái Tinh Tú của
Đinh Xuân Thu. Cho đến năm 16 tuổi, cô đã học được tất cả các tính cách tàn bạo,
tráo trở, độc ác của phái này, tìm lại được cha mẹ ruột và chị ruột rồi gặp gỡ
Tiêu Phong.
Lúc bấy giờ, Tiêu Phong đã thương yêu A Châu. Ông 30, A Châu mới 18. Họ đã hứa
hẹn sau sẽ về bên kia Nhạn Môn quan, về trên thảo nguyên mênh mông bát ngát của
đế quốc Khất Đan (bờ bắc sông Hoàng Hà triều Bắc Tống) để cùng nhau săn chồn đuổi
thỏ. Thế nhưng, trước khi ra đi, họ còn phải làm một việc cuối cùng ở Trung Quốc:
phải giết cho được kẻ đại cừu đã phục kích và ám hại cha mẹ của Tiêu Phong. Có
người vu cáo kẻ đại cừu ấy là Đoàn Chính Thuần. Khi A Châu khám phá Đoàn Chính
Thuần chính là cha ruột của mình, cô đã hóa trang làm Đoàn Chính Thuần để chịu
nhận một chưởng trả thù của người tình Tiêu Phong. Đánh lầm vào A Châu, đánh lầm
vào tình yêu và hạnh phúc của chính mình, Tiêu Phong đã ôm cô trong đêm mưa gió
sấm chớp mịt trời; khóc lên như điên dại. Chính từ bi kịch ấy, A Tử - cô gái 16
tuổi - mới hiểu ra được phía trong con người lỗ mãng, thô hào Tiêu Phong ẩn chứa
một trái tim chung tình, một tâm hồn tha thiết với tình yêu. Điều ấy làm cô xúc
động, khiến cô tìm mọi cách để đi theo ông, gọi ông là tỷ phu (chồng của chị, tức
anh rể).
Định mệnh khắc nghiệt đã trói buộc người anh hùng thẳng thắn Khất Đan với cô bé
Hán nhân ranh ma A Tử. Ông chỉ mong được xa lánh cô, nhưng cô lại cứ muốn bám
theo ông suốt đời. Ở đây không chỉ có lý do duy nhất vì tình mà A Tử mới theo
Tiêu Phong. Ở đây, còn có một lý do ẩn tế khác: A Tử là một tội đồ của phái
Tinh Tú và chỉ có oai lực của tỷ phu Tiêu Phong, cô mới thoát được bàn tay tàn
bạo của Đinh Xuân Thu, thầy mình.
Bám theo không được, cô gái nhỏ tuổi đã nảy sinh một ý nghĩ ngu ngốc: phải dùng
kim độc để bắn ông. Trên vùng Tuyết Bắc mênh mông, cô đã làm hành động ngu ngốc
ấy. Để tự cứu mình, Tiêu Phong phát ra một chưởng. A Tử bị thương nặng. Và từ
đó cuộc đời Tiêu Phong mới thật sự gắn liền với A Tử: ông bồng A Tử, dùng công
lực thượng thừa truyền vào người cô để duy trì mạng sống cho cô, đưa cô về núi
Trường Bạch (biên giới nước Triều Tiên) đào nhân sâm, giết gấu lấy mật và hùng
chưởng (tay gấu), giết cọp lấy xương nấu cao..., làm mọi cách cho A Tử được sống.
Hai năm sống trong bộ lạc Nữ Chân, Tiêu Phong chăm sóc cho cô từ chuyện tắm rửa,
thay áo quần đến chuyện ăn uống (tác giả Kim Dung dùng từ khởi cư). Tiêu Phong
cho đó là chuyện bình thường của một người đàn ông lớn tuổi đối với một cô bé
em vợ nhưng A Tử cho đó là biểu hiện của tình yêu. Đối với người phụ nữ Trung
Quốc ngày xưa, ai nhìn thấy thân thể họ thì số phận họ coi như đã thuộc về người
đàn ông ấy. A Tử cũng thế, cô cảm thấy hạnh phúc khi nghĩ đến ngày mai cô thuộc
về Tiêu Phong; muôn đời cô là người của Tiêu Phong.
A Tử càng lớn lên càng xinh đẹp. Nhưng Tiêu Phong chẳng ngó ngàng gì tới cô. Từ
khi A Châu chết, ông không còn có thể yêu bất kỳ người phụ nữ nào khác trên thế
gian nữa. Khi lên làm Nam viện đại vương cho đế quốc Khất Đan, A Tử được phong
làm Bình Nam công chúa. Khi Tiêu Phong chống lệnh hành quân của hoàng đế Khất
Đan, cô chỉ sợ Tiêu Phong bỏ mình ra đi. Cô ghé qua gặp thứ phi của hoàng đế Khất
Đan, hỏi xin thứ thuốc cho người đàn ông uống vào để chỉ chung tình với mình.
Cô đã cho Tiêu Phong uống thứ thuốc đó với cả lòng âu yếm nhưng tiếc thay đó chỉ
là rượu độc để hoàng đế Khất Đan bắt giữ Tiêu Phong.
Yêu A Tử không ai bằng Du Thản Chi. Có thể coi Du Thản Chi là một giáo chủ của đạo
tình: bị A Tử tra tấn, hành hạ thừa chết thiếu sống; anh ta chỉ muốn được gần
gũi để nhìn ngắm A Tử, bị A Tử sai chụp lồng sắt lên đầu, anh ta vẫn suốt đời
đi theo A Tử; khi A Tử mù mắt, anh ta tình nguyện hiến đôi mắt cho A Tử được
sáng mắt để mình chịu sống đui mù. Chính Tiêu Phong đã từng khuyên A Tử phải phục
thị suốt đời tấm chân tình của Du Thản Chi. Nhưng trong tư duy tàn bạo của A Tử,
Du Thản Chi chẳng khác gì một loài súc vật. Du Thản Chi lẽo đẽo theo cô, cô lẽo
đẽo theo Tiêu Phong - cuộc rượt đuổi trong tình yêu thật buồn cười nhưng cũng
thật chua xót.
Rồi cũng có một ngày, lương tâm con người trở lại với A Tử. Cô là người đầu
tiên tìm cách liên hệ với giang hồ nhà Tống để cứu ông ra khỏi cảnh lao tù của
hoàng đế Khất Đan. Tiêu Phong được đưa về Nhạn môn quan nhưng tại nơi đây, ông
đã dùng mũi tên chó sói tự đâm vào trái tim mình, nhận lấy cái chết để hóa giải
hận thù của hai nước Tống - Liêu và tạ tội với hoàng đế Khất Đan. Cũng tại nơi
đây, A Tử móc đôi mắt trả lại cho Du Thản Chi rồi ôm lấy xác Tiêu Phong bước
đi. Đây là lần đầu tiên, cô có được Tiêu Phong trong tay, cô được ôm lấy ông,
ôm lấy tình yêu say đắm và tuyệt vọng của mình mà không còn sợ bị ông ruồng rẫy.
Cha của Tiêu Phong 30 năm trước, đã bồng xác mẹ Tiêu Phong nhảy xuống hẻm núi
sâu mịt mờ của Nhạn môn quan. Ba mươi năm sau, cô A Tử đui mù cũng bồng tỷ phu
của mình và sa chân xuống hẻm núi sâu ngàn trượng đó.
Đem A Tử gán vào cho Tiêu Phong, cả tác phẩm tiểu thuyết và cả tác phẩm điện ảnh
đã đem cái xấu xa nhất, cái tàn bạo nhất gắn liền vào với cái lương thiện nhất,
cái chân chính nhất. Và giống như tinh thần nhân bản, tư duy nhân đạo phương
Đông, cái thiện đã cảm hóa đước cái ác, cái chính đã giành được thắng lợi trước
cái tà. Nhưng số phận của Tiêu Phong và A Tử đau thương quá. Khác với truyện Kiều,
Thúy Vân đã thay Thúy Kiều sống đời hạnh phúc lứa đôi với Kim Trọng. Còn Tiêu
Phong? Ông chỉ có thể tìm được hạnh phúc với cô chị A Châu chứ không phải với cô
em A Tử hay một người phụ nữ nào khác. Riêng A Tử, cô chỉ có trong tay một tỷ
phu ngoan ngoãn, dịu dàng đã chết; một tình yêu tuyệt vọng. Trước tình cảm đó,
nếu giải quyết cho A Tử còn sống với một đôi mắt còn nhìn thấy ánh sáng cuộc đời,
tiếp tục tra tấn cô gái nhỏ tuổi đó trong nỗi tuyệt vọng khôn nguôi thì là một
điều cực kì phi nhân bản. Cả tiểu thuyết và cả bộ phim Thiên Long bát bộ đều
giải quyết cho cô chết theo Tiêu Phong. Cái chết trong một chừng mực nào đó, là
vô hậu, vô nhân đạo nhưng trong trường hợp này là rất có hậu, rất nhân đạo. Đó
chính là cái nhìn của chủ nghĩa nhân đạo phương Đông, tâm hồn phương Đông.
Phụ chú:
Năm 2004, các nhà làm phim Trung Quốc đã sản xuất hàng loạt
phim dựa trên các tác phẩm của Kim Dung như Anh hùng xạ điêu, Tiếu ngạo
giang hồ... và nhanh chóng thành công bởi sự hoành tráng. Trong đó, Thiên
Long bát bộ được xem là một trong những bộ phim xuất sắc nhất.
"Bộ phim Thiên long bát bộ - do Truyền hình Trung Quốc vừa sản xuất - có
thể xếp vào loại top 10 phim nhiều tập của Trung Quốc. Với quá nhiều danh lam
thắng cảnh ở Trung Quốc nên nhiều cảnh trong phim tuyệt đẹp. Ê-kíp làm phim rất
thận trọng đối với từng chi tiết nhỏ. Lâm Chí Dĩnh nhập vai ông hoàng lãng mạn
và vô tư lự rất tốt. Lưu Dịch Phi trẻ đẹp rất hợp với vẻ trong trắng ngây thơ của
Vương Ngữ Yên. Các trận đánh nhau được biên đạo một cách xuất sắc. Điều quan trọng
nhất là bộ phim bám rất sát với nội dung bộ tiểu thuyết này. Một phim truyền
hình võ thuật tuyệt vời". (Theo Spcnet.tv)
Đạo diễn:
- Khúc Giác Lượng
- Châu Hiểu Văn
- Vũ Mẫn
Diễn viên: Hồ Quân (Kiều Phong hay Tiêu Phong), Lưu Đào (A Châu), Trần Hảo (A Tử),
Lâm Chí Dĩnh (Đoàn Dự), Lưu Diệc Phi (Vương Ngữ Yên), Cao Hồ (Hư Trúc), Tư
Khánh (Mộ Dung Phục), Thang Chấn Tông (Đoàn Chính Thuần), Tường Hân (Mộc Uyển
Thanh)...
Huyền thoại Nhạc Linh San
Đọc đi đọc lại Tiếu ngạo giang hồ của Kim Dung, tôi cứ thầm mong rằng
cô Nhạc Linh San đơn giản chỉ là nhân vật trong tiểu thuyết, rằng cô không hề
có thật ở trên đời. Tôi yêu quý nhân vật này biết bao nhiêu ở những chương hồi
đầu của bộ tiểu thuyết rồi tôi lại ghét cô bấy nhiêu ở những chương hồi sau.
Nhạc Linh San là cô con gái độc nhất của chưởng môn phái Hoa Sơn Nhạc Bất Quần
và bà Ninh Trung Tắc. Năm 16 tuổi, cô xuất hiện trong tác phẩm tiểu thuyết của
Kim Dung với bộ mặt xinh đẹp và đôi mắt to, tròn của một cô gái trong sáng,
trong trắng, nghịch ngợm và thông minh. Do yêu cầu theo dõi hành tung của phái
Thanh Thành khi chúng tiến đánh Phước Oai tiêu cục để tìm kiếm bộ Tịch tà kiếm
phổ, Nhạc Linh San đã được “đánh” xuống phủ Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến, hóa trang thành cô gái bán rượu trong hiệu Đại Bảo mà chủ nhân của cửa hiệu là nhị
sư ca của cô - Lao Đức Nặc.
Hãy trở lại một chút với ngày xưa. Mười hai năm trước, Nhạc Bất Quần nhận một
chàng trai không cha, không mẹ là Lệnh Hồ Xung vào làm đại đệ tử của phái Hoa
Sơn. Lệnh Hồ Xung xem Nhạc Bất Quần như cha, Ninh Trưng Tắc như mẹ, Nhạc Linh
San như em gái. Vốn là người tứ cố vô thân, chàng trai này đã coi phái Hoa Sơn
chính là mái ấm của đời mình. Thông minh, giàu nghị lực, Lệnh Hồ Xung gần như
đã học hết được chân truyền của Hoa Sơn kiếm pháp và Hoa Sơn khí
công. Khi Nhạc Linh San mới ba bốn tuổi, chàng trai đã bế bồng cô hái hoa bắt
bướm, làm cho cô những đồ chơi. Lớn lên một chút Nhạc Linh San muốn hái sao
trên trời. Cô may những chiếc túi nhỏ bằng vải sa để Lệnh Hồ Xung bắt đom đóm về
bỏ vào túi; treo các túi chung quanh giường cô ngủ để khi nào chợt mở mắt ra,
cô có thể thấy hàng trăm con đom đóm lấp lánh như ánh sao. Đến khi vào tuổi dậy
thì, cô đề nghị Lệnh Hồ Xung cùng cô sáng tạo một kiếm pháp riêng. Họ rủ nhau
xuống thác nước luyện kiếm, đặt tên cho đường kiếm là Xung - Linh kiếm
pháp, một trò chơi của trẻ con. Oái ăm làm sao, trong Xung - Linh kiếm
pháp này, Nhạc Linh San lại đề nghị đặt tên cho một chiêu thức nguy hiểm
nhất là Nhĩ tử ngã hoạt (ngươi chết ta sống).
Chỗ mạnh của Lệnh Hồ Xung là lòng nghĩa hiệp, là tính trung hậu, là tâm hồn
nhân ái bao la. Chỗ yếu của Lệnh Hồ Xung là rượu. Chính vì chén rượu, Lệnh Hồ
Xung bị gọi là gã lãng tử thanh danh tàn tạ, là con người không biết phân biệt
trắng đen phải trái kết giao với bọn tà ma. Tất nhiên, đó chỉ là nhận xét của
những người đứng ngoài cuộc; còn bản chất của sự việc không phải như vậy. Mà
Nhạc Linh San thì chưa bao giờ nhìn ra được bản chất ấy; cô chỉ hiểu con người
qua tiếng đồn, qua sự suy đoán. Và đó là con đường đưa cô đến chỗ mất Lệnh Hồ
Xung, mất đi món bảo vật là mối tình đầu thơ ngây tươi đẹp để về làm vợ một gã
tiểu ngụy quân tử.
Nhạc Linh San gặp Lâm Bình Chi tại Phúc Châu. Phía trên cô và Lao Đức Nặc có
ngụy quân tử Nhạc Bất Quần đứng ra thực hiện một âm mưu sâu sắc: rình rập để phỗng
tay trên bộ Tịch tà kiếm phổ mà phái Thanh Thành đang nuôi tham vọng
đánh cướp của nhà họ Lâm ở Phước Oai tiêu cục. Cuối cùng rồi âm mưu của Nhạc Bất
Quần cũng thành công: lão thu nhận Lâm Bình Chi làm đệ tử, chiếm được bộ Tịch
tà kiếm phổ và “dẫn đao tự cung” (tự thiến bộ phận sinh dục) để
luyện đường kiếm này. Cha được kiếm phổ còn con gái được gì?
Nhạc Linh San lấy được Lâm Bình Chi, hưởng được toàn bộ vàng bạc châu báu của
Lâm Bình Chi đem từ phân cục của Phước Oai tiêu cục tại Trường Sa về, trở thành
cháu dâu của Vương Nguyên Bá, ông ngoại Lâm Bình Chi, một nhà giàu nứt tường đổ
vách tại thành Lạc Dương. Tuy nhiên, làm vợ một gã đẹp trai mà cô gái này chưa
hề được biết đến lạc thú của chuyện chăn gối. Vâng, vì nôn nóng trả thù phái
Thanh Thành, Lâm cũng luyện Tịch tà kiếm phổ, cũng “tự cung” như
ông cha vợ. Cưới nhau xong, hai người ngủ riêng hai giường, chuyện chăn gối đối
với họ thuần túy chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng. Nói theo ngôn ngữ tâm
phân học hiện đại của Sigmund Freud, Lâm Bình Chi đã tự triệt tiêu năng lực
tình dục Libido của mình.
Nhưng đó là chuyện về sau, chuyện ở cuối bộ tiểu thuyết. Vấn đề ở đây chính là
nhận thức về tình yêu của Nhạc Linh San. Cô gái ấy đã yêu đại sư ca Lệnh Hồ
Xung của mình bằng một tình yêu nồng thắm. Gặp các bạn đồng môn, cô hỏi thăm cả
mười tiếng đại sư ca đâu rồi. Thấy cha chiếu theo môn quy đánh đòn Lệnh Hồ
Xung, cô khóc. Nghe chuyện Lệnh Hồ Xung bị người khác truy tìm, cô kinh hãi. Lệnh
Hồ Xung bị phạt giam trên núi cao, cô giành phần đưa cơm, lại giấu cho chàng một
hũ rượu ngon để uống giải sầu. Thậm chí khi cha mẹ đi vắng, cô đã dám tìm lên
ngọn núi cáo, ngủ qua đêm với Lệnh Hồ Xung trong sơn động, tất nhiên là không
có việc gì bê bối xảy ra vì Kim Dung ít khi cho trai gái quan hệ tình dục trước
hôn nhân. Một cô gái có mối tình đẹp như thế lại không cưỡng lại được trước gã
“mặt trắng” Lâm Bình Chi. Vắng đại sư ca, cô dẫn Lâm Bình Chi đi luyện kiếm,
hái nấm, dạo chơi trong núi Hoa Sơn rồi dạy Lâm học kiếm pháp. Tác giả không
nói rõ trong tiểu thuyết nhưng ta vẫn biết rằng qua những ngày tháng gần gùi với
Lâm Bình Chi, cô khám phá ra được Lâm là một tỷ phú. Ngoài trái tim chung tình
ra, Lệnh Hồ Xung chẳng có gì hết. Lâm thì có nhiều thứ: cái mã đẹp trai quyến
rũ phụ nữ, vàng bạc châu báu đầy bao, cháu ngoại của một hào phú giàu nhất
thành Lạc Dương và khúc sơn ca Phúc Kiến lạ tai: “Chị em lên núi hái chè…”.
Cho đến khi Lệnh Hồ Xung nghe được câu ca rặt âm hưởng dân ca Phúc Kiến đó,
chàng mới biết Nhạc Linh San đã bỏ mình đi theo mối tình mới. Khúc sơn ca Phúc
Kiến nát ngọc tan vàng đã cuốn toàn bộ kỷ niệm tình yêu đầu đời trôi theo dòng
nước lũ. Lệnh Hồ Xung chỉ còn biết đem niềm đau của mình kể hết cho Nhậm Doanh
Doanh, người con gái ẩn thân trong ngõ Lục Trúc thành Lạc Dương nghe…
Nhưng tôi không hề phiền trách tư tưởng thực dụng trong cô gái mới 17, 18 tuổi
này. Điều đáng phiền nhất là cô đã từng sống bên cạnh người đại sư ca trên mười
mấy năm mà không hề hiểu được bản chất thật thà, trung hậu, ngay thẳng của Lệnh
Hồ Xung. Cha cô đã vu cáo Lệnh Hồ Xung ăn cắp Tịch tà kiếm phổ nhà họ
Lâm; theo gương cha, cô cũng cáo buộc Lệnh Hồ Xung đã giết bạn đồng môn, đã
chém Lâm Bình Chi đến trọng thương và đã ăn cắp Tịch tà kiếm phổ của
Lâm. Nói cách khác, cô hoàn toàn không hiểu được con người của Lệnh Hồ Xung. Có
lẽ đó cũng là điều hết sức may mắn cho Lệnh Hồ Xung, bởi nếu chàng ta cưới một
cô gái như vậy về làm vợ thì cuộc sống lứa đôi quả là sự trừng phạt không đáng
có.
Toàn bộ những điều mà cô cáo buộc Lệnh Hồ Xung chỉ là những phỏng đoán. Thực sự,
chính cha cô đã làm nên tất cả những màn kịch ấy. Nhưng nâng từ sự phỏng đoán
trở thành niềm xác tín thì chỉ có Nhạc Linh San; cha cô không hề tham dự vào.
Cho nên, khi đã thành vợ Lâm Bình Chi, hiểu được rằng chồng mình đã tự biến
thành một gã tiểu thái giám, Nhạc Linh San mới rõ được tất cả. Lúc bấy giờ thì
đã muộn, Lệnh Hồ Xung đã là người thuộc v6è Nhậm Doanh Doanh. Nhạc Linh San chỉ
còn biết mượn bài thơ của Lý Thương Ẩn chép lên tầm lụa treo trên vách:
Phụng nữ ân cần biệt cố nhân
Tóc tơ vương vấn nợ hồng trần
Nhớ xưa luyến ái Hàn công tử
Xương trắng thành tro hận chửa tan.
Cô đã bị chính chồng mình là Lâm Bình Chi giết. Hắn đã trở thành kẻ bất nam bất
nữ, đâu có thích phụ nữ. Khi chết đi, vị phu nhân này hãy còn là một trinh nữ…
Đọc đến đây, tôi cảm thấy xót thương cho Nhạc Linh San. Cô sống đã không có hạnh
phúc, chết đi lại mang mối hận ngàn đời. Cuối cùng, con người thực dụng ấy lại
quay về với bản chất làm người tốt đẹp nhất, lại biết quý chút kỷ niệm, chút
tình đầu thơ ngây, trong sáng.
Nhớ xưa luyến ái Hàn công tử
Xương trắng thành tro hận chửa tan.
Ba người ngu nhất thiên hạ
Ngày 25-8-2001, NXB Văn Học và Công ty Phương Nam đã được phép chính thức phát
hành bản dịch hai bộ Tiếu ngạo giang hồ và Xạ điêu anh hùng truyện của
Kim Dung tại Việt Nam. Tôi xem đây là một sự kiện văn học có ý nghĩa bởi ước vọng
giới thiệu tác phẩm Kim Dung đến với đông đảo bạn đọc Việt Nam của mình đã hoàn
thành. Nhân đây, xin bàn về ba nhân vật ngu nhất thiên hạ trong Tiếu ngạo
giang hồ để giải khuây cho bạn đọc.
Sinh ra ở trên đời, người ta sợ nhất là sự khuyết tật bẩm sinh mà điều kiện y học
cổ ngày xưa không sửa chữa được. Có những khuyết tật do điều kiện khách quan
như bị vũ khí đâm, bị té ngã, bị bạo bệnh. Khuyết tật nào cũng khiến cho người
ta lo sợ, sinh ra mặc cảm tự ti, đau khổ. Thánh cô Nhậm Doanh Doanh, người mà
tôi bình chọn là một trong mười mỹ nhân trong tác phẩm Kim Dung, bị Đông Phương
Bất Bại dùng kim thêu đâm trúng một vết nhẹ trên má, chảy ra một chút máu là đã
lo sợ nhan sắc suy bại không phải là không có cơ sở.
Với một thân thể khỏe mạnh và không bị khuyết tật, con người cảm thấy hạnh
phúc. Cấu tạo thân thể con người không thể có cái gì là thừa, cũng chẳng có gì
đáng gọi là thiếu. trong cơ thể, ấy bộ phận sinh dục là nơi quan trọng bởi các
chức năng truyền giống, tiết niệu và chức năng xác định giới tính đặc thù của
nó. Nó quan trọng đến nỗi đạo Bà La Môn nâng lên thành vật tổ, tạc tượng bộ
Linga và Yoni thờ cúng trong các thánh địa. Ấy vậy mà trong Tiếu ngạo
giang hồ lại có ba nhân vật ngu nhất thiên hạ khi đã đưa dao tự cắt (dẫn
đao tự cung) bộ phận sinh dục của mình, trở thành kẻ ái nam ái nữ thứ thiệt chẳng
ra cơm ra cháo gì cả. Ba người ngu đó là Nhạc Bất Quần, Lâm Bình Chi và Đông
Phương Bất Bại.
Nhạc Bất Quần là chưởng môn phái Hoa Sơn trong Ngũ nhạc kiếm phái. Lão có khuôn
mặt đẹp, trẻ mãi không già, lại có phong cách ung dung tiêu sái, có vẻ như một
nhà túc nho. Ngoại hiệu của lão là Quân tử kiếm. Vợ của lão là Ninh Trung Tắc,
một người nổi tiếng xinh xắn, giỏi giang, ngay thẳng, kiếm pháp cao cường. Thế
nhưng lão chỉ sinh được một cô con gái duy nhất. Thân danh đã là đến chức chưởng
môn một phái lớn; nhà nước phong kiến cũng không buộc các nhà nho phải… kế hoạch
hóa gia đình, không sinh con thứ hai; nhà nước phong kiến cũng không cấm nhà
nho cưới thêm vợ để sinh ra một đứa con trai. Nói tóm lại là chẳng có ai cấm cản
Nhạc có con trai để nối dõi.
Ấy vậy mà lão ngu xuẩn nuôi tham vọng luyện Tịch tà kiếm pháp để trở thành
nhân vật đệ nhất, gồm thâu Ngũ nhạc kiếm phái thành một phái duy nhất, chia ba
chân vạc với hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang. Câu đầu tiên trong Tịch tà kiếm
phổ mới thật là ác hại: “Dẫn đao tự cung dĩ đăng phong tháo cực” (Vung
dao tự thiến mới đạt được trình độ đăng phong tháo cực). Và lão đã “vung” luôn
để luyện. Hành vi ấy có thể lừa được người trong thiên hạ nhưng không thể lừa
được bà Ninh Trung Tắc. Việc lão xao nhãng chuyện chăn gối với vợ, việc lão rụng
râu trong chăn mỗi ngày và tiếng nói càng ngày càng eo éo khiến cho bà biết chồng
mình đã trở thành người ái nam ái nữ. Và bà cũng là người đầu tiên hiểu ra lão
đã ăn cắp bộ Tịch tà kiếm phổ của nhà họ Lâm, đã vu cáo cho học trò
mình là Lệnh Hồ Xung ăn cắp để đánh lừa dư luận. Tôi gọi Nhạc Bất Quần là người
ngu đệ nhất trong các nhân vật võ hiệp của Kim Dung.
Người ngu thứ nhì trong Tiếu ngạo giang hồ là gã Lâm Bình Chi, thiếu
chủ Phước Oai tiêu cục thành Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến. Lâm Bình Chi là con của
Lâm Chấn Nam, chắt nội của Lâm Viễn Đồ. Kim Dung mô tả tường mạo của gã rất đẹp,
cũng có phong cách của một nhà nho nho nhã. Mà lại là dòng dõi của Lâm Viễn Đồ
chỉ có một cây sinh một trái; Lâm Bình Chi là con trai độc nhất của Lâm Chấn
Nam.
Đúng là phái Thanh Thành xuống Phúc Kiến đánh Phước Oai tiêu cục tìm Tịch
tà kiếm phổ, khiến vợ chồng Lâm Chấn Nam chết, cơ nghiệp tiêu cục tan tành. Khi
Lâm Bình Chi lưu lạc, muốn học võ thành tài để trả thù cho cha mẹ, người đọc
cho là có hiếu. Người đọc cũng cho khát vọng trả thù của Lâm là tự nhiên. Cho
nên việc gã bái Nhạc Bất Quần làm sư phụ để trở thành môn hạ phái Hoa Sơn là
chuyện bình thường.
Lên núi Hoa Sơn, Lâm Bình Chi “gù” được con gái của Nhạc Bất Quần. Hoa Sơn kiếm
pháp dư sức thắng Thanh Thành kiếm pháp, việc trả thù cho cha mẹ gã có thể nói
là ở trong tầm tay. Là rể của Nhạc Bất Quần, Lâm đương nhiên sẽ là chưởng môn
phái Hoa Sơn sau này. Vả chăng, người Trung Quốc có câu: “Quân tử báo thù,
mười năm chưa muộn”. Lâm là người có học, lẽ nào không hiểu ra được điều ấy. Thế
nhưng khi cướp lại được Tịch tà kiếm phổ do tằng tổ Lâm Viễn Đồ chép
trong áo cà sa, Lâm cũng u mê “dẫn đao tự cung” để luyện. Cha của gã
đã di ngôn: “Không được giở ra xem”, gã cũng vẫn giở xem, bất chấp lời
cha. Khi Nhạc Bất Quần gả con gái cho gã, Lâm Bình Chi và Nhạc Linh San kết
nghĩa vợ chồng là hữu danh vô thực. Than ôi, đang tuổi thanh xuân mà tự “dẫn” để
trở thành kẻ ái nam ái nữ, không dám ngủ chung giường với cô vợ trẻ, cái ngu ấy
tưởng trên đời không còn cái ngu nào lớn hơn.
Người ngu thứ ba trong Tiếu ngạo giang hồ là Đông Phương Bất Bại.
Đúng như tên gọi, Đông Phương Bất Bại chưa bao giờ biết đến chữ thua. Võ công
lão cao cường, lão lại là phó giáo chủ của Triệu Dương thần giáo; cái ngôi giáo
chủ của lão chỉ là vấn đề ngày một ngày hai. Vậy mà…
Tiền nhiệm giáo chủ của Triệu Dương thần giáo là Nhậm Ngã Hành nhìn thấy được
tham vọng của Đông Phương Bất Bại. Nhậm bèn “thuốc” lão: đưa Quỳ hoa bảo
điển cho lão “ngâm cứu”. Lão thấy “ngon ăn”, giở ra thấy bốn chữ “Dẫn
đao tự cung”, bèn “vung” luôn để luyện. Kết quả: võ công lão đạt đến mức độ
kinh người, còn bản thân thì trở thành ái nam ái nữ. Lão đâm ra sủng ái gã
Dương Liên Đình, một tay bộ thuộc khỏe mạnh. Suốt ngày, lão nằm trong phòng kín
thơm lựng mùi nước hoa để thêu thùa, giao công việc điều khiển giáo vụ cho
Dương để kết cuộc lão bị Nhậm Ngã Hành giết chết, đoạt lại ngôi giáo chủ.
Tự thiến mình là hành vi tự hủy hoại thân thể, đi ngược lại quy luật tự nhiên.
Hủy hoại bộ phận “ấy”, cho dùng với mục đích nào, cũng là hành vi ngu xuẩn, bất
bình thường. Có một chút như vậy để “giải trí lành mạnh” mà nỡ từ chối,
tự làm cho mình nam không ra nam, nữ không ra nữ, thiệt là đại ngu. Chết sướng
hơn!
Khang Hy
Khang Hy (1654-1722) lên ngôi năm 1662, ở ngôi 60 năm, thọ 68 tuổi, được lịch sử
Trung Quốc coi là một vị minh quân dù nhà vua là người xuất thân từ chánh Hoàng
kỳ, dân tộc Mãn Châu, bộ tộc Ái Tân Giác La (Aisin Gioro). Đối với người Trung
Quốc, ai không thuộc dòng Hán tộc thì bị coi là Di Địch. Khang Hy là Di Địch,
trở thành đối tượng của muôn vạn người Trung Quốc là chuyện đương nhiên. Thế
nhưng, 60 năm trị vì của ông là 60 năm thái bình, phát triển rực rỡ. Người
Trung Quốc nhận ra được một vua Khang Hy Di Địch tốt hơn gấp bội lần những hôn
quân vô đạo của Minh triều Hán tộc. Cái khái niệm trung quân hẹp hòi của các nhà
nho, trong đó có sự can thiệp của chủ nghĩa dân tộc cực đoan bị lung lay đến tận
gốc rễ. Chỉ có một số nhà nho cỡ Lữ Lưu Lương, Tra Y Hoàng, Trần Cận Nam và tổ
chức Thiên Địa hội của Đài Loan mới coi Khang Hy là thù địch. Và họ đã gánh chịu
thất bại cùng với phong trào “phản Thanh phục Minh” của họ.
Trong Lộc Đỉnh ký của Kim Dung, ta bắt gặp một ông vua Khang Hy thiếu
niên đầy tính trẻ thơ. Cũng giống như bao trẻ thơ khác, nhà vua chán ngán những
bữa ăn ngự thiện đầy nghi lễ, có kẻ hầu người hạ bốn bên, có bọn thái giám ân cần
phục dịch. Nhà vua chỉ thích được ăn vụng ngay tại ngự trù phòng những món ăn
mà mình khoái khẩu như bánh da lợn, bánh chiên… Cũng những thức ăn đó nhưng được
bọn thái giám dọn lên, hầu hạ để ăn một mình trong cung điện đìu hiu của mình
thì nhà vua lại cảm thấy chán ngán. Cũng chính nhờ chuyện thích ăn vụng mà nhà
vua đã gặp được một anh bạn nhỏ giả thái giám là Vi Tiểu Bảo.
Cũng giống như bao trẻ thơ khác, nhà vua thiếu niên này rất dễ tiêm nhiễm thói…
chửi tục. Khi chơi với Vi Tiểu Bảo, một tiểu lưu manh chửi tục đã “có nghề” thành
Dương Châu, nhà vua mới nhận ra các câu “khải bẩm thánh thượng”, ”chúa
thượng anh minh” gì gì đó toàn là những câu sáo ngữ, tào lao. Ngược lại, hệ
thống ngôn ngữ đầu đường xó chợ, du côn du kề cỡ như “quân rùa đen, phường
chó đẻ, con mẹ nó, tổ bà nó…” nghe thật dễ nhớ, dễ hiểu, dễ chịu cái lỗ
tai. Nhà vua cảm thấy cao hừng khi được chửi tục. Điều đáng tiếc là nhà vua chỉ
được chửi tục, nói bậy trước mặt Vi Tiểu Bảo; còn khi lâm triều thì nhà vua lại
phải ăn nói theo đúng khuôn phép của một hoàng đế. Mà ăn nói theo khuôn phép lại
khiến nhà vua cảm thấy khó chịu, đặc biệt là những câu nình nọt của bọn trọng
thần. Thí dụ như câu “Thánh thượng vạn tuế” được bọn triều thần tung
hô mỗi khi thiết triều chẳng những đã không làm cho Khang Hy vui sướng mà lại
khiến cho nhà vua cảm thấy đó là lời tôn xưng láo toét: “Con mẹ nó, làm gì
mà sống được đến mười ngàn tuổi (vạn tuế)”. Khang Hy là một nhà vua khá thực tế,
chỉ muốn nghe được những ý kiến giản dị, phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. tiếc
thay, từ các cố mệnh đại thần cho đến thượng thư, từ các học sĩ đến thị lang đều
ăn nói theo kiểu bợ đít. Cho nên hệ thống ngôn ngữ thô tục, dân dã, sặc mùi lưu
manh của Vi Tiểu Bảo đã làm cho nhà vua dễ nghe và tiêm nhiễm.
Kim Dung xây dựng một Khang Hy sớm biểu lộ hùng tài đại lược khi còn tuổi vị
thành niên. Lúc rảnh rỗi, nhà vua thường ngồi trong ngự thư phòng, đọc sách. Dù
gã trọng thần Ngao Bái - đệ nhất dũng sĩ Mãn Châu - từng can ngăn nhà vua là
sách sử do người Hán để lại toàn là nọc độc, nên đốt đi là hơn nhưng nhà vua vẫn
đọc. Từ các sách sử đó, nhà vua tìm hiểu tâm hồn người Trung Quốc, nhân ra các
sai lầm của các hôn quân bạo chúa Hán tộc, tìm ra những tư tưởng mới mẻ của các
nhà nho Hán tộc yêu nước để định hình cho đường lối cai trị của Thanh triều.
Nên nhớ rằng Bát kỳ Mãn Châu tuy mạnh về quân sự nhưng lại kém về chính trị.
Tám bộ tộc ô hợp chiếm được một đất nước trung Quốc với mấy trăm triệu người chỉ
với trên dưới 10 vạn quân. Vua Thuận Trị lên ngôi mở ra nhà Thanh trên đất
Trung Quốc chỉ ở ngôi được 19 năm. Trong 19 năm đó, loạn lạc bốn phương, người
Trung Quốc “phản Thanh phục Minh” khởi nghĩa khắp nơi, giương cao ngọn
cờ chống Di Địch. Hậu duệ nhà Minh (tức họ Chu) lần lượt lập nên bốn ông vua Quế
vương, Đường vương, Phúc vương, Lỗ vương để có người đứng ra hiệu triệu công cuộc
phản Thanh. Bọn nhà nho có đầu óc bảo thủ họp nhau lại viết bộ Minh thư tập
lược, một cuốn lịch sử của triều Minh, lấy toàn niên hiệu các vua triều Minh với
ý đồ khơi dậy ý thức phục Minh. Bọn văn sĩ thì viết văn, làm thơ kể tội nhà
Thanh rồi in lén hoặc truyền bá theo cách rỉ tai trong cách nhóm nhỏ. Trong các
trà thất, bọn thầy đồ nghèo đem sách sử Trung Quốc (cũ) ra kể cho nhiều người
nghe. Chuyện tuy thuật về chiến thắng thời Đường - Tống mà kỳ thực là để khơi dậy
niềm tự hào dân tộc về các “tiền triều”.
Khang Hy đã thực hiện chương trình nội trị khéo léo, kết hợp chính trị với quân
sự. Trước hết, nhà vua thu phục lòng dân bằng cách xây dựng tòa trung liệt từ ở
Dương Châu, mở kho chẩn tế cho dân nghèo đảo Đài Loan sau cơn bão lụt. Nhà vua
trị tội tên phản thần Ngao Bái, nhân vật mà Hán tộc căm ghét hạng nhất và tịch
thu gia sản sung công quỹ. Nhà vua sớm nhận ra âm mưu tạo phản của Bình Tây
vương Ngô Tam Quế ở Vân Nam, nhân vật mà trăm vạn dân Hán tộc đều gọi là Hán
gian. Chính Ngô Tam Quế đã mở cửa Sơn Hải quan rước quân Thanh vào, đầu hàng
Thanh triều, trở thành tiên phong tiến đánh Bắc Kinh, truy đuổi Đường vương tới
Miến Điện (Myanmar) và giết Đường vương ở đó. Được phong tước Bình Tây vương,
Ngô Tam Quế củng cố binh lực ở Vân Nam, giương cờ chống là Khang Hy với chiêu
bài “hưng Minh thảo Lỗ” nhưng không được trăm họ Hán tộc hưởng ứng.
Khang Hy triệt các phiên vương Ngô Tam Quế, Thượng Khả Hỷ, Cảnh Tinh Trung cho
trăm họ vui lòng.
Đối với lực lượng đối kháng có tổ chức là Thiên Địa hội do Trần Cận Nam lãnh đạo,
nhà vua có một đối sách khác. Về mặt danh nghĩa, Thiên Địa hội đặt dưới sự chỉ
huy của Đài Loan vương Trịnh Thành Công nhưng về mặt tổ chức, Thiên Địa hội thực
sự hoạt động ở nội địa, đặc biệt là các tỉnh Đông - Nam như Triết Giang, Phúc
Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây. Bởi họ dàn trải lực lượng trên 17 tỉnh, nên đội
ngũ của họ ô hợp, trong quần hùng có nhiều nhân vật thuộc loại hữu dũng vô mưu.
Khang Hy đã “đánh” người của mình vào trong tổ chức này, nắm vững tất cả các hoạt
động chống đối của họ và cuối cùng quăng một mẻ lưới, tóm gọn tất cả. Trịnh Khắc
Sảng, con của Đài Loan vương Trịnh Thành Công, đầu hàng. Đảo Đài Loan trở về với
lục địa Trung Quốc.
Kim Dung xây dựng một nhân vật Khang Hy khá độ lượng. Nhà vua đọc các lý luận,
các sách sử của bọn nhà nho Hán tộc đương thời viết ra với sự cảm nhận thật
khách quan. Đám quyền thần phía dưới thì cho rằng các loại sách ấy mang mầm mống
phản nghịch, cứ đặt điều tâu rỗi với nhà vua. Nhưng Khang Hy trọng văn học, quý
tài năng. Nhà vua hiểu rằng bọn Bát kỳ Mãn Châu không thể có những tư duy, những
tài năng như vậy. Cái mà họ gọi là trung quân, xin nhà vua dẹp hết tư tưởng phản
nghịch trong đám nho gia Hán tộc thực sự chỉ là mặc cảm tự ty của những người
ít học, chỉ biết cai trị theo lối phân biệt chủng tộc và chỉ thấy được sức mạnh
của lưỡi kiếm. Điều hiển nhiên là Bát kỳ Mãn Châu không thể cai trị được một
Hán tộc mấy trăm triệu người nếu không có một đối sách nội trị nhân từ, khiêm
ái. Khang Hy có được cái bén nhạy của một nhà chính trị kiệt xuất nên xã hội
Trung Quốc dưới triều Khang Hy là xã hội thái bình, thịnh trị.
Sách lược đối ngoại của nhà vua cũng tuyệt diệu không kém. Khám phá được âm mưu
liên kết của Mông Cổ, Tây Tạng, Nga La Tư (La Sát) và bọn Thần long giáo - một
giáo phái phản động ở quần đảo Liêu Đông, Khang Hy đã tìm cách phá mối liên
minh đó. Nhà vua đem chức chuẩn Cát Nhĩ Hãn (vua dự bị) ra để dụ vương tử Cát
Nhĩ Đan của Mông Cổ; tăng thêm một ngôi vị Tang Kết Hoạt Phật bên cạnh Đạt Ma
Hoạt Phật ở Tây Tạng. Đối với Thần long giáo và đoàn quân xâm phạm biên giới của
Nga La Tư, nhà vua chủ trương nói chuyện bằng súng. Để chuẩn bị cho hai cuộc
chiến tranh đó, Khang Hy đã mời hai cố đạo Tây dương là Nam Hoài Nhân và Thang
Nhược Vọng giám đốc công việc đúc súng đại bác. Người Trung Hoa là dân tộc đầu
tiên trên thế giới chế ra thuốc pháo nên chuyện chế tạo hỏa dược là ra đạn trọng
pháo đối với họ là chuyện bình thường. Điều bất ngờ đối với quân Nga La Tư ở mặt
trân biên giới là họ đã bị trọng pháo của nhà Thành bắn trúng thành lũy. Trước
nay, họ nghĩ quân Thanh chỉ biết đánh nhau bằng ngựa và gươm giáo.
Cuộc chiến tranh Trung - Nga diễn ra ở biên giới hai nước được Kim Dung diễn tả
một cách khá hài hước với sự hiện diện của “bá tước” Vi Tiểu Bảo, tư lệnh các tập
đoàn quân Thanh. Cái kiểu đánh nhau vừa bằng vũ khí vừa bằng tiểu xảo lưu manh,
cái kiểu thương thuyết để ký hòa ước Hắc Long Giang vừa bằng phương pháp ngoại
giao vừa bằng lý luận cù cưa cù nhầy kiểu đầu đường xó chợ đã nói lên tài “dùng
người” của Khang Hy. Người Trung Quốc cho rằng người Nga La Tư (La Sát) là quân
bá đạo, phải có một tay lưu manh cỡ Vi Tiểu Bảo, dùng bá đạo trị bá đạo thì mời
gọi là xứng đôi vừa lứa! Và cuối cùng, tư lệnh Vi Tiểu Bảo của quân Thanh với
tư lệnh Phí Diêu Đa La (Féodore) của quân Sa hoàng Nga đã ký với nhau hòa ước Hắc
Long Giang năm 1864.
Trong chính sử Trung Quốc, Sách Ngạch Đồ thay mặt Khang Hy và Phí Diêu Đa La
thay mặt Sa hoàng ký hòa ước này. Đây là một hòa ước thắng lợi hoàn toàn cho Thanh
triều: Hai tỉnh Tân Hải và A Mộc Nhĩ của nước Nga thuộc về Trung Quốc; đất Trung
Quốc rộng thêm 80 vạn dặm vuông Anh. Trong lịch sử Trung Quốc, chưa có thời nào
đất Trung Quốc rộng như thời Khang Hy. Hòa ước đã giữ cho nhân dân hai nước sống
yên vui thanh bình trong suốt 150 năm. Chỉ tiếc rằng các vua sau này của nhà
Thanh nhu nhược, suy bại; diện tích nước Trung Quốc bị thu hẹp lại, người Trung
Quốc trở thành tôi mọi trước cuộc tiến công xâm lược của Bát quốc liên quân.
Nhưng thôi, chuyện ấy không liên quan gì đến Khang Hy và Lộc Đỉnh ký.
Khang Hy là một ông vua sáng suốt nhất của 13 triều đại nhà Thanh trên đất
Trung Quốc. Bởi vì nhà vua là người Mãn Châu nên Kim Dung phải đem gã hề Vi Tiểu
Bảo “bổ sung” chất Hán tộc cho nhà vua. Khang Hy và Vi Tiểu Bảo như hình với
bóng. Đem cái ngay thẳng, sáng suốt trộn với cái lưu manh, khôn vặt âu cũng là
một công thức sống. Chẳng vậy mà khi Vi Tiểu Bảo trốn đi, Khang Hy đã cho người
đi tìm. Nên nhớ là rằng tên giả của Khang Hy là Tiểu Huyền Tử và tên giả của Vi
Tiểu Bảo là Tiểu Quế Tử. Họ là hai thằng nhỏ, một người làm vua, một người làm
quan lớn. Bọn trẻ ba hoa khiến các ông già ngơ ngác. Tuy thời ấy, chưa ai nghe
nói đến việc “trẻ hóa đội ngũ lãnh đạo” nhưng rõ ràng qua Lộc Đỉnh
ký, Kim Dung đã cho người đọc biết thế nào là thành công của sự trẻ hóa. Tác phẩm
đem lại nụ cười chứ không phải là tư tưởng chính trị bởi Lộc Đỉnh ký là
tiểu thuyết chứ không phải là văn kiện báo cáo. Chuyện trẻ hóa chỉ là chuyện
nói chơi.
Thử bình bầu chín vị anh hùng
Trở thành người anh hùng trong chế độ quân chủ luôn luôn là khát vọng của người
đàn ông chân chính. Chính vì vậy mà tiểu thuyết cổ điển thường xây dựng hai loại
hình nhân vật lý tưởng: anh hùng và giai nhân. Tôi đã bàn tới mười mỹ nhân
trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung có đến 12 bộ,
tôi xin góp ý lạm bàn để chọn chín vị anh hùng. Làm công việc này quả thật mạo
muội vì nếu chỉ chọn chín người, tất phải bỏ đi bớt một số nhân vật trung tâm
mà tác giả đã dày công xây dựng và ban đọc mến mộ. Cho nên tôi mới xin được
phép dùng ba chữ thử bình bầu...
1. Kiều Phong
Người anh hùng thứ nhất tôi xin chọn là Kiều Phong (tức Tiêu Phong) trong Thiên
Long bát bộ. Nhân vật này không thuộc nòi Đại Hán, lại là quân Liêu cẩu; mặt
vuông tai lớn, tướng mạo đường đường. Kiều Phong bị kết tội khai man lý lịch nhằm
leo lên cao thọc sâu, lên làm bang chủ Cái bang, Trung Quốc rồi sau đó sẽ bán đứng
Trung Quốc cho rợ Khất Đan. Ba mươi tuổi, uống rượu như nước lã, võ công cao cường,
ngôi vị tột đỉnh. Kiều Phong đúng là mẫu người của quyền lực cổ điển Trung Quốc.
Ba mươi tuổi, ông không hề biết say mê nhan sắc, không thèm nhìn cô hoa khôi vợ
của bạn một cái đến nỗi cô căm thù, tìm mọi cách để cô công bố cái lý lịch Khất
Đan của ông.
Kiều Phong bỏ ngôi vị ra đi, cứu A Châu rồi yêu thương A Châu. Tình yêu đau đớn
ấy đẩy lên tột đỉnh khi ông ngộ sát A Châu. Ông bỏ Trung Quốc về Khất Đan, trở
thành Nam Viện đại vương, nắm hết binh quyền nước này. Hoàng đế vừa ra lệnh cho
ông tấn công đánh xuống triều Tống vừa để trả thù nhà, vừa để đền ơn nước.
Nhưng ông yêu hòa bình nên không thể để cho trăm họ lầm than vì chiến tranh.
Ông đã tự xử lấy mình để giải quyết toàn bộ nghịch lý, mâu thuẫn mà cuộc sống
và lịch sử nghiệt ngã đã dành cho ông. Mũi tên chó sói, biểu tượng nguồn sống
và đời sống của người Khất Đan, trở thành phương tiện giải thoát cho Kiều
Phong.
Kiều Phong là người anh hùng của bi kịch, hoàn toàn không giống bất kỳ người
anh hùng nào trong suốt chiều dài lịch sử Trung Quốc. Có lẽ khi xây dựng nhân vật
này, Kim Dung đã đầu tư toàn bộ tài hoa và tâm tình của ông vào cho nhân vật.
Kiều Phong hay đến nỗi mới thoạt nhìn chỉ thấy mặt vuông tai lớn thô hào mộc mạc
nhưng trí óc cực kỳ thông minh và trái tim cực kỳ mẫn cảm. Ngay đến khi đánh
nhau, ông cũng tính kỹ làm sao chỉ đánh một đòn mà kiềm chế ngay địch thủ, làm
sao để kiềm chế địch thủ mà không gây thương tích để khỏi xao xuyến lòng người.
Đối với ai, ông cũng khiêm ái, ôn hòa, trung trực; trong tình yêu ông còn trung
thực hơn. Ông chỉ yêu A Châu, và ngoài A Châu ra, ông không còn yêu thương ai nữa.
Kiều Phong không theo Khổng, Phật, Lão; không rặt Trung Quốc cũng không rặt Khất
Đan. Ông chỉ sống và làm một con người chân chính. Gần như ông chống lại kịch
liệt kiểu mẫu người anh hùng truyền thống của Trung Quốc: không muốn làm quan,
chống lại lệnh vua, không ham lạc thú tình dục. Một con người như vậy mà cuộc đời
diễn ra đầy bi kịch trước Nhạn Môn Quan. Tôi ca ngợi Kim Dung khi ông rất công
bằng: nhìn thấy phẩm chất Khất Đan cao hơn phẩm chất Hán tộc dù Kim Dung một
trăm phần trăm Hán tộc. Và tôi gọi Kiều Phong là đệ nhất đại anh hùng.
2. Hư Trúc
Nhân vật anh hùng thứ hai tôi xin dành cho nhà sư Hư Trúc. Về mặt cái lý lịch,
anh hùng này không có tên họ rõ ràng. Chữ Hư Trúc (cây trúc rỗng) chỉ là pháp
danh chùa Thiếu Lâm đặt cho. Cha Hư Trúc là Huyền Từ, phương trượng chùa Thiếu
Lâm; mẹ là Diệp Nhị Nương, một phụ nữ xinh xắn nhưng lãng mạn. Họ lặng lẽ
thương yêu nhau rồi Diệp Nhị Nương có bầu sinh ra Hư Trúc. Bị kẻ thù bắt cóc
khi mới ba tháng tuổi, Hư Trúc bị đem bỏ ở... chùa Thiếu Lâm, được phái này nuôi
và trở thành một nhà sư cô nhi. Cuộc đời Hư Trúc cũng đầy bi kịch bởi Huyền Từ
phương trượng không biết được đứa cô nhi ấy là con ruột mình. Văn hóa Hư Trúc
tương đối kém, chỉ đủ để đọc kinh Phật và ngũ giới cấm.
Thế nhưng nhà sư trẻ này đạo hạnh tuyệt vời, Phật lực cao cường không chê vào
đâu được. Bị chính... mẹ mình bắt làm tù binh đưa vào một chỗ các cao thủ đang
đánh cờ, Hư Trúc đánh bậy một nước mà gỡ được thế cờ bí lối trăm năm của phái
Tiêu Dao, trở thành người truyền nhân của phái này. Phái Tiêu Dao chuyên tuyển
đàn ông cực đẹp, Hư Trúc lại xấu ma chê quỷ hờn. Việc tuyển hòa thượng Hư Trúc
làm truyền nhân là một sự phá lệ của phái Tiêu Dao, xúc phạm trầm trọng đến
tính thẩm mỹ.
Thấy một bé gái sắp bị giết, Hư Trúc ra tay cứu ngay. Hóa ra đó là Thiên Sơn Đồng
Mỗ của cung Linh Thứu núi Phiêu Diễu. Đồng Mỗ bắt Hư Trúc đưa qua Tây Hạ giấu
trong hầm nước đá, ép buộc Hư Trúc phải ăn mặn và... ngủ với công chúa Tây Hạ.
Nhà sư của chúng ta đau đớn nhận ra rằng cuộc sống của người phàm cực kỳ hấp dẫn
hơn hẳn cuộc sống của nhà sư Thiếu Lâm. Đắc thủ võ công và nội lực của hai chị
em Thiên Sơn Đồng Mỗ, Hư Trúc trở thành cung chủ cung Linh Thứu, cai trị dưới
tay cả ba bốn ngàn mụ đàn bà và hàng vạn bàng môn tả đạo ba mươi sáu động bảy
mươi hai đảo. Ấy vậy mà nhà sư vẫn đứng đắn, cứ kêu bọn đệ tử của mình là tỷ tỷ.
Võ công của Hư Trúc cực kỳ cao cường, đánh cho quốc sư Thổ Phồn Cưu Ma Trí te
tua, trị Đinh Xuân Thu của phái Tinh Tú sát ván. Nhưng nhà sư của chúng ta vẫn
rất khiêm tốn để cho phái Thiếu Lâm đánh 100 côn tội phạm Ngũ giới cấm. Lên Làm
cung chủ, Hư Trúc vẫn chưa có tên họ, chỉ thêm một chữ Tử vào sau làm Hư Trúc Tử
để có vẻ đạo sĩ một chút, dễ dàng phân biệt với các tăng nhân phái Thiếu Lâm.
Lù khù có ông cù độ mạng, ham vui mà qua Tây Hạ chơi, Hư Trúc Tử lại tìm đúng
ra nàng... công chúa đã ngủ với mình. Gã xú hòa thượng trở thành phò mã một đế
quốc hùng mạnh.
Thủ pháp xây dựng nhân vật Hư Trúc của Kim Dung cực kỳ tài hoa. Cả cuộc đời
chàng này gặp toàn cơ duyên tốt đẹp mặc dù anh chưa bao giờ tìm kiếm. Đúng ra
anh chỉ mong được làm một tiểu tăng chùa Thiếu Lâm, ngày hai bữa chay, tối niệm
kinh Phật nhưng Kim Dung đã đẩy anh lên làm một vị anh hùng sáng giá trong
thiên hạ. Bản lĩnh cao cường, tài năng quán chúng, thật thà trung hậu, giàu
lòng nhân ái, lại làm rể một ông vua, làm tổng tư lệnh một lực lượng giang hồ -
cái đó không phải một người anh hùng là gì, hở trời?
3. Trương Vô Kỵ
Tôi chọn Trương Vô Kỵ, còn có tên giả là Tăng A Ngưu, con trai của Trương Thúy Sơn và Hân Tố Tố, nhân vật chính trong Ỷ thiên Đồ long ký, là nhân vật anh hùng
thứ ba. Tấm lòng của Trương Vô Kỵ rất nhân hậu, mười lăm tuổi đã dám dắt em bé
Bất Hối sáu bảy tuổi vượt qua hàng chục ngàn dặm lên Thiên Sơn tìm cha.
Con người trai trẻ ấy may mắn học được Cửu Dương thần công, học được Võ Đang
quyền pháp, Càn khôn đại nã di tâm pháp; võ công đắc thủ hai thứ chính tà, lại
học được nghề làm thuốc cứu người! Con người ấy mới hai mươi tuổi đã xả thân cứu
quần hào Minh giáo, chịu đem tấm thân cho người ta đánh đập để hóa giải tất cả
mọi hận thù. Và cũng chính con người ấy mới hai mươi tuổi đã làm giáo chủ một
giáo phái yêu nước, lãnh đạo những người Trung Quốc yêu nước đứng lên khởi
nghĩa chống quân Nguyên xâm lược. Con người ấy biết đặt Tổ quốc Trung Hoa, dân tộc
Trung Hoa trên hết, gạt bỏ những khát vọng quyền lực và tự ái cá nhân để cho cuộc
kháng chiến thành công. Hãy đọc lại đoạn Chu Nguyên Chương phản Trương Vô Kỵ,
đem Vô Kỵ và Triệu Mẫn giam vào đại lao. Với bản lĩnh thần thông ấy, Vô Kỵ giết
Chu Nguyên Chương chỉ cần một ngón tay. Nhưng cuộc khởi nghĩa ở Hoài Tứ chỉ biết
Chu Nguyên Chương là thủ lĩnh chứ không biết tới Trương Vô Kỵ. Vô Kỵ lặng lẽ mở
xiềng khóa, dẫn người tình ra đi để Chu Nguyên Chương tiếp tục lãnh đạo cuộc khởi
nghĩa. Tôi cho tầm nhận thức ấy là tầm nhận thức của bậc đại trí tuệ mà chỉ có
người anh hùng sáng suốt nhất mới có thể tư duy và hành xử như vậy.
Trong tình yêu, Vô Kỵ cũng là bậc anh hùng. Vô Kỵ có bốn cô bạn gái xinh đẹp:
Châu Nhi (em cô cậu), Triệu Mẫn (đại hoa hậu Mông Cổ, quận chúa), Chu Chỉ Nhược
(chưởng môn phái Nga Mi) và Tiểu Siêu (thánh sứ nữ Bái hỏa giáo Ba Tư). Châu
Nhi luyện võ, nhan sắc xấu đi, lại bị chứng tâm thần phân liệt nhưng Vô Kỵ vẫn
yêu cô và muốn cưới cô làm vợ. Châu Nhi chết, Vô Kỵ định cưới Chỉ Nhược nhưng
Triệu Mẫn đến... phá đám. Vô Kỵ yêu Tiểu Siêu. Nhưng Tiểu Siêu phải về Ba Tư
lên ngôi giáo chủ để cứu mạng cho mẹ già. Cuối cùng, Vô Kỵ yêu đỡ kẻ thù xinh đẹp
và thông minh của mình: Triệu Mẫn.
Nhân loại có thể đánh nhau đến chết về chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa yêu nước.
Thế nhưng không ai cấm được hai kẻ thù của hai dân tộc khác yêu nhau. Tình yêu
của Vô Kỵ và Triệu Mẫn thật lý tưởng: họ đánh nhau đến đầu rơi máu chảy, phóng
hỏa đốt nhà để rồi tối đến, họ lại gặp nhau trong quán rượu, ngồi đối ẩm nói chuyện
tâm tình. Cuối cùng, Vô Kỵ làm một việc hết sức nghiêm túc: kẻ lông mày cho Triệu
Mẫn. Chuyện ấy cũng lớn lao như chuyện chống quân Nguyên cứu nước Trung Hoa.
Chính vì vậy, tôi gọi Vô Kỵ là đại anh hùng.
4. Trương Thúy Sơn
Trương Thúy Sơn là cha Trương Vô Kỵ, chồng của Hân Tố Tố, đệ tử thứ năm của
Trương Tam Phong phái Võ Đang. Ỷ thiên Đồ long ký chỉ nói về Trương
Thúy Sơn có bốn chương nhưng tôi vẫn bầu nhân vật này là người anh hùng thứ tư
trong toàn bộ tác phẩm Kim Dung.
Trương Thúy Sơn học võ nhưng lại là một nhà thư pháp học. Trong cuộc chiến đấu
không cân sức trước Tạ Tốn, Trương Thúy Sơn đã dùng cây bút sắt của mình viết
lên tảng đá bài ca quyết truyền miệng:
Võ lâm chí tôn
Bảo đao Đồ long
Hiệu lệnh thiên hạ
Mạc cảm bất tòng
Ỷ Thiên bất xuất
Thùy dữ tranh phong.
Hai mươi bốn chữ viết với phong cách hình như phóng túng lưu loát, bao gồm tinh
thần, ý chí, nội lực, thủ pháp khiến Tạ Tốn ngẩn ngơ, chịu thua.
Trương Thúy Sơn là ông trùm tán gái. Cách tán gái của ông là... không tán gì cả,
mới là đáng sợ. Gặp Hân Tố Tố lần đầu ở phủ Lâm An, Hân Tố Tố hỏi ý của ông về
chữ Bất do cô viết trong câu "Tà phong tế vũ bất tu quy" (gió
xéo, mưa nghiêng đặng chẳng về). Cô sợ chữ ấy viết tệ, nhưng ông rất khôn, khen
chữ ấy tự nhiên, dư vị vô tận. Sau đó, ông lại chữa các chỗ bị đinh độc trên
tay cô. Ông nắm tay giỏi đến nỗi trái tim con người ta rung động.
Bị bắt cóc bất tử đưa về Băng hỏa đảo, ông sống chung với Hân Tố Tố ngay. Cái
hay của ông là không câu nệ chuyện chính - tà, không mặc cảm chuyện danh môn với
tà đạo, cũng không cần đợi bẩm báo với sư phụ, sư huynh... Tố Tố sinh ra Trương
Vô Kỵ; họ lại trở về Trung Nguyên. Người ta đi tìm dấu vết Tạ Tốn, đi tìm bảo
đao Đồ long, chỉ có vợ chồng ông và Vô Kỵ biết rõ.
Đoạn đau thương nhất là đoạn ông cùng Tố Tố tự tử trên núi Võ Đang để vừa tạ tội
với sư môn, vừa để giấu kín thân thế Tạ Tốn, Chỉ có người anh hùng phương Đông
mới sẵn sàng hy sinh như vậy. Tính ra các "anh hùng" viễn Tây Hoa Kỳ
cỡ Ringo, Django chưa dám chơi cách ấy. Trương Thúy Sơn là nhân vật phụ nhưng bản
sắc đúng là một anh hùng.
5. Thạch Phá Thiên
Người anh hùng thứ năm tôi bình chọn là Thạch Phá Thiên (Cẩu Tạp Chủng), chàng
thanh niên không biết chữ nhưng cực kỳ thông minh trong Hiệp khách hành. Thạch
Phá Thiên là con của Thạch Thanh và Mẫn Nhu ở Huyền Tố trang, Giang Nam. Bị một
người phụ nữ bắt cóc từ lúc mới vừa ba tháng tuổi, chàng trai trở thành tên tiểu
cái ăn xin, không được học hành. Ấy vậy mà cơ duyên đưa đẩy chàng tiểu cái
thành một nhân vật có bản lĩnh võ công cao cường và tấm lòng nghĩa hiệp cao vời
vợi.
Tội duy nhất của chàng trai này là giống như đúc người anh ruột độc ác của mình
tên là Thạch Trung Ngọc. Hắn đã gây ra nhiều tội ác, trong đó có vụ cưỡng dâm
chưa thành một cô gái mới mười hai tuổi. Gây tội ác xong, hắn bỏ trốn, để cho bọn
thuộc hạ mặc tình đem Thạch Phá Thiên ra làm con bù nhìn, thay hắn gánh vác tất
cả hậu quả từ những hành vi vô đạo của mình.
Chính Thạch Phá Thiên đã cứu được Bạch A Tú, cô gái bị cưỡng
dâm. Chính Thạch Phá Thiên đã hóa giải được những thù hận, đối địch trong nội bộ
phái Tuyết Sơn. Chính Thạch Phá Thiên đã thay mặt bang Trường Lạc, nhận thẻ bài
mời đi ăn cháo Lạp bát ngoài biển Đông dù biết rằng lắm người đi không có ngày
về.
Con người ấy đơn chất, hồn hậu một cách lạ lùng. Con người ấy sẵn sàng nhận cái
chết cho người khác được sống, nói năng với ai vẫn một mực ôn hòa, khiêm ái.
Con người ấy hoàn toàn không biết một chữ nào vì không được học hành nhưng
thông tuệ một cách lạ lùng nhờ có một trực giác cực kỳ nhạy bén.
Nghiên cứu năm mươi bốn câu thơ trong Hiệp Khách Hành của đại thi hào
Lý Bạch, những con người tài hoa nhất sa vào chữ nghĩa, đi tìm võ công bằng sự
suy luận duy lý. Thạch Phá Thiên không biết chữ nên không biết nghĩa, nghĩa là
hoàn toàn không biết câu thơ nói gì, ý nghĩa ra sao. Chàng vượt qua tác động đi
tìm ý nghĩa, chỉ quan tâm đến đường nét của từng chữ - tự dạng. Năm mươi bốn
câu thơ, mỗi câu năm chữ, cho ra hai trăm bảy mươi chữ khác nhau, mỗi chữ có một
cách viết. Thạch Phá Thiên đi theo từng nét chữ và đắc thủ một cách vẻ vang pho
võ công Hiệp Khách Hành.
Kim Dung muốn đưa Thạch Phá Thiên ra làm trò cười nhạo thiên hạ chăng? Không,
ông xây dựng nhân vật của mình một cách nghiêm túc, với cả lòng yêu thương và
quý trọng phẩm giá con người. Ta đã đọc những công án Thiền tông, trong đó có sự
lĩnh ngộ trực tiếp không thông qua biện luận được coi là phương pháp tối ưu. Ở
chừng mực nào đó, sự lãnh ngộ pho võ công Hiệp Khách hành của Thạch
Phá Thiên rất gần gũi với công án Thiền tông, trực giác đi ngay vào chân bản thể
của sự vật.
Thạch Phá Thiên quay về với cô bạn nhỏ Bạch A Tú. Đây cũng là một dạng giấc mơ
anh hùng và giai nhân, mặc dù anh hùng thất học đã từng đi xin ăn và giai nhân
đã từng bị lột quần áo cưỡng dâm không thành. Hạt ngọc toàn mỹ nào mà không có
vết? Cho tới năm ấy dường như là năm chàng hai mươi tuổi, chàng mới biết rằng
người gọi mình là Cẩu Tạp Chủng, đã từng nuôi nấng và mắng mỏ mình dường như
không phải là mẹ mình. Người anh hùng đứng lại bên núi cũ, bên căn nhà xưa và
thẫn thờ suy nghĩ: Ta là ai?
6. Lệnh Hồ Xung
Có lẽ tên anh hùng này là cái tên hay nhất trong những nhân vật trung tâm của
Kim Dung. Họ Lệnh Hồ tương đối hiếm, còn chữ Xung là chữ ghép từ bộ Nhị và âm
Trung cho nên khi đến Tây Hồ (Giang Nam), Lệnh Hồ Xung còn có tên là Phong Nhị
Trung. Tên này do Hướng Vấn Thiên đặt ra để lòe bịp bọn Giang Nam tứ hữu ở Hàng
Châu, Tây Hồ.
Lệnh Hồ Xung là con mồ côi không cha không mẹ, đầu quân làm môn đệ phái Hoa Sơn
từ lúc mười hai, mười ba tuổi. Hắn tôn sư phụ Nhạc Bất Quần như cha, tôn sư
nương Ninh Trung Tắc như mẹ, coi tiểu sư muội Nhạc Linh San như em gái. Bản
tính hắn ngay thẳng, chân thực, không tham lam của ai, không nịnh bợ ai, sẵn
sàng ra tay viện trợ người khác. Con người hắn rất lãng mạn, mê rượu, kết giao
rộng rãi với mọi người nên được tác giả gọi là kẻ thanh danh tàn tạ.
Mọi việc sẽ không có gì đáng nói nếu nữ ni cô nhỏ tuổi Nghi Lâm của phái Hằng
Sơn không bị Điền Bá Quang bắt cóc và Lệnh Hồ Xung không tìm cách giải cứu cô
ra khỏi bàn tay dâm tặc này. Từ chỗ quen biết với Điền Bá Quang, hắn mang tiếng
là kết giao với bàng môn tả đạo.
Bị tiểu sư muội Nhạc Linh San phụ rẫy mối tình đầu để đi theo Lâm Bình Chi, hắn
còn phải mang tiếng xấu là ăn trộm Tịch tà kiếm phổ của nhà họ Lâm ở
Phúc Châu. Nhưng hắn lọt vào mắt xanh một thánh nữ - Nhậm Doanh Doanh, tiểu thư
của Triệu Dương thần giáo và từ đó, bọn bàng môn tả đạo coi hắn là đại anh
hùng, đại hào kiệt trên đời. Hai lần được mời gia nhập thần giáo, hắn thẳng thừng
từ chối vì muốn giữ lại bản sắc làm người của mình. Nhưng cuộc sống oái oăm, một
con người thanh danh tàn tạ như hắn lại trở thành chưởng môn phái Hằng Sơn, cai
trị một bầy ni cô và phụ nữ tục gia.
Người ta cười hắn chăng? Không, Doanh Doanh - người tình thông minh và đầy mưu
lược của hắn đã cứu hắn trước mọi tình huống tưởng như nguy kịch nhất. Hắn
thoát khỏi các loại cạm bẫy, trong đó cạm bẫy đáng sợ nhất là do sư phụ Nhạc Bất
Quần của hắn giương ra, là cũng nhờ mưu lược của Doanh Doanh. Với đường Độc
cô Cửu kiếm, hắn nhìn ra toàn bộ sơ hở trong kiếm pháp của thiên hạ. Hắn có thể
giết được tất cả kẻ thù địch nhưng luôn luôn hắn hạ thủ lưu tình. Tâm tình hắn
liên quan đến ba người phụ nữ. Hắn yêu tiểu sư muội Nhạc Linh San, bị cô phụ rẫy,
hắn đau đớn vô kể. Sau đó, gặp gỡ và nhận được tấm chân tình của Thánh cô Nhậm
Doanh Doanh, hắn trở thành một thứ thần tiên trong cõi thế. Tiểu ni cô Nghi Lâm
thầm yêu trộm nhớ hắn đến võ vàng thân xác, khiến hắn đau đớn đến tột cùng vì
không biết làm thế nào để đáp ứng tấm chân tình của cô.
Người đọc đều biết đến hắn là chính nhân quân tử thứ thiệt; miệng hắn bẻo lẻo
trơn như mỡ nhưng hành vi rất đoan chính, quang minh. Đọc Tiếu ngạo giang
hồ, ai cũng yêu mến hắn và căm giận sư phụ hắn là Nhạc Bất Quần. Thế nhưng, hắn
là đại anh hùng không chỉ đơn giản là do hắn sống bằng phẩm chất của người
chính nhân quân tử. Tôi cho rằng hắn là đại anh hùng ở chỗ khi công đã thành,
danh đã toại, hắn cam lòng rũ bỏ tất cả, dẫn cô vợ thông minh xinh đẹp khắp
Trung Quốc tấu lên nhạc khúc Tiếu ngạo giang hồ hòa bình, trung
chính. Đó là khát vọng của một con người tự do, không chịu lệ thuộc vào công
danh, quyền lực. Hắn có cái tác phong của mẫu người lý tưởng trong triết lý Lão
- Trang. Tôi gọi hắn là người đại anh hùng trong Tiếu ngạo giang hồ.
7. Dương Qua
Dương Qua còn đọc là Dương Quá. Chữ Quá có nghĩa là lỗi lầm, thứ lỗi lầm không
do chính chàng trai gây ra mà do cha mẹ chàng gây ra.
Chàng trai này thông minh vô hạn, can đảm tuyệt vời, trung thực mười phần, xứng
đáng được xếp hạng trước ông bác của hắn là Quách Tĩnh. Dương Qua học được Đả cẩu
bổng pháp của Cái bang, lại đắc thủ toàn bộ võ công của phái Cổ Mộ do Tiểu Long
Nữ sư phụ truyền cho. Cái hơn đời nhất của Dương Qua so với các người anh hùng
khác là anh đã dám yêu người sư phụ của mình trong một xã hội phong kiến mà người
thầy được xếp cao hơn cả cha mẹ. Toàn bộ bọn hào sĩ giang hồ biết chuyện đều
nguyền rủa đôi tình nhân Dương Qua - Tiểu Long Nữ, cho rằng đó là mối tình loạn
luân, phi đạo lý. Cái hơn đời nhất của Dương Qua là thẳng thắng thừa nhận tình
yêu ấy, thừa nhận chỉ yêu có Tiểu Long Nữ và khi Tiểu Long Nữ ra đi thì Dương
Qua cũng đi khắp chân trời góc biển tìm kiếm cô.
Cuộc kháng chiến chông quân Mông Cổ được thuật lại trong Thần điêu hiệp lữ có
sự góp mặt của Dương Qua - chàng trai yêu nước. Ở một chừng mực nào đó, Kim
Dung muốn xây dựng một mẫu anh hùng vệ quốc theo phong cách Trung Hoa. Nhưng
tôi cho bản sắc anh hùng của Dương Qua là ở trong tình yêu. Biết Tiểu Long Nữ
yêu thương mình chân thật; biết cô đau đớn vì bị Doãn Chí Bình hiếp dâm, không
còn trong trắng để xứng đáng với mình nữa, Dương Qua vẫn đi tìm người tình Tiểu
Long Nữ. Đất nước Trung Hoa thiếu gì phụ nữ nhưng Dương Qua chỉ yêu một sư phụ
của mình. Cô không còn trong trắng nhưng dưới mắt Dương Qua, cô vẫn là cô gái
trinh tiết rực rỡ. Những quan điểm của Dương Qua đã chiến thắng trước những rào
cản luân lý, đạo đức mang nặng màu sắc Nho giáo cứng nhắc và đôi khi phi nhân
tính của xã hội Trung Quốc. Tôi cho đó mới là bản sắc anh hùng.
8. Hồ Phỉ
Hồ Phỉ là con trai của Hồ Nhất Đao, ngoại hiệu Tuyết Sơn Phi Hồ, anh hùng đất
Sơn Đông. Hồ Nhất Đao đấu với Miêu Nhân Phượng và lưỡi đao của Miêu Nhân Phượng
đã bị một ai đó tẩm thuốc độc vào; một hành vi mà người anh hùng lỗi lạc như
Miêu Nhân Phượng không làm. Cái chết của Hồ Nhất Đao mãi mãi là một nghi án. Tiểu
anh hùng Hồ Phỉ mười bảy tuổi, từ Sơn Đông mang theo cây Lãnh nguyệt bảo đao
cùng với đường Hồ gia đao pháp danh tiếng của cha truyền lại, về Trung nguyên
tìm kẻ thù.
Chàng trai này bản lĩnh cao cường, thông minh vô hạn. Kết bạn với cô gái họ
Viên chuyên mặc áo tía Viên Tử Y, họ trở thành một đoi bạn trẻ hành hiệp giang
hồ, trừ khử kẻ bạo ngược. Đời vua Càn Long triều Thanh dù được gọi là thái bình
thạnh trị nhưng nạn tham quan ô lại, cường hào ác bá vẫn đầy rẫy trong xã hội
Trung Quốc. Đọc những trang viết về Tiểu anh hùng Hồ Phỉ và Viên Tử Y hành hiệp
cứu nhân độ thế, trừng trị tham quan ô lại và cường hào ác bá, chúng ta thấy được
toàn cảnh xã hội nhiễu nhương của triều Càn Long.
Trong tiểu thuyết, Hồ Phỉ được Kim Dung tả như một chàng trai có vẻ bề ngoài
man rợ với hàm râu quai nón và khuôn mặt vô cảm. Thế nhưng không phải như vậy.
Gặp Miêu Nhược Lan, con gái của Miêu Nhân Phượng, chàng trai hai mươi bảy tuổi ấy
say mê ngay từ cái nhìn đầu tiên. Miêu Nhược Lan cũng vậy. Tác giả để cho mối
tình ấy lơ lửng không có đoạn kết thúc.
Trong Lãnh nguyệt bảo đao hay trong Tuyết Sơn phi hồ, Hồ Phỉ
thay mặt người cha đã qua đời đấu với Miêu Nhân Phượng. Cả hai cuộc chiến đấu
là hai cuộc chiến đấu của trí thông minh và lòng dũng cảm. Hồ Phỉ đã thắng
nhưng không bao giờ hạ lưỡi đao ra chiêu cuối cùng. Ấy bởi vì anh biết rằng cha
mình đã chết vì lưỡi đao của Miêu Nhân Phượng nhưng một người anh hùng như Miêu
Nhân Phượng thì không thể bôi thuốc độc vào đao kiếm đê giết cha mình như vậy.
Và do vậy, lưỡi đao của anh long lanh dưới bóng trăng lạnh, lóng lánh trên nền
tuyết trắng nhưng không chém xuống Miêu Nhân Phượng.
Tôi gọi Hồ Phỉ là người anh hùng thứ tám trong sự nghiệp xây dựng nhân vật của
Kim Dung.
9. Địch Vân
Địch Vân là nhân vật trung tâm của bộ Liên Thành Quyết (Tố tâm kiếm).
Chàng trai ấy không cha không mẹ, lớn lên dưới trướng của sư phụ Thích Trường
Phát, thương yêu con gái của sư phụ là Thích Phương. Mối tình dân dã, hồn nhiên
ấy sẽ không tan vỡ nếu tay sư phụ ngụy quân tử kia không nuôi âm mưu dòm ngó bộ
Liên thành kiếm pháp, đem con gái gả cho Vạn Khuê, con trai của Vạn Chấn Sơn,
sư huynh của lão.
Bị Huyết Đao lão tổ của Huyết Đao môn Tây Tạng bắt cóc, buộc làm đệ tử chân
truyền, Địch Vân vẫn giữ được phẩm chất người anh hùng đơn chất, không hòa vào
dòng hôi tanh của Huyết Đao môn. Anh cứu được Thủy Sinh, cô gái Trung Quốc bị bắt
cóc ra khỏi bàn tay dâm ác của Huyết Đao lão tổ. Anh trở thành người anh em kết
nghĩa Đinh Điển, một hào sĩ giang hồ thượng thặng và khám phá ra toàn bộ bí mật
trong Liên Thành quyết - con đường dẫn đến một kho tàng có giá trị liên thành.
Ai cũng tham vàng bạc châu báu, kể cả sư phụ Thích Trường Phát của anh. Thế
nhưng, anh không hề tham. Trước kho báu trong chùa Thiên Ninh thành Giang Lăng,
anh không thò tay bốc vàng bạc, châu báu và do vậy anh đã không bị trúng độc,
điên loạn. Anh chán ngán những âm mưu độc hiểm của giang hồ, chán ngán cuộc sống
tàn bạo, lặng lẽ trở về quan ngoại. Như trong một kịch bản hoàn chính nhất của
tinh thần nhân đạo phương Đông, cô gái Thủy Sinh trong trắng đang chờ anh giữa
vùng trời tuyết trắng mênh mông.
Địch Vân có cái vẻ nhà quê chơn chất của nông dân, có tầm tư duy của một bậc
trí thức giả, có lòng nhân của một nhà hiền triết, có trái ti của một đứa trẻ
thơ, có võ công của một hảo hán hạng nhất. Tôi chọn con người này làm nhân vật
anh hùng thứ chín trong toàn bộ trước tác của Kim Dung.
Đến đây tôi xin khóa sổ, không đưa thêm một vị nữa vào danh sách những người
anh hùng. Nến nhớ thành mẫu người của Kim Dung chọn là người chính nhân quân tử,
hoàn toàn khác hẳn người quân tử trong triết học đạo Nho với biện chứng "Tu
thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", lại hoàn toàn khác hẳn hình tượng
người anh hùng quân chủ "kẻ sĩ" mà Nguyễn Công Trứ thương
tôn thờ:
Sĩ làm sao cho bách thế lưu phương
Trước là sĩ, sau là khanh tướng
Những người anh hùng của Kim Dung không cần bách thế lưu danh, không cần thành kẻ
sĩ, cũng chưa bao giờ nuôi giấc mơ khanh tướng. Họ sống vì đời, việc xong rũ áo
ra đi, giấu kín thân thế cùng tên tuổi như thơ Lý Bạch:
Sự liễu nhất y khứ
Thâm tàng thân dữ danh.
Chính vì vậy, tôi không đưa vào đay những nhân vật nổi tiếng khác: Đoàn Dự,
hoàng đế Đại Lý, si tình hạng nhất, có Lục mạch thần kiếm vô địch, chưa phải là
mẫu người anh hùng. Quách Tĩnh, người giữ thành Tương Dương chống Mông Cổ, có
Hàng long thập bát chưởng danh tiếng, sẽ không làm nên cơm cháo gì nếu không có
cô bạn (và sau đó là cô vợ) thông minh, ma mãnh, đày thủ đoạn. Trần Cận Nam (Trần
Vĩnh Hoa), tổng đàn chủ của Thiên Địa Hội, một đời nuôi mộng chống nhà Thanh
khôi phục triều Minh, bản lãnh cao cường, con người khiêm tốn nhưng vẫn giữ mãi
cái ngu trung của nhà Nho đối với Trịnh Thành Công để cuối cùng chết trong tay
con cháu họ Trịnh cũng chưa phải là anh hùng. Gia Luật Hồng Cơ, hoàng đế Khất
Đan, cũng chưa phải là anh hùng bởi bản tính của vị này nhiều thủ đoạn và tàn bạo.
Tôi đã chọn mười mỹ nhân mà chỉ chọn được chín anh hùng. Cho hay, nhan sắc trời
cho dễ tìm hơn phẩm chất đạo đức, lý tưởng sống hình thành qua thiên nhai bách
chiết của cuộc đời đầy khổ nhục. Mà điều này cũng dễ hiểu bởi anh hùng cũng khó
tìm, khó gặp, khó thấy hơn mỹ nhân.
Một điều cũng cần nói ra là các vị anh hùng này là những người tình tuyệt vời
trong tình yêu. Họ sống chung thủy, ngay thẳng, chân thật đối với người tình. Họ
có thể đa tình nhưng không hề đa dục. Họ sáng lên giữa hàng ngàn nhân vật khác
của Kim Dung và mỗi người có một bản sắc, một phong cách riêng không ai lẫn lộn
vào ai. Nguồn gốc xuất xứ của họ là đám con em bình dân áo vải; giai cấp quý tộc
quan lại không có, giai cấp phú hào địa chủ không có. Đa phần họ lý lịch không
rõ ràng, có người không rõ cha mẹ, quê quán. Những anh hùng trong tiểu thuyết
võ hiệp Kim Dung như vậy, hoàn toàn không giống con người lý tưởng ở bất cứ một
thời đại nào trong lịch sử văn học Trung Quốc.
Ỷ Thiên Đồ Long Ký - Bài ca của chủ nghĩa yêu nước
Có được một tác phẩm tiểu thuyết hấp dẫn trong tủ sách gia đình để mọi thành
viên mọi lứa tuổi cùng đọc, rồi khi rãnh rỗi lại đem những tình huống bất ngờ,
những nhân vật mình yêu thích ra bàn bạc, tranh luận là một điều thú vị. Ỷ
thiên Đồ long ký là một tác phẩm như vậy. Đây là một bộ tiểu thuyết tương
đối đồ sộ trong sự nghiệp trước tác của Kim Dung.
Kim Dung sinh năm 1942 tại Hải Ninh, tỉnh Triết Giang, Trung Hoa. Ông xuất thân
trong một gia đình có truyền thống văn học; ông nội ông làm quan dưới triều vua
Quang Tự, là nhà thơ khá nổi tiếng với bộ Hải Ninh sát thị sao thi. Tốt nghiệp
Đông Ngô pháp học viện Thượng Hải, năm 1948 ông rời lục địa sang Hồng kông làm
công tác tòa soạn trong tờ Đại công báo. Sau đó ông sáng lập tờ Minh báo và làm
báo cho đến tận bây giờ. Trên tờ Minh báo và tờ Nam Dương thương báo ở
Singapore, tên tuổi Kim Dung được khẳng định như một nhà văn hiện đại có công
khai sáng hệ tiểu thuyết võ hiệp và viết tiểu thuyết võ hiệp hay nhất Trung
Hoa. Nhưng phải đợi đến năm 1995, khi ông được chính phủ Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa mời về Đại học Bắc Kinh trao hàm giáo sư danh dự và nói chuyện với
hàng chục ngàn nhà nghiên cứu, nhà sư phạm và sinh viên thì tên tuổi và tác phẩm
của ông mới được mọi người ở lục địa biết tới và đón nhận.
Ỷ thiên Đồ long ký là bộ tiểu thuyết hoàn toàn hư cấu nhưng đặc điểm của
phương pháp hư cấu ở đây là tác giả lồng câu chuyện trong hoàn cảnh lịch sử
Trung Hoa vào cuối Nguyên, đầu Minh. Những con người thật cùng đấu tranh bên cạnh
những con người hư cấu; lịch sử được nhìn qua lăng kính văn học khiến tác phẩm
vừa thực lại vừa hư, cuốn hút người đọc đi vào thế giới huyền thoại: thế giới của
võ lâm Trung Hoa. Và người ta không thể ngừng lại không đọc tiếp nếu “lỡ” đã đọc
một vài chương đầu.
Ỷ thiên là tên gọi của một thanh bảo kiếm, chém sắt như chém chuối, trong
lòng nó chứa đựng một pho võ công rất bá đạo: bộ Cửu âm chân kinh. Đồ
long là tên của thanh bảo đao cũng có tính năng chém sắt như chém chuối,
trong lòng nó chứa đựng một bộ binh pháp kỳ diệu: bộ Võ Mục di thư của
nhà yêu nước Nhạc Võ Mục (Nhạc Phi) đời Tống. Nhạc Võ Mục đã từng là danh tướng,
có công chống quân Kim (Thát Đát - tiền thân của Mãn Châu). Ông bị vua Tống giết
hại bởi nghe lời súc siểm của gian thần Tần Cối. Binh pháp của ông còn lại
trong Võ Mục di thư một thứ binh pháp thượng thặng nhằm chống xâm
lăng cứu nước. Đồ long có nghĩa là giết rồng, mà rồng có nghĩa là vua
nhà Nguyên đang cai trị đất nước Trung Hoa. Kèm theo thanh kiếm và lưỡi đao,
còn có một bài thơ được truyền tụng:
Võ lâm chí tôn
Bảo đao đồ long
Hiệu lệnh thiên hạ
Mạc cảm bất tòng
Ỷ thiên bất xuất
Thùy dữ tranh phong
Do không hiểu chân nghĩa của bài thơ, đặc biệt là câu thứ ba, thứ tư, bọn hào
sĩ giang hồ Trung Hoa cứ nghĩ là chiếm được bảo đao Đồ long là có thể trở thành
chí tôn, có quyền ra lệnh cho mọi người mà chẳng ai dám không nghe theo. Lòng
tin mù quáng đó đã xui khiến các bang hội, môn phái, thế lực chính trị lao vào
cuộc chiến đấu giành giật đao Đồ long. Cuối cùng, quần hùng Minh giáo được lưỡi
đao và bộ Võ Mục di thư. Trên chùa Thiếu Lâm, giáo chủ Minh giáo Trương Vô
Kỵ đã học chương "Binh quần Ngưu Đầu Sơn" của Nhạc Võ Mục
viết trong bộ binh pháp này và ứng dụng để giải vây cho hào sĩ giang hồ Trung
Hoa, đánh tan quân Mông Cổ. Trương Vô Kỵ đã long trọng trao binh pháp lại cho thuộc
hạ của mình là Từ Đạt - một nhân vật có thật trong lịch sử Trung Hoa. Và họ đã
làm cuộc khởi nghĩa Hoài Tứ kéo dài 15 năm của Chu Nguyên Chương, Thường Ngộ
Xuân, Từ Đạt, Thang Hòa, Trương Sĩ Thành. Cuộc khởi nghĩa thành công, Chu
Nguyên Chương được tôn làm vua, lấy đế hiệu Minh Thái Tổ, mở ra Minh triều,
truyền được 13 đời, kéo đài 275 năm (1368 - 1643). Ỷ thiên Đồ long ký là
bài ca đẹp về chủ nghĩa yêu nước, tinh thần chống ngoại xâm. Chính lòng yêu nước
đã nối kết những lực lượng kháng Nguyên sẵn sàng nép mình dưới ngọn cờ Minh
giáo, nghe theo sự điều động của chàng trai Trương Vô Kỵ, cứu trăm họ ra khỏi
ách thống trị của người Mông Cổ. Chân nghĩa của bài thơ được truyền tụng là như
thế.
Ỷ thiên Đồ long ký là một bài ca đẹp về tình yêu lứa đôi. Đó là tình yêu rực
rỡ giữa Hân Tố Tố - con gái của giáo chủ Bạch mi giáo Hân Thiên Chính với
chàng Trương Thúy Sơn, đệ tử thứ năm của Trương Tam Phong phái Võ Đang. Đó là
tình yêu lặng lẽ của Trương Vô Kỵ, giáo chủ Minh giáo Trung Hoa, với cô gái Ba
Tư yêu kiều Tiểu Siêu, thánh sứ nữ Bái hỏa giáo từ Ba Tư qua. Tiểu Siêu đã đi
qua con đường tơ lụa và quay về Ba Tư cũng trên con đường tơ lụa. Họ chia tay
nhau, ngậm ngùi đau đớn. Cả tình yêu, cuộc sống và số phận con người được đúc kết
trong câu hát:
Lai như lưu thủy hề thệ như phong
Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung.
(Chợt đến như dòng nước chảy
Rồi tàn như gió qua mau
Chẳng biết từ nơi nào đến
Và chẳng biết về nơi đâu)
Đó đồng thời là tình yêu tươi đẹp giữa Trương Vô Kỵ, chàng trai Hán tộc, lãnh đạo
lực lượng kháng Nguyên, với cô gái Triệu Mẫn - quận chúa của triều Nguyên. Tình
yêu ấy vượt qua mọi ngăn trở biên giới của chủng tộc, giai cấp, đối kháng chính
trị. Tác giả muốn chứng minh một định đề: cái đạo lý chình nhân quân tử có thể
cảm hóa và cải tạo những con người tàn bạo. Hân Tố Tố bị gọi là nữ ma đầu; Triệu
Mẫn bị gọi là yêu nữ. Thế nhưng trong tình yêu và do tình yêu cảm hóa, họ trở
thành những con người đích thực, biết hướng thiện sửa sai, trở thành những người
phụ nữ nhu mì, giàu nữ tính, giàu đức hy sinh. Hân Tố Tố chết theo chồng là
Trương Thúy Sơn để giữ vẹn lời nguyền không nói với ai chỗ ẩn cư của Tạ Tốn;
Triệu Mẫn sẵn sàng bỏ tước hiệu quận chúa nương nương của Mông Cổ để đi theo
chàng trai áo vải Trung Hoa Trương Vô Kỵ. Ngay trong những chương nói về tình
yêu, Kim Dung đã chứng tỏ được sự tiến bộ trong quan điểm dân tộc của ông, so với
những tác phẩm võ hiệp mà ông từng viết ra trước đó.
Ỷ thiên Đồ long ký là bài ca mênh mông về lòng nhân ái, sự bao dung giữa
con người với con người. Lòng nhân ái, sự bao dung đó nằm trong ý nghĩa bài Hỏa ca của giáo chúng Minh giáo:
Đốt tàn thân xác ta
Ngọn thánh hỏa cháy lên đỏ rực...
Hỷ, Lạc, Sầu, Bi, đều trở về cát bụi
Chỉ thương con người hoạn nạn lắm khi.
Hiểu được lời ca ấy, Trương Vô Kỵ mới hiểu được Minh giáo và nguyện xả thân để
cứu quần hùng Minh giáo, tha thứ cho những kẻ thù trong sáu đại môn phái đã bức
tử cha mẹ mình, tha thứ cho những kẻ có hành động bức hại mình. Cũng thế, Tạ Tốn
đã tha thứ cho Thành Khôn; các nhà sư Độ Ách, Độ Nạn, Độ Kiếp và quần hùng
Trung Hoa đã tha thứ cho Tạ Tốn. Tính nhân bản, nhân văn của tác phẩm hiện ra
trong từng chương, từng hồi, từng trang sách. Còn bản thân những kẻ mê muội,
không chịu cải hóa thì tự họ rước lấy những hậu quả từ những nguyên nhân mà họ
gây ra. Trương Vô Kỵ khi bị thuộc hạ là Chu Nguyên Chương phản bội, anh có thể
giết Chu Nguyên Chương chỉ với một ngón tay, nhưng đã không làm điều đó. Anh
nghĩ đến trăm họ Hán tộc lầm than đang cần đến một người lãnh đạo cuộc khởi
nghĩa, nghĩ đến vai trò của Chu Nguyên Chương đang rất cần thiết cho hàng vạn
hàng triệu giáo chúng và quần hùng Trung Hoa. Và anh lặng lẽ ra đi, tha thứ cho
Chu Nguyên Chương để Chu yên tâm lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hoài Tứ đi đến thắng
lợi.
Ỷ thiên Đồ long ký là sự hiện thực hóa những nguồn tư duy, tư tưởng vốn
mang tính trừu tượng của triết học Đông phương. Ta có thể tìm trong tác phẩm những
tư tưởng của Bái hỏa giáo (Minh giáo), Phật giáo, Lão Trang, Khổng giáo.
Pho Thái cực quyền của Trương Tam Phong sáng tạo giơ hai tay nhẹ
nhàng ôm lại như ôm vòng Thái cực, ung dung chậm rãi mà uy mãnh tuyệt luân.
Trên Thiên Sơn, Trương Vô Kỵ bẻ một cành mai mùa xuân đầy hoa và nụ để đấu với
Chính - Phản Lưỡng nghi kiếm pháp và đao pháp, mà cành mai không rụng
một bông, một búp. Cái lặng lẽ của tư duy phương Đông đã được thể hiện ở chỗ vô
cùng, vô hạn. Từ núi Côn Lôn trở về Trung Nguyên, Hà Túc Đạo mang theo cây tiêu
vĩ cầm và thanh kiếm. Chàng trung niên văn sĩ ấy đánh đàn kêu gọi bầy chim đến
cho chim nghe và nhảy múa theo tiếng đàn, dùng kiếm vẽ bàn vi kỳ và đánh cờ một
mình giữa rừng sâu trên đỉnh Thiếu Thất. Cái động và cái tĩnh, cái cơ tâm và
cái phóng dật được dung hợp và thể hiện một cách tài tình khi Hà Túc Đạo vừa đấu
kiếm vừa vận chỉ công để diễn tấu một đoạn nhạc tình mới sáng tác nhằm biểu lộ
tình cảm và lòng mến mộ của mình cho cô bé Quách Tương. Triết học Đông phương,
tư duy Đông phương cực kì lãng mạn đã đẩy đến bến bờ mênh mông nhất, chỉ cần cảm
nhận mà không cần biện biệt.
Truyện võ hiệp không phải là truyện tình báo. Nhưng Ỷ thiên Đồ long ký bao
gồm những chương những hồi mà nghệ thuật tình báo được thể hiện với một thủ
pháp cao cường: kẻ độc ác Thành Khôn cạo đầu vào chùa Thiếu Lâm giả làm nhà tu
với pháp danh Viên Chân âm mưu triệt hạ Minh giáo và hãm hại sáu đại môn phái để
chiếm ngôi võ lâm chí tôn; cô gái lai Ba Tư Tiểu Siêu nằm vùng trong nội bộ
Minh giáo Trung Hoa để tìm Càn khôn đại nã di tâm pháp; Chu Chỉ Nhược mưu sát
Hân Ly và phóng trục Triệu Mẫn để độc chiếm kiếm Ỷ thiên và đao Đồ long... Đó
là những chương hồi đặc sắc, bất ngờ, đưa ta vào một thế giới lạ lùng với những
tình huống đột biến thú vị và thi vị.
Ỷ thiên Đồ long ký cũng là một tác phẩm tập trung giới thiệu nhiều kiến thức.
Đó là kiến thức sử học với cuộc khởi nghĩa kháng Nguyên của người Trung Hoa ở
Hoài Tứ, An Huy. Đó là kiến thức địa lý học với những địa danh mà các nhân vật
đã đi qua, từ Đại Đô (Bắc Kinh) đến chùa Thiếu Lâm (Hồ Nam), từ biển Đông đến đỉnh
Thiên Sơn ngoại Tân Cương, biên giới thiên nhiên giữa Trung Hoa và Kirghizitan.
Đó là những kiến thức y học về phương pháp sử dụng thuốc chữa bệnh, phương pháp
phóng độc và đầu độc, phương pháp giải phẫu và nối xương, chỉnh hình. Đó là kiến
thức về kỹ thuật luyện kim, kỹ thuật sử dụng dầu đá (dầu thô), kỹ thuật sử dụng
chất nổ do quần hùng Minh giáo thực hiện. Đó là các kiến thức về thư pháp học một
thứ thư pháp được hình tượng hóa và cụ thể hóa bằng phán quan bút, chưởng pháp,
chỉ pháp của võ thuật...
Xét về góc độ kỹ thuật tiểu thuyết, Ỷ thiên Đồ long ký gần như là bộ
tiểu thuyết có kết cấu hoàn chỉnh nhất trong những bộ tiểu thuyết võ hiệp của
Kim Dung. Tác phẩm mở đầu với đoạn lung khởi khá hấp dẫn, kể chuyện Quách Tương
lên chùa Thiếu Lâm, chuyện Hà Túc Đạo gặp Quách Tương, chuyện thầy trò nhà sư
Giác Viễn đánh bại Hà Túc Đạo để dẫn tới quá trình hình thành các phái Võ Đang,
Nga Mi, Côn Lôn. Thế giới thứ nhất khép lại để mở ra thế giới thứ hai của
Trương Thúy Sơn, Hân Tố Tố, Tạ Tốn... Thế giới thứ hai khép lại với cái chết của
vợ chồng Trương Thúy Sơn - Hân Tố Tốn để mở ra thế giới thứ ba của Trương Vô Kỵ,
Chu Chỉ Nhược, Hân Ly, Triệu Mẫn... Những nhân vật có thật trong lịch sử Trung
Hoa và lịch sử Minh giáo Trung Hoa như Dương Tiêu, Chu Nguyên Chương, Thường Ngộ
Xuân, Từ Đạt, Hàn Sơn Đồng... sống và hoạt động bên cạnh những nhân vật hư cấu
như Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn, Tiểu Siêu, Hân Thiên Chính, Chu Chỉ Nhược, Phạm
Dao... Tất cả những tố chất trên vừa lãng mạn, vừa hiện thực, nối kết những
chương hồi với nhau thành chuỗi dài.
Kim Dung có tài năng đặc biệt khi nâng văn chương tiểu thuyết võ hiệp thông tục
lên thành thứ văn chương cung đình sang trọng. Có những chương hồi của ông khiến
người đọc cười ha hả như chương đối thoại của Ngũ Tản nhân, nhưng cũng có
chương khiến người đọc rơi nước mắt như chương Tiểu Siêu chia tay Vô Kỵ trên biển.
Một sợi chỉ nhỏ như tơ, khi ẩn khi hiện nhưng xuyên suốt tác phẩm là câu hát ngậm
ngùi: "Lại như lưu thủy hề thệ như phong..."
Tôi đã đọc Ỷ thiên Đồ long ký trên 30 năm, mỗi lần đọc lại cảm thấy
có cái gì đó rất mới mẻ, lạ lùng. Đọc đến trang cuối. tôi thở phào khi Trương
Vô Kỵ chặt đứt xiềng khóa cho Triệu Mẫn, dẫn cô vượt nhà lao ra đi mà không
nghĩ cách trả thù Chu Nguyên Chương theo logic thông thường ở đời. Chàng Trương
đi với cô Triệu và anh làm một công việc thú vị, chẳng liên hệ gì tới Ỷ
thiên kiếm và Đồ long đao, cũng chẳng liên hệ gì tới võ lâm Trung
Hoa: kẻ lông mày cho Triệu Mẫn. Trương Vô Kỵ sống theo cách của nhà thơ Lý Bạch
viết trong Hiệp khách hành:
Sự khứ phất y liễu
Thâm tàng thân dữ danh
(Việc xong, rũ áo đi
Giấu ngay thân thế, tiếc gì tiếng tăm)
Ở đời có mấy ai đạt đạo được như vậy? Vô Kỵ - Triệu Mẫn đi về đâu? Tác giả
không rõ mà cũng chẳng muốn rõ. Ở một chân trời góc biển nào đấy, khi Chu
Nguyên Chương lên ngôi cửu ngũ thì Trương Vô Kỵ lại cầm cây bút của nhan sắc
lên và kẻ lại lông mày cho nàng Triệu Mẫn.
Từ Hiệp khách hành của Lý Bạch đến Hiệp khách hành của Kim
Dung
Đó không phải là một sự trùng ngộ tình cờ giữa hai thế hệ nhà văn Trung Quốc.
Đó là sự cố ý của Kim Dung, nhà văn sống sau Lý Bạch 12 thế kỷ. Cả hai đều lấy Hiệp
khách hành làm tựa; Lý Bạch làm tựa cho một bài thơ, còn Kim Dung thì làm
tựa cho một bộ đoản thiên tiểu thuyết gồm bốn cuốn của mình.
Lý Bạch (701-762) là một nhà thơ lớn, tiêu biểu cho phong cách thi ca Thịnh Đường,
Trung Quốc. Thi sĩ Hạ Tri Chương, ngày mới quen biết Lý bạch, đã gọi ông là
Thiên thượng trích tiên nhân (người tiên bị đày xuống trần gian). Đời Tống, nhà
phê bình Hoàng Đình Kiên ca ngợi Lý Bạch là con kỳ lân, con phượng hoàng giữa
loài người.
Đường Huyền Tông rất quý trọng Lý Bạch, nhưng Lý Bạch không xu viêm phụ nhiệt,
từ chối cuộc sống cao sang cạnh nhà vua, mong trở về núi ngâm vịnh với mây trời,
ca hát cùng hoa cỏ. Sau loạn An Lộc Sơn, Lý Bạch bị bắt giam và lưu đầy sang Dạ
Lang. Sau khi được thả ra, ông du sơn ngoạn thủy, càng uống say thi ca càng bay
bổng. Thơ Lý Bạch dễ có cả ngàn bài, mỗi bài một phong cách, phóng túng, đầy ngẫu
hứng lãng mạn. Căn cứ vào nội dung, người đời sau phân thơ ông ra làm nhiều loại:
Biên tái ca (viết về chinh chiến, quan ải),Tình ca (ca ngợi tình yêu), Diễm ca
(ca ngợi nhan sắc), Biệt ca (viết về những lúc chia ly), Túy ca (viết về những
cơn say), Hành ca (ca ngợi những con người có hành động cứu người)... Hiệp
khách hành là bài thơ thuộc thể loại Hành ca, ca ngợi hai chàng tráng sĩ
thời Chiến quốc Chu Hợi và Hầu Doanh, bằng hữu của Tín Lăng quân (được nhắc đến
rất rõ trong Sử ký của Tư mã Thiên).
Trước hết, tôi xin giới thiệu bài thơ Hiệp khách hành của Lý Bạch để các bạn
nghiên cứu với bản dịch tiếng Việt của giáo sư Trần Trọng San, người thầy đã dạy
tôi môn Lịch sử văn học Trung Quốc tại Đại học Sư phạm Sài Gòn (từ năm 1966 đến
năm 1970) và bản dịch thơ tiếng Anh của ông Robert Payne, một nhà Trung Quốc học
người Anh. Nguyên văn bài thơ thế này:
俠客行
李白
趙客縵胡纓
吳鉤霜雪明
銀鞍照白馬
颯沓如流星
十步殺一人
千里不留行
事了拂衣去
深藏身與名
閒過信陵飲
脫劍膝前橫
將炙啖朱亥
持觴勸侯贏
三盃吐然諾
五嶽倒為輕
眼花耳熱後
意氣素霓生
救趙揮金槌
邯鄲先震驚
千秋二壯士
烜赫大梁城
縱使俠骨香
不慚世上英
誰能書閤下
白首太玄經
Phiên âm:
Hiệp khách hành
Triệu khách mạn hồ anh,
Ngô câu sương tuyết minh
Ngân yên chiếu bạch mã,
Táp nạp như lưu tinh.
Thập bộ sát nhất nhân,
Thiên lý bất lưu hành.
Sự liễu phất y khứ,
Thâm tàng thân dữ danh.
Nhàn quá Tín Lăng ẩm,
Thoát kiếm tất tiền hoành.
Tương chích đạm Châu Hợi,
Trì trường khuyến Hầu Doanh.
Tam bôi thổ nhiên nặc,
Ngũ Nhạc đảo vi khinh.
Nhãn hoa nhĩ thiệt hậu,
Ý khí tố nghê sinh.
Cứu Triệu huy kim chùy,
Hàm Đan tiên chấn kinh
Thiên thu nhị tráng sĩ,
Huyên hách Đại Lương thành.
Túng tử hiệp cốt hương,
Bất tàm thế thượng anh.
Thùy năng như các hạ,
Bách thủ Thái huyền kinh.
Dịch nghĩa:
Bài ca Hiệp khách
Khách nước Triệu đeo giải mũ thô sơ, có thanh gươm ngô câu sáng như sương tuyết.
Yên bạc soi chiếu con ngựa trắng, lấp lánh như sao bay.
Thanh gươm này có thể giết chết một người trong khoảng mười bước, cho nên không
đi xa ngàn dặm. Sau khi làm xong việc, người hiệp sĩ rũ áo ra đi, giấu kín thân
thế cùng tên tuổi.
Khi nhàn rỗi, qua nhà Tín Lăng quân uống rượu, tuốt gươm ra, đặt ngang trước đầu
gối. Tín Lăng quân đem chả nướng ra mời Châu Hợi, và cầm chén rượu mời Hầu
Doanh.
Hai người này uống cạn chén rượu, chân thành vâng lệnh; tấm thân nặng như năm
núi lớn mà lại coi là nhẹ. Sau khi mắt đã hoa, tai nóng bừng, ý khí tỏa ra
thành cầu vồng trắng.
Vung cây chùy sắt cứu nước Triệu; thành Hàm Đan trước tiên rung động, kinh
hoàng. Ngàn thu sau, tiếng tăm của hai tráng sĩ này lừng lẫy thành Đại Lương.
Dù có thác đi, xương hiệp khách vẫn còn thơm hương; không hổ thẹn với các bậc
anh hùng trên đời. Còn ai kia viết sách dưới gác, bạc đầu với cuốn kinh Thái
huyền?
Hiệp khách hành
Khách nước Triệu phất phơ dải mũ,
Gươm Ngô câu rực rỡ tuyết sương.
Long lanh yên bạc trên đường,
Chập chờn như thể muôn ngàn sao bay.
Trong mười bước giết người bén nhạy,
Nghìn dặm xa vùng vẫy mà chi.
Việc xong, rũ áo ra đi,
Xóa nhòa thân thế, kể gì tiếng tăm.
Rảnh rang tới Tín Lăng uống rượu,
Tuốt gươm ra, kề gối mà say.
Chả kia với chén rượu này,
Đưa cho Châu Hợi, chuốc mời Hầu Doanh.
Ba chén cạn, thân mình sá kể!
Năm núi cao, xem nhẹ lông hồng.
Bừng tai hoa mắt chập chùng.
Mống tuôn hào khí mịt mùng trời mây.
Chùy cứu Triệu vung tay khẳng khái,
Thành Hàm Đan run rẩy, kinh hoàng.
Nghìn thu tráng sĩ hai chàng,
Tiếng tăm hiển hách, rỡ ràng Đại Lương.
Thân dù thác, thơm xương nghĩa hiệp;
Thẹn chi ai hào kiệt trên đời.
Hiệu thư dưới gác nào ai?
Thái huyền trắng xóa đầu người chép kinh.
(Trần Trọng San dịch)
The bravo of Chao
The bravo of Chao wears a with a Tartar cord.
His scimitar from Wu shines like the ice and snow
his silver saddle glitters on a pure white horse.
He comes like the wind or like the shooting star.
At every ten steps he kills a man,
And goes ten thousand li withoout stopping.
The deep done, he shakes his garment and departs.
Who knowws his mane or whither he goes?
If he has time, he goes to drink with Hsin-ling,
Unbuckles his sword and lays it across his knee
The prince does not disdain to share meat with Cou Hai.
Or to offer a gablet of wine to Hou Ying.
Three cups is a sign ofa bond unbroken.
His earth is heavier than the Five Mountains
When his ears are hot and his eyes burn,
His spirit ventures forth like a rainbow
Holding a hammer, he saved the kingdom of Chao
The mere sound of his name was likeshaking thunder
For a thousand autumns two strong men
Have live in the hearts of the people of Tai-liang.
Sweet-seented be the bones of these dead heroes;
May bent everhisbooks near the window
With white hair compiling Tai-hsuan Ching.
(Edited by Robert Payne)
Vấn đề pháp luật trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung
Trước khi cầm bút làm báo, Kim Dung đã từng tốt nghiệp Đông Ngô pháp học viện
Thượng Hải. Văn bằng của ông là cử nhân luật khoa (pháp học) và việc gắn liên yếu
tố pháp luật vào trong tác phẩm văn chương kiếm hiệp, đối với ông gần như là vấn
đề tất yếu.
Một cách khái quát, Kim Dung thường đặt những tác phẩm của mình vào trong bối cảnh
của các triều đại phong kiến Trung Quốc: Thiên Long bát bộ (thời Tống), Xạ
điêu anh hùng truyện (Tống-Kim), Thần điêu hiệp lữ (Tống-Nguyên), Ỷ
thiên Đồ long ký (Nguyên), Lộc Đỉnh ký (Thanh)… Những bối cảnh lịch
sử đó có trước thời đại ông sống ít nhất 300 năm cho nên những vấn đề pháp luật
được phản ánh trong tác phẩm đương nhiên là những vấn đề pháp luật của xã hội
phong kiến Trung Quốc. Tuy nhiên, thông qua cái vang bóng xa xăm đó, ta lại tìm
thấy những khát vọng rất hiện đại.
Với trí tưởng tượng được hư cấu tuyệt vời, Kim Dung đã xây dựng trong những tác
phẩm của mình một loại người đặc biệt: bọn hào sĩ giang hồ, đứng trên và đứng
ngoài hệ thống pháp luật phong kiến. Trong Tiếu ngạo giang hồ, nhân vật
Lưu Chính Phong rửa tay gác kiếm để nhận một chức quan nhỏ của nhà Tống, bị bọn
quần hào chê cười. Đối với bọn này, không có vương pháp mà cũng chẳng có vương
quyền, bởi một điều đơn giản là hộ không tin vào hệ thống luật pháp của nhà nước
phong kiến. Điền Bá Quang lấy được hai hũ rượu Thiệu Hưng nữ nhi hồng trong hầm
rượu Túy tiên lâu đã phóng cước đá bể hết mấy trăm hũ rượu còn lại cho vua quan
và bọn nhà giàu không còn rượu ngon mà uống; Lệnh Hồ Xung bắt viên tham tướng
Ngô Thiên Đức, đoạt lấy công văn bổ dụng, cây đạo, con ngựa và mấy chục lạng
vàng để đi cứu nạn phái Hằng Sơn, đều nằm trong suy nghĩ ấy.
Tham quan, ô lại vốn là kẻ thù của bọn hào sĩ giang hồ. Chính vì vậy, tiểu anh
hùng Hồ Phỉ (Phi hồ ngoại truyện) đi đến nơi đâu nghe có tham quan ô lại, cường
hào ác bá ức hiệp dân lành là ra tay hành hiệp, tế khổn phò ngụy. Kiều Phong
làm đến Nam viện đại vương nước Liêu vẫn chống lệnh hành quân của Liêu đế bỏ chức
ra đi (Thiên Long bát bộ). Quần hùng Minh giáo và sáu đại môn phái (Thiếu Lâm,
Nga Mi, Võ Đang, Không Động, Hoa Sơn, Côn Lôn) sẵn sàng theo lời hiệu triệu của
Trương Vô Kỵ nổi lên chống lại triều đình nhà Nguyên, đốt chùa Vạn Pháp (Ỷ
thiên Đồ long ký)…
Thế nhưng, nếu bọn hào sĩ giang hồ coi thường luật pháp, vương quyền của nhà nước
phong kiến thì họ lại tỏ ra rất tôn trọng luật pháp riêng của môn phái, bang hội
mà họ là thành viên. Mỗi môn phái, bang hội như Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, Cái
bang, Côn Lôn, Không Động, Tiêu Dao, Bồng Lai… đều lập ra một hệ thống luật
pháp thực chứng riêng mà họ thường gọi là thanh quy giới luật. Kèm theo thanh
quy giới luật này, mỗi môn phái, bang hội còn lập riêng ra một cơ quan chấp
pháp, được gọi với các tên giới luật đường, giới luật viên, hình đường. Với
phái Thiếu Lâm, nhà sư đứng đầu cơ quan này gọi là thủ toà giới luật viên; với
Cái bang, nhân vật đứng đầu là chấp pháp trưởng lão… Các cơ quan chấp pháp này
làm luôn chức năng của lập pháp, hành pháp, tư pháp (kể cả công việc thi hành
án).
Kim Dung cho những nhân vật của mình thi hành án một cách gọn nhẹ, nhanh chóng.
Trong Thiên Long bát bộ, bọn đệ tử Cái bang phạm tội khi sư diệt tổ thì phải
tự vận, nếu không đủ can đảm tự vận, phải nhờ người anh em trong bang giết mình
thì bảo toàn được thanh danh. Trong trường hợp họ bị chấp pháp trưởng lão kêu
án xử chết hoặc đuổi ra khỏi bang thì nỗi nhục vẫn còn mãi… Cũng trong truyện
này, phái Thiếu Lâm thi hành án với các nhà sư phạm giới rất quyết liệt: Hư Trúc học võ công phái khác bị phạt 100 côn, Huyền Từ phương trượng phạm dâm giới
bị phạt 200 côn…
Đối với các môn phái tà đạo, còn có một hình thức thi hành án riêng, rất bá đạo:
cho uống thuốc độc để kềm chế bọn đệ tử, ai phản lại sẽ không cho thuốc giải độc.
Bọn Thần long giáo phải uống Độc long dịch cân hoàn (Lộc Đỉnh ký); bọn Triệu
dương thần giáo phải uống Tam thi não thần đan (Tiếu ngạo giang hồ)… Chính vì
dùng độc dược kềm chế con người nên những mệnh lệnh của bọn tà giáo ban ra đều
được thi hành triệt để: một đám hào sĩ lỡ nhìn thấy thánh cô Nhậm Doanh Doanh
và Lệnh Hồ Xung ở chung với nhau một chỗ, nghe một câu nói của Doanh Doanh, đã
tự đâm mù mắt và chạy ra hải đảo sinh sống, không dám trở về đất liền.
Kim Dung sinh năm 1924 tại Hải Ninh, Triết Giang. Ông nội của ông từng làm tri
phủ Đơn Dương, là một người liêm chính, nổi tiếng với lời xưng tụng của người
đương thời “Đơn Dương giáo án”. Lớn lên trong cảnh tao loạn của xã hội Trung Quốc,
nhìn thấy những đau thương, những hàm oan của đồng bào mình; ông đã đau niềm
đau của Lỗ Tần trong AQ chính truyện. Lỗ Tấn đã để cho AQ. chết một cách hồ đồ
để xóa đi cái tư duy “thắng lợi tinh thần” hàng mấy ngàn năm làm mê
muội tâm hồn người Trung Quốc. Kim Dung vươn tới những khát vọng xa hơn: ông muốn
đạp đổ thứ vương pháp, vương quyền hình thành mấy ngàn năm trong xã hội Trung
Quốc bởi các chế độ phong kiến thối nát; xây dựng một thứ pháp luật thực chứng
nhanh, mạnh, chính xác, công bằng để bảo vệ phẩm giá những con người lương thiện.
Bọn hào sĩ giang hồ của ông đôi khi làm việc rất vô chính phủ, vô tổ chức nhưng
vẫn thể hiện được khát vọng trật tự, công bằng cho mọi người. Trên tất cả, họ
tin có hai thứ thiên đạo và nhân luân; thiên đạo chế tài cái ác và nhân luân để
giữ cho con người không làm ác, đi đúng cái lẽ thiện, một vốn quý của nền pháp
luật lý tưởng.
25/10/2020Vũ Đức Sao Biển
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét