Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2025

Đào Bá Đoàn - Người đi bỏ mặc nhân gian

Đào Bá Đoàn - Người
đi bỏ mặc nhân gian

Tôi đã viết nhiều về anh, nhưng phần lớn ẩn trong các sáng tác của mình. Những mảnh vụn nhỏ li ti nhưng luôn lấp lánh, ám ảnh và dằn vặt trong các truyện ngắn, tiểu thuyết, thậm chí chỉ là những phác họa về chân dung ai đó, vấn đề gì đó, thậm chí cả những liệt sĩ mới hy sinh hoặc đã khuất núi từ tám hoánh tưởng chẳng liên quan đến anh thì vẫn luôn thập thò cái con người tưởng như đã bỏ mặc nhân gian này.
Biết nhau khá lâu, thoạt tiên là cùng học bốn năm của Khóa VI Trường Viết văn Nguyễn Du nhưng thời gian đầu thú thực tôi không hào hứng với anh và văn chương của anh. Văn thì rõ là do tôi không đọc. Khi ấy tôi lười nhác thậm chí có phần tinh tướng và phách lối với các sáng tác trang lứa, một ấu trĩ hạng bét may mà đã nhận ra và sửa chữa ngay. Thực ra kể cả những dở hơi của bè bạn trong sáng tác cũng rất cần học tập.
Sau này thì khác, do vị trí địa lý (cùng quê) và nhất là tâm tính cộng với những gì mà người đời gọi là có duyên với nhau, nhưng theo tôi, một nguyên nhân sâu xa và căn bản, đó là tôi đã nhận ra chân tài thực học của anh, không riêng ở những sáng tác (khá dày dặn nhưng luôn khó in ấn), mà cả ở những ứng xử đời sống, những hành vi sâu sắc (nhưng người đời lại cho là dị thường dị mọ) mà tôi đã phải sững sờ trước một cá tính, trước một con người hết lòng vì văn chương.
Tranh luận về văn chương học thuật một cách thẳng thắn và đến cùng với anh may ra chỉ có độ chục người, trong đó không chắc đã có tôi mặc dù không ít lúc tôi đã lợi dụng việc tranh luận văn chương để truy bức anh một cách quá cực đoan về những việc rất nhảm khác khiến đôi bên giận dỗi nhau không cần thiết. Nhưng tôi còn truy bức anh trong đời sống, những trịch thượng, những áp đặt vô lý và có lúc là tai ngược cũng chẳng biết tại sao lại thế. Thời gian đã khiến chúng tôi dần dần trở nên điềm đạm (hay mỏi mệt hoặc khôn ngoan hơn cũng không biết nữa), nhưng rõ ràng là, theo thời gian, văn chương của chúng tôi đã chín chắn và dường như có gặt hái hơn.
Anh đã in một tiểu thuyết khá ấn tượng có tên Mảnh vỡ nhưng người đời hầu như không biết đến. Lý do ư? Khi không phải là chúng ta toàn được nhồi nhét để ưa thích những thứ trung tính, trung bình, chung chung, nói một chiều theo một hướng thì những gì khác nhưng kín, lạ nhưng ẩn sâu, mới nhưng không dễ nhận biết, là những thứ mà bạn đọc tinh tường chứ đừng nói đến bạn đọc phổ thông cũng rất dễ bỏ qua thì điều đó là dễ hiểu.
Tôi đã từng biên tập và in ấn một tập truyện ngắn của anh cái dạo anh tham gia cùng tôi gây dựng nhà sách Như Quỳnh. Nhà sách tí nữa thì đi vào ngõ cụt, và hoàn toàn có thể phá sản, một mặt do yếu kém của việc lựa chọn những người làm công tác quản lý, một mặt do những hồn nhiên bồng bột của những người chủ trì chỉ ưa thích văn chương. Chúng tôi đã làm những bộ sách phải nói là rất đáng tự hào nhưng vẫn bị lỗ vốn như: Bộ tiểu thuyết bốn tập có kèm theo biếu không một phụ bản in những bài dư luận về nó mang tên Bão táp triều Trần; tiểu thuyết gần 900 trang khổ lớn bìa cứng mang một cái tên rất gợi Di chúc hoa Ti Gôn..., các tập sách về liệt sĩ, chân dung văn học, và đặc biệt hứng khởi khi làm trên một trăm đầu sách cho bè bạn, thậm chí chả thân quen gì khi họ nhờ vả để đến khi thấy rằng mình đã đứng trước bờ vực với áp lực trên một tỷ đồng tiền sách không bán được nằm trong kho mới ngơ ngác nhìn nhau.
Nhưng do thói quen của những người coi văn chương và bè bạn trên hết cho nên chúng tôi chỉ còn một thái độ duy nhất là mặc kệ.
Đó là thái độ của anh.
Nhưng tôi, sau những suy nghĩ tiêu cực ấy, tôi nhận ngay ra một điều rằng muốn sống muốn tốt thì phải cứu lấy ngay cái nhà sách mà mình đầu têu gây dựng và xui khiến một số đàn anh, bạn hữu thậm chí cả những bậc thầy vào chốn lao lung. Bằng những mối quan hệ của mình, bằng mẫn cảm tinh tường và lòng tự trọng cao độ khi bẻ ghi, chuyển lái, cộng với may mắn và dường như có một đấng cao xanh nào đó luôn phù trợ tôi trong bước đường gian nan của mình, nhà sách dần dần lùi xa được cái bờ vực do chính những chủ nhân có thừa lòng nhiệt tình nhưng không hề am tường kinh tế bày ra. Câu nói của anh khi ấy là: Mình đã bày ra rồi, nếu dọn được thì dọn không thì cứ để mặc kệ muốn ra sao thì ra. Rốt cuộc, đám cháy do tôi gây nên cũng đã được chính tôi cơ bản dập tắt.
Chuyện ấy thực ra cũng chẳng có gì đáng nói nhưng cái ràng buộc ở đây là nhân cách và thái độ của người cầm bút qua những biến động bất lợi nó như thế nào? Khi giao cho anh biên tập tiểu thuyết Di chúc hoa Ti Gôn dày ngót 900 trang khổ lớn, lại là của một tác giả mới, dù chữ nghĩa và sự từng trải của ông phải là nói lịch duyệt trong khi ấy anh đang phải thuê nhà, một phòng trọ tồi tàn ọp ẹp, một mức lương thảm hại của một nhà xuất bản bao cấp, bản thân đã gần bốn mươi tuổi nhưng không vợ không con cộng với những sức ép vô hình hoặc hữu hình khác thì việc dốc sức cho tập bản thảo này là vô cùng khó khăn.
Nhưng anh đã hoàn thành xuất sắc công việc của mình mà chúng tôi hầu như không trả được đồng biên tập nào, chỉ là những bữa rượu uống như giết chính mình để cũng lại là bàn về văn chương nghệ thuật. Trong những lúc hăng nghề như thế, tôi mới nảy nòi ra cái ý định in toàn bộ các tác phẩm của anh. Tôi tuyên bố như một tên cuồng tín rằng: Tất cả các tác phẩm của ông, tôi sẽ in sạch. Anh mỉm cười, cái đầu bù xù từ từ rũ xuống. Không phải anh không tin lời bè bạn, nhất lại là những tuyên bố của tôi, nhưng anh cũng hiểu văn chương không bao gồm sự ồ ạt như thế. Tôi bèn đổi sang việc tạm thời hãy gom in một tập truyện ngắn cái đã. Tập truyện sẽ do chính anh tùy ý lựa chọn, muốn bao nhiêu truyện thì tùy, không ấn định số trang, không ấn định quan điểm hay bất cứ điều kiện gì khác. Nghĩa là anh tự do thoải mái, điều mà anh rất thích, điều mà các nhà xuất bản rất ngại.
Sau những xục xịch của việc xuất bản một tập sách thì tập truyện ngắn Rượu của thời chưa sinh cũng ra mắt độc giả. Chúng tôi cũng có một số thương lượng nhỏ với nhà xuất bản để đảm bảo tính pháp lý cho tập sách. Đến cái bìa tôi cũng mặc để anh tự do vì họa sĩ làm bìa cho chúng tôi cũng là một người bạn. Anh vốn ưa thích màu đen nên cuốn sách đương nhiên đen đặc từ bìa 1 đến bìa 4. Anh vốn ưa thích rượu (chẳng thế mà tên sách đã dính đến rượu đấy thôi) thì chình ình một chai rượu đã được gã họa sĩ dựng nghiêng vào góc bìa chập chờn ẩn hiện như đôi mắt lúc nào cũng hân hoan của anh khi nhìn thấy đấng Lưu Linh. Điều này cũng phải nói thật ra chứ, anh ưa thích đàn bà, càng loại ác chiến càng tốt nên cũng trong cái vùng đen đặc chỉ he hé chút ánh sáng ma quái thì đó lại là phần ngực của một ả đàn bà thoáng nhìn đã biết là tứ chiếng. Nhưng cái bìa thì có nói lên điều gì. Cái quan trọng là bên trong nó, gần 300 trang sách ấy nó là cái gì mới đáng kể. Với hai mươi truyện ngắn mà chỉ nghe tên đã thấy có điều gì đó không bình thường: Nàng ơi…; Im lặng; Hiện tại; Con gián; Hãy bò đi...; Kiếm tiền; Người đi bỏ mặc nhân gian; Choáng...; Mộng du; Đoàn tàu xanh; Rượu của thời chưa sinh; Tôi…; Một buổi sáng không có tiếng gà; Kẻ mất bóng; Chỉ để bay qua một bình minh; Gục đóa trà my; Một giờ trong công sở; Không nở hoa hồng; Một cơn ám thị; Bà quản lý - ông học đường đã cho thấy một thế giới quan lạ lẫm của anh, một nẻo vào văn học khác người, một ý thức văn chương nghiêm chỉnh nhưng tại làm sao mà người đời không đằm thắm lại là một câu chuyện khác. Những truyện ngắn này, từ trước đó anh đã cho in rải rác trên trang web Văn chương Việt do nhà văn Nguyễn Hòa chủ trương, một người nổi tiếng kỹ tính và cả khó tính với văn chương tuyển chọn. Người ta đọc thế nào, hồi âm thế nào tôi không biết, nhưng chỉ bằng vào những cảm nhận và đánh giá bằng ngay trên trang web đó của tác giả Phạm Lưu Vũ, một con người cực kỳ thông minh sắc sảo và có phần quỷ quái thần sầu khi thẩm định văn chương chỉ biết đến chữ tâm chữ tài còn thì mặc kệ những phán xét của cây đa cây đề khác. Gần như truyện ngắn nào của anh xuất hiện nơi đây Phạm Lưu Vũ đều viết lời bình phẩm. Ở các truyện ngắn của anh, văn chương luôn được đặt lên hàng đầu, tiếp đó mới đến phần của nội dung và hình thức thể hiện. Văn anh là thứ văn của không gian ba chiều với những hình ảnh tương hỗ  với nhau một cách liên hoàn đã làm thỏa mãn những người đọc khó tính nhất. Nó thể hiện nội lực sâu đậm của ngòi bút từng trải nhưng không phô diễn, hiểu rộng biết nhiều nhưng không khoe khoang. Nó luôn gây thích thú và xa xót cho người đọc.
Cách tổ chức câu văn của Đào Bá Đoàn nhiều lúc khá ngẫu hứng dường như bất chấp cả ngữ pháp nhưng đặt trong văn cảnh của câu chuyện được mô tả lại thấy ổn thỏa và thấy thêm sự sáng tạo trong ngôn ngữ luôn là vô biên và sẽ dẫn đến thành công cho nhà văn khi anh đi đến cùng của sự sáng tạo:
... Có phải em mơ không khi trong vòng tay em là anh với một mùi đàn ông rạo rực em bàng hoàng trong giây lát rồi siết chặt lấy anh không muốn rời nữa cảm giác nhói đau ở nơi đó lại ập đến mỗi lúc một rộ hơn và vòng tay anh quàng xuống dưới em cũng riết chặt đôi môi anh áp vào đôi môi em rồi quấn riết như tìm như đòi như cơn khát uống trong cơn mê cuồng rồ dại em mê đi lả đi đầu óc trống hoác với cảm hứng và cơn khát dâng cao em chới với hoang hoải sục tìm một mê muội vội vàng tham lam bứt rứt có tiếng thở sôi động dần một hoang vu chạy trốn em thích chí cất một tiếng kêu than loài kiếp cảm giác như bị đánh lại được vuốt ve êm dịu vô ảnh vô ảnh những xứ sở không tên em tin rằng có chuyện thần tiên em tin mình vừa mới hồi sinh trẻ trung và mãnh liệt như cuộc chạy ma-ra-tông vừa mới cán đích chồm tới vinh quang một phát hiện điên cuồng khoái ngất như cái chết nào đó của ảo mộng của miền giả tưởng hoặc vọng tưởng của đam mê bột phát em quay cuồng và gào thét ngất lịm em tan ra trong anh niềm mê sảng chôn vùi thời gian và phá vỡ cái khung không gian phi lý em phát hiện những điều mới mẻ mà em lầm tưởng mình đã từng đầy đủ đến mức chán phè em lên cơn điên huyền ảo rồi lũ nước lũ ào tung một tuôn chảy vô cùng...
Anh tan đi mê đi cuồng lên anh gọi anh tàn phá hay đúng hơn là giống sự tàn phá anh hả hê trong cuộc chinh phục khủng khiếp anh túm mặt trời lắc lư cười khoái trá anh ôm một đại dương mênh mông một thảo nguyên xanh non tơ anh quạt gió mát thì thào rặng phi lao trên con ngựa anh phi nước đại tiếng kêu vang một khúc biến tấu phượng hoàng anh thỏa thuê trong cơn cuồng bạo chinh phục và tự hào với đôi cánh tay tiều phu một sức nâng khủng khiếp và đồi núi thung sâu mịt mùng, anh trèo lên ngã xuống trầy xước mê loạn anh cứ khát cứ khát một độ cao vời vợi và đã mất tầm nhìn anh gọi mưa mưa rơi những hạt nhẹ bám vào vách đá như những giọt mồ hôi do trời đất tạo ra những giọt mồ hôi bốc khói và thấm xuống địa thẳm hòa quyện vào nhau một hương thơm kỳ lạ ẩn giấu và phô bày một màu sắc rực rỡ mà không thể nào nhìn thấy nỗi hoang mang kinh khủng và nhịp điệu chẳng thể nào dừng nổi anh chạy mà như thoát lên cái vùng cao viễn tận cùng tiếng trống trận thùng thùng đồ binh khí cổ xưa loảng xoảng tiếng gầm gừ của mãnh thú sự hô hét cuồng nhiệt và tiếng của kẻ tử thương anh mê man bất tỉnh trong một khoảng thun giãn và như bị quất roi cho bật lên bật lên trong tiếng ngựa phi bụi tung mù trời anh cười như điên làm rạn vỡ tầng cao và ngất ngư trong màu chói rực có tiếng cây đổ mặt đất rung lên tiếng của đoàn binh chuyển điểm hơi thở như khói sương những bậc cầu thang chót vót cột nước vòi rồng khủng khiếp từ đại dương lên tận trời cao mây trôi đi tiếng sét tóe lửa và một ngọn núi phun trào sinh sôi một rừng nguyên sinh tiếng hòa điệu rì rào của biển êm dịu những cành liễu đu đưa trong heo may của hòa âm tháng tám trong cảm giác giải thoát khỏi hiện thực giống như một khoảng rỗng và cảm giác trôi nổi bồng bềnh...   
(Rượu của thời chưa sinh)
Văn xuôi của chúng ta kể từ cái mốc sau Đổi mới (1986) về cơ bản đã có những tìm tòi thể hiện nhưng thực sự đổi mới về thi pháp thì còn khá tự phát và từ đó dường như chưa có được thành tựu nào nổi trội ở mặt này. Với hai tiểu thuyết Những mảnh vỡ và Đường không hết lối đã hoàn thiện và ra mắt độc giả cùng vài chục truyện ngắn trong tập Rượu của thời chưa sinh và một số truyện ngắn in rải rác trên các tạp chí, báo trong và ngoài nước, các trang báo mạng đã cho thấy rõ ràng một nỗ lực cách tân về thi pháp của Đào Bá Đoàn trong từng đoạn văn, truyện ngắn, tiểu thuyết.
Văn chương Đào Bá Đoàn đã bứt phá về mặt hình thức vượt lên những người đồng thời với anh nhưng không vì thế mà nó gây được sự chú ý lập tức của giới phê bình, những người sáng tác trong giới. Tôi không trả lời được câu hỏi này. Văn chương ở chúng ta có những lúc rất kỳ cục và những gì lấp lánh thực sự, đáng ghi nhận thực sự lại thường rơi vào im lặng còn những thứ la làng, rỗng tuếch, dị hợm lại dường như được tung hô.
Nhưng thực ra tôi gắn với anh nhiều nhất, thuộc nhất, bộc lộ đến đáy nhất lại là ở trong đời sống thường nhật.
Điều đó cũng khá lạ lùng. Khác cơ quan, khác nhiều thứ như gia đình, sở thích, tính nết, quan điểm, bè bạn… nhưng cũng chẳng hiểu bằng lý do nào lại cứ luôn dính dấp vào nhau, có những lúc như những kẻ đồng tính đến thế. Một cuộc chơi thường kéo dài có khi đến cả tuần, lê la, lang bang vùng đất này sang vùng đất khác. Có khi hứng chí bắt xe, nhảy tàu vào tận Tây Nguyên, đi biên giới nằm nghe mang tác chán lại xuống suối bắt cá rồi thì đêm đi săn ngày uống rượu mãi cũng nhàm lại xuôi xuống Sài Gòn đèn xanh đèn đỏ áo dây áo mảnh tùm lum văn nghệ cũng lại chán lại bắt xe ôm ra bến tàu cưỡi tàu cánh ngầm xuống Vũng Tàu leo lên xe của nghệ sĩ bạn bè học Đỗ Mão lượn mấy vòng bán đảo cởi quần áo nhao xuống biển bơi loanh quanh mấy hôm ngắm Tây ta nồng nỗng rồi thì nào có bớt được cô đơn cô độc cho cam dẫn đến ông chẳng bà chuộc dằn dỗi bỏ vé máy bay bắt xe định chia loan rẽ thúy rồi thì xé vé xe ô tô nâng chén rượu làm lành thảy là đã biết bao lần.
Anh đã có những ứng xử tinh tế, thậm chí tài tình với những người chiến sĩ nơi biên giới. Khi ấy trong đêm rừng mưa rét thời khắc cuối năm, những người lính chụm vào nhau bên gộc củi cháy hồng. Những câu chuyện cuộc đời được đem ra rí rách bên ché rượu khi thơm nồng khi đắng chát. Nước mắt đàn ông rơi lèo xèo xuống tàn lửa bỏng. Họ kể về một đồng đội của họ, một gã đàn ông ưa thích săn bắn đã bị rừng thẳm báo thù bằng cách tước đi toàn bộ phần làm giống làm má của con người. Bi kịch từ đó cứ liên tiếp giáng xuống con người táo tợn ấy. Mất việc làm, mất nhà cửa, mất những người thân yêu nhất và cuối cùng là mất niềm tin và cuộc sống. Tôi không tham gia vào câu chuyện chỉ nằm im nhìn ra phía ngoài trời đang ngày càng đen đặc và gió vùng biên ải thổi dồn mỗi lúc gào rú đập thình thình trên những mái tôn rách nát. Những người lính ở đây luôn ít nói. Nhiều người đã lớn tuổi nhưng chưa có gia đình riêng và hoàn toàn có thể khó thực hiện điều ấy vì những lý do khách quan và chủ quan và cơ bản nhất là do chính họ. Họ dần dần như rời khỏi những ồn ào náo nhiệt, tranh giành, vồ vập sống còn của cuộc sống. Anh ngồi im, lúc này sao tôi thấy anh giống họ quá. Họ như lẫn vào nhau, lẫn vào sương khói nơi biên giới hoang vu. Đêm dần tàn. Tôi thiếp đi lúc nào không biết. Khi cặp mắt cay xè líp nhíp mở ra vẫn thấy bóng những con người in sững trên vách gỗ. Họ đã thì thầm trò chuyện với nhau suốt đêm. Về nỗi cô đơn tiền kiếp của con người? Về một tương lai, một chân trời mới? Chỉ biết rằng trong suốt hành trình dọc tuyến biên giới những ngày đông giáp tết ấy, những người lính như bị anh hấp dẫn và chính họ hấp dẫn lại anh đến mức có lúc tôi như phát ghen lên.
Như mọi chuyến đi, cuối cùng chúng tôi cũng phải trở về nhà.
Nhưng anh sẽ trở về đâu trong cái thành phố hỗn độn mênh mông ấy?
Tôi thấy anh lần chần, nấn ná, tuồng như không muốn trở về nữa. Tôi bàng hoàng. Con người khi không còn muốn trở về nơi ra đi của mình, cho dù chỉ là một chuyến đi, cho dù nơi trở về cũng chỉ là một điểm thuê mướn bọt bèo thì cũng là một điều khủng khiếp. Gánh nặng cô đơn và cao hơn thế, sự cô độc lúc nào cũng như săn tìm truy bức anh. Trong các sáng tác của mình, điều đó luôn hiện lên lồ lộ. Anh bộc lộ cái tôi rất quyết liệt nhưng luôn theo cách riêng của mình và không lẫn với ai.
Khi sinh ra, tôi không biết đi mà chỉ biết bò. Động tác cũng thật kỳ lạ, cứ phải vặn vẹo đến nhăn nhó vì đau đớn thì mới di chuyển nổi thân xác. Một cái vệt nhớt ngoằn ngoèo vạch lên trên một nền đất trắng xóa. Tôi đau đớn nhận ra mình hoàn toàn một mình. Tứ phía hoang vu và ác độc. Tứ phía như đều có những con mắt thao láo hằn học và giễu cợt. Có gì như chờ đợi tôi kiệt sức để khẳng định một sự thắng thế lý tưởng. Mà thực chất cái âu lo đã tràn tới ngấm vào trí não khiến tôi chỉ muốn gục xuống mà khóc. Niềm phấn khởi đủng đỉnh ở phía xa xôi, cũng ngạo nghễ giống một tiều phu không thiết nhìn ngắm sự sống và cuộc đời, vì cho rằng mình duy nhất tồn tại bằng vô ưu không hình sắc và định lượng thời gian. Điều cay đắng là những hạt cát cũng chẳng muốn bám vào tôi, dửng dưng như sự khinh bỉ không cần nguyên cớ. Không có nước mắt. Không. Không hề có nước mắt. Ngay từ những phút đầu tiên đã không hề có nước mắt. Loãng nhạt và trống hoác. Một cảm giác se sắt từ từ xâm chiếm khiến những tiếng đập ngắt đoạn như phân tách thực thể làm nhiều hạt nhỏ rồi cố tình không muốn kết dính. Im lặng thì bền vững còn mẫn cảm thì tơi bời. Ba mươi ngày không bằng một phút thậm chí ba trăm ngày cũng không bằng một phút. Thế mà đã có truyền tụng rằng, sự gắn kết để sinh thành vốn khó khăn và đau đớn, khoái cảm chảy tràn trong từng ống máu và tế vi đến mức muốn tự tử. Đấy. Niềm tin khó đạt được, ngay từ hơi thở đầu tiên giao hòa với đất trời. Thân thể nhiệt hạ, linh cảm rã rời một tình yêu mỹ lệ. Tôi cố rướn. Dù sao cũng phải công nhận, khát vọng tiến lên phía trước là có thật, mặc dù phía trước ấy hoang vu và đầy bất trắc. Sự ngây thơ cũng vậy, tôi đã tiêu pha nó từ trong bụng mẹ, hơn thế, từ khi chưa có cuộc giao hoan, nó đang ở cả trong hai phía với những nỗi khát hoàn toàn ích kỷ; khi chập làm một thì tự thân đã rất hoang toàng cho nên không thể nào tiết kiệm. Tôi lại cố rướn. Oằn mình để mà rướn được. Nhưng mà vẫn khó khăn lắm. Tiếng thở nghe rõ quá, lớn như tiếng rít của mãnh cầm hoặc khúc cứa của hai miền hoang vắng. Tiếng thở buồn nản. Tiếng thở nhũn nhùn vào lúc trí lực teo đi như hạt vừng. Tiếng thở lại mảnh như sợi tơ bay vào không khí. Rồi tiếng thở lại to dần, lại một lúc như tiếng cọ nhau (lần này thì) của mãnh cầm và hoang biệt. Tôi không muốn chết. Đó là chân lý vừa chợt lóe sáng trong phút hiểm nguy nhất của tính mạng và linh hồn. Để chứng minh (cho ý tưởng), tôi dồn tất cả sức mạnh để làm cho cái mẩu con con nhòn nhọn ở phía chót cùng được động đậy. Rồi khi nó động đậy được thì hét toáng lên (tất nhiên là tiếng hét chỉ vang trong thân thể tôi), liền giải tỏa được một niềm tuyệt vọng đang sắp đóng tảng như băng ở Bắc cực. Tôi cố gắng tiết ra được một nhúm nước bọt. Lẽ thường sẽ phải thở phì phì ra xung quanh để đánh dấu vương quốc của mình, đồng thời tỏ oai, chứng thực sự tồn tại riêng tư trong vũ trụ. Nhưng, để nuôi sống tức thời thân thể, tôi chẳng có gì khác, đành phải nuốt trôi nó (cái đám nước bọt). Cổ họng bỏng rộp, như được tưới nước lạnh. Từng mạch nhỏ giãn nở và đó chính là cái khoái cảm đầu tiên của tôi với cái thế giới hỗn độn và nghiệt ngã này. Con mắt vốn nhỏ bây giờ được khép lại để hưởng thụ cái giây phút tột đỉnh sơ khởi và cũng là sự khám phá mê loạn tinh khôi. Tự thương ư? Không. Tôi chả biết gì về cái điều khó hiểu ấy. Cảm giác thật là bén nhạy. Cảm giác cho rằng mình vẫn còn sống. Chút mê tơi vồ lấy sau dục vọng đầu tiên đã được thỏa nguyện phần nhiều bằng trí tưởng tượng. Sinh khí như hơi nước bốc ra từ những tế bào bé nhỏ. Tôi đã không chết, mặc dù âu lo đã thành ám ảnh.
(Hãy bò đi)
Trong các cuộc đi, một cuộc chúng tôi bị kẹt ở một ngôi đình cổ trong một trận lụt khiến tôi bắt đầu rộn lên những thắc mắc và muốn tìm hiểu về tính bí ẩn và kỳ quái của anh. Chúng tôi đốt những bó rơm còn sót lại trên sàn căn phòng nơi mé sau của đình. Cô gái cao lêu đêu như một cây sào và anh đã bằng một tài vặt tóm được những chú cá mê mải giỡn nước ngao du trên sân đình quăng vào đám lửa. Tôi và một anh bạn Tổng Biên tập Tạp chí văn nghệ địa phương mải chuyện với cụ thủ từ về những đặc điểm của chùa vùng châu thổ. Cơn chuyện đang xoắn bện thì phát hiện ra đôi kia đã dắt nhau đi đâu mất và mùi cá chín thơm lừng ở ngay bên cạnh. Trên tàu lá chuối rách tướp nham nhở do bão đánh, hai con cá quả chín vàng cùng một nắm muối và nậm rượu như hiện từ dưới đất lên. Quà hối lộ của lũ kia đấy. Chúng tôi sà vào và bắt đầu nhâm nhi trong bóng tối chạng vạng bốn bề đổ xuống. Nhìn từ ngoài, chỉ thấy hơi nước bốc nghi ngút và mùi cá nướng thơm lừng và nếu ai chỉ nhìn lướt sẽ tưởng như một ban thờ với mấy ông tượng động đậy trong mờ mịt khói hương.
Nhưng đôi kia dắt nhau đi về đâu? Một gã nhà văn tính nết ẩm ương và một cô gái quê chất phác hiền lành cả đời không bước chân khỏi phố huyện dắt nhau đi trong một đêm nước vây tứ phía thì chuyện gì sẽ xảy ra? Tính gã này lại rất ưa thích đàn bà con gái. Đây lại là chốn thanh bình của vùng quê cổ vẫn sót lại tàn dư phong kiến. Tôi và anh Tổng Biên tập thấy khó xử quá. Chỉ cụ thủ từ cứ ngồi im lặng, mắt dõi ra phía ngoài hồ nơi nước dâng ngập sân đình bình thản như chẳng có chuyện gì xảy ra. Đứa cháu cụ, kẻ mồ côi từ tấm bé ấy được cụ giáo dưỡng không bằng những lề thói hà khắc mà luôn được bồi đắp bằng sự khai tâm, dưỡng thiện ở đời. Chúng tôi chưa đạt được sự tĩnh lòng như ông cụ và đằng nào thì cái gã trời đánh kia thì cũng đã rời khỏi đây rồi. Chúng có cuộc đời của chúng. Chúng có niềm tin và trách nhiệm với cuộc đời. Chúng tôi cứ ngồi thế cho đến sáng.
Rồi thì cũng chả cháy nhà chết người gì.
Buổi sáng, gã trời đánh và cô gái tươi mởn bên nhau trở về căn nhà nhỏ của anh Tổng Biên tập. Thấy bọn chúng có vẻ thách thức cả trời đất như thế chúng tôi bèn xách xe máy tránh đi, nhằm nơi phố huyện, nhằm nơi ồn ào nhất mà tiến đến mặc kệ đôi mình trong căn nhà nhỏ với những xử lý sinh hoạt tùy thích. Gã vốn thích tự do thì đây coi như một món quà mà con người mạn phép thay mặt tạo hóa kính dâng chúng.
Công cuộc mưu sinh kéo chúng tôi đi.
Một tháng, rồi hai tháng, không thấy gã nhắc gì về cô gái nơi thôn mạc kia. Một cuộc tình chớp nhoáng? Một bông hoa bất chợt dọc đường hay muốn cho nhau một bất ngờ, một niềm vui có tính toán? Chịu. Với gã này, tất cả phỏng đoán chỉ là thừa. Và tôi, tôi cũng chẳng tội gì đi sâu vào đời riêng của gã. Tôi chỉ quan tâm đến văn chương gã, cái đã khuất phục tôi và không ít bạn bè sáng tác đồng thời.
Bây giờ, đã gần hai mươi năm tôi cũng chưa hỏi gã cái việc đêm hôm ấy. Tại sao chúng ta phải thóc mách vào những riêng tư của nhau trong khi cuộc sống còn có nhiều hấp dẫn, vật lộn để sinh tồn.
Một đoạn tôi viết về anh:
… Họ Đào ở căn nhà ổ chuột cuối ngoại ô. Nhà dột và rất nóng. Trời lạnh thì heo hút như nhà mồ. Ở đó có mấy ả sồn sồn không chồng con, không để ý kỹ không ai biết làm nghề gì, chỉ thấy họ luôn biến đi từ lúc nào, gần sáng mới trở về, luôn phờ phạc, ủ rũ, lo âu, luôn hãi sợ cái gì và thở dài. Có đêm đã khuya, hôm ấy dường như không ai đi làm, những người đàn bà lôi họ Đào đang ngủ dậy bằng được và mời uống rượu, có lẽ là sinh nhật một ả nào đó. Những người đàn bà hôm ấy ăn mặc tươm tất, nhà cửa gọn gàng nhưng cũng không giấu nổi thân phận của mình, nài nỉ ông nhà văn dở dở ương ương có đôi lời khai mào về cuộc đời này, trong hôm nay, về tương lai của chúng em. Họ Đào dụi dụi mắt, ngơ ngác nhìn ra xung quanh, dần dần hiểu được tình thế. Nhấp một ngụm rượu chua loét, gã thong thả nói, nửa nghiêm nghị, nửa hài hước. Những người đàn bà lắng nghe, ai cũng chăm chú, một lúc lại cười ré lên. Một lúc có người khóc rấm rứt, người ngặt nghẽo cười. Đám chúng sinh tội nghiệp không ngờ có một ông thánh sống ở bên mình bao năm tháng mà không biết. Hóa ra ông ấy biết hết chuyện của chúng mình, đời sống và suy nghĩ của chị em ta, cả cái nghề mà người đời vẫn dè bỉu là bẩn thỉu, hèn hạ, rác rưởi kia ông ấy cũng biết. Ông ấy biết và ông ấy còn biết thông cảm cho chị em ta thì không cười khóc khóc cười làm sao được. Chị em ơi, cứ cười khóc cho thoải mái đi, ông ấy hiền lắm. Có khi ông ấy cũng bị săn đuổi, bầm giập giống chị em ta. Ngành nghề đôi bên cũng gần nhau lắm. Họ Đào mỉm cười, gã biểu dương chị em ở đây có tinh thần đoàn kết nội bộ. Khu nhà này đã bao năm không có nạn trộm cắp. Đồ đạc của ai người ấy dùng, thiếu thì xin, xin thì cho chứ không có kiểu thó của nhau, càng không ai to tiếng với ai như thế là có văn hóa đấy. Mọi người hôm ấy mới biết, đã không ít lần họ Đào lặng lẽ trả tiền điện tiền nước cho một số chị em bị đau ốm, khó khăn khi chủ nhà hoạnh họe. Chị em ứa nước mắt nhìn người đàn ông nhỏ bé, hiền từ, suốt ngày hý hoáy, lọc cọc bên chiếc máy vi tính cũ kỹ, ẩm mốc, đã bao năm nay lặng lẽ như cậu học sinh ngoan câm điếc bẩm sinh. Ở xung quanh mình, luôn có biết bao điều mới lạ. Những người đàn bà liên tiếp rót rượu ra chúc gã, lời chúc ngây ngô, chân thực. Ai cũng xúc động, nước mắt gã cũng rịn ra. Rượu cay quá. Tình đời cay quá. Những chén mừng này hãy cùng nhau uống cạn. Nào, uống cạn! Bể dâu này hãy cùng nhau vượt qua. Nào, vượt qua! Từ bây giờ ông anh là đại ca của chúng em, thủ trưởng của chúng em, ông anh thích gì chúng em chiều tất, chúng em sẽ luân phiên hầu hạ ông anh đến nơi đến chốn trong cuộc đời còn lại của mình, ông anh nhé. Thôi từ mai, ông anh không phải đi đâu cả. Cứ ở tại gia đây thôi. Cuộc đời chúng em đây đã là bao nhiêu kho thực tế rồi cần gì phải đi tìm hiểu thêm ở đâu nữa. Chúng em sẽ kể về cuộc đời mình cho ông anh mà ghi chép lại cho đời sau, cho con cháu chúng nó biết, không mai kia chúng nó tưởng đời chúng mình sung sướng lắm, ăn không ngồi rồi, ăn trên ngồi trốc lắm phải không ông anh. Thôi, từ rày trở đi ông anh không phải đi làm ăn gì cả, cứ ở nhà viết lách, chúng em nuôi. Nhìn cái tạng ông anh, ăn uống mấy nả, cả cái chuyện kia nữa ông anh cứ yên trí, tha hồ thoải mái, muốn đứa nào cũng được. Chúng em thấy ông anh cũng là người có nghĩa khí nên mới mong muốn thế chứ thằng khác đừng hòng. Tẩn thì phải nôn ra. Như thế có được không hả các chị? Nào, cạn! Tất cả bát chén giơ lên, va lanh canh. Những người đàn bà ngấm men say, mắt sáng rực lập tức reo lên, vỗ tay đón chào một sự kiện lạ lẫm, hi hữu xảy ra ở cuộc đời mình. Mà thế thật, suốt đời họ toàn phải lo lắng, đối mặt, gánh chịu những cộc cằn, chửi rủa, bị ăn cướp, ăn quỵt và hãm hiếp, có bao giờ được nghe những điều nhẹ nhàng, phải trái, thông cảm, yêu thương, hiểu biết và chia sẻ với thân phận họ. Những người đàn bà ở đây ai cũng từng đi từ nỗi đau này sang nỗi đau khác, lường gạt này sang lường gạt khác, hãm hiếp, bắt bớ, đánh đập triền miên. Chỉ đến khi họ lẩn được về đây, ngôi nhà này, mới phần nào yên hàn, một yên hàn tạm bợ, phập phù, đầy lo lắng. Hôm nay, họ tình cờ biết đến những thân phận khác, những con người ngay bên cạnh, cảm thông cùng họ, chia sẻ và hiểu biết tất thảy những gì về họ. Quan trọng hơn, người ấy không coi thường họ, sẵn sàng tham dự vào cuộc vui cùng họ, và cười, và khóc cùng chị em. Chỉ có thể là Phật là Thánh mới làm được điều ấy. Anh ơi! Chúng em cảm ơn anh nhiều lắm. Chúng em cảm ơn đời. Chúng em cảm ơn lắm lắm. Cứ thế, những người đàn bà say bắt đầu ê a hát, đủ mọi loại giọng, đủ mọi sắc thái, ái, ố, hỉ, nộ chen chúc vang lên. Họ Đào cũng hát, hôm nay gã hát rất hay, từng câu từng chữ tròn vành, rõ tiếng. Bài hát về cuộc đời đầy sóng gió của một gái giang hồ và chàng trai trong mộng. Người tình trong mộng bỏ đi, cô gái thay vì trẫm mình xuống dòng sông mù quáng đã kịp thời tỉnh ngộ, đến với vùng đất mới làm lại cuộc đời mình. Và chính dòng sông mà cô gái định trẫm mình, đã dang rộng vòng tay chở che, vỗ về, đón cô đến vùng đất mới. Như nghe được cả tiếng sóng vỗ, tiếng gió thổi và trái tim yêu cuộc sống của cô gái đập dạt dào. Những người đàn bà nắm tay nhau, nhảy múa xung quanh họ Đào, nhảy miên man theo lời bài hát cũng miên man tưởng chừng không bao giờ dứt. Đêm ấy, khu nhà đổ nát như một lâu đài lung linh, huyền ảo, không có thật ở trần gian. Ước gì đêm nào cũng như thế nhỉ. Rồi gần sáng, tất cả lăn lóc say, cả ông anh cũng say li bì, nằm ngổn ngang cùng với mấy cô em. Cũng chả ai để ý, vì khu nhà thông thường ban đêm chỉ họ Đào lặng lẽ, tí tách bên máy tính, còn các cô em thường đi những đâu đâu, tảng sáng mới về. Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc tàn. Họ lăn ra, ôm nhau ngủ. Khu nhà chìm vào im lặng. Cái âm thanh duy nhất là tiếng khóa cửa lạch xạch của họ Đào, và khi sáng hẳn tiếng xe máy nổ bành bạch thả làn khói xám vào trong giấc ngủ của các cô em vẫn đang say lăn lóc, li bì không biết trời đất gì nữa. Sau cái đêm diệu kỳ ấy, rốt cuộc sự việc đâu lại vào đấy. Chả ai hầu hạ gì ai. Ông anh vẫn lụi cụi công việc của mình. Mấy cô em cũng vậy, họ điềm nhiên lao vào cuộc đời riêng, đam mê riêng của họ. Ông anh là người tốt bụng, hồn nhiên chứ không phải thánh thần. Một lần, vào tảng sáng, có gã ma cô dìu một cô em bê bết máu về quăng ngay đầu nhà. Nghe tiếng động, đang kỳ cạch bên máy tính, ông anh ngáp ngắn ngáp dài đi ra tìm hiểu sự tình. Người cô em mềm nhũn, máu me be bét. Lôi vào trong phòng, ông anh dùng phích nước gột rửa, lau mặt mũi cho cô em rồi đặt lên giường đắp tấm mền ẩm mốc, hôi rình cố hữu của mình. Cô em ú ớ, khe khẽ rên rồi lăn ra ngủ. Ông anh nín lặng thở dài, lạch xạch dắt xe đi làm sớm. Chiều về, không thấy cô em đâu. Không một lời cảm ơn. Không một dòng địa chỉ. Chiếc máy tính cậm cạch, chiếc quạt cũ sứt sẹo và chiếc đồng hồ treo tường đã bị tháo đi không một lời nhắn gửi. Cũng lặng lẽ như không, ông anh quay xe, đi về phố máy tính cũ, rước về một chiếc. Mấy đêm tiếp đó, điện phòng ông anh bật sáng cả đêm. Ông anh ngồi đăm chiêu, bóp đầu bóp trán khôi phục lại số bản thảo cũ, thỉnh thoảng nhăn nhó, miệng lẩm bẩm điều gì đó, như là chửi rủa trí nhớ tồi tệ xuống cấp của mình.
Nỗi đau có thật không, tôi cũng không biết nữa?
Nhưng đó là anh.
Trong một chuyến đi nơi ngã ba biên giới, đêm khuya, cửa khẩu sập sình xanh đỏ. Mọi bộ mặt nửa kín nửa hở được phơi ra. Ai cũng có những ý định của riêng mình, cho dù nhỏ bé ti tiện hay to tát.
Một đoạn tôi viết về anh:
… Họ Đào ở căn nhà ổ chuột cuối ngoại ô. Nhà dột và rất nóng. Trời lạnh thì heo hút như nhà mồ. Ở đó có mấy ả sồn sồn không chồng con, không để ý kỹ không ai biết làm nghề gì, chỉ thấy họ luôn biến đi từ lúc nào, gần sáng mới trở về, luôn phờ phạc, ủ rũ, lo âu, luôn hãi sợ cái gì và thở dài. Có đêm đã khuya, hôm ấy dường như không ai đi làm, những người đàn bà lôi họ Đào đang ngủ dậy bằng được và mời uống rượu, có lẽ là sinh nhật một ả nào đó. Những người đàn bà hôm ấy ăn mặc tươm tất, nhà cửa gọn gàng nhưng cũng không giấu nổi thân phận của mình, nài nỉ ông nhà văn dở dở ương ương có đôi lời khai mào về cuộc đời này, trong hôm nay, về tương lai của chúng em. Họ Đào dụi dụi mắt, ngơ ngác nhìn ra xung quanh, dần dần hiểu được tình thế. Nhấp một ngụm rượu chua loét, gã thong thả nói, nửa nghiêm nghị, nửa hài hước. Những người đàn bà lắng nghe, ai cũng chăm chú, một lúc lại cười ré lên. Một lúc có người khóc rấm rứt, người ngặt nghẽo cười. Đám chúng sinh tội nghiệp không ngờ có một ông thánh sống ở bên mình bao năm tháng mà không biết. Hóa ra ông ấy biết hết chuyện của chúng mình, đời sống và suy nghĩ của chị em ta, cả cái nghề mà người đời vẫn dè bỉu là bẩn thỉu, hèn hạ, rác rưởi kia ông ấy cũng biết. Ông ấy biết và ông ấy còn biết thông cảm cho chị em ta thì không cười khóc khóc cười làm sao được. Chị em ơi, cứ cười khóc cho thoải mái đi, ông ấy hiền lắm. Có khi ông ấy cũng bị săn đuổi, bầm giập giống chị em ta. Ngành nghề đôi bên cũng gần nhau lắm. Họ Đào mỉm cười, gã biểu dương chị em ở đây có tinh thần đoàn kết nội bộ. Khu nhà này đã bao năm không có nạn trộm cắp. Đồ đạc của ai người ấy dùng, thiếu thì xin, xin thì cho chứ không có kiểu thó của nhau, càng không ai to tiếng với ai như thế là có văn hóa đấy. Mọi người hôm ấy mới biết, đã không ít lần họ Đào lặng lẽ trả tiền điện tiền nước cho một số chị em bị đau ốm, khó khăn khi chủ nhà hoạnh họe. Chị em ứa nước mắt nhìn người đàn ông nhỏ bé, hiền từ, suốt ngày hý hoáy, lọc cọc bên chiếc máy vi tính cũ kỹ, ẩm mốc, đã bao năm nay lặng lẽ như cậu học sinh ngoan câm điếc bẩm sinh. Ở xung quanh mình, luôn có biết bao điều mới lạ. Những người đàn bà liên tiếp rót rượu ra chúc gã, lời chúc ngây ngô, chân thực. Ai cũng xúc động, nước mắt gã cũng rịn ra. Rượu cay quá. Tình đời cay quá. Những chén mừng này hãy cùng nhau uống cạn. Nào, uống cạn! Bể dâu này hãy cùng nhau vượt qua. Nào, vượt qua! Từ bây giờ ông anh là đại ca của chúng em, thủ trưởng của chúng em, ông anh thích gì chúng em chiều tất, chúng em sẽ luân phiên hầu hạ ông anh đến nơi đến chốn trong cuộc đời còn lại của mình, ông anh nhé. Thôi từ mai, ông anh không phải đi đâu cả. Cứ ở tại gia đây thôi. Cuộc đời chúng em đây đã là bao nhiêu kho thực tế rồi cần gì phải đi tìm hiểu thêm ở đâu nữa. Chúng em sẽ kể về cuộc đời mình cho ông anh mà ghi chép lại cho đời sau, cho con cháu chúng nó biết, không mai kia chúng nó tưởng đời chúng mình sung sướng lắm, ăn không ngồi rồi, ăn trên ngồi trốc lắm phải không ông anh. Thôi, từ rày trở đi ông anh không phải đi làm ăn gì cả, cứ ở nhà viết lách, chúng em nuôi. Nhìn cái tạng ông anh, ăn uống mấy nả, cả cái chuyện kia nữa ông anh cứ yên trí, tha hồ thoải mái, muốn đứa nào cũng được. Chúng em thấy ông anh cũng là người có nghĩa khí nên mới mong muốn thế chứ thằng khác đừng hòng. Tẩn thì phải nôn ra. Như thế có được không hả các chị? Nào, cạn! Tất cả bát chén giơ lên, va lanh canh. Những người đàn bà ngấm men say, mắt sáng rực lập tức reo lên, vỗ tay đón chào một sự kiện lạ lẫm, hi hữu xảy ra ở cuộc đời mình. Mà thế thật, suốt đời họ toàn phải lo lắng, đối mặt, gánh chịu những cộc cằn, chửi rủa, bị ăn cướp, ăn quỵt và hãm hiếp, có bao giờ được nghe những điều nhẹ nhàng, phải trái, thông cảm, yêu thương, hiểu biết và chia sẻ với thân phận họ. Những người đàn bà ở đây ai cũng từng đi từ nỗi đau này sang nỗi đau khác, lường gạt này sang lường gạt khác, hãm hiếp, bắt bớ, đánh đập triền miên. Chỉ đến khi họ lẩn được về đây, ngôi nhà này, mới phần nào yên hàn, một yên hàn tạm bợ, phập phù, đầy lo lắng. Hôm nay, họ tình cờ biết đến những thân phận khác, những con người ngay bên cạnh, cảm thông cùng họ, chia sẻ và hiểu biết tất thảy những gì về họ. Quan trọng hơn, người ấy không coi thường họ, sẵn sàng tham dự vào cuộc vui cùng họ, và cười, và khóc cùng chị em. Chỉ có thể là Phật là Thánh mới làm được điều ấy. Anh ơi! Chúng em cảm ơn anh nhiều lắm. Chúng em cảm ơn đời. Chúng em cảm ơn lắm lắm. Cứ thế, những người đàn bà say bắt đầu ê a hát, đủ mọi loại giọng, đủ mọi sắc thái, ái, ố, hỉ, nộ chen chúc vang lên. Họ Đào cũng hát, hôm nay gã hát rất hay, từng câu từng chữ tròn vành, rõ tiếng. Bài hát về cuộc đời đầy sóng gió của một gái giang hồ và chàng trai trong mộng. Người tình trong mộng bỏ đi, cô gái thay vì trẫm mình xuống dòng sông mù quáng đã kịp thời tỉnh ngộ, đến với vùng đất mới làm lại cuộc đời mình. Và chính dòng sông mà cô gái định trẫm mình, đã dang rộng vòng tay chở che, vỗ về, đón cô đến vùng đất mới. Như nghe được cả tiếng sóng vỗ, tiếng gió thổi và trái tim yêu cuộc sống của cô gái đập dạt dào. Những người đàn bà nắm tay nhau, nhảy múa xung quanh họ Đào, nhảy miên man theo lời bài hát cũng miên man tưởng chừng không bao giờ dứt. Đêm ấy, khu nhà đổ nát như một lâu đài lung linh, huyền ảo, không có thật ở trần gian. Ước gì đêm nào cũng như thế nhỉ. Rồi gần sáng, tất cả lăn lóc say, cả ông anh cũng say li bì, nằm ngổn ngang cùng với mấy cô em. Cũng chả ai để ý, vì khu nhà thông thường ban đêm chỉ họ Đào lặng lẽ, tí tách bên máy tính, còn các cô em thường đi những đâu đâu, tảng sáng mới về. Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc tàn. Họ lăn ra, ôm nhau ngủ. Khu nhà chìm vào im lặng. Cái âm thanh duy nhất là tiếng khóa cửa lạch xạch của họ Đào, và khi sáng hẳn tiếng xe máy nổ bành bạch thả làn khói xám vào trong giấc ngủ của các cô em vẫn đang say lăn lóc, li bì không biết trời đất gì nữa. Sau cái đêm diệu kỳ ấy, rốt cuộc sự việc đâu lại vào đấy. Chả ai hầu hạ gì ai. Ông anh vẫn lụi cụi công việc của mình. Mấy cô em cũng vậy, họ điềm nhiên lao vào cuộc đời riêng, đam mê riêng của họ. Ông anh là người tốt bụng, hồn nhiên chứ không phải thánh thần. Một lần, vào tảng sáng, có gã ma cô dìu một cô em bê bết máu về quăng ngay đầu nhà. Nghe tiếng động, đang kỳ cạch bên máy tính, ông anh ngáp ngắn ngáp dài đi ra tìm hiểu sự tình. Người cô em mềm nhũn, máu me be bét. Lôi vào trong phòng, ông anh dùng phích nước gột rửa, lau mặt mũi cho cô em rồi đặt lên giường đắp tấm mền ẩm mốc, hôi rình cố hữu của mình. Cô em ú ớ, khe khẽ rên rồi lăn ra ngủ. Ông anh nín lặng thở dài, lạch xạch dắt xe đi làm sớm. Chiều về, không thấy cô em đâu. Không một lời cảm ơn. Không một dòng địa chỉ. Chiếc máy tính cậm cạch, chiếc quạt cũ sứt sẹo và chiếc đồng hồ treo tường đã bị tháo đi không một lời nhắn gửi. Cũng lặng lẽ như không, ông anh quay xe, đi về phố máy tính cũ, rước về một chiếc. Mấy đêm tiếp đó, điện phòng ông anh bật sáng cả đêm. Ông anh ngồi đăm chiêu, bóp đầu bóp trán khôi phục lại số bản thảo cũ, thỉnh thoảng nhăn nhó, miệng lẩm bẩm điều gì đó, như là chửi rủa trí nhớ tồi tệ xuống cấp của mình
Nỗi đau có thật không, tôi cũng không biết nữa?
Nhưng đó là anh.
Anh là người rất nghiêm túc với văn chương. Với cuộc đời Đào Bá Đoàn xuề xòa dễ dãi bao nhiêu thì văn chương anh khe khắt bấy nhiêu. Anh em sáng tác trẻ rất thích được anh đọc các sáng tác mới của mình khi còn ở dạng bản thảo, kể cả một số đã khá thành danh trên văn đàn. Anh đọc nghiêm túc và luôn phát biểu chân thành. Do có một nền tảng triết học khá vững nên Đào Bá Đoàn luôn nhìn tác phẩm dưới lăng kính triết học. Có khắt khe đấy. Có đớn đau đấy, thậm trí có thể gây buồn phiền, đứt gãy mạch cảm xúc của người viết nhưng anh luôn thẳng thắn và chúng tôi cảm phục về điều đó. Hay ho gì khi cứ khen chê nhau một cách chung chung, nhợt nhạt, đàng điếm và xu thời lố bịch để hậu quả cuối cùng là làm tổn hại văn học. Nhưng anh thường không mấy khi nhận lời đọc và nhận xét vì biết chúng tôi phần nhiều cũng là loại háo danh nhiều khi chỉ ưa thích được khen, muốn được bơm thổi một cách phù phiếm. Không phải ai cũng trở thành chính nhân quân tử được, đặc biệt trong giới văn đàn vốn không hiểu sao luôn giả nhiều hơn thật, dở nhiều hơn hay, chỉ giỏi lợi dụng văn chương để mưu cầu những lợi ích khác.
Với cá tính của mình, anh luôn lảng xa chốn ồn ào mà lặng lẽ rút mình về những thiệt thòi của giới cầm bút đích thực. Giới cầm bút cũng rất nhiều hạng nhưng những người thiệt thòi và tài danh thực sự họ luôn tìm đến nhau. Không phải là những động viên suông mà là cảm hiểu bằng tâm thức của người đồng cảnh ngộ. Tôi nhớ một cuộc anh phỏng vấn nhà thơ Dương Tường và thấy ngay điều đó. Cuộc phỏng vấn rất ít chữ, đôi lúc tưởng như hai người hỏi nhau rất bâng quơ về những việc đẩu đâu nhưng nếu đọc thật kỹ văn bản thì bài viết ấy đã đạt được một độ sâu đáng thán phục của thể loại. Thực ra họ trò chuyện với nhau cơ bản bằng im lặng và chỉ có thể trong im lặng, ngôn ngữ của họ mới bộc lộ hết được vẻ đẹp của nó để sau đó mới là văn bản. Đúng như tác giả Phạm Lưu Vũ đã từng nói, đại ý: Đào Bá Đoàn có những câu văn chúng ta khó có thể theo được, nó là một thứ văn của không gian ba chiều, của một thẩm mĩ thăng hoa nhưng luôn sâu đằm và chín nục, thực ra nó là văn của thứ giời cho.
Nhiều lúc tôi cũng ngạc nhiên về cái sự im lặng lâu bền của anh trong giới và trong cuộc sống. Có những điều chúng ta không thể hiểu nổi như việc không ít tài năng khi chết đi mới được công nhận, thậm chí là sau hàng trăm năm còn bị nguyền rủa trước khi những đóng góp nghệ thuật của họ được vinh danh. Tôi không dám hồ đồ hô hoán anh là một tài năng nhưng những đóng góp bằng các sáng tác của mình bởi anh luôn khiến tôi phải ngẫm ngợi. Tại sao các tác phẩm trung bình, thậm chí non yếu khác cứ luôn được tung hô và nhận các giải thưởng để rồi sau đó rơi và sự im lặng, thậm chí chúng ta thấy xấu hổ khi nhắc đến chúng. Tại sao nhiều người ngoài cái tên trống rỗng ra thì thực sự chỉ là một con số không lại luôn tô son chát phấn, com lê cà vạt di động từ diễn đàn này sang diễn đàn khác rao giảng văn chương cho khắp thiên hạ, mà chúng ta, ai cũng biết điều đó là lố bịch nhưng cứ để mặc kệ điều đó diễn ra. Điều này chúng ta ai cũng biết nhưng lại luôn luôn lảng tránh câu trả lời.
Tôi có nhiều chuyến đi với anh.
Trong một chuyến đi nơi ngã ba biên giới, đêm khuya, cửa khẩu sập sình xanh đỏ. Mọi bộ mặt nửa kín nửa hở được phơi ra. Ai cũng có những ý định của riêng mình, cho dù nhỏ bé ti tiện hay to tát. Cái quán nhỏ dựa hẳn vào triền núi. Ngoài trời mưa rơi, gió rét và ẩm mốc kinh khủng. Trời khuya, những ánh điện vàng vọt đẫm nước mưa hắt xuống loang lổ, nhớp nháp. Y và gã ngồi đối diện người đàn bà tàn tạ rách nát khó đoán tuổi. Chị hơn bốn mươi hay năm mươi? Hay tuổi chị còn nhiều hơn thế. Chị xin gã điếu thuốc. Gã móc trong người ra bao thuốc quăn queo, nhàu nhĩ chỉ còn vài điếu. Gã mồi thuốc cho chị. Trong ánh lửa lập lòe, mắt chị lóe lên như mắt mèo hoang. À, một hồ ly tinh buổi chợ chiều nơi biên ải. Một giang hồ lăn lóc, bao nhiêu lục lâm thảo khấu đã đi qua. Ả mỉm cười ranh mãnh như muốn bảo. Ôi dào, các chú mày vừa đi tẩn nhau chán đêm buồn không ngủ được lang thang chứ gì. Nhìn các chú, chị biết tỏng hãy còn ngây thơ lắm. Mấy đứa ranh vào nghề dăm bảy năm chăn dắt các chú chắc bây giờ không còn tiền đi chợ. Phải ngữ các chú vào tay chị ngày xưa chị dạy cho mấy bài rồi làm ăn với đời may ra mới trụ được. Chị rít thuốc, đầu điếu thuốc đỏ lên, lút sâu một đoạn, cái tàn dài ngoẵng trắng nhờ cong hếch. Gã châm một điếu, nhìn chị như nhìn một người mẹ ghê gớm vừa đánh oan con. Chị thầm thì với ánh mắt trong veo ấy. Ôi các con. Cuộc đời, cuộc đời của chị, của mẹ đây khép lại rồi, còn gì đáng kể đâu hả đôi mắt non tơ ngơ ngác. Rồi các con cũng thành hổ báo cả thôi. Biết bao nhiêu non tơ hiền lành trở thành hổ báo, rắn rết. Chị  giơ tay xin điếu thuốc nữa. Điếu thuốc cuối cùng gã mồi cho chị trong tiếng thì thầm chị kể đứt nối về cuộc đời mình. Chị là một gái hoang hoàn toàn, không cha mẹ, không quê quán, cũng không biết thân sinh là người da vàng, da đen, da nâu hay da trắng. Nơi thành phố phồn hoa ngày ấy giới ăn chơi ai lạ gì chị. Chị vào đời hay cuộc đời mượn chị bày những cuộc chơi thảm khốc. Những ngày làm tình trong tiếng súng và dao kiếm, hoa tươi và nhạc và rượu thâu canh. Mẹ cha nào đã sinh ra một cơ thể vô địch nhường ấy. Lũ đàn ông luôn bảo chị được phối sinh từ sư tử, chó sói, mèo hoang và beo rừng. Chúng nổ súng ầm ầm và đâm chém nhau bên chị. Chúng cao thượng và thấp hèn, chúng tước đoạt và hiến dâng. Bên chị, dòng sông đêm đêm miệt mài chảy, ngoài xa kia, nơi cửa sông, nơi cửa biển, tận đại dương là những con tàu. Chúng hú còi chào chị, chào một đại dương bí ẩn, ào vào lòng biển ấm áp khôn cùng. Chị tự hào nghề của mình. Chị tự hào những thằng lính trận, cướp đường, quan chức, ăn xin và chị ru chúng ngủ bằng bản năng của lòng sông lòng biển. Thời gian trôi chậm chạp, hiền từ và rong ruổi. Thật lạ lùng, chị không già đi, sức lực ở đâu hay thánh thần nào nâng niu chị. Mười mấy hai mươi năm hay nhiều hơn chị không còn nhớ nữa. Chị cũng không nhớ tên mình hoặc một tên ai trong số hàng trăm hàng ngàn cái tên đã đi qua. Khi bọn chúng không còn súng đạn dao găm để nổ và đâm chém, không còn đô la, không còn cao thượng, thấp hèn thì chị mới thấy mình chỉ còn là một con suối nhỏ róc rách chảy nơi ngã ba biên giới. Con suối chảy róc rách đã bao nhiêu năm? Hai mươi năm hay là hơn hai mươi năm? Bây giờ, những cảm giác lạ bắt đầu gặm nhấm tâm can chị. Có những lúc, chị thấy rợn khắp người một rùng mình bí ẩn, lờ mờ xen trong tiếng súng tiếng dao. Chị sợ ai đó đọc được nét mặt hốt hoảng khoảnh khắc và mỉm cười xấc xược trước những bối rối tích tắc ấy. Không ít lúc, cảm giác lạ ngày một dày lên, chị lơ đễnh trước những lời tục tĩu xung quanh và mắng mỏ những sỗ sàng vặt vãnh. Chị trôi vào một thế giới khác. Đã có lúc chị nghĩ đến ngôi chùa hoang trên núi nhưng chao ôi trên ấy không có tiếng người. Chỉ những đá xám lau ngàn vi vút, lạnh lẽo, đơn độc. Ở nơi đây, dòng suối róc rách còn thấy những đánh chửi, cướp giật, lường gạt, chém giết. Nó hơn nhiều sự im lặng, nó hơn nhiều tiếng gió tiếng mưa. Đêm càng khuya, tiếng róc rách càng rõ, trong hơn, ngân nga những hình ảnh nối nhau của cuộc đời. Một ả điếm già trải bao chế độ nơi biên giới khi tâm hồn cô quạnh thở than róc rách? Cũng một kiểu mua vui bằng thân phận. Gã móc mấy đồng bạc lẻ đặt vào bàn tay khô khẳng, nhăn nheo phía trước. Tạo hóa công bằng lắm. Cứ tưởng thách thức được thời gian bất chấp những cho nhận ư? Khi biết đường xa dặm thẳm mọi việc đã không còn trong tầm tay của mình nữa. Người đàn bà cười gằn, vơ mấy đồng bạc trong tiếng suối róc rách. Chị nhìn sâu vào mắt gã, một non tơ bất chợt cười cợt lão luyện giang hồ hay đã đến lúc mạt vận tàn canh thực sự. Rồi lũ non tơ này sẽ dắt nhau về đâu, ra biển ra hồ hay về ao về suối. Chị lại nghĩ đến ngôi chùa hoang trên núi, nơi chỉ có đá lạnh lau ngàn vi vút. Trước cửa là cái giếng đá sâu hoắm lạnh lẽo cô hồn. Nó là một giải thoát cho chị? Sao hôm nay mình suy nghĩ nhiều thế? Trước hai gã ranh con và mấy đồng bạc lẻ đã khiến ta day dứt ư. Khuôn mặt người đàn bà rắn đanh. Mấy tờ giấy bạc biến mất không tiếng động. Ngoài trời ánh điện vàng vọt, loang lổ. Gã đứng lên, một vật gì nặng trĩu đè lên mái tóc bờm xờm tổ quạ thấm đẫm sương. Hai thằng đàn ông lặng lẽ đi vào bóng tối.
Tôi đã xâu chuỗi những suy nghĩ của tôi và anh, cả sự tưởng tượng về người đàn bà kia như thế, chẳng biết có đúng không.
Đào Bá Đoàn có những đoạn văn đẹp đến thắt lòng:
… Sau khi ông lão qua đời được đúng một năm, bà lão vào Nam sinh sống với con, ngôi nhà ngói ba gian ở giữa cánh đồng để hoang tự bấy.
Bắt đầu bằng lá rụng đầy vườn. Hoa gục xuống dậu. Những cái gì khô – nhẹ chạy đến tận hiên nhà, vui chơi và ở luôn tại đó.
Rồi, cỏ bắt đầu phủ lối đi vào ngõ. Ngõ mờ rêu xanh. Cỏ bò vào kẽ nứt của mạch xi măng giữa các hàng gạch sân. Rêu nhú mầm ở cửa.
Ngôi nhà đã chính thức được gọi là hoang liêu khi gió có tự do – gào thét hoặc thầm thì; tiếng chim không còn nhút nhát nữa – thong thả, rồi cũng có khi là quyết liệt chói gắt hơn.
Như thế… để đón chờ một cái gì không giống trước?…
Mùa sinh sản.
Chim về làm tổ.
Nhiều.
Không đếm hết được.
Chim trống – chim mái bay đi bay lại, bay vào bay ra, bay xa bay gần. Hăng say, cần mẫn.
Ngày.
Tháng.
Chẳng mấy đã có tiếng chim non gọi – đòi…
Tiếng chim non là thành công của sinh. Là tương lai đã được nở. Hiện tại đã từng trôi đi. Là luân chuyển.
Tiếng chim non.
Tiếng chim non không dịu dàng. Nhưng tiếng của chim bố mẹ thì dịu dàng.
(Chỉ để bay qua một bình minh)
Trong một sáng tác của anh, có một người hấp hối không ai cứu. Họ sợ người nọ chết trên địa phận của mình nên đùn đẩy nhau, người này dưa người kia, cuối cùng người ta quyết định thuê một anh kéo xe bò chở người hấp hối đến một trạm xá hẻo lánh vùng giáp ranh. Chiếc xe bò chở người hấp hối lọc cọc đi trong đêm, suốt đêm, hết nơi này nơi khác cũng chả đâu nhận. Nơi nào cũng có lý lẽ riêng để không nhận. Họ còn đòi đánh người kéo xe và thủ tiêu người hấp hối trên xe. Cùng quẫn, không đường về, không đường đến, người kéo xe và người hấp hối ôm nhau khóc, nước mắt đỏ như máu nhỏ sang nhau. Trong suốt chặng đường gập ghềnh gian khó cái đêm ấy, anh kéo xe tâm sự với bạn mình, là người hấp hối kia rằng, anh ơi, tôi mệt quá rồi, ước sao tôi được như anh, cứ hấp hối chết dần thế lại hay, ước gì tôi được chết, được hấp hối cho dù chả ai kéo tôi đi đâu cả. Mà kéo tôi thì ích gì. Thôi, để tôi kéo anh ra sông. Chúng ta cùng chết. Dù sao thì chết ở sông cũng mát mẻ hơn, đỡ tù túng hơn. Cũng có khi không một ai đùn đẩy nhau vớt tôi với anh lên đâu. Chúng ta trôi dạt nay đây mai đó ở cõi đời này, trên dòng sông này. Khi đã chết rồi chả ai mắng mỏ, tị nạnh, ghét bỏ chúng ta. Ô hay, chính cái chết là tự do, không còn phiền toái gì nữa. Tôi và anh cùng chết. Tôi cũng đã muốn kết thúc cuộc đời mình, anh bạn ạ. Cứ thế hai con người lạc lõng tâm sự với nhau trong im lặng. Một điểm mạnh của Đào Bá Đoàn là luôn để nhân vật của mình tự sự trong im lặng. Anh có biệt tài (sáng tạo hay tối tác?) là để cho các nhân vật của mình luôn độc thoại và những độc thoại ấy thường không liên quan gì đến nhau. Trong câu chuyện, cách kể chuyện như thế tưởng chừng rất rời rạc nhưng nó chỉ rời rạc với những người non tay, còn với anh lại khác. Tôi đã thấy rằng, trong các truyện ngắn mà anh viết, hễ các nhân vật, các tình thế trong câu chuyện mà cảm thông hoặc liên kết được với nhau y như rằng câu chuyện kết thúc hoặc nếu không thì là một câu chuyện hết sức dở. Đúng là sáng tác mỗi người mỗi khác và chính cái dị biệt đã làm lên thành công những sáng tác của anh. Nhưng cũng phải nói rằng, trước hết, trên hết là cái giọng văn của anh. Không giống ai đã đành. Mới mẻ kỹ lưỡng đã đành nhưng phải nói thẳng ra là, đó là một thứ văn chờn vờn ma mị được ẩn giấu dưới cái vẻ bề ngoài lam lũ, xộc xệch như một ông hoàng khoác áo hành khất. Viết đến đây, tôi chợt thấy văn chương của anh phảng phất hơi hướng của thi sĩ Bùi Giáng. Cũng rất triết học. Cũng rất hiện sinh. Tưởng lánh đời nhưng hết sức nhập thế. Tưởng luênh loang diệu vợi nhưng luôn cô đúc đằm đẵm chất người. Sống với anh thời gian dài, nhân đây tôi cũng xin nói ra, về đời sống và cá tính anh khá giống trung niên thi sĩ. Cũng luôn có  những cơn điên điên chập chập như thế. Một lần, sau khi uống liên miên cùng với nhiều tốp văn nghệ sĩ ở nhà tôi bỗng anh đi đâu mất. Mọi người mặc kệ vì cũng đã quen như thế. Anh thường đi bất đồ và chúng tôi cứ việc câu chuyện văn nghệ trên trời dưới bể quanh chiếu nhậu đến nửa đêm thể nào đói bụng anh cũng trở về. Tôi chỉ việc để cửa và để ra đấy một rổ rau bên nồi cháo cùng bình nước lạnh là ngài ưng ý lắm. Thế mà đến tảng sáng vẫn không thấy chó hàng xóm cắn như mọi lần, chỉ tiếng gà thanh thản, nhu nhơ báo sáng. Đang lơ mơ nửa thức nửa ngủ thì có tiếng chuông điện thoại reo. Chẳng khó khăn gì tôi đã nhận ra ngay được sự việc. Tôi xách xe máy đi ra chân cầu sông Lăng, bên bốt điện, cám ơn mấy tay bảo vệ tuần đêm rồi đánh thức anh dậy, đưa anh về. Vừa thay bộ đồ ướt sũng bèo tấm bèo cái quấn đầy vừa không hết ngạc nhiên và cả kinh hãi khi mấy tay bảo vệ cho biết suốt đêm qua anh cứ bơi từ bên này sông sang bên kia sông đến tảng sáng mới leo lên chân cầu thiếp giấc. Mới đầu họ tưởng có con cá lớn trở trời đốc chứng hoặc gia súc nhà nào ngộ dại trên sông nhưng khi biết đó là một người đàn ông vừa hăm hở bơi vừa trò chuyện một mình thì họ cho là người khùng cứ để mặc kệ. Khi anh lên bờ thiếp giấc, họ mới đến gần xem và trong toán bảo vệ có người nhận ra là bạn tôi bèn rút điện thoại. Đến mười giờ sáng hôm anh tỉnh, sau khi ăn bát cháo hành và tắm táp sạch sẽ đồng thời nghe tôi thuật lại, thoạt đầu anh không tin nhưng nhìn ra sân, bộ đồ của anh còn dày đặc những bèo tấm bèo cái anh chỉ tủm tỉm cười.
Tôi nói cách sống anh giống Bùi Giáng là ở nhiều những chi tiết như trên.
Trong thâm tâm, với những gì anh trình bày ra bằng văn chương, bằng đời sống trong đó có sự dấn thân của cá nhân anh tôi luôn tin anh đến với văn chương bằng một nỗi đau nhân thế và tấm lòng trong sáng kiệt cùng của người cầm bút. Thứ văn chương mà anh hướng tới là một thứ văn chương thuần khiết được thể hiện mới mẻ cả hình thức và nội dung. Chúng không chịu bất kỳ một sức ép phi nghệ thuật nào. Chúng có đời sống riêng của chúng và chúng góp vào đời sống con người những thanh âm hữu ích. Ao ước của anh, ôi sao giản dị và trong sáng quá chừng nhưng trong lúc này đây, điều giản dị và trong sáng ấy tại sao khó có thể thực hiện được. Điều này tôi không đủ sức trả lời cũng như tôi không có trách nhiệm phải trả lời. Chính tôi cũng đang phải luồn lách, chống đỡ, hãi sợ những thứ mơ hồ phi văn chương nhưng luôn neo cột, nhắc nhở thậm chí dọa nạt ngòi bút của mình. Những ràng buộc biến chúng tôi trở lên ngày càng nhỏ bé xiết bao trước sôi động của cuộc sống, trước sự thật buốt lòng của con người mà lẽ ra một ngòi bút có lương tâm phải nên tiếng. Tôi luôn day dứt khi nghĩ đến điều đó. Tôi luôn day dứt khi thời gian cứ trôi vùn vụt mà lũ cầm bút chúng tôi chỉ trình ra được những sản phẩm làng nhàng, những sản phẩm như là để dâng hiến, làm vừa lòng một thế lực xa lơ lắc nào đó chứ không phải quần chúng cần lao đang đêm ngày vật lộn mưu sinh tha thiết mong muốn chúng tôi lên tiếng về những khốn khó, thiếu thốn, tối tăm mông muội mà họ đang phải gánh chịu một cách khó hiểu. Cũng như anh, tôi luôn mong muốn văn chương của chúng ta phải khác, phải giải quyết và làm bổn phận đúng chức năng xã hội của nó, chức năng góp một tiếng nói để con người ngày càng hoàn thiện hơn, những dự báo mà lương tâm từng day dứt, nghiền ngẫm và vật vã mà chúng tôi thì cứ loay hoay trong những khuôn phép vớ vẩn do chính sự hèn nhát và yếu kém của mình đặt ra.
Cũng như anh, có không ít lúc tôi rơi vào bế tắc và khủng hoảng nội tâm, luôn cảm thấy như mình có lỗi với ngòi bút, với con người và như càng hiểu những cố gắng chuyển xoay tình thế của anh, của văn chương anh trong cuộc trường chinh chữ nghĩa dằng dặc mà chúng tôi như là những tội đồ.
Chúng tôi quý trọng anh và văn chương của anh cũng bởi vì lẽ ấy.
14/6/2022
Phùng Văn Khai
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tiếng nói

Tiếng nói 1. Hắn chết đêm hôm trước. Mãi đến buổi sáng hôm sau người ta mới biết. Hắn cố ngoi từ giường đến cửa sổ kẹp đầu vào khe hở giữa h...