Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2025

Tình ca giáo viên miền núi 1

Tình ca giáo viên miền núi 1

Chương 1
Tôi gặp Du cũng đã thật lâu rồi. Nàng yêu thơ và làm thơ hằng tuần. Lúc đó tôi chưa hề viết một bài thơ nào, nhưng tôi rất thích được nghe nàng nói chuyện về thơ, đọc thơ... Thơ đối với nàng như hơi thở. Có lúc tôi lặng nhìn nàng đọc thơ hàng giờ. Chúng tôi chơi thân với nhau mà chẳng hề nghĩ đến tình yêu trai gái trong thời gian quen nhau. Chuyện thơ văn là giây nối mối tình bạn thơ mộng của chúng tôi.
Nàng là giáo viên được cử lên huyện Chu Pah, Gialai-Kontum khi chưa đầy mười tám tuổi nên trong đôi mắt nàng lúc nào cũng phảng phất nỗi buồn xa nhà. Tôi là giáo viên chuyên trách Bổ Túc Văn Hoá, đến nhận việc trước nàng khoảng ba tháng nên kể ra cũng rành đường đi nước bước hơn nàng trên làng thượng hẻo lánh. Chúng tôi ở ngay tại Phòng Giáo Dục huyện. Ban ngày ngoài giờ dạy học, tôi dẫn nàng đi thăm các thôn làng gần đó, kể cho nàng nghe phong tục lối sống của những người dân tộc thiểu số. Buổi tối chúng tôi ngồi phòng khách nói chuyện văn thơ cùng với các giáo viên khác.
Thông thường các giáo viên khác đi nghỉ sớm, còn lại hai đứa tôi thì Du đem thơ nàng ra đọc cho tôi nhận xét. Dĩ nhiên nhận xét của tôi rất tài tử, thấy hay thì nói hay, thấy dở thì nói dở chứ không có lý thuyết gì hết vì tôi có am tường luật thơ gì đâu. Mọi nhận xét chỉ theo cảm nghĩ của một thanh niên vừa lớn.
Mọi người trong phòng giáo dục tưởng hai đứa chúng tôi có tình ý với nhau nên lúc nào cũng tò mò để ý xem quầng mắt chúng tôi có sâu sau những đêm bàn bạc về văn thơ. Hẳn nhiên khuôn mặt chúng tôi vẫn tươi tắn và chẳng có dấu vết nào mà mọi người chờ đợi.
Chúng tôi càng cười thầm với nhau trong lúc mọi người trông chờ một cái gì bất thường trong cuộc sống của chúng tôi. Chúng tôi gần như là đồng lõa trong tấn tuồng đáng tức cười này. Ai nấy đều chờ đợi, nhưng hai nhân vật chính của một cuộc tình lại chẳng tỏ ra chút đam mê nào. Hai đứa chúng tôi cứ giữ mối tình bạn trong trắng cho đến khi một giáo viên cấp hai từ Qui Nhơn được bổ lên huyện chúng tôi.
Thầy Phong dáng cao phong sương, chơi đàn tây ban cầm rất giỏi, và tán gái cũng thật tài. Sau ba tuần thầy đã chinh phục cô Hương, một giáo viên ở Phòng Giáo Dục huyện. Sự đời oái ăm, cái gì dễ thì chóng quên. Thầy hỏi tôi có quan hệ gì với Du không, tôi dại khờ nói chỉ là bạn thôi. Thầy cười nói thầy muốn theo đuổi Du. Tôi có quyền gì mà ngăn cản đành cười trừ.
Du rất ghét thầy Phong, vì cô Hương đã từng tâm sự với Du về chuyện tình của hai ngườị Du nói với tôi, "Ông thầy Phong dê không đúng chỗ! Du là bạn thân của Hương, đã là người tình của ông Phong mà ông Phong lại theo đuổi Du thì ông không phải là người đứng đắn!"
Oái ăm sao! Thầy Phong và Du được bổ vào làng Ea Blang để dạy các học sinh trong đó. Trong đó chưa có học sinh cấp hai, nên thầy Phong cùng Du chỉ dạy từ lớp 1 cho đến lớp 5, mỗi lớp cũng chỉ có ít người thôị
Du ngao ngán, xin khiếu nạị Ông trưởng phòng giáo dục lại là người miền Bắc cử vào Nam nên không cứu xét hoàn cảnh tế nhị của giáo viên nam và nữ trong cảnh đơn chiếc ở một làng xa xôi. Du buồn lắm, nói với tôi, "Quang phải vào thăm Du thường xuyên đó!"
Tôi là giáo viên chuyên trách, nhờ tôi chịu khó học tiếng Gia-rai nhanh với một giáo viên Thượng ở phòng giáo dục, anh It. Anh xem tôi như một người em, lúc nào cũng chỉ dạy tôi tiếng Thượng và phong tục người Thượng.
Hằng ngày, sau khi ăn cơm xong, anh It và tôi thường đem lưới và cần câu cắm xuống ruộng và mương để kiếm thêm cá phụ trội cho ẩm thực ít ỏi do nhà nước cấp. Sáng nào tôi hoặc anh Ít cũng đi gỡ lưới và nhổ câu cắm. Hôm nào chúng tôi cũng có thêm cá tươi cho bữa ăn tốị
Chương 2
Làng Ea Blang cũng nằm trong phần vụ của tôi, có thầy Phú, tôi gọi là anh Phú Râu, vì anh có bộ râu rậm trên mép rất chịu chơi. Anh năm ấy đã 30 tuổi, có vợ và hai con rồi. Anh phải tình nguyện đi Xoá Nạn Mù Chữ thuộc chương trình bổ túc văn hoá cho người lớn chưa biết chữ thay vì bị đưa đi vào kinh tế mới hoặc cưỡng bách lao động công trường. Anh hơn tôi cả hơn một con giáp, nhưng rất vui vẻ giúp đỡ tôi hoàn thành trách nhiệm mà không hề ghen ghét vì tôi tuổi nhỏ mà lại trên quyền anh.
Hôm Du và thầy Phong vào làng Ea Blang, tôi đeo bao-lô và đồ đạc của Du đi vào làng với họ Đường đi quanh co, những bụi lau cao trổ cờ. Chúng tôi đi ngang con suối Ea Blang lúc gần tối nên thấy người Thượng đang tắm dưới nước. Bầy thiếu nữ trong cảnh thoát y trăm phần trăm vội hụp xuống nước vì thấy người lạ. Thầy Phong cười, tôi vội vàng nói to bằng tiếng Gia-rai giới thiệu là tôi đưa hai giáo viên mới vào làng. Họ nhận ra tôi vì tôi đã vào thăm và giúp thầy Phú nhiều lần.
Trên đường vào làng, thầy Phong hỏi tôi nhiều về lối ăn cách ở trong làng Thượng. Tôi nói với thầy và Du rằng có lẽ thầy và Du sẽ có phòng riêng ở trường. Còn nếu thầy và Du muốn tôi có thể xin trưởng làng cho ở chung với dân như tôi đã xin cho thầy Phú.
Du trên suốt quãng đường đi từ con suối tới làng không nói gì. Tôi chợt ái ngại cho nàng phải đơn côi thân gái trong làng, không có những tiện nghi với phòng tắm phòng vệ sinh như ở phòng giáo dục. Ở vùng Thượng, người ta thường tắm trần truồng một cách tự nhiên dưới suối nước chảy, hay vòi suối. Đàn ông con trai ở suối trên, đàn bà con gái ở suối dưới, cách nhau khoảng ba bốn năm mươi mét mà không hề ngượng ngùng. Tôi giật mình nghĩ tôi chưa hề chuẩn bị tinh thần cho Du về vấn đề này như tôi đã chuẩn bị cho các giáo viên nữ dưới quyền tôi như cô Liễu, cô Mai, cô Tấm...
Tới trường trong làng, thầy Phong và cô Du mừng rỡ vì trường lớp đã sẵn sàng. Thầy Phong và Du đều có phòng riêng ở hai đầu trường học. Đơn sơ giản dị thôi, nhưng cũng là phòng riêng với giường làm bằng tre đập dẹp và một bàn học. Lớp học cũng chỉ có hai phòng ở giữa làm bằng tre nứa. Trường học này dành cho các em ban ngày còn ban đêm là lớp Xoá Mù cho người lớn. Thầy Phú rất vui mừng khi có thêm giáo viên Việt mà từ đây tôi gọi là giáo viên người Kinh như người Thượng thường gọi.
Tối đó tôi nhờ ông trưởng làng hội họp mọi người lớn nhỏ để giới thiệu hai giáo viên mới dạy ngay tại làng để các em khỏi phải đi bộ cả hơn một tiếng đồng hồ ra ngoài trường xã \. Du rất ngạc nhiên vì tôi nói tiếng Thượng lưu loát và cười vui hoà đồng với dân làng \. Du biết tôi nói tiếng Thượng, nhưng cứ tưởng tôi chỉ nói bập bẹ những tiếng xin ăn hay đổi chác thôi chứ không biết là lúc nào rảnh là tôi học hỏi thêm bằng cách nói chuyện với anh It hoặc đọc Kinh Thánh bằng tiếng Thượng do các linh mục Thừa Sai Pháp dịch để học thêm tiếng Thượng.
Tôi đã học tiếng Thượng từ những bậc thầy trong ngôn ngữ Thượng trong đó có anh It là giáo viên nhiều năm rồị Tôi học tiếng Thượng với cha Vương Đình Tài, là linh mục dòng Chúa Cứu Thế, coi chung các làng Thượng ở quanh khu vực Pleiku. Ngài đóng đô ở Plei Choet, sống hoà đồng như người Thượng và rất được người Thượng qúi mến. Chỉ là cấp tốc thôi khi tôi được biết tôi được phân bổ đi vùng dân tộc Jrai (Gia-rai) trong đợt ra quân đầu tiên của chiến dịch Xoá Nạn Mù Chữ. Ngài tặng tôi một cuốn Thánh Kinh hình như do cha Dournes dịch. Cha Dournes là linh mục thừa sai Pháp đã từng sống ở vùng Phú Bổn, có bằng tiến sĩ về dân tộc học ở Sorbonnes taị Paris.
Tôi ở lại đêm đó tại làng, nói chuyện với Du tới khuya về những điều Du nên biết khi ở làng. Tôi nói Du nên hoà đồng với người trong làng và khi đi tắm nên đi với phụ nữ. Du có thể dùng sa-rông để cuốn quanh ngực cũng như dễ dàng tắm rửa chứ không nên đòi một phòng tắm riêng vì từ voìi suối đưa lên làng cả một con dốc và cũng chỉ gùi được một gùi nước không đủ để Du tắm. Đàn bà con gái Thượng rất sạch sẽ, ngày nào cũng tắm rửa ít nhất hai lần, buổi sáng lúc đi gùi nước và buổi chiều khi đi làm về. Du buồn cứ nhắc tôi phải ghé lại thăm nàng thường xuyên. Tôi nói Du có gì cần cứ nhờ thầy Phú vì thầy ở đây cũng mấy tháng rồi. Tối đó tôi ngủ cùng với thầy Phú. Lúc lên nhà thầy Phú, thầy đang nói chuyện với thầy Phong. Thầy Phú chọc:
- Chắc Quang phải lòng cô Du rồi! Có gì chưa?
Thầy Phong nhìn tôi chằm chặp như soi mói điều gì. Tôi đỏ mặt cười trừ nói rằng tôi chuẩn bị tinh thần cô Du về cuộc sống trong làng Thượng thôi và nhờ thầy Phú giúp Du sau này
Chương 3
Đang loay hoay với một vài kế hoạch cho những ngày tháng tới, thì anh Đáng, một giáo viên làng Ea Blang, xã B 10 về, không phải làng Ea Blang, xã B 8 nơi anh Phú dạy. Anh Đáng ra trường Trung Học cùng một năm với tôi, người dong dỏng cao, nói năng nhỏ nhẹ, nhưng cố một tật cố hữu khó thích hợp trong đời sống gian khổ ở thôn làng là công tử bột và lười vô cùng. Anh nhìn tôi khẩn khoản,
- "Quang ơi, ông phải đổi tôi đi nơi khác rồi. Dân chúng đếch chịu học với tôi. Họ chẳng cho tôi ở trong làng."
Tôi ngạc nhiên hết sức vì chính tôi là người đưa thầy Đáng lên làng mở lớp dạy học. Làng đó có nhiều trẻ em, không lẽ có chuyện gì lớn xảy ra. Tôi mời anh Đáng ngồi và hỏi chuyện, "Anh Đáng à, kể cho tôi nghe nguyên nhân vì sao lại có chuyện này".
Anh Đáng chậm rãi nói: "Chuyện dài dòng, nhưng tóm tắt là tuần rồi, tôi hết thức ăn, nên xin gia đình nơi tôi ở ít thịt. Họ đưa cho tôi ít thịt trâu trong ống tre, thối bỏ mẹ, và tôi lỡ miệng nói, thịt trâu thối tôi không ăn được. Họ nổi giận nói với nhau là tôi khinh dân Thượng, đuổi tôi ra khỏi nhà. Tôi sang nhà khác họ cũng đối xử với tôi như thế. Ban ngày, buổi tối, chẳng có ma nào tới lớp học. Tôi phải ra ngoài lớp mắc võng ngủ và đi kiếm củi tự nấu ăn ở lớp, ăn cơm với muối thôi chứ chẳng có ai mua bán hay cho cái gì cả."
Tôi nói chuyện với anh Đáng một hồi về kinh nghiệm của những người đã sống ở làng Thượng trước kia, và khuyết điểm của anh khi anh lỡ miệng chê thịt trâu thối. Lẽ ra anh nên xin thứ khác, viện cớ rằng anh không quen ăn thịt trâu, anh nhằm món ăn qúi của người ta mà chê thối thì mất lòng là phải. Tôi nói với anh Đáng ở lại ngủ một đêm tại Phòng Giáo Dục rồi ngày hôm sau tôi và anh sẽ trở lại làng để xem tôi có giúp tình hình bớt căng thẳng không. Tôi cũng dự định sẵn với anh Nhật, trưởng Phòng Giáo Dục, là nếu cần tôi sẽ đổi anh Đáng với anh Nhân, giáo viên ở làng kế bên.
Hôm tôi lên Ea Blang cùng với anh Đáng, tôi mới vỡ lẽ là anh Đáng không thể tiếp tục sống ở đây, vì ngoài lý do chê thịt trâu thối, anh còn sai các em đi gùi nước từ dưới suối về cho anh. Dân làng cho rằng anh lười, không chịu tự làm việc mà anh có thể làm được. Tôi cố bào chữa cho anh, nói rằng, đôi khi thầy giáo mắc bận thì có thể nhờ học trò giúp, nhưng dân làng nhất định không muốn thầy Đáng ở lại. Tôi làm như miễn cưỡng bằng lòng với họ và yêu cầu họ phải học hành chăm chỉ khi tôi đưa một giáo viên khác về. Sau khi họ hứa, tôi cùng anh Đáng qua làng kế bên, làng Ea Drang, gặp anh Nhân trình bày trường hợp của anh Đáng và nhờ anh qua làng Ea Blang dạy, còn anh Đáng sẽ dạy tại làng này.
Tôi kể cho anh Nhân trên đường đi tới làng Ea Blang câu chuyện mà tôi nghe bô lão trong làng đó kể trước đây. Làng Ea Blang hồi xưa có một tên khác mà ngay cả những bô lão trong làng cũng quên rồi. Làng đó nằm gần một con suối, chi nhánh của sông Krong Poco. Mỗi làng thượng thường lấy tên của con suối, hay ngọn núi gần đó chứ chẳng cần tìm tên hoa hoè hoa sói gì để đặt. Làng Ea Blang đặc biệt hơn vì lấy tên một người con gái trong làng để đặt tên cho con suối và tên làng.
Nàng Blang là một người con gái thông minh và đẹp, được nhiều người thương mến. Các trai làng kế bên nghe tiếng và tới xin hỏi nàng làm vợ. Thực sự thì theo phong tục người thượng, người con gái đi cưới chồng, chọn chồng, chứ không phải con trai đi hỏi vợ. Các chàng trai các nơi đều muốn được sống bên nàng nên cứ tranh giành lẫn nhau để đi đến chỗ xung đột. Một hôm, nàng nghiêm nghị nói đám thanh niên phải ngưng ngay các cuộc đánh nhau vì nàng, nàng sẽ không chọn bất cứ ai vì Giàng (Yang), tức là thần linh, đã báo mộng cho nàng là nàng chính là sứ giả hoà bình, là con chim bông trắng của bộ tộc Jrai trong vùng Tây nguyên. Từ đó, không còn các cuộc xung đột ẩu đả, nhưng nàng Blang có vẻ ưu tư sầu muộn thường vào rừng lang thang một mình. Một hôm tới tối không thấy nàng về, người ta nhốn nháo đốt đuốc đi tìm nhưng vô vọng. Mãi sáng hôm sau, khi người ta đi tìm lại, thì mọi bầy chim bông trắng gào kêu ầm ỉ, dân làng thấy lạ kỳ, lại gần thì thấy xác nàng Blang nằm chết trong giòng suối nhỏ, nét mặt bình yên như thiên thần, vẫn đẹp và bình thường chứ xác không sình chương lên như người chết đuối. Huyền thoại cho rằng nàng chính là thần linh, và chim bông trắng, Blang, chính là bạn bè của nàng. Dân làng các nơi từ đó gọi con suối nơi họ tìm ra xác của nàng là con suối Blang, và làng nơi sinh ra nàng cũng được gọi là làng Blang.
Thầy Nhân được dân làng Blang đón tiếp vui vẻ và họ trở lại học bình thường và tôi lại sung sướng trở lại Phòng Giáo Dục, nóng lòng đi gặp lại Du, mà đúng ra tôi đã phải gặp nàng cách đây mấy hôm như đã hẹn, nhưng vì vụ thầy Đáng tôi đã không vào làng của nàng được.
Chương 4
Từ làng Ea Blang, B 10, tới Phòng Giáo Dục huyện Chu Pah mất khoảng 7 tiếng đi bộ. Sau một đêm ở lại làng để giới thiệu thầy Nhân cho dân làng, cũng như chuyện trò với thầy Nhân tới khuya, tôi quyết định đi thăm các giáo viên xã B 10, một là thăm hỏi, động viên, khuyến khích các giáo viên của tôi, hai là xem xét tình hình học hỏi và ý kiến của dân làng để có thể đưa ra những kế hoạch phù hợp với nhu cầu của dân làng. Ở một làng nơi hẻo lánh xa xôi, mỗi giáo viên Kinh trụ trì một làng, rất cô đơn, chẳng có ai để chuyện trò nên chúng tôi rất mừng rỡ khi có ai ghé lại. Đi thăm các giáo viên ở các làng cũng là nhiệm vụ lớn của tôi, vì tôi không thể hoàn thành sứ vụ của mình nếu không có sự cộng tác đắc lực của mọi người.
Đành rằng tôi nhớ và rất muốn ghé lại thăm Du, nhưng làng Du ở cũng gần Phòng Giáo Dục, chỉ đi bộ mất độ vài tiếng. Nếu tôi về liền, khi vòng lại trên xã B 10, sát biên giới Cao Miên, vừa mất giờ vừa mệt sức, nên chắc Du cũng chẳng trách cứ gì. Tôi nghĩ vậy và an tâm đi thăm các giáo viên của tôi để xem xét và lấy ý kiến của mọi người.
Khi hỏi han các thanh niên cũng như người già trong làng họ cười nói với tôi, "Học để làm gì? Người con Thượng biết trồng cái lúa, biết nuôi con heo, biết bắn con hoẵng... đâu cần phải học nữa! Người cần phải học là đám con nít kia! Chứ chúng tôi đi làm cái nương, đi đốt cái rẫy, phải nghỉ ngơi để có sức làm việc, để làm cách mạng chứ?"
Ban đầu tôi chưa hiểu hẳn nên thấy họ nói làm cách mạng tôi nghĩ họ nhiệt tình với đường lối của nhà nước. Cho đến khi họ kể chuyện con cọp và con thỏ cho tôi nghe, và như có ý thử tôi có nhớ không, họ nói tôi kể lại câu chuyện tôi vừa nghe, tôi ngây thơ vui vẻ kể lại, làm họ cười lăn cười lóc, còn tôi thì rất ngạc nhiên, vì tôi rõ ràng ghi lại các chữ họ nói và tôi biết giọng tôi cũng khá giống giọng của họ nên không lẽ gì mà tức cười đến như vậy. Tôi hỏi vì sao họ cười vui thế. Họ càng cười ha hả. Thú thật, người Thượng có cái cười rất hồn nhiên vô tư mà tôi chưa từng thấy ở bất cứ nơi nào, trừ những nụ cười của các em bé. Họ sống chân thành, chất phác và thật vô tư. Mãi sau họ mới nói với tôi một câu mà tôi phải xét lại những đánh giá ban đầu về những người con của núi rừng này, "Nă Juan Tơpai, Nă Jarai Amông, "Có nghĩa là người Kinh là con thỏ (chuyên môn lừa dối), người Thượng là con cọp ( có sức mà hay bị lừa).
Tôi nhớ lại những chuyện cổ tích Việt Nam xưa, thường những con vật nhỏ, hay người yếu phải dùng trí khôn để đương đầu với những người khoẻ mạnh hay lớn dữ. Tôi thăm dò xem trong làng có những ai còn có thể viết được tiếng Gia-Rai (Jrai), làng nào cũng chỉ có một hai người có thể viết được tiếng mẹ đẻ của họ được thôi, chứ không nhiều. Một sáng kiến manh nha trong trí tôi và tôi hỏi họ, "Nếu tôi xin cấp trên cho đồng bào học đọc và viết tiếng Gia Rai, đồng bào có thích không?"
Họ cười vui vẻ, trả lời, "Thầy mà làm được chuyện đó, thầy là thần của dân tộc Jrai!"
Tôi nói, "Thật nhé! Tôi không là thần, nhưng chỉ muốn là con Jrai thôi!"
Đồng bào trong các làng cười sung sướng vì thấy tôi hoà đồng với họ. Thật sự tôi rất yêu mến họ, có lẽ vì mối liên hệ của tôi với các linh mục thừa sai và linh mục Vương Đình Tài, họ là những người dấn thân thực sự trong công việc truyền giáo trên Cao Nguyên.
Từ làng cuối cùng ở xã B 10 về tới B 6 nếu đi đường mòn phải mất thêm một ngày vì phải lộn lại các làng tôi đã qua nên tôi quyết định đi ngã tắt xuyên qua rừng và rẫy của đồng bào cho tới xã B 9 thì mới có đường mòn.
Quyết định đi tắt này đã đưa tôi tới một cảnh khó xử và là khúc ngoặt lớn của đời tôi. Không biết đó là rủi ro hay duyên số, nhưng nó đã thay đổi nhiều và làm tôi trưởng thành hơn trong lối nghĩ và hành động trong cuộc sống, chứ không phải chỉ chăm lo hoàn thành nhiệm vụ giáo viên mà thôi.
Chương 5
Đi băng đường rừng cần phải rành rọt điạ hình và địa lý. Người chưa quen khó có thể đi đúng hướng nếu không có bản đồ và địa bàn. Tôi may mắn đã đi săn với đồng bào ở vùng này một vài lần nên không đến nỗi sợ lạc đường. Thú dữ từ những năm chiến tranh dữ dội ở vùng Đức Cơ - Pleime đã tản mát qua Miên, Lào, Thái Lan và Miến Điện, chỉ còn lại quanh đây nai, hoẵng, khỉ và các động vật nhỏ mà thôi.
Đi ngang một khoảng rừng thưa, tôi thấy một đám khói xanh nhỏ. Trí tò mò tôi lại gần, chỉ thấy một bếp lửa mà không thấy bóng người nào. Bếp mới được nhóm lên thôi, vì chưa có chút tro hay than nào. Đồng bào Thượng họ không lơ đễnh như thế này đâu. Tôi bắt đầu ân hận mình đã chọn đường tắt, sợ bắt gặp phải Kháng Chiến Quân hay Fulro (Front Unifié de la Libération des races opprimées, tức là Mặt Trận Thống Nhất Giải Phóng Các Dân Tộc Bị Áp Bức) là lực lượng dân tộc thiểu số từng chống đối chính phủ quốc gia và bây giờ chống Cộng sản để đòi quyền tự trị. Tôi đảo mắt vòng quanh, định tìm cách chuồn cho nhanh, sau khi đã dập tắt cái bếp vừa mới đốt lên này. Có lẽ ai đó đã phát hiện tôi khi tôi tiến lại và bỏ chạy.
Đang loay hoay thì một cô gái từ buị hoa quỳ chui ra làm tôi giật nảy mình, "Phải đó là anh Quang không?"
"Phải," tôi trả lời, rồi tiến lại, "Trời, Nhung đây mà! Nhung làm Quang giật mình sợ gần chết! Nhung làm gì ở đâỷ"
Nhung từng học chung với tôi năm cuối ở Trường Trung Học Phổ Thông Pleiku. Ba nàng làm Đại Uý đã bị đưa đi học tập ngay từ khi miền Nam sụp đổ. Tôi từng lên nhà nàng chơi cùng với Hải, người theo đuổi nàng một thời gian. Nhung rất dễ thương, làm trưởng ban văn nghệ lớp, còn tôi làm trưởng lớp, còn Hải là tay đờn hay. Tôi chơi thân với cả hai, nên biết chuyện hai người và thường nói với Nhung là Hải rất thương Nhung. Nhung hay lườm tôi nói, "Sao anh không lo cho anh đi?" Những lúc đó tôi thường lảng qua chuyện khác, vì tôi biết Nhung thích tôi hơn thích Hải, nhưng tôi chẳng thích bồ bịch trai gái khi ước vọng vào đại học chưa thành.
Gần cuối năm học lớp 12, thầy Hiệu Trưởng xuống từng lớp kêu gọi học sinh xung phong gia nhập phong trào xoá nạn mù chữ vừa phát động. Cô giáo viên chủ nhiệm lớp tôi, cô Hồng Quế, giáo viên từ Bắc vào, gọi tôi lên phòng, nói nhỏ với tôi, "Quang à, em phải xung phong vào phong trào này, chứ em đi thi vào Đại Học năm nay, em sẽ không đậu đâu, vì lý lịch gia đình em rất xấu! Này nhé, gia đình em di cư năm 1954, bố em làm việc cho ngụy quyền, anh em làm ngụy quân, đủ rớt ngay! May ra, nếu em tham gia vào phong trào này, đạt thành tích cá nhân, em có thể đậu nếu em đạt điểm cao, mà cô nghĩ em có khả năng để đạt điểm cao!"
Tôi đã phân vân và đi hỏi ý kiến nhiều người. Ai cũng công nhận lời khuyên của cô Hồng Quế có lý nên tôi xung phong ngay ngày hôm sau. Vừa có kết quả khi thi Tốt Nghiệp Phổ Thông xong là tôi học khóa cấp tốc làm giáo viên xoá nạn mù chữ.
Nhung không đi xoá nạn mù chữ, vì nàng là con gái lớn nhất trong nhà, có mấy em còn bé! Bây giờ bất ngờ gặp Nhung ở đây tôi thật hết sức ngạc nhiên. Nhung nhỏ nhẹ giải thích cho tôi biết nàng đang tìm đường vượt biên cùng với 4 người khác. Tôi hỏi, "Họ đâu hết rồỉ"
Nhung chỉ vào chỗ đất trũng sau bụi hoa quỳ lớn, và gọi bạn Nhung, "Ra đây đi, đây là anh Quang, bạn học cũ của Nhung!"
Lù lù, ba anh con trai và một cô con gái, mặt mày đã hốc hác xanh xao, có lẽ vì đói, bò dậy và ra bắt tay chào tôi. Tôi thấy sờ sợ làm sao, như người trộm vào một nhà lạ, sợ ai đó bắt gặp quả tang. Tôi nói với họ đi theo tôi tới một chỗ gần đấy an toàn hơn để nói chuyện. Tôi căn dặn:
-Trong khi đi nếu bắt gặp ai, các anh chị cứ bình tĩnh để tôi đối phó vì đa số người vùng này đều biết mặt tôi.
Tôi đưa họ tới một thác nước. Sau thác nước này có một hang rộng lớn, có thể chứa 400 người, chẳng ai biết trừ những người dân tộc đã từng núp sau thác nước này trong những ngày chiến tranh khốc liệt.
Tôi biết tôi đang làm một việc phạm pháp mà nếu bị phát giác tôi chẳng những bị mất việc mà còn bị tù tội chứ chẳng chơi. Nhưng Nhung là người bạn thân, tôi không thể để nàng bị chết đói hay chết khát hay bị bắt. Trên đời có những việc con người làm theo bản năng không suy nghĩ. Tôi giúp Nhung và bạn Nhung cũng gần như bản năng tự nhiên. Những người đã từng chung số phận, chia vui sẻ buồn, thường có bản năng sinh tồn như thế, "Sống chết vì bạn!"
Khi đã vào sau làn nước, ngồi trong hang, tôi hỏi:
- Anh chị rời Pleiku từ bao giờ?
Nhung nói:
- Cả mười ngày rồi!
Tôi sửng sốt nói:
- Mười ngày, trời đất ơi, nếu rành đường thì giờ này các bạn đã tới biên giới Thái Lan! Bị lạc phải không?
Anh Trung, người lớn nhất trong 5 người, có lẽ cao lắm là 21 tuổi, nói:
- Bọn mình rời Ninh Đức cả mười hôm nay, sang ngày thứ 3 thì gặp một toán xe bộ đội đi về hướng Tây, tưởng họ thấy bọn mình, cả bọn ù té chạy lấy thân, đồ đạc, ba lô, địa bàn còn để lại hết ở đâu đó. Lúc yên mình vòng trở lại tìm, nhưng chẳng biết đâu ra là đâu, đành cứ hướng mặt trời lặn mà đi!
- Từ Ninh Đức, xã B 3 mà anh chị lọt qua B 9 là đi hướng Tây Nam rồi đó, nhưng nếu rành đường từ B 3 sang B 9 chỉ hơn một ngày đường thôi.
- Ừ bọn mình cứ như đi vòng tròn, chẳng biết đâu ra đâu cả. Quang có cách nào dẫn bọn mình tới biên giới không?
Tôi nhìn họ lắc đầu, "Tới biên giới thì dễ, nhưng làm sao các bạn có thể vượt qua sông Krong Poco tháng này, nước còn cao! Cách tốt nhất là các bạn nghe lời Quang trở về. Ở gần biên giới có mấy trạm Công An Biên Phòng mà các bạn không ai rành đường rừng dễ bị bắt lắm! Quang khuyên các bạn nên về, Quang sẽ đưa các bạn về bình yên! Đưa các bạn đi tháng này là đưa các bạn vào tù đó!"
Chúng tôi nói chuyện một hồị Sau khi 5 người họ bàn bạc, Nhung, Tuyết và Hoàng quyết định trở về, còn anh Trung và anh Tâm dứt khoát ra đi.Tôi định chỉ cách hái rau rừng và nấu ăn, nhưng nhìn lại họ chẳng có nồi niêu xoong chảo gì để mà nấu, tôi lấy ra cuộn giây cước và ít lưỡi câu trao cho họ:
- Hai anh cầm mấy cái này, đi tới chỗ đất ẩm thấp, bới giun làm mồi mà câu cá. Nhớ đốt bếp bằng củi khô thật khô, đừng để khói, dễ bị lộ Từ vùng này tới biên giới chỉ mất hơn một ngày. Các anh không có gì để nấu, tốt nhất là các anh ở lại đây, chờ Quang ít ngày nữa, Quang sẽ mang cà mên để nấu cho các anh. Đi không kiểu các anh mười phần chết mà chỉ có một phần sống thôi. Thành thực mà nói các anh nên về. Quang sẽ dẫn các anh chị về bình yên.
Anh Trung và anh Tâm nhất quyết ra đi, tôi nói họ chờ tại hang 5 ngày, để khi tôi đưa Nhung, Tuyết và Hoàng về thị xã rồi tôi sẽ mua ít lương khô cho họ vì đường bên Miên tôi không rành. Trong vùng này chỉ có lá giang để nấu canh chua, và rau bồ ngót, cũng như rau bột ngọt là ăn được, còn các thứ rau rừng khác như rau mò, càng cua, xà lách soong thì tôi không thấy. Tôi dẫn hai anh đi dọc bờ suối chỉ cho các anh thấy các loại rau đó, và chỗ có thể có giun. Hai anh bới được ít giun, trở lại gần hang thả câu, bắt được 4 con cá hơi to, mừng lắm. Tôi đi lấy ít củi mục khô, nhóm lửa lên trong hang, nướng cá. Năm người ăn cá một cách hí hửng, những con cá sao ngon thơm! Họ mời tôi, tôi cười, "Các anh ăn đi, phần Quang, Nhung, Tuyết và Hoàng để Quang đưa về làng thượng đãi cho các bạn món canh bí!"
Tôi sắp đặt câu chuyện để nói nếu ai hỏi tôi Nhung, Tuyết, Hoàng là ai. Tôi nói với họ:
- Nếu ai có hỏi tôi sẽ nói Nhung là vợ sắp cưới của tôi lên thăm, Nhung đi một mình không tiện nên kéo theo Tuyết, bạn gái của Nhung, và Hoàng là bạn trai của Tuyết.
Nhung đỏ mặt nhưng bằng lòng: "Quang nói sao cũng được mà! Chỉ mong sao mọi sự an lành là được rồi!"
Chúng tôi từ giã anh Trung và Tâm, hẹn năm ngày nữa tôi sẽ lại đây đưa lương khô và ít vật dụng cần thiết. Trong lòng tôi cầu mong họ giữ lời hẹn, nhưng nhìn họ tôi không khỏi ái ngại là họ sẽ chẳng chờ, vì thấy câu cá ở đây dễ dàng quá, họ có biết đâu đây là chỗ hẻo lánh ít người tới nên cá nhiều, còn ở những con suối khác đâu có dễ dàng như vậy. Nếu tới sông Krong Poco, thì việc câu cá lại thật quá dễ dàng, vì cá rất nhiều, nhưng làm sao họ có thể đóng bè vượt sông nếu không biết bơi giỏi hoặc dao để chặt tre. Tôi đã đi khỏi hang mà phải vòng trở lại căn dặn thêm một lần nữa:
- Hai anh phải ráng chờ Quang 5 ngày đó. Trong thời gian chờ nên tập bơi cho giỏi và câu cá cho nhiều hong khô để mang theo phòng khi bị lạc. Tới sông Krong Poco, có thể câu cá tươi mà ăn!
Hai anh ôm chầm lấy tôi: "Cậu lo lắng quá! Bọn này tự lo được mà! Thôi làm ơn đưa ba bạn kia về bình yên, mai này tụi mình còn gặp lại!"
Chương 6
Tôi vội vàng đưa Nhung, Tuyết và Hoàng ra khỏi rừng hoang càng sớm càng tốt. Nếu bắt gặp một lúc bốn người trong rừng kiểu này thật khó mà đoán biết hậu quả. Tôi vừa đi vừa nói với ba người những gì họ phải nói phải làm nếu có ai bắt gặp hay hỏi han. Tôi chỉ cầu mong đưa họ về tới thị xã Pleiku an toàn.
Nhung, Tuyết và Hoàng đều còn lại ít tiền trong túi, dư để mua vé xe từ B 6 về thị xã. Tháng này trời đang nắng và đường sá đang sửa sang, bụi bay đầy đường, nên tôi cảm thấy dễ nói hơn nếu có ai bắt gặp là Nhung bạn gái tôi lên thăm cùng với hai người bạn.
Cuối cùng chúng tôi cũng ra đường mòn xã B 9, từ đây về tới B 6 cũng mất ba bốn tiếng đồng hồ. May quá trên đường về B 6 chúng tôi chẳng gặp ai. Chúng tôi đến gần trạm xe đò B 6 thì cũng là lúc xe rời bánh về lại thị xã Pleiku, có chạy bám theo cũng không kịp. Tôi nói với Nhung, Tuyết và Hoàng:
- Quang đưa các bạn vào thẳng Phòng Giáo Dục không tiện. Quang sẽ dẫn các bạn vào làng Kơ Mông để các bạn tắm rửa, nghỉ ngơi và trưa mai Quang sẽ đi xe đò cùng các bạn về thị xã.
Hoàng nói:
- Quang tính sao cũng được. Mạng sống của bọn này giao cho Quang hết!
Tôi nhìn Nhung, Tuyết mà thấy tội nghiệp, đã 10 hôm lặn lội rừng sâu, chân tay sưng vù, bây giờ lại phải về, thực là buồn. Nhưng tôi biết chắc hai nàng sẽ không đủ sức làm một cuộc vạn lý trường hành, đi vượt qua biên giới Thái-Miên với tình trạng này. Đó là chưa kể đến những chạm trán với công an biên phòng hoặc du kích xã người Thượng mà chưa chắc họ bắt sống giam tù hay vẫn cứ theo luật rừng bắn trước trình sau khi mọi chuyện đã rồi. Mạng sống con người nơi rừng sâu nước độc mất còn một cách dễ dàng do việc xa xôi kiểm trở, chỉ cần uống nước không đun sôi cũng đủ bị độc hoặc sốt rét cấp tính. Bị những bệnh này mà không kịp đưa về bệnh xá hay nhà thương thì chỉ có nước theo tử thần về bên kia thế giới. Các giáo viên đi công tác vùng này bao giờ cũng phải mang thuốc chống sốt rét mà đôi khi vẫn bị bệnh sốt như thường. Lúc đó, dù lên sơn sốt dầu mồ hôi nhễ nhại thân thể nóng rần rần nhưng hai hàm răng cứ run lên cầm cập vì lạnh. Có lần tôi phải theo lời người Thượng vò lá cúc quỳ bỏ vào miệng nuốt, và có phản ứng cơ thể ngay lập tức: người nóng ran như đang xông lửa và hết lạnh.
Đang đi dọc theo đường làng Kờ Mông thì chúng tôi gặp thầy Phong. Vừa thấy chúng tôi, thầy Phong đã hỏi:
- Anh Quang, giáo viên mới hả?
Tôi vội vàng giới thiệu:
- Không anh, đây là Nhung, người yêu của Quang, đây là Tuyết và Hoàng là hai bạn của Nhung lên thăm, sáng mai về lại thị xã. Quang dẫn họ vào làng cho biết.
- Anh Quang đào hoa quá ha? Vậy mà cô giáo Du cứ nhắc hoài!
Nhung nhìn tôi như dò hỏi, tôi cười, nói cô Du là giáo viên cùng làng với thầy Phong. Tôi không muốn đứng lại lâu với thầy Phong sợ lôi thôi nhiều chuyện nên vội vàng từ giã.
- Quang cần dẫn Nhung, Tuyết, Hoàng đi xem một số nơi trước khi tối, thôi để lúc khác, nói chuyện với anh nhé!
Chúng tôi từ giã nhau, thầy Phong vui hẳn ra mặt. Thế là từ nay, có lẽ thầy đang nghĩ, tôi sẽ không còn là kỳ đà cản mũi trong việc thầy tán tỉnh Du. Lòng tôi bỗng nhói đau, đâm ra phân vân tự hỏi, không biết rồi tôi sẽ nói với Du sao đây. Tôi biết tôi rất thân với Nhung thuở còn đi học, thực sự là tôi mới ra trường có bốn năm tháng mà tôi tưởng chừng như cả mười năm sau những lặn lội trong cuộc sống giữa núi rừng buôn bản. Tôi cũng rất mến Du, mặc dù mới quen biết. Giữa Du và tôi dường như có mối thân thiết đặc biệt khó tả, dù chúng tôi chưa hề có quan hệ trai gái.
"Lại rắc rối rồi đây!" Tôi nhủ thầm, nhìn Nhung, Tuyết, và Hoàng. "Thôi kệ, việc tới đâu hay tới đó! Việc trước tiên là phải đưa ba người này về thị xã an toàn cái đã!" Tôi quyết định sẽ đóng màn kịch bất đắc dĩ này tới cùng.
Tôi đưa Du, Tuyết và Hoàng tới nhà Liễu, một giáo viên dưới quyền tôi, ở làng Kờ Mông. Tôi giới thiệu ba người với cô Liễu, người nho nhỏ, gốc Huế, nói chuyện rất có duyên. Ba người theo như tôi dặn trước đóng kịch cũng tài, quá tài nữa vì khi tôi từ giã để trở lại Phòng Giáo Dục thì Nhung lại gần ôm lấy tôi hôn và nói: "Mai anh trở lại đón tụi em nhé!"
Mặt tôi đỏ như gấc vì đây là lần đầu tiên một người con gái hôn tôi. Cô Liễu nhìn chúng tôi làm tôi càng mắc cở. Hy vọng cô nghĩ là tôi ngượng vì sự biểu lộ tình cảm của chúng tôi trước mặt mọi người, chứ không phải tôi đỏ mặt vì Nhung hôn tôi.
Chương 7
Trên đường về Phòng Giáo Dục tôi suy nghĩ làm sao tôi có thể xin phép về thị xã Pleiku mấy ngày để kịp mua những thứ cần dùng cho hai người bạn mới đang tìm đường vượt biên, tôi cũng không khỏi nghĩ tới nụ hôn đầu tê tê trên môi gần như bị điện giật. Tôi thầm nghĩ, "Nhung đóng kịch giỏi thật, nhưng đâu cần phải làm vậy!"
Tôi lại nghĩ tới những ngày học lớp 12, tới những lần tới nhà Nhung với Hải, những buổi tối tâm sự lúc đi khai hoang ở Gia-lu (Ya Lu)... Lúc nào Nhung cũng ân cần với tôi hơn với Hải và có lần tôi đưa nàng xuống suối rửa chén sau bữa cơm chiều, tôi hỏi nàng:
-- Nhung sợ ma không?
Nhung nhìn tôi cười, nói pha chút thẹn thùng của con gái mới lớn:
-- Đi với Quang thì Nhung sẵn sàng đi tới tận cùng trái đất!
Tôi định đùa, "Thật đấy nhé!" nhưng chợt nghĩ tới Hải, bạn thân của tôi, đang theo đuổi Nhung, nên tôi kịp giữ lại cho riêng mình rồi giả tảng hỏi qua chuyện khác.
Nụ hôn từ giã của Nhung hôm nay không biết chỉ là đóng kịch qua mắt cô Liễu, hay vì cám ơn tôi sắp giúp nàng về lại với gia đình sau 10 ngày đi lạc trong rừng hay nàng yêu tôi thật sự
Tôi lại nghĩ tới Du, người hay bàn chuyện văn thơ với tôi những tối ở Phòng Giáo Dục, giờ này đang ở một mình trong làng Ea Blang với thầy Phú vì thầy Phong đang về Phòng Giáo Dục. Tôi biết anh Phong sẽ không quên kể chuyện này cho Du nghe, không chừng anh Phong đã oang oang ở phòng là tôi đã có vợ sắp cưới và nàng lên thăm tôi hôm nay.
Đúng như tôi dự đoán, vừa trờ mặt tới sân, các anh Nhật, anh Khoa, anh Giáp đã ào ra hỏi:
-- Vợ mày đâủ Sao dấu biệt và im lặng vậỷ
Tôi đỏ mặt, chối:
-- Vợ đâu mà vợ, sắp cưới thôi mà!
Rồi tôi hỏi:
-- Các anh lại nghe thầy Phong tuyên truyền rồi chứ gì?
Không chờ họ trả lời, tôi phân trần:
-- Mẹ em ở nhà bị bệnh mà nhà không có ai nên sáng nay nhờ Nhung, người yêu em, và hai bạn của Nhung đi lên đây báo cho em đó, sợ có mệnh hệ gì không kịp nhìn mặt em.
Anh Nhật, trưởng phòng, người Bắc, đã lăn lộn sống với người dân tộc trong những năm chiến tranh, tính tình rất cách mạng, nhưng cũng rất chí tình và cởi mở như người Nam, nói:
-- Cậu có gì cần cứ giao lại cho anh Ít. Tớ cho cậu nghỉ phép một tuần đó. Về lo cho gia đình rồi lên, đừng có hú hí với vợ rồi bỏ sở.
Tôi cám ơn anh Nhật nhưng bào chữa:
-- Nhung là người yêu sắp cưới thôi, chứ chưa phải vợ. Anh nói vậy là giết em đó!
-- Vợ hay vợ sắp cưới cũng như thế thôi, sao cậu không đưa vào đây ngủ. Cậu có phòng riêng mà!
-- Anh nói bậy rồi đó nha! Phạm đạo đức cách mạng đó. Tụi em chưa cưới thật mà. Làm vậy em sẽ bị tru di tam tộc chứ chẳng chơi. Em để Nhung và các bạn ở nhà cô Liễu ở. Mai trước khi về em sẽ đưa họ tới chào các anh chị
Tôi rất vui mừng là qua mắt các anh ở Phòng Giáo Dục một cách tương đối dễ dàng nhờ chuyện anh Phong không kín miệng, nhưng lại ái ngại cho danh dự của Nhung, ái ngại cho tình thân của Du và tôi. "Việc gì tới sẽ tới!" Tôi tự nhủ, rồi tôi nói với anh Nhật và anh Khoa, phó phòng, giáo viên biệt phái từ Bắc vào, nghiêm trang, nhưng cũng rất hiền lành:
-- Các anh vào phòng cho em bàn việc một chút xíu.
Anh Khoa hỏi:
-- Chuyện gì mà trọng đại vậy?
-- Một ý kiến thôi, khi em đi thăm các làng trong xã. Em đã đưa anh Đáng qua làng anh Nhân, và chuyển anh Nhân về làng Ea Blang. Em dò hỏi đồng bào, thì thấy nếu mình có thể tìm người dạy cho họ cách viết chữ Jrai, công việc chuyển dạy sang tiếng Việt sẽ dễ dàng hơn và có thể hoàn thành trước thời hạn. Làng nào cũng có một hai người biết chút ít chữ Jrai, anh Ít giáo viên của phòng có thể giúp họ lập giáo án và dạy rồi mình kèm thêm ít tiếng Việt trong đó. Như vậy họ sẽ đi học đầy đủ và thường xuyên hơn, bây giờ chỉ đám con nít là đi học, còn thanh niên nam nữ và người già họ cứ nại cớ mệt, đi làm việc, ít người tham dự
Anh Nhật khen:
-- Ý kiến của cậu có vẻ hay đó! Cậu suy nghĩ thêm, rồi bọn tớ bổ sung ý kiến đưa lên huyện đội và tỉnh xem họ nghĩ thế nào.
Tôi tiếp tục nói qua cho anh Nhật và anh Khoa tình hình ở các làng, những việc cần cải tiến, xin thêm giáo cụ... Tôi kết luận:
-- Sáng mai em sẽ đưa các anh những báo cáo tình hình, và đơn xin giáo cụ...
Anh Nhật nói:
-- Thôi, cậu để khi trở lại rồi làm cũng được. Việc còn dài mà!
Khi tôi ra khỏi phòng anh Nhật thì thấy thầy Phong cũng từ phòng kế hoạch do anh Hưng, giáo viên cấp 2 miền Nam, ra.
Tôi nhìn anh Phong lắc đầu:
-- Anh Phong tuyên truyền giỏi quá ha!
Anh Phong cười:
-- Xưa nay ai cũng cho Quang là người hiền. Không ngờ Quang có vợ tới nơi mà vẫn quan tâm tới cô Du!
Tôi biết có cản anh Phong cũng vô ích nên tôi cười trừ. Tôi sẽ tìm cách giải thích với Du sau. Lo nghĩ chỉ thêm mệt. Tôi còn 3 người phải đưa về thị xã an toàn, 2 người phải lo cho họ lương thực. Hơi đâu mà nghĩ tới chuyện tình cảm lôi thôi rắc rối.
Trong bữa ăn tối chung, chị Nhung, chị Hiệp, chị Hương, anh Nhật, anh Khoa, anh Hưng, anh Giáp, anh Ít xúm lại chọc tôi. Tôi chống chế cho qua thôi, chứ không muốn họ biết nhiều về tôi và Nhung. Lỡ bịa chuyện ra nhiều, sau này nói trật đường rầy thì lộ chuyện mất nên tôi chỉ nói sơ qua là hai đứa quen nhau hồi học chung, rồi hai bên gia đình hứa hôn... Chị Nhung, làm bên phòng kế hoạch với anh Hưng, người xem tôi như em út, trách:
-- Em có vợ sắp cưới mà giữ kín quá làm chị cứ tưởng em với cô Du có gì chứ?
Tôi nhói đau khi nghĩ tới Du, chắc giờ này thầy Phong đang tả oán tôi với Du đây. Tình cảm con người rắc rối thật. Đang không tôi gần như có hai người yêu cùng một lúc, tự nhiên tôi như đang đứng giữa ngã ba trên con đường tình cảm khi tôi chưa hề nói yêu bất cứ ai, đã hẳn tôi đã nghĩ nhiều về Du, tôi lại bắt đầu nghĩ tới Nhung. Trái tim con người rõ ràng là phức tạp mà trái tim sắp vào ngưỡng cửa yêu thương của tôi lại rối như vò.
Sau bữa ăn tối,tôi nói chuyện với anh Ít một chút về ý kiến của tôi tìm người dân tộc dạy viết chữ dân tộc. Anh Ít thích lắm, nói với tôi:
-- Quang ráng thuyết phục anh Nhật và anh Khoa đi, việc này hay lắm đó!
Tôi cười:
-- Anh Nhật và anh Khoa thì dễ rồi, việc anh huấn luyện giáo viên mới mới khó và trên huyện và tỉnh có thông qua hay không cũng là một vấn đề vì mình phải trả lương chứ không thể nhờ họ dạy không công.
Tôi kiếu anh không đi câu cá đêm nay vì sáng mai tôi phải về thị xã. Tôi hỏi anh có cần gì không, tôi mua cho. Anh nói, "Không, Quang lo làm sao cho người Jrai được viết, đọc tiếng Jrai là đủ rồi!"
Trong lòng, tôi đã biết tôi có thể mua cho anh Ít một món quà nào rồi. Tôi sẽ tìm mua cho bằng được món quà đó khi tôi về thị xã. Anh đã giúp tôi học tiếng Thượng, trưởng thành trong nếp sống với đồng bào Thượng mà. Tôi về phòng viết báo cáo tình hình và những đề nghị tới khuya. Khi viết xong, thì tôi đã mệt nhoài, vào giường là lăn ra ngủ liền.
Chương 8
Sáng hôm sau, tôi thức dậy sớm hơn thường lệ. Sau khi chạy bộ một vòng từ Phòng Giáo Dục tới Bệnh Xá, tôi vòng trở lại, quay nước từ giếng lên đưa vào phòng tắm tắm rửa sạch sẽ xong mới thấy mọi người thức dậy. Tôi trở về phòng mình sắp xếp ngăn nắp, coi lại bản báo cáo và đề nghị xong thấy không cần sửa đổi gì nữa tôi qua phòng anh Nhật đưa cho anh, nói:
- Đây là bản báo cáo và những đề nghị của em. Anh và anh Khoa cứ việc sửa đổi những chỗ cần thiết để đưa lên huyện và tỉnh.
- Gớm, cậu chăm thế? Đã bảo cậu về lo nhà thăm gia đình trước rồi trở lại báo cáo cũng được mà.
Tôi cười nói lại:
- Tính em vậy đó. Làm gì làm cho xong, rồi còn lo việc khác. Với lại để lâu, em quên khuất đi hết.
Tôi nói thêm:
- Hôm qua, sau bữa tối, em có hỏi thử anh Ít. Anh Ít rất tán thành đề nghị này.
Anh Nhật cười:
- Thằng Ít thì đương nhiên rồi, tự nhiên nếu kế hoạch thành, nó sẽ thành cấp lớn.
Tôi bào chữa cho anh Ít:
- Anh Ít không phải ham chức tước đâu. Anh ấy thực sự lo cho đồng bào của anh ấy thôi. Anh biết mà, người lớn tuổi khó học lắm, huống chi mình lại ép buộc học tiếng Việt. Nếu cho họ động cơ học tiếng Jrai, rồi chuyển dần qua tiếng Việt em thấy dễ hơn.
Anh Nhật nói:
- Để xem trên huyện có thông qua không! Tớ chỉ sợ họ ngại chi tiền!
Tôi nói:
- Hiện giờ mình đang trả các giáo viên bổ túc văn hoá 36 đồng mỗi tháng. Anh có thể đề nghị huyện và tỉnh, trả mỗi giáo viên Thượng 18 đồng, như vậy cũng là nhiều vì họ không cần phải đi xa, không phải đi lao động tập thể ở các nông trường, em nghĩ họ sẽ đồng ý thôi. Cần là anh và anh Khoa nhất trí đề quyết lên trên.
Anh Nhật cười:
- Tớ mà không biết cậu làm việc hăng say xưa nay, và là người Kinh, tớ không chừng nghĩ cậu là FULRO nằm vùng, đang tìm cách đấu tranh nâng cao dân trí, chuẩn bị cho việc đòi quyền tự trị sau này cũng nên.
Tôi giật mình sợ hãi nhủ thầm. "Anh Nhật này rất là tinh tế, mình phải cẩn thận, không chừng có ngày mệt với anh này!" Tôi nói với anh Nhật, "Em mà là FULRO thì anh là Tướng FULRO, xưa nay làm việc gì cũng thông qua anh mà!"
Tôi nghĩ bụng từ nay mình phải cẩn thận trong mọi hành động, không phải là trong Phòng Giáo Dục là không có những cáo già chính trị luôn luôn có những nghi ngờ tuy không nói ra ngoài miệng. Tôi biết việc tôi đang làm với Nhung và các bạn của Nhung mà lộ ra thì tôi sẽ mất việc ngay lập tức và kế hoạch dạy tiếng Jrai cho người Thượng cũng tan thành mây khói. Tôi sẽ không thoát ra khỏi vòng tù tội nữa.
Tôi xin phép anh Nhật đi xuống làng Kờ Mông đón Du và các bạn lên gặp các anh chị trong Phòng Giáo Dục trước khi ra chỗ xe đò để trở về thị xã Pleiku.
Anh Nhật cười:
- Cậu mai này nói với cô Du làm sao đây? Tớ tưởng cậu với cô Du chứ!
Tôi bào chữa:
- Tại các anh chị nghĩ vậy thôi! Chứ tụi em toàn là bàn luận về thơ Bác Hồ, Tố Hữu, Giang Nam, và các nhà thơ cách mạng khác, chứ có bao giờ nói chuyện tình yêu riêng tư đâu!
Anh Nhật xua tay:
- Thôi để cậu đi! Có ngày cậu chết vì các cô cho mà xem.
Tôi chẳng chờ anh nói thêm, phóng ra khỏi cửa, đi lên làng Kờ Mông liền, đem theo sáu quả trứng gà còn lại do bầy gà tôi nuôi sau nhà bếp đã từng cung cấp cho cả Phòng Giáo Dục ăn sáng. Ở đâu cũng vậy, "Có thực mới vực được đạo!" Bố tôi thường nói vậy! Và dặn tôi, "Mày đi đâu, làm cái gì, cũng coi tình hình địa phương mà hoà nhập, làm vườn trồng rau, nuôi gà, câu cá để tự lực cánh sinh! Đi vào nơi thâm sâu nước độc, mà thiếu dinh dưỡng thì chỉ nạp mạng cho rừng thiêng!"
Phòng Giáo Dục nằm trên một con dốc, nhìn xuống một đầm khá lớn, mà mỗi tối anh Ít và tôi thường xuống cắm câu rồi sáng ra đi nhổ câu bắt cá. Dọc theo đường có những bụi hoa quỳ vàng sặc sỡ, nhất là sau một trận mưa làm trôi đi những bụi bặm do đất đỏ phủ lên. Phòng Giáo Dục và Bệnh Xá là hai nơi được xây bằng xi măng, còn những nhà trên đây toàn là nhà sàn của người Thượng làm bằng phên tre, mái lá còn nhà của người Kinh đi vùng kinh tế mới trên này cũng đơn sơ, vách cỏ tranh, mái cỏ tranh, trông thật nghèo khổ.
Vùng kinh tế mới này nằm ngay vị trí của xã Thạnh Đức dưới thời chính phủ Ngô Đình Diệm có khoảng 60 hộ, tức là 60 gia đình người Kinh, nên xe đò mỗi ngày vào ra một chuyến mà thôi. Vậy là cũng may, có những vùng kinh tế mới cả tháng mới có một chuyến xe ra vào. Vì nơi đây có Phòng Giáo Dục của huyện và Bệnh Xá cấp Huyện nên mới có xe thường xuyên mỗi ngày như vậy thôi.
Khi tôi tới nhà cô Liễu thì Nhung, Tuyết, Hoàng cũng đã sửa soạn xong rồi. Tôi hỏi, "Đêm qua mọi người ngủ ngon không, đã ăn gì chưa?" Tôi đưa cho Liễu sáu quả trứng. Liễu cười nháy mắt hỏi tôi:
- Gà của anh đó hở
Nhung cùng lúc cũng nhanh nhẹn nói:
- Ngủ ngon lắm. Bọn em được nghe cô Liễu kể nhiều chuyện về anh nữa nè!
Tôi nhìn cô Liễu hỏi:
- Liễu lại nói xấu Quang rồi phải không? Nhung, Tuyết và Hoàng về thị xã học lại thì Quang bị nhừ đòn!
Tôi nói với cô Liễu:
- Liễu đã viết thư gì về cho gia đình chưa? Quang sẽ về, ghé thăm, Liễu cần gì thì ghi vào giấy Quang đem lên cho.
Cô Liễu nhìn tôi nói:
- Anh Quang cho Liễu về với!
Tôi lắc đầu:
- Liễu về rồi ai dạy ở đây! Thôi để khi Quang trở lại nếu sắp xếp xong, Quang xuống đây dạy thế cho ít ngày để Liễu về thăm gia đình.
Cô Liễu mừng rỡ ra mặt, nói:
- Thật nha anh Quang!
- Ừ thì thật mà. Quang có nói dối với Liễu bao giờ đâu!
Liễu vội vàng viết thư trong khi Nhung, Tuyết, Hoàng ăn cơm ngon lành với trứng tôi vừa chiên trong khi Liễu viết thư. Nhung nói to:
- Hôm qua, cô Liễu đãi bọn em ăn canh bí đỏ. Cô Liễu nói anh cung cấp, đúng không?
Tôi phì cười:
- Làm như Quang là nhà thầu không bằng. Mấy thứ đó là do Quang đi đổi thuốc lá với đồng bào ở đây, rồi chia cho giáo viên ở đây mỗi người một ít, chứ có gì đâu! Công tác dân vận đó mà!
Thực sự là nhờ tôi biết được tiếng Thượng, lại hoà đồng với dân ở đây, nên việc tôi đổi thuốc lá, vật dụng lặt vặt rồi chia cho các giáo viên ở đây Phòng Giáo Dục và mọi người ở đây ai cũng biết. Lúc đầu, có người chọc tôi là học tiếng Thượng để buôn bán, xin ăn, chứ không biết là nhờ biết tiếng Thượng tôi đã đi sâu vào tâm tư của đồng bào trên đây. Ngôn ngữ là khởi đầu của mọi quan hệ, lúc đầu là ngôn ngữ múa tay muá chân tìm lời, sau đó thành thuần nhuyễn... Công lao của anh Ít đối với tôi thật nhiều, tôi hy vọng tôi có thể giúp anh hoàn thành ước nguyện mở một đội ngũ giáo viên dân tộc thiểu số để dạy tiếng Jrai cho dân tộc của anh.
Chương 9
Trong cái may có cái rủi và trong cái rủi có cái may. Có nhiều chuyện trong đời xảy ra một cách bất ngờ không ai có thể đoán trước được. Tôi đưa Nhung, Tuyết và Hoàng tới Phòng Giáo Dục mà phập phồng lo sợ anh Nhật khám phá điều bí mật giữa chúng tôi. Anh Trần Quang Nhật đã từng làm tình báo khi anh giả làm người Thượng vào tận thị xã Pleiku buôn bán với người Kinh để lấy tin tức trước năm 1975. Lỡ mà sơ hở một chút thì lộ cả thôi! Tôi định bụng tới gần tới giờ xe chạy mới ra trạm xe. Vừa đỡ phải chờ dưới nắng chang chang, vừa đỡ sợ rắc rối. Tôi nấn ná chờ mọi người ăn uống xong đâu đó rồi mới đi sau khi cô Liễu viết xong bức thư dài cho gia đình. Dù gì cô cũng xa gia đình cả 4 tháng rồi. Tôi hứa sẽ đưa đến tận tay cho gia đình cô.
Chúng tôi đi bộ tới Phòng Giáo Dục thì cũng gần trưa, chào hỏi qua loa, rồi tôi xin phép đưa Nhung, Tuyết, Hoàng ra trạm xe để kịp về thị xã. Chị Hương, chị Hiệp, chị Nhung nhờ tôi đưa thư tới gia đình các chị với lời dặn kỹ càng, "Nhớ chờ thư gia đình gởi lên cho chị nhé!". Tôi nghĩ thầm, "Mình chẳng chờ làm gì, về tới nhà là đưa thư tới, rồi hôm đi trở lại lấy thư trả lời là xong! Mình còn bao nhiêu việc mà!"
Chúng tôi đi ra trạm xe về không gặp khó khăn nào khác, vì bác tài xế đã quen mặt tôi rồi qua những lần tôi nhờ ông mua thuốc rê, đưa ít muối, cá khô lên để tôi đổi cho đồng bào Thượng. Bác hỏi, " Cháu không mang gì về sao?"
-- Dạ, cháu và các bạn đây về có chút việc! Không kịp đổi chác gì hết!
Tôi không muốn nhiều người biết chuyện vợ sắp cưới bất đắc dĩ sau này, nên dấu được điều gì thì dấu, chừng nào có ai hỏi thì khai cũng được, ai đời vạch áo cho người xem lưng bao giờ. Chẳng đặng đừng, mới phải kê khai lý lịch tiểu sử mà thôi!
Ban đầu tôi nói Nhung, Tuyết và Hoàng leo lên trên mui xe ngồi, vì ngồi trong xe nực nội và bụi bặm. Ngồi trên mui xe, dù bụi bặm, nhưng dễ thở hơn vì thoáng gió. Bác tài xế nói đàn bà con gái không được phép ngồi trên mui xe, vì có ai mà để cho các bà các cô ngồi trên đầu bao giờ! Nửa buồn cười nửa tiếc chỗ thoáng trên mui, chúng tôi đành ngồi trong xe.
Xe chạy về hướng Đông, đường xe bụi mù. Tôi và mọi người đưa khăn bịt mũi, chẳng nói được chuyện gì vì buị bặm khắp nơi. Xe đi xuống dốc, chạy ngang cầu Ea Hrung, thì ì ạch lên dốc. Con sông nhỏ Ea Hrung chiều ngang khoảng 20 mét, nước chảy cuồn cuộn, xe đi ngang cầu như muốn sập. Tôi lại nghĩ tới hai người bạn đang chờ, những bước đường họ sẽ phải vượt qua, những con sông mà họ phải thả bè hay bơi qua, như con sông Krông Pô Cô rộng cả khoảng 200 mét, con sông Mékong trên Campuchia rộng cả cây số. Nhung ngồi bên cạnh tôi, mệt nhừ vì đường nhiều ổ gà. Không biết vì mệt vì những ngày qua hay đường dài, nàng dựa đầu vào vai tôi, ngủ ngon giấc.
Tôi nhìn mặt nàng, lem luốc vì bụi bặm, thấy thương hại. Tôi để yên cho nàng ngủ, nhìn Tuyết và Hoàng, ngồi đối diện tôi mỉm cười thông cảm vì mặt người nào cũng như người nào bụi đỏ che khuất chỉ còn trơ hai con mắt.
Tôi nghĩ tới lúc gặp lại gia đình tôi, các anh chị em và các bạn tôi, sau những tháng xa cách mà cảm thấy thật hân hoan. Tôi như một người hùng từ căn cứ sâu trở về với thành phố. Tôi có nhiều chuyện phải nói, phải lo. Cuộc đời tự dưng đẩy tôi vào cơn lốc thời đại. Vừa mới tốt nghiệp phổ thông, chưa đầy 18 tuổi, đã trở thành giáo viên xoá nạn mù chữ, rồi làm giáo viên chuyên trách, rồi thành người đổi chác, buôn bán, giúp đỡ với mọi người... Tôi biết trước mắt đầy cam go, nhưng cũng đầy thích thú. Cuộc mạo hiểm nào cũng có giá của nó mà, giá trả càng cao thì sự hứng khởi càng có ý nghĩa. Tôi đã mang cuộc sống vô tư để dấn thân vào cuộc sống trách nhiệm, nguy hiểm, nhưng tôi không than van.
Ờ thật là nhiều chuyện để nói với gia đình, bạn bè về cuộc sống trong rừng núi, về người dân Thượng... Tôi quay mặt sang nhìn Nhung. Nàng vẫn dựa đầu vào vai tôi ngủ thật ngon! Tự nhiên một ý nghĩ thoáng qua đầu, "Giá mà không có Hải biết đâu tôi và Nhung giờ này chẳng là người yêu thật sự!" Tôi chợt nghĩ tới Du, và vội xoá bỏ tư tưởng vẩn vơ vừa vụt qua trí! Không thể nghĩ vậy được, còn Hải, còn Du, giây mơ rễ má chỉ khổ thân. Chẳng đặng đừng mình phải nói dối vậy thôi!
Tôi lại nghĩ tới nụ hôn hôm qua lúc từ giã mà sượng sùng đỏ mặt. Tình yêu là một dấu hỏi lớn, cả một thế giới huyền diệu, những đường đi ngoằn ngoèo, những quanh co khúc khuỷu, không biết mai này tôi có vấp ngã như những người tôi quen biết không. Tôi nhìn Nhung ngủ, một mối tình đặc biệt như dâng lên trong tôi. Nàng ngủ ngon quá, dễ dàng như con mèo. Tôi để nàng tự nhiên tựa vai cho tới trạm dừng xe tại thị xã, gần trường thánh Phaolô, trên đường Phan Đình Phùng.
Chương 10
Thị xã Pleiku như vừa qua một cơn lốc, bụi bặm bám đầy trên mái nhà. Tôi nhẹ nhàng đánh thức Nhung dậy và đưa khăn lên lau mặt. Một màu đất sậm trên khăn. Tôi nhìn Nhung cười hỏi:
- Nhung ngủ ngon không? Tới trạm đầu rồi, thôi mình xuống nhé!
Nhung e thẹn nói:
- Anh Quang đưa Nhung về nhà được không?
Tôi cười, "Còn phải hỏỉ"
Tôi quay nhìn Tuyết và Hoàng hỏi vọng: "Các bạn xuống ở đây hay là chờ tới trạm Trà Bá?"
Hoàng nói:
- Nếu Quang đưa Nhung về, thì bọn này về trên trạm Trà Bá cho gần. Mai Quang ghé nhà bọn này chơi nhé!
Tôi gật đầu: "Quang sẽ cố gắng, nhưng chắc phải chiều tối, vì Quang còn lo ít chuyện!"
Tôi khoác Ba-lô lên rồi xuống xe tay với lên cầm tay Nhung cho nàng xuống xe. Hai đứa chúng tôi đi bộ về nhà Nhung, gần nhà thờ Đức An. Lòng hồi hộp vô cùng, lo sợ phường xã nghi ngờ đã cử người tới làm khó dễ gia đình Nhung. Chúng tôi ôn lại câu chuyện nàng lên thăm tôi cho ăn khớp với nhau để lỡ có gì còn có đường nói năng.

Quả đúng như tôi dự đoán, khi vào cổng nhà Nhung thì tôi thấy một chú sĩ quan công an, mặc đồng phục vàng vừa bước ra cửa nhà, Mẹ Nhung tiễn chú ra. Nhung lên tiếng chào, "Anh Phiếm tới nhà Nhung có chuyện chi đó?"
Chú công an nhìn tôi rồi nhìn Nhung, chưa kịp trả lời thì Nhung đã lên tiếng giới thiệu, "Đây là anh Quang, bạn học của Nhung năm rồi, bây giờ đang làm giáo viên chuyên trách ở huyện Chu Pah, còn đây là anh Phiếm, trưởng phòng công an phường!" Tôi suýt lên tiếng chào chú, nhưng kịp giữ lại vì Nhung đã gọi chú ấy là anh, mà tôi gọi chú thì thật khó coi, không chừng lại làm phật lòng chú công an nữa, nên xoè tay ra bắt tay chú công an, nói, "Chào anh Phiếm! Anh mới tới chơỉ"
Chú công an buông tay tôi ra trước, trả lời, "Tôi ghé nhà xem Nhung ra sao? Bây giờ tôi phải về phường có việc. Quang về phép đó sao?"
Thật đúng là công an, mở miệng ra là tra hỏi rồi. Tôi nói,: "Dạ, anh có cần coi giấy phép không? Quang được phép về 5 ngày!"
"Thôi, khỏi cần. Quang về trình diện công an phường sau!" Chú công an trả lời rồi ra cổng.
Má Nhung, Nhung và tôi vào nhà. Phượng và Tuấn, hai người em của Nhung, chạy lên nhà la ầm lên, "A chị Nhung đã về!"
Nhung hỏi má Nhung: "Anh Phiếm lên nhà có chuyện chi không Mạ? Hồi nãy con có hỏi mà không thấy anh ấy trả lời!"
Má Nhung lau nước mắt nói, "Nó tới hỏi thăm con vì con vắng mặt hai buổi học tập thanh niên gì đó!" Rồi má Nhung nói với tôi, "Cháu ngồi chơi!" và bà quay sang Phượng nói, "Con xuống nhà rót nước trà mời anh Quang đi con!"
Tôi không biết má Nhung có biết chuyện nàng theo các bạn định vượt biên hay không nên đâm ra lúng túng, nói nàng lên thăm tôi chắc ổn hơn, vì tôi từng lên nhà Nhung chơi thuở còn đi học. Nếu có nói thật thì Nhung phải tự lo thôi. Không phải tôi ngại má Nhung mà vì tôi sợ mấy em nhỏ của Nhung nếu lỡ lời thì mọi chuyện đổ bể nguy hại cho Nhung lẫn tôi. Chi bằng càng ít người biết càng tốt.
Phượng đưa trà lên, có cả Ngoại của Nhung đi theo: "Thằng Quang tới chơi đó hở Mày sao đi đâu biệt xứ mấy tháng nay giờ mới về?"
- Dạ con đi công tác xoá nạn mù chữ mà Ngoại! Đây là lần đầu con được phép về!
- Mày về ở chơi lâu không? Chị em con Nhung tụi nó nhắc mày hoài!
Nhung và Phượng cả hai đều đỏ mặt như bị bắt quả tang, tôi cũng đỏ mặt không biết phải nói sao. Cũng may, Phượng rót nước ra mời.
- Mời Ngoại, Mạ và anh Quang dùng trà!
Tôi cầm lấy tách trà nóng vội nói:
- Cám ơn Phượng.
Khi ngồi xuống nói chuyện, tôi mới biết cả gia đình Nhung đã biết chuyện Nhung đi với mấy người vượt biên. Nhung tóm tắt những chuyện đã xảy ra và làm sao nàng gặp tôi và được tôi đưa về nhà. Tôi trình bày với gia đình Nhung chuyện đóng kịch của chúng tôi để nếu có gì mọi người đều có cùng một câu chuyện trước khi đứng lên xin phép về nhà.
Chương 11
Đức An và Hoa Lư nằm xéo nhau, cách nhau cũng cả tiếng đồng hồ đi bộ. Đức An nằm phía Tây Nam, còn Hoa Lư nằm phía đông bắc. Tôi đi dọc theo đường Hoàng Diệu, đi qua trường Tuyên Đức, rồi xuống trường Tiểu Học Pleiku, tạt trái đi theo đường Trịnh Minh Thế, thay vì đi xuống phố chính rồi quẹo trái lúc tới rạp chiếu bóng Diệp Kính đi theo đường Lê Lợi rồi tới đường Cách Mạng rồi về nhà. Đường Cách Mạng, đúng ra là đường Cách Mạng 1 tháng 11 năm 1963, nhưng từ tháng 4 năm 1975, dân chúng giả như giác ngộ tạm quên đi khúc cuối. Trên góc đường Trịnh Minh Thế và Hoàng Diệu có nhà máy điện, cung cấp điện buổi tối được mấy tiếng rồi tắt chứ không cung cấp điện cả ngày như trước năm 1975. Bên cạnh nhà máy điện, có Ty Cảnh Sát Quốc Gia thị xã thời xưa. Đi một quãng thì tới đường Quang Trung. Ngay góc đường Quang Trung và Trịnh Minh Thế, có Dinh Tướng Vùng II Chiến Thuật. Bây giờ cũng bí mật kín đáo, không biết cho những ai ở, chắc cũng là những ông tai to mặt lớn.
Con đường này lúc nào đối với tôi cũng đầy những kỷ niệm buồn vui khi vừa lớn. Thuở ấy tôi học lớp 6 trường Trung Học Pleiku, đồng phục quần xanh, áo trắng, trên túi có thêu tên họ và tên trường bằng chỉ đỏ.Tôi nhờ Liên, ở cạnh nhà, cô em họ cùng tuổi và đã từng học chung các lớp ở trường Tiểu Học Minh Đức, thêu giùm. Liên cùng tôi đều thi đậu để học trường công, để khỏi đóng tiền học hàng tháng. Liên học trường Nữ Trung Học Pleime, gần nhà, vì trường Nữ Trung Học Pleiku nằm gần sân vận động Hoa Lư và khu gia binh dành cho binh sĩ và sĩ quan trong quân đội Việt Nam Cộng Hòạ Không biết Liên có nói gì với đám bạn ở trường không, mà ngày này khi về ngang bệnh viện tôi thường bị năm cô gái chọc phá. Năm cô này được tôi và Bùi Văn Lê liệt danh là ngũ quỷ Pleime. Có hôm hai đứa chúng tôi bị năm cô gái phá phách đứng vòng quanh bao vây cả hồi lâu. Các cô nắm tay nhau thành một vòng tròn, chúng tôi chẳng có lối nào thoát. Vừa mắc cở vừa buồn cười, vì năm cô vẽ râu vẽ rắn trên mặt các cô, cả một bầy nữ học sinh nhìn năm cô và hai đứa tôi cười ngặt nghẽo.
Lê bản tính hiền lành, rất mê truyện kiếm hiệp. Lê là người giới thiệu tôi vào tiểu thuyết kiếm hiệp kỳ tình và truyện gián điệp như 007 và Z 28. Hai đứa tôi thay phiên nhau đọc truyện khi đi đường, vì ở nhà chúng tôi chỉ có thời gian giới hạn để đọc truyện mà thôi. Khi thoát khỏi vòng tròn quái ác của ngũ quỷ Pleime, chúng tôi bảo nhau quyết chí trả thù. Hai đứa tôi chiều hôm đó đem xe đạp ra tập lướt thật nhuyễn để lấn đường ngũ quỷ Pleime.
Tình bạn của chúng tôi rất thân thiết gần như anh em nên làm việc gì, phá gì, đứa này nêu ý kiến ra là đứa kia theo, chẳng do dự gì cả. Ít ngày sau trên đường đi học về, chúng tôi trổ tài nghiêng xe đạp lướt băng qua bên trái dọa năm cô gái nghịch phá làm mấy cô này nhảy dạt vào lề. Hai anh em đang hỉ hả vui liệng qua bên phải đường để về thì Lê đụng một xe đạp đang đi tới. Tôi chạy qua lề bên phải, dựng xe lại rồi chạy qua đỡ Lê và cô gái bị đụng. Chao ơi, khổ làm sao! Lại là Liên, em họ tôi. May mà cả hai không bị sây sướt trầy trụa gì, nhưng áo dài của Liên bị rách ngay chỗ eo. Tôi có mặc áo lót bên trong, nên cởi áo sơ-mi ngoài đưa cho Liên khoác.
Năm cô ngũ quỷ quay lại, vây quanh chúng tôi, xỉ vả và chọc quê hai thằng con trai chúng tôi dữ lắm. Họ càng ra công tố cáo tôi khi biết Liên là em họ tôi. Phen đó tôi về nhà bị một trận đòn khá nặng vì cái tội mới bây lớn đã chọc gái hơn là chuyện Liên bị rách áo chỉ vì dì tôi sang nhà kể chuyện tôi và Lê mỗi ngày trên đường về đều chọc gái như lời năm cô gái vu cáọ Tôi bị oan, nhưng không có cách nào để tự biện hộ nên ức lắm. Tôi giận cô em họ cả tuần vì chuyện thọc mạch của Liên, đi nghe người lạ mà không hỏi nguyên do hay điều tra cho rõ ràng. Đúng là tình ngay lý gian nên tôi chẳng có cách nào thanh minh được. Hè năm đó, có cha Hoàng, cha sở họ đạo cũ của gia đình tôi đang ở Kontum ghé chơị Không biết bố mẹ tôi nói gì đó nên cha Hoàng lúc bấy giờ đang coi giáo xứ Tân Hương bảo tôi tháng sau Ngài sẽ trở lại đón tôi lên Kontum học và giúp đỡ việc nhà xứ, lo tưới cây, cắm hoa, giúp lễ trong nhà thờ... và sáng sớm chạy ra cuối nhà thờ kéo chuông nữa chứ.
Tình bạn của Lê và tôi vẫn không giảm mỗi dịp hè khi tôi được về nhà chơi nhưng lịch sử phá phách hay đụng chạm năm cô gái ác ôn cũng không còn, vì Lê đi học một mình đã chọn đường khác để về. Năm 1974, ba của Lê, bác Mỏng, thuyên chuyển, nên cả gia đình dời theo rồi chiến cuộc 1975 thì chúng tôi mất hết cả liên lạc. Tôi ở lại nhà luôn và đi học trường Minh Đức, bấy giờ đã đổi tên là Trường Trung Học Cấp III Pleiku, năm cuối cùng của bậc Trung Học.
Đường về từ Đức An tới Hoa Lư chừng một tiếng thôi, nhưng vì tôi lo nghĩ không biết giải thích sao chuyện tôi và Nhung nên cứ vẩn vơ lo nghĩ mãi mong cho đường dài thêm dù tôi rất mong sớm được gặp lại bố mẹ và anh chị em cũng như các cháu tôi. Nói nhăng nói hoa chẳng qua nói thật, Mẹ tôi thường bảo thế nên tôi quyết định nói thật để bố mẹ tôi định liệu về chuyện của Nhung. Thật ra Nhung và tôi chẳng có gì để định liệu cả, chúng tôi chỉ là bạn thân ra tay giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn thôi, nhưng tôi không muốn cả gia đình liên lụy hay có gì trục trặc nếu chẳng may có ai điều tra gì đó. Tôi chỉ muốn mọi việc đầu xuôi đuôi lọt chứ lỡ câu chuyện không ăn khớp, tôi nói gà, nhà nói vịt thì tiêu tán đường.
Bố Mẹ tôi hiểu và thông cảm. Bố nói:
- Giúp người như vậy là tốt, nhưng làm việc gì cũng vậy con phải suy nghĩ đến nơi đến chốn.
- Dạ, con hiểu. Con vội nên phịa ra chuyện đó để mọi người không nghi ngời thôi, chứ Nhung và con chưa nghĩ tới chuyện mai sau mà.
- Đành vậy, nhưng danh dự của con gái người ta mình không thể hời hợt được. Còn nữa, nhà nước bây giờ họ cũng ghê lắm. Mình cũng phải giả như có gì mới được. Ngày mai con lên bàn với gia đình má cô Nhung để bố mẹ lên thăm chiều Chúa nhật này, không phải là đám hỏi, hay đi dạm, mà chỉ là bình phong che mắt mọi người thôi xem gia đình Nhung nghĩ saọ Còn nếu hai đứa bay hợp thì bố mẹ cũng chẳng cấm.
- Đâu có đâu Bố, con đã nói với Bố Mẹ rồi là con sẽ không lập gia đình trước khi ra Đại Học mà! Chuyện đi dạy học của con chẳng qua là cố tạo dựng thành tích để gỡ chuyện di cư và tham gia chính quyền miền Nam của bố và anh Quân, anh Quốc đó. Năm rồi, con xin đi thi mà khóm, khu phố hay phường có ai chịu ký cho đi đâụ
- Con có chí vậy Bố Mẹ cũng vui lòng. Nhưng chuyện Nhung, bố mẹ phải lên gia đình Nhung thăm một lần mới được. Gia đình cô Nhung ra sao?
Tôi lại phải kể rõ về gia đình Nhung cho bố tôi, ba Nhung là đại uý đã bị đưa đi học tập lâu rồi mà không có tin tức gì, cả nhà cũng rất lọ Bà ngoại của Nhung đơn chiếc, nên hiện sống với con gái và các cháu, phụ giúp má Nhung coi nhà, trông các cháu khi má Nhung chạy vạy buôn bán bên ngoài...
Đêm đó tôi thức khuya nói chuyện với bố tôi. Tự nhiên tôi thấy tôi trưởng thành và chín chắn ra, thấy trên vai mình còn nhiều trách nhiệm, nhưng gánh nặng của tôi được giảm bớt vì tôi có một người cha hiểu biết, cảm thông và hiền từ. Tôi thầm nguyện cho Bố Mẹ tôi được sống đời, được hãnh diện nhìn thấy tôi đi đại học, ra trường và dấn thân làm việc phụng sự xã hội dù trong một hoàn cảnh rất khó khăn.
Chương 12
Tôi dành trọn cả ngày hôm sau đi tìm những thứ cần thiết cho hai người bạn vừa quen đang còn trốn dưới thác nước trong rừng. Vài chiếc cà mên vừa gọn để nấu ăn và di chuyển, ít lương khô, cá khô, thuốc lá khô, chiếc áo poncho để tránh mưa có thể để gói quần áo khi bơi qua sông để khỏi bị ướt... Những thứ ấy tìm mua cũng dễ dàng, nhưng tiêu luôn cả tháng lương dạy học ba mươi sáu đồng một tháng rồi. Điều đó cũng không quan trọng, nhưng khó khăn nhất là tìm cho được chiếc địa bàn nhỏ chỉ phương hướng để không bị đi vòng vòng mãi chẳng đi tới đâu. Vả lại Hoàng, Tuyết, Nhung cũng góp phần vào để tôi mua những thứ cần dùng cho anh Trung và anh Tâm. Cũng may tại thị xã, hầu như ai cũng biết tôi là giáo viên chuyên trách trẻ nhất trong tỉnh vì chút tài mọn trong việc nói năng giao dịch bằng tiếng Thượng của tôi nên chẳng ai nghi ngờ chuyện gì cả. Thực ra tôi học nói tiếng Jrai không phải chỉ để giao dịch, mà tôi thực sự yêu mến người dân tộc thiểu số theo gương các linh mục thừa sai đang dấn thân phục vụ tại các làng mạc xa xôi. Tôi chẳng có ý định đi tu, nhất là trong thời cuộc nàỵ Các chủng viện dòng tu chùa chiền hầu hết đã bị đóng cửa hay hạn chế không cho nhận tu sinh mớị
Năm tôi học lớp 12, tôi được học chung với chú Xảo, là tỳ kheo trụ trì một ngôi chùa ở Đức An. Pháp danh của chú là Đại Lượng, hiền từ và trắng trẻo như con gái. Chú hay mặc áo nâu sồng, hay áo màu xanh lơ bạc. Có lần cô Hồng Quế, giáo viên văn từ miền Bắc vào, hỏi:
-"Sao em lại đi tu, không ở ngoài đời, tham gia công tác với thanh niên? Có tình yêu, có gia đình như người ta"
Lúc đó, tôi là trưởng lớp nên ăn nói cũng bạo dạn, đứng lên bênh vực cho chú Xảo mà chẳng nghĩ tới hậu quả khi chú Xảo chỉ đỏ mặt mỉm cườị
-"Thưa cô, chú Xảo đang thi hành triệt để đường lối do Đảng và Nhà nước đề ra đó ạ! Em đọc sách thấy, Cách Mạng hô hào phong trào Ba Khoan ngoài miền Bắc đó! Khoan yêu, lỡ yêu thì khoan cưới, lỡ cưới thì khoan... có con." (Câu khẩu hiệu thật ra là: Khoan yêu, khoan cưới, khoan chửa, tôi sửa chữa lại vì trong lớp tôi thời ấy đông con gái hơn con trai, với lại nói tiếng chửa, có thai, thời trung học trước mặt bầy con gái, con trai còn thơ ngây trong trắng, nghe nó làm sao sao đó)
Cả lớp tôi cười vui, cô Hồng Quế cũng bỏ qua, bởi vì cô có lẽ đã ngoài ba mươi rồi, nhưng vẫn chưa yêu. Cô có nốt ruồi trên má, gần khoé mắt nên mặc dù khá đẹp, nước da hồng hào trắng trẻo, khác với những cô bộ đội da ngăm vì cháy nắng mà vẫn chưa chồng, có lẽ tại cái nốt ruồi quái ác mà các thầy tướng số cho là nốt ruồi, "Trích lệ thương phu", khổ về đường tình ái, có lấy chồng chồng cũng yểu mệnh chết sớm. Ông bà cha mẹ mê tín nào, trong Nam hay ngoài Bắc, dám cho con cháu mình cưới một người con gái có nốt ruồi đó đâu!
Tôi và chú Xảo thân nhau lắm. Chú biết tôi là người Thiên Chúa giáo, nhưng sự khác biệt tôn giáo không làm tình thân của chúng tôi giảm bớt phần nàọ
Cuối tuần nào cũng rủ tôi lên chùa chơi, nói chuyện. Trong lớp tôi, có mấy cô sùng đạo Phật lắm, nên tôi hay cùng họ lên chùa phá chú Lượng mỗi khi chú không lên phòng chính tụng kinh. Chúng tôi ăn cơm chay, chuối cúng. Chú Xảo lúc nào cũng ân cần với chúng tôi. Chú ở một mình, không có chú tiểu nào ở chung hết, dù có nhiều cha mẹ muốn gởi con lên chùa với chú, nhưng nhà nước không cho phép.
Hôm chủ nhật sau khi bố mẹ tôi đưa lên nhà Nhung ít hoa quả trái cây và dùng bữa cơm thân mật ở đó, tôi ghé lại thăm chú Xảo và kể lại những vui buồn đời giáo viên miền núi trong những ngày mưa gió, những lần lạc trong rừng... Chú hỏi tôi đi rừng có thấy những loại lan rừng không. Rừng nào chẳng có lan, nhất là trên những thân cây gần suối nước, hay trên sườn núi, có hơi nước là môi sinh cho những loại phong lan mọc. Vì vội vã nên chuyến này tôi chẳng đem về một gò lan nào! Tôi nói hôm trước tôi lùng mua hoài mà chẳng tìm đâu ra một chiếc địa bàn để tiện trong việc đi từ nơi này tới nơi khác của tôi.
Chú Xảo đi ra sau nhà lấy cho tôi một chiếc địa bàn nhỏ bằng mặt đồng hồ đeo tay, nói:
-"Quang cầm lấy cái này đi. Cái này từ thuở xưa, khi học khoá tìm phướng hướng của hội Hướng Đạo Phật Tử, Xảo còn giữ lại làm kỷ niệm. Quang giữ lấy mà xài!"
Tôi cảm động lắm, được cái này đối với những người bạn mới, anh Trung và anh Tâm, chắc quý hơn vàng. Nó giống như lá bùa hộ mệnh trong rừng rú hoang vu ít có bước chân người. Mọi sự cũng đều do cơ duyên. Tôi chạy xe đạp về nhà, ra trước hòn non bộ, chọn lựa một gò phong lan, rồi đưa lên cho chú Xảo. Chú vui trông thấy, vì gò hoàng lan đang ra nụ, chắc khoảng một hai tuần nữa hoa sẽ nở màu vàng thanh lợt hợp với cảnh chùa. Tôi hứa với chú là lần tới tôi sẽ tìm các loại lan khác nhau để cho chú trồng.
Tôi định chạy xe đạp về dọc theo con đường Hoàng Diệu, ghé lại thăm Ánh, bạn cùng lớp, nhà ở trước rạp cải lương Thanh Bình. Ánh có chiếc răng khểnh nói chuyện rất dễ thương đã làm mấy chàng trai trong lớp mê một thời. Vừa từ khu Đức An, quẹo ra đường Hoàng Diệu thì tôi gặp Hảị Có lẽ Hải lên nhà Nhung. Hải chạy xe qua phía tôi, hất hàm hỏi một cách lạ lùng:
"Ông từ nhà Nhung về đó hả?"
"Không, Quang tới nhà Nhung hồi trưa. Hồi nãy ra vừa từ chỗ chú Xảo về thôi. Có chuyện chi không?"
"Tôi nghe nói ba má ông lên nhà Nhung ăn hỏi chi đó nên tôi muốn lên hỏi Nhung cho ra lẽ thôi!"
Lại một bất ngờ, tôi biết là Hải thích Nhung từ xưa, nhưng Hải là gì mà có quyền lên hỏi Nhung cho ra lẽ. Nhưng chuyện giữa tôi và Nhung, đúng là tình ngay lý gian, nói ra không được, không nói không xong, nếu như giữa nàng và Hải thương nhau. Tôi im lặng, không nói gì, chờ xem phản ứng của Hải. Tôi cũng thấy lạ chỉ mấy tháng thôi, mà tình bạn học của chúng tôi như xa cách. Tôi thấy mình trưởng thành, chín chắn hơn, còn Hải vẫn bồng bột bốc đồng như thuở nào. Thời đại và cuộc sống làm con người đổi khác. Chúng tôi nói chuyện một tí rồi tôi từ giã vì ngày mai tôi lại phải lên đường về huyện, về quê hương đồi núi của tôi, tìm lại anh Trung và anh Tâm với những dụng cụ và lương thực cho chuyến Tây du của các anh.
Trước khi chia tay, Hải còn có vẻ hằn học:
"Tôi nói cho ông biết Nhung thuộc về tôi! Đã thuộc về tôi rồi!"
Đêm đó mặc dù khó ngủ vì những lời nói của Hải, những băn khoăn lo ngại cho những người bạn vừa quen, những thắc mắc về Nhung, nhưng tôi cũng ráng nằm thiêm thiếp để sáng mai còn lên đường. Kệ nó, chuyện gì phải đến sẽ đến! Tôi còn quá nhiều việc để lo làm sao có thể nát óc vì chuyện vẩn vơ của Hải. Nếu có gì thì Nhung sẽ báo cho tôi haỵ Chúng tôi chỉ là bạn bè giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn thôi. Buổi tiệc thân mật chẳng qua là để hai gia đình quen biết nhau chứ có phải đám hỏi gì đâu, nó giống như một màn kịch mà mọi diễn viên đều biết vai trò của mình. Tôi có yêu Nhung đâu, tôi còn có Du đang chờ ở trên làng Ea Blang, còn có những học trò, còn có những dân làng đang ngóng trông, có những giáo viên đang cần sự giúp đỡ và hướng dẫn.
Chương 13
Hôm sau, thật bất ngờ, tôi gặp hai chị em Nhung và Phượng ở trạm xe đò. Nhung đưa cho tôi một phong bì dầy cộm, dặn kỹ là chờ khi một mình trống vắng rồi hãy đọc. Phượng chỉ nhìn tôi cười, chúc tôi đi bình an và trở về khoẻ mạnh, dặn dò:
- Khi anh Quang về nhớ ghé lại thăm gia đình tụi em nhé!
- Còn phải dặn! Quang nhất định sẽ trở lại thăm mà!
Chúng tôi nói chuyện được một lúc thì chú công an Phiếm tới. Chú gật đầu chào chị em Nhung và tôi. Chú hỏi, "Trở lại huyện rồi sao?"
- Dạ còn được một ngày phép nữa, nhưng... em lên sớm để chuẩn bị. Chứ vừa lên đi dạy ngay mệt chết.
- Thôi ráng phấn đấu lên nhé! Việc gì khó có thanh niên! Khoẻ như các cậu thì phải xung phong vào những nơi gian khó!
Tôi cười, nghĩ thầm phải chi đổi chỗ, cho những người đã quen chịu khổ vào những nơi rừng sâu nước độc, còn cho lớp người mới chúng tôi tiếp tục học để sau này tiếp tục sự nghiệp cách mạng, đem những kiến thức khoa học ra xây dựng đất nước sau này thì có phải hay hơn không!
Cũng may mà chú Phiếm không tò mò xem xét trong ba lô và xách tay của tôi có đựng thứ gì, còn không thì khó mà giải thích. Tôi đi lên huyện sớm hơn một ngày để đi thẳng vào thác nước, không trình diện phòng giáo dục, để tránh những phiền phức bất ngờ có thể xảy ra.
Tôi đã sống cả năm trời dưới chế độ mới, đã hiểu phần nào những bất ổn thất thường, những chiêu bài tố cáo luận tội với chỉ một tí chứng cớ, hay hoàn toàn do vu khống. Linh mục quản xứ Thăng Thiên ở thị xã Pleiku, cha Nguyễn Trí Thước, đã bị rêu rao lăng mạ hằng ngày trên loa phóng thanh. Cha bị quản thúc 24/24 trong nhà xứ chỉ vì ôn hoà đòi lại các bất động sản của giáo hội. Tiền bạc quyên góp để xây nhà thờ chính đã bỏ vào xây dựng trường Minh Đức, bấy giờ đã bị nhà nước quản lý và đổi tên là trường Trung Học Cấp III Thị Xã Pleiku.
Hồi đó đang học lớp 12, sáng sớm nào anh em tôi cũng phải đi quanh vườn, quanh nhà, xem có gì khả nghi không, vì bố tôi đã từng đi tù cộng sản tại khu tư và làm việc với lực lượng Bảo An dưới thời tổng thống Ngô Đình Diệm, nên bố tôi thường nói phải cẩn thận với các mánh khoé có thể thành bằng cớ để người khác buộc tội mình. Có lần tôi thấy được một khẩu súng ngắn đã cũ nằm trong hàng rào của vườn nhà tôi. Tôi vội vàng lấy bao nhựa gói kỹ và liệng xuống mương nước mưa bên đường. Quả nhiên trưa đó một số du kích và công an đến nhà tôi, đi xục xạo trong vườn nhưng chẳng tìm được gì. Họ hỏi kỹ lắm nhưng bố tôi, đã già, cứ nhất mực nói là bố tôi chẳng biết gì! Tôi lúc đó ở trường học nên khi về nghe bố mẹ tôi kể, tôi sợ điếng người, nhưng việc tôi làm càng ít người biết thì càng dễ dàng cho mọi người.
Tôi ngồi trên mui xe đò đi vào huyện Chư Pah mà lòng băn khoăn với những điều tôi bất đắc dĩ dấn thân vào. Hy vọng là hai người bạn mới biết chịu khó chờ, và nếu có bị bắt học cũng không khai báo gì. Tôi nôn nao muốn gặp lại Du, tôi cũng bâng khuâng không ít khi nghĩ về Nhung, Hải, chú Phiếm. Hình như là chuyện tình tay ba, tôi đang đóng vai người thứ tư trước mắt mọi người. Cũng cảm thấy khó xử. Chủ quan mà xét, tôi thấy Nhung, và cả gia đình Nhung nữa, dành nhiều tình cảm cho tôi, nhưng chuyện tình yêu mấy ai mà rành rọt.
Tôi muốn mở phong bì của Nhung cho tôi để đọc ngay, nhưng đường đi gió bụi mù nên tôi giữ nguyên trong ba lô. Hành trang mới của tôi đó, một hành lý bí mật sẽ gắn tôi vào cuộc đời Nhung, Hải và chú Phiếm! Chiếc xe đó cứ dồng dềnh chạy trên con đường đất đầy ổ gà, bụi mù. Những hàng cây cúc quì vàng bên đường bị lớp bụi đất đỏ phủ lên hoa, lá trông đến thảm thương. Tôi mong một cơn mưa lớn rửa sạch lớp bụi đỏ, để cho hoa lá tươi sắc màu, để con đường hoa quì thêm đẹp và thêm thơ mộng.
Khi xe tới trạm dừng ở xã B 9 thì trời đã xế trưa. Tôi mặt mày lem lũ, khoác ba lô và xách tay đi vào làng Plei Nang, các thác nước chừng một tiếng đi bộ. Tôi là giáo viên chuyên trách ai cũng biết nên chẳng ai nghi ngờ việc đi lại của tôi. Tôi ghé lại chỗ cô giáo Hạnh, bạn thân của cô giáo Liễu, gởi lại cái xách tay, nói tôi sẽ ghé lại buổi tối hoặc sáng hôm sau, bây giờ tôi phải kịp lên làng khác.
- Quang lúc nào cũng bận! Sao không ở lại đây tối nay rồi mai đi được không?
Ở lại làm sao được khi có hai người có lẽ đang nôn nóng chờ tôi dưới thác nước. Thời giờ là vàng bạc, nhưng thời gian chờ đợi trong lo âu còn quí hơn ngọc ngà châu báu nữa, chậm một giây cũng có thể nguy cơ tới tính mạng mà. Tôi đâu nhẫn tâm để người ta phải sống trong cảnh hồi hộp đó. Càng rời nơi này sớm chừng nào hay chừng đó!
Tôi biết cô Hạnh muốn tôi ở lại chơi, để cô biên thư cho anh Đoàn, một giáo viên, đang dạy ở B 8, cách làng Nang khoảng 3, 4 tiếng. Để tránh sự nghi ngờ của cô Hạnh, tôi nói với cô:
- Thôi chị viết thư cho anh Đoàn đi, Quang chờ! Quang sẽ đưa thư cho anh, và tối nay ngủ tại đó. Sáng mai Quang về thế nào anh Đoàn cũng sẽ viết thư cho chị!
- Quang sao hiểu tâm lý người ta quá! Thảo nào không làm chuyên trách một cách mau chóng!
- Mèo mù đớp cá rán đó chị! Tại Quang may mắn học tiếng Thượng với anh Ít đó! Thầy giỏi thì trò nhờ đó!
- Để Hạnh nấu cơm chiều ăn xong rồi Quang đi!
- Thôi, khỏi đi. Quang chờ chị viết thư xong là đi, chứ không tối mất!
- Ừ vậy để Hạnh ngồi viết thư cho anh Đoàn liền!
Trong khi cô Hạnh ngồi viết thư, tôi đi vòng ra ngoài trường học, gọi là trường chứ thật ra chỉ là một phòng có bàn ghế thô sơ làm bằng cây bằng tre, nứa, đủ chỗ cho 30 người thôi. Ban ngày dân làng đi rẫy, mang theo các em, nên giáo viên siêng thì soạn giáo án, soạn bài lên lớp, hoặc siêng hơn nữa thì đi theo dân làng lên nương phụ làm với người ta, giảng giải về cách thức trồng trọt của người Kinh. Cái này tôi đã làm theo trực giác và đã rất thành công, chứ không đòi hỏi các giáo viên phải rập khuôn làm theo. Việc gì cũng vậy, mình phải tuỳ thuộc tình hình mà biến chế, canh tân. Ông bà chẳng phải nói, "Nhập sông tùy khúc, nhập gia tùy tục" đó sao?
Tôi ghi nhận sơ qua về tình trạng bàn ghế. bảng, lớp học, rồi trở lại nhà cô Hạnh. Cô Hạnh viết thư đã xong, mắt cô long lanh:
- Quang nhớ chờ anh Đoàn hồi âm nhé! Sáng mai về mà không có thư anh Đoàn, Hạnh nhéo Quang sứt tai!
- Trời ơi, chị nhờ người ta, mà lại còn hăm doạ nữa!
Cả hai giáo viên chúng tôi cười vang. Đàn chim đang đậu trước sân nhà giật mình tung bay vù lên câỵ Tôi vội vàng từ giã cô Hạnh, khoác ba lô chứa đầy những vật dụng, thức ăn cần thiết cho hai người bạn mới đang chờ dưới thác nước. Chắc giờ này họ đang nóng lòng chờ đợi, không biết là tôi có trở lại hay không? Tôi mong muốn họ được vạn sự bình an, tuổi thanh niên chúng tôi đã mất mát quá nhiều, tôi không muốn thấy tuổi trẻ của chúng tôi bị sa lầy trong tuyệt vọng. Phải có một lý tưởng để sống, cho dù đó là một sự ra đi bấp bênh, cho dù đó là một lý tưởng khó thành đạt, cho dù đó là một tình yêu trong cảnh khó nghèo, như những người bạn đồng nghiệp của tôi.
Chương 14
Tôi lầm lũi đi trên đường mòn, gọi là đường mòn vì đã có người đi trước thôi, chứ lối đi chỉ đủ một người đi. Nếu hai người đi chung, thì một người phải đi đằng trước, một người đi đằng sau, chứ không thể đi song song được. Cỏ cao vượt cả đầu, giống cỏ này theo người Thượng họ kể, xuất hiện từ thời Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam, nên họ đặt tên là cỏ Mỹ. Nó mọc nhanh, cao vượt cả đầu, trong vòng mấy tháng. Trong chiến tranh, du kích hay bộ đội không để ý, cứ tưởng ẩn núp trong những lùm cỏ này là an toàn thì lầm to. Đám cỏ này có thể che khuất bạn, tạo cho bạn một cảm giác an toàn sai lạc vì chúng là chất liệu dẫn lửa nhanh chóng một khi bom cháy (napalm) thả xuống hay những tay học lối hỏa công trong Tam quốc chí thì dẫu Tào Tháo có giỏi cũng chạy đàng trời.
Tôi rời đường mòn, rẽ xuống suối để đi tới thác nước, nơi giao điểm hẹn của tôi và các anh Trung, Tâm. Nắng chiều đã chênh chênh. Khi tôi tới lòng thung lũng, đi ngược lên tới thác nước thì bóng đã mờ vì cây cối trên cao che khuất, tạo một cảm giác gờn gợn trong tôi. Không biết các anh ấy ra sao? Có còn chờ tôi hay đã ra đi hay bị bắt rồi. Dù chỉ còn mười phút nữa là chúng tôi có thể gặp nhau, nhưng tôi thấy lòng hồi hộp chi lạ. Không biết có phải vì tôi đang làm một việc nguy hiểm cho nghề nghiệp hay đời sống bản thân của tôi không mà tim tôi tự nhiên đập thình thình hay vì linh tính báo trước cho tôi một điều gì sắp xảy ra.
Tôi hồi hộp quá. Thông thường, khi đi băng rừng lội suối một mình tôi không có cái cảm giác lạ này. Đã biết đây là lần đầu tôi làm một việc nguy hiểm, nhưng đây là một việc nguy hiểm có tính toán, với lòng trắc ẩn giữa con người với con người trong cảnh hoạn nạn, trước cảnh ngộ chung của đất nước. Tôi không thể bàng quan trước cảnh cần cứu mà không cứu. Tim tôi đập thình thịch. Nguy hiểm như rình mò đâu đây. Tôi nhìn quanh quất. Chẳng thấy bóng ai. Vẫn theo thói thận trọng có sẳn, tôi bỏ ba lô xuống, dấu trong bụi rậm, rồi ra cạnh suối, cởi quần áo để trên bờ, chỉ còn mỗi chiếc quần đùi, nhảy ào xuống suối.
Chỗ này, gần thác, suối mở rộng ra như một hồ con, nước không chảy xiết như phiá dưới khi giòng suối thu hẹp. Tôi định bơi nơi này năm mười phút rồi lặn xuống nước lại gần thác nước để vào điểm hẹn sau khi chắc chắn không có ai rình mò quanh đây. Tôi mà bị bắt quả tang với hai người vượt biên thì tiêu tùng chức vụ giáo viên chuyên trách, tiêu tùng tương lai, tiêu tùng hy vọng giấc mộng thi vào đại học để phục vụ quê hương sau này của tôị Nếu bị bắt, không bị bắn cũng bị cầm tù.
Tôi đang bơi thì đột nhiên có tiếng người gọi lơ lớ tiếng Thượng:
- Này anh kia, lên đây chúng tôi hỏi.
Giật mình tôi ngẩng đầu nhìn lên bờ. Ba anh bộ đội đang cầm súng AK lăm le trên bờ. Thì ra linh tính tôi đã báo trước những điều bất ổn. Tôi hít một hơi dài rồi thong thả bơi, tim đập rối bờị Tôi cố điều hoà hơi thở khi bơi vào bờ. Rồi bình tĩnh đứng lên đi tới gần khi tới chỗ nước cạn:
- Chào các anh, em tên Quang, không phải người Thượng. Em là giáo viên chuyên trách vùng nàỵ Đi công tác mệt nên ghé xuống suối tắm một tí trước khi đi lên B 8.
- Đồng chí có giấy tờ chứng minh gì không?
- Dạ có, để em lấy cho các anh coi, trong túi quần của em kia kìa.
Tôi đang định cúi xuống rút giấy tờ trong túi thì bị một anh bộ đội chận lai.
- Đứng yên, để tôi lấỵ
Hai anh bộ đội kia đứng kè kè với hai khẩu AK. Trời phù hộ làm sao đó, lúc này tôi đã hoàn toàn bình tĩnh để đối phó với bất kỳ hiểm nguy nào. Cứ bình thường trong hoàn cảnh này tim tôi loạn xa, mặt chắc xám ngắt không còn giọt máu, nhưng lúc này tôi tự nhiên không còn mảy may lo sợ nào. Việc gì đến sẽ đến không thể hồi hộp lo sợ tạo cho người khác nghi ngờ mình được, phải tuỳ cơ ứng phó thôi. Tôi nhủ lòng.
Anh bộ đội cúi xuống rút trong túi quần chiếc ví da của tôi, rút ra giấy chứng minh nhân dân có hình đã làm sau khi miền Nam bị tiếp quản. Hình chụp mới một năm nên vẫn còn giống y chang. Anh đưa cho hai anh bộ đội kia xem giấy chứng minh nhân dân của tôi rồi coi tiếp tờ giấy chứng nhận là giáo viên trong huyện Chư Pah, cộng thêm giấy chứng nhận tôi là giáo viên chuyên trách trong các xã B 8, B 9, B 10, B 11 và B 12 trong huyện. Hai tấm bài sai màu vàng nhạt có dấu triện của phòng giáo dục huyện đang nằm ở B 9 với chữ ký của anh Trần Quang Nhật khi tôi về thị xã đã đi bọc nhựa cẩn thận bây giờ trở thành bùa hộ mạng của tôi.
Ba anh bộ đội gật gù hỏi chuyện, hỏi tôi đã đi công tác bao lâu, đã đi những nơi nào trong vùng nàỵ Như trúng tủ, tôi thật thà nói hết. Tiếng Thượng bập bẹ thuở xưa của tôi giờ này như đã chuyên nghiệp có bao nhiêu tôi phăng phăng ra lác mắt ba anh bộ đội này. Tôi kể chuyện băng rừng vượt suối, đi từng làng tham quan và giảng dạy. Tôi hỏi:
- Các anh có phải đóng ở B 11 không?
B 11 có một căn cứ bộ đội hồi tôi ở làng Tung Reng đã ghé qua, giúp dân Thượng buôn bán gà. Lúc đó tôi có quen Thượng Uý Minh là C trưởng ở đó. C có lẽ tương đương đại đội, C trưởng giống như đại đội trưởng.
- Đồng chí biết căn cứ chúng tôi ở B 11?
- Dạ em có tới căn cứ đó cách đây vài tháng trước. Có quen Thượng uý Minh là C trưởng ở đó!
Một anh bộ đội vỗ vai tôi:
- Thế đồng chí là người nhà với bọn này rồi.
Tôi mừng rỡ hỏi:
- Chú Minh bây giờ khoẻ mạnh không?
- C trưởng ấy à, lúc nào đồng chí ấy chẳng khoẻ! Bọn tớ mới bổ xung, cho ít đồng chí về phục viên. C trưởng còn phải ở lại nên ông ấy bực mình lắm!
- Thì trước sau gì chú ấy cũng được về phép mà! Bây giờ thời bình rồi chứ đâu còn chiến tranh nữa mà lo không có ngày về.
- Chưa biết, đồng chí ạ Không chừng bọn mình phải vượt Cam-pu-chia! Tuần trước có một số đồng chí được lệnh đi tới bên giới Cam-pu-chia và Thái Lan để vẽ bản đồ chi đó. Nhà nước mình hoạch định kỹ lắm không biết bao giờ bọn mình mới được về Bắc lại.
- Các anh về không được, thì gởi thơ về đưa gia đình sang đây. Trong Nam đất còn rộng. lại phì nhiêu, gia đình các anh vào đây vừa tiện vừa có dịp vươn lên đó.
- Thì cũng nằm trong chương trình định cư của nhà nước. Đất trong đây màu mở mà chưa khai phá hết, uổng quá! Ngoài Bắc, cả tới nghĩa trang cũng trồng khoai, sắn... Trong đây phí thật!
Chúng tôi chuyện trò vui vẻ ngay cạnh bờ suối hỏi tên tuổi từng người. Ba anh bộ đội Lý, Tiến, Công đều mới gia nhập bộ đội trong năm 1975 trước chiến dịch Hồ Chí Minh, chưa kịp vào Nam thì tin chiến thắng đã về tới Bắc nên các anh cũng được thơm lây chứ chưa hề nổ súng hay thấy chết chóc trong trận mạc lần nào nên tính tình cũng còn hiền hoà. Tôi tìm ra nguyên do các anh ấy vì sao đi tới đây. Họ đi săn nai rồi bị lạc. Tôi mừng thầm.
- Đi săn nai mà các anh xuống suối này thì không xong rồi. Các anh phải đi về phiá B 8, đọc con suối Ea Rong, thoai thoải không thụp hẳn như ở đây! Đố nai nào xuống uống nước nổi ở đây.
Ba anh mừng rỡ ra mặt, hỏi kỹ tôi đường lối đi làm sao. Tôi chỉ nhưng họ cũng mù mờ. Tôi phân vân không biết có nên dẫn họ đi tới suối Ea Rong không, nếu đi thì có thể lấy thêm ít tin tức có lợi cho cuộc vượt biên của hai anh Trung và Tâm, và nếu đi thì có nên lấy ba lô đi theo không? Tôi quyết định:
- Trời chiều rồi, để em đưa các anh tới suối Ea Rong nha!
Tôi đưa ba anh ấy đi mà không ngoái lại nhìn cái ba lô của tôi đang dấu kín trong bụi rậm tí nào. Tôi còn kịp giờ để trở lại. Từ chỗ này tới Ea Rong chừng nửa tiếng, nửa tiếng đi lại đây vẫn còn kịp chưa tối. Không chừng đêm nay tôi phải nằm ở lại đây, lại phải một đêm hồi hộp nữa. Đã phóng lao thì phải theo laọ Tôi hăng hái vui vẻ dẫn ba anh Lý, Tiến, và Công đi Ea Rong.
Chương 15
Đi săn là một kỳ thú. Ở các nước tiên tiến, có luật lệ đàng hoàng. Đi săn phải có giấy có giấy phép và phải theo đúng mùa để hạn chế việc giết thú vật. Ở Hoa Kỳ, mỗi người chỉ được phép bắn chết hai con nai trong một năm, mặc dù nếu biết đường đi của nai, thợ săn có t hể rình rập mỗi đêm bắn hoài chẳng hết. Nhờ vậy mà nai hoãng sinh sôi nảy nở khá nhiều. Có những nơi nai hoãng quá nhiều ban đêm đuổi nhau chạy nhảy vượt cả xa lộ đụng cả vào xe hơi gây án mạng nên trên những nơi thường có nai hoãng chạy qua, đều có bảy báo hiệu canh chừng với hình con nai vươn vó nhảy với hàng chữ "Lối Nai Qua" (Deer Crossing).
Ở Việt Nam bấy giờ chưa có luật săn, ai có súng, gần rừng thì cứ vào rừng mà săn, săn thỏ, săn nhím, săn khỉ, săn heo rừng, săn nai, săn trâu rừng,săn hổ để lấy da và xương nấu cao hổ cốt, cũng như bất cứ mọi giống gì có bốn chân, có khi săn cả voi.
Săn voi thì phải nhiều người đi cùng và có người quản tượng cỡi voi đã thuần thục để đuổi. Thịt voi dai nhanh nhách ăn không ngon nên thỉnh thoảng người thượng mới săn voi một lần. Vì voi không đẻ hằng năm, voi có bầu cả ba năm mới sinh.
Săn hổ thì đem dê heo cột vào một gốc cây dùng cành cây chắn lối vào ở ba bên chỉ để một lối đi và đdào một hầm sâu có đặt chông để khi cọp rơi xuống thì bị chông cắm chết hoặc bị thương không thể nhảy lên được rồi phủ cỏ lá lên trên mặt hầm. Dê heo rừng đêm khuya hoặc do sợ hãi vì chỗ lạ, hoặc do bẩm tính thiên nhiên biết đánh hơi cọp réo la sợ hãi. Cọp nghe và đánh mùi được lại gần thế là rơi xuống hố.
Thường khi đi săn đêm với đèn pin gắn trên trán để tìm thú vật vui hơn vì khi mình ngó quanh hễ đèn pin bắt được đôi mắt nào thì phản chiếu lại ngay. Phải cẩn thận, mở cò súng, và nhắm bắn cho nhanh. Nếu gặp đôi mắt đỏ thì phải tìm một gốc cây gần đó vì mình đã gặp ông thần rừng rồi. Hễ âm thanh vừa phát ra là ông ba mươi theo bản năng tự vệ sẽ phóng tới. Người thợ săn không rành rẽ sẽ bị cọp giết chết. Người rành thì núp sau gốc cây để khi cọp phóng tới đụng thân cây mà chết. Thông thường nếu mình không làm gì, cọp sẽ tự động bỏ đi.
Heo rừng ở cao nguyên rất nhiều, mùa săn heo rừng thường là dịp mùa lúa mùa khoai sắn. Đi săn heo rừng phải cẩn thận, bắn phải trúng ngay đầu cho heo rừng chết ngay. Có một lần tôi gặp một người thượng đã bị heo cắn nát cả chân. Hỏi chuyện ra thì còn kinh khủng hơn. Anh ta đi săn cùng một người khác. Cả hai bắn một con heo rừng to, heo không biết vì sao không chết. Các anh theo vết máu rơi trên đất để tìm. Bất ngờ con heo bị thương nấp ở đâu đó phóng tới húc chết một người bạn đồng hành rồi tấn công anh ta. Lúc heo tấn công anh bạn, anh này đã hoảng hốt không dám bắn vì sợ lạc đạn, đến khi heo giết chết anh kia chỉ trong chốc lát rồi nhào sang anh cắn chân thì anh chỉa súng bắn chết con heo rừng.
Săn nai thì khoẻ hơn. Nếu là mùa khô, thì ra vùng cỏ tranh đã bị đốt cháy. Ban đêm nai thường ra đó để ăn tro vì tro có vị mằn mặn thay cho muối. Còn những khi khác nên tìm đồng cỏ hoặc dọc theo con suối thoai thoải vì nai xuống uống nước.
Suối Ea Rong là nơi lý tưởng để săn nai. Tôi đã có dịp đi săn đêm với dân làng. Đêm đó chúng tôi ba người bắn được ba con nai cùng một lúc vì nai thường đi theo đàn. Ba con nai nhìn ánh pin như bị ăn đèn cứ đứng sững nhìn chúng tôi. Như cùng hẹn chúng tôi cùng nổ súng một lúc và giết được cả ba. Ba con nai to thì đố mà khiêng nổi, chúng tôi khiêng một con về, còn hai con kia kéo vào lùm cây dấu đi, rồi sáng hôm sau gọi dân làng ra khiêng về.
Người Thượng có một phong tục rất hay là khi giết được những thú vật lớn như heo rừng, nai đều chia đều cho tất cả đầu người trong làng từ lớn tới bé không trừ một ai, người săn thì được giữ thêm cái đầu và đuôi còn phần chia cũng như phần chia của bất kỳ người nào. Săn thỏ hay những giống vật nhỏ thì được giữ hết.
Tôi vừa dẫn ba anh bộ đội trẻ vừa kể chuyện săn vừa hỏi tình hình biên giới để biết đường giúp đỡ anh Trung và anh Tâm. Nói chuyện quên cả nỗi lo, bốn người chúng tôi đến gần suối thì tôi dơ tay suỵt nhỏ bảo mọi người nằm xuống. Gần suối có một con nai to đang ngẩng lên nghe ngóng. Chúng tôi đang ở đầu gió nên bị nai đánh hơi phát lộ.
- Nằm yên, lên đạn sẵn sàng!
Cả ba anh bộ đội cùng nhắm, tôi nói khẻ:
- Nhắm bắn vào ngay trán!
Cả ba anh ríu rít nghe tôi như đợi tôi ra lệnh. Mọi người ra dấu đã sẵn sàng. Tôi nói:
- Bắn!
Tiếng súng như vang cùng một lượt chát chúa vọng trong rừng chiều. Con nai quỵ xuống vì phải đạn. Chúng tôi lại gần xem thì chỉ có một phát đạn ngay trán, còn hai viên kia đạn lạc đi săn chim. Chúng tôi cất tiếng cười vang vì chẳng cần biết ai bắn trúng ai không, ba hai thơ săn làm nhiệm vụ kiếm ẩm thực đã hoàn thành sứ mạng.
Anh Lý la lên:
- Mẹ ơi, con nai to thế này thì cách gì đưa về tới căn cứ được!
Tôi cười:
- Một là cắt con nai ra làm ba, hai là cột chân nai lại, rồi chặt một cành cây to dài, rồi thay cứ hai anh một lượt khiêng về chứ còn cách nào nữa.
Tôi mượn con dao trên ba lô của anh Tiến đi tìm một cây thon dài chặt xuống làm đòn gánh để họ khiêng nai về. Khi trở lại thì ba anh đã cột chân nai sẵn sàng. Xỏ đòn cây vào và hai gánh ghé vai gánh lên:
- Chao ơi, gánh con nai khỉ này về tới căn cứ thì hai vai chắc tê rần! Có cách nào khác không?
- Có một cách khác là nhờ dân làng đó! Nhưng các anh phải trả công họ bằng một đùi nai hay một gì đó giá trị tương đương.
- Thôi, đồng chí Quang đi với bọn mình đi!
- Em cũng muốn giúp các anh nhưng em còn phận vụ của em mà! Phải chi gần thì được. Từ đây đi tới đó mất cả hơn 4 tiếng đi người không! Với con nai to kềnh càng này, các anh đi nhanh, cũng phải mất sáu tiếng!
Ba anh năn nỉ:
- Đồng chí đi với bọn mình đi. Con nai đẹp thế này mà mất một phần tư sao được. Còn trả công họ à, bọn mình chỉ có áo quần chưa đủ mặc chứ có lương lậu gì đâu mà trả.
Tôi do dự nghĩ tới anh Trung và Tâm, nghĩ thầm, "Nhất định mình không thể đi với họ được!" Tôi bèn nghĩ ra một cách khác:
- Các anh bỏ ra mỗi người năm viên đạn được không? Tất cả là 15 viên?
Họ nhìn nhau như dò hỏi, anh Công, tuổi lớn nhất trong ba anh bộ đội nói:
- Được thôi, mình về căn cứ đòi các đồng chí khác mỗi người một viên là không những đủ mà còn có lời!
Tôi cùng ba anh thay nhau khiêng con nai tới làng Ea Rong. Làng Thượng ở gần con suối nào thường mang tên của con suối đó! Tôi vào tìm mấy anh du kích Thượng nhờ họ giúp đỡ ba anh bộ đội này. Đạn thời bình qúi giá vô cùng. Mười lăm viên đạn có thể thành 15 chú nai hay 15 chú heo rừng nên việc tìm hai người Thượng gánh nai cho ba anh chẳng khó. Tôi bày mưu cho du kích, "Các anh đừng đi theo đường rừng, vừa mệt, vừa lâu! Chi bằng gánh ra đường B 9 cách đây chừng hơn một tiếng, đi bộ dọc theo đường xe, may ra có xe bộ đội nào đi lên đó, mình nhờ, vừa đỡ mệt vừa có đạn! Lần này, người Gia Rai là con thỏ và người Kinh là con cọp!"
Đám du kích cười ha hả vì đã từng biết tôi hay đùa với những câu thành ngữ của họthay vì "Nah Yuan topai, nah Jrai amôông!" tôi trại ra, "Nah Jrai topai, nah yuan amôông!" Ba anh bộ đội ngạc nhiên nhìn nhau không hiểu gì, tôi giải thích, "Em đùa với họ thôi, họ đồng ý rồi! Mười lăm viên đạn là mười lăm con nai tương lai đó mà!"
Thế là không những có cách thoát khỏi phải đưa các anh bộ đội về, tôi còn tìm được bốn du kích thay phiên nhau gánh con nai ra đường lộ\. Ba anh bộ đội cám ơn tôi rối rít, bảo tôi nhớ lên thăm các anh khi tôi có dịp. Tôi nói:-- Cho Quang gởi lời thăm thủ trưởng C của các anh nhé! Nhất định em sẽ lên thăm đó!
Chương 16
Chờ du kích và bộ đội đi khuất rồi, tôi vội vàng đi liền, không ghé lại thăm thầy Đoàn, vì thư của cô Hạnh nhờ chuyển tôi để trong túi ba lô còn nằm trong bụi rậm. Tôi không muốn giải thích gì nhiều với thầy Đoàn hay cô Hạnh sau này. Càng ra khỏi làng Ea Rong này càng sớm càng tốt. Cũng may mà thầy Đoàn ngoài giờ dạy thường nằm ngủ chứ không đi đây đó như các giáo viên khác hay tôi, chứ không thì giờ này thầy đã hỏi tôi về cô Hạnh rồi.
Thầy Đoàn và cô Hạnh gặp nhau đầu chiến dịch Xóa Nạn Mù Chữ này. Cô Hạnh khoẻ mạnh bao nhiêu thì thầy Đoàn yếu bấy nhiêu, như thể là luật bù trừ\. Thầy Đoàn bị bệnh suyễn, lâu lâu ngực tức, thở không được. Tôi có lần muốn chuyển thầy về gần chỗ cô Hạnh, để hai người nâng đỡ nhau, nhưng đề nghị bị bác bỏ. Phòng Giáo Dục sợ chuyện trai gái chung đụng làm xao lãng nghĩa vụ. Tôi không hoàn toàn đồng ý, nhưng tôi chưa làm chuyên trách lâu, nên đành chịu, không thể làm cách nào khác hơn.
Tôi không muốn bị khiển trách sau này, "Đã bảo mà, để họ ở gần nhau bây giờ có bầu rồi cậu tính sao?" Mất một giáo viên trên vùng xa hẻo lánh này tìm đâu một người khác thay thế? Tôi thường nhủ thầm, phải tìm cách để giúp đỡ mọi người hoàn thành công tác một cách mau chóng và đạt chỉ tiêu.
Trong điều kiện đất nước vừa giải phóng, tôi dù là giáo viên chuyên trách được phòng Giáo Dục huyện tin tưởng, nhưng vẫn là thành phần khả nghi gia đình tham gia "ngụy quân và ngụy quyền" và là "dân đuổi Pháp quá đà" như anh trưởng phòng Giáo Dục thường bảo. Tôi thường chống chế nói rằng, "Việc đuổi Pháp quá đà là do bố mẹ em, chứ em sinh trong miền Nam! Không lẽ khép tội cha mẹ lên con cháu?"
Có khi hăng máu hơn, còn nói thêm một cách khù khờ, "Đảng và Nhà Nước bây giờ chí công vô tư đâu có vạch lá tìm sau, vạch rau tìm vết ai đâu!"...
Trở lại con đường xuống thác tôi cũng lo lo thế nào ấy. Không biết có gặp lại anh Trung và anh Tâm không hay là họ đã đi rồi. Đi mà không cẩn thận thì thế nào cũng gặp các anh bộ đội trinh thám biên giới. Phải dặn các anh ấy cẩn thận lắm mới được. Tôi nhủ lòng và thầm mong cho các anh ấy vẫn còn chờ đợi. Theo đúng hẹn thì ngày mai tôi mới tới, nhưng sốt ruột lo cho các anh đi càng sớm càng tốt, chần chừ hoài sẽ càng dễ dàng bị thất bại, ra tù vào khám như chơi.
Tới gần thác, tôi rời con đường mòn và đi xuyên vào rừng thoai thoải bên triền dốc dẫn xuống suối. Đang lùi nhủi đi xuống, bầy chim mũ trắng ầm ĩ vang lên báo hiệu có người. Tôi giật mình, tim đập thót lên. Sau khi đứng lại hít những hơi thật dài và từ từ thở ra thật chậm tôi lấy lại chút bình tĩnh. Phải xuống thác chiều nay thôi, trước khi mặt trời lặn. Mặt trời lặn rồi thì đố mà tìm được lối đi an toàn trong khu vực này, rắn rết, vắt, đỉa...
Xuống tới bờ suối, tôi nhìn quanh quất và liếc về phía bụi rậm. Ba lô của tôi vẫn còn đó, may quá đi thôi! Tôi ngồi xuống, gập mình tập thể dục cho ấm cơ thể rồi cởi quần áo ra để trên bờ, chỉ còn mặc duy nhất cái quần xà lỏn, nhảy tùm xuống nước và bơi ngược lên chỗ thác đổ để leo vào hang, chứ không dám đi lên sợ bị phát giác. Bơi thì đỡ sợ bị tình nghi hơn, có ai gặp thì coi như tôi đang bơi đang tắm thôi.
Lặn sâu xuống nước bơi hẳn vào đằng sau giòng nước đổ, tôi trồi đầu lên nhìn quanh cho mắt quen với ánh sáng lờ mờ sau làn nước. Tôi bơi gần bờ rồi leo lên mép hang. Nước đổ ầm ầm, quanh tôi chỉ là tiếng nước đổ.
Dụi mắt một hồi khi tôi lẩn vào hang rộng mờ tối sau thác nước, tôi liếc nhanh một lượt. Hang mờ tôi chẳng thấy bóng ai, giật mình lo sợ họ đã vội vã đi rồi. Đỡ gánh lo cho tôi nhưng tương lai họ có thoát được dễ dàng không lại là một chuyện khác.
Tôi tiến vào sâu hơn trong hang, thì thình lình hai bóng đen chồm lên vật ngã tôi xuống đất.
- Mẹ kiếp, làm gì vậy?
Tôi la lên khi nhận ra hai bóng đen đó chẳng ai khác hơn là anh Tâm và anh Trung!
Hai anh cười xòa xin lỗi rối rít nói rằng hồi chiều đã thấy tôi bị bộ đội dẫn đi, hai anh định sáng ngày mai sẽ rời khỏi nơi đây, chứ nhất định không ở thêm một ngày. Họ đã thích nghi với đời sống rừng rồi, không còn là thanh niên thành phố nữa. Sự quyết tâm ra đi của họ đã giúp họ học hỏi thích nghi với núi rừng thiên nhiên, câu cá hái lá cây rừng để tạm sống qua ngày...
Tôi xuống thác lặn sâu rồi bơi xuôi theo giòng suối. Sau khi quan sát bốn bề không thấy có gì khả nghi, tôi mặc quần áo lại và vào bụi rậm lấy chiếc ba lô đầy những thứ cần thiết cho anh Trung và anh Tâm. Tôi vội vàng đi vòng lên sau ghềnh thác và chui vào hang, tim cứ đập thình thịch. Đúng là hành động lén lút lúc nào cũng sợ bị bắt quả tang! Tôi phải mau chóng dặn dò và chỉ cách xử dụng mỗi thứ trong chiếc bao lô này rồi chuồn cho mau càng sớm càng tốt!
Tối nay tôi phải ghé lại làng Ea Rong thăm thầy Đoàn, rồi sẽ đọc tờ thư dầy cộm của Nhung, trong khi chờ thầy Đoàn hồi âm cho cô Hạnh. Tôi cũng lo lo nhớ nhớ Du, không biết giờ này nàng ra sao trong làng xa...
Chương 17
Trong khi mở ba lô lấy ra những thứ chúng tôi đã sắm sửa cho cuộc hành trình của anh Trung và anh Tâm, tôi dặn dò các anh phải cẩn thận và bình tĩnh trong cuộc ra đị Hai kẻ thù dẫn tới sự thất bại là sợ hãi và tự mãn. Sự sợ hãi làm tê liệt trí óc, vô hiệu hoá khả năng suy nghĩ của con ngườị Còn sự tự mãn làm cho ta hớ hênh, khinh thường kẻ địch hay trở ngại khiến con người thất bại không ngờ.
Trường hợp các anh," tôi giải thích, " tự mãn có thể là khinh thường sơn lam chướng khí, uống nước suối không cần nấu sôi để bị ngã nước, sốt rét một cách không cần thiết, hay đi ngang ruộng rẫy của người Thượng, cứ bẻ bắp, hái bí bầu một cách cẩu thả, để lại dấu vết một cách quá rõ rệt, khiến họ phát giác ra ngay và thông báo cho du kích đi truy lùng kẻ hái trộm..."
Tôi nói chưa dứt thì anh Tâm ngắt lời tôi,
--Quang à, triệu chứng của sốt rét ra saỏ Hôm nay Tâm thấy lạnh quá mặc dù mồ hôi nhễ nhại!
--Chết rồi, để Quang xem. Mấy hôm nay các anh có nấu nước sôi không?
Anh Trung lên tiếng khi tôi nhìn kỹ và sờ trán anh Tâm:
--Từ lúc Quang dặn hôm trước, bọn này lúc nào cũng nấu sôi! Trước đó, thì đụng đâu, uống đó!
Tôi nói với anh Tâm:
-- Tròng mắt anh có màu vàng, trán nóng, bây giờ anh thấy trong người ra sao
--Lạnh, răng muốn run cầm cập. Tưởng đó là phản ứng khi nhìn thấy Quang bị bắt!
-- Anh đang bị sốt đó! Các anh chưa thể đi ngày mai được đâu! Tạm thời phải ở lại đây, chờ anh Tâm khoẻ đã. Cũng may Quang có mang cho các anh ít thuốc ký ninh! Để bớt lạnh, anh có thể vò lá cúc quỳ non rồi bỏ vào miệng nuốt. Nó đắng lắm nhưng chừng vài phút sau là có công hiệu ngay! Cái này Quang học ở người Thượng.
Tôi nhìn hai anh lo ngại:
--Hay hai anh trở về, Quang có thể dẫn hai anh đi ra mua vé xe về không có gì trở ngạị Chỉ không biết ở địa phương các anh ra sao thôi, chứ xe từ đây về thị xã không có ai kiểm soát giấy tờ gì cả. Nếu cần Quang có thể làm cho các anh mỗi người một giấy chứng nhận giáo viên miền núị
Anh Tâm nói:
--Bọn này quyết tâm rồi, phải đi thôi! Không thể về được!
Tôi không hỏi tại sao, vì thấy sự quả quyết trong giọng nói của anh Tâm. Mỗi người đều có những nguyên do cho mọi việc mình làm mà chỉ có người làm mới hiểu rõ được. Tôi thấy mình đã liên quan tới các anh cũng quá rồi, không muốn làm phiền các anh. Nếu nhất định bảo các anh về rồi các anh bị bắt thì tôi chẳng biết xử trí ra saọ Mà biết thêm mà không giúp được cũng làm tôi ái ngạị Tôi nói:
--Thôi tạm thời các anh ở lại đây mấy ngày, chờ anh Tâm khoẻ đã rồi đi! Quang sẽ ghé lại thăm khi có thể, các anh tránh ra ngoài nhiều, chiều tối đi cắm câu, rồi sáng sớm đi lấy lên! Tránh ra ngoài từ khoảng 8 giờ rưỡi sáng đến 5 giờ chiều, vì lúc đó có thể gặp người đi săn. Nhớ chắn chỗ nấu bếp với 2 tấm poncho Quang mua cho các anh. Ánh lửa dễ làm bị lộ....
Lấy ra hai bi đông đựng nước, tôi dặn thêm:
--Bao giờ các anh cũng cần có hai bình nước nấu chín để nguội dùng trong ngàỵ Khi đi đường, uống mỗi lần một ít mỗi khi khát. Đừng uống nhiều, đi không nhanh và nhiều khi hết trước khi gặp suối nước. Tránh chỗ nước đọng, nên lấy nước suối chảy mà nấu sôị Lá cây rừng lâu năm rụng xuống có thể có chất độc, nước chảy thì đỡ độc hơn nước ao tù vì chất độc tích tụ. Trong rừng cũng như trên biển nước uống có thể quí hơn vàng đó, các anh phải cẩn thận nấu mang theọ
Anh Trung nhìn tôi nói:
--Quang rành về đường rừng quá! Hay Quang đi với bọn này đi!
Tôi lắc đầu:
--Quang chưa hề nghĩ tới chuyện đi, mà có nghĩ thì bây giờ cũng không thể đi được. Nhiệm vụ của Quang, không hẳn do nhà nước chỉ định, mà do chính bản thân đặt ra! Quang không thể đi đâụ Có điều Quang biết chi, thì trong thời gian còn lại Quang chỉ cho các anh biết, may ra giúp các anh thành công.
Anh Tâm nói:
--Ở lại, Quang cũng không làm được gì đâụ Suy nghĩ kỹ rồi nếu được Quang đi với bọn nàỵ Sang tới trại tỵ nạn bên Thái Lan, Tâm liên lạc với bà con ở Mỹ bảo lãnh cho cả ba anh em mình!
Tôi cười:
--Quang nói không được mà! Cám ơn anh! Chỉ mong anh mau khỏi để ra đi cho sớm. Hai anh ở đây ngày nào thì Quang cũng lo ngại ngày đó! Không những chỉ lo cho hai anh mà cho cả Quang và những người quen biết!
Tôi từ giã hai anh khi trời bắt đầu sẫm tối để về tới làng Ea Rông chỗ thầy Đoàn trước khi trời tối hẳn. Tôi còn muốn nói nhiều về các thứ rau rừng, trái rừng có thể ăn được, như rau mò lá xanh có hoa màu đỏ, rau giang vị chua chua, rau bột ngọt leo dùng nấu canh, hoặc xào với thịt cho thêm vị ngọt và làm thịt mềm giống như công dụng của bột ngọt mà tôi đã học được khi ở với người Thượng hoặc khi nói chuyện học hỏi với các anh bộ đội trinh sát. Tôi nghĩ thầm, "Bệnh anh Tâm thì phải ba bốn ngày nữa mới may ra bớt, hôm nay mới ngày đầu, anh ấy còn phải sốt hai ba hôm nữa mới giảm được, phải chi mình có nghệ vàng và mật ong thì đỡ!"
Mật ong tương đối còn dễ kiếm trong làng để mua, nghệ vàng thì phải về Phòng Giáo Dục tôi có trồng một ít còn non chưa già. Nghệ vàng pha với mật ong có thể làm thuốc bổ dùng với thuốc ký ninh để trị bệnh sốt rét, chứ không dứt nọc được. Vi khuẩn sốt rét vẫn nằm trong cơ thể một khi mình đã mang bệnh đó, mỗi khi cơ thể yếu là chúng xông ra tung hoành. Tôi mang theo một số thuốc rê, lá thuốc lào phơi khô từng bó, trong ba-lộ Tôi quyết định đi nhanh để kịp dự lớp tối của thầy Đoàn và nhân tiện hỏi những học viên trong làng xem ai có ai có mật ong không để tôi đổi, còn nghệ thì tôi chạy sang một làng xa hơn một chút nữa có cô Mai là giáo viên bổ túc hy vọng cô cũng như các cô khác có ít nghệ dùng để thoa mặt. hay vết thương để giữ da mặt nhẵn nhụi và không có vết thẹọ Dù đi nhanh, nhưng tôi vẫn không quên tìm những cây lá quen thuộc để bứt một ít làm mẫu cho các anh Trung và Tâm.
Chương 18
Khi tôi tới bìa làng Ea Rông thì trời đã sẩm tối. Thông thường thì giờ này lớp học đã gần xong, các giáo viên trên vùng cao tranh thủ lúc trời còn sáng để dạy học trước khi trời tối hẳn. Ở làng Thượng, những đêm trời không trăng, thì trời tối mịt, đi lại cũng khó khăn. Có đi đâu, phải cầm thanh củi cháy đỏ hồng đưa qua đưa lại để biết mình đi đâu và cũng để báo hiệu người khác thấy. Nếu có đèn pin thì còn gì tốt đẹp hơn! Chỉ có những giáo viên dự liệu sẵn mới mang theo những thứ tầm thường mà thật cần thiết đó, nhưng dè sẻn chỉ dùng tới khi thật cần vì pin thời đó cũng khan hiếm.
Tôi đi thẳng tới trường chứ không ghé lại nhà thầy Đoàn ở vì đoán chắc thầy Đoàn đang dạy trên lớp. Khi tôi tới thì các học viên đang lập lại những câu thầy Đoàn đã đọc, có in sẵn trong sách, và thầy viết lại trên bảng. Bảng đen không phải bằng gỗ mà là tấm nhựa đặc biệt cắt ra dài 2 thước rộng 1 thước rưỡi. Khi đi tới một làng, các giáo viên được cấp 1 bảng đen, cuộn tròn rồi cột ngoài ba-lô. Dọc đường nếu không có chiếu họ có thể trải ra dưới bóng mát một tàn cây để ngồi hoặc nằm nghỉ.
Những bài học này nhắm vào người Kinh nhiều hơn là người Thượng nên nặng về chính trị sơ cấp hơn là nhắm vào người Thượng đầu óc đơn sơ mộc mạc, gần gũi với núi rừng. Tôi thường nói các giáo viên cần linh động, cứ làm theo đúng giáo án, mỗi ngày một hay hai bài đã có sẵn trong sách, nhưng nửa lớp sau nên viết thêm những gì mắt thấy tai nghe hay những gì cụ thể dân làng có thể lãnh hội được thay vì những ý thức chính trị cơ bản không ăn nhặp gì tới đời sống của dân làng. Ý thức chính trị dù cơ bản nhưng cũng rất trừu tượng mà ngôn ngữ Thượng chưa đủ để diễn tả như Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Thỉnh thoảng cũng có những học viên rất nhạy bén và tò mò muốn hiểu hết ý nghĩa của những bài học, thay vì chỉ lập lại, học thuộc lòng như con vẹt, chỉ cần nhận ra mặt chữ, hỏi những câu tôi cũng ngập ngừng không thể giải thích cho họ vì vốn liếng ngôn ngữ Thượng của tôi chưa đủ hay trong ngôn ngữ của họ chưa có những từ ngữ đó. Có lần họ hỏi tôi, "Thế nào là dân chủ?" khi học tới, "Nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý!"
"Dân chủ làmọi quyết định đều do dân đưa lên, dân làm chủ qua những người đại diện, đại biểu mà dân đã bầu, mà người thi hành những quyết định đó là nhà nước, là cán bộ"
"Thế chúng tôi muốn sống di chuyển như cũ có được không?"
Theo lối sống trước kia của người Thượng, họ cứ sống ba năm một chỗ rồi di chuyển đi chỗ khác, để cho gần với nương rẫy. Trồng trọt ba năm một chỗ, không biết và không dùng tới phân bón nên đất thành cằn cỗi sau ba năm. Năm đầu họ phá rừng, đốt cây, than tro thành phân bón thiên nhiên nên lúa màu mỡ sai hạt, sắn bắp thì củ và trái to. Họ chưa biết làm vồng trồng khoai lang ở những nơi mà tôi đã đi qua. Tôi là con nhà nông, nên hay chỉ họ những gì mà tôi biết, cũng theo trực năng mà thôi. Khoai lang có nhiều điều tốt, lá có thể luộc chấm nước mắm hay muối, củ có thể nướng hoặc luộc, phơi khô để dành... Ăn khoai lang giúp tiêu hoá, giây khoai lang già có thể cắt nấu cho heo ăn...
Thầy Đoàn thấy tôi vào cuối lớp gật đầu chào, khi các học viên nhao nhao gọi tôi, "Nai Pơ tho Quang! Dạy học đi!"
Thầy Đoàn đi xuống, nói với tôi, "Đoàn dậy tối nay xong rồi đó, Quang dạy giùm phần cuối nha! Mấy hôm nay, cơn suyễn hành, mệt quá!"
Tôi lo lắng, "Có nặng lắm không? Anh có uống thuốc gì chưa?"
"Thuốc thì mình vẫn uống, nhưng mấy hôm nay trở trời thấy mệt hơn!"
"Vậy anh về trước đi, chút nữa Quang ghé!"
"À, aanh Đoàn," tôi vội rút thư của cô Hạnh từ ba-lô đưa ra cho anh khi anh chuẩn bị về, "cô Hạnh gởi thư cho anh!"
"Cám ơn Quang!" Anh Đoàn nói mắt sáng lên mừng rỡ.
Khi anh Đoàn ra khỏi lớp, tôi hỏi các học viên, "Hôm nay đồng bào muốn học gì đây?"
"Con nai!" Họ nhao nhao nói.
"Con nai?" Tôi hỏi lại.
"Con nai bộ đội bắn đó!"
"À, được rồi! Để tôi nghĩ một lát!" Tôi suy nghĩ làm sao phải viết cho vần, dễ thuộc rồi cầm phấn viết trên bảng:
Con nai khát nước
Xuống bờ suối trong
Súng nổ cái đùng
Con nai ngã gục
Bộ đội nhìn nhau
Họ đều lắc đầu
Con nai nặng quá
Khiêng chẳng được đâu
Vào gọi dân làng
Chia chút được chăng
Lắc đầu không được
Thì thôi chẳng màng
Bộ đội năn nỉ
Giúp cho một tí
Đạn dược chia nhau
Mọi người đồng ý
Viết xong, tôi đọc một lượt rồi giải thích ý nghĩa của từng chữ từng câu, mọi người cười hể hả. Xong đâu đó rồi, tôi đọc từng câu bốn chữ trước, rồi bảo họ lập lại sau. Tôi vừa đọc vừa đi xem từng người xem họ viết lại tới đâu, người nào viết chậm quá thì tôi viết giúp vì bài học đó dài hơn bình thường, nhưng vì nó là câu chuyện thực tế nên dân làng dễ nhớ hơn, có những âm lập lại, những âm vần dễ đọc lại có tính cách diễu một chút nên họ thích học hơn là những bài trong sách khô khan, trừu tượng.
Các học viên hỏi tại sao tôi không ở đây dạy họ ít hôm, tôi nói tôi phải về Phòng Giáo Dục và đi các làng xã khác làm việc chứ không thể ở lại một chỗ. Tôi hẹn họ khi nào có dịp tôi sẽ xin Phòng Giáo Dục cho tôi ở lại đây một tuần dạy học và sống với đồng bào, nhưng tôi dặn kỹ, "Tôi sẽ cố gắng, nhưng tôi không bảo đảm là có được hay không!"
Có mấy người nói:
-- Ờ ờ, "nai pơ tho" Quang là cán bộ lớn!
-- Tôi là cán bộ lớn, thì các bạn là nhà nước! Vậy mình đều như nhau!
Cả lớp đều cười ha hả. Tôi hỏi, "Ở đây có ai còn mật ong không? Tôi muốn mua hoặc đổi."
--" Thầy đi theo tôi!" Một anh học viên nóị
Anh dẫn tôi tới nhà sàn của anh, đưa cho tôi một bầu nước khá nặng. Tôi mở nút bầu ra, có mùi mật ong, tôi hỏi bán bao nhiêu. Anh học viên nói, "Thầy có những gì trong ba-lô?"
Tôi mở ba lô đưa ra ít bánh thuốc lá, những thứ thường dùng chiếc đèn pin, kem, bàn chải đánh răng....
-- Tôi cho thầy mật ong, thầy cho tôi những bánh thuốc lá này!
--Được, như vậy cũng hay.
Tôi không phải thử mật ong thật hay mật ong giả vì đồng bào Thượng rất thật thà, không pha thứ này thứ nọ vào mật ong. Mật ong nguyên chất có thể để trong bầu, trong chai đựng cả mấy năm trời mà không đóng thành đường, lúc nào cũng có mùi thơm đặc biệt của mật ong, tuỳ theo tổ ong đó làm ở rừng hoa nào. Mật ong ở rừng hoa quỳ vàng có màu đỏ sậm, ăn nhiều mau bị say, mật ong ở rừng hoa gạo màu đỏ nhạt hơn...
Tôi mừng là mọi chuyện xảy ra thật dễ dàng kỳ này. Thế là tôi đã có quà cho anh Trung và anh Tâm, chỉ cần thêm ít nghệ nữa là tuyệt vời. Tôi cầm bầu mật ong và tới chỗ anh Đoàn. Anh đang hí hoáy viết thư cho cô Hạnh. Anh không ngừng lại, nói: "" Tối nay Quang ngủ lại đây nhé!"
"Khỏi phải hỏi mà! Quang tới đây là ngủ ké với anh thôi! Anh nằm sàn hay nằm võng?"
"Đoàn thích nằm sàn hơn, nằm võng cong người, tức ngực lắm!" Thầy Đoàn trả lời.
Tôi mở bao lô rút ra chiếc võng xanh bằng vải dù đdã được cấp lúc đi dạy, tôi đã nhờ Liên, em họ tôi, may thêm chiếc màn che, chắn muỗi. Khi cột vào hai cây xà lớn ở góc nhà và chui vào võng nằm, võng với màn che sẽ cong cong trũng xuống giống tổ ong, màn che bọc cả thân võng nên muỗi không thể chui vào được, và cũng chắn khói mà người Thượng đốt và dụi cho khói bay đuổi muỗi vào đầu hồi đêm. Ở Thượng quen thì không sao, chứ người mới lên vùng cao, vào làng Thượng sống thử một hai đêm thì không khỏi dụi mắt cay xè vì khói cay cay mỗi tối.
Tôi muốn mở thư của Du ra đọc ngay, phần thì thầy Đoàn đang viết thư dưới ánh đèn dầu duy nhất trong nhà, phần tôi đi đường cũng mệt, nên sau khi treo võng xong, xúc miệng, tôi leo l lên võng, nằm nói chuyện với anh Đoàn một hồi rồi quay ra ngủ say.
Chương 19
Tiếng gà gáy sáng làm tôi tỉnh dậy. Bên ngoài trời còn tờ mờ sáng và lành lạnh. Tôi nằm rán lại trên võng, không muốn đánh thức thầy Đoàn đang nằm ngủ dưới sàn. Lợi dụng chút thời gian yên ắng này, tôi sắp sẵn trong đầu những việc cần phải làm: sang làng Ea Rung để xem cô Mai có ít củ nghệ nào không, tiện hỏi luôn tình hình dạy học bên đó để làm báo cáo...
Người Thượng trong gia đình chúng tôi trú ngụ đã thức giấc. Bà chủ nhà cỡ băm mấy đang cặm cụi thổi lửa từ những cục than hồng nhỏ còn lại từ hồi tối để nấu bữa ăn sáng. Bùi nhùi không bốc cháy ngay, khói um cả nhà làm thầy Đoàn cũng lồm cồm bò dậy, lại ho lụ xụ vì cơn suyễn lại hành. Tôi xuống khỏi võng, xếp chăn và tháo võng cuốn lại bỏ vào ba-lô.
Mọi người trong nhà đều dậy cả rồị Ông chủ nhà ngồi phì phò hút thuốc rê, cô gái cỡ 15, 16 tuổi đang xếp những bầu nước đã cạn vào gùi để đưa xuống vòi lấy nước đem về và tắm rửa vệ sinh buổi sáng. Hôm trước họ sài nước có lẽ hơi nhiều, nên bầu bỏ vào cả hai gùi, một gùi. Cô gái nói vời người em gái cỡ 10 tuổi, "Đi gùi nước với chị đi."
Cô gái nhỏ lắc đầu từ chối, giống như đa số những người con út được nương chiều khác, "Không đi đâu!"
Tôi cười, "Tôi giúp được không?"
Chẳng cần cô trả lời, tôi tới đeo cái gùi lớn lên vai, nhường lại cô chiếc gùi nhỏ. Cả nhà cười vui vẻ, họ chọc tôi, "Sao không nói thầy Đoàn gùi cho thầy?"
Tôi nói, "Thầy ấy ho thế kia, thì sao mà gùi nước được?"
Tôi cầm theo túi nhỏ có khăn tắm, quần đùi, lược, bàn chải, kem đánh răng và cục xà bông. Thông thường mỗi làng đều có ít nhất hai vòi nước cách xa nhau một quãng, suối dành cho nam giới ở trên cao hơn và gần làng hơn, suối dành cho nữ giới ở bên dưới và xa hơn. Họ có thể nói chuyện lớn với nhau nên cách xa nhau cỡ 100 mét hoặc xa hơn tí nữa tuỳ theo địa lý của khu vực.
Người Thượng là con cái của núi rừng, nên họ không có những ngượng ngập hay những ý nghĩ đâu đâu. Lúc tắm, họ trần truồng trăm phần trăm, cả nam lẫn nữ. Tôi ở với Thượng đã lâu nhưng chưa thể nào thoát y trăm phần trăm được, còn có vô tình nhìn thấy các cô tắm thì trong lòng vẫn bình yên không có ý nghĩ vởn vơ trần tục, có lẽ vì khung cảnh tự nhiên trong sạch của thiên nhiên chăng.
Sau khi lấy nước và tắm xong, tôi nói vọng xuống cho cô gái đang tắm với các bạn của cô, "Tôi gùi nước về trước đây!"
Tôi nghe tiếng cười ầm ĩ của bầy con gái dưới suối. Chẳng cần nghe tiếng trả lời, tôi gùi nước về nhà vì tôi phải đi tới làng Ea Rung gặp cô Mai rồi còn phải ghé lại thăm anh Trung và anh Tâm trước khi trở lại Phòng Giáo Dục. Một khi về Phòng Giáo Dục rồi, đi đây đó cũng sợ tai mắt, hay sự thắc mắc của người này người kia. Phải cẩn thận lắm mới được, tôi tự nhủ. Về tới nhà, tôi hỏi thầy Đoàn, "Hai hôm nữa anh ra Phòng Giáo Dục nha! Anh về làng Kờ Mông dạy thế cô Liễu một tuần, Quang sẽ vào đây dạy thế anh."
Thầy Đoàn mắt sáng lên, mừng ra mặt. Tôi cười nói, "Một tuần trăng mật thôi nhé! Quang chưa hỏi qua ý kiến anh Nhật đâu, nhưng thấy không có gì trở ngại, vì Quang sẽ vào đây thế anh! Quang sẽ nói với anh Nhật là anh bị ho nặng quá cần phải ở gần bệnh xá huyện cỡ một tuần xem sao."
"Quang đưa về cho Hạnh bức thư này! À để Đoàn viết thêm báo tin là sẽ về làng Kờ Mông một tuần!"
"Đừng anh! Không muốn cho cô Hạnh một niềm vui bất ngờ sao?"
"Quang nhỏ tuổi mà sành tâm lý ghê! Quang kết cô nào là chắc chết cô đó quá!"
"Không dám! Không dám! Cho em hai chữ bình yên đi anh!"
Tôi từ giã anh Đoàn và gia đình người Thượng trước khi cô gái gùi nước về. Họ giữ tôi lại để ăn cơm, nhưng tôi nói tôi cần phải sang làng Ea Rung rồi trở về Phòng Giáo Dục nội trong ngày nên không thể ở lại được. Tôi nháy mắt với anh Đoàn và nói thêm với gia đình người chủ nhà, "Ông bà an tâm, hai ngày nữa thầy Đoàn về Phòng Giáo Dục dưỡng bệnh, tôi sẽ tới đây ăn cơm với đồng bào cả tuần cho mà xem!"
"Thật không?"
"Thật mà, ba hôm nữa tôi sẽ vào lại đây và xin ở đây với ông bà nhé?"
"Được thầy cứ ở nhà chúng tôi!"
Đường đi tới làng Ea Rung cũng ngoằn ngoèo nhỏ hẹp như những con đường mòn khác. Trời còn sớm nên sương mù còn nhiều, hơi nước từ dưới đất toả lên. Tôi lầm lũi đi theo lối nhỏ dẫn tới làng.
Khi tôi tới thì dân làng, kẻ thì đang quét dọn sân, kẻ thì đang cho heo, gà ăn. Tôi lên tiếng gọi cô Mai, "Mai có ở nhà không?"
"Có, anh Quang đó hở? Trời ơi, đi đâu mà sớm thế? Anh lên nhà chơi đi! Mai đang nấu chè đậu đen."
Tôi leo lên cầu thang làm bằng một thân cây, có đục mấy khắc để làm bậc leo. Lom khom cúi xuống vào nhà, vì lối vào nhà sàn thường thấp. Vào bên trong rồi, có thể đứng thẳng và đi lại bình thường vì mái nhà cao hẳn lên. Lối kiến trúc này có cái hay là độ nghiêng hẳn, nước mưa đổ xuống là chảy xuống đất chứ không ứ đọng dễ làm ẩm ướt và dột nhà.
Tôi nhìn cô Mai ngồi canh nồi chè mà buồn cười. Lúc cô bị cử vào đây, cô khóc lóc định bỏ việc ra về vì xa xôi quá, vậy mà chỉ mấy tháng sau cô đã thích hợp nơi này, được dân làng mến lắm. Họ đem hết thứ này thứ nọ cho cô. Ở đây buồn, ban ngày cô ở nhà với lũ nhỏ trong làng, tập hát, dạy vũ, và dạy học chữ. Những lúc rảnh cô thêu thùa và... nấu chè. Tôi đã ghé lại thăm cô mấy lần và lần nào cũng bắt gặp cô nấu chè. Chỉ mới mấy tháng mà cô Mai trông mập hẳn ra, tôi nhìn cô chọc vui, "Trông Mai hồng hào quá!"
"Anh thấy đó, ngoài việc dạy, chơi với đám trẻ con, Mai còn biết làm gì ngoài việc nấu chè?"
"Thế áo len Mai đan hôm nọ xong chưa?"
"Xong rồi, Mai đưa cho ông trưởng làng. Ông ta thích lắm, ông ta cho Mai một con heo con kìa!"
"Thế Mai lấy gì mà nuôi?"
"Ồ gia đình ông ấy lo hết. Họ nói khi nào Mai muốn đem về thì cứ bắt đưa đi!"
"Thôi nuôi heo lớn rồi khi Mai cưới anh nào đó, giết heo cúng Giàng đi!"
"Anh nói bậy đi nhé! Mai mà ế chồng, anh có tội đó! Mai bắt thường không trả được đâu!"
"Nói gì nghe ghê thế?" Tôi trả lời, rồi thêm, "À Mai có còn chút nghệ nào không?"
"Ơi, anh Quang tính làm điệu như con gái sao, mà phải xức nghệ?"
"Điệu gì, Quang cần nghệ để làm thuốc đó chứ! Nếu còn chia cho Quang một ít, tháng sau Quang đem lên trả gấp đôi!"
"Khỏi cần, cho Mai về thị xã thăm gia đình hai ba bữa đủ rồi!"
"Tính đem heo con về khoe hở?" Tôi đùa.
"Không, Mai hết len rồi. Dân làng thấy Mai đan thích lắm ai cũng muốn Mai đan cho họ. Mấy thiếu nữ trẻ thì muốn học đan với Mai. Mai về sắm ít cây đan và ít len để đan áo và dạy đó!"
"Thật là hay! Để Quang về Phòng Giáo Dục xin xem có ngân qũi nào không, dạy đan thêu cũng là nữ công gia chánh. Tuy không có trong chương trình xóa mù, nhưng đó là động cơ thúc đẩy người Thượng học tập, học nghề... Nếu không có ngân qũi, thì mình có thể xoay sở cách khác... Nhưng Mai cho Quang khoảng ba tuần nữa nhé! Quang lên đây dạy rồi Mai về sắm sửa những thứ cần dùng."
Ăn bữa chè ngon ơi là ngon! Cô Mai thấy tôi ăn chè ngon miệng, bảo tôi lấy hết đem về ăn. Tôi cười trong bụng. Thế thì còn gì ngon hơn nữa. Tôi có nghệ, có mật ong, có chè. Phen này đúng là trời phù hộ cho anh Trung, anh Tâm và tôi.
Tôi từ giã cô Mai, đi theo đường tắt về làng Nang, tạt qua thăm anh Trung và anh Tâm, trao cho các anh mật ong, nghệ và cà mên chè đậu đen cô Mai vừa nấu vừa ngọt vừa ngon rồi vội vàng về cho kịp xế trưa là giờ xe đò đổ khách xuống xã. Tôi không muốn phải giải thích này nọ là đã lên đây từ hôm trước mà hôm nay mới trình diện.
Chương 20
Tôi về tới Phòng Giáo Dục lúc mọi người đã đi vắng cả, chỉ trừ chị Chức là chị nuôi của phòng. Chị nuôi, anh nuôi là danh từ miền Bắc gọi những người lo ẩm thực, nấu bếp nuôi quân trong bộ đội. Chị người miền Trung, chắc khoảng ba mươi mấy. Chồng chị đi lính Cộng Hoà, chết trận trong mùa hè đỏ lửa tại Kontum năm 1972. Tôi hỏi tại sao mọi người đi vắng hết và họ đi đâu mất rồi. Chị trả lời:
"Các anh chị trong Phòng đi họp bên huyện."
"Về chuyện gì thế, chị biết không?"
"Nghe anh Nhật nói về chuyện gì do chính em đề nghị đó!"
"À chuyện tuyển dụng các người Thượng biết tiếng Jrai để làm giáo viên và dạy tiếng Thượng cho những người lớn tuổi không học được tiếng Kinh lúc đầu."
"Đúng rồi, chị thấy anh Nhật chọc anh Ít làm lớn gì gì đó!"
Lợi dụng trời còn sớm, tôi tranh thủ thời gian đi vào làng Ea Blang thăm Du, thầy Phú, thầy Phong sau khi dặn chị Chức là tôi sẽ về ăn tối tại đây. Thường lệ là khi ăn hay không ăn, cần phải báo cho nhà bếp biết để nhà bếp nấu vì ăn uống có chế độ, nghĩa là có thể chế và điều độ gì đó theo cách nói của các anh chị miền Bắc. Mỗi người được cấp phát đúng khẩu phần gạo và thức ăn của mình trong tháng, xài nhiều thì sẽ thiếu. Chị Chức chọc tôi, "Liệu mà giữ hồn đấy nhé, em đào hoa vừa thôi, vừa đưa cô nào đó về thị xã, lại vào thăm cô Du. Coi chừng ban ngày lắm mối tối nằm không!"
Tôi cười nói với chị, "Thế chị không thấy xưa nay em không nằm không đấy à?"
"Thôi đi đi, khỉ quá, cho kịp về ăn tối!"
Thôi thầm nghĩ trong bụng hôm nay tôi đạt giải quán quân về lội bộ, đi một lượt mấy làng và làm những chuyện khó mà tưởng tượng. Lỡ rồi, mà nếu có gặp lại trường hợp tương tự nào nữa tôi cũng sẽ làm như tôi đã làm. Làm sao tôi có thể làm ngơ không giúp người hoạn nạn gặp đường cùng như Nhung, như các anh Trung, anh Tâm...
Thầy Phong và cô Du còn đang dạy học, nên tôi ghé nhà thầy Phú trước hỏi qua tình hình dạy bổ túc văn hoá. Thầy Phú và tôi nói chuyện một hồi về công tác xoá nạn mù chữ, rồi tôi hỏi thầy Phú xem ở đây là làng lớn, có ai biết viết tiếng Thượng khá không, thầy cho tôi được mấy tên, tôi ghi vào sổ, coi như mục đích vào làng của tôi đã tạm hoàn thành. Người ta thường nói đừng kết hợp việc tư với việc công, tôi thì thích làm chung cả hai cho có kết quả khi có thể như vậy mới vui hơn và không ai trách cứ mình. Cuộc đời đã khổ sở, tại sao mình không đem tâm trí ra để vui trong công việc của mình chứ. Cứ lo buồn, than thân trách phận, mà chẳng làm được gì thì buồn chán mãi, sinh bệnh thôi. Khi tôi hỏi thầy Phú về cô Du và thầy Phong, thầy Phú chọc, "Chết Quang rồi đó nhé, lần này không tránh khỏi trận đòn ghen của cô Du."
Tôi tự nhủ, đúng là thầy Phong mắc dịch lại hoa hoè hoa sói nói lung tung rồi. Tôi cười với thầy Phú mà nhói đau, "Đâu có gì đâu, Quang xem mọi người đều là bạn mà!"
"Bạn cái con khỉ, cô Du khóc mấy đêm liền kìa!"
"Chuyện gì mà phải khóc?"
"Còn chuyện gì nữa, bồ Quang từ thị xã lên tận trên này thăm Quang. Quang lại đưa nàng về, lại còn giả bộ ngây thơ nữa!"
"Ai nói Quang đưa bạn Quang về cho anh nghe!"
"Thì còn ai nữa, chính cô Du đó! Thầy Phong đưa tin về bạn Quang lên chơi, hai hôm sau thì Du ra Phòng Giáo Dục thì biết tin Quang đã về thị xã. Không đưa bồ Quang về thì về thị xã làm gì!"
"Chết chưa, thật đúng là tình ngay lý gian, Quang đưa các bạn Quang về thật, nhưng còn ít chuyện khác nữa chứ bộ"
"Nói sao thì nói, liệu có thể thuyết phục được cô Du không thì mới tài!"
"Chẳng có gì để thuyết phục cả, anh ạ!"
Ngoài miệng tôi nói như thế, nhưng trong lòng ngổn ngang. Tôi và Du rất thân thiết nhau, nhưng chúng tôi cũng chưa bao giờ tỏ tình với nhau, nên trong tình cảnh này, dù tôi có muốn yêu nàng, tôi cũng không nên nói, cho đến khi mọi sự ngã ngũ rõ rệt. Tôi không muốn bị người khác cho tôi là người lang chạ người này người khác. Tôi phải khác thầy Phong hay những người đào hoa khác. Đâu được để trái tim mình hoen ố vì những chuyện không đáng, đi ngược lại với lương tâm trong sạch của mình.
Tôi đi ra bờ suối chặt ít cây đót, tức là cây bông lau về làm chổi và ít hoa quỳ vàng cho Du trước khi Du dạy xong. Hoa quỳ trông rất đẹp mùi hăng hăng không có hương thơm như những loại bông khác. Cây quỳ rất dễ trồng, chỉ cần chặt cây, cắm nước cho mọc rễ là có thể trồng được. Vào mùa mưa, chặt cành quỳ rồi cắm ngay xuống đất sốp, cành quỳ cũng có thể đâm rễ và mọc lên được. Cây quỳ mọc rất nhanh, thường người Kinh chặt trồng làm hàng rào, hoặc chặt làm phân xanh. Làm phân xanh là chặt các cây hôi, cây quỳ ra nhỏ rồi ủ đất lên, sau một thời gian, hoặc trộn với phân chuồng là đồ phế thải của heo, gà, bò... hoặc trộn với đất thường dùng làm phân chăm bón cho mùa màng rất tốt.
Tôi đưa hoa quỳ cắm trong ống tre cắt ra có thể dùng để đựng bút hoặc muỗng, đũa... Tôi đang loay hoay cột cây đót lại làm chổi thì lớp học xong, Du về.
"Anh Quang vào chơi đó hở?"
Tôi ngẩng đầu lên nhìn Du, khuôn mặt nàng lạnh lùng chứ không lộ vẻ niềm nở như ngày nào. Tôi bình tĩnh nói:
"Quang mới ở thị xã lên, có quà cho Du nè! Có thư của gia đình Du nữa! Quang ghé lại nhà ba má Du, nói vì Quang về gấp quá nên không kịp vào thăm Du ở một làng mới trước khi về. Gia đình Du mọi người đều khoẻ, chị Xuân vẫn làm ở Sở Thông Tin Văn Hoá thị xã. Chị vẫn làm thuyết minh."
Tôi đưa quà, nói một hơi dài, như để thoa dịu lòng Du, nhưng không có kết quả. Du giữ nét mặt lạnh lùng, chỉ nói "Cám ơn!"
Những năm đầu sau giải phóng, nhà nước hoặc muốn tiết kiệm ngân quĩ hoặc muốn kiểm soát tư tưởng nên phim ngoại quốc thường có phụ đề như trước đây thì bây giờ các phim ngoại quốc được diễn tả qua giọng nói của các nhân viên thuyết minh. Phim Long Tranh Hổ Đấu của Lý Tiểu Long được lồng vào khung cảnh cách mạng chống áp bức chứ không còn thuần tuý như nguyên bản. Chị Xuân có giọng ấm áp nên thuyết minh rất hay.
Tôi hỏi gì Du cũng trả lời một cách khô khan. Tôi đâm vào cảnh khó xử, nói thật thì không được, nói Nhung chỉ là bạn từ thị xã lên thăm thì cũng khó xuôi. Tôi muốn phân trần nhưng phải làm sao đây, dưới danh nghĩa gì. Tôi thấy trời đã chiều chiều nên đứng dậy từ giã, hẹn mai mốt trở lại nói chuyện nhiều hơn, thì Du nói, "Khỏi cần đi, Du tự lo được mà!"
Khỏi cần nói, mặc dù đã có những lời báo trước của thầy Phú, chị Chức, tôi thấy hồn mình trĩu nặng. Tôi tự hỏi lòng mình hay là mình đã yêu và tình yêu nào cũng có những đắng cay. Hôm nay tôi mới nếm thử hương vị đầu đó thôi mà tim tôi như đã có một mũi tên đâm thủng một lỗ lớn. Không biết lấy gì để vá víu khoảng trống đó\!
" A ha, anh chàng đào hoa đã về!" Tiếng anh Nhật làm tôi giật mình khi tôi đang trầm ngâm suy nghĩ trên đường về Phòng Giáo Dục.
"Anh Nhật, anh làm em giật mình! Anh mới đi họp bên huyện về?"
"Đúng, phen này cậu phải giúp tớ hết mình nhé! Đề án của cậu đã được huyện chấp thuận rồi! Cậu và lão Ít phải lo cho chu đáo!"
Tôi cười rạng rỡ, "Nhất định thành công mà anh Nhật! Làng Ea Blang chỗ thầy Phú ở có 3 người có thể bổ xung làm giáo viên sau khoá huấn luyện ngắn! Em chắc chắn ở các làng gần thị xã sẽ tuyển dụng thêm được nhiều giáo viên vì họ thường có trình độ cao hơn những làng xa xôi hẻo lánh!"
"Chút nữa ăn cơm xong, cậu và anh Ít vào phòng tớ, mình bàn thêm! Tháng tới bắt đầu được!"
"Tháng tới, tức là chỉ còn 3 tuần nữa?"
"Đúng vậy!"
Chết thật, ba tuần nữa trong khi khởi đầu bằng số không. Dù sao, cũng hy vọng nhiều vì về phiá nhân tâm đã đạt được, còn nhân lực chắc cũng sẽ có đủ, địa lợi thì giáo viên Thượng dạy người Thượng thì phong thổ họ quen thuộc không thấy có gì trở ngại, chỉ còn yếu tố thiên thời nữa thôi. Ba tuần, có quá gấp rút không? Tôi tự hỏi. Không thể trì hoãn được, trì hoãn huyện họ suy nghĩ lại, cắt ngân khoản một cái là tiêu đời kế hoạch đáng làm này. Tôi sẽ dốc quyết tâm để lo việc này cho tới nơi tới chốn với sự cộng tác của nhiều người. Tôi mừng lắm vì đây là lần đầu tiên kế hoạch đã đạt được sự chú ý của huyện với một qui mô lớn, chứ không phải chỉ ở phạm vi nhỏ.
Đêm nay tôi sẽ tự an ủi và tự thưởng mình bằng cách dưới ánh điện phòng mở và đọc bức thư dày cộm của Nhung mà tôi nóng lòng chưa kịp đọc vì quá bận rộn với việc này việc nọ. Đêm nay tôi sẽ thả hồn mình phiêu lãng trong những ngày còn đi học, còn cười đùa vui với bạn bè, với Nhung, với Hải...
Chương 21
Mọi người giờ này đã đi ngủ hết rồi, chỉ còn lại một mình tôị Tôi mở bao thư dày cộm của Nhung rạ Không phải là một bức thư dài mà là một bức thư kèm theo một tập nhật ký dày cộm có hàng ca-rô nhỏ, chữ dày dặc. Tôi run lên, làm sao Nhung lại cho tôi đọc nhật ký riêng của nàng. Nhật ký là những gì riêng tư thầm kín nhất, ngay cả đối với con trai, thanh niên chứ nói chi đến một người con gái/.
Tôi hồi hộp mở bức thư Nhung mới viết và vội vàng đọc:
Anh Quang,
Đầu óc Nhung giờ rối bù, nhiều chuyện đã xảy ra dồn dập. May mà gặp anh, nếu không chắc Nhung bỏ mạng trên rừng rồi quá. Phải nói là chuyện tình cờ gặp trên rừng như là tiền định và Nhung rất sung sướng được gặp anh. Những giây phút chuyện trò riêng thật ngắn ngủi nhưng đủ tạo cho Nhung những hạnh phúc nhớ mãi trong đời.
Nhung có nhiều chuyện muốn nói với anh, nhưng vẫn chưa có dịp thổ lộ hết những gì Nhung muốn nói vì thời giờ gấp rút của anh, không phải lo cho bản thân anh mà lo cho những người bạn của Nhung.
Nhung cám ơn anh đã tận tình giúp đỡ Nhung và các bạn của Nhung. Nhung rất cảm động trước sự sẵn sàng đứng làm bình phong cho Nhung. Nhung từ những ngày còn học chung đã cảm phục anh rồi, dù ngại ngùng không nói theo sự e dè của con gái. Nhung có thể viết lại đầu đuôi những ý nghĩ về anh trong bức thư này, nhưng Nhung không muốn làm thế. Nhung muốn anh đọc lại nguyên những dòng nhật ký Nhung đã viết từ hai năm qua. Nhật ký này Nhung chỉ viết cho Nhung, chứ không nghĩ là có một ngày sẽ có một người khác đọc, và nhất là anh thì lại càng không phải. Trong tập nhật ký này là tất cả những tâm tình thật sự của Nhung. Nhung sẵn sàng để chia sẻ với anh chẳng phải vì ơn cứu sống mà vì Nhung muốn anh thực sự hiểu Nhung dù mọi việc còn phụ thuộc vào tương lai.
Anh sẽ thấy toàn bộ con người Nhung, trần trụi với những ý nghĩ tư tưởng và hành động. Có lẽ anh sẽ giật mình khi đọc những lời viết táo bạo này, nhưng anh an tâm đọc đi. Nhung sẽ không bao giờ đòi nợ anh đâu, vì Nhung luôn luôn tin tưởng anh, như lần nào đó, anh rủ Nhung đi xe đạp lên Biển Hồ chơi riêng với anh, anh có hỏi khi hai đứa đứng trên cao nhìn xuống Biển Hồ, "Nhung có sợ không?" và Nhung đã trả lời, "Đi với Quang thì có xuống âm ty Nhung cũng không sợ!"
Cho đến bây giờ Nhung có thể sợ này nọ, nhưng Nhung vẫn giữ niềm tin của ngày nào: Nhung hoàn toàn tin tưởng nơi anh, dù có phải xuống địa ngục với anh Nhung cũng không sợ, huống chi chỉ là phơi trần tâm hồn của mình cho anh đọc.
Khi nào anh đọc xong rồi, anh hãy dành cho Nhung một buổi chiều để nói chuyện, để Nhung bổ sung những điều Nhung quên chưa viết hay những gì anh muốn biết. Nhung đã viết tập nhật ký đó từ giữa lớp 11 cho tới ngày Nhung rời thị xã, gần hai năm tròn. Anh sẽ thấy tên anh xuất hiện trên nhiều trang nhật ký của Nhung. Tập nhật ký là người bạn tâm sự của Nhung, và có những trang nhật ký anh có thể gọi là những bức thư tình không gởi. Bây giờ những bức thư tình đó đã tới người nhận rồi đó nha!
Nhung có yêu anh không? Nhung đã nhiều lần tự hỏi điều đó và đã viết trong nhật ký nhiều lần. Tình yêu phải có qua có lại phải không? Cho đến bây giờ tình yêu của Nhung đối với anh là tình yêu đơn phương, hay nói cho đúng hơn là tình yêu tam giác: Người yêu Nhung thì Nhung lại không yêu, và người Nhung yêu là anh thì lúc nào cũng như một người bạn, người anh chăm lo cho em gái mà không có những cử chỉ âu yếm mà một người con gái đang yêu cần cảm nhận.
Thôi anh cứ giở nhật ký Nhung ra đọc rồi cho Nhung biết anh nghĩ gì nhé! Nhung nhất định sẽ không bắt anh phải trả nợ Nhung đâu. Mong anh giữ gìn cẩn thận và bình an.
Thương,
Chương 22
Tôi đã thức thật khuya đọc gần hết nửa tập nhật ký của Nhung. Nàng bạo thật, dám để tôi đọc hết cả tâm tình ý nghĩ của nàng. Tôi đã định đọc hết nhưng đêm đã quá khuya, đành tắt đèn leo lên giường ngủ vì tôi còn nhiều chuyện phải làm ngày hôm sau. Tôi nằm trằn trọc suy nghĩ mông lung không biết thiếp đi tự lúc nào.
Khi thức dậy thì trời đã sáng hẳn và mọi người trong Phòng Giáo Dục đã chuẩn bị ăn sáng. Tôi xúc miệng vội vàng rồi xuống phòng ăn. Vừa bước vào thì mọi người đã nhao nhao:
"Sao đêm qua thức suốt đêm hay khóc nhớ người yêu ở thị xã mà mắt sưng sưng vậy?" Chị Chức hỏi.
"Lại muốn về thị xã phải không? Những người yêu nhau đâu muốn rời nhau bao giờ!"
Tôi chỉ cười trừ, kéo ghế ngồi vào bàn. Tối qua sau bữa ăn tối anh Nhật, anh Ít và tôi đã bàn thảo một kế hoạch chung, tôi đã nói với anh Nhật cho tôi hai tuần để soạn thảo chương trình huấn luyện chi tiết hơn để hướng dẫn các giáo viên mới. Trong thời gian đó, tôi và anh Ít đi một số làng xã khác nhau để kêu gọi những người biết chữ Jrai để dự vào khoá huấn luyện sắp tới. Nhà anh Ít làng Thượng sát thị xã Pleiku nơi có rất nhiều người Thượng đã đi học ở các trường người Kinh trước năm 1975 nên anh sẽ về đó và các xã lân cận để chiêu tập giáo viên mới. Còn tôi sẽ phụ trách các làng xã phiá Tây. Tôi thưa với anh Nhật là tôi sẽ chọn làng Ea Rông làm trụ sở của tôi chừng 10 ngày để đi tới các làng xã lân cận, để cần gì thì anh Nhật có thể liên lạc với tôi ở đó. Còn tuần cuối cùng anh Nhật, anh Ít và tôi sẽ chọn lọc các người Thượng có thể làm giáo viên và thông qua dạng cuối cùng của chương trình huấn luyện cho phù hợp với chỉ tiêu và phương án hoạt động của Phòng Giáo Dục.
Tôi cũng xin phép anh Nhật chuyển thầy Đoàn về dạy thế cô Liễu một tuần để cô Liễu về phép như tôi đã hứa. Phần tôi, tôi sẽ thế thầy Đoàn dạy học mỗi tối, nên không có gì trở ngại, còn ban ngày tôi sẽ đi liên lạc các nơi mà tôi biết có người khả năng để thu dụng làm giáo viên cũng như soạn thảo chương trình huấn luyện. Anh Nhật cũng dễ dãi nói, "Cậu tính sao cho kế hoạch thành công là được rồi, còn mấy chuyện nhỏ cậu tự lo, không phải thưa trình gì hết!"
Bữa ăn sáng thật vui, ai cũng hỏi chuyện thị xã, chuyện tôi và Nhung. Tôi trả lời kỹ lưỡng về những gì tôi có thể nói mà không sợ trục trặc sau này, còn những vấn đề tế nhị liên quan tới Nhung và những người khác tôi chỉ trả lời cho qua, nửa kín nửa mở, vô thưởng vô phạt. Tôi cũng báo với chị Chức là từ trưa nay tôi sẽ không ăn cơm ở Phòng Giáo Dục nữa vì tôi phải đi công tác các làng xã khoảng hai tuần. Anh Nhật gật đầu vì anh đã biết từ đêm qua. Anh nhìn anh Ít, hỏi:
- Còn ông Ít, chừng nào định đi?
Anh Ít trả lời:
- Ngày mai anh, tôi còn cần làm xong một số chuyện trước khi đi.
- Ông ráng lên nhé, kỳ này gánh nặng nằm trên vai ông và cậu Quang đó.
- Anh và Quang chỉ đâu tôi đánh đó, tôi không quen với chức vụ nặng đâu.
- Kệ đi, ông Ít ạ! Làm việc gì rồi cũng quen, ông ráng lên! Không chừng Phòng Giáo Dục có thể thêm một phó phòng đặc trách Bổ Túc Văn Hoá cho người dân tộc. Chức đó phải giao cho ông.
Mọi người nhình anh Ít kinh ngạc, chỉ riêng anh Nhật và tôi thì đã biết là bên huyện uỷ đã đồng ý rồi, chỉ còn chờ tỉnh ủy đồng ý thôi, mà về người Thượng thì không ai trong huyện có khả năng hơn anh Ít dù anh ít nói. Cũng may mà anh đã là đảng viên một năm rồi nên phần lý lịch cũng không đến nỗi nào.
Muốn trở thành một đoàn viên thanh niên cộng sản, ứng viên phải có lý lịch tương đối trong sạch dưới mắt cộng sản và có hai đoàn viên đề nghị sau khi đã làm đối tượng đoàn ít nhất một năm. Trong thời gian làm đối tượng đoàn, ứng viên phải triệt để thi hành những công tác mà Đoàn giao phó. Để trở thành đảng viên, ứng viên phải là đoàn viên thanh niên cộng sản ít nhất ba năm, và được hai đảng viên bảo hộ để trở thành đối tượng đảng ít nhất một năm. Đối tượng đảng được đi họp những phiên họp phóng khoáng của Đảng và thi hành những công tác Đảng giao phó. Sau một năm là đối tượng đảng, ứng viên đó sẽ được các đảng viên truy xét và quyết định riêng trong một cuộc họp đặc biệt. Có những người chỉ làm đối tượng đảng gần nửa một đời người vì gia đình còn có những vết nhơ lý lịch hay vì một lý do nào đó.
Trường hợp anh Ít tôi không rành vì anh cũng không nói nhiều về anh và anh đã là đảng viên trước khi tôi lên công tác trên huyện. Dù có là đảng viên hay không, anh Ít đối với tôi thật xứng đáng là người anh. Tôi mang ơn anh Ít rất nhiềụ Trong bao nhiêu lần nói chuyện, anh không hề mang tư tưởng chính trị ra nhồi sọ tôi. Nếu tôi không biết anh, tôi có thể xem anh như là người quốc gia nữa. Tôi cũng biết thời gian đầu nhà cầm quyền mới rất cần những người cộng tác nên thể lệ có thể lỏng lẻo một tí. Với ai thì không biết, chứ với tôi, tôi rất mong anh Ít giữ chức vụ Phó Phòng Giáo Dục lo về Thượng vụ vì còn ai rành rẽ người Thượng và nhu cầu người Thượng như chính người Thượng.
Ăn xong tôi xuống bếp lãnh tiêu chuẩn gạo cho 2 tuần. Chị Chức đong gạo cho tôi, dịu dàng nói: "Em mới về thị xã lên chưa được nghỉ ngơi sao lại vội vàng đi xa rồi?"
Tôi cười, " Chị đừng lo, em đi em lại về! Hơn nữa, em thích sống trong làng để học hỏi những điều hay nơi người Thượng mà! Ở đây gần mặt trời, nóng lắm!"
- Cái thằng khỉ, anh Nhật là mặt trời sao? Chị mách lại với anh Nhật bây giờ?
Tôi trả lời một cách tỉnh queo:
- Anh Nhật không phải là mặt trời, thì chị không phải mặt trăng! Không phải là chị ỷ giữ chức chị nuôi, nấu gì em phải ăn nấy sao?
- Khỉ quá, chị sợ em rồi. Mà đi vào làng em nhớ ăn uống cẩn thận.
- Chị đừng lo, chị ở lại, lo tưới rau và cho gà ăn giùm em. Có lấy bao nhiêu trứng, nhớ ghi vào sổ để trả nợ cho em sau này đó nha!
- Này bộ tính làm tiền đó hở Chứ xưa nay em lấy trứng đãi cả phòng có ghi sổ bao giờ đâu?
- Trước khác, bây giờ khác, không được sao?
- Ừ chị ghi sổ cho, may ra anh Nhật cảm động cho em về thị xã nhiều hơn để thăm người yêu mới. Mà còn cô Du thì sao?
Tôi ngẩng mặt xoay qua chỗ khác tránh cái nhìn soi mói của chị Chức, nói bâng quơ:
- Chuyện tương lai rồi tương lai sẽ biết! Chị lo làm gì! Sợ phải mua quà cưới cho em sao?
- Chao ơi, em lại bí mật cả với chị à? Nhà nghèo, nhưng quà cưới thì có bao nhiêu!
- Nhớ đó nha, tới lúc đó chị đừng kiếu là bận này bận nọ.
Tôi lên làng Kờ Mông gặp cô Liễu ngay sau đó. Cô Liễu mừng lắm, vì cô chỉ hy vọng được nghỉ ba ngày, tôi lại cho cô đi tới gần một tuần. Tôi dặn kỹ càng:
- Tối nay Liễu dạy và bảo với dân làng là thầy Đoàn sẽ tới đây dạy thế Liễu khoảng một tuần vì Liễu được phép về thăm gia đình. Sáng mai Liễu có thể ra xe đi về trước khi anh Đoàn tới đây. Anh Đoàn đã biết nhà Liễu rồi, Liễu nhớ xin phép chủ nhà là anh Đoàn sẽ ở nhà Liễu ở.
- Được mà, Liễu sẽ không quên đâu!
- À Liễu nhớ hỏi ai biết viết tiếng Thượng, nhớ lên Phòng Giáo Dục gặp anh Nhật, hoặc anh Ít, hay Quang nhé! Phòng đang cần tuyển dụng những người biết đọc và viết tiếng Thượng đó!
- Anh Quang ở lại ăn trưa với Liễu nha!
- Thôi để lúc khác đi, hôm nọ bạn của Quang đã ăn nhờ ở đậu nhà Liễu, lương thực cũng cạn rồi mà.
Tôi mở bao lô định lấy ít đồ cho cô Liễu thì cô Liễu chặn lại:
- Anh Quang đừng làm thế nha, Liễu được về năm ngày là vui lắm rồi. Liễu mua thêm lương thực được mà.
- Được, Liễu nói thế thì thôi. Giờ Quang phải đi vào các làng khác trước khi họ đi làm rẫy.
Tôi đi vội vã tới các thôn trưởng ở các làng lân cận, trình bày sơ qua kế hoạch tương lai với sự kêu gọi các thôn trưởng đề nghị và tuyển chọn những người Thượng có khả năng để được huấn luyện vào khóa đào tạo giáo viên cấp tốc sắp tới. Họ mừng lắm vì cảm thấy Phòng Giáo Dục thực sự quan tâm tới người Thượng, sẵn sàng dạy chữ viết của tiếng mẹ đẻ của họ chứ không phải chỉ áp đặt ngôn ngữ của người Kinh. Hiện giờ công việc gấp rút nên tôi cũng không phải phân trần hay đi sâu vào chính trị nên tôi chỉ trình bày nhu cầu cần thiết thôi, không muốn dính líu với những giây mơ rễ má khác.
Làng cuối cùng mà tôi tới hôm đó là làng Ea Blang nơi cô Du, thầy Phong và thầy Đoàn dạy. Tôi biết trong làng này có ba người Thượng rất có khả năng và tôi quyết tâm thu phục ba người này, để dạy ngay tại làng của họ hay những làng gần đó. Trên đường đi tới làng tôi đã tìm đủ mọi lý do để thuyết phục họ cũng như đủ mọi lý do để nói chuyện với cô Du. Nghĩ tới cuộc đàm thoại hôm qua với Du, tôi thấy e ngại quá! Con gái lúc giận cứ trả lời nhát gừng cộc lốc thì con trai dù có tài mấy cũng tìm không ra câu chuyện để nói. Nếu người con gái chịu nói một chút thì mọi việc cũng dễ dàng, việc phân trần việc gì dù rắc rối khó khăn đến đâu cũng không đến nỗi khó để không thể tháo cởi được. Còn cứ nhát gừng thì tôi đành bó tay. Tôi đâu biết tình cảm trai gái gay go đến thế!
Trước khi đọc nhật ký của Nhung, tôi biết lòng tôi nghiêng hẳn về Du. Bây giờ, tôi bỗng bâng khuâng vì tôi biết Nhung thương tôi lắm. Trước đây tôi chỉ biết Nhung có cảm tình với tôi thôi, nhưng không ngờ tình cảm nàng dành cho tôi sâu đậm hơn tôi tưởng. Tôi không hiểu đó là diễm phước hay bạc phước cho tôi vì tôi sợ mang tiếng đào hoa lắm. Khi tôi tình nguyện đứng mũi chịu sào cho Nhung chẳng qua là để tránh lao lung tù tội cho Nhung, tôi và những người liên quan thôi, chứ không nghĩ tới những phiền phức bất ngờ.
Cái bất ngờ đã đến. Trái tim tôi do dự trước hai người con gái đều dễ thương và có cảm tình với tôi. Có phải tôi tham lam đâu! Lúc còn đi học, tôi đã dàn xếp để Nhung với Hải, bạn thân của tôi hồi đó, đi chơi với nhau. Còn tôi lúc bấy giờ chỉ xem Nhung như bạn thân. Thực ra thì lúc đó tôi có hề biết tình yêu trai gái là gì: tôi mải bận rộn với trường lớp và công việc ở gia đình. Hơn nữa mộng ước của tôi là phải học xong đại học rồi mới tính chuyện sau này.
Phải chăng thời gian cô đơn trên rừng núi cao nguyên đã làm trái tim tôi mềm yếu hay là tôi đã thực sự trưởng thành, đã khiến tôi giống như những thanh niên khác biết rộn ràng, biết yêu thương, biết cua gái, biết nhớ nhung... Tuổi mười tám là tuổi biết cập kê. Ở xóm tôi bao nhiêu thanh niên thiếu nữ bỏ học nửa chừng để lấy vợ khi cách mạng vào vì họ sợ thanh niên độc thân phải đi nghĩa vụ xa, thiếu nữ thì sợ phải bắt làm vợ bộ đội hay thương binh. Bây giờ có người đã có con rồi. Một cuộc sống an phận dù nheo nhóc. Còn tôi vẫn ôm một giấc mộng xa vời, tôi vẫn muốn trở lại đại học sau hai năm hoàn thành nhiệm vụ Xoá Nạn Mù Chữ.
Liệu Du hay Nhung có thể chờ đợi tôi được 4 năm không? Tôi không thể yêu người ta rồi bắt người ta chờ 4 năm nếu người ta thực sự không thể chờ 4 năm. Cưới vợ thì cưới liền tay, chớ để lâu ngày có kẻ dèm pha. Ca dao đã rành rành ra đó. Tôi nghĩ mà cảm phục chuyện tình của ông Vương Hồng Sển và bà Năm Sa đéc. Theo như thầy tôi nói, ông Vương Hồng Sển đã theo đuổi bà Năm Sa Đéc tới 20 năm. Tôi chỉ mong tình cảm của tôi với người yêu của tôi kéo dài 4, 5 năm qua lại trước khi tình yêu đó thăng hoa thành tình vợ chồng.
Từ trước tới giờ mọi việc đều đến với tôi một cách tự nhiên và dễ dàng. Chuyện tôi tình cờ gặp lại Nhung và ra tay nghĩa hiệp giúp các bạn Nhung đã đổi thay cuộc sống thường ngày của tôi. Có phải đó là định mệnh đã giúp tôi trưởng thành thực sự, đã khiến tôi phải do dự bâng khuâng trước ngưỡng cửa tình yêu và hôn nhân, trước công việc trước mắt và ước mộng tương lai.
Tôi biết tôi đang ở tình trạng phức tạp lắm. Tôi sẽ không thể nào chấp nhận bước vào hôn nhân một cách mù quáng, hay an phận cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Với tôi, tình yêu phải có giữa đôi trai gái. Với tôi, người con trai con gái phải đạt được giấc mộng của mình. Liệu Du hay Nhung có thể hiểu lòng tôi tường tận như tôi hiểu tôi không?
Nếu Du cho tôi một cơ hội, tôi có thể bộc bạch hết tâm hồn tôi như Nhung đã làm với tập nhật ký của nàng. Tôi không viết nhật ký đều đặn, tôi chỉ viết tóm tắt những điều tôi phải làm, và tóm lược những gì tôi đã thi hành được. Trong tập vở của tôi, chỉ có những chuyện nhỏ tôi sưu tầm, có ít nét vẽ bằng bút chì phác hoạ những khuôn mặt của những người tôi đã gặp và cần nhớ tên, những câu tiếng Thượng mà tôi thích như những câu đố, câu ca dao, thành ngữ. Tôi là người ham hoạt động hơn là ngồi viết lách, nhất là viết nhật ký như Nhung thì tôi chịu thua. Nàng trung thành viết từng ngày với đầy đủ chi tiết. Tôi không muốn dấu Du chuyện tôi và Nhung, nhưng tôi không muốn tiết lộ những bí mật của Nhung, cũng như chuyện vượt biên của nàng và các bạn của nàng. Tôi chỉ có thể thố lộ những gì ở trong tâm hồn tôi, chứ không thể cho Du biết những gì trong nhật ký của Nhung hay những gì liên quan tới Nhung. Nhưng nếu không giải thích rõ thì Du sẽ cho tôi là giả dối. Thật là khó giải quyết. Tôi đành nhắm mắt để định mệnh định đoạt, chuyện gì phải xảy ra sẽ xảy ra.
Phó mặc cho số mệnh! Tôi nhủ lòng và mạnh dạn đi tới làng Ea Blang trước khi hoàng hôn phủ xuống. Đêm nay tôi sẽ ngủ tại làng này, nói chuyện với dân làng khi họ tới học với thầy Đoàn, thuyết phục ba người thanh niên biết chữ Jrai để họ làm giáo viên, nói chuyện với Du. May ra Du sẽ hiểu tôi, may ra tôi sẽ có một số giáo viên mới, may ra cuộc đời tôi đỡ phức tạp hơn!
Chương 23
Khi tôi tới làng Ea Blang, bao nhiêu lời tôi dự định nói với Du trở thành vô ích. Tôi chưng hửng khi nghe thầy Phong nói Du đã ra xe về thị xã trưa nay và thầy phải gộp các lớp của Du lại với các lớp của thầy. Tôi hỏi:
-- Anh biết chừng nào Du trở lại không?
-- Du trở lại khoảng 4 ngày nữa! Hôm qua Quang nói gì mà sáng nay Du nằng nặc đòi về?
-- Quang có nói gì đâu! Tại anh cả đó, đang không nói chuyện Quang đưa Nhung và các bạn Nhung về làm gì!
Thầy Phong cười, nhìn đăm đăm tôi, rồi hỏi:
-- Trong hai người Quang chọn ai?
-- Người chứ có phải đồ đạc đâu mà chọn. Cả hai người đều là bạn của Quang.
-- Bắt cá hai tay không được đâu Quang à!
Tôi bực tức trả lời:
-- Quang có bắt cá hai tay bao giờ! Bộ anh tính tán cô Nhung thật sao? Anh làm hại cô Hương chưa đủ sao?
Vừa nói xong, tôi biết tôi lỡ lời. Thầy Phong nhìn tôi hằn học:
-- Quang nghe ai mà nói thế? Chuyện riêng của tôi để tôi lo. Quang mà nói cô Du là biết tay tôi!
-- Anh quên cô Hương là bạn thân của Du sao? Cô Hương khóc lóc kể cho Du khi có mặt Quang ở đó.
Thầy Phong tức giận chửi thề rồi nói:
-- Đúng là con gái!
Tôi rủa thầm, "Đúng là Sở Khanh thì có!" nhưng lặng yên. Con gái thực sự khó hiểu như cô Hương và Du đó. Cô Hương thì kể lể chuyện riêng của nàng với Du khi có mặt tôi ở đó còn Du thì lầm lì chẳng cho tôi một cơ hội nào để phân trần, bây giờ lại về, không nói tôi một tiếng hôm qua.
Tôi chào thầy Phong rồi ghé lại nhà thầy Phú. Thầy đi vắng, có lẽ đi tắm dưới vọt nước. Tôi bỏ ba lô vào góc nhà, lấy khăn tắm và đồ thay, rồi ghé qua bên chỗ chủ nhà, xem có cần gùi thêm nước không. Tôi lấy các trái bầu cạn nước bỏ vào gùi, rồi ôm khăn và đồ tắm đi xuống vọt nước.
Làng Thượng nào cũng có vọt nước cho nước uống và sinh hoạt hằng ngày. Họ chưa biết đào giếng, mà có đào chắc giếng cũng sâu vì làng thường toạ lạc trên đồi. Đồi thấp thì còn đỡ, gặp phải đồi cao, phải đi cả một cây số mới tới. Đường từ làng xuống suối thường rộng rãi hơn đường mòn. hai người có thể đi song song, còn đường mòn chỉ đi hàng một mà thôi. Nói chuyện thì cũng phải nói to vì người đi trước người đi sau xếp hàng một như chơi rồng rắn lên cây.
Tôi có một cái thú khi gùi nước là không cảm thấy thừa thãi khi đi xuống suối. Tôi có thể đi thong thả nói chuyện hoà đồng với mọi người. Nếu đi không tay chân cảm thấy thế nào ấy, nhất là người đi trước và người đi sau đều là đàn bà con gái gùi nước. Đàn ông thanh niên không gùi nước, sự phân chia lao động của người Thượng rõ ràng, đàn ông chẻ tre, đan gùi, chặt cây, làm nhà... Đàn bà thiếu nữ thì giã gạo, gùi nước, nấu cơm... Trẻ em khi chưa tới tuổi dậy thì tự do, có thể học làm việc với cha, với mẹ, với anh chị hay hàng xóm, không phân biệt giới tính.
Khi con trai tới tuổi dậy thì tiếng nói ồm ồm vỡ tiếng, dương mao xuất hiện thì cha mẹ phải trình làng để làng tổ chức một nghi lễ cúng Giàng sau khi chàng con trai đó vượt qua những thử thách tự kiếm sinh trong 3 ngày thả trong rừng một mình. Chàng con trai được trang bị cung tên dao lưỡi câu và một thanh củi cháy đỏ. Bằng bất cứ giá nào thanh củi đó phải được giữ cháy để nướng đồ ăn và đốt sáng trong đêm để sưởi ấm và xua đuổi thú vật trong đêm. Trong ba ngày người thanh niên đó không được gặp gỡ ai dù bất cứ người nào trong làng của mình hay làng khác để chứng minh là mình có thể tự sinh tồn và có thể lo cho gia đình được sau này. Sang ngày thứ tư chàng con trai có thể về, người nào về mà còn mang được thú săn thì đáng được hãnh diện. Buổi tối hôm đó, thường là dịp trăng tròn, cả làng mỗi gia đình đóng góp một gò rượu cần, ít thức ăn để ăn uống chung vui và nhảy múa với nhau qua tiếng nhạc chiêng cồng. Gia đình chàng trai dậy thì phải làm thịt một con heo hay một con bò để cúng Giàng và đãi thôn làng. Đoàn múa đêm hôm đó sẽ do chàng thanh niên dậy thì dẫn đầu. Từ đêm đó chàng trai đã trở thành một thanh niên chính thức của làng, có nghĩa là chàng sẽ phải tham gia làm việc như người lớn, không còn tự do như thiếu niên nữa. Buổi tối chàng không còn cần phải ngủ ở nhà mà có thể ra nhà rông ca hát đùa giỡn với các cô gái đã dậy thì và tới tuổi cập kê.
Con gái dậy thì là khi nàng bắt đầu có âm mao, kinh nguyệt, cơ thể nảy nở các nơi rõ ràng nhất là trên ngực với đôi nhũ hoa tròn chắc. Nàng sẽ được các bà mẹ và thầy hay bà mo giảng giải tường tận về chu kỳ kinh nguyệt và những vấn đề đàn bà. Mười ngày sau khi hết kinh lần đầu nàng sẽ được làm nghi lễ chính thức thành thanh nữ có quyền hát hò đùa giỡn với các thanh niên chưa lập gia đình ở nhà rông giới sự giám quản của một hai bô lão hay bà già.. Nghi lễ của thanh nữ đơn giản hơn nghi lễ con trai nhưng không kém phần trịnh trọng. Trong suốt thời gian nàng hành kinh, nàng phải cắm cành lá trước nhà và lật úp chiếc thang leo lên nhà sàn. Chỉ có người trong gia đình mới có quyền lên nhà thôi, còn nhà đó tuyệt đối không tiếp bất cứ ai trong thời gian này dù là bà con thân thuộc. Tục lệ này gọi là "kam yam" gọi nôm na là kiêng cữ. Trong thời gian này phụ nữ bị coi như không sạch và người chồng không được phép gần gũi với vợ mình.
Nghi lễ cho thanh nữ được cử hành tại nhà rông dành các lễ nghi lớn và chỗ tụ tập của thanh niên nam nữ, có thể coi như đình, chùa, hay nhà thơ nhưng không có tượng hay hình ảnh gì cả. Nhà rông cao to và rộng nhất trong làng. Cô gái sẽ mặc trang phục đẹp nhất của mình mà gia đình hay chính cô ta đan dệt, bà con thân thuộc sẽ đem rượu, thức ăn và quà cáp vòng bằng đồng hay nữ trang tới tặng. Sau đó mọi người ăn uống no say, cô gái sẽ ngồi tiếp đãi từng thanh niên trong làng không có mối liên hệ thân thích hát hò chọc ghẹo trai gái như kiểu hát Quan Họ ở miền Bắc Việt Nam. Có khi họ hát những bài đã học thuộc lòng, có khi tự đặt lời ra mà hát dưới sự có mặt của quan khách luôn luôn chăm chú nghe và gật gù tán thưởng. Đây là cơ hội để cô gái dậy thì tìm mặt gởi vàng, xem cô ưng ý ai rồi sẽ tìm hiểu thêm sau này, mặc dầu thông thường thì cô đã biết rõ từng người vì dân số trong làng cao lắm cũng chỉ chừng một ngàn người từ bé tới lớn. Đa số các làng thường chỉ 500, hoặc 600 người, có làng dưới cả 100 người, quây quất chừng 20 nhà.
Từ khi con trai con gái đã qua nghi lễ dậy thì chính thức vào xã hội người lớn thì anh em không được ngủ chung như trước nữa mà phải ngủ riêng biệt. Thường nam thanh niên đi ngủ tại nhà rông, con gái thì ngủ ở nhà, dù có hát hò khuya tới mấy cũng phải về ngủ tại gia đình mình. Khi người con gái chọn được người mình ưng ý thì thưa với gia đình và thầy hoặc bà mo để hò hẹn chính thức sau một bữa tiệc nhỏ giữa hai gia đình, thầy hoặc bà mo, và họ hàng thân thích, giống như đám hỏi. Sau đám hỏi, anh chị đó có thể dẫn nhau ra nhà lúa ở gia đình gái và tìm hiểu nhau suốt đêm. Theo lệ làng, nếu đôi trai gái thỏa thuận, họ có thể hôn, sờ mó từ eo trở lên chứ không được lạng chạng phần dưới. Qui luật tự do nhưng rất khó khăn ai vi phạm phải phạt vạ rất nặng nên không thấy các cô có bầu trước ngày cưới dù rằng họ không biết tới phương pháp ngừa thai nhân tạo. Người con gái hay con trai có thể bảo bạn mình ngưng bất cứ lúc nào, nếu vượt qua, một trong hai có thể hô hoán và người trong làng sẽ tới và báo cho chức trách trong làng phạt vạ.
Luật xưa còn khó khăn hơn nhưng sau này đã lỏng lẻo rồi. Trước đây trai gái còn phải theo luật cà răng căng tai mà sau này tôi xin tả kỹ hơn. Người Thượng vẫn còn theo chế độ mẫu hệ, con gái cưới chồng về nhà mình, chứ không phải con trai. Con cái lấy họ mẹ thay vì họ cha. Không biết có phải vì thế hay là vì này nọ trong các gia đình người Thượng người vợ thường già hơn chồng. Cũng có thể đàn ông Thượng không phải suy nghĩ nhiều như đàn ông người Kinh lúc nào xã hội cũng xem là người cung cấp, nuôi sống gia đình như vai trò của người phụ nữ Thượng.
Khi tôi xuống tới vọt nước thì thầy Phú lò dò về! Tôi nói tối nay tôi ở trọ nhà anh, nhờ anh nấu cơm cho ăn ké với. Sau khi hứng nước đầy vào các trái bầu khô và đậy nắp, tôi cởi quần áo tắm, chỉ còn chiếc quần xà lỏn là tôi vẫn chưa hoà đồng hoàn toàn với đàn ông con trai người Thượng. Mặc tiếng cười chọc ghẹo của họ tôi đùa lại, "Không có quần cộc, tôi không biết tắm."
-- Con Jrai tắm đâu có cần gì! Thầy là con Jrai mà!
-- Người Kinh nó dạy tôi lâu quá rồi, không có quần đùi tôi không biết tắm.
Bầy con gái dưới suối nghe tiếng thanh niên trên đây hối thúc tôi thoát y cũng nhao lên phụ hoạ:
-- Thầy con thỏ quá phải như con cọp chứ! Cởi đại ra đi!
-- Tôi mà cởi, tôi kiếm cô nào đẹp nhất đi ở nhà lúa đêm nay đó nha!
Thế là cả bọn cuời oang và tha cho tôi. Niềm vui của người dân Thượng mộc mạc như bức tranh quê, những tiếng ca tiếng cười của họ phản ảnh ngay cuộc sống hiện thực của họ chứ không hoa hoè hoa sói văn hoa xa lạ với cuộc sống hằng ngày. Có lẽ vì bản tính hồn nhiên đơn sơ thành thật của họ mà tôi lúc nào cũng yêu qúi họ. Họ là hình ảnh mộc mạc chất phác của người Kinh thưở xa xưa mà do chiến tranh loạn lạc nghi ngờ đã mất.
Chương 24
Ngoại trừ trục trặc chuyện riêng tôi với Du và thầy Phong, việc ghé lại làng Ea Blang coi như thành công mỹ mãn về mặt công tác. Tôi chẳng những thuyết phục được ba anh biết đọc viết chữ Jrai mà còn tìm được hai chị cũng rành không kém. Tôi lấy được đơn xin làm giáo viên và trình độ học vấn của từng người với lời giới thiệu của thôn trưởng đã làm du kích từ lâu năm nên an tâm là không có việc gì mà họ không thể làm giáo viên. Vấn đề bổ sung họ sau này mới đáng suy nghĩ. Tôi có ý định là đưa giáo viên nữ về ngay làng của họ, còn giáo viên nam có thể dạy các làng lân cận để họ có thể đi lại và làm việc cùng với gia đình nếu cần. Nghĩ vậy thôi chứ tôi không dám hứa với họ điều gì, vì "nhu cầu cách mạng văn hóa" là tuỳ cán bộ cấp trên xét định.
Ít nhất là họ biết tôi thẳng thắn với họ. Người Thượng ghét nhất là nói dối. Hứa với họ điều gì mà không làm thì sẽ thấy họ giận ra mặt. Tôi quen họ lâu rồi nên lúc cà rởn tôi cà rởn, còn lúc làm việc nói đâu phải ra đó, nếu không họ giận là tiêu đời công tác dân vận.
Sáng nay, tờ mờ sáng tôi vội vã cuốn võng và đồ đạc vào ba lô để đi tới làng Ea Rông thay cho anh Đoàn là giáo viên sẽ về làng Kờ Mông dạy thế cô Liễu 5 ngày. Tôi phải đi sớm để kịp ghé xuống thác đưa cho anh Trung và Tâm ít thuốc đã xin được ở bệnh xá huyện sáng qua trước khi tôi lên làng Kờ Mông báo tin cho cô Liễu. Mười viên thuốc trụ sinh Tétramycine và một lọ aspirin qúi hơn vàng lúc này.
Tôi thầm cám ơn cô y tá Thuận đã không hỏi han gì nhiều vì cô bận. Chỗ nào cũng vậy nếu quen biết trước và tin tưởng nhau thì cái gì cũng dễ dàng không bị hạch hỏi. Cụm phong lan tôi tặng cô Thuận dịp khánh thành bệnh xá huyện vẫn xanh tươi trước nhà, đã có những cọng hoa dài nhưng còn nhỏ, chắc chừng hai ba tuần nữa mới nở. Cụm hoa đó lúc tôi tặng màu tím đẹp vô cùng. Đời giáo viên miền núi nghèo nhưng quà tặng thiên nhiên thì không thiếu, chỉ cần chịu khó đi lên rừng một chút là có ngay.
Người Thượng chưa biết thưởng thức hoa lan hay các loại hoa. Họ rất thực tế, cái qúi của họ là ghè hoa đựng gạo hoặc ghè rượu, chiêng cồng hay vòng bằng đồng, dao, gùi... Nói chung là đồ trang sức và vật dụng dùng hằng ngày. Hoa thì khi cần thì hái, chứ không có cắt về trồng tỉa.
Sau biến cố 1975 thật đúng là một cuộc đổi đời. Thanh niên thiếu nữ được đưa lên miền cao để làm những công tác mà không ai có thể ngờ được. Mỗi người ở một nơi, một nhiệm vụ. Con gái con trai gì cũng thế. Cô Thuận, y tá, làm việc một mình ở bệnh xá huyện; tỉnh thoảng mới có bác sĩ lên một lần. Cô Nha lo bán hàng thương nghiệp cũng thui thủi một mình. Hai cô đều trẻ nhưng hai người khác xa nhau lắm, cô Thuận thì cao to, cởi mở còn cô Nha thì nho nhỏ thì nhẹ nhàng kín đáo ít khi nói cười. Mỗi lần cô Nha cười trông rất ngộ vì cô má lúm đồng tiền và có một cái răng bọc vàng.
Ở giữa rừng hoang vu, ít có người Kinh qua lại, nên khi chúng tôi gặp nhau dễ làm quen và yêu mến nhau vô cùng. Chẳng thế mà thầy Hạ, một giáo viên Xoá Nạn Mù Chữ ở B 8, cuối tuần nào cũng ghé lại cửa hàng thương nghiệp để "cưa" cô Nha, nhưng mãi tới giờ cô Nha vẫn chưa đổ, chưa chịu thầy Hạ. Cô Nha hiền lành nhã nhặn nhưng có nét u hoài trong đôi mắt đen thăm thẳm của cô. Đám giáo viên con trai tụi tôi hay chọc thầy Hạ là cưa của anh không đủ sắc nên lo về mài dũa thêm. Ngoài thầy Hạ cũng còn có mấy thầy khác, nhưng thầy Hạ là bền bỉ nhất cũng chưa thành công. Tôi thì đơn sơ, chẳng nghĩ mông lung gì, ai cũng là bạn thôi, nên mọi người trai gái đều vui vẻ xem như anh em trong nhà.
Nhưng lá bùa may mắn của tôi đã bớt linh nghiệm rồi, mối liên hệ của tôi với Du đã trục trặc và với thầy Phong đã sứt mẻ phần nào. Tôi đã lỡ lời chạm tới tự ái của con trai vạch ra điểm yếu của thầy Phong, tự biến mình thành tình địch hay có thể là kẻ thù. Gây thù gây oán chỉ thêm khổ thân, tôi cũng bực mình lắm nhưng cũng đành. Tôi tự nhủ, "May mà gây oán với thầy Phong, chứ gây oán với người Thượng, họ bỏ bùa cho mà bỏ xác!"
Tôi chỉ kịp ghé xuống thăm anh Trung và Tâm một tí xíu trao thuốc cho anh Tâm, hẹn ngày hôm sau trở lại rồi phải đi ngay vì tôi muốn anh Đoàn chờ gặp cô Mai rồi đưa cô ra bến xe về thị xã. Tôi đã hứa với cô khoảng 3 tuần nữa cho cô về mà 3 tuần nữa tôi phải lo lớp huấn luyện giáo viên Thượng nên không thể thế cô được.
Tôi vừa trờ đến làng Ea Rông thì anh Đoàn cũng khăn gói quả mướp đeo ba lô rời nhà. Tôi chào anh Đoàn:
-- May quá còn gặp anh ở đây! Anh ở lại đây chừng một tiếng rưỡi nha! Quang qua bên làng Ea Rung gặp cô Mai cho cô về phép ít ngày. Cô Mai và anh đi chung nhau một đoạn đường cho vui.
Thực ra dù biết rừng cũng an toàn, nhưng tôi không muốn có việc gì bất trắc xảy ra với giáo viên của tôi, nhất là giáo viên nữ. Nếu không gặp anh Đoàn hôm nay thì tôi sẽ nhờ du kích làng đưa cô Mai ra trạm xe ngày hôm sau thôi chứ không dám để cô đi một mình.
Anh Đoàn hỏi:
-- Rồi ai dạy thế cô Mai?
-- Anh đừng lo, Quang sẽ dạy làng anh tối nay với sáng mai, rồi dạy làng cô Mai tối mai và sáng mốt rồi trở lại đây dạy tối mốt và sáng hôm sau... Thế là chẳng làng nào hụt lớp nào.
Anh Đoàn cười:
-- Đoàn chịu Quang thôi. Linh động cách mạng hở?
-- Biết sao giờ, Quang hứa ba tuần nữa cho cô Mai về, mà bây giờ biết ba tuần nữa, Quang bận việc ở Phòng Giáo Dục thì sao đây? Thôi kệ, Quang lên đây rồi ráng còng lưng lo một công hai ba chuyện.
Tôi để anh Đoàn và ba-lô ở lại làng Ea Rông, chạy không cho mau. Tôi tưởng tượng mình là chàng Pheidippides chạy bộ đường dài từ thành phố Marathon về tới thành phố Athens để báo tin chiến thắng thời cổ Hy Lạp năm 490 trước Kỷ nguyên Thiên Chúa Giáo. Tôi vừa chạy vừa thở đều đều và chạy trên bóng râm đường mòn nên không đến nỗi mệt lắm khi tới làng Ea Rung. Cô Mai thấy mặt tôi cười hỏi, "Anh Quang mới đi uống rượu về hở? Sao mà mặt đỏ gay thế?"
Tôi cười giải thích qua loa, cô Mai mừng rỡ cám ơn rối rít. Đợi cô Mai sửa soạn ba lô đâu đó xong, tôi nói, "Mai để Quang đeo ba lô cho! Mai đi không, tới làng thầy Đoàn rồi Mai đeo ba lô rồi cùng về với thầy Đoàn!"
-- Anh Đoàn cũng về hở
-- Không, anh Đoàn sang làng Kờ Mông dạy thế cô Liễu, về gần cô Hạnh và bệnh xá để coi có thể điều trị bệnh suyễn của anh Đoàn không. May ra đi nhanh, Mai có thể về cùng với cô Liễu hôm nay đó!
Khỏi phải nói, cô Mai thu dọn một cách nhanh nhẹn. Được đi chung về thị xã với người quen thì còn gì bằng, nhất là hai cô lại cùng phường ở thị xã. Hai cô thể nào cũng có bao nhiêu chuyện để mà tâm sự. Con gái với nhau mà!
Chạy đi và trở về làng Ea Rông không đầy một tiếng. Anh Đoàn ngạc nhiên lắm, hỏi:
-- Bộ Quang có cánh bay hay sao mà lẹ vậỷ
-- Quang chạy bộ, và cô Mai cũng đi lẹ để kịp chuyến xe về thị xã hôm nay đó. May ra thì cùng về với cô Liễụ Anh và chị Hạnh đưa cô Mai ra bến xe giùm Quang nhé!
Tôi nháy mắt với anh:
-- Nói chị Hạnh báo cho dân làng biết là chị đưa anh ra bệnh xá rồi mai trở về nếu cần. Hụt một buổi tối cũng không sao! Quang chịu trách nhiệm cho!
Anh Đoàn nói:
-- Không sao, đưa cô Mai ra bến xe rồi Đoàn sẽ đưa Hạnh về lại làng ngay, rồi một mình Đoàn về làng Kờ Mông cũng được, Đoàn còn khoẻ mà.
-- Cám ơn anh! Cứ vậy đi, thôi anh và cô Mai đi liền đi cho kịp!
Chờ thầy Đoàn và cô Mai đi khuất rồi, tôi ra trường ngồi soạn giáo án cho chương trình huấn luyện giáo viên Thượng trong ba tuần nữa. Tôi sẽ dành ngày đầu nói sơ qua về công việc của các giáo viên mới rồi giao họ lại cho anh Nhật và bên Đảng ủy nói về đường lối chính trị. Từ ngày thứ hai trở đi cho tới ngày áp chót thì anh Ít và tôi sẽ phụ trách. Ngày cuối lại giao cho anh Nhật, Phòng Giáo Dục và Huyện Uỷ lo thủ tục hành chánh lương lậu và liên hoan mãn khoá. Cấp tốc trong 3 tuần, vậy là từ đây tới 6 tuần nữa tôi hoàn toàn bận bịu không thể tìm gặp Du hay Nhung.
Tôi ngồi viết lách quên cả thời gian cho tới khi tiếng ồn ào trong làng làm tôi ngẩng đầu lên. Mấy anh du kích đi săn vừa bắn được một con nai lớn. Họ nói với tôi:
-- Đạn của bộ đội mới cho hên quá!
Tôi bật cười:
-- Vậy là có lời rồi đó nhé! Có phần tôi không?
-- Có mà, tối nay, chúng tôi đưa cho thầy ở lớp học nha!
-- Được, được, cám ơn!
Tôi vui thấy họ vui, và chợt nhớ mình chưa ăn trưa, bụng cồn cào rồi! Tôi không thể chờ thịt nai để ăn tối. Tôi về nhà bắc nước thổi cơm và ăn với thịt bò kho với xả ớt cay thật cay mà Mẹ tôi đã bỏ vào lon sữa ghi gô (guigot). Tôi cảm thấy bớt bứt rứt là đã quên không chia sớt với anh Trung và Tâm lon thịt khô của mình. Tối nay tôi sẽ nấu cháo thịt nai rồi sáng sớm mai sau khi dạy học xong đưa xuống thác cho hai anh rồi sang làng Ea Rung dạy thế cô Mai.
Chương 25
Tôi mỉm cười khi đọc đoạn nhật ký khi Nhung nhắc đến tôi lần đầu tiên khi tôi được bầu làm Trưởng Lớp, niên khoá 1975-1976, khóa học đầu tiên sau ngày đất nước đổi thay.
Hắn thân hình mảnh khảnh, dáng cao cao, có lẽ cao nhất lớp. Hắn có cái nhìn xa vời, nhưng khi hắn nhìn người nào đều khiến người ấy cảm thấy gần gũi, tin tưởng. Có lẽ vì vậy mà hắn được bầu làm trưởng lớp mặc dầu hắn là một học sinh mới hoàn toàn. Thông thường bạn bè thường bầu cho nhau, nhưng kỳ này, chẳng ai muốn làm, kể cả hắn. Có lẽ không ai muốn lãnh trách nhiệm vì tình hình biến chuyển của đất nước.
Sau khi được bầu làm trưởng lớp, hắn đứng lên ngỏ lời cám ơn mọi người đã bầu trưởng và phó trưởng lớp và đề nghị mọi người bầu thêm các trưởng ban khác mà hắn nghĩ sẽ tạo cơ hội mọi người hiểu biết, vui chơi và cộng tác với nhau hơn theo chủ tiêu vui chơi học hỏi và khoẻ để phụng sự.
Ban thể thao được trao cho Trần Văn Dung và Nguyễn Đức Bảo.
Ban báo chí được trao cho Nguyễn Văn Quảng và Nguyễn Thị Mỹ Ánh.
Ban văn nghệ: Nhung và Phạm Thị Thừa.
Tôi mỉm cười và nhớ lại những ngày đầu đi học với những ưu tư dưới chế độ mới. Anh Dung, chơi đá banh rất giỏi, học được nửa năm rồi nghỉ vì bị sốt rét cấp tính rồi tê liệt chân. Hôm tôi dẫn các bạn trong lớp tới thăm, chúng tôi đều khóc, tội nghiệp anh ấỵ Sau đó anh Bảo lên thế và chúng tôi bầu Phạm Công Minh vào chức phó trưởng Ban Thể Thao.
Biến thiên lịch sử đã thay đổi những dự định tương lai của biết bao nhiêu gia đình và học sinh. Cuộc sống là tranh đấu, thử thách, như tác phẩm Thép Đã Tôi Thế Đấy miêu tả. Con người nghị lực phải cố gắng vươn lên và góp sức cho đời. Tôi thích đọc những tác phẩm Học Làm Người của Nguyễn Hiến Lê, Hoàng Xuân Việt, Nguyễn Duy Cần dưới thời Việt Nam Cộng Hoà hơn là những tác phẩm cách mạng. Nhưng các tác phẩm cách mạng thì nhan nhãn trong các tiệm sách mà giá lại rẻ nên có dư chút tiền tôi đều mua để tìm hiểu thêm như lời thầy giáo hồi xưa nói với chúng tôi, "Để lại cho con cả gia tài không bằng để lại cho con một quyển sách tốt!"
Suốt thời gian làm lớp trưởng, tôi đã cố gắng thực thi những gì đã học hỏi từ tủ sách Học Làm Người hơn là giáo điều mù quáng với những khẩu hiệu cách mạng, không phải vì tôi là con cháu nguỵ quân nguỵ quyền mà vì nhận thức thông thường đã học hỏi và biết suy xét. Chiến tranh đã kết thúc rồi, chúng tôi dấn thân vào việc học tập và xây dựng xã hội mới. Làm việc gì cũng vậy, tôi nhận thấy cần phải biết suy xét, tư duy một cách khách quan không giáo điều mù quáng hay bè phái. Tôi đã cố gạt bỏ những thành kiến về cộng sản để chấp nhận cuộc sống mới dưới ánh mắt xót thương của cha anh. Họ đã chiến đấu ròng rã bao năm trời cho một lý tưởng cao vời mà cuối cùng lại phải thất bại. Âu cũng là vận nước. Có thăng có trầm, có thịnh có suy. Bố tôi thường bảo vậy.
Phải chăng đất nước hay con người phải xuống tận cùng vực thẳm để bắt đầu đi lên, mỗi bước tiến sẽ là một thành tựu đáng ghi nhớ. Thời gian ban đầu, tôi thấy cũng không đến nỗi, mọi sinh hoạt hằng ngày đã trở lại bình thường cho đến khi các nơi phát động kế hoạc đánh tư bản maị bản bằng cách đổi tiền giữa năm tôi học lớp 12. Tôi chẳng thấy ai là tư bản mại bản, tất cả đều là những người dân đã và đang cố sống với cuộc sống vất vả hiện tại. Việc đổi tiền đã gây khủng hoảng lớn trong thành phố chúng tôi. Chẳng ai còn thiết tha làm việc.
Tôi lái xe đạp chạy vòng vòng các trạm đổi tiền, để ghi nhận khuôn mặt thống khổ của từng người trước nỗi niềm đau chung. Tất cả dân miền Nam trở thành nạn nhân của sự chèn ép tinh vi của chế độ mới. Tiền bạc dành dụm của mọi người xưa nay đã phút chốc tiêu hao và niềm tin vào chế độ hậu chiến tranh cũng mất mát.
Thủy, bạn học cùng lớp tôi bấy giờ, là con một thương gia khá trong tỉnh gặp tôi ở trạm đổi tiền ngay ở phường Năm, hỏi tôi:
-- Anh Quang làm gì ở đây? Đổi tiền hở.?
-- Tiền đâu mà đổi! Mẹ Quang đang đứng xếp hàng chờ kia kìa! Quang chỉ muốn nhìn mọi người để ghi nhận rồi sau này có dịp sẽ viết lại nỗi đau chung của mọi người thôi.
Thuỷ lắc đầu hỏi tôi:
-- Anh làm giúp Thủy việc này được không?
-- Việc gì vậỷ
-- Anh theo Thuỷ về nhà lấy tiền đổi giùm gia đình Thủy vì họ giới hạn số tiền được phép đổi. Đổi được bao nhiêu cũng được. Không đổi thì số tiền ấy cũng không có giá trị gì.
-- Quang không biết mẹ Quang hiện có bao nhiêu, để Quang hỏi rồi giúp.
-- Đừng anh, anh cứ về nhà Thủy lấy tiền rồi đưa cho Bác, thiếu thừa tính sau, vì hỏi bây giờ bị nghi ngờ theo dõi đó.
Hôm đó Mẹ tôi giúp Thuỷ đổi được đâu 500 đồng tiền mới. Gia đình Thuỷ gởi Mẹ tôi một nửa, nhưng Mẹ tôi lắc đầu từ chối, nói giúp đỡ nhau là chuyện thường, đâu phải mua bán gì đâu. Ba má Thuỷ đành cầm số tiền cho lại và nói rằng:
-- Sau này có việc gì cần, ông bà cứ cho chúng tôi biết!
Bố Mẹ tôi đã già. Các người luôn luôn dạy anh em chúng tôi sống yêu người tích đức phụng sự tha nhân. Việc gì ở đời này cũng là tạm bợ, cũng qua đi với thời gian. Chỉ có những gì trường cửu trên trời mới đáng kể. Bài học cá nhân của gia đình tôi cơ ngơi đồ sộ ngoài Bắc phải bỏ để di cư vào Nam, xây dựng vườn tược đồn điền trù phú rồi cũng phải bỏ vì chiến tranh, rồi bây giờ ít mẫu rộng còn lại sát thị xã cũng phải đem vào hợp tác xã. Tiền bạc xưa nay của bố mẹ tôi là dựa vào vườn rau và vườn cây ăn trái. Khi dư giả thì lại đầu tư vào ruộng đất.
Giới thương nghiệp, nông nghiệp, quân nhân đều trở thành nạn nhân của sự thiếu suy xét lâu dài mà đáng ra sau chiến tranh sẽ là một lực lượng hùng hậu để dựng xây đất nước.
Tôi ngẩng đầu nhìn ra ngoài cửa. Trời đã xế chiều, trưa mai thầy Đoàn từ làng Kờ Mông sẽ trở vào, và cô Liễu, cô Mai sẽ trở lại nhiệm sở. Đã 5 ngày tôi xoay sở dạy ở làng thầy Đoàn, làng cô Mai, đi thăm anh Trung và anh Tâm mỗi ngày. Anh Tâm đã không còn sốt nữa, sức khoẻ đã hồi phục, và có thể ra đi được rồi. Trong 5 ngày anh Trung và tôi dùng câu cắm đã bắt được khá nhiều cá để tôi đem về làng luộc và xé ra nhỏ trộn với muối và rang khô để làm ruốc giúp các anh làm thức ăn đi đường. Chương trình huấn luyện các giáo viên Thượng cũng đã tạm xong. Khi người ta làm việc dưới áp lực của việc gì đó thường mau chóng hơn lúc lam` việc tà tà, không có thời gian nhất định.
Sáng nay tôi dạy ở làng thầy Đoàn, tôi đã từ giã mọi người. Buổi trưa tôi ra thác câu cá và thăm anh Trung và Tâm. Hai anh cũng nóng lòng ra đi, tôi đã đưa cho các anh hộp ruốc cá và hứa sẽ trở lại trưa mai để dẫn các anh đi lên biên giớị Cả mấy ngày qua tôi chỉ dẫn cặn kẽ đường đi nước bước' nên các anh cũng đã rành rẽ phần nào. Tối nay tôi sẽ dạy bình thường ở làng cô Mai, nhưng sáng mai tôi sẽ giã từ họ trong bữa học cuối cùng.
Gặp nhau giã biệt nhau trở thành thông lệ nhưng cũng xót xa trong lòng. Tôi yêu mến người dân, qúi trọng anh Trung và anh Tâm, dân làng tôi còn có dịp gặp lại, nhưng khi giã biệt hai anh ngày mai rồi chắc chúng tôi chẳng còn cơ hội nào để gặp nhau. Hai anh nhất định đi, chứ không chịu trở về. Anh Tâm khai thật với tôi là anh đã lấy một số tiền lớn ở cơ quan để mua ghe vượt biển ở Qui Nhơn nhưng bị lừa nên đành phải đi trốn bằng bất cứ giá nào, chứ không thể trở nào trở về được. Còn anh Trung thì tham gia vào một nhóm Phục Quốc giả do chính cộng sản thành lập để quy tụ những phần tử chống đối. Hôm công an truy lùng anh kịp thời trốn được nên bây giờ có trở về cũng chỉ ngồi tù.
Tôi lo sợ cho các anh nhưng cũng không biết phải làm thế nào. Đã đến nước này, thì các anh nhắm mắt ra đi là phải. Tôi vẽ sơ đồ, chỉ cho các anh những tiếng Thượng cơ bản, để nếu cần các anh có thể giả làm Giáo Viên Miền Núi đi lên vùng biên giới để dạy. Tôi biết là tôi liều lĩnh lắm, nhưng giúp người thì trời sẽ giúp mình. Công việc xây dựng đất nước đâu phải độc quyền những người ở trong nước mà thôi, mà những người ngoài nước cũng đóng góp phần không kém quan trọng như dân tộc Do Thái.
Biết đâu một ngày nào đó, những người như anh Trung, anh Tâm sẽ là những Mạnh Thường Quân trợ lực việc xây dựng lại quê hương, biết đâu những người Thượng mà chúng tôi đang dạy sẽ trở thành lực lượng đấu tranh cho tự do no ấm thực sự.
Tôi mơ màng mơ tới một ngày đất nước thực sự thanh bình, thấy được mọi người đoàn kết thương yêu nhau, không có nhà tù, không có trại cải tạo, không còn phân biệt quốc gia hay cộng sản, mà chỉ biết rằng mọi người đều là con rồng cháu tiên, giòng dõi Lạc Việt cùng chung một bọc biết cùng nhau xây dựng một quê hương đẹp giàu....
Chương 26
Tôi đã ăn trưa và sửa soạn xong khi thầy Đoàn đưa cô Mai tới làng. Nhìn mặt vui vẻ của hai người tôi cũng thấy vui lây. Tôi báo cho cô Mai và thầy Đoàn những gì tôi đã dạy trong năm ngày qua, và hỏi thầy Đoàn thấy bên làng Kờ Mông thế nào.
-- Bên đó dân họ dễ chịu và thích học. Đoàn rất mến.
Rồi anh chần chừ:
-- Cô Liễu chưa lên hôm nay, có lẽ Quang phải về đó dạy, để không họ nói thầy cô giáo nghỉ dạy bất thường.
Tôi đưa mắt nhìn cô Mai, dò hỏi:
-- Mai biết có chuyện gì xảy ra không?
-- Không anh, hôm qua, Mai tới nhà Liễu rủ sáng nay đi chung thì nhà gia đình Liễu nói Liễu đi từ sáng sớm hôm qua.
-- Lạ nhỉ! Nếu cô Liễu lên hôm qua, thì đã vào tới làng hôm qua rồi. Có lẽ Liễu đi chơi đâu đó rồi nói dối với người nhà là đi lên đây thôi.
Cô Mai hỏi:
-- Anh có dự định gì không?
-- Dự định gì?
-- Về chị Liễu đó!
-- Không, thì Quang phải lên làng Kờ Mông dạy thế cô Liễu vài ngày. Nếu sau ba ngày nữa mà cô Liễu chưa lên thì Quang bắt buộc phải báo cáo thôi. Sợ chuyện gì xảy ra cho cô Liễu mà mình tỉnh bơ không biết thì phải chịu trách nhiệm sau này. Hy vọng là cô Liễu không việc gì!
-- Chắc không sao đâu! Chị Liễu lớn rồi, anh không phải lo!
-- Mai có gặp giáo viên trong huyện nào khác về thị xã không?
-- À tối hôm kia, chị Liễu và Mai có đi phố gặp anh Lực, anh Tài ở B3 cũng mới về nghỉ phép. Nghe anh Tài nói họ sẽ phải trở lại hôm sau. Không chừng chị Liễu đi lên B3 với anh Lực. Họ nói chuyện ăn ý lắm.
B3 cũng thuộc huyện Chư Pah, gồm nhiều làng khá văn minh quanh Ninh Đức, một khu vực trù phú. Đường lên B3 là đường lên Kontum theo quốc lộ 14, hướng Bắc, đi theo đường Lê Lợi, còn đường vào làng Kờ Mông hay trụ sở huyện lại về hướng Tây trên đường Hoàng Diệu nếu lấy rạp hát Diệp Kính là góc vuông của hai đường. Tôi cảm thấy hơi bực bội vì dự định của tôi đưa anh Trung và Tâm lên biên giới bị đứt đoạn. Kệ đi, một ngày không có lớp cũng không sao. Tôi thầm nhủ, việc đưa người đi cho an toàn quan trọng hơn, mình còn dạy ở đây dài dài, việc đưa người đâu phải lúc nào cũng xảy ra.
Có lẽ khuôn mặt tôi lúc bấy giờ đăm chiêu suy nghĩ lắm nên cô Mai nói:
-- Không việc gì đâu anh Quang. Anh lo nghĩ làm gì? Chuyện chị Liễu, chị Liễu lo.
-- Đành rồi, mọi người trong chúng ta đều trưởng thành hết rồi mà!
-- Anh ở lại ăn cơm rồi về nhé!
-- À không, Quang ăn trưa rồi. Nồi cơm và đồ ăn kia là phần Mai đó! Quang không nghĩ anh Đoàn sẽ tới đây nên nấu không nhiều mấy, nhưng cũng đủ cho Mai và anh Đoàn ăn tạm trước khi ăn tối.
-- Cám ơn anh! Đoàn sáng sớm nay đã tới nhà Hạnh ăn uống xong hết rồi thì cô Mai tới nên mới cùng nhau vào làng chung đó! Hồi nãy cô Mai ghé chỗ Hạnh không chịu ăn cơm nguội nên bây giờ mới đói!
Thầy Đoàn nhìn cô Mai chọc. Cô Mai cười phá lên làm chúng tôi cùng cười. Cô Mai đề nghị:
-- Vậy để Mai nấu chè đậu đen, hai anh ăn rồi đi nhé?
-- Cám ơn Mai, Quang phải đi. Anh Đoàn ở lại ăn chè đi, Quang có việc phải đi. Với lại hôm trước Quang đã ăn chè quá tiêu chuẩn của cô Mai rồi, anh Đoàn chưa có dịp thưởng thức, anh cứ việc ở lại ăn chè xong rồi về cũng còn dư thời giờ để lên lớp.
Tôi khoác ba lô lên vai rồi từ giã cô Mai và thầy Đoàn. Cũng còn 4, 5 tiếng để đi trước khi trời tối. Thời gian đó cũng đủ cho tôi đưa anh Trung và anh Tâm tới B 11! Đêm nay ba chúng tôi phải ngủ giữa rừng thôi! Tôi thầm nghĩ! Sáng mai mình có thể đưa hai anh ấy đi thêm một đoạn nữa tới giáp địa phận B 12 rồi hai anh phải tự đi về biên giới chứ đưa hai anh tới hẳn biên giới thì phải mất hơn hai ngày mà mình phải về làng Kờ Mông và còn ít chi tiết phải viết cho xong trước ngày huấn luyện giáo viên Thượng. Phải chi cô Liễu đã có mặt thì đỡ biết chừng nào, mình có thể đưa hai anh thêm một ngày nữa, rồi chỉ cho hai anh đi theo lối nhỏ dẫn tới con sông Krong Poco. Vượt qua con sông đó rồi đi dọc theo bờ phía phải thì sẽ tới thượng nguồn sông Cửu Long ở bên Cam Bốt. Đóng bè vượt qua sông rồi đi thẳng về phiá Tây sẽ tới khu vực Chiang Mai bên Thái Lan trong vòng ít ngày nếu rành rẽ đường xá và không phải lẩn tránh.
Tôi thấy mình đang làm một việc liều lĩnh mà nếu bố mẹ tôi biết được sẽ cản ngăn ngay vì việc này mà bị phát giác sẽ ảnh hưởng rất lớn với tương lai của tôi. Nhưng lao đã phóng rồi, tôi không có gì ân hận vì thấy mình không có sai trái gì với lương tâm. Đã giúp thì giúp tới cùng. Tôi không thể làm ngơ trước sự tuyệt vọng của những người đang ở đường cùng. Thà cho các anh một đường thoát còn hơn thấy các anh sống trong vòng tù tội, sợ hãi vì trong cuộc đời không có gì khổ sở hơn khi sống trong tuyệt vọng.
Nguyên Đỗ
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tình ca giáo viên miền núi 2

Tình ca giáo viên miền núi 2 Chương 27 Tôi đi nhanh trên đường mòn về làng Ea Nang và lách mình theo lối nhỏ xuống thác nước. Trời đang nắ...