Quê nhà yêu dấu
Chương nhất
Vẫn con đường đó, trận mưa đêm trước làm những mô đất gồ ghề
trở nên vũng nước. Bụi duối dại hai bên đường còn phơi những khóm lá ướt át
sương đêm. Ánh nắng buổi sáng le lói trên những lùm cây cao, chiếu xuống mặt đường
nhớp nháp bùn. Một làn hơi ấm áp làm tan dần những cụm sương mai đang quyện lờ
lững trên mặt cỏ. Buổi sáng ở nhà quê êm ả lạ lùng. Có tiếng chim hót trong
khóm lá. Có tiếng cành khô gẫy ròn dưới bước chân ai dẫm trên bồn cỏ. Và qua những
bụi duối dại um tùm cánh đồng sũng nước hiện ra như muôn ngàn tấm gương chói lòa ánh sáng.
Chẳng ai có thể ngờ cái khung cảnh yên tĩnh, dịu dàng đó về
đêm lại trở nên dữ dội, kinh hoàng. Tiếng bom dây từ bên kia quốc lộ nhiều khi
kéo dài tưởng như bất tận làm rung chuyển làng xóm. Những quả trái sáng lơ lửng
trên từng cao xua tan trong khoảnh khắc bầu trời đầy bóng tối nhưng đồng thời
in những bóng cây chập chờn trên mặt đất khiến cho bầu không khí đe doạ, chết
chóc như càng thêm đặc lại, bóp nghẹn lấy sự hồi hộp, sợ hãi của biết bao nhiêu
tâm hồn ngơ ngác, lo âu.
Nằm dưới gầm phản, Thu nghe thấy không ngớt tiếng súng nổ ầm
ì, tiếng động cơ máy bay rền rĩ nặng nề di chuyển ngang qua bầu tròi. Trái tim
non nớt của Thu như thắt lại, và đã bé bỏng Thu càng có cảm giác như mình bé bỏng
đi hơn giữa một khoảng trời mênh mông, sâu thẳm. Lâu lâu lại có tiếng chân chạy
rậm rịch ngoài lối ngõ. Tiếng thép súng va chạm vào nhau kêu lách cách, và những
tin tức ngắn ngủi được trao nhau trong bóng tối đầy nghiêm trọng:
– Đụng ở ngoài cầu xi-măng trên quốc lộ.
– Súng nổ ở ấp Hoà Lợi đó!
Những vị trí ấy nằm ở bên trái, bên phải, đằng trước, đằng
sau, nhiều khi chỉ cách căn nhà Thu ở không đầy ba cây số đã làm cho thần kinh
của Thu nhão ra, tê điếng. Thu thấy mình hoàn toàn trở thành một khúc gỗ vô
tri.
Những đêm kinh hoàng như thế đi qua thật nặng nề, chậm chạp.
Và Thu chỉ thấy lòng yên ổn, nhẹ nhàng mỗi khi ánh bình minh tươi sáng trở về
ngự trị trong thôn ấp. Bầu trời rạng rỡ. Không gian êm ả. Vạn vật tưng bừng, rộn
rã. Dấu tích kinh hoàng đêm trước nhiều khi chỉ còn là những cuộn khói đen âm ỉ
cháy từ bên kia đồng, hoặc những mảng thân cây, vách tường, mái ngói bị đạn
chém sượt qua còn in rõ từng vết tích.
Vì tình hình mất an ninh như vậy, nên mọi công việc ở đâu
cũng hầu như chậm lại. Nhiều người bỏ nhà lên tỉnh. Sinh hoạt trù phú ngày xưa
không còn nữa. Con đường đông đúc lên chợ bây giờ vắng hoe, điêu tàn. Công việc
hàng ngày của Thu vì thế cũng trở nên nhàn rỗi hơn trước. Hồi chiến sự chưa lan
về, hàng ngày Thu phải lo hai nhiệm vụ: chăm sóc một con trâu và làm tròn bổn
phận của một cô bé lớp nhì trường tiểu học cộng đồng. A! Con trâu mập mạp đen
trùi trũi trông mới dễ thương làm sao. Sừng nó cong vút và thật dài. Từ chân đến
ngọn, Thu đếm được đúng bẩy đốt chắc nịch và nhẵn bóng. Trên cặp sừng cong mầu
xám đó, Thu thường níu lấy để đu lên mình trâu rồi ngồi xoạc cẳng qua hai bên để
dẫn trâu thong thả, chậm chạp đi trên những con đường thơm mùi cỏ ướt. Đối với
Thu, con trâu quá hiền lành. Mặc dầu nhiều lúc Thu hành hạ nó đủ điều mà đôi mắt
của nó vẫn đầy vẻ khoan dung. Thu có cảm giác như đọc được cả những ý nghĩ bình
thản của con trâu qua những tia mắt hiền từ, dịu dàng ấy. Ngồi trên mình trâu,
Thu nghêu ngao hát. Và trâu từ tốn đưa Thu lững thững đi từ cổng nhà ra đường
cái, từ đường cái lên gò Ông Cả, từ gò Ông Cả qua Rạch Bầu Mưa. Rồi cả Thu lẫn
trâu vầy nước ở đó từ lúc trời còn nắng như đổ lửa đến khi hoàng hôn đổ xuống
in trên đồng lúa một giải ánh sáng vàng úa chạy xa đến tận chân trời. Nhiều hôm
Thu ngủ quên ngay dưới gốc những cây sồi sau khi nghêu ngao đọc lại các bài học
thuộc lòng in trong cuốn tập đọc lớp nhì:
Chăn trâu ai bảo khổ nào
Chăn trâu sướng lắm dạt dào niềm vui
Bãi xa, sân rộng, chân đồi
Lưng trâu ngất nghểu, rong chơi khắp làng
Nón mê chẳng khác tàn vàng
Roi tre vung vẩy nghênh ngang một vùng.
Những giờ phút thần tiên ấy đã đi qua như một giấc mộng êm đềm.
Bây giờ thì con trâu hiền từ không còn nữa. Nó chết vì đạn lạc vào một buổi chiều
đụng độ ở ven quốc lộ từ khi mặt trận đã di chuyển về đây. Vào giây phút cuối
cùng, Thu thấy trâu nằm phủ phục sau một gốc cây bên bờ rạch. Đạn trổ từ hông
ra mạng sườn. Những đầu xương trắng hếu hiện ra xen lẫn từng mảnh thịt chan hoà
máu đỏ. Máu thấm trên nền cỏ, in từng giọt đen thẫm trên mặt đất khô. Và tiếng
rên rỉ đau đớn của trâu làm Thu oà lên khóc. Thu không dám nhìn lâu, đôi mắt hiền
từ của nó đang long lanh ướt. Sự tinh anh lạc dần nhưng không dấu được vẻ ngơ
ngác, vô tội. Rồi con trâu chết hẳn sau một cơn chịu đựng lâu dài. Ba của Thu hợp
lực với bốn người nữa trói xác trâu lại để khiêng về bằng một cây đòn lớn. Thịt
trâu được cắt ra. Chia năm xẻ bẩy. Mỗi nhà một phần. Trong bếp nhà Thu, nồi thịt
trâu kho được hầm đi hầm lại rả rích suốt gần hai tuần lễ. Không bao giờ Thu
quên được ánh mắt của trâu nhìn mình lúc hấp hối. Cũng không bao giờ Thu quên
được dáng dấp hiền lành của trâu đã theo mình trong bao nhiêu năm. Nó không còn
là bạn chí thiết của Thu với đầy dẫy những kỷ niệm thân yêu. Bây giờ ngồi gợi lại
những kỷ niệm đó, Thu khóc tức tưởi một mình bên bếp lửa, ngọn lửa hun nóng mãi
nồi thịt trâu sôi sùng sục và toả lân một mùi nước mắm chín thơm ngạt ngào. Thật
là mỉa mai, chua xót. Thu còn đó và dấu tích của trâu còn đây, nhưng chẳng bao
giờ Thu còn được ngồi trên mình trâu để mà nghêu ngao hát: –Trâu hỡi trâu ơi đi
cày, trâu ơi đi cấy nhé.
Và như thế là nhiệm vụ chăn trâu của Thu đã chấm dứt. Nguồn
an ủi thứ nhìn của Thu chỉ còn là ngôi trường xinh xắn, êm ả với mới ngói đỏ nổi
bật trên nếp tường quét vôi trắng. Bốn bề chung quanh là những cây bàng, có tàn
lớn xoè ra che kín cả sân chơi. Vào mùa hạ, lá bàng khô theo gió rụng trên thảm
cỏ xanh rờn in thành những đốm đỏ héo úa rải rác khắp sân trường. Lớp học của
Thu rất cao ráo sạch sẽ. Chỗ bàn Thu ngồi nhìn được qua khung cửa sổ. Một khoảng
trời xanh thoáng mát hiện ra với từng cụm mây trắng bay bồng bềnh trong gió thoảng.
Thấp thoáng phía bên kia hàng rào là những chùm hoa phượng nở đỏ chói chang
trên nền lá xanh tươi. Những cây phượng mọc dài trên con đường đất nhỏ dẫn qua
những khu vườn um tùm cây cối. Ở phía con đường là một bãi đất rộng ngay trước
cổng chùa. Ngôi chùa xinh xắn này là thiên đường của lũ trẻ. Bởi vì bao bọc
chung quanh chùa có rất nhiều cây to, bóng mát. Lại có nhiều thứ cây ăn quả được
như trứng cá, tầm ruột, xoài hay ổi. Vào mùa ổi chín, mùi thơm ngạt ngào,
thoang thoảng theo hơi gió bay đi. Bọn trẻ thường băng qua lớp tường thấp phủ đầy
rêu xám để vào làm mưa làm gió với những trò chơi quái ác trên những cành cây
cao. Chúng ăn ổi chín và ném nhau bằng những trái ổi xanh. Nhiều khi quả ổi rớt
lên mái chùa lăn từng vòng reo lên thành những tiếng lóc cóc, lóc cóc. Sự quá
quắt của chúng nó khiến cho người hiền lành bậc nhất như sư trụ trì cũng phải
kêu lên:
– Vô thì vô nhưng đừng có phá. Ăn ổi thì ăn nhưng đừng có
ném, vừa uổng phí vừa phải tội…
Bọn trẻ như chẳng để lọt vào tai lời ta thán dịu dàng đó.
Chúng nó chỉ rời đi khi đã ăn chán, ném nhau chán và phát giác ra một trò chơi
mới lạ nào đó ngoài Rạch Bầu Mưa. Dưới trời nắng gắt gay như đổ lửa, chúng nó
xoay trần như nhộng, nhẩy xuống nước vừa tắm vừa nô như chợ vỡ.
Nhưng rồi những cảnh thanh bình an lạc ấy chỉ kéo dài cho đến
khi trận đánh mở màn ở phía bên kia quốc lộ. Chiến tranh đã xoá bỏ đi biết bao
nhiêu giờ phút êm đềm của đồng quê yêu dấu. Chiến tranh cũng đã vùi dập biết
bao nhiêu khung cảnh ngọt ngào thơ mộng mà ước mơ giản dị của mọi người chỉ là
được sống an lành trong sự ngọt ngào và thơ mộng ấy. Chiến tranh đã xua đi cả một
dĩ vãng hồn nhiên và tươi trẻ. Nhiều gia đình lo xa đã bồng bế nhau lên tỉnh.
Làng xóm vắng dần theo ngày tháng và tin tức chiến sự. Cuối cùng số người ở lại
có thể đếm bằng những ngón tay. Chợ búa trở nên vắng hoe. Ngôi trường trước có
bốn lớp chật ních dần dần chỉ còn có hai, rồi còn một và bây giờ thì đã ngừng
hoạt động. Trước thì có thầy, có cô ở tỉnh về dạy. Sau nhà nước rút đi thay thế
bằng người của địa phương. Rồi một số thầy, cô đem gia đình đi lánh cư hết, rút
cục cửa trường đóng im lìm. Sân trường cỏ dại mọc đầy. Từng lớp rêu phong lan dần
trên mấy nếp tường vôi. Rắn, rết, bắt đầu làm tổ trong những đám cỏ lâu ngày
không người săn sóc.
Bạn bè của Thu cũng ra đi gần hết. Ngó đi ngó lại, tất cả
trong ấp, Thu chỉ còn vai ba đứa bạn. Rồi chúng nó cũng lại theo gia đình nốt để
lại cho Thu có một nguồn an ủi duy nhất: đó là bé Hương. Hương là một cô bé lên
sáu. Có lẽ so với mọi đứa ở đây, Hương là một búp bê có số phận hẩm hiu nhất.
Thân hình Hương nhỏ nhắn dễ thương, mái tóc cắt theo kiểu Nhật Bản, vầng trán
cao, hai mắt đen láy và to như chứa đựng cả một tâm hồn thơ ngây và trong sáng.
Miệng Hương hơi nhỏ, vành môi đỏ thắm, khi nó cười, nụ cười hồn nhiên rất dễ
thương, để lộ ra hai hàm răng nhỏ như răng chuột. Hai năm trước, ba của Hưong
xung vào dân vệ xã. Hơn một năm sau thì ông mất trong một trận công đồn. Mẹ
Hương còn rất trẻ. Bà ở vậy nuôi con. Là con một nên Hương rất được nuông chìu.
Rồi một ngày theo mẹ lên tỉnh, chuyến xe của Hương đi bị trúng mìn. Mẹ Hương
thoát nạn nhưng từ đó Hương chỉ còn có một chân. Bây giờ nó phải đi bằng nạng gỗ
và đã đi rất thành thạo. Chỉ có những ngày đầu tiên là vất vả. Xương vai của
Hương như muốn vẹo đi, bắp thịt ở nách phồng rộp lên và mỏi nhừ. Thu đã đóng
góp rất nhiều công lao của mình vào thời kỳ tập đi của nó. Hai chị em kéo nhau
ra sân chùa. Bãi cỏ xanh mướt và phẳng lì. Thu chỉ vào một cây cột gạch phủ đầy
rêu xám rồi nói:
– Bây giờ tao làm thỏ mày làm rùa. Thỏ với rùa chơi chạy thi.
Lấy cây cột này làm mức ăn thua.
Hương cãi lại:
– Không chơi với mày khôn. Thỏ chạy nhanh hơn rùa. Phải cho
tao làm thỏ.
Thu dậm chân:
– Mày dốt lắm. Thỏ nhanh hơn rùa nhưng thỏ kiêu ngạo, thỏ đi
rong chơi một mình. Con rùa tuy chậm hơn nhưng nó chịu khó. Nó đi mải miết nên
sẽ thắng lợi. Chân mày đau, mày làm rùa, phải rồi còn gì.
Hương nghe vỡ lẽ, bằng lòng làm rùa. Hai đưa chơi chạy thi.
Vòng đua là quanh bãi cỏ. Phần thưởng là một chiếc kẹo chanh mút, thứ kẹo mẹ
Thu vẫn buôn ở trên tỉnh về. Hai đứa bắt đầu cuộc đua. Thu chạy thật nhanh lên
một quãng rồi ngừng lại trước một bụi cây đầy hoa râm bụt đỏ ối. Nó hái một
bông hoa cầm trên tay. Ở đằng sau, Hương khập khiễng chống cái nạng đi tới. Thu
hét to:
– Thỏ kiêu ngạo, nó chơi cái gì mày mặc nó. Làm rùa thì chỉ
có mải miết đi thôi.
Hương mỉm cười phấn khởi. Hai con mắt của nó long lanh sáng.
Nó nhìn về đằng trước. Cánh tay chống nạng đưa thoăn thoắt trên nền cỏ ẩm ướt.
Chỉ một lát, nó vượt qua chỗ con Thu. Thu vỗ tay reo:
– Giỏi lắm! Rùa cố lên đi. Còn tao đi tìm dế đây.
Thu lẩn vào bụi rậm, nhìn ra mỉm cười. Nó trông thấy Hương chập
choạng bước. Mảng áo sau lưng của con bé ướt đẫm mồ hôi. Thu nhìn khắp một vòng
bãi cỏ. Vòng đua có vẻ hơi rộng. Nó ái ngại nhìn theo bạn rồi hét lên:
– Chừng nào mệt thì ngồi xuống nghỉ nghe không. Tao còn kiếm
thật nhiều dế. Chắc còn lâu tao mới cần chạy thi. Thỏ kiêu ngạo mà.
Hương không quay lại phía bạn và vẫn cắm cúi bước. Bóng dáng
nhỏ bé của nó nổi bật trên nền cỏ xanh. Cây nạng chống đều đặn theo từng nhịp
bước. Bên ống quân dư buông thõng xuống đu đưa theo từng cơn gió thoảng. Chỉ một
thoáng, Hương đã bỏ Thu một quãng xa. Thu ngồi phệt xuống đất vừa nhìn theo vừa
xoay tròn bông hoa đỏ thắm trong lòng bàn tay. Nó tẩn mẩn vuốt từng cánh hoa và
đưa lên mũi ngửi. Bông hoa không tiết ra một mùi thơm nào. Thu chỉ thấy mùi nồng
nồng của nhựa lá, mùi thơm thoang thoảng của hương Ngọc Lan ở trong chùa và phảng
phất đâu đó có mùi khói quen thuộc của những đống rạ đang đốt để lấy tro làm ruộng.
Tất cả hợp thành một hương vị đặc biệt của đồng quê êm ả, mà Thu đã lớn lên ở
đó. Một lát sau, Thu ném bông hoa xuống mặt cỏ rồi đứng dậy. Nó nhìn về phía đằng
trước. Bây giờ thì Hương đã đi được một nửa vòng sân. Đầu con bé cúi thấp xuống.
Bờ vai lệch lạc, nhô lên một lằn xương vai còm cõi sau lần áo mỏng. Thỉnh thoảng
Hương ngừng lại nhìn đoạn đường trước mặt như tự đánh đố thử thách, rồi nó lại
cắm cúi đi. Bước chân chậm dần. Dáng điệu đầy vẻ mệt nhọc, cố gắng. Thu che tay
lên miệng hét to:
– Mệt thì nghỉ nghe Hương.
Hét rồi nó co chân lên chạy tắt ngang sân cỏ. Được một quãng,
nghĩ đến cuộc đua còn tiếp tục nó vội rẽ vào mép sân và chạy theo đường vòng.
Một lát nó tới gần chỗ con Hương và chậm chân lại. Nó không
muốn làm Hương thất vọng về cái tài nhanh của Thỏ. Thu xua tay rối rít:
– Mày cứ yên trí đi. Tao đóng vai Thỏ, tao phải kiêu ngạo.
Tao sẽ đi hái một chùm hoa về ép chơi trong sách. Còn mày là Rùa, mày chứ kiên
nhẫn mà đi.
Nhưng nghe thấy nói đi hái hoa về ép sách, con Hương sáng mắt
lên một cách vui mừng. Nó quay phắt ngay lại biểu đồng tình:
– Phải đấy! Mình đi hái hoa. Trong đồng có nhiều thứ hoa đẹp
lắm.
Thu ngơ ngẩn:
– Ủa! Thế mình bỏ dở cuộc thi à?
Hương đưa mắt nhìn một lượt vòng đua rộng mênh mông rồi gật đầu:
– Khỏi thi gì nữa. Đằng nào mày có hai chân mày cũng thắng,
tao chỉ còn một chân thì tao cũng thua.
Thu cãi lại:
– Nhưng tao làm Thỏ, mày làm Rùa. Rùa bao giờ cũng thắng Thỏ
bởi tính kiên nhẫn của nó.
Hương định nói nhưng nó có vẻ thấm mệt nên đứng thở một hơi
dài. Những giọt mồ hôi lấm tấm hiện ra ở những chân tóc. Hai bên má nó đỏ hồng
dưới ánh nắng. Thu vội vàng giơ tay ra đỡ lấy lưng con bé và an ủi:
– Nhưng thôi, mày có vẻ mệt rồi. Tao ở đây, mày ở kia. Mình
nhớ làm dấu để mai đua nốt.
Hương mở to đôi mắt ra nhìn bạn rồi nói:
– Mà điều mình vẫn đi hái hoa chứ?
Thu gật đầu:
– Nhất định rồi. Trong đồng có nhiều hoa đẹp. Mình vô đó đem
ép rồi gửi cho bọn con Tám, con Hường. Chắc là chúng nó nhớ quê lắm.
Hai đứa dìu nhau bước chậm chậm trên nền cỏ xanh mướt. Bầu
không khí êm ả tĩnh mịch như làm cảnh vật chung quanh thêm rộng rãi, bao la
hơn. Thu hồi tưởng đến những ngày còn đầy đủ chúng bạn với những tiếng reo hò rộn
rã đầu làng, cuối xóm. Ý nghĩ ấy khiến Thu bỗng thấy lòng trống trải và một nỗi
buồn nhẹ nhàng thoáng qua tâm hồn dễ xúc cảm của nó. Bất giác Thu nắm lấy bàn
tay nhỏ bé của Hương một cách chặt chẽ hơn nữa. Nó tưởng tượng trong khung cảnh
rộng rãi im lìm này nếu không có Hương làm bạn thì sẽ còn buồn thảm đến đâu. Tất
nhiên, Hương chẳng người lớn được như Thu, như Tám, như Hường. Những ý nghĩ của
Hương bao giờ cũng chậm chạp và thường thường nó chỉ phát biểu hùa theo mọi người.
Trong những cuộc trò chuyện, ý kiến của Thu bao giờ cũng dẫn dắt luồng tư tưởng
của bạn. Thu có thể làm cho Hương vui, Hương buồn chỉ với một câu nói. Nhất là
từ ngày Hương bị cưa mất một cẳng, con bé lại càng rụt rè hơn, ít nói hơn, và
bao giờ nó cũng nhìn mọi người bằng đôi mắt của kẻ sẵn sàng chấp nhận là mình
thua cuộc. Thu thương bạn nhiều nhất ở ánh mắt bối rối, cầu khẩn, rất đáng tội
nghiệp ấy. Hơn thế nữa, Thu lại còn được một sự ủy nhiệm thiết tha của bà mẹ
Hương vào một hôm Hương còn tập tành đi nạng. Hương bị trượt chân ngã ở ngoài
sân đất. Tai nạn chẳng có gì là trầm trọng nhưng bà đã khóc sụt sùi ở đầu hè.
Thân hình bà gầy yếu, vẻ mặt còm cõi, xanh xao, mái tóc bơ phờ mệt mỏi, đôi mắt
của bà đỏ hoe và đẫm lệ. Những hình ảnh ấy khiến Thu mủi lòng muốn bật lên khóc
theo. Bà ta nói:
– Tội nghiệp nó. Nó đã…yếu chân mà cứ hay đi lại. Cháu có
chơi với nó thì trông nom nó giùm bác nhé!
Thu sốt sắng nhận lời. Rồi Thu an ủi:
– Tại nó mới tập đi nạng nên chưa quen đó bác. Chỉ vài hôm nữa
nó sẽ đi lại được như người thường.
Bà mẹ ngước mắt nhìn vào phía trong nhà và nghẹn ngào:
– Cầu Trời được như thế. Nhưng bác cũng vẫn trông cậy ở cháu.
Thu nắm lấy bàn tay khô khan, xương xẩu của bà để biểu lộ sự
hứa hẹn của mình. Thu tự nhủ sẽ dìu dắt Hương đi thật nhiều. Sẽ khuyến khích
cho Hương vượt qua chặng đường khó khăn mà nó đang phải vượt qua. Và những ngày
sau đó, Thu đã giữ lời hứa một cách tận tình.
Bây giờ thì Hương đã thành thạo với cây nạng gỗ quen thuộc của
nó rồi. Đổi lại, một bên vại của nó trở nên lệch lạc hơn, tính tình của nó cũng
trầm lặng hơn và những lúc ngồi rỗi một mình, Hương hay tỉ mẩn kéo hai ống quần
lên để ngắm nghía và so sánh một bên chân lành lặn với một bên lủng lẳng chỉ vỏn
vẹn khúc đùi ngắn ngủi của mình. Thu rất ghét cái trò chơi quái ác ấy của nó.
Những lần bắt gặp, Thu thường chì chiết:
– Mày ngắm cái đó làm gì. Con gái con đứa, ngồi kéo ống quần
lên coi xấu lắm.
Hương mỉm một nụ cười héo úa rồi bẽn lẽn trả lời:
– Tại Hương thấy hình như hai bên nó hết bằng nhau. Bên này
có vẻ bé đi dần dần.
Thu kéo phắt ống quần của Hương xuống rồi đánh trống lãng:
– Hôm nay cây đỗ của tụi mình đã nở thêm một lá mới rồi. Ra
mà xem.
Hương dễ dãi nên đã quên ngay cặp đùi so le của nó và đứng dậy.
Cánh tay gầy yếu run rẩy trên cây nạng gõ. Mái tóc óng ả xoã xuống bờ vai ướt đẫm
mồ hôi. Hương vui vẻ:
– Thế à. Tại mình bón cho nó bằng nước phân chuồng heo đấy.
Mai mốt nó lớn phải rào cho nó thành một khu vườn để gà khỏi bới, phải không
Thu?
Thu gật đầu một cách lơ đãng. Óc của Thu bây giờ đã nghĩ sang
một điều khác rồi, vì nói đến cây đậu, Thu mường tượng đến cái mầu xanh búp non
của ngọn lá mới đâm chồi. Từ mầu xanh, Thu liên tưởng đến vườn rau xanh mướt ở
sau chùa mà ở đó những cánh bướm rực rỡ vẫn bay chập chờn trên từng ngồng cải
vàng hoe. Thu thích bắt bướm hơn là trồng đậu. Nhưng sự bắt bướm này chỉ một
mình nó là có thể tham dự, Hương sẽ phải lủi thủi một mình. Đó là điều mà Hương
không muốn. Thu bâng khuâng nghĩ đến cặp đùi bên to, bên lép của bạn. Một bên
là dấu hiệu của đẹp đẽ, hồn nhiên, mạnh khoẻ. Một bên nhăn nhúm với những lằn
thịt non đỏ ửng xấu xí vô ngần. Sự so sánh ấy khiến Thu rùng mình. Nó không dám
nghĩ tới nhiều hơn và điều đó làm Thu trở nên bối rối.
Trong khi ấy ý nghĩ của Hương mới chỉ quanh quẩn với cây đậu
vừa nở thêm một nhánh lá. Và nếu Thu không lôi nó ra khỏi ý nghĩ ấy bằng những
hình ảnh khác thích thú hơn thì có lẽ Hương sẽ còn mải mê với cây đậu xinh xắn ấy
không biết đến bao giờ.
Cuộc sống nội tâm của hai đứa khác biệt sâu xa ở điểm then chốt
ấy. Thu thì linh động phong phú và luôn luôn thích thay đổi. Ý nghĩ của Thu vượt
từ không gian này qua không gian khác, từ thời gian này đến thời gian khác nhẹ
nhàng như đôi cánh huyền diệu của tuổi thơ.
Còn ý nghĩ của Hương, hầu như lắng đọng ở một nơi, một chỗ,
nó không muốn đi xa hơn không muốn đòi hỏi quá nhiều, và cẳng chân thiếu thốn của
nó luôn luôn là một động cơ nhắc nhở nó nên an phận, biết điều. Cái mặc cảm
thua sút và an phận này đã tạo cho Hương một nếp sống rụt rè, hay sợ hãi vu vơ,
lúc nào cũng sẵn sàng nhận lấy cho mình phần thiệt thòi đối với chúng bạn. Nhiều
hôm Hương ngồi đăm chiêu cả giờ ở thềm đất. Mái tóc bù rối xoã xuống bờ vai, cặp
mắt lơ đãng nhìn ra bầu trời đầy mây xám của những ngày đầu mùa mưa đang vào thời
kỳ rả rích. Chiếc nạng gỗ mộc mạc, lên nước bóng ghếch ở bên cạnh sườn. Bên cẳng
chân còn lại, Hương ruỗi thật dài. Bàn chân xinh xắn có những ngón trắng ngần,
thon nhỏ trông mới cô đơn và tội nghiệp làm sao. Hương hết nhìn trời lại ngó xuống
đàn gà nhỏ nhoi đang mò mẫm kiếm mồi trong những khoảng đất bùn nhầy nhụa.
Hương ngắm không chán mắt hai cẳng chân tí hon của mỗi con gà. Chúng nó tuy khẳng
khiu nhưng lanh lẹ và phối hợp nhịp nhàng biết bao. Có lúc Hương ước mình được
là một con gà để chạy quanh vườn, nhẩy được lên những cái xà gỗ, và có thể tung
tăng đây đó, tới bất cứ chỗ nào mà nó muốn. Điều ao ước này thật là viễn vông
trừ phi Hương được một bà tiên ban cho phép lạ.
Trong những lúc nhàn rỗi, Thu thường kể cho Hương nghe nhiều
chuyện thần tiên. Mà chuyện thần tiên nào thì đứa bé xấu xí, bất hạnh, mang một
số phận hẩm hiu nhất cuối cùng sẽ lại được bà tiên giúp đỡ. Hương thấy ngày xưa
các bà tiên hiện ra thật dễ dàng. Đứa bé chỉ cần ngồi khóc tỉ tê một lát là
tiên đã hiện ra. Nhiều khi đứa bé chỉ cần khấn thầm trong miệng, gọi tiên trong
tâm tưởng là trong chớp mắt một hình ảnh lộng lẫy đã lộ nguyên hình với muôn
ngàn hào quang phảng phất hương thơm ngào ngạt. Thời bây giờ tiên hiện ra khó
quá. Chưa bao giờ Hương được trông thấy hay nghe nói có người trông thấy, mặc dầu
nhiều khi Hương cũng đã ngồi khóc tỉ tê một mình hay thầm gọi tiên trong ý
nghĩ. Có lần Hương hỏi Thu một cách thành thực:
– Tại sao ngày xưa có tiên mà bây giờ lại không có tiên?
Thu nhìn con bé với nụ cuời riễu cợt:
– Làm gì có tiên. Không bao giờ có tiên cả.
Hương cãi lại:
– Trong các chuyện cổ tích có thiếu gì ông tiên, bà tiên.
– Đấy là chuyện bịa đặt. Đấy chỉ là chuyện chỉ kể cho vui.
– Chuyện bịa đặt tại sao có nhiều người tin?
– Ai tin? Chẳng có ai tin hết!
– Chẳng ai tin hết sao ai cũng thích nghe, ai cũng thích kể…
– Người ta thích nghe, thích kể là vì nó vui, nó làm cho người
ta thích thế thôi.
Hương không chịu câu trả lời như vậy. Nó không cãi nữa nhưng
trong lòng, nó vẫn tin tưởng ngày xưa phải có tiên. Tiên là nguồn hy vọng của
những kẻ nghèo khó, khốn cùng. Tiên là nguồn vui tươi của những đứa trẻ xấu số.
Tiên cũng là những người đứng ra bênh vực kẻ yếu đuối, trừng trị kẻ gian ác và
đem lại cho những người có lòng tốt những phần thưởng đích đáng. Và như thế, thỉnh
thoảng Hương vẫn nghĩ là thế giới thần tiên đang lẩn quẩn ở quanh mình. Chắc có
những bà tiên đang theo rõi những việc của nó làm, đang nghe được những lời của
nó nói, và biết đâu sẽ chẳng có một bà tiên thực sự hiện ra để hỏi nó “con muốn
gì”. Chỉ cần tưởng tượng như vậy là Hương đã đủ thấy lòng hồi hộp và bối rối rồi.
Nó tự nghĩ nếu thực sự có tiên hỏi nó như vậy thì nó sẽ không biết trả lời làm
sao cho nói được hết những điều ước muốn của nó. Trước tiên là nó sẽ phải xin
bà tiên chắp cho nó một cái chân y hệt cái chân đã mất để nó có được đầy đủ đôi
chân như tất cả mọi người. Rồi nó sẽ ước ao bà tiên làm ngừng tiếng súng kéo
dài ở trên quê nhà đã từ bao nhiêu năm. Để không còn có những chuyến xe bị mìn,
không còn những quả đạn rơi xuống đồng quê làm bốc lên những cột khói đen cao
ngùn ngụt. Rồi mọi người ra đi sẽ trở về bình yên. Sân trường không còn rêu
phong xen lẫn với cỏ dại. Và Hương sẽ lại được tung tăng đến trường với đầy đủ
hai bàn chân nhảy nhót như chân những con sáo đen mượt có mỏ vàng tươi vẫn chuyền
cành hót lanh lảnh trong mảnh vườn cây cối rậm rạp.
Những điều ao ước ấy của Hương nếu chưa thực hiện được trong
đời sống hàng ngày thì chắc chắn Hương đã được thụ hưởng trọn vẹn trong giấc mơ
bé nhỏ của nó. Nhiều đêm Hương mơ thấy mình đang cắp sách đến trường, và nó đã
đi bằng hai chân. Ô! Thật lạ lùng đến độ Hương tưởng như lời ao ước của mình đã
trở thành sự thật. Nó chạy băng băng qua những con đường còn đượm hơi cỏ ướt.
Ngôi trường thân yêu sừng sững trước mặt với mái ngói đỏ chót như son in trên nền
trời xanh thẳm. Trong sân trường chen chúc biết bao nhiêu là bạn. Trên dẫy hành
lang, thầy Giảng, thầy Viên, thầy Cư, cô Bích, cô Nguyệt tất cả đều có mặt. Mọi
vật chung quanh cái gì cũng mới. Những khóm lá rậm rạp lên mầu xanh mướt. Những
bông hoa bên hàng rào phô đủ mầu sắc rực rỡ. Mọi cửa sổ đều được lên mầu sơn mới.
Hương thấy ở đâu, ở đâu cũng rộn rã tiếng cười như cả một bầu không khí chung
quanh đều mang một vẻ rộn rã, ồn ào, náo nức như đón chào một khúc quanh mới của
đời sống sau một thời gian dài tối tăm và buồn bã. Giấc mơ đó được kể là một giấc
mơ đẹp nhất mà Hương tìm thấy trong giấc ngủ. Duy chỉ có một điều, càng mơ thấy
đẹp đẽ bao nhiêu khi tỉnh dậy, Hương càng thấy buồn bã bấy nhiêu. Bốn bề quanh
Hương im lặng đến nghe thấy cả từng con muỗi vo ve bên vành tai. Đình màn rách
mướp và cũ kỹ sà xuống thấp như nén lấy lồng ngực của Hương làm Hương khó thở.
Toàn thân của Hương đau êm ẩm vì nằm nghiêng mãi theo một phía. Hương thử vận dụng
gân cốt để xử dụng hai cẳng chân. Một cảm giác nặng bồng nhẹ tếch quen thuộc lại
trở về khiến Hương nhận ra ngay một bên chân thiếu thốn của mình. Nó cố gắng cựa
quậy. Nhưng dù cố gắng cách nào thì Hương cũng nhận thấy con người của mình chỉ
còn xử dụng được có một nửa. Còn nửa kia, nửa không tuân theo ý muốn của Hương
nữa đã cột Hương dán xuống mặt giường. Điều đó làm Hương cảm thấy vô cùng khổ sở
khi định nhanh nhẩu làm một việc gì. Như thế là các bà tiên đã không bao giờ hiện
ra trong đời sống. Và khung cảnh ở trong thôn ấp nhỏ bé này sẽ lại đều đều diễn
ra những hình ảnh quen thuộc cũ. Buổi sáng, một vài người lớn còn lại lầm lũi
vác cuốc ra vườn. Các cụ già chậm chân, mắt kém quanh quẩn với dăm con gà trong
sân đất. Còn tiếng nô đùa của lũ trẻ con trong thôn xóm thì đã vắng bóng từ bao
nhiêu lâu nay rồi. Bởi vì nhiều đứa đã đi xa. Có nhiều đứa đã chôn vùi trong
lòng đất vì tên bay đạn lạc. Và ngôi trường yêu dấu, ngôi trường có mái ngói đỏ
như son trong giấc mơ tuyệt đẹp của Hương rút cục cũng vẫn chỉ là ngôi trường
hoang vắng, mái phủ rêu phong, tường vôi loang lổ và bốn bề cỏ dại mọc lên cao
tới quá đầu gối.
Thế giới buồn nản lại thực sự trở về vây bọc lấy tâm hồn bé bỏng
và cô quạnh của Hương. Hương nghĩ đến các bà tiên một cách tuyệt vọng. Và chỉ
những lúc đó, Hương mới thấy lời Thu nói là đúng:
– Làm gì có tiên. Tiên chỉ hiện ra trong những chuyện cổ
tích.
Các chuyện cổ tích lại chỉ xẩy ra ở những thế giới thanh
bình. Cây cỏ rạng rỡ dưới bầu trời trong vắt như thủy tinh. Bốn bề không gian
êm ả như có thể nghe được tiếng hơn thở ngọt ngào của muôn ngàn loài hoa. Còn ở
đây, chốn quê nhà yêu dấu, cây không thể mọc, hoa không thể nở, chim chóc không
chỗ trú chân, và các loài vật đều im hơi nín tiếng khi tiếng súng nổ ròn, tiếng
bom rền rĩ làm rung chuyển khắp cả bầu trời.
Cái gì xui khiến để cho quê nhà phải mãi mãi triền miên trong
khói lửa? Mỗi một ngày, mỗi một giờ, mỗi một phút có bao nhiêu thân cây bị trốc
gốc, có bao nhiêu mái nhà ngùn ngụt lửa và có nhiều con người đã ngã xuống
trong im lặng, nhanh chóng trên khuôn mặt rúm ró còn chưa kịp tan hết những nét
kinh hoàng. Nhưng phải chứng kiến những giây phút lo âu, phập phồng, sợ hãi kéo
dài hàng ngày, hàng đêm, hết tháng này, qua tháng khác, năm này qua năm khác, mới
thấy hết sự tha thiết của mọi người đối với mảnh đất nghèo khó, tàn tạ của quê
hương. Mỗi lần chiến sự bùng lên mãnh liệt thì dân chúng ùa lên chạy. Kẻ đi ngược
vô trong đồng chui rúc hàng tuần trong những mương rạch che phủ bởi những lùm
cây rậm rạp. Có kẻ lần theo quốc lộ mà xuôi về quận rồi từ quận lang bạt kỳ hồ
sống lạc lõng trên tỉnh. Cũng có kẻ ra đi rồi không trở về. Nhưng cũng có những
gia đình quyết bám riết lấy mảnh đất của quê hương. Phần lớn những người này là
các ông già, bà cả. Đi đâu rồi cũng có ngày nhắm mắt và hai tay buông xuôi.
Vậy nếu có bỏ thây thì bỏ ở chốn quê nhà, để thân xác được ướp
trong lòng đất có hơi hưóng của ông cha, có những kỷ niệm quen thuộc ăn sâu đến
từng bụi cây ngọn cỏ, bờ mương hay lạch nước. Đó là những lý do khiến cho mảnh
đất đau thương này còn thấy lai vãng bóng người. Ban ngày làm vườn, bắt cá. Ụp
một cái, phải phóng xuống hầm tránh máy bay (những chiếc máy bay đa nghi đến cả
từng sự cử động phe phẩy của thằng bù nhìn đuổi chim trong vườn cải). Máy bay
đi rồi lại lóp ngóp bò lên như lũ chuột thập thò ngoài miệng hang. Đến tối mệt
đừ, lại phải lo đề phòng sự đụng độ lẻ tẻ của lính trên đồn với những bóng ma
du kích chập chờn trong bóng đêm. Đồng quê đã đến thế thì đâu còn gì vui thú.
Cuộc sống thảnh thơi giữa bầu trời bát ngát đượm mùi lúa chín thoang thoảng
trong gió chiều bây giờ thu hẹp lại trong bốn bức tường chật hẹp của những chiếc
hầm đất đào sâu dưới gậm giường hay ven bờ mương. Gặp phải những hôm trời mưa,
nước rềnh lên cao ngang đầu gối, cuốn vào theo những cọng rác hôi thối, những
con cóc xù xì và nhiều khi có cả những con rắn nước bơi quằn quại.
Đấy là một vài hình ảnh của quê nhà hiện tại và với cái khung
cảnh tiêu điều, tàn tạ như thế, chắc chắn chẳng bao giờ có bóng dáng những bà
Tiên đến chơi với bầy trẻ nhỏ. Để Thu cuối cùng vẫn mơ ước đến những khung cảnh
huy hoàng nơi thành phố, và để Hương cuối cùng vẫn chỉ thấy Tiên trong giấc ngủ,
ở đó bà Tiên ban cho cẳng chân khẳng khi bé tóp của nó trở lại bình thường, để
nó đi được, chạy được, nhẩy được, và trong giấc mơ nó đã tung tăng nhẩy chân
sáo đến trường có tán lá bàng xoè rộng che kín sân chơi, có đầy đủ chúng bạn,
có đầy đủ các thầy, các cô, nhất là ở đó, không còn bao giờ Thu phải bịt tai,
chúi đầu, lo âu sợ hãi về những tiếng bom hay tiếng súng rền rĩ trong bầu trời.
Chương hai
Niềm ao ước lớn lao nhất của Thu vẫn là mong cho gia đình dời
nhà lên tỉnh. Thu ấp ủ điều đó trong những lúc tha thẩn một mình trên đường
làng vắng vẻ, trong khi ngồi lặng lẽ buông thõng chân trên chiếc cầu khỉ bắt
chênh vênh qua lạch nước trong xanh, hay trong cả những giây phút nằm thu mình
trong bóng tối chờ giấc ngủ. Hình ảnh của thành phố thường hiện ra lộng lẫy với
muôn vạn ánh đèn rực rỡ theo đúng như lời Hạnh, bạn của Thu vẫn thường nhắc nhở.
Hạnh học chung với Thu năm lớp ba. Giữa năm đó, nhà Hạnh dời lên tỉnh. Cuối năm
Hạnh về thăm quê một lần.
Mới cách đây có một thời gian ngắn ngủi mà Hạnh đã đổi khác
hoàn toàn. Thu bỡ ngỡ nhìn bạn với mái tóc óng mượt ở trên cài đôi bướm. Chiếc
áo dài xinh đẹp như lúc nào cũng thướt tha, xúng xính theo từng bước chân Hạnh
đi. Đôi dép quai đỏ gọn gàng như làm tăng thêm vẻ nghiêm trang, trịnh trọng,
khác hẳn với Hạnh hồi nào áo quần xốc xếch, đầu tóc rối bù, chân dẫm đất chạy
suốt ngày từ đầu làng đến cuối xóm. Sự thay đổi này làm hình ảnh thân thiết của
Hạnh trong óc Thu bỗng nhiên phai nhạt. Hôm gặp nhau trở lại, Thu nhìn Hạnh ngỡ
ngàng. Hồi mới xa nhau, Thu tưởng khi gặp lại Hạnh thì mình sẽ nhẩy xổ lại ôm
chầm lấy nó, hỏi han nó hết chuyện này đến chuyện khác, sẽ kể lể cho nó nghe hết
biến cố này đến biến cố khác ở trong làng và sẽ cho Hạnh hết tất cả những đồ
chơi mà Thu đang có: mấy cây đậu đang lớn như thổi trong các lon sữa bò, vài
con bướm sặc sỡ ép giữa những trang sách, hay những viên sỏi trắng như ngọc mà
Thu dành dụm được từ ngày Hạnh mới ra đi. Nhưng bây giờ thì tất cả những dự định
ấy đã bị thay đổi hoàn toàn trong chớp mắt. Thu vẫn nhìn bạn bỡ ngỡ. Trong lòng
nó xúc động, nhưng có một ý nghĩ xa cách nào đó ngăn không cho nó ôm chầm lấy Hạnh,
bảo nó đừng nên nói. Và cuối cùng nó chỉ nhìn Hạnh với cặp mắt mở to ngập ngừng.
Tuy vậy Hạnh không xa cách như Thu tưởng. Hạnh đón Thu với tất
cả nỗi vui mừng. Hạnh kéo phắt Thu về nhà để chỉ huyên thuyên, cho nó xem tất cả
những thứ mà Hạnh đem theo từ trên tỉnh về. Và Hạnh kể cho Thu nghe tất cả những
hình ảnh thần tiên trên thành phố. Bể phun nước trong công viên đông người ngày
chủ nhật. Những bảng hiệu rực rỡ muôn mầu. Sóng người ồ ạt trong đường phố.
Không có lạch nước, không có những buổi sớm sương mờ mịt trên từng chòi lá thấp,
cũng không có cả tiếng gà gáy eo óc lúc bình minh. Đồng quê đã bị hoàn toàn
thay thế trong ý nghĩ của Hạnh và đang bắt đầu chinh phục trí tưởng tượng phong
phú của Thu. Thu ước mơ có một ngày mình cũng sẽ được đi nhiều như Hạnh. Nhưng
sự ra đi phải êm đềm và ngọt ngào như cảnh biệt ly trong cuốn tập đọc:“Chân bước
đi, mặt còn ngoảnh lại: từ cái mái nhà, cái thềm nhà, cái lối đi cho đến bụi
cây, đám cỏ, cái gì cũng làm tôi quyến luyến khác thường – Thuyền nhổ sào, ai nấy
cũng đều chúc tôi thuận buồm, xuôi gió, bình yên, khoẻ mạnh – Thuyền đi đã xa
mà tôi còn đứng nhìn trở lại, nhìn mãi cho đến lúc không trông thấy nhà nữa mới
thôi. Ôi! Cái cảnh biệt ly sao mà buồn vậy!”
Đó là cảnh biệt ly trong sách vở, cảnh biệt ly trong chiếc
nôi êm ái của quê hương khi còn thanh bình, cảnh biệt ly trong trí tưởng tượng
của người ra đi còn vương vấn hình ảnh của đồng quê yêu dấu với những giải đường
làng còn thơm mùi cỏ ướt, những mái nhà tranh nghi ngút khói lam chiều hay những
ao tù phẳng lặng in bóng từng hàng cau thẳng tắp dưới làn nước trong xanh.
Nhưng ở thời buổi này, trí nhớ của người ra đi không bao giờ còn ghi được những
hình ảnh thơ mộng ấy. Đồng quê yêu dấu bây giờ điêu tàn. Những con đường lồi
lõm đầy dấu vết của sự đào xới. Đây đó rải rác những vết tích tàn phá của chiến
tranh. Cảnh biệt ly bây giờ không còn có kẻ đưa, người đón. Người ta đã ra đi
trong thấp thỏm, kinh hoàng, những bước chân thấp cao dò dẫm trong bóng tối âm
thầm. Từng đoàn, từng đoàn, như trốn tránh nơi chôn rau cắt rốn thân yêu, trốn
khoảng trời xanh êm ái mà ở đó họ đã sống qua bao năm tháng êm đềm bây giờ chỉ
còn là vùng trời khốn khổ, chết chóc và đe dọa.
Kiểm điểm lại nhân số ở đây, tất cả không còn tới qua dăm bẩy
chục người so với khoảng đất bao la nhằng nhịt những lạch nước, những vườn dừa,
những cây cầu khỉ cheo leo bắc qua những khúc sông nhỏ, thật là ít ỏi, và chính
vì thế, xóm làng đã trầm lặng lại càng trở nên vắng vẻ, tiêu điều. Thường thường,
mọi người chỉ tụ họp đông đảo ở quanh mấy chiếc quán nhỏ dựng bên cạnh chùa,
vào lúc trời đã xế trưa. Ở đó có một gian hàng nước, một cửa tiệm tạp hoá nhỏ
nhoi, một gian hớt tóc kiêm sửa đồng hồ, và một căn lều trống làm chỗ họp chợ.
Chợ họp từ sáng rõ đến xế trưa. Việc mua bán chỉ gần như là trao đổi vật dụng.
Như lão Bẩy Thà hớt được mớ tôm liền đem mớ tôm vào quán mụ Phước, kỳ kèo ngã
giá rồi để đó, gọi dĩa cơm sườn với một xị rượu. Nhiều hôm cao hứng, lão kêu
thêm một dĩa củ kiệu với tôm khô. Mụ Phước la lên:
– Hụt tiền rồi đó!
Lão Bẩy Thà ngà ngà say, vênh mặt lên:
– Bao nhiêu mà hụt? Năm đồng củ kiệu với mười đồng tôm khô.
Tính đi!
– Chả cần tính với toán chi cho mất công. Mớ tôm của ông ngã
giá ba chục rồi nè.
Lão Bẩy hậm hực:
– Hừm! Bữa nay tôm bự vầy mà cũng còn giữ giá ba chục.
– Chớ bao nhiêu đây. Tôm hớt trong đầm Tròn thì bữa nào cũng
bằng cái ngón tay ngoe. Có ba chục thì dĩa cơm đã mất hai rồi, xị rượu năm đồng
nữa là hai mươi lăm. Ông chỉ dư có năm đồng. Lại trừ ba đồng thuốc rê hôm qua
chưa trả là còn có hai. Hai đồng làm sao có tôm khô, củ kiệu đây!
– Ái chà! Tính toán rành rẽ quá ha. Mụ xứng bậc thư ký trên
toà tỉnh rồi ấy chớ.
Mụ Phước cười nhô cả hai hàm răng thưa, cái thò ra, cái thụt
vào:
– Hà…hà…buôn bán có ba cái đồ ăn quèn, không kỹ lưỡng để rồi
bán cả cửa hàng mà đi ăn xin sao.
Ngừng một lát ngẫm nghĩ rồi mụ nói tiếp:
– Thôi được! Cho chịu thêm mười lăm đồng tôm khô với cái củ
kiệu đấy. Mà điều sáng mai phải chịu khó đi vô đồng sớm một chút nghe hôn.
Lão Bẩy dẫy nẩy người lên:
– Y cha! Mụ tính xúi con nít làm bậy hay sao. Vô trong đồng sớm
để gặp mấy “ổng” mời đi khiêng đạn với đắp đường sao?
– Cái thứ người yếu đuối như ông chả ai thèm. Có muốn bắt, nửa
đêm người ta đã gõ cửa nhà ông rồi, chẳng phải chờ ông vô đồng mới tới bắt đi.
– Hừ! Sự đời biết đâu mà tính. Buổi tối, sức mấy tôi nằm
trong nhà. Có bữa “họ” về, tôi đã leo tót lót lên tàu dừa rồi.
Mụ Phước mắt sáng lên:
– Vậy hả? Rồi ông thấy bọn họ chớ?
– Thấy chớ sao không. Tụi nó về đứa nào, đứa nào tôi biết hết.
– Dóc quá trời không! Bộ họ thắp đuốc lên cho ông nhìn hay
sao.
– Bà không biết cái gì hết trơn đó. Tôi hổng thấy mà điều tôi
nghe. Giọng thằng Hơn, thằng Thạch, thằng Sanh, tôi lạ gì.
– Tụi nó có nói gì không? Tụi nó có nhắc gì tới thằng Hiếu
nhà tôi không?
– Trời ơi! Bà cứ hy vọng thằng Hiếu hoài. Tôi đã biểu nó chết
ngắc rồi mà.
Mụ Phước giọng tức tưởi:
– Gì thì cũng phải có tin tức cho tôi chớ. Ai cũng biểu nó chết.
Vậy nó chết ở đâu? Chết ra sao? Ai chôn nó? Nó có nhắn gì cho tôi không? Ít ra
thì cũng có người biết rõ. Vậy mà ai cũng mù tịt, làm tôi không tin. Nhất định
tôi không tin.
– Ớ! Bà không tin mặc bà chớ. Tôi thì tôi nhất quyết là vậy rồi
đó. Này nhé, nó bỏ nhà trốn đi bao lâu nay rồi?
Mụ Phước bắt đầu sụt sùi:
– Dễ hơn hai năm rồi.
– Hồi đầu có tin của nó chớ?
– Tin đều đều. Trễ lắm là một tháng, thế nào nó cũng nhắn về.
– Bà thấy chưa! Một tháng một lần nó biết nhắn về, vậy mà hơn
một năm nay, nó im luôn không đả động gì tới bà hết, như vậy có phải là…
– Tại nó đi xa. Ở trỏng người ta cử nó qua vùng khác thì sao.
– Vùng gì thì vùng, thư từ đi lại được hết ráo. Tôi nghe thằng
Sanh nói nó về mãi tận Dầu Tiếng kia lận. Mà ở Dầu Tiếng thì đánh nhau biết bao
nhiêu là trận lớn nhỏ rồi. Cái đà súng này, bom nay, có hoạ là tiên mới tránh
khỏi số…
Câu chuyện giữa hai người trao đổi từ nãy được vài người
trong quán vẫn lắng tai nghe. Cuối cùng, một người sốt ruột mới la lên:
– Cái nhà ông Bẩy này mới kỳ quái chớ. Ông cứ buộc thằng Hiếu
phải chết là cớ làm sao. Để cho con người ta có hy vọng chút đỉnh thì mới sống
được chớ.
Lão Bẩy quay phắt lại và nhận ra anh dân vệ xã tên Bằng. Lão
la lối:
– Ớ! Cậu nói cái gì kỳ cục không. Chết thì người ta bảo là chết.
Sống thì người ta nói sống. Bộ không ưa người nói thật hay sao?
– Chắc gì đã sống, mà chắc gì đã chết. Chưa có tin tức gì thì
hãy cứ hy vọng. Thời buổi này, có hy vọng được ngày nào dễ sống ngày đó, ông
ơi!
Lão Bẩy cười ha hả:
– Vậy rồi… cứ hy vọng hoài tới lúc tuyệt vọng thì tính sao
đây?
– Thì lúc đó hãy hay.
– Nói theo điệu ăn sổi ở thì như vậy là không có phải người
đàng hoàng. Đối với tôi, một là một, hai là hai, không lôi thôi gì hết!
Bằng đáp gọn:
– À, đó là ông đối với ông. Còn với bà Phước khác ông thì ông
phải để cho bả yên lòng mà làm ăn chớ.
Bị vặn vẹo không cãi được, lão Bẩy ngồi yên tức tối. Lão hậm
hực tợp một ngụm rượu và xé một miếng thịt sườn. Ngẫm nghĩ một lát bỗng lão cất
tiếng:
– Ừ! Thì cứ cho là nó sống đi. Cho là nó trở về với má nó đi.
Rồi cậu tính sao đây? Thấy nó về, cậu có bắn nó chết tốt?
Câu hỏi bất ngờ làm Bằng lúng túng. Gã bối rối tìm một lời
nói quanh:
– À! Cái đó thì chưa biết được. Nó đã về đâu.
Đắc ý vì đã tìm được nhược điểm của đối phương, lão Bẩy đâu
có chịu tha. Lão cố buộc Bằng phải trả lời rõ ràng để cho hả cơn tức tối vừa
qua. Lão nói xoắn vào:
– Thì cậu vừa mới bảo thằng Hiếu nó sống nhăn chớ gì?
– Tôi không đoan quyết mà điều bà Năm hy vọng thì cứ hy vọng.
Ăn nhằm gì tới ông.
– Thôi, chẳng cần hy vọng gì hết ráo đó. Cho mười phần là nó
sống cả mười đi. Cậu muốn vậy mà. Phải hôn?
– Rồi sao?
– Còn sao chi nữa. Nó còn sống thì nó sẽ trở về. Nó lại là du
kích. Mà cậu là dân vệ. Cậu nghĩ sao đây? Cậu bắn nó chớ?
– Bắn chớ sao không? Đó là nhiệm vụ của tôi mà…
Lão Bẩy lại tợp một ngụm rượu và gật gù thêm. Lần này như lão
nói với chính mình:
– Ấy, cái đó mới là kỳ. Biểu người ta hy vọng cho nó trở về.
Đến lúc trở về lại hăm giết nhau. Thật là kỳ cục! Thật là kỳ cục!
Bằng quay sang phía lão, nói dằn giọng:
– Ờ! Đúng đó lão Bẩy. Cái cuộc chiến này nó kỳ như vậy đó. Thật
sự tôi với thằng Hiếu đâu có thù oán riêng tư gì. Mà điều tôi không bắn nó thì
nó cũng bắn tôi…
Lão Bẩy chồm lên ngắt lời:
– Mà điều vì lý do nó với cậu bắn nhau kia chớ.
– Lý do là nó với tôi không cùng một hàng ngũ.
– Hàng ngũ là cái con khỉ mốc gì. Mấy năm trước, hồi chưa có
chiến tranh thì cậu với nó có hàng ngũ hàng nghiếc cái gì đâu.
– Như vậy mới là chiến tranh. Có chiến tranh thì làng ta, xóm
ta mới thế này. Có chiến tranh thì thằng Hiếu mới ra thế này, anh em tôi ra thế
khác. Rồi kẻ bỏ nhà, bỏ vườn mà đi. Kẻ ở lại ốm đau, nghèo đói bệnh tật. Như
con bé Hương thì nó tội tình gì mà chân còn, chân mất. Mà như thế vẫn là may.
Nhiều đứa chẳng còn nhân dạng, sống đấy, nhưng là chết đấy.
Một người buông một tiếng thở dài:
– Cái thảm cảnh này rồi không biết còn kéo dài tới bao lâu.
Nhà ai thì tôi không biết chứ gia đình tôi như thế là mất đi bốn nhân mạng rồi.
Một đứa chết cho Quốc Gia. Một đứa chết cho Mặt Trận. Một bà chị bị giật mìn. Một
ông bác chết vì bom. Thật là công bằng. Tưởng như không có nơi nào trên thế
gian này, con người lại được đối xử công bằng hơn thế nữa…
o O o
Hồi chưa có súng nổ, hồi mà ban đêm vào mùa khô, trăng sáng,
người ta còn có thể tụ tập từng đám rong chơi ngoài cánh đồng đón gió, xem
trăng, thì anh Hiếu, con của mụ Phước, còn là cái đinh đem lại cho lũ trẻ những
trò chơi thoả thích. Hiếu yêu trẻ lại nhiều sáng kiến, lắm tài vặt nên bọn
chúng xúm lại, theo anh rất đông. Anh tổ chức những buổi đá banh con nít giật cờ
danh dự, những cuộc thi bơi trong đầm Tròn lấy giải bằng những tấm huy chương
do chính anh sáng chế và suy tôn giá trị của nó khiến bọn trẻ đeo vào cảm thấy
hãnh diện.
Anh cũng là một kho vô tận về những chuyện cổ tích xa xưa,
ngay cả chuyện cũ rích bọn trẻ đã được nghe ông bà kể lại nhiều lần, nhưng qua
tài biến chế của anh, đứa nào cũng cảm thấy thích thú. Như chuyện Tấm, Cám –
anh mở đầu bằng một lối kể chuyện kỳ cục như thế này:
– Chuyện Tấm Cám chúng mày được nghe chưa?
Cả bọn nhao nhao:
– Rồi…Rồi…
– Vậy con Tấm thế nào, con Cám thế nào?
Tiếng ồn ào của lũ trẻ bỗng im tịt lại. Mấy đứa ngơ ngác nhìn
nhau. Một đứa ngẫm nghĩ rồi rụt rè nói:
– Con Tấm là đứa hiền lành sống với dì ghẻ, bị con Cám độc ác
hành hạ…
Anh Hiếu mỉm cười lắc đầu:
– Như thế là chỉ biết một mà không biết hai. Nhân chi sơ tính
bản thiện. Ngày xưa con Cám cũng hiền lành ngoan ngoãn như con Tấm vậy và đầu
tiên hai đứa rất thân thiện thương mến lẫn nhau…
Thấy câu chuyện xoay qua một lề lối hoàn toàn khác lạ, cả bọn
nhao nhao lên:
– Vô lý! Vậy làm sao mà chúng nó lại ghét nhau? Làm sao mà
con Cám lại hành hạ con Tấm?
Anh Hiếu cười ha hả:
– Vậy tao mới nói tụi bây biết một mà không biết hai. Vậy mới
là chuyện chớ?
– Vậy anh kể cho tụi em nghe đi!
Anh Hiếu mỉm một nụ cười đắc thắng vì đã gợi được trí tò mò của
lũ trẻ:
– Thế này này! Ngày xưa con Tấm rất xinh xắn và con Cám cũng
xinh đẹp không kém. Hai đứa cùng ngoan ngoãn như nhau và ăn ở với nhau rất thuận
hò, mặc dù con Cám là con của dì ghẻ, và con Tấm mồ côi mẹ, sống lủi thủi thiếu
tình mẫu tử. Một hôm con Tấm rủ con Cám đi lên đồi bắt bướm. Hai đứa bắt gặp một
con bướm thật to, thật đẹp, thật sặc sỡ. Tấm bèn nói:”Ôi cha! Con bướm hết sức
là rực rỡ, hết sức là xinh đẹp. Chị nhường cho em bắt đó, em Cám”. Con Cám vì
yêu quí chị nên cũng nói:”Không đâu, vì chị chạy lên đồi trước, nhìn thấy nó
trước, vậy nó là của chị, em không dám tranh” – Chèn ơi! Ngày xưa hai con nhỏ
này thương mến nhau ác!
– Rồi làm sao nữa? Rồi làm sao nữa?
– Rồi hai đứa nhường nhịn nhau mãi. Con bướm thấy động, bèn
bay lên một cành cây. Trên cành cây đang núp sẵn một con rắn độc, con rắn đang
rình mấy quả trứng xinh xắn trong một tổ chim. Thấy mầu sắc của bướm rực rỡ
quá, rắn ta hếch lên nhìn. Nó như bị thôi miên bởi mầu đỏ ở cánh bướm, mầu xanh
ở thân bướm và những bụi phấn vàng tươi trên khắp mình bướm. Dưới gốc cây, hai
chị em Tấm, Cám vẫn nhường nhịn. Cuối cùng Cám trèo lên cây. Nó tự nhủ bắt được
bướm sẽ cho chị chơi chung. Con bé rón rén qua những khóm lá. Bàn tay xinh xắn
trắng như đốt ngọc của nó lùa qua chòm lá dò tới chỗ bướm đậu. Nhưng con rắn
đen nhẫy đã phóng tới. Nó ghim một vết răng nhọn hoắt lên cườm tay của con bé.
Cám la to lên hốt hoảng và vội vàng tụt xuống. Khuôn mặt hồng hào của nó tái
xanh lại rồi xám ngoẹt. Nước da trắng mịn màng của nó đổi mầu nhanh chóng.
Trong phút chốc, Cám không còn vẻ gì là xinh đẹp nữa. Làn da trở nên xù xì những
mụn cóc, đôi mắt trong suốt như bích ngọc bỗng trở nên đục ngầu, và tâm hồn
tươi sáng của nó trở nên tối tăm, tính nết hoà nhã, hiền hậu hoá ra cáu kỉnh, độc
ác. Nó nhìn chị Tấm với cái nhìn của người xa lạ, của kẻ thù nghịch sẵn sàng
xông lại cấu xé. Còn Tấm lúc ấy thì bưng mặt oà lên khóc.
Một đứa trong bọn đang nghe kể bỗng la to lên:
– Anh Hiếu bịa! Chẳng có chuyện Tấm Cám nào lại kỳ cục đến
như thế.
Anh Hiếu mỉm cười:
– Mày biết gì mà cãi. Chuyện tao kể là chuyện Tấm Cám nguyên
thủy, chuyện mà không ai biết tới.
– Không ai biết thì làm sao anh biết?
Hiếu tịt mít trước câu hỏi móc họng của nó nên chỉ cười trừ.
Nhưng bọn trẻ đang mê say với câu chuyện kỳ lạ bèn nhao nhao lên:
– Ê! Để anh ấy kể hết cho mà nghe. Đừng có lộn xộn…
– Im đi…
Nhưng anh Hiếu đã giả bộ giận dỗi, ngừng kể chuyện và phủi quần
đứng dậy:
– Thôi, nếu có đứa không tin thì tao không thèm kể nữa. Tao
đi câu một mình sướng hơn.
Nói rồi Hiếu lững thững đi lại phía đầm. Bọn trẻ ùa lên, chạy
theo sau. Có đứa túm lấy tay anh, níu lại:
– Mặc kệ! Anh phải kể nốt câu chuyện cho tụi em nghe đã.
Được thể, bọn trẻ cũng xúm xít lại chung quanh, đứa níu áo, đứa
cản đường, không đứa nào chịu để cho anh bỏ dở câu chuyện. Cuối cùng Hiếu phải
nhượng bộ và nói:
– Vậy tao kể, cấm đứa nào phá ngang nghe không…
Cả bọn đồng thanh:
– Nghe!
Thế là anh Hiếu laị ngồi xuống nệm cỏ và bọn trẻ lại xúm xít
bu chung quanh. Anh hỏi:
– Tao kể đến đâu rồi?
Một đứa nhắc:
– Đến chỗ con Tấm bưng mặt khóc…
– À, phải rồi. Con Tấm thương em quá nên ôm mặt khóc. Bà tiên
hiện ra hỏi: “Sao con khóc?”. Tấm kể lể đầu đuôi. Nghe rồi, bà tiên nói:”Đừng
có buồn. Đây là một sự xếp đặt của Ngọc Hoàng Thượng Đế để làm bài học cho trẻ
con muôn đời về sau. Con Cám tượng trưng cho tuổi trẻ hồn nhiên và trong sáng.
Con rắn độc biểu hiệu cho thói xấu, tật hư. Thói xấu, tật hư bao giờ cũng tìm
cách xâm lăng tâm hồn của tuổi trẻ. Đứa nào bị nhiễm độc cũng trở nên xấu xí và
tàn ác”. Tấm hỏi:”Vậy làm thế nào cho cám trở lại xinh đẹp, ngoan ngoãn như
cũ?”. Bà tiên đáp:”Có một thứ thuốc chữa. Đó là uống nước của dòng suối Yêu
Thương. Mà dòng suối Yêu Thương thì ở bên kia dẫy núi Vị Kỷ. Vượt qua được núi
Vị Kỷ sẽ tìm thấy thuốc”. Tấm nghe lời hăng hái lên đường. Nó tìm đến núi Vị Kỷ.
Ngọn núi cao ngút chín từng mây. Vách đá cheo leo, lởm chởm đầy mũi nhọn. Không
vượt qua được, Tấm lại ngồi khóc. Bà tiên hiện ra bảo:”Muốn vượt qua núi này phải
dệt một tấm thảm toàn bằng tơ nhện. Thảm tơ nhện sẽ bay bổng lên cao và đưa
ngươi qua đó”. Tấm vâng lời về nhà đi thu thập tất cả tơ nhện ở những nơi nào
mà nó tìm thấy. Rồi nó chăm chỉ ngồi dệt. Ác hại thay, dệt được đến đâu, con
Cám phá hủy đến đấy.
Một đứa hỏi:
– Sao con Cám dại dột thế. Thảm tơ nhện cốt dệt để tìm thuốc
cứu nó mà.
Anh Hiếu trả lời:
– Nhưng nó đâu còn lương tri để hiểu biết phải trái. Bị nhiễm
nọc độc của tật xấu, nó mê muội mất rồi. Vì thế, Tấm dệt trong ba năm liền mà
chưa được lấy một mảnh nhỏ. Trong thời gian ấy nó bị Cám hành hạ đủ điều. Cứ
xong tới đâu thì con Cám phá đến đấy. Tấm lại ngồi bưng mặt khóc. Bà tiên lại
hiện ra hỏi đầu đuôi và lần này bà ta hỏi lại Tấm:”Tại sao con cứ tha thiết với
chuyện tìm thuốc cho con Cám trong khi nó chẳng tử tế gì với con cả như vậy?”.
Tấm đáp:”Ngày xưa, Cám cũng là một đứa có tính nết tốt. Chẳng qua là vì sốt sắng
với tình chị em nên mới bị nọc độc của loài rắn cám dỗ mà trở thành nạn nhân.
Vì thế bằng tất cả mọi cách con phải làm cho Cám trở lại hồn nhiên và trong
sáng”. Bà tiên mỉm cười:”Lòng trung hậu và thiện chí tối đa của con đã giúp con
vượt khỏi núi Vị Kỷ rồi đó. Suối Thương Yêu không ở đâu xa, nó ở trong những giọt
nước mắt của con vậy”. Tấm nghe nói sung sướng bật lên khóc. Nó vội vàng hứng lấy
những giọt nước mắt trong như thủy tinh của mình đựng vào một cái chén nhỏ và
trao cho Cám uống. Trong phút chốc Cám đã thay hình đổi dạng và đẹp đẽ, xinh
tươi gấp bội phần ngày xưa…
Một đứa hỏi:
– Thế con Hoàng Tử đâu?
Hiếu mỉm cười:
– Tại sao lại cứ phải có Hoàng Tử nhỉ. Lấy Hoàng Tử chắc gì
người ta có hạnh phúc. Ở đồng quê, sáng nhìn mặt trời đỏ hồng một giải chân trời
thơm phức mùi lúa chín, nghe chim ríu rít chuyền cành chào đón nắng sớm buổi
ban mai, ban đêm ngắm vầng trăng toả ánh sáng dịu dàng trên những con đường rộn
rã tiếng người vui đùa, ca hát như vậy chẳng thi vị hơn là giam mình trong lầu
son gác tía hay sao? Vậy tụi bây thích lấy Hoàng Tử hay là thích nô đùa với bạn
bè vui vẻ như thế nầy?
Cả bọn nhao nhao mỗi đứa một ý thích và chúng quên bẵng ngay
câu chuyện bịa đặt làm sai lạc hẳn cả chuyện Tấm Cám của anh Hiếu mà chúng hằng
nghe kể lại. Mà không riêng gì một câu chuyện đó, hầu như tất cả mọi lần chơi
đùa với lũ trẻ, Hiếu đều thích bịa đặt ra những điều mới lạ để làm cho bọn trẻ
luôn luôn bị “lỡ tầu” mỗi khi chúng tỏ ra “biết rồi” về một sự kiện nào đó. Điều
này đã khiến cho Hiếu trở nên có rất nhiều yếu tố để quyến rũ lũ trẻ và chúng
nó chạy theo anh để được thường xuyên nghe những chuyện hứng thú.
Nhưng rồi bỗng một hôm xẩy ra một chuyện đau lòng đã làm thay
đổi hẳn cá tính của con người yêu trẻ đó.
Hôm ấy Hiếu đang tìm sóc ở trong vườn dừa, những con sóc nhỏ
xíu rất thích ăn cùi dừa vừa ngọt vừa thơm. Bỗng anh thấy bóng thằng Tư luồn
nhanh qua khóm lá ở gần bờ mương tới gần chỗ anh và ra dấu gọi. Hiếu vội vàng tụt
xuống khỏi thân dừa cao chót vót và tiến lại gần phía nó. Nó nhìn Hiếu bằng cặp
mắt khác thường, hai tay của nó dấu ra đằng sau. Hiếu hỏi:
– Mày có cái gì thế?
Tư ngập ngừng một giây rồi giơ hai tay ra đằng trước. Hiếu giật
mình khi thấy thằng bé cầm trong lòng bàn tay nhỏ xíu một khẩu súng lục nặng
chĩu. Nó nói:
– Dạy em tháo ráp cái này đi anh Hiếu.
Hiếu trợn mắt:
– Mày lấy ở đâu ra vậy?
Tư ấp úng:
– Em lượm!… Em lượm được!
– Mày nói chó nó cũng không nghe được. Nói thật đi. Mày lấy ở
đâu?
Tư gân cổ lên cãi:
– Em lượm được thiệt mà. Người ta vứt nó ở dốc cầu, em đi
qua, em thấy.
Hiếu giằng ngay lấy khẩu súng, ngắm nghía hồi lâu rồi hỏi:
– Dốc cầu chỗ xuống mé sông ấy hả?
Tư rối rít:
– Phải…phải…tuốt mé bờ sông lận.
Hiếu mỉm cười:
– Vậy là mày nói dóc rồi. Mày lượm ở bờ sông sao tao không thấy
bùn, cát gì dính vô chỗ nào cả.
Mặt thằng Tư đang có vẻ khoái chí bỗng nghệt ra. Nó không biết
chống chế thế nào nên đứng im như trời trồng. Lấp tức Hiếu lôi nó vào một bụi
cây um tùm rồi tra hỏi cặn kẽ. Thì ra thằng nhãi con chớp được khẩu súng của
ông chuẩn ý trên đồn Thạnh Phú lận. Hôm ấy là ngày nghỉ, lính trên đồn xuống
chơi la cà ở cầu chợ rất đông. Người thì đi đánh bi-da hay bóng bàn, người thì
vô chợ sắm đồ hay nhậu nhẹt. Riêng chuẩn úy Phú nhận được thư bạn bè báo tin
người yêu đi lấy chồng sao đó nên từ chối tất cả mọi cuộc vui để đi uống rượu một
mình. Trên đường ngồi xe lam trở về, gió lộng làm ông ta ngất xỉu. Thằng Tư có
mặt trên chuyến xe đó. Thừa cơ lộn xộn nó chớp ngay khẩu súng và thủ vào lưng
quần. Thế là thằng bé làm chủ một cách ngon ơ vật quí báu, đẹp đẽ mà không một
anh dân vệ xã nào lại không ước mơ được đeo nó kè kè bên mình để làm oai với
thiên hạ. Ý nghĩ đầu tiên của thằng Tư là đi tìm anh Hiếu để nhờ anh chỉ bảo
cách tháo ráp và xử dụng vì Tư tin tưởng anh Hiếu là người biết tất cả mọi sự.
Nó cũng tin tưởng Hiếu sẽ hoan nghênh hết mình về chiến công mà nó vừa thu được.
Nếu cần, nó sẽ cho Hiếu khẩu súng, miễn là Hiếu sẵn sàng để nó xài chung, lâu
lâu nó được ngắm nghía, sờ mó một mình. Nhưng thái độ của Hiếu lại hoàn toàn
trái ngược. Hiếu không ưa khẩu súng, không dạy nó cách tháo ráp và xài khẩu
súng. Hiếu lại còn bắt nó mang trả lại cho chuẩn úy Phú.
Thằng Tư la lên:
– Có mà sắp sửa khùng mới đem trả lại khẩu súng đẹp đẽ như thế
này.
Hiếu đáp:
– Mày lấy khẩu súng thì mới là mày sắp khùng rồi ấy chớ. Bộ
mày tưởng giữ được nó hoài hoài à?
– Giữ được chớ sao không!
– Xì mốc! Người ta sắp phăng ra mày đến nơi. Mày coi, xe lam ở
đây chạy được mấy chiếc. Tài xế thì mấy ổng trên đồn nhẵn mặt ra rồi. Mấy ổng
chỉ việc kêu họ lại, điều tra ngày ấy, giờ ấy những ai lên chiếc xe có chuẩn úy
Phú, thế là mày bị tình nghi rồi. Mày nói mày xuống xe ngay từ lúc nó chưa tới
cổng đồn chớ gì?
Tư cãi:
– Tôi xuống, ông Năm Hoàn cũng xuống.
– Vậy thì người ta bắt mày với ông Năm Hoàn. Mà ông Năm Hoàn
thì già lụ khụ như vậy, ổng lấy súng làm chi. Chỉ có mày là thủ phạm thôi. Người
ta sẽ cho là mày liên lạc với Việt Cộng, mày hết đường chối cãi. Tao thì tao chả
dại gì chơi cái trò, thú vị đâu chưa thấy, chỉ thấy có đi tù một cách dễ dàng.
Mặt thằng Tư đang nhơn nhơn bỗng nhiên xịu lại. Đôi mắt của
nó thoáng một vẻ lo lắng. Ngập ngừng một lát nó hỏi:
– Vậy…mình phải làm thế nào bây giờ?
Hiếu đáp:
– Đem trả lại chớ còn làm thế nào.
Tư dẫy nẩy:
– Thôi, chẳng dại! Bây giờ mang súng tới, ngộ nhỡ người ta cứ
bắt mình thì sao.
– Bắt là bắt thế nào? Nếu mày là Việt Cộng thì mày đã chẳng
mang súng đi trả lại. Mày cứ khai là lúc ông chuẩn úy Phú té xỉu ông ấy để súng
rơi xuống mặt đường. Mày xuống xe rồi thì bắt được, mày bèn đem trả. Ông ấy mừng
thấy mồ, không chừng lại thưởng cho mày vài trăm xài chơi nữa ấy chớ.
Thằng bé nghe chừng xuôi tai, nhưng cũng cố gặng thêm:
– Vậy anh đi cùng với em nhé.
Hiếu sốt sắng nhận lời:
– Tao sẽ đi cùng với mày. Mà điều tao chỉ đi xa xa thôi. To
xác như tao đi kè kè bên cạnh khẩu súng, ngán thấy mồ. Lỡ mấy ổng tưởng là người
Mặt Trận về thì ốm đòn.
Rồi sợ thằng bé rút lại ý định của nó, Hiếu vội vàng chữa:
– Mà điều mày thì không sao. Mày con nít mà, Mặt Trận sao được.
Thế là hai anh em dẫn nhau theo con đường đất đỏ từ trong ấp
ra tỉnh lộ, rồi đón xe lam xuôi theo tỉnh lộ lên cầu chợ. Thằng bé thủ khẩu
súng trong bụng. Bây giờ khẩu súng không hấp dẫn bằng món tiền thưởng mà Hiếu vừa
phác hoạ cho nó thấy. Với vài trăm bạc xài chơi, nó sẽ có thể mua một bộ cần
câu, một chiếc mũ kết và một cái áo tơi mưa, như vậy là đủ lễ bộ để có thể vô đầm
Tròn câu ếch mà không sợ sương muối về đêm làm cảm lạnh.
Trên chuyến xe cả thẩy có năm người không kể bác tài xế. Trừ
anh Hiếu và nó ra, còn tất cả là đàn bà. Những người đàn bà quanh năm không biết
gì hơn là buôn bán mấy món đồ vặt vãnh vài cây kim, mấy cuộn chỉ, ít nải chuối
hay mớ rau trồng trọt được đâu đó quanh mấy mảnh vườn xơ xác tiêu điều.
Nhưng lúc chiếc xe ngừng lại ở một chặng đường gần tới chợ để
đón một người khách mới lên xe thì sự yên tĩnh lúc đầu không còn nữa. Người này
thoạt trông thấy thằng bé đã ném ngay cho nó một cái nhìn nghi ngờ.
Rồi chỉ trong giây lát hắn ta đã túm ngay lấy ngực áo của nó
rồi reo to lên:
– A! Thằng nhỏ..mày …có phải mày đi chuyến xe hôm nọ có ông
chuẩn úy ngất xỉu không?
Mặt thằng bé xám ngoẹt đi và nó líu lưỡi đến độ không nói được
nên lời. Nó vội vàng nhìn Hiếu như cầu xin một sự giúp đỡ. Hiếu vội vàng nói:
– Phải rồi. Nó đi cùng chuyến xe đó và nó nhặt được khẩu súng
của ông ta đánh rơi..
Người đàn ông la lên:
– Không phải ông ta đánh rơi mà nó cố tình ăn cắp. Trong lúc
còn nửa mê nửa tỉnh, ông chuẩn úy thấy rõ ràng có đứa luồn tay vào dây lưng,
rút vội ra. Nhưng ông ấy mệt, ông ấy không la được. Phải vậy không? Phải vậy
không, nhóc con!
Thằng nhóc con cứng họng không cãi được nên ngây mặt ra. Và đến
lúc người đàn ông móc trong túi ra một khẩu súng to bằng con chuột thúc vào ngực
nó thì nó la lên:
– Cháu lậy ông!… Cháu lậy ông! Ông tha cho cháu, hôm đó cháu
bị anh này anh ấy xúi nên cháu trót đã làm như vậy…
Hiếu tức giận chồm lên, vồ cả hai bàn tay vào vai thằng bé.
Nhưng anh ta bị người đàn ông gạt mạnh cho văng trở lại. Cả thân hình chắc nịch
của anh xô đè rúi rụi lên mấy bà ngồi bên khiến họ la trời nhốn nháo cả chuyến
xe. Khẩu súng con chuột bây giờ không thúc vào ngực thằng bé nữa mà quay trở lại
phía Hiếu, tiếp theo là một tiếng la sắc và ngắn ngủi:
– À! Việt Cộng!
Hiếu không thấy có cách nào khác hơn là lợi dụng sự lắc lư của
chiếc xe rơi trên ổ gà, bèn xô thật mạnh vào bàn tay cầm súng. Rồi nhanh như cắt
anh ta lao cả thân hình của mình từ trên xe văng xuống mặt đường. Anh cảm thấy
đau nhói ở một bên vai, nhưng cũng đủ bình tĩnh để lăn thêm một vòng từ mặt đường
xuống ven lộ rồi rơi mình xuống thửa ruộng đầy bùn. Một vài tiếng nổ chát chúa
vang lên đinh tai nhức óc, nhưng Hiếu biết ngay là những viên đạn chỉ sượt
ngang qua đầu. Anh ta vùng ngay dậy và co chân chạy miết về phía những bụi duối
dại mọc um tùm.
Thế là tuổi trẻ hồn nhiên mà anh yêu mến chúng từ bao lâu nay
đã trả lại cho anh tất cả những ý nghĩ tốt đẹp về chúng nó. Tất cả những cảm
tình mà anh từng vun xới đối với chúng trong giây lát đã hoàn toàn sụp đổ. Anh
chưa được thụ hưởng ở chúng những quả chín ngọt mà anh đã gieo rắc bằng từng mầm
mống tươi đẹp, bằng những buổi đi chơi, những câu chuyện cổ tích ngụ ngôn đầy ý
nghĩa, thì ngược lại thằng bé trao tặng anh một trái đắng quá phũ phàng. Bây giờ
anh mới thấy tính nết trẻ con là bất trắc, ích kỷ, và trong một trường hợp nào
đó, chúng sẵn sàng phản bội. Nhưng hiểu được điều đó thì đã quá muộn để có thái
độ thích nghi. Bây giờ trong không gian nhỏ bé này, trong khoảnh đất chật hẹp
này, ở cái thế giới chỉ thu nhỏ quanh một chiếc cầu chợ, vài ba ấp dân cư lèo
tèo và một chiếc đồn chênh vênh trên tỉnh lộ, chỉ trong giây lát đã xô đẩy anh
ra ngoài cuộc sống trầm lặng hàng ngày. Lời tố cáo của một thằng bé, một vài
phát súng nổ làm rung động bầu không khí tĩnh mịch của đồng quê, một tiếng la của
kẻ nhấn cò, như thế là một kẻ đã bị xô đẩy sang bên kia hàng ngũ, hết đường chối
cãi. Và Hiếu đã đi thẳng vô đầm Tròn ngủ đêm tại đó, trong một chiếc chòi có đốt
lửa. Nửa khuya, bọn thằng Sanh, thằng Thạch bò sát lại gần. Chúng nó vây kín lấy
Hiếu như những bóng ma trong đêm tối. Hiếu để mặc cho chúng nó lục soát mình từ
đầu đến chân, rồi cuối cùng mới nói:
– Cho tao vô đồng tao tham gia hoạt động với tụi bây.
Thằng Sanh nhìn Hiếu nghi ngờ. Nhưng nó chỉ ra hiệu cho đồng
bọn dẫn Hiếu đi. Mấy ngày hôm sau, Hiếu gửi một lá thư về nhà cho mẹ. Trong thư
viết:
“Mấy hôm nay con không về, chắc ở nhà họ lùng con dữ và má
cũng trông tin con. Trăm sự tại con hết. Hôm nào rảnh, con sẽ về thăm má và kể
đầu đuôi cho má nghe. Nhờ trời, con vẫn mạnh. Má đừng lo lắng gì hết. Dù thế
nào, thế nào thì con cũng vẫn là con má. Mai mốt thanh bình thì đâu lại vô đấy
cả, phải không má nhỉ?”
Nếu Hiếu biết rằng cuộc đời trôi nổi của anh lúc đó mới chỉ
là những phút khởi đầu, thì chắc anh ta chẳng thể nào viết được những dòng chữ
bình tĩnh đến như vậy. Mai mốt thanh bình, bốn chữ nói nghe gọn ghẽ và
ngon lành làm sao. Nhưng rồi, những ngày âm thầm trôi qua đi. Súng chỉ thấy nổ
thêm nhiều. Bom đạn mỗi ngày thêm một cầy nát quê hương. Hiếu chẳng có dịp nào
về thăm được má cả. Anh ta đã trôi giạt hết vùng này đến vùng khác, dự hết trận
này đến trận khác – cái hy vọng tràn trề “mai mốt sẽ về thăm má” cứ
theo ngày tháng mà tàn lụi đi dần dần, cho đến một ngày chiến sự bùng nổ toàn
diện thì Hiếu không bao giờ dám mong đến ngày trở về nữa. Những đêm dừng chân tạm
nghỉ ở một chốn chui rúc nào đó trong đầm lầy hay rừng rậm, anh chỉ còn biết
nhìn lên khoảng trời cao thẳm trên đỉnh đầu mà cầu mong cho đất nước này im tiếng
súng, để khỏi thấy những thây người ngã gục trong biển lửa, để những người ra
đi được trở về, ít ra được nhìn thấy một lần cuối cùng hình ảnh của mẹ già trước
khi các người tàn lụi theo năm tháng mỏi mòn.
Những lá thư do Hiếu gửi về cứ thưa dần và cũng ngắn dần. Cuối
cùng chỉ còn là những mẩu tin tức ngắn ngủi (đoàn thể muốn vậy) và sau hết thì
biệt luôn. Có người đồn Hiếu đi tuốt xuống tận Cà Mau. Có người đồn Hiếu đang ở
núi rừng biên giới. Nhưng cũng có tin Hiếu chết ở mặt trận Dầu Tiếng, nơi chôn
vùi biết bao nhiêu xác chết vô danh.
Nhưng ai đồn thì đồn, bà mẹ của Hiếu cũng vẫn giữ một niềm
tin vững chắc như thành đồng, là thằng Hiếu chưa chết. Thằng Hiếu sẽ về. Bởi lý
do rất giản dị là “Nó chết làm sao, chết thế nào, có trăn trối gì không. Một đứa
có hiếu như nó, ít ra trước khi nhắm mắt nó cũng phải gửi một vài lời về cho mẹ
nó chớ!”
Hiếu ra đi đã để lại trong tâm hồn của lũ trẻ một khoảng trống.
Mọi trò chơi, thiếu bàn tay xếp đặt của Hiếu đã trở nên nhạt nhẽo kém phần thú
vị. Nhưng đối với mụ Phước thì lại còn là một đại hoạ giáng xuống phần cuộc đời
cằn cỗi còn lại của mụ. Mụ khóc lóc thảm thiết suốt mấy ngày, mấy đêm. Mụ chưởi
bên này, rủa bên kia, chẳng Tự Do mà cũng chẳng Giải Phóng gì hết ráo. Quê nhà
đã nghèo khổ lại trở nên nghèo khổ thêm, đồng ruộng đã xơ xác lại trở nên xơ
xác thêm và ngày này qua ngày khác đám dân lành vô tội vẫn tiếp tục bị xua vào
vòng khói lửa như vào một cái túi vô tận không biết bao giờ ngừng không biết
bao giờ chấm dứt. Điểm mặt từng gia đình, chẳng nhà ai không có một vành tang
trắng, ba trăm sáu mươi lăm ngày trong một năm, chẳng ngày nào không có nhà làm
giỗ những người thân chết non, chết trẻ, chết ngoài cánh đồng, chết trên bờ
mương, chết dưới hầm hố.
Và tiếng khóc của mụ Phước chỉ nguôi ngoai, khi một ít lâu,
sau ngày Hiếu đi, bỗng một hôm mụ lại nhận được thư của nó. Trong thư, Hiếu viết:
“Con đã trở về vùng này. Con của má vẫn bình yên má à. Mấy lần
tính lẻn về thăm má nhưng bọn thằng Bằng canh gác và đi rỏn hoài nên không dám
vô. Ở trong đây chỉ thiếu cái ăn thôi. Nhiều hôm nhịn đói ngủ không được. Nếu
thấy tiện, mỗi chiều má đem vô đầm Tròn, chỗ bụi lác ở mé lạch cho con một gói
cơm thì hay quá. Má nhớ coi chừng chớ để cho ai thấy, đi theo, phiền lắm má”
Mụ Phước nhận được thơ, mừng rỡ như người được sống lại. Mụ lập
tức vật một con gà làm hai ba món rồi chất ních một gà-mên cơm, tất cả đem vô đầm
Tròn. Quả nhiên mụ gặp lại Hiếu. Mặt Hiếu xanh rớt, gầy sọp hẳn đi, và mất hết
vẻ hồn nhiên ngày trước. Hai mẹ con nắm tay nhau khóc ròng. Lúc soạn các thức
ăn ra, Hiếu la bải hải:
– Trời đất ơi! Ai biểu má giết gà làm chi. Má đâu có dư gì mà
sang quá, làm sao sống?
Mụ Phước mỉm cười qua hai hàng nước mắt:
– Tại tao thấy mày khổ quá, phải ăn thêm vài ba cái gì cho lại
sức chớ.
Hiếu lắc đầu:
– Ôi, cần gì. Có cơm đều đều là lại sức được rồi. Má lo được
cho con mỗi ngày một gói cơm với chút muối mè là con đã làm khổ má quá rồi.
Mụ Phước sụt sịt:
– Thôi, tính chuyện mà về đi con ạ, mày đi thế này tao không
yên tâm.
– Má không thấy gì hết sao. Con mà về bây giờ, tụi nó bắt thì
cũng quá tội. Thôi, cứ nương náu ít ngày, rồi mai mốt bình yên ngay đó mà má.
Mụ Phước đáp lại bằng những tiếng sụt sịt lớn hơn. Hiếu nuốt
những miếng cơm trong sự nghẹn ngào. Tiếng rằng phải nhịn đói, mà anh ta cũng
chỉ lùa được hai bát lưng rồi bỏ đũa và nói:
– Để con gói tất cả mấy cái này lại đem vô trỏng dành đến
mai. Mai má khỏi vô nhưng ngày mốt, má nhớ nhé. Chỉ cơm với muối mè thôi. Mà đừng
gà-mên gầu mung gì hết trơn. Má cứ làm như có tự do giống hồi trước không bằng.
Đi vô đồng mà xách gà-mên, họ thấy họ nghi.
Mụ Phước nhìn ra chung quanh:
– Mày tin chắc chỗ này kín chớ.
Hiếu gật đầu:
– Bảo đảm an toàn mà má. Tụi nó dại gì mà vô tới tận đây. Có
điều má cũng nên cẩn thận đừng để chúng nó theo.
Cuộc gặp gỡ lén lút như vậy từ đó cứ tiếp diễn đều đều. Ngày
nào mụ Phước cũng thổi thêm hai lon gạo. Rồi mụ đem nắm lại thành một nắm lớn.
Có hôm mụ gói theo một ít dưa cải, có hôm thì muối mè, lâu lâu dành dụm được ít
tiền mụ lại kho cho Hiếu một niêu cá. Riết rồi Hiếu đã trở thành một con chuột
đồng cứ đúng giờ lại đúng hẹn bò từ đám sình lầy nhằng nhịt lau lách ra mạn đầm
Tròn, ngồi thu mình trên một cái chạc cây khuất sau đám lá um tùm để chờ đón một
bữa cơm no bụng.
Mấy ngày đầu, mụ Phước còn đi dấu diếm. Sau mụ cũng chẳng còn
giữ ý tứ gì với ai. Nhất là một hôm đem cơm vô đồng, mụ gặp Bằng đang xách khẩu
súng đi từ nhà ra trạm gác. Bằng đứng lại hỏi:
– Bác đi đâu vậy?
Mụ Phước làm bộ tự nhiên, cười ngỏn ngoẻn:
– Tôi đi bắt mấy con sâu ngoài ruộng.
Bằng nheo mắt mỉm cười:
– Rồi bác đem cả cơm nắm ra cho sâu ăn đó phải không?
Mụ Phước trợn mắt, la lối:
– Đâu có! Cơm của tôi mà!
Bằng bật cười:
– Chà! Hồi này bác ăn khoẻ dữ. Nắm cơm của bác to thiệt ta.
– To hay nhỏ thì can gì tới ai?
– Thì cháu cũng chỉ nói vậy thôi chớ có can cớ gì đâu. Mà điều,
cho bác hay, cháu biết hết rồi, bác còn dấu làm chi.
Mụ Phước vênh mặt:
– Biết cái gì, mà dấu cái gì kia chớ?
– Thì thằng Hiếu đó. Bác mang cơm cho thằng Hiếu trong đầm
Tròn chớ gì?
Mụ Phước nhún vai:
– Sao cậu hay quá vậy. Ờ! tôi mang cho thằng Hiếu đó. Nó là
con tôi. Nó đói. Bộ tôi không có quyền tiếp tế cho nó chút đỉnh sao?
– Ờ, thì cháu có nói gì đâu. Bác cứ tự do mà. Mấy thằng chuột
nhắt ấy không nhờ mấy bác thì tụi nó chết đói nhăn răng ra rồi. Mà điều bác nhắn
với tụi nó cứ lén lút ở ngoải. Lần mò về đây lộn xộn chúng cháu không nể gì
đâu.
Mụ Phước đấu dịu để làm hoà:
– Ờ, thì tụi nó cũng lén lút ở ngoải vậy thôi, chớ nó về đây
làm chi.
– Chưa tới lúc thôi đó, bác. Mặt trận sắp sửa lan rộng tới nới
rồi. Cháu e bác chẳng có dịp nắm cơm cho nó được bao lâu nữa đâu.
Mụ Phước giật mình:
– Ủa! Cậu nghe nói như vậy hả?
– Thì mùa mưa sắp tới rồi. Bao giờ tụi nó chả lợi dụng sương
mù, với nước ngập để phát động chiến trường vào mùa mưa.
– Ôi, mà điều thằng Hiếu nhà tôi nó đâu biết cái gì. Ai phát
động thì phát động chớ nó chỉ vậy vậy thôi.
Bằng mỉm cười:
– Nói như bác thì dễ quá. Thời buổi này ai mà muốn gì những
chuyện chém giết. Như cháu đâu có mong cầm súng tối ngày lo hết cái này tới cái
kia. Nhưng thời thế nó đưa đẩy vậy thì biết vậy. Theo phe nào thì phải hoạt động
cho bên ấy chớ…
Thấy mụ Phước im lặng không đáp, Bằng lại tiếp:
– Như cháu đây, đâu có thù oán gì với thằng Hiếu. Hồi còn nhỏ
đi học, cháu còn chơi thân với nó nữa là khác, bác nhớ chớ?
Mụ Phước gật đầu:
– Nhớ chớ sao không. Có lần thằng Hiếu nó cõng cậu từ sân
chùa về nhà. Đầu cậu be bét những máu, chắc vết sẹo hãy còn phải không?
Bằng mỉm cười:
– Cháu nhớ chớ sao không. Bây giờ vết sẹo ấy hãy còn đây. Hồi
đó may nhờ thằng Hiếu đỡ giùm và kiếm thuốc bôi, chớ không thì đời tàn rồi, đâu
còn đứng đây.
Mụ Phước chép miệng:
– Thời buổi ác ôn thế đấy. Ai mà ngờ được rằng sẽ có ngày cậu
với nó lại đối nghịch được với nhau.
Bằng gật đầu:
– Vâng, đúng thế. Ai mà có thể ngờ được. Mà điều chẳng vì thế
mà cháu nhượng bộ nó đâu bác Bác nhớ nhắn nó là chớ có lảng vảng về nhà, gặp nó
là cháu không nể nang gì đâu. Cháu bắn nó trước.
Mụ Phước la lên:
– Tại sao kỳ cục vậy. Bộ cậu không biết bắn chỉ thiên sao?
Bằng mỉm cười:
– Sao lại không bắn được chỉ thiên. Mà điều như vậy nguy lắm.
Cháu không bắn, nó cũng bắn cháu trước. Trong chiến tranh, nào có ai nể gì ai
được….
Lòng mụ Phước bỗng như đau quặn lại. Mụ tưởng như thân hình gầy
gò yếu đuối của thằng Hiếu bỗng đã chịu năm bẩy phát đạn khi đang lần mò về ăn
những bữa cơm lén lút. Một niềm xót xa tràn ngập tâm hồn người mẹ thương con. Mụ
cảm thấy cái thời buổi này thật là hoàn toàn vô lý. Ngày xưa, mỗi bữa cơm ngọt
ngào do bàn tay mẹ nấu lấy là biểu hiệu của mái ấm gia đình, là hạnh phúc đơn
sơ, là nguồn vui nhẹ nhàng như con suối hiền từ chẩy qua những cánh đồng rực rỡ
hoa và bướm. Bây giờ, cũng đôi bàn tay hiền từ ấy, cũng vẫn chỉ là những bữa
cơm của mẹ cho con, mẹ thương con, nguồn xót thương của mẹ vẫn bao la, rộng rãi
như ngày nào, lòng mẹ có bao giờ đổi thay vậy mà bây giờ tất cả lại trở nên lén
lút. Chiếc “gà-mên” cơm đặt xuống nệm cỏ, khuất sau lùm cây um tùm. Bữa ăn của
mẹ dành cho con đấy. Nhưng nó không còn về đúng giờ nữa. Nhiều hôm sẩm tối, Hiếu
mới bò ra thập thò như chuột. Những ngày đầu, mụ Phước còn ngồi chờ, nhưng sau,
theo lời Hiếu dặn, mụ chỉ buộc gói cơm lên một cành cây.
– Má treo lên cành đó cho con. Bớt kiến má ạ! Nhiều hôm phủi
kiến muốn chết mới ăn được.
Lòng mụ Phước khựng lại, xót xa như lũ kiến trong đầm Tròn đã
gậm nhấm chính mụ. Những ngày hôm sau mụ treo gói cơm lên một cành cây nhẵn nhụi.
Mụ lại không quên mang theo mảnh giẻ tẩm ít dầu hôi xoa ở đầu chỗ lạt buộc. Thế
là thằng Hiếu khỏi phải “phủi kiến muốn chết mới ăn được”. Mụ Phước rất hãnh diện
vì những công trình nhỏ nhặt ấy. Và chỉ khi đó, mụ mới mỉm cười, nụ cười hiu hắt
như những tia nắng cuối cùng trong một mùa đông ảm đạm. Tuy vậy đối với Hiếu chỉ
ngần ấy cũng đủ làm cho không gian buồn tẻ này trở nên ý nghĩa hơn, và những lời
trao đổi giữa Hiếu và mẹ khiến Hiếu chẳng bao giờ quên được.
– Mày ăn cơm còn thấy kiến không?
– Hết rồi má.
– Cơm hơi nát phải không?
– Hình như vậy, má.
– Tại tao đổ nước lỡ tay một chút. Cái càng cua ở ngón tay mấy
bữa rày nhức quá.
Hiếu giật mình:
– Má đau từ bao giờ má.
Mụ Phước xoè ra một bàn tay sưng vù. Hiếu chua xót:
– Thôi, từ mai má nghỉ vài bữa đi má. Con nhịn được mà.
– Đừng có ẩu. Tay tao trông vậy, chớ có đau lắm đâu.
Và quả nhiên ngày hôm sau, dù đau muốn rụng cả bàn tay, mụ
Phước vẫn dành cho Hiếu một giỏ cơm trên đầu cành. Trong lời ước hẹn, ai ngờ
chính Hiếu lại là người bỏ cuộc trước. Bữa đó Hiếu không về. Gói cơm vẫn lủng lẳng
trên cao đu đưa theo từng làn gió thoảng suốt một đêm một ngày không có người gỡ
xuống. Hôm sau trở lại mụ Phước giật mình khi nhìn thấy gói cơm còn đó. Mụ tháo
xuống thay bằng gói mới rồi kiên nhẫn ngồi chờ từ chiều cho đến tối mịt. Thằng
Hiếu vẫn không về. Và kể từ bữa đó, không bao giờ mụ lại còn nhìn thấy thằng Hiếu
trở về để gỡ xuống những bữa cơm thanh đạm vỏn vẹn chỉ gồm một nắm không quá một
vốc tay, với một nhúm muối mè chan chứa biết bao lòng yêu thương và nguồn hy vọng
mong manh của người đàn bà khốn khổ. Mụ Phước đã ngồi chờ Hiếu suốt mấy ngày liền.
Có khi trắng cả một đêm trong đầm Tròn, sương xuống ướt sũng cả vai áo. Buổi
sáng ra đi, mụ thất thểu như người mất hồn. Mụ băng qua đầm Tròn, đi sâu mãi
vào trong vùng rậm rạp, um tùm của rừng lau, sậy đan kết nhằng nhịt miên man
như bất tận. Đi chán, mụ lại trở về dưới gốc cây ngồi chờ và than khóc. Khóc
mãi riết rồi nước mắt của mụ cạn khô như những hạt cơm phơi nắng hai ba ngày liền
cũng đanh cứng lại, rắn chắc, chứa đựng một vẻ tàn nhẫn phũ phàng. Đàn kiến
hung tợn trước bị ngăn chặn bằng lớp giẻ tẩm dầu hôi không xâm phạm được đến
gói cơm, bây giờ những hạt cơm từ chiếc gói bung ra, đổ vương vãi trên khắp mặt
cỏ. Không còn là của thằng Hiếu nữa. Không còn thú vui cuối cùng khi hai mẹ con
thủ thỉ với nhau những lời ngắn ngủi nữa. Bây giờ những hạt cơm là của những
con kiến với số lượng chập chùng, đông không kể xiết.
Thế là, trong cuộc tranh giành miếng cơm trắng trong gói cơm
treo trên đầu cành, không phải thằng Hiếu thắng mà chính là những con kiến hằng
hà sa số trên những lùm cây um tùm.
Chương ba
“Hãy kể cho mình nghe tất cả mọi chuyện về quê nhà yêu dấu.
Cho dẫu ở trên này mọi thứ đều lộng lẫy, xa hoa, mọi thứ đều yên ổn trôi qua
như chiếc kim đồng hồ buồn nản treo ở ngay giữa cổng ra vào trường nữ trung học
nhưng ai mà quên được quê nhà yêu dấu. Mỗi lá thư của Thu là một nhịp cầu nối
liền tâm trạng với người đi xa hoàn cảnh hiện tại của quê hương, xứ sở. Người
ta nói một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ. Huống chi mình đã sinh ra ở đấy, lớn
lên ở đấy, chung sống ở đấy muôn ngàn kỷ niệm vui buồn, vậy không thể vì lý do
gì mà lại ngoảnh mặt quay đi trước sự đau khổ não nề mà quê nhà đang phải chịu
đựng. Đã có lần Thu nói:
“mình biết để làm gì, có thay đổi được gì đâu, có khiến cho
bom ngừng rơi, súng ngừng nổ và những giọt nước mắt của cha khóc con, vợ khóc
chồng, mẹ già, con dại nhớ thương người thân yêu không bao giờ trở về, tất cả đều
ngừng chảy trên những khuôn mặt in hằn dấu vết của khổ đau và nhẫn nại”. Đồng
ý là như thế rồi, Hạnh làm gì có đôi đũa thần để làm con suối nước mắt của dân
mình ngừng chảy khiến cho sự đớn đau ngừng bắt dân mình phải chịu đựng. Nhưng
thà biết rõ như vậy để chia sẻ nỗi xót xa còn hơn là ngoảnh quay mặt với thái độ
thờ ơ của kẻ ngoại cuộc…”
Thì Thu cũng đã đương nhiên trở thành nhân chứng để kể lại
cho Hạnh nghe tất cả mọi biến cố ở quê nhà. Thời gian trôi đi quá nhanh. Một
năm rồi lại một năm. Ai mà ngờ chiến tranh tàn phá quê nhà trong một chuỗi thời
gian liên miên và vô tận đến như thế.
Cũng như Thu đã kể cho Hạnh nghe về trường hợp của chị Huấn lấy
chồng năm mười tám. Năm sau chị sinh thằng On. Thằng On được ba tuổi thì bố nó
đi tập kết, hẹn đúng hai năm sẽ trở về. Chị Huấn chờ chồng trong sáu năm. Sáu
năm âm thầm nuôi con với muôn ngàn nỗi tủi cực. Cuối cùng chị yếu đuối ngã vào
vòng tay người đàn ông khác, chẳng phải ai xa lạ, cũng chẳng có ai phản đối cuộc
hôn nhân thứ hai này. Chị đã lấy anh chàng Bằng, dân vệ xã đó.
Bằng thuộc loại đàn ông khoẻ mạnh tươi tắn và tốt bụng. Những
buổi gác trên chòi canh, Bằng như bị lôi cuốn bởi một hình ảnh ma lực làm hắn
phải cảm phục. Đó là hình ảnh của chị Huấn lầm lũi quẩy gánh âm thầm từ nhà lên
chợ vào buổi sáng tinh mơ và chợ về nhà khi sẩm tối. Bằng thấy chị như là hiện
thân của đức tính nhẫn nại và chịu đựng. Mái tóc biếng chải, quần áo đơn sơ, vẻ
mặt trang nghiêm đến lạnh lùng. Bao giờ ra ngoài chị cũng cúi đầu không nhìn
ai, thân mình như thấp xuống thêm dưới đôi gánh trĩu nặng của những mớ rau rổ
cà hay sọt khoai èo uột. Tất cả tình thương của chị chỉ dồn vào có đứa bé: thằng
On. Hai mẹ con gắn bó nhau như bóng với hình. Trong ánh sáng le lói của buổi
bình minh còn ẩm ướt sương sớm hay bóng tối chạng vạng của buồi hoàng hôn vừa tắt
ánh nắng, bóng dáng hai mẹ con nhỏ bé và cô đơn nổi bật trên quãng đường mòn chạy
giữa hai bờ duối dại với những sợ dây tơ hồng giăng vàng ối như tơ nhện. Họ hiện
ra dưới chân chòi canh, rồi những bước chân âm thầm, lủi thủi đưa họ đi qua chỗ
Bằng ngồi và dần dần thu nhỏ lại như hai cái chấm đen ở cuối tầm mắt. Bằng ngắm
không chán cái hình ảnh thiêng liêng ấy, với tất cả nỗi xúc động và xao xuyến
trong lòng. Rồi dần dần khuôn mặt dịu dàng với nước da tươi mát của chị Huấn bỗng
trở thành một nỗi ám ảnh trong lòng gã đàn ông chưa có gia đình.Tình yêu nẩy nở
như một đoá hoa tràn ngập cả đời sống hàng ngày của gã. Bằng không còn thiết gì
đến những ánh mắt lả lơi của nhiều thiếu nữ cùng xóm.
Trong tâm trí của Bằng, hình ảnh chị Huấn, lẫn cả hình ảnh của
thằng On đã xâm chiếm trọn vẹn mất rồi. Đó là thời kỳ chị Huấn đã chờ chồng đến
năm thứ bốn. Bốn năm chồng chị không gửi về một tin, không viết cho chị lấy một
chữ mặc dầu nhiều người đàn ông khác ra đi trong trường hợp ấy đã lác đác thấy
xuất hiện trở về. Hai năm còn lại của thời kỳ âm thầm nuôi con, chị Huấn lại
còn phải âm thầm chiến đấu đơn độc với tình yêu mãnh liệt của gã đàn ông đang
tìm mọi cách chinh phục chị. Chị biết rõ thời kỳ xuân sắc của mình đang trôi
qua một cách uổng phí. Chị cũng nhìn thấy rõ con đường cô đơn, lạnh lùng của sự
chờ đợi sẽ thăm thẳm mịt mù không biết bao giờ sẽ chấm dứt, không biết bao giờ
sẽ có một tia sáng hy vọng loé lên hay sẽ mãi mãi tối tăm, khắc khoải như hiện
tại. Đã lâu rồi chị không khóc, đột nhiên nước mắt của chị lại tuôn ướt đẫm mặt
gối vào những lúc nửa khuya. Buổi sáng khi bước chân ra khỏi nhà tâm trạng của
chị bỗng bối rối. Khi tiến qua chòi canh chỗ Bằng ngồi, thốt nhiên chị phải nắm
chặt bàn tay nhỏ bé của thằng On để tránh xúc động. Chị kéo nó đi như chạy trốn.
Nhưng trốn khỏi ánh mắt của Bằng rồi chị lại thấy hối tiếc giây phút ngắn ngủi
vừa qua. Con đường tan chợ trở về dần dà khiến chị quên mệt nhọc. Ánh mắt nồng
cháy thiết tha của Bằng như vương vấn đâu đó trên từng ngọn cỏ, từng mô đất, từng
cụm mây, từng cơn gió thoảng mơn man thổi qua những chân tóc ướt đẫm mồ hôi của
chị. Rồi lúc đêm về chị lại ôm thằng On đang ngủ vùi để khóc ướt đẫm cả mái tóc
óng ả như tơ của nó.
Xẩy đến một hôm thằng On mò mẫm qua bên kia đầm Tròn dẫm phải
một cái bàn chông. Hai bàn chân của nó bị những đầu nhọn của những thanh nứa sắc
như mũi dao, xuyên ngập và cứa toác ra từng mảnh thịt. Ấy còn may là nó nhẹ kí,
nếu không thì đến đi giầy cũng còn bị xuyên thủng cả bàn chân. Bằng nghe tin, tức
tốc tìm đến và gỡ nó lên, bồng trên cánh tay. Hai bàn chân của thằng bé ròng
ròng máu chẩy. Những giọt máu đỏ tươi thấm xuống nền đất, chói rực như những cục
lửa thiêu đốt lòng trắc ẩn của mọi người được chứng kiến.
Trong lúc ấy thằng On dẫy lên như một con đỉa. Tiếng gào của
nó rung chuyển cả một vùng cây cỏ thảm sầu, xé vỡ cả một bầu không khí đè nặng
những cơn u uất. Rồi nó lả đi. Bọt hai bên mép sùi ra. Cặp mắt nhắm nghiền như
bất động trên khuôn mặt xám ngoẹt không còn dấu vết của một luồng sinh khí. Bằng
bế nó đi qua những cặp mắt kinh hoàng, tráo trưng của đám trẻ nhỏ. Chân Bằng dẫm
nát những đám cỏ may yếu đuối vật vờ trong hơi gió. Nhưng toàn thân của Bằng
tràn ngập những cảm giác ghê rợn. Bằng thấy như từng ngọn cỏ mềm mại đang dựng
đứng lên thành những ngọn chông nhọn hoắt. Hai bàn chân của gã tê điếng như
chính gã đang chịu đựng cơn đau của thằng On, như mỗi bước chân đi của gã là một
cái hầm chông sụt xuống, xuyên thủng đôi giầy vải mỏng manh, cắm vào chân gã đến
xương, đến tủy. Bằng không bế thằng On về nhà nó mà rẽ ngay lên quốc lộ để đón
một chiếc xe lam. Chiếc xe chở hai người lên quận rồi từ quận nhờ xe nhà binh
chạy phăng lên tỉnh. Thằng On được vào nằm ngay trong bệnh viện. Mãi đến chiều
chị Huấn mới nhào tới. Chị khóc lăn lộn ngay ở cửa vào. Bằng phải níu lấy chị,
giữ chị không cho chị lao đầu vào cánh cửa phòng giải phẩu. Cuối cùng, hai người
phải chờ đợi đến tối mới thấy thằng On nằm trên băng-ca đẩy trở ra. Nó thoát được
nạn phải cưa hai cẳng chân vì Bằng hành động kịp thời. Những mảnh nứa vụn được
gắp ra. Những lỗ thủng được xoáy bông vào quậy, rửa sát độc. Và hai bàn chân nhỏ
bé của thằng On bây giờ trắng xoá những bông băng.
Người ta xếp cho nó chỗ nằm trên một cái giường sắt, trong một
căn phòng chật ních những bệnh nhân. Có người là nạn nhân của một vụ giật mìn.
Có người bị hơi bom làm rỉ máu ở hai vành tai. Và phần đông là chịu chung số phận
của những viên đạn. Đạn ghim vào đùi, vào ngực, vào bụng. Có người xổ ra cả đùm
ruột mà không chết. Cũng có kẻ chỉ bị sượt qua đỉnh đầu mà không sống nổi để chờ
nhìn mặt lần cuối thân nhân đến vuốt mắt. Mỗi lần có một kẻ qua đời trên giường
bệnh là một lần căn phòng đang ồn ào bỗng im bặt để tiễn đưa chiếc băng-ca lăn
trên bốn bánh xe trùm khăn trắng kín mít đi qua lối nhỏ hẹp. Vẻ mặt ai nấy đều
xúc động, bàng hoàng mặc dầu người xấu số chẳng phải là thân thuộc. Duy chỉ có
những công nhân trong bệnh viện là giữ được vẻ thản nhiên đến lạnh lùng. Điếu
thuốc vẫn cháy dở phì phèo trên vành môi. Ánh mắt như chưa phai mờ mẩu chuyện
vui nào đó mà trước lúc đẩy chiếc băng-ca đi vào, họ còn đang bàn tán dở dang.
Nghĩ cho cùng thì cũng chẳng có gì là khác lạ. Không phải chỉ hôm nay mới có một
kẻ qua đời. Hôm qua, tuần trước, tháng trước, năm trước, và cả ngày mai, ngày mốt
hay tuần sau, cái cảnh này cũng đã diễn ra, và sẽ còn diễn ra như thế nữa. Cơn
xúc động chỉ có ở lúc khởi đầu. Rồi tất cả đều trở thành thói quen. Cái gì rồi
cũng trở thành thói quen. Quen cả sự chia ly, quen cả sự cô độc, cô quả, quen cả
chuỗi ngày tối tăm, tang tóc, tàn phá quê hương triền miên từ trên hai mươi
năm. Trong cuộc chiến tranh này, đã có quá nhiều người phải mất mát. Có những
người mất mát đến không còn lại gì. Nhà cửa mất, cha mẹ mất, anh em mất, con
cái mất. Vì thế họ mất luôn cả dòng nước mắt để không còn biết khóc, biết xúc động
trước bất cứ một biến cố nào xẩy ra nữa. Kiểm điểm lại ngần ấy năm bị tàn phá
trong bom rơi, đạn nổ, trong khói lửa mù mịt tràn ngập khắp mọi xóm làng, dân
ta đã được những gì, còn lại những gì?
Tai nạn xẩy ra cho thằng bé bỗng trở thành một biến cố quan
trọng trong đời sống tình cảm của chị Huấn. Bằng nhân đó đã có nhiều dịp giúp đỡ
tận tình gia đình chị. Gã thay chị lo lắng đầy đủ giấy tờ cho thằng bé được nằm
trong bệnh viện, thay chị chạy chọt chỗ này, chỗ kia, để thằng bé có những thứ
thuốc đầy đủ theo toa bác sĩ. Rồi những ngày chị bận rộn trên chợ, thì cũng
chính là Bằng đã có mặt bên giường bệnh để săn sóc, an ủi. Chị Huấn đã mặc
nhiên công nhận sự giúp đỡ ấy của Bằng. Từ vầng trán cao và phẳng, đến ánh mắt
toả rực niềm hăng hái, nhiệt tình, nụ cười lúc nào cũng tươi tắn nở trên vành
môi dầy và ửng đỏ, hai cánh tay rắn chắc sạm đen vì sương nắng…Tất cả những
hình ảnh ấy của gã thanh niên đã đem lại cho chị một lòng tin cậy để chị không
còn cảm thấy cô đơn trong cuộc sống mỏi mòn và vô vọng của chị.
Đã từ lâu chị không còn vấn vương hình ảnh của người chồng
cũ. Sáu năm chờ đợi, sáu năm kéo dài cuộc sống âm thầm trong bóng tối, khắc khoải
từng đêm nghe từng tiếng sột soạt ngoài khóm lá, một tiếng chạy trên tầu dừa,
tiếng cá quẫy nước ngoài bờ mương hay tiếng động trong kẽ vách. Cả trăm lần,
ngàn lần những âm thanh ấy đi qua, mà lần nào chị cũng tưởng như tiếng chân của
người cũ đặt trên thềm cửa. Sự chờ mong khắc khoải kéo dài đã quá lâu khiến
tinh thần của chị mỗi ngày một trở nên bạc nhược, đến nỗi chị sợ đêm đen, sợ
bóng tối, sợ cả sự buông xuôi, không chờ đợi, không hy vọng đã bắt đầu gậm nhấm
tâm hồn của chị. Tất cả nguồn vui của chị bây giờ đều hướng vào đứa con trai độc
nhất, xoắn lấy chị như bóng với hình, chị vui theo niềm vui của nó, buồn theo nỗi
buồn của nó, chị lo lắng còn hơn là sự lo lắng cho tương lại tối đen thăm thẳm
đang ngự trị trong cuộc đời thanh xuân mỗi lúc một tàn phai của chị.
Nhưng rồi Bằng đã hiện ra như khuôn mặt của mặt trời le lói
sau những ngày mưa rả rích, đủ khiến cho má chị nóng bừng, cho lòng chị xao xuyến,
hồi hộp, và tình yêu bắt đầu nẩy nở thành từng sợi tơ lưu luyến mỏng manh quấn
quít lấy tâm hồn gan như nguội lạnh của chị.
Hôm ở trong bệnh viện, thằng bé đã giải phẫu xong và ngủ được
yên lành thì chị và Bằng đã trải qua nlnrng giây phút thần tiên nhất. Hai người
ngồi bó gối trên hàng hiên của bệnh viện nhìn ra khoảng trời trong vắt, tràn ngập
ánh trăng thượng tuần. Bằng muốn nói với chị rất nhiều nhưng rồi lại không nói
được gì cả. Trái lại, chị Huấn lòng muốn nghe Bằng nói lại thật nhiều, nhưng
thâm tâm lại cầu mong cho Bằng đừng nói ra điều gì hết cả. Họ cảm thông nhau
trong sự yên lặng, trong hơi gió xạc xào thổi qua các lùm cây, và trong cảnh vật
như chan hòa mộ làn ánh sáng đục lờ như sữa của mảnh trăng treo lơ lửng trên từng
cao. Cuối cùng, nửa khuya sương lạnh, Bằng chỉ làm được một công việc đầy ý
nghĩa là khoác lên mình chị chiếc áo lạnh màu vàng của mình. Chị Huấn im lặng
chấp nhận sự săn sóc ấy của Bằng, sự săn sóc mà từ sáu năm nay, chị không còn
được hưởng thụ dù chỉ là một cử chỉ nhỏ nhặt. Chị nhìn Bằng với cặp mắt trìu mến
và biết ơn. Trong bóng tối, bàn tay của Bằng bỗng nắm chặt lấy bàn tay run rẩy
của chị. Và hai người đã nắm tay nhau như thế cho đến lúc Bằng khuyên chị về
phòng đi nghỉ.
Hai tháng sau, họ sống chung với nhau một cách chính thức. Dư
luận bàn tán qua loa rồi cũng mặc nhiên chấp nhận. Cuộc chiến này còn gây ra
nhiều điều đáng phải quan tâm hơn là sự một người đàn bà chờ chồng trong sáu
năm rồi bước đi một bước nữa. Duy chỉ những kể xấu thói, hoặc vì ghen với Bằng,
hoặc vì liên hệ thân thuộc với chồng cũ của chị nên thỉnh thoảng lại hỏi thằng
bé một cách bâng quơ:
– Ê! On! Bố mầy đâu?
Thằng bé giương mắt lên nhìn, vẻ mặt đanh lại nhưng không trả
lời. Kẻ xấu thi lại đưa đẩy thêm:
– Có phải dượng Bằng không?
Nó gân cổ lên cãi:
– Sức mấy!
– Sao lại sức mấy? Bộ ổng ghét mày lắm sao?
Thằng bé không đáp. Nó lơ đãng nhìn về phía đồi núi mờ mịt
trong sương lam. Kẻ kia vẫn chẳng chịu buông tha:
– Ớ..ờ…cũng kẹt lắm chứ hả. Mai mốt bố mày về thì rồi mày
tính sao, má mày tính sao?
– Tôi đi!
– Đi đâu?
– Đi theo bố tôi chớ đi đâu.
– Mày biết mặt bố mày không?
– Ngày xưa biết, nhưng bây giờ quên rồi. Hồi đó tôi còn nhỏ
quá mà…
– Nhưng mày vẫn thương bố mày chớ?
– Thương chớ sao không. Hỏi cái gì mà kỳ cục không?
– Ngộ lỡ bố mày về bắn bỏ mẹ mày thì mày còn thương không?
– Không bao giờ bố tôi làm như thế cả.
– Chèn ơi! Làm sao lại không được nhỉ. Này nhé, bố mày theo Mặt
Trận mà dượng mày lại là Quốc Gia. Ui! Chỉ nội cái đó tao đã thấy toé lửa ra rồi.
Thằng bé bị dồn vào những câu hỏi khó giải đáp nên khó chịu,
vùng vằng bỏ đi. Nó nghe thấy ở đằng sau có tiếng cười ròn rã đầy vẻ chế riễu.
Tiếng cười vỡ ra như thành từng mảnh vụn đâm chĩa vào tâm hồn của nó làm nó bực
bội. Sự bực bội không biết trút lên đầu ai, nó quay ra hành hạ mẹ nó bằng những
câu hỏi hằn học:
– Tại sao má lại làm như vậy?
Chị Huấn nhìn con ngơ ngác:
– Má làm cái gì?
– Má lấy dượng Bằng đó!
Chị Huấn lặng người đi, cố giữ vẻ thản nhiên:
– Ừ, thì đã làm sao?
– Dượng ấy là lính Quốc Gia!
Chị Huấn cố mỉm cười gượng gạo nhưng lòng chị đã đau nhói vì
những cảm giác chua xót:
– Còn ba mầy ngày xưa thì Giải Phóng phải không? Mày thắc mắc
cái đó làm gì, có lợi ích gì đâu?
– Ngộ mai mốt ba về thì má tính sao?
– Không bao giờ ba về nữa cả. Ba mày đã bỏ rơi hoàn toàn mày
với má rồi.
– Sao má biết?
Chị Huấn thở dài não nuột:
– Ba mày đi từ hồi mày mới lên hai. Năm nay mày đã lớn chừng
đó mà không có tin tức gì, như vậy có phải ba mày nếu không mất thì cũng bỏ rơi
rồi không?
Ngừng một lát, chị Huấn nói tiếp:
– Nhưng thôi, mày còn nhỏ, thắc mắc đến chuyện người lớn làm
chi…
– Tại người ta cứ hỏi.
– Ai hỏi?
– Thiếu gì người!
– Hỏi cái gì?
– Hỏi bao giờ ba về? Hỏi nếu ba về thì má tính sao?
– Tao chẳng tính sao hết đó. Mà điều việc tao, tao lo, không
can gì đến lũ nít nhỏ như mày, nghe chưa!
Thằng bé nín thinh không trả lời, mặt nó càng đanh lại thêm.
Chị Huấn liền kéo nó lại gần, vuốt ve lên mái tóc mềm như tơ của nó. Sau những
phút ngập ngừng, chị bỗng cất tiếng hỏi:
– Mai mốt rồi có em bé nữa, mày có thương em không?
Thằng bé trố mắt ra nhìn mẹ. Nó không thể đoán trước được những
gì sẽ xảy ra, nhưng đối với nó thì đấy không phải là một tin mừng gì. Nó có cảm
tưởng như thêm một đứa bé ra đời, là sự liên hệ giữa nó với mẹ nó lại tăng thêm
một khoảng ngăn cách, cũng như dượng Bằng đã là nguyên nhân khởi đầu cho sự
ngăn cách ấy. Thấy nó không đáp, khuôn mặt lầm lì, đăm chiêu, thái độ hờ hững lạnh
nhạt, chị Huấn bỗng ứa nước mắt. Chị cũng cảm thấy hố ngăn cách giữa chị và nó
đang bắt đầu lan dần, và chị không còn thực sự nắm giữ được nó như ngày nào hai
mẹ con lủi thủi đi chợ, về chợ xoắn xuýt lấy nhau như hình với bóng.
Quả nhiên đến ngày chị sinh được một đứa con gái đầu tiên,
thì thằng On đã hoàn toàn xa lánh hẳn với chị. Nó đi, về như một cái bóng chập
chờn. Cơm không bao giờ ăn đúng bữa. Chỗ ngủ không bao giờ nó ghé lưng vào, mà
thường thường nó lang thang la cà hết chỗ này đến chỗ khác, có khi không về
nhà, cũng có khi nó ngủ ở ngoài hiên, góc bếp, hay đầu hè để khỏi phải liên hệ
đến mọi người.
Tình trạng ấy là do chính nó tạo ra, chứ không phải lỗi ở Bằng.
Gã đàn ông, trái lại đã cố gắng tìm cách dàn xếp, làm thân với nó, chẳng phải
vì nó, mà vì mẹ nó. Bởi vì nhiều đêm chị Huấn khóc thút thít ướt đẫm cả mặt gối.
Chị trách Bằng không ngó ngàng gì đến thằng bé và hối thúc Bằng thân thiện với
nó. Nhiều hôm, biết có kẻ xúi dục thằng On để chia rẽ nó với gia đình, chị ra
ngõ chửi um lên. Còn Bằng thì cố làm vừa lòng vợ nên cũng xách súng ra lên
“cu-lát” rầm rộ doạ bắn bỏ những đứa độc mồm. Nhưng thực ra trong thâm tâm của
gã cũng đã bắt đầu bực bội về thái độ đáng ghét của thằng bé. Gã thấy hạnh phúc
của gia đình chính vì nó mà sút giảm, mặc dầu suốt từ buổi đầu gã đã có thiện
chí tối đa.
Có nhiều hôm hai dượng cháu dẫn nhau men theo đường làng ra
quốc lộ để đón chị Huấn tan buổi chợ, xuống xe lam trở về. Trong lúc chờ đợi, Bằng
kéo thằng On ngồi xuống bờ cỏ, phóng tầm mắt nhìn về phía cánh đồng xa. Đồng
quê im lìm trong ánh nắng úa nhạt buổi chiều. Không gian lồng lộng hơi gió đưa
những cụm mây trắng bay lờ lững trên bầu trời trong vắt một màu xanh. Những thửa
ruộng láng nước trải dài đến cuối tầm mắt. Xa hơn nữa là những dãy núi chập
chùng nối đuôi nhau chạy thành một vòng cung mang mầu lam thẫm.
Mật khu Lê Hồng Phong nằm ở nơi xa đó, có thể đang có sự hiện
diện của ba thằng On, và biết bao nhiêu người thân yêu của những gia đình khác.
Không gian thật gang tấc nhưng cách trở thật nghìn trùng. On ước ao mình chắp
được đôi cánh để bay lên trời cao. Để đến bất cứ nơi nào nó muốn đến. Để gặp bất
cứ một ai mà nó muốn gặp. Niềm ước mơ của nó tuy cao xa, nhưng nghĩ cho cùng,
đâu có viễn vông. Ngày xưa, hồi quê nhà yêu dấu chưa có tiếng súng, thì khắp giải
non sông gấm vóc này có nơi nào mà dấu chân mọi người không có thể đặt tới được.
Đường rộng thênh thanh. Đi đến đâu cũng chỉ gặp toàn nụ cười, ánh mắt hân hoan
chào đón. Giữa đêm trăng, có thể trải chiếu ra giữa đồng đếm từng ngôi sao
sáng, chờ đón từng vệt trắng xoá của những vì sao đổi ngôi bay qua bầu trời, và
cuối cùng có thể ngủ thiếp ngay trên bồn cỏ thơm mùa lúa chín mà không phải thắc
mắc hay băn khoăn.
Ngoảnh lại quá khứ đồng quê thanh bình như đã lùi vào mộng tưởng.
Những ước ao dù nhỏ bé nhất của ngày xưa, bây giờ cũng đã trở thành những ước
ao không thể thực hiện, không biết bao giờ mới có thể thực hiện được.
Cũng như con Hương ước ao đôi chân của nó chỉ cần nhanh nhệt
như đôi chân của những con gà con bé bỏng. Hạnh ước ao được về bắt bướm trong đồng
nội. Thu ước ao mái trường làng không còn rêu phủ và rộn rã tiếng cười trong những
giờ tan học. Và bà mẹ anh Hiếu cũng chỉ ước ao được nấu cho con mình một bữa
cơm nóng hổi, công khai đơm cho nó từng bát đầy tú hụ, tiếp cho nó từng miếng đậu
om tương mà không phải lén lút, không phải dấu diếm, cũng không phải kiên trì
chống chọi lại với những đàn kiến tinh quái trên các cành cây trong đầm Tròn.
Ngần ấy điều mong ước sao mà đơn sơ, giản dị đến thế. Đôi
chân nào không nhanh nhẹn, đồng nội nào không có bướm rực rỡ bay nhởn nhơ, trường
học nào không rộn rã tiếng cười và bà mẹ nào chẳng có quyền thổi cho con một bữa
cơm dưới bàn tay, trong ánh mắt trìu mến của mình.
Vậy mà những điều nhỏ bé ấy đã trở thành những ý nghĩ chỉ tồn
tại trong giấc mơ. Ôi, giấc mở của người Việt Nam đau khổ sao mà bình thường, ước
vọng sao mà nhỏ bé đến vậy mà vẫn chưa thấy hy vọng thực hiện. Đêm đêm tiếng
súng vẫn vọng về át tiếng chó sủa, tiếng bom giây rền rĩ trong bầu trời rung
chuyển đến từng đọt lá, từng kẽ vách, và chính ở chỗ đó, nơi hứng chịu những
tai hoạ trút xuống từ trên đầu đã có bao nhiêu sự sống bị chôn vùi, bao nhiêu
thân hình bị tàn phế, bao nhiêu người vợ goá chồng, bao nhiêu đứa con mồ côi
cha, và một năm lại có thêm bao nhiêu gia đình phải cúng giỗ. Những câu hỏi đó
không phải chỉ được đặt ra trong một đêm, một tuần, hay một tháng, nhưng thực
ra nó đã kéo dài quá lâu, quÁ quen thuộc đến độ trở thành những ám ảnh trong
đêm đen. Và tuổi thơ Việt Nam quả thực là tuổi thơ thiệt thòi nhất, đớn đau nhất,
tủi nhục nhất đến độ không một xứ sở nào còn có thể đưa ra được những hình ảnh
xót xa hơn.
Trong khung cảnh buồn bã của đồng quê ảm đạm như vậy, hai dượng
cháu ngồi trên mô đất cao nhìn về phía quốc lộ, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ
riêng. Thằng On không ngớt thắc mắc về những câu hỏi mà người lớn đã vô tình
ghim sâu vào đầu óc nó để bây giờ đã trở thành những ấn tượng khó phai mờ. “Bố
mày theo Mặt Trận, dượng mày theo Quốc Gia. Ui! Chỉ nội cái đó tao cũng thấy
toé lửa rồi” . On liếc mắt qua nhìn dượng Bằng. Gã đàn ông không mang một
vẻ gì đáng ghét, nhưng giữa nó và người đàn ông này vẫn có một hố sâu cách biệt.
On tiếc là nó không nhớ hình ảnh của ba nó để mà so sánh. Ông ta đã ra đi từ
ngày On mới lên hai. Gần mười năm trôi qua, dấu vết của người thương yêu gắn bó
trong gia đình đã hoàn toàn phai mở trong mọi sự quên lãng. Ông là người thế
nào? Cao hay thấp? Gầy hay béo? Già hay trẻ? Hiền hay dữ? Không một tia sáng
nào giúp nó chiếu rọi vào dĩ vãng mịtmù mà khi còn nhỏ quá nó không thể ghi nhớ
được. Duy có một điều chắc chắn mà On biết rõ được là người đàn ông đang ngồi
bên cạnh nó hiển nhiên đã cướp đi của nó nguồn yêu thương đã ấp ủ thời thơ ấu của
nó trong sáu, bẩy năm trời. Vị trí của On trong gia đình cứ mỗi lúc một bị thu
bé lại. Buổi sáng On không còn được chính bàn tay êm ái của mẹ đắp chiếc khăn mặt
lên hai mắt day đi, day lại nhiều lần để làm tan đi giấc ngủ còn đọng trên bờ
mi. Trong một ngày, On ít còn dịp biểu lộ những cử chỉ nũng nịu để bắt mẹ chú ý
đến mình một cách âu yếm, một cách xót xa, một cách cưng chiều, hay một cách
sung sướng. Bây giờ, đôi mắt của bà vẫn to như thế, vẫn đen như thế, vẫn dịu
dàng như thế, nhưng thằng On biết chắc nguồn yêu thương trong lòng của bà đã
vơi đi so với ngày chỉ có hai mẹ con lủi thủi. Giữa mẹ và nó, bây giờ đã có một
người đàn ông án ngữ. Người đàn ông ấy đang ngồi đây, vầng trán cao, đôi mắt sắc,
nụ cười dễ dãi, tất cả không có vẻ gì đáng ghét. Nhưng nếu gã càng dễ thương,
On càng thấy thù hận, gã càng chiếm đoạt được cảm tình của mẹ On, nó càng thấy
mình mỗi lúc một thêm thừa thãi. Điều đó đã khiến cho nó vuột xa, ra khỏi nếp sống
khuôn phép của gia đình.
Suốt ngày, On lang thang trong đầm Tròn với một thằng bạn có
một hoàn cảnh cũng bi đát như hoàn cảnh của nó, thằng Tư, cái thằng đã xô anh
Hiếu sang bên kia hàng ngũ, sau vụ nó lẹ tay chớp được khẩu súng của chuẩn úy
Phú trên chuyến xe lam di chuyển từ phố chợ trở về đồn. Tư không hối hận một
chút nào về việc nó đã làm. Tuổi trẻ nhiều khi độc ác và dễ quên lãng. Nó quên
ngay những gì đã xẩy ra từ ngày hôm trước. Nó cũng quên ngay cả hình ảnh anh Hiếu
vẫn thường kể chuyện cổ tích cho mọi người nghe vào những hôm quây quần quanh đống
lửa nướng khoai, lùi mía hay quay những con chim sa lưới trong đầm Tròn. Ngay cả
đến hoàn cảnh cực kỳ bi thảm của gia đình nó, Tư cũng không vướng bận để buồn rầu.
Bốn năm trước, ba của nó sau một lần cãi vã sôi nổi vì chuyện tiền nong, cờ bạc
đã tức mình bỏ nhà lên quận đăng vào lính. Quyết định sôi nổi này là dấu hiệu đầu
tiên của định mệnh đã an bài. Cuộc đời lính chiến lôi cuốn người đàn ông đi khắp
mọi nẻo đường bị tàn phá của chiến tranh. Những người ở nhà theo dấu của kẻ ra đi
thật khó khăn và mệt mỏi. Tháng trước Hoành (tên bố của thằng Tư) có mặt ở Hậu
Nghĩa. mẹ Tư tìm lên Hậu Nghĩa thì đơn vị đã đang đáng lớn ở Đồng Xoài. Trận Đồng
Xoài chấm dứt, người đàn ông viết thư về báo tin bị thương nhẹ ở chân. Mẹ Tư
tìm tới quân y viện thì hắn ta đã đi khỏi và được di chuyển về dự trận Sa Hùynh
– Đức Phổ. Sau Đức Phổ, Hoành vào mật khu Hố Bò. Rời Hố Bò, ít lâu sau, lại có
tin Hoành về Trảng Bàng, Bầu Trẻ rồi ngược lên cao nguyên đóng ở Bạch Mã, chuyển
qua A Lưới, A Shau, Tà Bạt – những căn cứ thâm sơn miền sơn cước Trung phần.
Duy chỉ có một điều lạ là kẻ đi vào khói lửa không bị thiêu đốt trong khói lửa,
mà chính kẻ ở nhà lại gánh chịu thảm hoạ của chiến tranh. Lần này những người
dân vô tội không chết vì mìn bẫy, vì hầm chông, vì lựu đạn gài nhưng chính những
giây bom đã gây ra thảm kịch. Lẫn lộn trong bùn đen và đất bẩn, có những mảnh
áo, có những manh quần, có từng bộ phận bầy nhầy của ai đó, phân biệt làm sao
là du kích, là chính qui, là dân vô tội….Mà có ích gì đâu khi làm cái việc phân
biệt đối với những kẻ đã vĩnh viễn trộn lẫn xương thịt của mình vào lòng đất.
Thằng Tư đã thoát khỏi số phận ấy, nhưng mọi người trong gia
đình nó thì không. Như một cánh chim non bị lìa tổ, nó tham dự vào đời sống như
một cái bóng mờ. Mọi người không còn đủ xúc động để thương xót cho hoàn cảnh một
đứa mồ côi không nơi chốn nương tựa. Đồng quê yêu dấu đã chịu đựng quá nhiều thảm
khốc. Nhiều người đã mất đến không còn gì để mất. Nhà cửa, ruộng vườn, đất đai
và người thân ruột thịt. Dòng nước mắt đã cạn khô trong những tâm hồn cằn cỗi.
Tình yêu thương không có chỗ để dừng chân và kịp nẩy nở. Ai biết được rằng trên
những vẻ mặt bình thản kia, mọi cảm xúc đã nguội lạnh như hòn than nóng bỏng đã
bị dìm sâu trong đáy nước. Cũng có ai biết được rằng những đứa trẻ sơ sinh gầy
yếu kia vĩnh viễn không bao giờ còn nghe được, đầu óc sẽ không bao giờ còn nẩy
nở bình thường được. Âm thanh dữ dội của những cuộc giao tranh, từ trên trời
trút xuống, từ dưới đất bùng lên, chát chúa, rền rĩ, liên tục, đã giết chết những
khả năng nghe và nghĩ của lũ sơ sinh, trót dại đầu thai vào vùng lửa đạn.
Tình cảnh quê nhà đã như thế thì có nghĩa lý gì khi đời sống
có thêm một đứa trẻ mồ côi. Nó đã tới chầu ở một gánh hàng bán dăm củ khoai èo
uột, nó đã xoè tay trước mặt một người lớn đang nhai từng hột ngô nguội lạnh.
Và người ta đã xua nó đi như xua con Vàng, con Mực gầy yếu tong teo vẫn từng
lang thang, đào bới trên những đống rác bu đen ruồi nhặng. Lòng nhân ái hầu như
chỉ phát sinh sau khi đời sống đã dư thừa. Nào ai còn điều kiện dư thừa khi mà
ruộng không cầy được, vườn không ai săn sóc được, chỉ lo phần dạ dày của mình
không thôi đã thấy vất vả, thiếu thốn rồi. Cho nên trong chiến tranh tàn phá,
việc gì cũng có thể xẩy ra, ngay cả sự mất đi lòng nhân ái vốn là bản chất của
những người nông dân chất phác.
Tuy vậy, thằng Tư chẳng vì thế mà nó chịu nằm khoèo để cơn
đói hành hạ. Nó xông xáo ở khắp mọi nơi, mọi chốn. Nó ra vào vùng cấm địa như một
nhân vật siêu hàng ngũ, siêu chiến tuyến. Phe Quốc Gia bên này, phe Mặt Trận
bên kia, biết nó và đã coi nó như một kẻ ngoại cuộc. Một đôi khi buồn tình, muốn
giảI trí, một anh lính Quốc Gia chộp lấy cổ nó hù chơi:
– Cấp này mày làm chi, tao thấy hết rồi.
Tư vênh mặt:
– Tôi làm chi?
– Liên lạc! Mày đem tin tức bên này báo cho tụi bên đó phải
hôn?
– Tin tức nào, ở đâu? Tôi nói ai tin.
– Sao không tin mầy?
– Bố tôi đi lính Quốc Gia mà.
– Hà..hà…, vậy tao mới nghi chớ. Bố mày đi lính Quốc Gia mà tụi
nó không cắt cổ mày, vậy là mày về phe tụi nó rối.
– Về phe tụi nó sao tôi không đi luôn. Họ cho đi học tôi
không đi. Họ biểu vô đoàn thể, tôi không vào, vậy là về phe đó hả?
Anh lính trở nên tò mò:
– À!…Vậy là họ có dụ mày đó há?
– Thằng Sanh chứ ai. Nó biểu tôi đi hoài, nhưng tôi không
ưng. Tôi chờ bố tôi về. Thế nào bố tôi cũng về phải không?
– Ờ…ờ..nếu ổng không chết.
– Sao ổng đi lâu quá vậy.
– Ai mà biết.
– Đi lính có được về phép không?
– Về nguy hiểm. Mày không thấy khu này thiếu an ninh sao. Nội
cái cứ đi ngờ ngờ từ trên kia xuống đây cũng đủ mệt rồi huống chi còn bao nhiêu
là đường đất khác.
– Không về thì cũng có thư chớ?
– Thư nào? Gửi về đâu? Bộ mày tưởng về tới quận rồi ông quận
đem về tận xóm làng cho mày chắc. Lên quận kiếm may ra, mà điều không chắc đâu,
họ dục cha nó vô thùng rác, sướng thân hơn.
– Vậy tôi chờ.
– Ờ…ai cấm. Mà điều mong ổng đừng có làm sao.
Mặt thằng Tư rạng lên đầy tin tưởng:
– Tin đi. Ổng không làm sao hết đó. Ổng chì lắm mà.
– Mày khi dễ mấy thằng bên đó quá. Tụi nó không vừa đâu.
Tư mỉm cười:
– Ai chớ, bọn thằng Sanh, thằng Ngọ, thằng Thạch, tôi gặp
hoài trong đầm Tròn. Tôi biết quá mà.
– Mày biết làm sao?
– Tụi nó nhát lắm. Nghe tiếng máy bay là lẩn như chuột.
– Nói nghe ngon không. Bom đạn ai mà không nhát.
Gã đàn ông gật gù rồi nhún vai bỏ đi. Thằng Tư lại lầm lũi
làm những công việc riêng của nó, bắt cua, mò ốc, lang thang trên phố chờ hay
ra vô đầm Tròn như một nhân vật siêu quốc gia, siêu chủ nghĩa.
Nó và thằng On gần như chung nhau một hoàn cảnh, nên đã trở
thành đôi bạn thân thiết. Chúng nó hay gặp nhau ở bãi cỏ đằng sau chùa đốt lửa
nướng khoai vừa ăn vừa rỉ rả nói chuyện. Trong đầu óc nhỏ bé của chúng nó, đứa
nào cũng ôm một giấc mơ. Thằng On thì mơ rằng bên Mặt Trận sẽ toàn thắng để bố
nó hiên ngang trở về. Bố nó sẽ “sút” dượng Bằng một quả bay văng vô đầm Tròn để
trả lại cho nó đời sống tươi mát ngày xưa.
– Thế còn cái Thảo, em bé của má mày thì làm sao?
Thằng Tư hỏi thế và câu hỏi này làm thằng On bối rối. Mường
tượng đến khuôn mặt ngộ nghĩnh kháu khỉnh của đứa em gái cùng mẹ khác cha, On
không thấy có ý nghĩ nào gọi là ghét bỏ. Con bé có tội tình gì đâu. Mắt nó to
và thật sáng. Mái tóc mềm mại như nhung. Vành môi đỏ chót. Đôi má bầy bĩnh như
hai trái đào. Nó xinh xắn hơn bất cứ đứa nhỏ nào mà On đã được gặp. Vì thế, On
chỉ đáp lại một cách lúng túng:
– Nó vẫn ở lại với má tao, với tao.
– Thế còn ba mày? Ổng có chịu như vậy không chớ.
– Nhất định là không rồi.
On nói thế và nó buồn sịu mặt. Thế là ngay cả những điều mơ ước
cũng không làm sao nó được sung sướng trọn vẹn cho dù sự mơ ước có trở thành sự
thực. Điều đó làm On im lặng không nói nữa. Nó nhường cho thằng Tư trình bầy sự
mơ ước của mình:
– Tao thì tao mong bố tao thắng trận trở về. Ngực ổng đầy huy
chương. Ổng sẽ mua sẵn cho tao thật nhiều đồ. Ổng sẽ cho tao đi học như bọn con
Thu, con Hương. Chừng đó thì trường học mở của lại chứ gì.
– Lẽ dĩ nhiên rồi. Nhưng nghe dượng Bằng nó thì không dễ dầu
gì đâu. Sẽ còn đánh nhau hoài hoài.
Tư cãi lại:
– Đánh mấy thì cũng có lúc thôi chứ.
– Đúng rồi! Nhưng bao giờ? Một năm nữa hay mười năm nữa? Chờ
đến lúc cả bố mày lẫn ba tao lẫn tất cả mọi người, chẳng ai còn nữa thì chiến
tranh có chấm dứt cũng là vô ích. Ai còn mong.
Tư thở dài. Nguồn hy vọng của nó bị tắt ngấm ngay khi vừa chớm
nở. Một lát, nó bàn:
– Tao nghe nói ở trên tỉnh không có chiến tranh. Hay là mình
trốn lên đấy cho rồi.
On quả quyết:
– Tao không đi đâu cả. Tao phải chờ ba tao trở về. Lúc ổng
đi, ổng từ giã ở chỗ này, thì khi trở lại, ổng cũng sẽ có mặt tại đây.
– Mày chắc như thế à?
– Tao chắc như vậy. Hồi chưa có dượng Bằng, ngày nào má tao
cũng nói với tao điều đó. Bao nhiêu là chuyện cũ đối với tao, chỉ toàn là do má
tao kể lại. Vì thế tuy chưa gặp mặt ba tao, nhưng tao biết khá nhiều về chuyện
ba tao. Ổng giỏi, ổng tôt, bao giờ má tao cũng lấy ra làm gương cho tao. “Ngày
xưa ba thế này, ngày xưa ba thế khác, mày phải làm giống thế này, làm thế khác
mới bằng ba”.
Tư tò mò:
– Thế còn bây giờ?
On cười chua chát:
– Bây giờ thì khác. Bả tránh không nhắc gì tới ba tao. Có hôm
nổi sùng, tao nhắc bả, bả chỉ ôm lấy con Thảo mà khóc. Tao rất sợ khi thấy bả
khóc. Đó là một thói quen từ xưa. Bây giờ nó trở thành một khí giới của bả để bắt
tao quên ba tao đi. Tao vừa thương bả, tao vừa ghét bả. Kỳ cục thiệt.
Tư nhún vai:
– Có nhiều chuyện kỳ cục xẩy ra ở trong ấp mình. Như tao với
mày, đáng lẽ phải ghét nhau. Vậy mà mình lại thân nhau.
– Tại sao mình lại phải ghét nhau?
Bởi vì bố tao theo bên này mà ba mày lại theo bên đó. Ông này
được trở về thì ông kia lại phải ra đi. Ông này là kẻ thắng thì ông kia là kẻ bại.
Khi đó hai chúng mình sẽ có một đứa sướng, một đứa khổ, phải không.
– Ờ! Tao cũng nghĩ đến điều đó. Nhưng tao không mong là có ai
thắng hay có ai thua cả. Ba của tao với bố của mày có điều gì mà phải ghét nhau
cay độc đâu.
– Ông Bẩy cũng nói như vậy.
– Ổng nói sao?
– Nói là chẳng lý tưởng, chủ nghĩa gì ráo. Ổng sống ở đây bao
nhiêu năm rồi có điều gì để đến nỗi phải giết nhau tận tình đâu. Tất cả chỉ là
những sự bày đặt để lôi cuốn đồng quê vào vòng khói lửa.
– Mày có tin là ổng nói đúng không?
– Tao tin là như vậy. Tao thích nói như vậy.
– Nếu thế thì mình nên “chơi” với ổng. Tao sẽ giúp ổng bắt ếch
trong đồng ra bán ở quán mụ Năm.
Tư mỉm cười:
– Ổng nghiện rượu như một cái hũ chìm. Bữa nào mời ổng ghé chỗ
bụi đước trong đầm Tròn làm một bữa nhậu chơi.
On vỗ tay:
– Phải đấy. Rồi bắt ổng kể chuyện ngày xưa xem thế nào. Ổng
già rồi. Ổng biết hết mọi người, biết hết mọi chuyện. Tao hỏi luôn cả chuyện ba
tao nữa.
Tư vui vẻ:
– Còn tao, tao sẽ hỏi có khi nào tất cả mọi gia đình đều được
sum họp mà không có ai thắng, cũng chẳng có ai thua cả hay không.
Chương bốn
Lão Bẩy thuộc vào loại người chỉ mở miệng khi rượu đã ngà ngà
say. Những lức đó, lão nói rất hăng, rất mạnh, nói bất kể trời đất. Lão nguyền
rủa cả bên này lẫn bên kia, ngay cả khi ở trước măt mấy ông chức sắc trong
làng. Đối với mọi người cái miệng tuênh toang của lão đã trở thành một hình ảnh
quen thuộc. Trước, người ta còn khó chịu, còn cãi lẫy với lão, về sau tất cả đều
bỏ ngoài tai, lấy đó làm một nguồn vui, có phải nghe cũng chẳng thiệt hại gì mà
thiếu cái giọng oang oang của lão, lại đâm nhớ. Suốt ngày, lão lội bì bõm ở mé
Rạch Bầu, trong ruộng dưới đầm, và những lúc đó thì lão không nói. Thân mình của
lão đen bóng, mái tóc điểm bạc, bộ mặt lầm lì câm nín, hai làn môi lúc nào cũng
mím chặt, ánh mắt đục lờ thấp thoáng một vài tia sáng đượm vẻ hằn học. Lão có
thể gây sự với cái cây, ngọn cỏ, sợi cước làm dây câu, con mồi và ngay với cả
chính mình nữa. Những lúc đó miệng lão lầu bầu nguyền rủa, làn môi mím chặt
hơn, cặp mắt hằn học hơn và hai bên lông mày bạc phơ díu vào nhau làm tăng thêm
vẻ dữ dội của khuôn mặt già nua đầy những nét khắc khổ, rúm ró.
Hồi trước, đã có một thời kỳ lão đi lính cho Tây. Lão tham dự
nhiều trận đánh lớn ở tận bên Đức. Lão được ba bốn cái mề-đay. Rồi hồi chống
Pháp, lão hăng hái đem những cái mề-đay ném vô bếp lửa. Phần vải cháy rụi thành
tro. Phần đồng với bạc thì chẩy vón thành một cục sần sùi. Lão giữ lấy cục sần
sùi ấy với một niềm kiêu hãnh mới. Niềm kiêu hãnh của một kẻ được đóng góp vào
cách mạng. Và lão đã đóng góp nhiều hơn là thế. Một vết sẹo khá lớn trong trận
đánh ở An Phú đông hồi Nam Bộ kháng chiến, một thằng con trai chết luôn trong
trận ấy. Về sau này, đứa con gái bị sập hầm chông trong vườn dừa gậy nhọn lút đến
bụng, còn mụ vợ lắm điều của lão lại chết tức ngực vì hơi bom chát chúa rải rền
rĩ hàng dây khi mụ về thăm bên quê ngoại. Thế là chiến tranh đã vặt trụi cả những
nhành lá thưong yêu trong cuộc đời già nua, cằn cỗi của lão. Lão sinh ra uống
rượu và sống lầm lì. Lúc rượu say, lão lôi cuộc đời ra chửi bới.
Chửi đã mồm lão nằm ngã ra ở bất cứ chỗ nào để ngủ vùi. Có
khi đang ngủ say thì có đụng độ. Đạn bay rào rào trong khóm lá. Mọi ngưòi rút
xuống hầm, nín khe. Còn lão thì bất chấp. Chưa đã lão cứ tiếp tục ngủ nữa mà đã
giấc rồi thì bò lên gò cao nhìn đồng quê dưới những chùm hỏa châu sáng rực. Một
đôi lần thằng On cũng mò mẫm đi theo. Nó háo hức nhìn cả một khoảng không gian
vàng choé như được bao bằng một lóp giấy bóng kính phơi bầy ra trước mắt. Vẳng
lại từ đằng xa có những tiếng hò xung phong man dại. On có cảm tưỏng trong những
tiếng hò reo ấy có tiếng của ba nó góp phần. Nó nghển thật cao đầu lên để cố
tìm lấy một hình bóng của bên lực lưọng Mặt Trận. Nhưng lão Bẩy đã ấn đầu nó xuống
như ấn một con mèo và chửi rủa:
– Tổ cha mày, hay hớm gì mà coi.
On tức tối cãi lại:
– Tôi thích! Ông coi được thì tôi cũng coi đưọc.
– Hay hớm cái gì mà thích. Lớ quớ đạn nó ghim vô đầu thì toi
mạng, ở đó mà đòi coi nữa.
– Không biết ba tôi có ở trong đó không?
– Dễ dầu gì mà ham. Về ngủ đi, rồi nằm mơ thấy còn chắc ăn
hơn.
– Ông biết ba tôi chớ?
– Tao lạ gì. Đám cưới ba má mày, tao có đi mà.
– Thích nhỉ. Cưới to không?
– Đông như xem hội, vì họ hàng bên má mày lớn.
– Lớn sao bây giờ tôi không thấy ai.
– Thấy sao được. Nhiều vùng bây giờ bằng như bình địa. Mọi
người đi hết rồi còn đâu.
– Ông có nghe nói ba tôi tập kết về đâu không?
– Ra Bắc chớ đi đâu.
– Sao bảo ra ngoải rồi lại trở về.
– Về chớ sao không.
– Tôi đâu có thấy.
– Mày thấy sao đưọc. Vô là vô để hoạt động chớ đâu phải vô để
trở về nhà với vợ con.
– Thì cũng phải cho tin về chớ.
– Dĩ nhiên rồi.
– Có tin gì ở đâu mà dĩ nhiên rồi.
Lão Bẫy cười hà hà:
– Ấy là nói còn sống kìa. Chớ nếu chết ngắc thì tin tức ở đâu
ra.
– Có khi nào người ta vẫn còn sống mà chẳng nhắn được tin tức
gì về nhà không?
– Có chớ. Thời buổi này dễ dầu gì mà liên lạc được với nhau.
Mắt thằng On sáng lên một cách lạ lùng:
– Đó! Trường hợp của ba tôi chắc là như vậy đó.
Lão Bẩy trả lời lừng khừng:
– Ờ! Tao cũng mong như vậy.
Nói rồi lão nằm ngửa lên nệm cỏ, rút xị rượu trong bọc ra tu ừng
ực. Tiếng súng quanh đó đã bớt dần. Lâu lâu chỉ còn thấy những tiếng nổ lẻ tẻ.
Nhưng trên nền trời, từng chùm hoả châu vẫn liên tiếp thi nhau bay lên và làm
rung rinh từng cái bóng của những ngọn cỏ. Lão Bẩy bắt đầu ngấm hơi rượu và nằm
ngay đơ. Ánh sáng vàng vọt nhẩy múa trên từng nếp nhăn cằn cỗi của lão. Nhiều
khi lão ngủ luôn trong cái tư thế thoải mái ấy, bất chấp những sự kiện gì còn lại
sẽ xẩy ra sau đó. Thường thì lão chỉ tỉnh dậy khi mặt trời đang bắt đầu ló dạng
với một vừng hồng đỏ ối. Những hôm nào mà đêm trước có đụng độ thì lão lại mon
men xuống mé đồi để nghe ngóng số tổn thất. Nếu có người chết, lão nói năng để
được ngó tận mặt. Có nhiều khuôn mặt trẻ xa lạ, chết nằm ở những cái thế tức tưởi.
Đầu vùi trong bụi cỏ, mình ngập dưới bờ mương, hay cả thân mình vắt vẻo như một
con hoẵng mắc bẫy tòn ten trên bờ rào kẽm gai. Cũng có khi lão bắt gặp một
khuôn mặt quen thuộc trong đám chết trẻ xa lạ ấy. Và trí nhớ dai dẳng của lão lại
biến thành cuốn sổ bộ đời ghi tên một kẻ nữa ở quê nhà vĩnh viễn ra đi. Kỷ niệm
êm đềm trong trí nhớ của lão mỗi lúc một trở nên sụp đổ dần dần. Ngày xưa, đã
có lần lão kiệu thằng Phước trên vai chạy một vòng trên sân cỏ trước tiếng hoan
hô của mọi người và trước tiếng hò reo của đoàn cầu thủ học trò nhốn nháo chạy
theo sau. Bây giờ thằng Phước không còn nữa. Nó đã chết gục đầu bên một bờ
mương và lão Bẩy đã nhìn rõ hình ảnh chua xót đó. Lão không còn cách nào hồi tưởng
được cái cảnh thằng Phước đã ngồi chễm chệ trên vai lão, mình nhún nhẩy như cưỡi
ngưạ, hai cánh tay xoè rộng ra như để đón nhận lời hoan hô nồng nhiệt của đám
khán giả mộ điệu. Bởi vì lão đã lại thấy nó rồi. Lần này nó không còn là một cậu
học trò bé nhỏ trường làng nhưng đã trở nên một anh lính của Mặt Trận. Anh lính
cho đến khi nhắm mắt, dạ dầy cũng không được no vì nắm cơm đặt trong tấm mo cau
vẫn còn đó. Đầu anh ta dúi xuống một đống bùn. Mái tóc bê bết đất bẩn. Vầng
trán thật cao biểu lộ một sự thông minh, đĩnh ngộ. Nó chẳng có cái vẻ gì là phải
chết yểu, vậy mà sự thực là như thế đó. Nhiều kẻ đã cùng chung một số phận như
vậy, làm cho dĩ vãng êm dịu, chan hoà tình cảm cứ mỗi ngày một thui chột thêm
trong đầu óc của lão.
Những sự thay đổi phũ phàng này đã khiến cho lão Bẩy cũng biến
cải tâm tính của mình. Đã lầm lì, lão càng trở nên lầm lì; đã uống rượu, lão
càng uống nhiều hơn để mong quên đi được phần nào những nỗi xót xa thường trực
đang xẩy ra ở chốn quê nhà yêu dấu.
o O o
Chỉ có con Hương là khiến cho lão Bẩy nở được những nụ cười
êm ái bao dung. Bao giờ lão cũng nhìn nó khập khiễng lết đi trên đôi nạng gỗ bằng
cặp mắt thương xót. Thấy đôi vai gầy của nó nhô lên, báng gỗ ép vào nào, những
cử chỉ đong đưa khó khăn, mệt nhọc, lão Bẩy có cảm giác như chính lão đang phải
chịu đựng nỗi khó khăn và mệt nhọc ấy.
Một hôm, bắt gặp Hương run rẩy dò dẫm từng bước đi trên cầu gỗ,
lão Bẩy mỉm cười đỡ nó trong vòng tay cứng cáp của mình rồi bế bổng nó lên.
Hương tuy sợ cái hơi rượu nồng nặc toát ra từ những cọng râu lởm chởm của lão,
nhưng nó vẫn cảm thấy xúc động khi thấy mình được săn sóc ân cần. Lúc đứng lên ở
bên kia cầu rồi, Hương mới ngỏ lời lí nhí cám ơn. Lão Bẩy cười êm ái và giọng
nói của lão cũng êm ái khác hẳn vẻ tục tằn thô lỗ hằng ngày:
– Cháu gái đi đâu mà xa dữ vậy?
Hương đáp:
– Cháu đi công việc cho má cháu.
– Má cháu sao kỳ cục vậy. Bắt cháu đi xa thế, chịu gì nổi.
– Tại cháu thích. Cháu muốn tập đi cho quen. Bây giờ cháu có
thể đi tới bất cứ chỗ nào mà cháu muốn tới.
– Nhưng qua cầu thì khó phải không?
Hương mỉm cười ngượng nghịu:
– Dạ đúng đó ông Bẩy. Tại cháu lớn mau nên đôi nạng này hơi
thấp. Hai năm mấy rồi còn gì.
Lão Bẩy kêu lên:
– Cái đó dễ ợt mà. Mai mốt mượn được đủ đồ, ông đóng cho cháu
gái đôi nạng khác.
Nói rồi lão dìu Hương tới một chỗ có bóng mát. Lão giơ cây nạng
lên ngắm nghía rồi đem lại gần Hương ướm thử. Lão khám phá ra ngay những chỗ
thiếu sót đã làm cho Hương đau ê ẩm, Hương tíu tít công nhận là đúng. Hai má nó
ửng hồng. Đôi mắt sáng long lanh. Một niềm vui như vừa toả rộng trên khuôn mặt
rạng rỡ, niềm vui thật hồn nhiên, thật dễ dàng như thể sự hứa hẹn của lão Bẩy
Thà chứa đứng một quyền phép nhiệm mầu có thể thay đổi được tình trạng một bên
chân thiếu thốn của nó. Lão Bẩy cũng cảm thấy lòng mình xúc động. Lão nhìn con
bé với đôi mắt bao dung và hiền từ. Đã lâu lắm cái cảm giác thèm thuồng một đứa
cháu để bế ẵm bây giờ mới trở lại trong lòng lão. Hồi xưa khi thằng con trai mười
chín chết ở An Phú Đông, lão không còn hy vọng có được đứa cháu nội. Lão mong đứa
con gái lấy chồng sớm. Nhưng cô này thương bố mẹ già nhất định từ chối mấy đám
đến hỏi. Đến lúc ưng được một thằng, sắp cưới thì nó lại phải đi lính xa. Thằng
đi lính xa ít lâu quên luôn người ở nhà, nhắn tin là nó đã lấy vợ ở mãi miệt Cần
Thơ. Tội nghiệp đứa con gái của lão đã sống những chuỗi ngày bi thảm của một kẻ
bị tình phụ. Rồi một sáng sớm đi qua vườn, nó đã sụp vào hầm chông. Tác giả là
bọn thằng Sanh ẩn núp như chuột trong đầm Tròn. Thế là không bao giờ lão còn hy
vọng có cháu bế. Lão quên bẵng đi cái nguồn vui của một gia đình sum họp, ở đó
lũ trẻ tíu tít ngồi vây quanh nghe ông bà kể chuyện. Lão cũng quên hẳn những
chuyện cổ tích ngày xưa.
Trong đầu óc của lão chỉ còn chất chứa những nỗi oán hờn
không biết trút vào đâu, cho ai. Gia đình của lão đã đóng góp trọn vẹn cho tất
cả mọi lực lượng đã tham dự vào cuộc chiến tranh này. Chỉ còn độc nhất có một
mình lão, dai như đỉa, vững như thạch và già như một cây cổ thụ. Cây cổ thụ được
chứng kiến tất cả mọi biến cố đã xẩy ra cho một khoảnh đồng quê nhỏ bé mà lão
đã sinh ra, lớn lên và chắc chắn sẽ chết đi ở đó. Tình yêu thương hầu như thui
chột dần trong tâm hồn cằn cỗi của lão. Nhìn một chiếc xe đổ, một cái xác cháy
đen thui, một thây người chết banh ruột, hay nghe tiếng kêu gào của một người vợ
goá, một đứa con côi, lão không thấy lòng rung chuyển. Hầu như lão đã đau khổ tột
cùng khi nhìn thấy con gái của lão chương thối trong hầm sâu, đầu gục bên thành
đất, hai chân vẫn đứng như được đóng đinh trên những mũi chông nhọn hoắt. Hình ảnh
này còn đau đớn hơn cả khuôn mặt rúm ró của vợ lạo lúc lôi lên từ dưới hầm trú ẩn.
Mắt mụ vẫn mở. Những nét kinh hoàng chưa tan biến như còn đọng lại ở dưới từng
làn da sần sùi nhăn nhúm. Hai bên lỗ tai của mụ rỉ ra một dòng máu đen sì. Dòng
máu chẩy từ tai xuống má, từ má xuống cổ, và chẩy loang ra tới tận những sợi
tóc bạc. Hơi bom đáng kinh hoàng nhưng không thể ngờ nó lại kinh hoàng như thế.
Nó đã hủy diệt âm thầm nhiều mạng sống và đã sáng tạo một tầng lớp hài nhi thui
chột tiếng nói, thui chột luôn cả tai nghe.
Đã phải chứng kiến những người thân gánh chịu thảm hoạ hãi
hùng như vậy, tưởng đến không bao giờ lão Bẩy còn thấy lòng mình xao xuyến. Vậy
mà lão đã xúc động trước nguồn vui bé nhỏ của Hương khi nó được hứa hẹn một đôi
nạng gỡ vừa hơn, êm ái hơn để đi lại. Thì ra lão vẫn còn có ích cho mọi người.
Cuộc đời rách nát của lão vẫn còn mối giây liên hệ yêu thương đến kẻ khác. Lão
khám phá ra điều ấy qua hình ảnh bé bỏng của Hương. Con bé không còn là con cái
của riêng một gia đình nào. Bờ vai lệch lạc của nó, thân hình còm cõi của nó và
nhất là đôi chân không toàn vẹn này đã gắn liền cuộc đời của nó và thảm hoạ
chung của quê nhà yêu dấu.
Lão dịu dàng đỡ nó ngồi xuống nệm cỏ. Lão định giơ tay lên vuốt
mái tóc óng ả mềm mại như tơ ấy, nhưng nghĩ đến nước da đen đúa bẩn thỉu của
mình, lão lại buông xuống. Cặp mắt của lão nhìn lên một lùm cây cao. Lão trông
thấy một bông hoa nở đỏ như một cái chén ngọc. Lão liền đứng dậy níu xuống và
hái bông hoa. Con Hương nở một nụ cười thật tươi tắn:
– Bông này là bông gì hả ông?
Lão ngắm nghía rồi trả lời:
– Bông này trông mầu thì đẹp nhưng tên nó lại xấu lắm. Người
ta vẫn gọi nó là bông Tai Voi.
Hương reo lên:
– Phải đấy! Mỗi cánh của nó trông gần giống như một cái tai
voi.
Lão Bẩy lắc đầu:
– Không phải đâu. Họ gọi là tai voi là vì cái lá. Đây này,
cháu nom cái lá của nó có phải y hệt như cái tai voi không?
Hương bẽn lẻn gật đầu:
– Dạ…dạ…đúng nó giống tai voi thật!
Nói rồi nó ngắm nghía một cách kỹ càng từ bông hoa tới từng cọng
lá. Một lát nó tiếp:
– Nếu còn anh Hiếu thì ảnh sẽ có chuyện để kể về bông hoa
này. Ảnh có tài bịa đặt, nhưng chuyện nào của ảnh cũng hay hết.
Lão Bẩy gật gù:
– Ờ, thằng ấy vui tính. Thiếu nó bọn các cháu mất vui. Nhưng
yên chí đi. Nó đi rồi nó sẽ lại về.
– Sao có lần ông nói là ai đã ra đi thì sẽ không bao giờ trở
về hết.
– Ủa! Chính ông nói vậy sao.
– Chính ông nói vậy. Ông nói nhiều lần như vậy.
– À nói lúc say thì kể làm gì. Trời đất này hỗn loạn mãi rồi
cũng phải có lúc êm chớ.
– Cháu cũng mong như vậy. Nhớ đến những ngày nằm ở nhà
thương, cháu vẫn còn khiếp sợ. Có đứa phải cưa cả một bên chân, một bên tay. Có
đứa mù cả hai mắt. Có đứa mặt sùi lên những đám sẹo nhăn nhúm không nhìn ra
hình người.
Lão Bẩy vỗ về an ủi:
– Hãy quên đi cháu ạ. Nhớ mãi những cái đó, có ích gì đây.
Hương thở dài:
– Chẳng có cái gì làm cho cháu quên được. Cháu vẫn nằm mơ thấy
chúng nó. Cháu vẫn như còn nghe tiếng khóc sụt sùi của chúng nó bên đầu giường.
Có hôm cháu hét to lên làm cho má cháu hết hồn.
Lão Bẩy lẩm bẩm:
– Ráng đi cháu. Ráng đi cháu.
Hương nhìn ra ánh nắng chói chang trải rộng trên cánh đồng phẳng
lặng và như nói với chính mình:
– Đêm nào cũng vẫn còn có tiếng súng. Ngày nào cũng vẫn có những
chuyến xe trúng mìn trên quốc lộ. Má nói mặt trận đang di chuyển xuống dưới đồng,
ấp của mình sợ rồi phải đi hết.
– Sao má cháu không đi trước đi? Ở đây hứng thú cái gì.
– Má cháu nói chừng nào tất cả cùng đi thì má cháu mới đi.
Buôn bán ở đây quen rồi. Lên tỉnh biết trông vào ai.
– Trước lạ rồi sau quen chớ.
– Thế còn ông, ông có đi không?
Lão Bẩy đứng dậy, lắc đầu:
– Không bao giờ ông rời khoảnh đất này. Đi đâu thì cũng có
ngày nhắm mắt. Bỏ xác ở quê nhà vẫn hơn chứ. Vả lại ông già rồi. Đáng lẽ ông phải
chết trước bọn nó mới phải. Nào ngờ tre già vẫn còn phải khóc măng. Đến lúc
mình chết, chẳng có ma nào nó khóc mình.
Hương cãi:
– Cháu sẽ khóc ông khi ông chết…
Nói rồi Hương biết mình lỡ lời nên vội vàng nín bặt. Nhưng
lão Bẩy lại phá lên cười:
– Phải vậy chớ. Phải vậy chớ. Như thế là ông không còn mong
cái gì thêm nữa rồi. Thôi cháu về đi kẻo má trông. Ông sẽ đóng cho cháu một đôi
nạng mới. Một đôi nạng mà cháu sẽ không cảm thấy đau đớn. Một đôi nạng thật êm
như cháu không có tật nguyền gì vậy.
Hai ông cháu tạm chia tay nhau. Cái Hương tập tễnh chống nạng
trở về xóm. Còn lão Bẩy thì đi tuốt vào trong Rạch Bầu coi lại mấy cái nơm cá đặt
ở đầu con nước. Lão lúi húi ở đó đến xế chiều và chỉ bắt được loe hoe vài con
cá to bằng mấy chéo ngón tay. Trên đường trở về, lão nhớ đến lời hứa làm cây nạng
mới cho cái Hương. Lão bèn đổi lối đi, dò dẫm tận phía sâu trong gò Ông Cả. Đã
có lần ông thấy ở đó có những thân cây tròn và đều một cách lý tưởng. Chặt nó
đem về, chạm trổ cánh bướm, đàn chim rồi biến chế thành nạng gỗ chắc hẳn Hương
sẽ vui thích như mình có một đôi chân mới. Quả nhiên những thân cây còn nguyên ở
đó, mọc chi chít không thành hàng lối. Tàn lá ở trên che kín cả ánh nắng sắp tắt
của một buổi chiều tàn.
Bỗng lão Bẩy bắt gặp một mùi tanh tưởi chợt ùa qua theo ngọn
gió. Hai lỗ mũi mở huếch hoác. Lão xoay mình nhè nhẹ để tìm hướng gió. Cuối
cùng lão định được phương hướng của cái mùi thối tha. Lão dò dẫm bước tới. Lối
mòn đưa lão đi qua một con lạch nhỏ. Một cái gò thấp. Một rặng trâm bầu nhằng
nhịt. Và cuối cùng lão đối diện với một đụn đất mới đào. Đụn đất to bằng một
cái thúng lớn. Có hằng hà sa số là những con kiến đỏ bu quanh một cái đầu người
đã móp như một quả sung chín rụng, và đã bị kiến khoét hàng trăm hàng nhìn lỗ
thủng. Cổ họng của lão Bẩy bỗng rợn lên. Lão cố thót bụng lại. Nhưng vô ích. Một
cơn gió nữa thoảng qua. Hơi thối lại lùa vào mũi, vào miệng. Thế là lão nôn thốc,
nôn tháo cả mật xanh, mật vàng. Thật ra lão không sợ mùi hôi bằng sợ cái hình ảnh
hãi hùng trước mặt. Kẻ xấu số là ai, chắc chắn lại là một người chết trẻ. Rất
trẻ nữa là đằng khác. Mái tóc còn thật xanh. Lớp da ở trán còn thật là phẳng.
Chỉ có mặt mũi là không còn nguyên vẹn để lão nhận diện được xem nó là ai. Một
anh dân vệ? Một chức sắc trong hội đồng xã? Một người dân bị tình nghi làm tay
sai cho địch, hay chính là một tên du kích bị trừng phạt về tội phản bội hàng
ngũ?. Nhưng dẫu là ai thì nạn nhân cũng đã trả xong món nợ xương máu của hắn ta
cho cuộc chiến tranh này. Chỉ đáng buồn là chính hắn, hắn không được lựa chọn lấy
cho mình một cái chết gọn gàng mau chóng để khỏi phải kéo dài giây phút hấp hối.
Chắc chắn hắn đã phải kéo dài như vậy. Bởi vì hắn bị chôn sâu trong lòng đất. Đứng
như trời trồng chỉ có phần cái đầu là nhô lên. Cái đầu lại còn bị móp đi bởi
nhiều vết giầy đạp.
Lão Bẩy không dám ở lại lâu hơn nữa. Xâu cá trên tay của lão
đã rơi xuống đất tự lúc nào. Lão đi giật lùi ba bốn bước rồi thốt nhiên co chân
chạy. Mùi hôi thối như đuổi theo lão bén gót. Những con kiến đỏ như bấu chặt lấy
làn da sần sùi của lão ở lưng, ở ngực, ở cổ, ở gáy, ở cả làn da mặt đang rịn ra
từng giọt mồ hôi lạnh ngăn ngắt. Ruột gan của lão như thắt lại. Lão vẫn thấy thớ
thịt ở cổ họng đang chuyển động dẫy dụa. Bây giờ thì lão chỉ ụa được ra những đống
rãi và rớt. Trong vòng có ít phút mà lão cảm thấy thân thể nhược hẳn đi. Chân
tay của lão rời rã như không còn gắn liền với thân mình. Lão trông thấy một căn
chòi nhỏ chênh vênh ở một thửa ruộng gần đó mà không còn đủ sức đi tới. Lão nằm
bò xoài lên những mô đất lổn nhổn và thiếp hẳn đi.
Đến khi lão tỉnh dậy thì trời đã tối hẳn. Lão trông thấy chòi
lá có ánh lửa chập chờn. Một điều lạ không bao giờ xẩy ra ở chốn đồng quê đang
chìm đắm trong bầu không khí đe doạ, chết chóc về đêm này. Bây giờ thì lão đã tỉnh
táo hẳn. Lão thận trọng dò từng bước đi trong đêm tối. Lão cố để khỏi gây ra những
tiếng động lúc chân lão dẫm lên những cụm cỏ khô. Lão bò vào tới sát cửa chòi.
Lão nhìn rõ một bóng người ngồi bên đống lá đang cháy dở. Gã xoay mặt ra ngoài.
Một ánh lửa sáng lên, liếm qua khuôn mặt của gã. Chẳng xa lạ gì. Lão nhận ra đó
là thằng Thạch. Thằng du kích vẫn sống lén lút ở bên kia đầm Tròn. Điều này làm
lão hết sức ngạc nhiên. Với cuộc sống ở đây, chẳng phe bên nào chấp thuận cho một
đứa khơi khơi ngồi đốt lửa ngay giữa cánh đồng, không lính ruồng xét tìm tới
thì những thằng du kích cũng bò ra. Bất kể là bạn hay thù, gã cũng sẽ là mục
tiêu ngon lành cho những họng súng đặt ở từng mô đất đâu đó chung quanh. Chỉ mới
nghĩ như vậy là lão đã thấy mình mẩy rợn hẳn lên, như thể chính những họng súng
cũng đang chĩa thẳng về phía lão. Lão vội vàng tuột thật nhanh xuống bờ ruộng
và bò lủi ra xa. Bốn bề vẫn êm ả như đồng quê chưa bao giờ vang lên tiếng súng.
Nhưng thời khắc lặng lẽ không biết kéo dài được bao lâu. Có thể đến khuya. Có
thể gần đến sáng. Cũng có thể suốt đêm bầu trời cũng vẫn cứ êm ả như vậy trừ tiếng
động cơ máy bay bay qua và tiếng súng nặng nề câu đi từ một vị trí ở thật xa.
Những dự đoán đó chỉ là những sự cầu mong. Tốt hơn hết là bỏ mặc thằng Thạch với
sự điên khùng dại dột của nó. Lão Bẩy nghĩ vậy và lầm lũi tìm đường trở về.
Đêm hôm ấy lão thao thức và có ý chờ tiếng súng nổ ở trong đồng.
Nhưng trái với điều dự đoán của lão, thời khắc vẫn trôi qua trong êm ả. Bầu trời
vào lúc cuối hạ, nếu không mưa thì lại trở nên trong vắt và sáng lờ mờ. Lão trải
chiếc chiếu rách lên nắp bệ xi-măng và nằm ngửa mặt đón gió hiu hắt thổi lại từ
phía vườn. Trước mắt của lão là những chòm sao dầy đặc. Có ngôi thật mờ nhưng
cũng có những ngôi lấp lánh. Lão cảm thấy mình rất dễ chịu, nhất là một nửa
chai rượu vừa tu xong đưa đầu óc của lão đi bồng bềnh. Có lúc lão chợp đi và tưởng
như mình đang sống trong cảnh thanh bình của hai mươi lăm năm về trước. Cũng có
lúc lão thảng thốt trở dậy bàn tay quơ lên như lão đang chặt một nhánh cây thật
tròn, thật thẳng để làm cho cái Hương một cây nạng mới, nét mặt rạng rỡ của con
bé chồng lên đụn đất có hằng ha sa số là những con kiến đỏ. Lão hét lên tưởng
như những con kiến đã ăn mục ruỗng đôi mắt to và đen láy của con bé. Lão hốt hoảng
choàng dậy và thấy rõ mình đang chập chờn với giấc ngủ đầy mộng mị. Lão cố trấn
tĩnh để tìm lại trí óc sáng suốt của mình. Lão chợt nhớ ra là mình đang chờ đợi
xem số phận của thằng Thạch ở trong túp chòi lá có đốt lửa sẽ ra làm sao. Nhưng
không gian vẫn êm ả vô cùng. Sự êm ả bao la đến độ lão tưởng như từ hơn hai
mươi năm nay rồi quê nhà yêu dấu chưa từng vang lên tiếng súng.
o O o
Trưa hôm sau, lão Bẩy tò mò trở lại căn chòi. Dấu tích của đống
lửa đêm trước còn đó nhưng thằng Thạch đã biến đi đâu mất.
Lão xem xét rất kỹ khoảng đất ẩm mốc chỉ vừa đủ để kê một cái
chõng tre gẫy mục, một cá giá gỗ đựng vài cái bát mẻ còn đóng kẹt những ngấn
trà và một bó cành khô dùng làm củi đốt. Căn chòi đã lâu lắm không có người xử
dụng nên bụi đất phủ đầy và mạng nhện giăng nhằng nhịt. Không có dấu vết gì đã
chứng tỏ thằng Thạch ngủ suốt đêm qua ở đó. Chắc nó có hẹn với người nào trong
xóm. Chắc nó đốt lửa làm hiệu cho một mưu toan nào đó với bộ đội chủ lực Miền.
Cũng có thể nó loan đi một tin tức nào hệ trọng. Nhưng dẫu có làm gì đi nữa thì
việc đốt lửa trong chòi giữa đêm khuya là một hành động dại dột. Lão Bẩy chẳng
quan tâm gì lắm đến kỹ thuật quân sự, nhưng kinh nghiệm sống của lão cũng đũ dư
thừa để khỏi chết một cách lãng xẹt. Lão thấy súng đạn thì thời buổi nào cũng
có khả năng giết người, nhưng những kẻ tham dự vào việc bắn giết lại mỗi ngày một
thêm đùa rỡn một cách dại dột với cái chết.
Một lần vô gò Ông Cả, lão bắt gặp một thằng liên lạc. Nó
không lớn hơn thằng On bao nhiêu, nhưng võ khí của nó lại trang bị cùng mình. Ở
bụng của nó đeo hai quả lựu đạn nội hoá. Bên hông sườn đèo thêm một lưỡi dao
găm. Vai đằng sau lại có cả một khẩu súng. Thằng bé đi đứng với tất cả kiêu
hãnh và trịnh trọng, bởi vì nó đã được coi như một người lớn. Một người lớn có
đầy đủ quyền phép làm mất đi mạng sống của kẻ khác. Nhưng trí óc của nó thì còn
non nớt, dĩ nhiên. Cho nên nó đã ghếch súng ngồi trong lùm cây bên bờ rạch để
say mê mân mó quả lựu đạn. Chán lựu đạn, nó lại gỡ khẩu súng xuống để táy máy.
Còn thứ đồ chơi nào say mê hơn những thứ ấy vì đó là đồ chơi thứ thiệt, thứ đồ
chơi khỏi cần phải vận dụng đến đầu óc tưởng tượng để nghĩ rằng nó sẽ thế này
hay thế khác. Rất may là khẩu súng không sút cò và quả lựu đạn không tuột chốt.
Thằng bé bình yên với vận hên xui vừa treo mạng sống của nó trên sợi chỉ mành.
Trong chiến tranh này, người ta đã thiêu đốt vào đó không biết
bao nhiêu là thứ quí giá. Những mạng sống, những tâm hồn, những giá trị tinh thần
và cả những nề nếp cần phải gìn giữ. Riết rồi không còn mấy ai thấy có điều gì
là quan trọng. Riết rồi không còn hoàn cảnh khốn khổ nào, sự tan vỡ bi đát nào,
cái chết thảm thương nào có thể làm cho con người ở đồng quê khói lửa phải xúc
động tột cùng. Con người nhiều khi đã biến thành những tượng đá và những tâm hồn
đã lắng xuống thành những tảng băng. Có như vậy thì mới đủ can đảm hạ lưỡi dao
sắc bén xuống để banh bụng một kẻ mà mình chỉ hận thù qua những giáo điều chủ
nghĩa. Có như vậy mới đủ can đảm rồ thêm ga cho chiếc xe lội bùn cán kẻ chới với
trước mặt đến thành xẹp lép, để thân xác của hắn vùi luôn trong lòng đất. Những
cái chết càng thảm thương thì hận thù càng nghi ngút. Những hoàn cảnh càng bi
đát thì hố sâu càng cách biệt. Những danh từ tốt đẹp đã không còn gì là ý nghĩa
nữa. Người ta đã nhân danh nó để trút xuống lòng hận thù. Hận thù giữa những
người cùng chung một dĩ vãng hiền hoà, một hiện tại đau thương và một tương lại
đen tối.
Lão Bẩy Thà đứng tần ngần một lát rồi xách cần câu đi vào
phía Rạch Bầu. Lão gặp thằng On đang lúi húi nhóm lửa dưới một khóm lá um tùm.
Phía xa hơn nữa là thằng Tư đang moi ruột một con cá. Bên cạnh nó là cái hom.
Lão Bẩy nhận ra ngay đó là cái hom của mình. Lão giận dữ la lớn:
– Tổ cha mấy con chó hoang. Hom của tao để đó sao tụi bây nhấc
lên.
Thằng On toét miệng ra cười. Còn thằng Tư thì quăng ngay con
cá xuống bờ rạch rồi co chân lên chạy. Lão Bẩy xông ngay tới chỗ hom cá. Việc đầu
tiên là lão xem xét coi cái hom có hề hấn gì không. Sau đó lão mới nhìn theo thằng
bé đang chạy. Nó chỉ chạy một quãng ngắn, vừa đủ tầm xa để đề phòng rồi quay đầu
lại giuơng cặp mắt trân tráo lên ngó nghiêng. Lão Bẩy chửi thêm:
– Tụi bay đói khát cái gì mà đụng tới đồ nghề của tao. Đói
thì đào khoai, mót củ chớ sao đòi ăn cá. Sang trọng gì quá cỡ vậy.
Thằng On lúc đó đã tiến lại gần lão. Nó phân trần:
– Hom của ông chẳng có con cá nào hết đâu. Ông cắm chỗ đó làm
sao có cá.
– Tổ cha nhà mày. Mày lớn bằng bao nhiêu mà đòi dậy khôn tao.
Chỗ đó mà không có cá thì ở đâu có cá đây.
On lại toét miệng cười. Nét mặt của nó đầy vẻ đắc thắng và
tin tưởng:
– Đó là tại ông ít đi đây đi đó đấy chớ. Vô tuốt mé trỏng
kìa. Chỗ người ta tuôn xác chết xuống từ tháng trước kia lận.
Lão Bẩy bàng hoàng:
– Bộ mày thấy hả?
– Tôi không thấy mà điều thằng Tư nó chỉ cho tôi. Quả nhiên
cá bự mà nhiều thiệt.
Lão Bẩy chợt có cảm giác ghê rợn ở cổ. Lão nghĩ đến những xâu
cá nướng mỗi ngày. Những con cá rỉa thịt người. Những con cá rúc đầu vào những
đám thịt tanh tưởi, tàn rữa. Bất thần lão quay ra đằng sau nhổ một đám nước bọt
đánh toẹt xuống mặt đất. Thiếu một chút nữa thì lão lại mửa ra mật xanh mật
vàng. Lão vội rút ở bên quần ra một xị rượu đổ đầy trong một cái chai thuốc ho.
Lão ngửa cổ tu ừng ực rồi khà lên một tiếng khoái trá. Hơi rượu làm cổ lão nóng
bừng. Những đường gân nhằng nhịt như đội cao lên. Một cảm giác êm dịu chạy lan
từ bụng ra bốn phía chân tay. Lão quên ngay cái giận vừa rồi và vẫy tay gọi thằng
Tư lúc đó đang nhìn lão như dò xét. Nó có vẻ yên tâm khi thấy điệu bộ của lão
trở lại hiền hoà. Một lát nó toét miệng ra cười:
– Tại thằng On nó xúi. Cháu có biết hom với hòm gì của ông
đâu.
Thằng On vội bào chữa:
– Bị cái hom của ông chẳng có con ma nào chui vô nên cháu mới
dám nhắc lên. Vả lại tụi cháu muốn thết anh Thạch một bữa cháo cá.
Lão Bẩy sửng sốt:
– Thằng Thạch nào? Ở đâu? Phải nó về trong đồng tối hôm qua
hôn?
On đáp:
– Đúng đó! Ảnh đau nặng. Có lúc phát khùng khóc lên như con
nít nữa?
– Bây giờ nó ở đâu?
Thằng Tư vội đáp:
– Cháu dấu ảnh ở sau bụi mù-u trong Rạch Bầu. Chỗ đó kín lắm.
Không có ai biết đâu.
– Dẫn tao đi với.
– Mà điều ông không được nói với lính ở trong đồn kia.
– Tổ cha nhà mày. Tao làm gián điệp hồi nào.
– Vậy ông cũng dấu luôn cả bọn thằng Sanh nữa nhé. Ảnh lên
cơn khùng, ảnh chửi tuốt luốt. Hồi sáng này có đứa đi lùng ảnh, cháu nói không
biết.
– Mày có biết tại sao nó sinh vậy không?
– Hình như bọn ảnh mới chôn sống một người. Ảnh sợ. Bây giờ ảnh
trông thấy cái gáo dừa là cũng la lên.
– Phải rồi, tao có thấy.
Hai đứa nhỏ nhao nhao lên:
– Ông thấy ở đâu? Chỗ nào mà tụi cháu không hay kìa.
– Bên mé gò Ông Cả đó. Bây giờ thì chỉ còn nhô lên có mỗi một
cái đầu, mà cũng bị kiến ăn hết, tao không rõ là ai.
– Hèn chi mà ảnh lảm nhảm có mỗi một chuyện ấy. Tụi mình đi
coi không?
Lão Bẩy trừng mắt:
– Hay hớm gì mà coi. Đâu, thằng Thạch nằm đâu, dẫn tao tới.
On nói:
– Tư dẫn ông Bẩy đi. Để tao làm nốt con cá.
– Chèn ơi! Mày tính ăn cái thứ cá mắc dịch đó sao.
On cãi:
– Có ăn nhằm gì đâu. Cá vẫn là cá mà.
– Nhưng nó rỉa thịt người.
– Ôi! Rồi nó cũng tiêu thành thịt cá chứ. Ăn cá ở đấy béo ngậy,
ngon hết chỗ chê mà ông.
– Thôi, mày im đi, tao muốn mửa ra đây. Tụi bay làm tao mất
cái thú ăn cá nướng buổi chiều rồi.
– Ông không ăn thì tụi cháu ăn. Còn anh Thạch thì khỏi nói. Ảnh
đói muốn xỉu rồi đó.
Vừa nói thằng On vừa chạy xuống bờ rạch. Nó lượm con cá to bằng
cái bắp tay lên rồi đem khoắng xuống nước. Trong lúc ấy thằng Tư ra hiệu cho
lão Bẩy đi tới. Hai người chui qua đám lau sậy um tùm. Quanh quéo một lát thì đến
một khu đất phẳng. Bốn bề có dây leo mọc nhằng nhịt. Những bông hoa dại nở đỏ ối
cả một vùng lá xanh. Lão Bẩy trông thấy ngay gã thanh niên đang nằm thiêm thiếp
trên một cái nóp rách tơi tả. Mặt gã xanh dờn. Mái tóc chấm tới mang tai, xù
lên một cách bẩn thỉu. Gã bận một cái quần cụt, một cái áo cánh đen, cả hai đều
đã bươm ra như một đùm giẻ rách. Tư nói:
– Ảnh mới ngủ đấy. Ông đi khẽ thôi.
Lão Bẩy tiến lại gần hơn. Lão chua xót nhìn hình ảnh người
thanh niên trước mặt. Vào thế hệ của lão ở đồng quê, tuổi thanh niên chẳng bao
giờ suy sụp và tàn tạ đến thế.
Đó là kết quả của những ngày chui rúc dưới hầm sâu, ăn không
no, mặc không ấm, tâm hồn bị hủy diệt bởi những cơn lo âu, sợ hãi, thiếu thốn
thường trực.
Lão để nhẹ tay lên trán Thạch. Gã nóng như một lò than hồng.
Trong cơn mê sảng, miệng gã ú ớ. Gã gọi tên người quen. Gã kêu cả mẹ. Gã rền rĩ
một cách thảm thương. Lão Bẩy thấy ngay tình trạng trầm trọng của bệnh tình gã.
Lão nói:
– Không thể để nó nằm ở đây được.
– Ông tính đem ảnh đi đâu.
– Lên quận!
Thằng Tư giật mình:
– Trời đất ơi! Bộ ông cũng khùng nữa sao mà tính đem ảnh lên
quận. Ảnh là du kích mà.
– Du kích du cọt gì thì cũng phải chữa bệnh trước đã. Còn hơn
nằm đây rồi nó cũng chết.
– Chẳng ai thèm chữa bệnh cho ảnh đâu. Người ta sẽ ném ảnh xuống
hầm sâu, chết rục ở đó.
– Ai biểu mày thế.
– Thì tù binh mà lị.
– Mày chẳng biết cái con chó gì mà cũng nói. Muốn tù gì thì
tù, người ta cũng phải chữa cho nó khỏi đã.
– Chữa khỏi để rồi lôi ảnh ra khai thác, đánh bằng gộc tre
như thằng Thành, thằng Hưng ấy có phải không. Như vậy rồi cũng chết mà. Thằng
Thành, thằng Hưng, có đứa nào sống sót đâu.
– Hồi đó khác, hồi này khác. Ông ủy viên an ninh cũ văng rồi
còn gì. Thằng cha Vượng tử tế hơn.
Thằng Tư xua tay:
– Cháu không chịu đem nạp ảnh dễ dàng vậy đâu. Làm sao tin được
lòng tử tế của bao nhiêu người. Không người này thì lại có người khác. Chắc chắn
ảnh sẽ bị đập thiếu điều bay lên trời hay chui xuống đất mà chạy.
Lão Bẩy thở dài:
– Vậy đành cứ để nó phơi sương, phơi nắng vậy sao?
– Có hề gì. Vài bữa rồi cũng khỏi.
– Thôi để tao đi kiếm cho nó ống thuốc.
Tư reo lên:
– Phải đấy. Ông lên quận mà mua. Có thuốc rồi khỏi cần đi đâu
nữa hết.
– Mà điều mua thuốc gì kia chớ.
– Thuốc gì chữa bệnh nóng lạnh, mê sảng đó. Ông cứ nói là người
ta bán cho. Lão Quảng Phát ở đầu chợ rành rọt như ông bác sĩ vậy đó.
Lão Bẩy ngẫm nghĩ giây lâu rồi chép miệng:
– Thôi được, để chiều tao đi, sáng mai tao đem vào cho.
Thằng Tư dặn thêm:
– Nếu ông giàu thì ông mua cho một kí đường. Đường ăn với
cháo chóng lành bệnh.
Lão Bẩy càu nhàu:
– Tổ cha mày, tao làm gì mà giàu kia chớ. Mầy muốn ăn đường
thì bán cái xác mầy đi chớ ăn nhằm chi tới tao.
Thằng Tư cười ngỏn ngoẻn:
– Cháu nói là anh Thạch ấy chớ. Còn cháu đâu cần. Ăn cháo đường
đâu có no bụng được.
o O o
Mãi chiều hôm sau nữa, lão Bẩy mới lo mua xong được hai hộp
thuốc với một ký đường. Lão phải đem gán cho mụ Phước cái ống đựng thuốc rê bằng
bạc thiệt để lấy tiền lên chợ. Mụ nhìn ống thuốc của lão cười chế riễu:
– Lo làm ăn không lo, bây giờ lại phải tới nước cầm với cố.
Mai mốt hết đồ rồi thì cầm cố cái gì đây.
Lão Bẩy cười cãi lại:
– Làm ăn đều đều chớ sao không. Mụ thấy tôi chơi bao giờ.
– Làm ăn gì mà hai bữa nay không có lấy một con cá lóc. Đưa
toàn thứ tôm tép chết dấp ở đâu, chẳng có khách nào ưa.
– Ôi cha, cá lóc hả? Cái thứ đó từ rầy về sau là khỏi có nữa
đi.
– Ủa sao vậy. Đang mùa mà?
– Phải, đang mùa, mà điều cá lóc ở trong đồng nó toàn xơi xác
chết. Mụ gớm không?
– Gớm thì có gớm, mà điều mình không ăn thì thôi chớ. Bán cho
khách nhậu mà.
– Thôi đi, con vái! Chỉ rờ tới nó bây giờ là cũng đủ ghê rồi.
– Lão gàn như vậy hèn chi suốt đời nghèo xác, nghèo xơ. Ráng
đi, kiếm mỗi ngày vài con mập u, tôi trả thêm cho ít đồng mà nhậu nhẹt.
– Thôi, tôi chả ham. Cái gì có dính vô xác chết, xác đồ là hổng
có tôi.
Mụ Phước bực tức ném xấp giấy bạc lẻ cho lão rồi ngúng nguẩy
bỏ đi. Lão lượm lên đếm lại từng tờ cẩn thận rồi nhét vô hầu bao. Sau đó lão lần
mò ra quốc lộ đón xe lam lên quận. Lúc trở về đường cấm mất non một buổi thành
ra lão trễ hẹn với thằng Tư. Mãi tới chiều hôm sau lão mới tìm vào chỗ thằng Thạch
ẩn núp. Không có đứa nào ra đón lão cả. Bốn bề vắng lặng, thằng On, thằng Tư
không thấy đâu mà ngay cả gã Thạch nữa cũng không còn nằm trên chiếc nóp lúc
này vẫn còn trải bên nệm cỏ.
Lão Bẩy lầu bầu nguyền rủa vu vơ rồi vạch lá chui trở lại mé
Rạch Bầu. Bốn bề vắng lặng không có bóng người. Lão mệt mỏi ngồi xuống một gốc
cây, vấn thuốc hút. Miệng lão đắng nghét và khói thuốc không làm cho lão thấy dễ
chịu hơn. Đến lúc đó lão mới nhận ra mình cũng đã bắt đầu nhuốm bệnh. Chân tay
của lão mỏi nhừ. Đường gân thớ thịt như rời rã. Đầu óc của lão chênh vênh.
Trong ý nghĩ, những hình ảnh gớm ghiếc vừa qua như còn đeo dính lấy tâm trí của
lão không rời. lão bỗng thấy thèm một múi chanh thật chua, hay nhá một trái ớt
thật cay chấm vào dĩa muối thật mặn để giải tỏa cái cảm giác dập dờn đang chạy
trong cổ họng. Lão lảo đảo đứng dậy.
Cảnh vật trước mắt lão trở nên rung rinh. Lão nhìn rõ những đốm
sáng nhẩy múa ngay trước mặt. Lão tự nhủ là mình ngã bệnh thật rồi. Phải có một
chỗ nằm thoải mái. Phải tích sẵn dăm bẩy xị rượu nơi đầu giường. Phải có một
cái mền đắp lên ngực vì lão cảm thấy cơ thể ớn lạnh. Cha bố mấy thằng nhãi đi mất
mặt ở đâu mà không thấy trở lại để lão trút cho chúng nó mấy món đồ lỉnh kỉnh
này. Một kí đường cát. Một hộp thuốc cảm cúm. Và một chai dầu nóng. Không biết
ngần ấy thứ có đủ giúp cho thằng Thạch qua khỏi cơn bệnh li bì của nó?
Đối với bên này, nó là một thằng du kích cần phải tiêu diệt.
Đối với bên kia nó là một phần tử lệch lạc, nguy hiểm cần phải loại trừ. Cuộc đời
của nó đã khốn khổ, vậy mà nó cũng không được dành cho một chỗ đứng nhỏ nhoi, một
chỗ đứng rất khiêm nhường, một chỗ đứng chỉ cầu mong được yên lành với vài chén
cơm, một manh áo qua ngày. Thì ra guồng máy của chiến tranh đã chuyển động. Ở
chốn đồng quê yêu dấu này, không cho phép kẻ nào đứng ở bên lề, đứng ngoài cuộc.
Hãy là những con vít, dù là con vít nhỏ nhoi, ở phía này hay ở phía kia. Con
vít khi bị sút ra ngoài chắc chắn sẽ bị nghiền nát. Lão Bẩy lo sợ cho hoàn cảnh
của nó. Đó là lý do mà lão chịu mất công mất của để mua cho nó mấy món đồ dùng
mà lão đang ôm khư khư trong bọc. Bây giờ nó ở đâu, làm gì bọn nhãi kia cũng
không hề thấy mặt. Lão tức sôi lên, giận dữ đứng dậy, định bụng túm cổ được đứa
nào sẽ xách nó lên như xách một con chó và liệng phứt ngay xuống làn nước trong
xanh của Rạch Bầu.
Nhưng cơn tức giận của lão chưa bùng lên được bao nhiêu thì bị
xẹp ngay xuống vì một tràng đạn nổ dài. Tràng đạn nghe khá xa nhưng ở giữa cánh
đồng im vắng nên vang thật dòn và thật rõ. Lão Bẩy hốt hoảng đứng dậy. Lão tưởng
là sẽ lại có cuộc đụng độ xẩy ra ở đâu đó. Nhưng tràng đạn chỉ kéo dài một băng
rồi im hẳn. Âm thanh tan đi mau chóng trong khoảng không gian mông mênh thật êm
ả, thật phẳng lặng như đồng quê đã trải qua một thời kỳ thanh bình từ bao nhiêu
trăm năm. lão đứng lên một mỏm đất cao nhìn về phía có tiếng súng.
Trong ánh nắng úa nhạt của một buổi chiều đang tàn úa, lão
nhìn thấy bóng dáng nhỏ nhắn của hai thằng nhỏ hiện ra trên nền lá xanh ngắt.
Chạy đi trước là thằng Tư. Theo sau gần một chục thước là thằng On. Hai đứa
không khác gì hai con chó hoang len lỏi, sục sạo khắp mọi ngõ ngách của cả một
vùng đồng quê bát ngát. Một lát thằng Tư nhào tới trước. Nó nằm lăn quay ngay ở
dưới chân lão Bẩy, thở hào hển. Còn thằng On thì ngồi phệt xuống một bụi cỏ. Mặt
nó xanh lét. Mồ hôi vã ra ở trên trán. Mái tóc bù xù của nó xõa sợi che gần kín
cả một vầng trán vừa thấp, vừa dô lại đen kìn kịt. Phải chờ một lát cho dứt cơn
thở, thằng Tư mới lên tiếng trước:
– Ông ơi….anh Thạch…
Lão Bẩy giật mình:
– Thằng Thạch ở đâu, làm sao…
Tư lắp bắp chỉ tay về phía có súng nổ:
– Rồi…ảnh …ảnh….
Vẻ mặt lão Bẩy thất sắc đi. Lão nghe như mình vừa bị đau nhói
ở trong tim. Thế là thêm một nhân mạng nữa làm mồi cho lũ cá ở trong đầm. Lão
chợt thấy mình mệt mỏi đến độ tột cùng. Lão buông cái bọc đang cầm ở trong tay
xuống. Gói giấy xổ tung ra. Những hạt đường cát đỏ đổ ụp xuống mặt đất.
Từng giọt mồ hôi lạnh ngắt bắt đầy rịn ra ở trên mảng lưng
gây gây lạnh của lão. Lão ngồi bệt xuống nệm cỏ. Hình như lão muốn khóc. Lão cố
nín để cho hai cánh mũi bớt phập phồng. Nhưng mí mắt của lão cay xè. Lão thấy
khung cảnh buồn chán trước mặt nhòe hẳn đi. Lúc chớp mạnh, lão thấy rõ hai giọt
nước mắt chảy lăn trên gò má khô khan. Từ bao nhiêu năm rồi, bây giờ lão mới lại
có giọt nước mắt. Những giọt nước mắt tình cờ, những giọt nước mắt không hẳn
thương xót một ai, không hẳn xúc động vì một chuyện gì. Lão cảm thấy lão thương
xót cho chính lão, thương xót cho tất cả mọi người, thằng Tư nằm kia, thằng On
nằm đó, thằng Thạch vừa gục ngã.. Từ bờ cây, đến ngọn cỏ, từ giải nắng úa buổi
chiều, đến những cụm mây lờ lững trong bầu trời êm ả, từ những lô-cốt đứng sững
lạnh lùng trên mầu đỏ của ráng chiều, đến những hàng rào kẽm gai chạy ven quốc
lộ, từ những hầm hố nhằng nhịt trong ruộng đồng, đến những mìn chông, bẫy sập rải
rác đâu đó trong mỗi mảnh vườn. Đó là đồng quê yêu dấu. Đó là nơi lão đã sinh
ra, đã lớn lên, đã tàn héo và đã được chứng kiến biết bao nhiêu thảm kịch đau
thương đã xảy ra từ ngày có tiếng súng.
Một lát, thằng Tư mới kể lại được rõ ràng:
– Tại anh Thạch. Lúc tỉnh lại rồi, ảnh không chịu ngồi yên một
chỗ. Tụi cháu đi ra ảnh cũng đi ra, đi vô ảnh cũng đi vô. Tới lúc bọn thằng
Sanh, thằng Hùng với mấy đứa nữa gặp cháu hỏi thăm có thấy ảnh ở đâu không thì ảnh
trèo lên cành cây chõ xuống chửi.
– Nó chửi ai?
– Tùm lum! chửi lung tung hết trơn hết trọi, chửi luôn cả ảnh
nữa. Rồi tụi nó dụ ảnh đi xuống sẽ cấp giấy cho về nhà. Ảnh bắt tụi nó hứa
không được bắt ảnh phải dùng bá súng đập vô đầu phản động đã bị chôn sống,
chúng nó hứa luôn. Thế là ảnh tụt xuống. Chúng nó trói lại dẫn đi. Vô đến gò
Ông Cả, chỗ ngã ba Cây Gòn tụi nó bắn luôn một tràng rồi xô ảnh xuống lạch.
– Nó có nói gì được không.
– Ảnh không nói mà chỉ la. La cái gì không biết nữa, rồi
khóc. Còn tụi nó thì chẳng nói chẳng rằng, bắn ảnh xong là dông luôn. Ông có biết
tại sao tụi nó bắn ảnh không?
Lão Bẩy thở dài:
– Nó là thứ hết xài được nữa con ạ.
Chương năm
Sau bữa hôm đó, lão Bẩy nằm liệt giường. Lão rất ít khi ốm
đau, nhưng đến lúc ngã bệnh rồi thì không thể gượng nổi. Lão biết vậy, nên đã sửa
soạn cho mình một cái ổ nương náu. Cái ổ đặt dưới hầm sâu, trong một ngôi nhà gạch
mà chủ nhà đã bỏ hoang để di tản lên tỉnh từ hơn một năm nay. Lão đã thực sự
cách biệt với đời sống bên ngoài. Tứ chi rời rã. Đầu nặng như đổ chì. Miệng khô
đắng như nhá phải bọ chét. Quanh lão, ánh sáng toả xuống mờ nhạt. Mùi ẩm thấp
xông lên ngai ngái. Những con muỗi bay vo ve ở bên tai.
Lão có thể với tới lu nước trên đầu chõng. Cạnh đó là hũ gạo
rang. Tất nhiên còn có cả một cái bong bóng trâu chứa đầy rượu trắng, môn thuốc
chữa trị độc nhất mà lão tin tưởng được.
Men rượu đưa căn hầm tối tăm chạy vòng quanh trước mắt lão.
Cơ thể của lão thêm bồng bềnh. Lão thấy mình đi lang thang trong đồng cỏ, chập
chờn bước trên những cây cầu khỉ bắc qua lạch nước, ở dưới đó bầy cá đang mở tiệc
liên hoan. Xác người trôi lập lờ. Vạt áo rách nát bập bềnh đưa theo sóng nước.
Lão cố nghĩ xem là mình đang làm gì, đi đâu. Hình như lão có một nhiệm vụ cần
thiết ở trong gò Ông Cả. Lão nhớ đến thằng Tư, thăng On, đến tiếng súng nổ, đến
khuôn mặt bạc nhược của thằng Thạch nằm li bì trên chiếc nóp cói, và đến cả bờ
vai còm cõi nhô lên một cách khó nhọc của bé Hương khi nó khập khiễng bước đi.
Lão tìm ra được nguyên nhân rồi. Lão đã hứa với Hương làm cho nó một đôi nạng gỗ.
Đôi nạng lằm bằng thân gỗ bằng lăng có trạm trổ bầy chim, cách bướm. Lão hình
dung ra nụ cười rạng rỡ của con bé. Nụ cười có sức tác dụng làm cho lão trở lại
yêu đời. Lão sẽ lại có thể cầm được cán dao vẽ nên những bông hoa tươi đẹp, những
bông hoa mà dễ hơn mười năm rồi, không có lần nào lão quan tâm đến.
Cơn hôn mê thảng thốt cứ tiếp tục đưa lão đi qua những hình ảnh
chập chờn. Thời gian đã trở nên vô nghĩa đối với lão. Hình như đã ba ngày, hình
như đã một tuần. Lão không nhớ mình đã thức dậy bao nhiêu lần, tu hết bao nhiêu
ngụm rượu, duy chỉ có một điều chắc chắn là lão chưa thấy cần thiết đến một
nhúm gạo rang. Trong giấc ngủ, hình như lão nghe thấy tiếng súng lớn. Tiếng
súng tuy ở rất xa nhưng cũng đủ làm rung chuyển nền đất bao quanh. Lão muốn có
mặt bất cứ ai để hỏi lên một tiếng, nói được một câu. Nhưng lão đã hoàn toàn
cách biệt với đời sống bên ngoài. Lão hơi tiếc là không chỉ cho thằng Tư, thằng
On biết chỗ lão đã chọn nằm. Chúng nó ở đâu? Trong đầm Tròn, ngoài đồng vắng
hay lang thang dưới những lùm cây rậm rịt trong Rạch Bầu.
Những điều lão dự đoán thực sự đã sai lạc cả. Mặt trận bùng nổ
lại dữ dội trên mạn Phú Huy từ hai hôm nay. Các vùng quanh đó cũng có những cuộc
đụng độ lẻ tẻ.
Chiều hôm trước một trận đánh xẩy ra cách đầm Tròn không đầy
năm cây số. Đồng bào gồng gánh di tản đã đi lũ lượt trên quốc lộ. Đứng ở trên
đường nhựa nhìn xuống thấy rõ từng cột khói đen bốc lên nghi ngút ở bên kia
cánh đồng. Mùi thuốc súng bay lên khét lẹt ở khắp mọi chỗ. Địch rút ra xa hơn.
Quân đội theo đà tiến tới. Mặt trận loang ra, và bỏ lại trên những bồn cỏ, trên
những lối đi rậm rạp, ở bờ lạch, ở gậm cầu, ở những thửa ruộng nứt nẻ đầy dẫy
những dấu tích cháy nám đen, những vỏ đạn đồng sáng loáng và mùi khói cay nồng.
Vậy mà thằng On với thằng Tư vẫn còn lặn lội ở trong đó. Buổi
sáng hôm trước, thằng On có sáng kiến rủ thằng Tư đi đặt bẫy cầy hương. Hai con
chó hoang này lang thang qua hết giải đồng này đến giải đồng khác. Khi tiếng
súng bùng nổ thì chúng nó đang lầm lội dưới một lạch bùn. Cả hai đã bị chôn
chân ở đó. Suốt đêm chúng nó được nghe tiếng súng nổ, tiếng người la, có cả tiếng
chân chạy rậm rịch. Đến khi ngớt hẳn tiếng súng thì thân mình hai đứa đã gần
như lạnh cứng. Thằng Tư lóp ngóp bò lên trước. Nó nằm lăn ra nệm cỏ và tưởng muốn
ngất xỉu đi. Thằng On khôn hơn, đi quơ vài nhánh củi nhóm lửa đốt. Hai đứa nhìn
nhau khoái chí như thể cái sự còn sống sót sau cuộc giao tranh là một thành
tích oai hùng. Cho tới lúc đó chúng mới cảm thấy đói nhừ. Cơn đói làm cả hai bật
dậy. Mỗi đứa sục sạo ở một nơi. Nhưng cái mà chúng kiếm được lại không phải củ
khoai lang, hay đọt chuối mà lại là một viên đạn thối. Viên đạn lớn như chưa
bao giờ chúng được trông thấy. Nó to bằng bắp đùi, sáng loáng như đồ xi và nằm
lì lợm ở ngay gốc một cụm xương rồng. Thằng Tư hỏi:
– Mình lấy không?
On rụt lại:
– Thôi đi, chết bỏ xác.
– Đạn xịt mà! Đục ra lấy thuốc làm pháo bông đốt thì số dách.
On lắc quầy quậy:
– Má tao dặn rồi. Đụng vô những thứ đó chết uổng.
Thằng Tư ngán ngẩm nhìn viên đạn một cách tiếc rẻ. Nhưng rồi
nó cũng quay đi. Đi được một quãng nó lại gạ gẫm:
– Tao đố mày đạn thối như vậy còn nổ được không.
– Được chớ sao không!
– Láo! Nếu nổ thì nó nổ rồi. Bây giờ là nó xịt. Mày không tin
tao cầm lên cho coi.
Rồi không chờ thằng On nói năng gì, thằng Tư quay phắt ngay lại.
On hốt hoảng chạy tới chín mười bước, nằm úp sấp xuống mặt đất.
Thấy nó nhát như vậy, thằng Tư càng khoái chí, rích lên cười.
Nó túm ngay lấy viên đạn đồng chuyển từ tay này qua tay kia, rồi lại làm trở lại.
Viên đạn vẫn ngoan ngoãn như một cục đất hiền từ. Tư tự đắc:
– Đó, mày thấy không. Đâu có làm sao.
Thằng On tò mò mon men trở lại, một lát hai đứa chuyền cho
nhau xem một cách tự nhiên như xem một con mèo. Bàn tay của chúng nó thi nhau
miết lên vỏ đồng để tẩy đi những vệt khói ám vàng. Chán chê rồi thằng Tư mới đứng
dậy nói:
– Về gỡ thuốc ra lấy cái vỏ đồng đem làm bình cắm bông đẹp hết
chỗ chê. Mình ráng thử kiếm nữa coi. Đạn thối như vầy thiếu gì.
Hai đứa chạy đi. Chúng nó sục sạo ở khắp mọi chỗ. Nhưng không
còn viên nào khác ngoài viên mà thằng Tư ôm khư khư ở trên tay. Tuy vậy chúng
nó lại gặp được một vật quí báu hơn là viên đạn. Đó là một con trâu. Con trâu nằm
phủ phục ở đằng sau một bụi rậm. Chung quanh nó, máu me đầm đìa. Nó đã bị lạc đạn
từ đêm hôm trước. Thằng Tư hỏi:
– Trâu của nhà ai đây?
On lắc đầu:
– Ai mà biết được. Chắc ở trong xóm. Nó sút chuồng rồi chạy
ra đây chứ gì.
Tư hạ ngay một lệnh:
– Mình bắt con trâu này.
On phản đối:
– Nó chưa chết mà. Người ta sẽ đi tìm nó. Mình dẫn về uổng
công.
Tư ngẫm nghĩ rồi nói:
– Để viên đạn này nổ banh xác nó ra, mình khiêng một đùi về hầm,
ăn được cả tháng.
– Sao mày vừa nói là đạn không còn nổ nữa.
– Mày không biết cái gì hết. Để yên thì không sao hết. Nhưng
đút nó vô bếp lửa, nó sẽ nổ tung.
– Thiệt vậy sao?
Thằng Tư vênh mặt:
– Sao không thiệt. Chắc chắn là vậy mà. Mày đi kiếm củi đi.
Tao sẽ làm cho coi.
Chúng nó vun được một đống củi để ngay cạnh mình con trâu.
Con vật tội nghiệp vẫn nằm nghiêng trên bụi cỏ, hai mắt lờ đờ, hơi thở khò khè
yếu đuối. Ở trên miệng của nó, dãi nhớt chẩy ra đầm đìa. Lúc đốt lửa lên, thằng
Tư ném viên đạn vào chính giữa rồi kéo thằng On chạy thật nhanh xuống một hố
sâu gần đó. Cả hai hồi hộp chờ. Năm phút, rồi mười phút trôi qua. Viên đạn quả
nhiên là viên đạn xịt. Thằng Tư tức tối nhỏm phắt ngay dậy chạy lại đống lửa.
Nó lấy cái que cời những tàn than cho lửa cháy to hơn. Củi khô cháy lép bép. Tiếng
nổ nghe vui tai. Tiếng nổ nghe đinh tai. Một tiếng “ầm” nghe long trời lở đất
giật sấp thằng On ngã sóng soài trong lòng hố. Phúc đức thay, nó không hề hấn
gì.
Nhưng còn thằng Tư với con trâu. Cả hai đều cùng tan xác như
những mảnh pháo ròn rã của ngày xuân vào những dịp đồng quê thanh bình.
Chương sáu
Hoành, bố thằng Tư đứng tần ngần một lát lâu ở bậc thềm chưa
muốn vào thẳng cánh cửa giữa. Trước mặt gã là một khung cảnh quen thuộc hầu như
không bao giờ thay đổi, mặc dầu gã đã xa đây hàng sáu bẩy tháng, thời gian gã nằm
ở Tổng Y Viện. Con đường đất đỏ dẫn từ cổng trại vào sân cờ lúc nào cũng mù mịt
khói và bụi. Những đoàn xe luôn luôn ra vào tấp nập, với tiếng rồ ga ầm ĩ, tiếng
thùng xe xóc nẩy lên, long sòng sọc và ở trên đó bóng dáng những bạn đồng đội của
Hoành với khuôn mặt cháy nắng, đỏ rừ dưới ánh sáng gay gắt của mặt trời mùa hạ
hầu như lúc nào cũng mang vẻ hối hả, bận rộn.
Bây giờ thì hết rồi. Hoành sẽ chẳng còn bao giờ được tham dự
vào cái guồng máy sinh hoạt ồn ào náo nhiệt đó mà ngày nào cũng đầy dẫy những
phút buồn, vui, xúc động, nhất là sau những cuộc hành quân, xác từng người bạn
đồng ngũ được chở về trên chiếc xe cam-nhông phủ đầy bụi đất. Họ là những người
vĩnh viễn ra đi, vĩnh biệt cuộc đời quân ngũ, vĩnh biệt tất cả cuộc đời. Còn
Hoành thì mới chỉ theo chân họ đi được một nửa cuộc hành trình. Kể từ hôm nay
gã cũng giã từ vũ khí để bước sang cuộc đời với đôi nạng gỗ. Hồi còn nằm sáu
tháng liền ở Y Viện, Hoành đã sửa soạn cho mình một ý nghĩ bình thản, một tia
nhìn thẳng chỉ ngước lên mà không nhìn xuống vì mặc cảm và mỗi ngày, khi trèo
lên chiếc giường sắt đơn điệu với nệm trắng, mùng trắng, Hoành đã cố nhủ thầm:
“Ta đã làm hết bổn phận và quê hương đau khổ này ít ra cũng
đã được gìn giữ bằng một giò bên trái của ta”
Ấy thế mà, khi đặt những nhón gót đầu tiên trên hè phố của những
giờ phút đầu tiên giã từ đời quân ngũ, Hoành vẫn không bôi xoá được những mặc cảm
về sự thiếu toàn vẹn trên thân thể của mình. Gã ngượng nghịu nhìn mọi người đi
qua đi lại trước mặt. Gã tìm tòi ý nghĩ của họ qua những ánh mắt. Gã muốn kể lể
cho mọi người nghe lại lịch về sự mất một cẳng chân của mình. Nghĩa là gã muốn
lấp khoảng trống ở chân trái bằng câu chuyện phục kích ban đêm, trời lưa thưa
sao, có gió rừng thổi qua những cánh đồng ngập nước. Câu chuyện mà ở trong đó
gã là nhân vật chính và trở thành kẻ anh hùng như anh em đồng đội đã tuyên
dương. Phải chi ai cũng biết rõ điều ấy. Nhưng thành phố vẫn ồn ào, mọi người vẫn
qua lại, và không ai chú ý gì đến gã cả, cho dù chỉ là sự tò mò về cẳng giò thiếu
thốn của gã. Sự thản nhiên đó làm những ý nghĩ tự vệ của gã không còn lý do để
tồn tại. Cuối cùng gã đi một chặng đường dài trong thành phố với tất cả nỗi cô
đơn thấm thía nhất của mình. Gã mong mỏi được từ giã chốn này càng sớm càng tốt
để trở lại quê cũ. Chỉ những người thân mới là chiếc nôi êm ái cho cuộc đời còn
lại của gã.
Hồi còn nằm ở Y Viện, gã đã gởi về quê ba bốn lá thư. Nhưng tất
cả đều bị hồi lại. Lý do dễ hiểu là hệ thống Bưu điện bây giờ không thể về được
tới vùng xa xôi hẻo lánh. Chính vì thế mà gã đã đếm từng ngày trôi qua trong bệnh
viện và tưởng tượng đến giây phút bất ngờ nhất gã xuất hiện ở hàng rào ngoài cổng
ngõ. Thời gian chờ đợi thật là dài. Ngọn đèn trong phòng bệnh nhân đã bật tắt
không biết bao nhiêu lần. Mỗi lần cái ánh sáng vàng vọt tỏa một vàng úa trên nền
đá hoa trắng lạnh là một ngày trôi qua. Thời gian tuy nhiều lúc chậm chạp đến
tê tái cả cõi lòng nhưng ngồi nghĩ lại thì sáu tháng đã trôi qua cũng kể là
nhanh. Và dù mòn mỏi chờ đến thế nào rồi cũng có lúc gã đã chiến thắng được khoảng
đời buồn tẻ nhất là nằm trên giường bệnh.
Hôm được trả về gã đã bắt tay từ biệt từng người. Có người phải
dùng tay trái. Có người chỉ đáp lại bằng nụ cười héo úa. Cũng có người không
bao giờ biết gã và chỉ nhận ra gã bằng đôi tay thay cho cặp mắt đã được băng
kín bằng lớp bông đẫm máu. Những hình ảnh ấy đã gieo vào tâm tư của gã những kỷ
niệm sâu xa và quyến luyến. Trái với ngày đầu được gửi tới đây, gã tưởng như bị
đẩy vào một địa ngục trần gian, đầy những hình ảnh hãi hùng mà khi nghĩ tới tưởng
có thể phát điên lên được. Nhưng bây giờ khi từ giã ra đi gã lại thấy lòng nghẹn
ngào vĩnh biệt. Sơn, Hùng, Bốn, Quang, Hiện v.v.. những người đã chết ở Đỗ Xá, ở
Vinh Sơn, Đồng Xoài, ở Phù Cát. Gã nhìn hết thảy mọi người như muốn thu tất cả
những hình ảnh thảm thương ấy vào ký ức. Gã nhớ từng người, từng cá tính, từng
hoàn cảnh. Và mặc dầu bên kia bốn bức tường cao vòi vọi là cuộc đời tự do, là
những người thân đang chờ đợi, là mẹ già, là vợ trẻ, là thằng Tư đứa con trai,
nhưng rứt ra khỏi chốn này đối với gã cũng là một cố gắng phi thường. Gã đã cố
gắng vĩnh biệt với sự xúc động làm gã phải khóc mấy lần.
Công việc cuối cùng mà gã phải làm trước khi trở về quê cũ là
ghé đơn vị để giã từ ông Tiểu Đoàn Trưởng. Lúc đặt chân lên con đường đất đỏ dẫn
vào sân cờ, gã tưởng như mình đang sống ngược lại thời gian của hơn nửa năm về
trước. Tất cả đều không thay đổi gì, chỉ trừ có hiện tại, là gã không còn
nguyên vẹn như hồi xưa. Chiếc nạng gỗ chống một cách yếu ớt bên cạnh những lốt
xe in trên nền đất đỏ đã nói lên rõ ràng sự thua thiệt ấy của gã. Gã trèo lên đứng
ở bậc thềm cao để có thể nhìn bao quát khung cảnh quen thuộc. Gã tự nhủ thầm
mình sẽ từ giã tất cả. Từ giã vũ khí. Từ giã nếp sống quen thuộc đã ăn sâu vào
đầu óc của gã như biến thành bản năng. Gã sẽ trở về đồng quê yêu dấu. Gã sẽ làm
lại cuộc đời. Với gia đình thân yêu. Với những người thân yêu.
o O o
Ngày hôm sau, Hoành đặt chân lên mảnh đất thân yêu của quê
hương. Đồng quê xám xịt trong sương lạnh buổi chiều. Những thửa ruộng khô cằn
không vết tích của một sự khai phá. Từng đám cỏ dại mọc lên um tùm, đầu ngọn
rung rinh theo chiều gió. Di chuyển hơn bốn cây số mà Hoành chưa gặp một bóng
người. Dấu tích sinh hoạt ở đây chỉ là bóng dáng những chiếc phi cơ nặng nề qua
bầu trời, một vài cánh chim lạc lõng theo đường thẳng tắp hun hút xa đến cuối tầm
mắt.
Mải tới khi sắp vượt qua con rạch nhỏ quen thuộc mà ngày xưa
hồi còn bé Hoành vẫn cùng chúng bạn nô giỡn ở đó, gã mới thấy có bóng người. Gã
tần ngần đứng lặng trên ván cầu soi mặt nhìn xuống giòng nước phẳng lờ. Gã thấy
mình già đi quá nhiều. Hình ảnh thằng Hoành đầu trọc lóc, mình trần trùng trục
chia thành bè, thành phái giỡn nhau với đồng bạn suốt ngày trong đồng cỏ, nơi
sân chùa, trên lạch nước, bây giờ như chìm vào một thế giới xa lắc. Những đứa bạn
cũ ấy, có kẻ đang chiến đấu ở hàng ngũ bên này, có kẻ ở hàng ngũ bên kia. Nhiều
kẻ suốt đời chịu tật nguyền, nhiều kẻ vĩnh viễn chôn vùi trong lòng đất. Có kẻ
chết dưới mưa bom, có kẻ chết trong vành xe bọc sắt, có kẻ chết dưới hầm chông,
có kẻ chết trong lửa đỏ. Có cái chết được sửa soạn, tính toán, có cái chết thực
bất ngờ, thực nhanh chóng. Và nhịp độ lạnh lùng, tàn nhẫn đó cứ tiếp tục kéo
dài từ bao nhiêu năm.
Đứng tần ngần một lát, Hoành lê cái nạng gỗ đi xuống dốc cầu.
Khung cảnh bốn bề tiêu điều đến độ chẳng còn cái gì là nguyên vẹn. Tường long.
Mái lở. Cây đổ. Cột cháy. Ngói vỡ. Cửa bể. Mặt đường rải rác những hố sâu, những
chướng ngại vật, những vết cháy xám đen, và thưa thớt dấu chân người.
Nhóm người đầu tiên mà Hoành gặp là một đám đàn bà, già, trẻ
ước độ năm sáu người. Họ quây quần quanh một nồi khoai lang luộc đang bốc khói,
những sợi khói mầu trắng đục bay lờ lững qua từng khuôn mặt tiều tụy, võ vàng.
Sự xuất hiện của Hoành làm mọi người ngạc nhiên đến độ sửng sốt.
Một bà cụ sững sờ buông thõng củ khoai vừa đưa lên miệng. Một người khác la lên
thảng thốt:
– Anh Hoành!…
Một cơn xúc động bỗng ùa đến, tràn ngập tâm hồn gã đàn ông vừa
trở về sau bao năm vắng mặt. Những giọt nước mắt tự nhiên trào ra ở hai bên má.
Hoành cố giữ lại. Cố dằn xuống nỗi lòng u uẩn mà gã chất chứa từ bao nhiêu năm.
Nhưng rồi gã vẫn bật ra tiếng khóc. Tiếng khóc trở thành tiếng nức nở làm rung
động cả đôi vai gầy yếu của gã. Đến lúc đó, gã cũng không thể ngờ rằng mình đã
khóc được một cách dễ dàng. Bà cụ đứng dậy tiến lại phía gã. Gã giơ bàn tay run
rẩy của mình ra nắm chặt lấy những ngón tay xương xẩu của bà. Chẳng có khung cảnh
tái ngộ nào lại chứa chan niềm yêu thương đến thế. Sự đau khổ đã kéo con người
lại gần nhau hơn. Lúc này, họ đối với nhau như là những kẻ ruột thịt, như là cuộc
đời của họ đã gắn liền, mật thiết với nhau từ bao nhiêu năm. Bàn tay của Hoành
nắn từng khớp xương lồi lõm trên cánh tay của bà cụ, rồi gã đưa tay lên vuốt từng
sợi tóc bạc phơ rủ xuống đôi mắt đục lờ đang lăn tăn mấy giọt nước mắt.
Một lát sau, tất cả mọi người đều vây quanh lấy Hoành. Họ ngắm
đôi nạng của Hoành bằng những cái nhìn chua xót. Và không một ai chịu lên tiếng
trước tiên, vì ai là kẻ có can đảm nói cho Hoành biết mẹ gã, vợ gã, con gã, tất
cả đều đã vĩnh viễn đi vào lòng đất. Một linh cảm bén nhậy chạy thoáng qua
trong đầu khiến gã buốt nhói. Gã sững sờ nhìn về phía bà cụ như một lời xác định.
Bà cụ mắt đẫm lệ, không rời nhìn gã và từ từ lắc đầu nhè nhẹ. Gã cảm thấy thân
thể của mình bỗng nhiên nặng chĩu như chôn chết ở một chỗ đó. Mặt gã hướng về
con đường đất đỏ, lối dẫn vào căn nhà êm ấm của gã từ bao nhiêu năm trước. Con
đường vẫn có những bụi duối dại mọc ở hai bên lề, những sợi dây tơ hồng vàng
choé vẫn giăng mắc như từng hàng lưới nhện nhằng nhịt. Duy chỉ có những thân dừa
cao là bị gẫy đổ la liệt. Khoảng trời như trống trải thêm ra. Tầm mắt của gã có
thể nhìn thấu suốt qua tới khu bên kia của dẫy vườn dừa um tùm ngày trước.
Mái nhà tranh thơ mộng của gã ngày trước, bây giờ cũng không
còn đó. Khung cảnh trước mặt đầy vẻ hoang sơ và tiêu điều. Gã thấu hiểu thảm kịch
đã đi theo gã cho đến tận cùng của đời sống. Trong cuộc chiến tranh này, chẳng
phải gã chỉ đóng góp bằng cẳng chân trái và những năm tươi đẹp nhất của tuổi trẻ.
Hơn thế nữa, gã đã phải cung hiến trọn cả gia đình, trọn cả nguồn vui sống, trọn
cả những dự định tươi sáng tràn đầy hy vọng mà gã ấp ủ trong suốt sáu tháng trời
trằn trọc trên chiếc giường cô đơn ở quân y viện. Bây giờ thì gã không còn thấy
mình khóc thêm được một tiếng nào nữa, dù chỉ là một cái nấc nhỏ nhặt. Lòng gã
chợt lạnh như băng giá. Hai hàm răng của gã cắn siết lấy bờ môi tưởng đến bật
ra từng giòng máu. Gã ước ao cầm ngay ở trong tay một khẩu súng. Để bắn vào tim
mình. Để bắn lên ngôi cao chín từng của Thượng Đế, kẻ bình an ngồi ngất ngưởng ở
địa vị chí tôn nhờ sự ngu muội và nhẹ dạ của con người. Ôi, chưa một giai đoạn
nào trong hơn ba mười sáu năm làm người của gã, gã lại nhìn thấy quê nhà yêu dấu
phải chịu đựng cơn đớn đau cùng cực đến như thế.
Suốt đêm hôm ấy, Hoành ngồi bó gối bên bậc cửa để nghe mọi
người kể lại những nông nỗi bị tàn phá của quê hương. Sáng sớm hôm sau, gã lủi
thủi dò dẫm một mình ra khu nghĩa địa. Mộ chí mọc lên san sát. Gã đọc thấy những
tên quen thuộc. Mỗi tên gợi cho gã một kỷ niệm êm đềm. Gã có cảm giác như tất cả
đều còn lẩn quất ở đâu đó, ngoài cánh đồng xanh lúa, trong vườn tược cây cối um
tùm, trên những con đường ngày xưa ánh trăng tràn ngập soi bóng những hàng cây
đu đưa theo từng cơn gió thoảng.
Gã đi một vòng thăm thú, rồi ra ngồi xuống một mô đất nhỏ.
Chiếc nạng gỗ chống ở một bên đùi. Ánh mắt bạc nhược của gã lại đưa qua từng tấm
mộ chí. Có cái xây bằng xi-măng đầy rêu phủ. Có cái đóng bằng ván gỗ mục. Có
cái xiêu đổ nghiêng ngửa. Có cái bị mối đùn lên che lấp gần hết. Nhiều cái thật
xưa, nhưng cũng có nhiều cái thật mới. Mới nhất là mộ chí của thằng Tư, được
ghi vỏn vẹn một chữ “Tư” với hàng số ghi ngày tháng, nét bút sơn nguệch
ngoạc của một bàn tay run rẩy. Đó là công trình của lão Bẩy Thà, Hoành được mọi
người cho biết như thế.
Hôm thằng Tư tử nạn, On khiếp sợ trốn biết đến ba ngày mới trở
về. Nó đến tìm gặp lão Bẩy lúc lão đang ngồi hóng nắng buổi sáng trên bờ hè.
Cơn bệnh kéo dài hơn một tuần lễ khiến lão gầy và xanh bủng như một khối chì.
Râu tóc của lão mọc ra che lủa tủa cả khuôn mặt choắt choeo, hốc hác. Thằng On
lỏn đến bên cạnh lão như một con chó đi hoang. Con chó bẩn thỉu rách rưới và gầy
xọp đi như một que củi mục. Nó mếu máo:
– Ông ơi, thằng Tư bị rồi.
Lão Bẩy nhổm cả người lên:
– Cái gì?
On nhắc lại:
– Thằng Tư. Nó banh xác ở bên cánh đồng ấp Hoà Lợi từ mấy hôm
nay rồi.
Lão Bẩy chết lặng người đi như chính người thân thiết ruột thịt
của lão bị tai nạn thảm thương đó. Phải lâu lắm lão mới bảo được thằng On kể
cho nghe đầu đuôi. Nghe rồi, lão lại im lặng không nói. Hầu như lão không thể
tin được biến cố xẩy ra phũ phàng và mau chóng đến thế được. Hình ảnh quen thuộc
của thằng Tư hay lang thang trong đầm Tròn vẫn còn in trong đầu óc của lão một
cách quá mới mẻ. Thật khó mà thay thế được ý nghĩ của lão rằng nó đã chết.
Lão châm một điếu thuốc quăn queo nằm từ hai tuần này trong
túi áo, và khói thuốc làm miệng lão đắng nghét, mắt lão cay xè. Lão vê tròn điếu
thuốc trong mấy ngón tay rồi ném ra phía bờ rào. Điếu thuốc rớt lên một chiếc tầu
lá khoai, nằm ở đó nhả lên từng cuộn khói xanh ngắt. Lão nhìn theo rồi đứng dậy,
vịn bờ tường đất dò dẫm trở lại căn hầm. Lão nằm vật xuống mặt chiếu như vừa trải
qua một sự chịu đựng cơn mệt mỏi kéo dài từ bao nhiêu ngày. Hai mắt lão nhắm
nghiền lại. Lão thở thật mạnh từng hơi ngắn, dồn dập. Thằng On vẫn đi theo lão,
hốt hoảng giơ bàn tay bẩn thỉu của nó đặt lên ngực lão như dò hỏi. Một lát, lão
không thở mạnh nữa thì nó rụt tay lại, ngồi bó gối ở bên cạnh giường. Sự im vắng
của bốn bề vây quanh hai ông cháu trong một thời gian thật dài.
Mải đến trưa hôm ấy, lão Bẩy mới ngoắc thằng On đi sang ấp
Hoà Lợi. Lão lột theo tấm chiếu rách mà chính lão đang nằm. Xác thằng Tư vẫn nằm
nguyên ở đó, ruột gan chương thối, thân thể không vẹn toàn. Lão Bẩy bình thản gắp
lên từng mảnh vụn, đem cuộn tròn vào cả manh chiếu rồi bó lại. Lão bắt thằng On
khiêng lên một đầu đòn.
Trên đường trở về, hai ông cháu âm thầm đi trong bóng tối nhá
nhem. Bước chân âm thầm, thất thểu. Không có tiếng nói. Không có hồn người.
Không phải hai kẻ đang sống sót khiêng đi một thây ma. Đó là hai bóng ma khiêng
đi một đùm lổn nhổn lộn phèo. Họ chôn bó chiếu trong nghĩa địa. Không kèn,
không trống, không cả quan tài. Nhưng huyệt thì rất sâu, sâu hơn lệ thường và
chắc là sẽ còn sâu nữa, nếu lão Bẩy Thà còn đủ sức điều khiển cái cuốc xới thêm
được vào lòng đất. Riêng thằng On thì không giúp thêm được lão một việc gì. Nó
ngồi chồm hổm trên miệng huyệt, giương cặp mắt chẳng còn chút nào tinh thần,
nhìn lão thao láo, y như một con chó đang biến thành tượng đá.
Đến gần nửa khuya thì công việc hoàn tất. Thằng Tư được dành
một chỗ khiêm nhường trong nghĩa trang nhỏ hẹp này. Nói theo kiểu văn hoa thì
nó đã được mồ yên mả đẹp, mặc dù có khoảnh đất nào được gọi là yên ở chốn đồng
quê khói lửa. Ngôi mộ của nó chỉ là một cái đụn đất nhỏ, thớ đất khô cằn, lổn
nhổn từng hạt sỏi cứng như sắt nguội.
Tuy vậy nó cũng còn hên hơn nhiều đứa khác, những đứa lúc chết,
thân xác đã bị đem làm mồi cho lũ kiến trong gò Ông Cả hay cho lũ cá béo ngậy ở
dưới lạch nước trong Rạch Bầu. Lão Bẩy cũng nhắc lại như thế khi lão nện lên
cái đụn đất một nhát cuối cùng trước khi phủi áo ra về. Lão quên mất thằng On
còn đang ngồi chồm hổm ở đó ngày từ lúc tối trời. Chân tay của lão rời rã. Tất
cả từng đường gân thớ thịt của lão như thấm đượm mùi tử khí nồng nặc mà cho đến
lúc đó lão mới thấy rùng mình ớn lạnh. Lão thèm tu một chai rượu. Một chai đầy
rượu đổ òng ọc qua cổ họng chứ không nhấm nháp từng ngụm bằng những cái ly nhỏ
xíu.
Lão mò mẫm, băng qua những con đường nhỏ để theo lối tắt đến
nhà mụ Phước. Bất chấp giấc ngủ của mọi người, lão đập cửa ơi ới. Mụ Phước vừa
chợp mắt được ít phút, vội vàng choàng dậy la lên:
– Ai đó?
– Tôi! Bẩy Thà đây.
– Chèn ơi! Chết dấm chết dúi ở đâu từ bao nhiêu ngày này, mà
bây giờ nửa đêm lại đi mò mẫm, không sợ lính phục kích họ bắn bỏ hả.
– Bắn chết thôi. Liệng giùm cho tui hai chai rượu rồi mai
tính.
Bây giờ mụ Phước mới mở hé cánh cửa và lùa cái đèn Hoa Kỳ ra
ngoài. Mụ giật mình khi thấy lão Bẩy nhem nhuốc bẩn thỉu như mới ở dưới mồ chui
lên. Chưa kịp hỏi han thì lão Bẩy đã hào hển:
– Tôi vừa đi chôn thằng Tư về tới. Nó chết ở địa phận ấp Hoà
Lợi kìa.
Mụ Phước rên lên:
– Chèn ơi! Nó chết thiệt rồi hả. Làm sao nó chết?
– Nó với thằng On nghịch đạn thối ở trong đồng. Tổ cha những
con chó điên. Trời đất này tránh đạn còn chẳng xong lại còn tìm tới đạn. Cho
tôi chai rượu đi, không tôi mửa hết ra đây bây giờ nè.
Mụ Phước vội vã thụt vào, lui cui một lát lùa ra ngoài một
chai rượu đầy ắp. Mụ nói:
– Thôi, góp công với ông đấy. Ông lo được cho nó nằm yên, tôi
mừng.
Lão Bẩy giằng lấy chai rượu, chẳng kịp ngỏ lời cám ơn, bật lẹ
cái nút rồi ngửa cổ tu ừng ực. Men rượu làm lão nóng bừng ở cổ, nhưng mát lạnh ở
những chỗ có rượu chảy chan hoà trên làn da sần sùi. Trong phút chốc, lão đã nốc
tròm trèm nửa chai. Lão khà lên một tiếng khoái trá, đập mạnh cái nút vô miệng
chai rồi chuệnh choạng bước đi. Được một lát, lão bỗng cao hứng cất tiếng hát.
Giọng hát ầm ừ không thoát ra khỏi cổ họng thật khó mà biết lão ca tân nhạc hay
cổ nhạc. Trên con đường tràn ngập bóng tối của nửa đêm chưa về sáng, lão loạng
choạng vấp té mấy lần. Lão không biết mình đã đi đâu, qua bao nhiêu con đường
và đã làm gì trong đêm tối. Chỉ biết mải sáng hôm sau, lúc tỉnh rượu, lão mới
thấy mình ngồi ôm khư khư chiếc cột cái của một cây cầu khỉ. Lão đã ngủ ở tư thế
đó như một kẻ si tình ngồi ôm người yêu tình tự suốt đêm dưới bầu trời đầy sao,
êm ả.
Lão ngó xuống đôi bàn chân lạnh ngắt như đã biến thành hai
khúc gỗ vô tri. Lão thấy chân cẳng của lão đã ngâm dưới giòng nước đục ngầu
không biết tự bao giờ. Một vài cọng rác trôi theo giòng đã tấp đến, bám vào ống
chân của lão như bám quanh một khúc củi mục. Lão thờ thẩn ngó xuống nhìn và lão
không suy nghĩ điều gì hơn. Lão cũng chẳng buồn nhúc nhích người để sửa soạn đứng
dậy. Chẳng bao giờ lão lại vô tình đối với chính bản thân của lão đến thế. Lão
sống thêm nữa, nào có ích gì. Mà nếu lão có chết cóng trong đêm qua thì cũng chẳng
có gì khác lạ hơn. Lão sẽ biến thành một thây ma ôm chặt lấy chân cầu. Đầu gục
xuống nước. Cái chết được lựa chọn như vậy thật mát mẻ tuyệt vời.
Nhưng lão dai như đỉa, hơn đỉa nữa. Trời đày cho lão phải chứng
kiến nhiều hơn nữa những thảm kịch ở quê nhà yêu dấu. Ở đây, lão đã biến thành
cuốn sổ bộ đời. Lão còn phải ghi chép nhiều trang nữa dành cho những người vĩnh
viễn nằm xuống. Lão vụt nghĩ đến ngôi mộ của thằng Tư. Nó còn thiếu một cây mộ
chí. Cây mộ chí sẽ viết lên điều gì? Họ của nó, lão không biết. Nó bao nhiêu tuổi,
lão cũng không hay. Thôi thì cũng dành cho nó một chữ để ghi dấu chờ ngày bố nó
trở về. Một chữ “Tư” kèm thêm ngày tháng mà nó đã nằm xuống. Đó là nội dung của
một cây mộ chí.
Có lẽ khúc gỗ được nguệch ngoạc như vậy sẽ là một tấm mộ chí
giản dị nhất giản dị nhất, hiếm hoi nhất, tấm mộ chí ở quê nhà yêu dấu mới có
thể có được.
Chương bảy
Tấm mộ chí ấy, Hoành đã khắc sâu vào tâm khảm. Gã không quên,
không bao giờ quên được. Duy chỉ có hình hài của con trai gã nằm ở dưới ấy là mờ
nhạt. Gã không rõ thằng Tư bây giờ so với thằng Tư ngày trước đã khác nhau bao
xa. Sáu, bẩy năm trời trôi qua rồi, những hình ảnh cũ chắc chắn chỉ còn là những
kỷ niệm. Nhưng kỷ niệm cũng chẳng lấy gì làm rõ rệt lắm, bởi vì trong ngần ấy
năm đạp chân lên gần mọi nẻo đường của đất nước, đầu óc của gã đã nhồi nhét biết
bao nhiêu hình ảnh tàn phá của chiến tranh, bao nhiêu hoàn cảnh thảm khốc, nhọc
nhằn, bao nhiêu tâm trạng đắng cay, thống khổ.
Gã thở dài nhìn lại chỗ thằng Tư nằm một lần cuối cùng. Tâm hồn
của gã rã rời. Đầu óc của gã trống rỗng. Gã có cảm tưởng như mình vừa thua một
canh bạc lớn. Canh bạc mà ở đó gã đã nướng hết cả cuộc đời, cả thể xác và cả những
người thân yêu ruột thịt. Gã không còn lại gì. Thực sự không còn lại gì, ngay cả
những hình ảnh rõ ràng của những người đã khuất. Khuôn mặt của gã đầm đìa nước
mắt. Gã quờ tay ra với lấy cái nạng gỗ, chống lên rồi thất thểu trở về xóm.
Tiếng súng ở mặt trận bên kia quốc lộ nghe thật gần. Hung thần
tàn phá đã trở gót quay lại vùng đất thảm thương cùng cực này. Bầu không khí
trong làng trở nên cực kỳ căng thẳng. Không còn ai lo toan buôn bán gì nữa, dù
chỉ là một mớ rau èo uột. Lệnh di tản đã được trực thăng loan báo suốt ngày.
Truyền đơn bay như bươm bướm, nằm rải rác trên khắp mọi nơi trong xóm làng. Những
gia đình lì lợm nhất cũng buộc phải thu vén để lên đường. Trên quốc lộ, những
đoàn xe bọc sắt nối đuôi nhau di chuyển, tạo nên những chấn động làm rung chuyển
cả mặt đất. Hai bên lề đường, từng toán dân chúng bồng bế nhau lũ lượt đổ về chợ
quận. Tiếng bò kêu, tiếng heo rống, tiếng trẻ khóc hoà lẫn nhau thành những âm
thanh hỗn độn. Duy chỉ có người lớn là lầm lì. Nét lầm lì in hằn trên từng
khuôn mặt lạnh lùng chai đá.
Gió đồng thổi lồng lộng. Những mái tóc bạc phơ xoã sợi trên vầng
trán nhăn nhúm. Bụi đường tung lên từng đợt mù mịt. Bụi phủ dầy trên những đoàn
xe đầy nhóc lính tráng. Bụi bám lấy ngập ngụa những gót chân son nhỏ của đoàn
trẻ thơ ngơ ngác, sợ sệt. Bụi thổi vào từng cặp mắt đỏ hoe, khô cạn nước mắt.
Còn khóc được gì khi mà cảnh này đã triền miên tiếp diễn từ hơn hai mươi năm.
Hoành chống nạng đứng ở trong một chòi lá ven đường từ sáng sớm
đến trưa. Gã thản nhiên ngắm nhìn sinh hoạt trước mặt. Gã đếm từng con bò được
đưa ra khỏi vòng lửa đạn. Gã nhẩm từng đoàn xe nhộn nhịp di chuyển ngược chiều.
Gã đã thấy những vành khăn tang nhan nhản trong đám người qua lại. Nhiều kẻ
không vẹn toàn. Như gã. Có người đã chống gậy đi thoăn thoắt. Có người khập khiễng
với đôi nạng xử dụng khó khăn trên bờ vai. Cũng có người bó bột trắng xoá ở ngực,
ở chân hay ở cánh tay. Có người đã già lão. Cũng có đứa còn phải bồng trên tay.
Thế giới của những kẻ mất mát, tàn tật, thua thiệt, nhưng chắc chắn họ chỉ là
những người dân vô tội.
Hoành không nhập cuộc theo đám dân di tản nheo nhóc đó. Gã
còn mong gặp được lão Bẩy để gửi nhau một tiếng chào lần cuối. Nhưng lão Bẩy
không có mặt trong đám người kể từ sáng sớm. Hoành sốt ruột lần mò trở lại
trong ấp. Gã gặp thằng On bế đứa em lếch thếch đi ra, bên cạnh là chị Huấn gồng
vai lên gánh hai sọt đồ lủng củng. Hoành hỏi thăm thì nó đáp:
– Cháu gặp ổng từ sáng hôm qua trong gò Ông Cả. Ổng mang theo
cơm nắm với muối mè.
– Làm chi trong đó vậy?
– Ai mà biết. Ổng làm gì chẳng bao giờ hỏi mà ổng laị hé
răng.
– Mày chưa gặp ổng trở ra chớ.
– Chưa mà. Nếu có cháu đã biết.
Hoành gật đầu rồi hăm hở trở lại. Gã ra đầu bãi cỏ sân chùa,
trải xuống đấy một cái chiếu nằm đợi. Tầm mắt của gã phóng qua rặng cây thưa thớt
để nhìn về phía cánh đồng phẳng lặng. Cánh đồng bây giờ không còn có lấy một
bóng trâu, một dáng người, một gợn lúa. Cánh đồng vô dụng. Cánh đồng đã chết.
Hoành buồn bã châm một điếu thuốc còn sót lại cuối cùng. Khói
thuốc xanh lơ như ngọn khói bốc cao trên mái lá ở quê nhà vào những buổi chiều
đầy mây xám ngày xưa. Hoành ôn lại mớ tin tức mới biết, để kiểm điểm những kẻ
còn lại và những người đã vĩnh viễn ra đi. Sự mất mát chiếm một con số khá nhiều.
Gã tự hỏi tại sao lại không có thêm gã, để gã khỏi phải chịu đựng chuỗi ngày
còn lại với tất cả mọi nỗi niềm cô đơn, đầy tủi nhục.
Gã trằn trọc với những ý nghĩ chua xót gậm nhấm tâm hồn, mải
tới lúc nắng ngả về chiều thì mới thấy lão Bẩy từ trong đồng hấp tấp trở lại.
Hoành kêu lão rối rít. Lão lắng nghe rồi đổi hướng đi về phía Hoành. Trên vai
lão khuân một mớ đồ lủng củng. Lúc tới gần, Hoành thấy mặt mũi lão phờ phạc,
râu tóc dựng ngược lên tua tủa, làn da đen bóng như men sành, mồ hôi chảy nhễ
nhại ướt đẫm cả lần áo rách mướp và bẩn thỉu như một mớ giẻ lau. Lão đặt phịch
mớ đồ xuống đất và ngồi xệp xuống mặt cỏ. Bàn tay xương xẩu của lão lần vào
lưng quần. Lão moi ra một xị rượu rồi ngửa cổ tu ừng ực. Râu của lão như dựng
thêm lên nữa. Hơi rượu như toát ra ở từng cọng râu bạc trắng. Hoành cất tiếng hỏi:
– Ông vô Gò làm chi vậy?
Lão chỉ xuống đống đồ rồi mỉm cười khà khà:
– Hứa với cái Hương là đóng cho nó một đôi nạng gỗ. Nội quanh
đây chỉ có gò Ông Cả là có cây tốt mà thôi.
Nói rồi lão giỡ ở đám cưa và đục ra một đôi nạng còn nguyên
mùi gỗ mới. Lão gật gù ra chiều đắc ý:
– Nó còn ướt nên hơi nặng. Ít tháng nữa, ngót đi nó sẽ nhẹ bằng
bông.
Hoành đón lấy ngắm nghía rồi chép miệng:
– Đã dùng đến nạng rồi mà ông còn bày đặt chạm với trổ. Vẽ
hoa lên đây thật là mỉa mai lắm đó ông à.
Lão Bẩy cãi lại:
– Cậu là người lớn kể gì. Còn cái Hương là con nít. Dẫu có thế
nào thì nó cũng thích bày vẽ cho vui mắt.
– Vậy ông tìm nó mà trao ngay đi. Hai ngày hôm nay người ta
di tản đông nườm nượp. Máy bay cho lệnh gắt gao rồi đó.
Lão Bẩy hốt hoảng đứng lên:
– Đến vậy rồi sao. Tưởng cũng lích kích qua loa như mọi lần rồi
đâu lại vô đó chớ.
Hoành lắc đầu:
– Không đâu. Mặt trận gần đây lắm rồi. Hồi sáng, ở đây nghe
thấy cả tiếng súng nhỏ. Cơ đồ này chỉ ào một cái là bên đây thành trận tuyến hết.
– Vậy gia đình cái Hương đã chạy chưa?
– Cái đó thì không rõ. Bởi suốt cả vùng này đều phải đi hết
nên đông quá đi.
Lão Bẩy không đáp, vội vã cúi xuống xốc mớ đồ lên vai rồi bỏ
đi. Hoành hỏi vói theo:
– Còn ông, ông có đi không, ông Bẩy?
Lão Bẩy quay lại, ngoác miệng cười:
– Đi đâu? Quê của tui ở đây mà. Nếu có chết thì tui cũng chết
ở quê nhà chớ. Vả lại chết sao đặng. Đỉa cũng chẳng dai bằng cái mạng của tui
mà.
Nói rồi lão lại cười hăng hắc và vội vã bước đi. Lão nhào đến
căn nhà lá ba gian của gia đình cái Hương. Tất cả đều cửa đóng then cài. Sân đất
trống trải. Vườn cây im vắng. Ở một góc sân, chỉ còn đống rác âm ỉ cháy đưa từng
gợn khói lên trông thật u buồn. Tự nhiên lão Bẩy chợt nghe lòng mình bừng lên một
cơn xúc động sâu xa. Trải hơn hai ngày cặm cụi trong gò Ông Cả, lão chỉ ước mơ
có một giây phút là lúc ướm thử đôi nạng mới vào đôi vai gầy yếu của con bé tội
nghiệp. Lão tưởng tượng đến đôi mắt long lanh như hai vì sao sáng của nó. Rồi
nó sẽ nhoẻn miệng cười, gò má ửng hồng, vành môi tươi tắn! Rồi lão sẽ say sưa
ngắm từng dấu chân nhỏ bé của nó nhón gót lê từng bước ngắn ở trên mặt đường.
Nó có đau ở vai không? Nó có khó chịu ở nách không? Chỗ nào làm nó nhức nhối.
Chỗ nào làm nó sây sát, lão sẽ sửa chữa tỉ mỉ và tô chuốt tận tình để nó có một
đôi nạng hoàn toàn. Một đôi nạng giúp nó dễ dàng một phần nào trong tật nguyền
đớn đau của nó.
Bây giờ Hương đã đi rồi. Trên mặt sân đất còn in rõ từng lốt
chân bé nhỏ và dấu nạng nặng nề. Lốt chân đi từ mặt hè xuống sân đất. Từ sân đất
ra mé vườn. Từ mé vườn ra bể nước. Từ bể nước ra chuồng heo. Rồi từ chuồng heo
mới ra cửa ngõ. Chắc trước khi đi, con bé đã lưu luyến sâu xa căn nhà yêu dấu của
nó. Căn nhà đáng lẽ phải là nơi yên nghỉ êm đềm cho cẳng chân tàn tật. Hương
ơi. Cháu ơi. Lão gọi tên người bạn bé nhỏ trong ý nghĩ và cơn xúc động làm cánh
mũi của lão phập phồng. Lão cúi xuống nhìn lại công trình của mình trong suốt
hai ngày cặm cụi. Đôi nạng xinh xắn với những nét chạm trổ tinh vi.
Lão tần ngần mân mê từng chiếc trong mấy ngón tay xương xẩu,
rồi lại đưa mắt buồn bã nhìn lại khung cảnh buồn bã ở chung quanh. Mãi một lát
sau, lão mới uể oải trở gót bước về. Đường trong lối ngõ im vắng đến độ lạnh
lùng. Hoành đã nói đúng. Nơi đây sẽ là vùng đất chết. Hung thần tàn phá thực sự
lưu luyến mảnh đất nhỏ bé cơ cực này. Nhưng lão sẽ chẳng bao giờ đầu hàng bất cứ
hoàn cảnh nào. Lão sẽ ở lại. Sẽ chứng kiến cơn tàn phá ở đây từ phút đầu cho đến
phút cuối. Từ lúc những mái nhà tranh còn chen lấn dưới các lùm cây đến lúc tất
cả được san bằng thành bình địa. Nếu có phải chết, lão sẽ chết trong khung cảnh
thân yêu mà lão quá quen thuộc từ hơn sáu mươi năm, ngày mà lão đã sinh ra, lớn
lên và bám riết lấy qua biết bao biến cố. Đấy là quyết định cuối cùng của đời
lão. Quyết định mà lão sẽ thực hiện, cho dù bom rơi, súng nổ, đạn bay, nhà
cháy, và khói lửa xông lên mịt mù.
Lão quay trở lại bãi cỏ ở sân chùa. Hoành vẫn còn nằm khểnh ở
đó. Lão ngạc nhiên hỏi:
– Bộ anh chưa đi hả?
Hoành nhún vai:
– Tôi nghĩ kỹ rồi. Tôi ở lại.
Lão Bẩy la lên:
– Trời ơi. Có bộ là khùng. Chân cẳng thế này, lúc đụng độ thì
anh chạy làm sao.
Hoành cúi xuống, nắn nắn hai bắp chân của mình rồi mỉm cười:
– Coi bộ cũng không đến nỗi nào. Vả lại tôi đi nhiều, sáu bẩy
năm liền còn gì. Bây giờ thì đã thấy mệt mỏi rồi. Chỗ trú thân cuối cùng của
tôi là ở chốn này.
– Không được đâu. Anh còn trẻ. Đời anh còn dài, lo gì không
xây dựng được trở lại. Chỉ có tôi là chẳng nên chạy đi đâu.
Hoành nhìn lão bằng cặp mắt chế riễu:
– Tại sao vậy cà?
Lão đáp lại, ánh mắt đục lờ như nhìn qua một màng ướt:
– Có làm sao đâu. Mình tới cõi rồi. Ở đây còn được nằm với
ông bà…
Lão ngừng lại, bàn tay thò vào bọc tìm gói thuốc vấn. Gói thuốc
cạn khô, chỉ còn những mảnh thật vụn. Hoành cũng chợt nhớ ra mình cũng đã hết
thuốc hút, gã tiếc ngẩn ngơ:
– Có vậy mà không nghĩ ra. Giá mua trữ lấy vài lạng thuốc vấn.
Lão Bẩy đứng dậy, một tay quơ lấy đôi nạng gỗ, một tay nâng
Hoành lên:
– Đi ra hàng mụ Phước. Con mụ lì. Không chắc nó đã đi.
Hoành theo lão tiến về phía quán chợ. Bốn bề im vắng hoàn
toàn. Mặt đất khô nẻ. Những cọng rác đã ngã mầu xám xịt. Những chiếc lá vàng úa
cong queo rải rác trên khắp lối đi. Bắt đầu từ mấy ngày hôm nay, các hàng quán
lèo tèo cũng đã phải đóng cửa, dẹp tiệm. Mọi người bồng bế nhau đi hết. Duy chỉ
có mụ Phước là quả nhiên lì. Mụ đang giằng co với anh Bằng và một tốp lính
trong đồn có nhiệm vụ hối thúc đồng bào di tản. Ngay từ ở đằng xa, Hoành và lão
Bẩy đã nghe thấy tiếng la lối của mụ:
– Ờ, phải đó. Thằng Hiếu là gì đi nữa thì nó cũng là con tôi.
Tôi không đi đâu hết. Tôi chờ nó. Nó còn có mỗi một mình tôi.
Nói rồi mụ bù lu bù loa lên khóc. Trong thâm tâm, mụ vẫn
không quên được những bữa cơm ngọt bùi mà mụ đem treo trên cành lá cho ban đêm
thằng Hiếu mò ra lấy xuống. Bây giờ, nó đi xa, nó biệt tích, nó không có thư từ,
nhắn nhủ gì cho gia đình, nhưng nó vẫn còn sống. Biết đâu ngày mai, ngày mốt nó
lại chẳng viết thư về:”Má ơi, má tha lỗi cho con. Bây giờ con đói, má lại đem
cơm vô đầm Tròn cho con…” – Ôi, chỉ nghĩ đến như vậy là mụ cũng đủ đứt ra từng
khúc ruột, và bằng mọi giá, mụ phải ở lại để chờ tin tức của nó, mụ sẽ lại đem
cơm cho nó vào đầm Tròn, vuốt nắm giẻ tẩm dầu ôi lên tấm lạt buộc để treo gói
cơm, ngăn ngừa lũ kiến đỏ. Mụ không đi. Không thể đi được.
Tiếng gào của mụ làm cho Bằng bối rối. Gã chưa biết xử trí ra
sao với con mụ lì lợm này thì một tiếng nổ long trời lở đất bùng lên ở ngay đầu
quốc lộ. Một người nghĩa quân la lên:
– Pháo kích!…
Tiếng la của anh ta bị át đi ngay bởi một tràng súng nổ. Rồi
một tràng nữa tiếp theo. Rồi liên chi hồ điêp. Thế là chiến cuộc thực sự mở
màn. Những ngày lo lắng, xôn xao, nghiêm trọng đè nặng lên tâm hồn của biết bao
nhiêu con người sống trong thấp thỏm, đợi chờ bây giờ đã thực sự nổ bùng. Trong
tiếng đạn bay, tiếng súng nổ, mọi người nghe thấy giọng thất thanh của Bằng la
lên:
– Tất cả rút về phía sân chùa. Chú Sáu, chú Hồ bắt liên lạc với
đồn Thạnh Phú. Chú Hữu hướng dẫn nốt những người còn lại ra tới vòng đai an
toàn. Chốc nữa tìm tôi ở ngoài lô-cốt số 7.
Nói rồi Bằng lủi đi thật nhanh. Đám cãi cọ giải tán ngay tức
khắc. Một người lên đạn trên nòng súng xoành xoạch và hắn ta dùng cả cái bá
súng đẩy vào người lão Bẩy thật mạnh:
– Đi!…Đi theo tôi. Líu ríu ở đây là chết cả đám.
Mụ Phước lợi dụng giây phút lộn xộn ấy, chui tọt ngay vô nhà,
đóng kín cửa lại. Trong nhà mụ có hầm sâu, dưới hầm sâu có đủ tiện nghi để sinh
sống nhiều ngày. Mụ đã sửa soạn ngay từ khi mọi người rục rịch phải chạy.
Tốp người rút ra không còn ai quan tâm đến mụ nữa. Ý chí quyết
liệt của mụ làm cho mọi người không còn băn khoăn hay thắc mắc. Mụ còn sống hay
sẽ chết, điều đó không quan hệ bằng sự kiện mụ được thoả mãn tình mẫu tử bao la
và bền vững của mụ. Hãy để cho mụ gìn giữ lấy niềm tin là sẽ được gặp lại đứa
con trai. Nếu có phải chết, thì khi nhắm mắt mụ cũng còn đem đi được đôi chút
kiêu hãnh ở trong lòng.
Anh nghĩa quân Hữu xốc được Hoành lên tới dốc cầu một cách
khó khăn và cực nhọc. Hắn trao nhiệm vụ lại cho một tốp khác. Tốp này lại dẫn
Hoành và mấy người dân lạc lõng nữa băng qua mấy con đường tắt để lên tới quốc
lộ. Mặt đường tráng nhựa vắng ngắt bóng người. Lâu lâu chỉ thấy có từng chuyến
xe tản thương phóng như bay ngược về quận lỵ.
Hoành quá giang được trên một trong những chuyến xe đó. Lòng
gã lạnh băng. Gã buồn rầu nhìn con đường bị nuốt đi vùn vụt, bỏ rơi lại phía
sau những khung cảnh quen thuộc và những bộ mặt quen thuộc. Nhất là bộ mặt cằn
cỗi của lão Bẩy Thà trước đó ít phút. Trong cơn bối rối, Hoành không biết là đã
lạc mất lão kể từ lúc nào. Hình như có một lúc lão bị vấp té. Hình như lại có một
lúc lão đứng lại, ngó về phía đầm Tròn với ánh mắt buồn thảm. Nhưng có một điều
mà Hoành tin tưởng chắc chắn là lão có dụng tâm xé lẻ đám đông để được trở lại
đồng quê yêu dấu. Đã nhiều lần, lão thường nói rằng không bao giờ lão có thể bỏ
được nơi chốn mà ở đó lão sinh ra, lớn lên, và đã chứng kiến biết bao thảm kịch.
Hình ảnh cuối cùng mà Hoành ghi nhớ được ở nơi lão là một thân hình gầy gò nước
da đen cháy, quần áo như xơ mướp, tóc râu lúc nào cũng dựng ngược đưa lên từng
cọng tua tủa, và trên tay lão vẫn còn cầm khư khư đôi nạng gỗ. Hoành tiếc là
mình đã không cầm theo đôi nạng để ước muốn cuối cùng của lão được thực hiện.
Trong ít phút nữa đây, Hoành sẽ gặp lại khá đông đủ người quen ở những lều tị nạn.
Nhưng nỗi vui mừng ấy thật nhỏ nhoi so với cơn xúc động khi phải từ giã hai bộ
mặt mà Hoành đều tiếc xót sâu xa: Lão Bẩy Thà với lòng yêu mến quê hương đến tột
cùng, và mụ Phước với tình mẫu tử bền vững, dai dẳng của mụ.
Xóm làng bây giờ đã biền biệt sau những lùm cây xanh ngắt.
Nhưng trên tầng cao, từng cột khói đen vẫn từ đó bốc lên nghi ngút. Tiếng máy
bay rền rĩ làm rung chuyển bầu trời, tiếng súng lớn nhỏ vẫn thi nhau vọng lại,
và bên tai Hoành có cả những tiếng rên rỉ, kêu la của một anh binh sĩ đang nằm
trên chiếc băng-ca. Mình mẩy anh ta đầm đìa những máu và tình trạng của anh ta
đang bắt đầu hôn mê. Có lúc anh ta kêu mẹ và chị. Có lúc anh ta quát tháo một
người nào đó ở trong cơn mơ. Cũng có lúc anh ta choàng tỉnh dậy kêu gào một
chai nước, bất cứ là thứ nước gì.
Còn người tài xế ngồi bên cạnh Hoành thì lạnh băng như một
khúc gỗ vô tri. Hoành liếc mắt sang và thấy gã trẻ, rất trẻ. Nhưng tuổi trẻ của
gã lại không còn biết xúc động là gì. Gã thản nhiên cầm tay lái, thản nhiên
sang số, nhấn ga, đạp thắng, lách qua những chướng ngại vật, những ổ gà. Gã
không bao giờ quay lại nhìn ai. Cũng không một nét nào chua xót thoáng qua vẻ mặt
khi anh lính bị thương cất tiếng kêu gào. Riêng chỉ có đôi mắt của gã là biểu lộ
được tâm trạng lo toan nhiệm vụ với tất cả khả năng mà gã có thể làm được. Đôi
mắt thật sáng, cái ánh sáng bất động, chuyên chú và chỉ dính sát lấy con đường
ngoằn ngoèo trước mặt. Gã đem tốc độ của cái xe lên đến một con số kinh hoàng.
Chiếc xe lao vút đi. Những cột khói đen mất dần, nhưng vầng mây ở chốn cũ vẫn đỏ
rực. Mầu đỏ cứ mỗi lúc một thêm đậm mầu và in trên nền trời một vùng sáng lung
linh, chập chờn. Cái hình ảnh đó mỗi lúc một thêm rõ theo thời gian tàn úa của
một ngày dài dằng dặc.
Đến khi màn đêm xuống hẳn thì bầu trời lại bắt đầu xuất hiện
chùm hoả châu cháy sáng rực. Những chùm hoả châu chẳng mang vẻ nên thơ như những
đốm mắt đêm dài hay đại hội hoa đăng ngày cưới mà chỉ làm tăng thêm vẻ nặng nề,
nghiêm trọng của trận đánh đang ở vào thời kỳ gay go quyết liệt.
Hoành tiến vào chợ quận trong một bầu không khí đầy vẻ nhộn
nhịp. Gần như tất cả mọi người đều đổ ra đường cái. Dưới cặp mắt tò mò của dân
chúng địa phương, đoàn người tị nạn vẫn lũ lượt gồng gánh, bế bồng nhau đổ về
khu tạm lánh cư. Nhiều gia đình xé lẻ đóng đô ngay ở bên vệ đường. Những mái lều
dựng vội giăng mắc ở trên các gốc cây. Chiếu trải la liệt ngay trên nệm cỏ, những
đứa bé khóc ngằn ngặt trong những cái đùm vải được trương lên làm thành từng
cái võng đu đưa.
Người tài xế thả Hoành xuống ở một đầu đường. Chiếc xe ngừng
lại trong một phút rồi lao đi. Hoành như còn nghe rõ mồn một tiếng rên rỉ của
người lính bị thương đòi xin một ngụm nước, đòi gặp mẹ và chị, hay quát tháo ai
đó trong cơn mơ. Tâm trạng của Hoành lúc đó cũng hoang mang như người đang sống
trong cơn mơ. Gã có cảm giác như mình không liên hệ gì đến đám đông ồn ào trước
mặt. Gã nhìn thấy rõ khoảng thời gian trống trải sắp tới. Gã không thấy cần thiết
phải làm gì cho cuộc sống cô độc của mình. Gã không có gì phải lo toan. Không
có ai để mà săn sóc. Không có cả ước mơ để mà nuôi nấng hy vọng thực hiện. Những
ý nghĩ ấy làm gã mệt mỏi vô cùng. Gã ngồi phệt xuống một nệm cỏ. Một vài người
hối hả đi qua suýt nữa thì bước lên cả đầu của gã. Một người bồng trên vai đứa
con nhỏ đang ngủ vùi. Một người cõng cha già xốc xếch ngồi trên lưng. Một người
khác ì ạch khiêng đi cả một cái tay nải đựng đủ thứ đồ lề lủng củng. Họ vất vả.
Họ cực nhọc. Họ khốn khổ. Nhưng ít ra họ cũng còn những liên hệ thân yêu để mà
có thể xả thân cho những liên hệ đó. Riêng Hoành thì chẳng có một bổn phận nào
để ràng buộc. Gã bắt đầu hối tiếc là không cương quyết lựa chọn con đường mà
lão Bẩy đã đi theo. Bây giờ hẳn lão đang ẩn náu ở một chỗ nào đó nơi quê nhà
yêu dấu. Lão sẽ được chứng kiến từng phút những diễn biến xẩy ra trên phần đất
thân yêu. Lão được ôm cả quê hương trong vòng tay của mình cho đến lúc chết. Đó
là ước mơ của lão từ bao nhiêu năm nay. Và quả nhiên lão đã thực hiện được.
Điều đó thật là hiếm hoi, bởi vì trong cuộc chiến tranh thảm
khốc, kéo dài triền miên này, mấy ai có thể thực hiện được mơ ước của mình.
Ngay cả đến những mơ ước nhỏ bé nhất, tầm thường nhất của những đứa nhỏ không
may phải sinh ra ở phần đất hẩm hiu này cũng mãi mãi chỉ là những ước mơ rực rỡ
trong trí tưởng tượng phong phú của tuổi trẻ hồn nhiên. Như một ngày đầu tháng
trước, má của Thu nhận được giấy của chị Thanh ở trên Tỉnh gởi về. Chị Thanh là
chị ruột của Thu, chị lấy chồng hồi bốn năm trước và theo chồng lên Tỉnh làm
ăn. Đã lâu lắm, chị ấy chưa trở về. Năm nay chồng chị nhập ngũ và anh ấy phải
hành quân ở xa, nên chị thu xếp về quê thăm nhà một kỳ. Trong thư chị Thanh hẹn
sẽ mang cho Thu thật nhiều quà, bánh, kẹo, đồ chơi và đặc biệt nhất là một con
búp bê thật đẹp nhắm mắt, mở mắt được. Thu đem cái tin trọng đại đó ra báo cho
Hương biết. Cả hai đứa mừng rú và hết lòng mong mỏi thời gian trôi qua thật
nhanh để được làm bạn với nhân vật mới. Con búp-bê tuy cả hai cùng chưa nhìn thấy
mà cũng đã tranh nhau hoạch định một chương trình tiếp đón trọng thể. Đầu tiên
là Thu dự tính đặt cho búp bê một cái tên thật đẹp. Riêng về điểm này hai đứa
đã cãi nhau ỏm tỏi rồi. Mải về sau, Thu mới chợt nhớ đến câu chuyện cổ tích mà
cô giáo kể hồi năm ngoái nên nó đề nghị chọn cho búp-bê cái tên “Hằng-Nga”.
Hương đồng ý với bạn về hai tiếng xinh đẹp đó. Thế là Hằng-Nga sẽ được nằm
trong một cái hộp bằng sắt, trước là thùng đạn đại liên mà ba Thu xin về làm
thùng chứa kềm, búa, lưỡi bào và đinh ốc. Nay ba Thu đem tặng con gái để nó làm
chiếc nôi xinh xắn cho nàng Công Chúa ngủ trong rừng. Ông còn cẩn thận sơn lại
cho Thu cái vỏ ngoài. Như thế Hằng-Nga đã có một chiếc nôi màu xanh, có đệm màu
đỏ và chiếc gối là cả một công trình thêu may của hai đứa. Cái gối to bằng hai
bao thuốc lá ở trong lót bằng bông gòn. Áo gối là một chiếc khăn tay được cắt
ra may lại. Chung quanh được viền bằng vải xanh lợt, ở chính giữa, Thu thêu một
con chim. Miệng con chim ngậm một giải lụa. Trên giải lụa có hai chữ “Hằng-Nga”.
Các mẫu thêu này hồi trước là của cô giáo đã dùng làm phần thưởng tặng Thu vào
kỳ thi thêu ở trong lớp học.
Công cuộc sửa soạn tiếp đón người đẹp lích kích cũng mất đến
hơn mười ngày. Nguồn hy vọng độc nhất của hai đứa trẻ bây giờ chỉ còn là mong
sao cho chóng tới ngày chị Thanh trở về. Nhiều hôm rỗi rãi, Thu thủ thỉ với bạn:
– Hôm qua tao nằm mơ thấy Hằng-Nga. Hằng-Nga của chị Thanh
cho thật là đẹp. Mái tóc mượt, gò mũi cao, cái miệng thật xinh có đánh môi son
đỏ chót. Hằng-Nga bận một chiếc áo đầm có thắt nơ ở ngực. Cái nơ đã thêu chỉ hồng
lại còn giát kim tuyến nữa.
– Hằng-Nga lớn cỡ chừng bao nhiêu?
– Nằm vừa cái gối mà chúng mình đã thêu. Ui cha! Lúc Hằng-Nga
ngủ, mắt Hằng-Nga nhắm nghiền, hai bên lông mi dài bằng mấy mi mắt của Hương
đó.
Hương mừng rỡ:
– Thiệt không, Thu?
– Thiệt chớ! Rồi coi. Chị Thanh đã viết rõ trong thư rồi mà.
Chị ấy sẽ mua búp-bê thứ đẹp nhất, xinh nhất, mắc nhất.
Hương sung sướng chắp tay lên ngực, hai mắt của nó nhắm lại.
Nó nói:
– Lạy trời cho chị Thanh chóng về.
Sự mơ ước của Hương đã không được thể hiện. Chị Thanh không về,
không thể về, mà ngược lại, tất cả đã phải ra đi.
Khập khiễng trong đám người khốn khổ đó, Hương cố gắng lê bước
một cách khó nhọc với cái nạng của mình. Lớp da tì mãi vào thành nạng mặc dù có
vải độn cũng làm cho nó rát bỏng và dộp lên. Tuy vậy Hương vẫn cố gắng xách
theo mình chiếc hộp sắt đựng đạn đại liên. Nói đúng hơn, đó là chiếc nôi của
Công chúa Hằng-Nga. Vị Công chúa xui xẻo nhất trong các chuyện truyền kỳ đã
không thể đến đúng hẹn với những người bạn bé nhỏ ở phương xa.
Bây giờ nơi hẹn đã chìm trong lửa đỏ và tất cả mọi người đã
phải tập trung về chốn này.
Lúc Hoành đứng dậy thì tiếng xôn xao, ầm ĩ đã dần dần lắng dịu.
Mọi người đã sắp sẵn cho mình một chỗ trú chân. Có người nằm dưới lều vải. Có
người chui vào nóp cói. Cũng có người ngủ ngồi ngay dưới gốc cây hay tường gạch.
Tiếng trẻ khóc cũng đã vơi dần. Bầu không khí êm lặng ấy như càng làm tăng thêm
những chấn động ì ầm ở mặt trận phía xa. Lửa đỏ cháy mỗi lúc một thêm sáng rực.
Những chùm hoả châu không ngớt bắn lên soi sáng bầu trời. Tiếng động cơ nặng nề
của những chiếc máy bay không ngớt làm xao động lớp sương đêm mỏng mảnh, đem lại
cho mọi người cảm giác gây gây lạnh qua cơn gió rì rào.
Hoành lầm lũi bước trong bóng tối. Con đường lổn nhổn đất và
sỏi đưa gã tới một khoảng đất trống, ở đấy mọc lên những mái lều san sát như
bát úp. Từng ánh lửa đỏ đòng đọc toả ra từ những bếp lửa, những ngọn đèn bão
hay những ngọn nến leo lét của đồng bào tị nạn. Mọi người ở đây như còn luyến
lưu với chốn quê hương mà họ vừa rứt ruột phải rời bỏ. Tất cả đều chen lấn rút
lên một cái gò cao. Ở trên đó, cả trăm con người đều như biến thành hàng trăm
cây cột gỗ vô tri trồng lủa tủa trên nền cỏ khô úa. Tất cả đều hướng về phía
quê nhà đang cháy đỏ. Và tất cả đều im lặng đến độ như đều cùng nghe thấy được
tiếng tre nứa nổ lép bép trong lửa đỏ, tiếng tường vôi nứt nở trong cơn nóng
thiêu đốt, và cả tiếng chuyển mình đớn đau của mạch đất khô cằn.
Trong đám người tị nạn đó, Hoành tìm đến chống nạng đứng cạnh
Hương và Thu.
Hương được bồng lên ngồi ở trên mũi một chiếc xe vận tải nhà
binh. Thu đứng kế bên, trên một cái thùng gỗ. Những cặp mắt vẫn đăm đăm hướng về
phía có quầng mây đỏ úa.
Hương nghĩ đến ông Bẩy Thà và đôi nạng gỗ của ông có khắc những
cành hoa và cánh chim. Đôi nạng mà không bao giờ Hương được xử dụng, cũng như
không bao Hương được ngỏ lời cám ơn về công trình quí giá ấy của ông. Nước mắt
của Hương bỗng chẩy xuống ràn rụa. Nó quay lại ngó sang phía bác Hoành và chị
Thu.
Cả hai người ấy cũng đang đầm đìa nước mắt.
Sài Gòn, 12/1969
Nhật Tiến
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét