Thuở mơ làm văn sĩ
Lời nhà xuất bản
Qua năm Quý Tỵ, dương lịch là 2013, nhà xuất bản Huyền Trân
có chương trình tái bản tác phẩm của nhà văn Nhật Tiến.
|
Dĩ nhiên không phải là in lại tất cả, nhưng trong giai đoạn
khởi đầu, chúng tôi sẽ chọn lựa những cuốn được độc giả ngày xưa rất yêu thích
mà nay cũng đã tuyệt bản trên thị trường, như những cuốn Những Người ÁoTrắng,
Mây Hoàng Hôn, Chuyện Bé Phượng, Tay Ngọc…
Theo nhà biên khảo văn học Nguyễn Vy Khanh thì tạp chí Hành
Trình (do Giáo sư Nguyễn văn Trung chủ trương) năm 1964 đã làm một cuộc
"Trưng cầu ý kiến bạn đọc về những tác phẩm văn học được nhiều người ưa
thích nhất trong khoảng 10 năm trở lại đây (1954-1964)". Cuộc trưng cầu ý
kiến này, tờ Hành trình dự tính sẽ đăng trong số đặc biệt “Nhìn lại 10 năm văn
học miền Nam”, nhưng chưa kịp ra thì báo ngưng xuất bản.
Giáo sư Nguyễn Văn Trung mới đây thu thập những bài chưa in,
cả những thư viết tay lập thành một Hồ Sơ Về Tạp Chí "Hành Trình",
trong đó ông công bố danh sách các tác phẩm được ưa thích nhất. Về tiểu thuyết
có 21 tác phẩm thì Nhật Tiến đã có 4 tác phẩm được chọn, 2 được xếp hàng đầu là
Mây Hoàng Hôn và Thềm Hoang, tiểu thuyết kịch Người Kéo Màn hạng 7, và Những
Người Áo Trắng thứ 11. Tưởng cũng cần nói ở đây là độc-giả của tạp chí Hành
Trình phần lớn là sinh viên và trí thức miền Nam lúc bấy giờ!
(Một Thời Như Thế, tức Hành Trình Chữ Nghĩa cuốn III-trang
235)
Ngoài những tác phẩm thuần túy văn nghệ kể trên, trong thời
gian làm chủ biên tờ tuần báo Thiếu Nhi, nhà văn Nhật Tiến cũng đã sáng tác một
số tác phẩm dành cho tuổi trẻ, như cuốn Tiểu thuyết-Hồi ký “Thuở Mơ Làm Văn Sĩ”
được đăng từng kỳ trên báo, sau in thành sách (1973), hay những cuốn chỉ in
thành sách như Lá Chúc Thư, Đường lên Núi Thiên Mã. Đây là những cuốn tiểu thuyết
có tính cách phiêu lưu do tác giả viết cho cho lứa tuổi thiếu nhi. Qua diễn biến
của câu chuyện, tác giả đã du nhập một cách linh động những kiến thức khoa học
phổ thông để dẫn giải các sự kiện xẩy ra trong đời sống các nhân vật.
Ở đây, những phương pháp suy luận theo tinh thần khoa học, những
áp dụng mới mẻ trong lãnh vực điều tra, như nghệ thuật theo dõi kẻ gian, kỹ thuật
lấy dấu tay, kỹ thuật giảo nghiệm các tài liệu giả mạo, những áp dụng mới của
khoa học vào lãnh vực truy tầm, nghiên cứu…cùng các vấn đề phổ thông liên hệ đến
Sử Ký, Địa lý, Lịch sử Địa chất Việt Nam…Tất cả sẽ là những bài học vừa linh động
vừa giải trí vừa bổ ích.
Có thể nói, những loại truyện vừa kể đã từng làm say mê một số
rất đông độc giả, không chỉ thuộc lứa tuổi thiếu nhi mà ngay cả những độc giả
người lớn cũng rất hoan nghênh.
Nhà văn miền Bắc Trần Ngọc Tuấn sau năm 1975 đến từ Hà Nội,
đã cho biết, không kể đến lãnh vực văn học nghệ thuật thuần túy, thì cuốn Đường
Lên Núi Thiên Mã là cuốn đã làm ông say mê theo dõi nhất.
Chúng tôi tin tưởng rằng, tác phẩm này khi được tái bản cũng
vẫn sẽ được nhiều độc giả hoan nghênh.
Tuy nhiên, tác phẩm đầu tiên trong năm 2013 mà nhà Huyền Trân
tái bản chính là cuốn “Thuở Mơ Làm Văn Sĩ” mà quý độc giả đang cầm trên tay.
Nội dung tác phẩm sẽ tiết lộ rất nhiều kỷ niệm đáng ghi nhớ của
tác giả trong giai đoạn đầu đời, luôn ước muốn sau này sẽ trở thành Văn Sĩ.
Tác giả đã khơi dựng trở lại khung trời Hà Nội vào những năm
cuối thập niên 40 và đầu thập niên 50 của thế kỷ trước. Những cậu trò của thời
buổi đó đi vào con đường văn nghệ, báo chí ra sao, sinh hoạt Bút Nhóm thời ấy
thế nào, và những tên tuổi rất quen thuộc trong lãnh vực văn chương chữ nghĩa
vào thời kỳ ấy gắn bó thế nào với tuổi trẻ….tất cả đều đã được ghi lại rất hào
hứng, rất linh động qua những sinh hoạt mà chính tác giả đã từng trải qua.
Có thể nói, “Thuở Mơ Làm Văn Sĩ” là một tiểu thuyết hồi ký vừa
có tính cách giải trí nhẹ nhàng, vui nhộn nhưng cũng lại chất chứa rất nhiều
hình ảnh sinh hoạt của một thời đã qua, có lẽ không bao giờ còn trở lại.
Xin mời độc giả thưởng lãm.
California ngày 10-1- 2013
MICHAEL BUI
Giám Đốc
Nhà xuất bản Huyền Trân
Lời Người Viết
(thay cho lời tựa bản in lần thứ nhất, tháng 6-1973 tại sài
gòn)
Hồi ký là một thể văn ghi lại những sự kiện đã xẩy ra trong
quá khứ của người viết.
Những người viết hồi ký thường thường là những nhân vật có
liên hệ mật thiết đến một giai đoạn lịch sử của dân tộc, hoặc họ đã tham dự, hoặc
họ đã có ảnh hưởng đến một biến cố chung xẩy ra trong quá khứ. Đọc quá khứ của
họ, có thể những dữ kiện lịch sử được làm cho sáng tỏ hơn, những tình tiết xẩy
ra trong một biến cố chung sẽ được phơi bầy, và như vậy, một tác phẩm hồi ký có
thể sẽ giúp ích rất nhiều cho các nhà khảo cứu về Lịch Sử, Địa Lý, Văn Học,
Khoa học Nhân Văn hay Khoa học thuần túy..v…v….
Trong phạm vi của loạt bài nhỏ bé này, và nhất là trong cương
vị khiêm nhường của người viết, tôi không có cao vọng viết một hồi ký. Lý do dễ
hiểu là tôi không thuộc về bất cứ một loại nhân vật danh tiếng nào có ảnh hưởng
mật thiết đến một giai đoạn nào trong quá khứ.
Viết loạt bài này, tôi chỉ có một ước vọng nhỏ bé là nhắm vào
các độc giả tý hon của tuần báo Thiếu Nhi đang phát hành, những độc giả vốn đầy
nhiệt thành và thiện chí mong ước trở thành những bàn tay tiếp nối công trình
xây dựng văn hóa của những đàn anh đi trước.
Nhân dịp trông nom tòa soạn tuần báo Thiếu Nhi, qua những bài
vở, thư từ gửi về tòa soạn trong suốt một năm, tôi đã nhìn thấy những mạch nhựa
căng phồng đang chuyển mình mạnh mẽ để sửa soạn cho một giai đoạn nẩy hoa, kết
trái trong tương lai gần gũi. Tuổi các em là là tuổi nhiều mơ ước. Tâm hồn của
các em là tâm hồn trong sáng, nhiệt thành và rất giầu thiện chí. Rất tiếc là
trong sinh hoạt văn chương hiện nay (thời điểm năm 1972), ngoại trừ các bài
giáo khoa giảng dạy cho các em ở nhà trường, các em không còn một môi trường
nào khác để hướng dẫn và dìu dắt một cách chặt chẽ để tài năng của các em có cơ
hội phát triển mạnh mẽ và mau chóng.
Một bài văn các em gửi đi, nếu không đăng được, các em không
hiểu vì lý do gì. Một tác phẩm khác được đăng lên, các em không thấy hết được vẻ
hay của chính mình. Các em lại rất nồng nhiệt tham gia các sinh hoạt bút nhóm,
các thi văn đoàn, các nhóm viết nhỏ mà hiện nay có thể tính được hàng ngàn rải
rác trên toàn quốc. Nhưng sinh hoạt bút nhóm của các em cũng không phát triển
được đúng mức vì thiếu hướng dẫn và dìu dắt. Mạch nhựa dồi dào sức sống vì
nguyên do đó cứ chuyển vận quanh quẩn trong thớ gỗ mà ít có cơ hội trổ hoa, kết
trái. Đó là một sự thiệt thòi đáng tiếc của truyền thống tiếp nối văn hóa trong
liên tục lịch sử. Đành rằng trong quá khứ, thuở ban đầu của các bậc anh đi trước
cũng không có điều kiện phát triển hơn gì của các em hiện tại. Họ đã mầy mó
trong kiên nhẫn và thiện chí như một con tằm âm thầm tìm cách cắn kén chui ra.
Có người đã thành công, nhưng cũng có người đã thất bại, bỏ cuộc nửa chừng.
Ước vọng của tôi là mong góp phần dù rất nhỏ bé vào công việc
gửi đến các em những kinh nghiệm của người đi trước, những điều các em nên
tránh, những việc mà các nên làm, với hy vọng các em có thể trau giồi được dễ
dàng hơn khả năng sáng tạo của mình, ngoài thiện chí mầy mò một mình trong nỗ lực
cô đơn.
Đáng lẽ những dữ kiện phải được trình bày dưới hình một tác
phẩm biên khảo tương tự như tác phẩm "Viết và Đọc Tiểu Thuyết" của cố
văn hào Nhất Linh đã làm (dưới một tầm mức đơn giản hơn và cho một đối tượng giới
hạn hơn). Nhưng để phù hợp với đường lối linh động của tờ báo, tôi phải trình
bày dưới hình thức một Tiểu Thuyết Hồi Ký, dẫu sao đối với các em nó sẽ trở nên
bớt khô khan, buồn nản hơn.
Đặt chữ Tiểu Thuyết bên cạnh chữ Hồi Ký là một dụng ý cần thiết.
Điều đó chứng tỏ các em không cần đối chiếu những sự kiện có thực đã xẩy ra
trong quá khứ của người viết. Cái quá khứ ấy đã được tiểu thuyết hóa đi để tăng
phần linh động và giảm phần nhàm chán vì bắt độc giả cứ phải nghe quá nhiều về
một cái tôi bình thường của một cá nhân bình thường trong tập thể.
Vấn đề chính yếu là các em sẽ tìm thấy ở đây nhiều dữ kiện.
Những dữ kiện rất gần gũi với các em, những dữ kiện có nhiều lợi ích thiết thực
cho vấn đề sáng tác mà các em đang theo đuổi.
Bởi lý do rất dễ hiểu là nhân vật xưng tôi trong tác phẩm
này, cũng như các em, tất cả đều đã gặp nhau ở một thuở có nhiều ước mơ vốn đầy
thiết tha và dồi dào cảm hứng, đó là Thưở Mơ Làm Văn Sĩ…
Nhật Tiến
Sài Gòn tháng 7 năm 1972
Đã do nhà xuất bản Huyền Trân ấn hành
lần đầu vào tháng 6 năm 1973,
với giấy phép số 1905 PTUDV/PHBCNT/KSALP
ngày 4-6-1973
CHƯƠNG I
(thay cho lời tựa bản in lần thứ nhất, tháng 6-1973 tại sài
gòn)
Cuối mùa hè năm 194….tôi xin được vào học lớp Nhất ở trường
Hàng Vôi - Hà Nội, ngôi trường xinh xắn có sân chơi, có cây cối um tùm và dẫy lầu
cao mà đứng ở cửa sổ tầng trên nhìn ra, tôi thấy được cả cây cầu Long Biên vắt
ngang một giải sông Hồng bát ngát.
Lớp của tôi là Lớp Nhất B, phòng cuối cùng của dẫy hành lang
trên lầu. Thầy dạy tôi là thầy giáo Huỳnh, một ông thầy nghiêm nghị, tận tâm, đối
với chúng tôi thì lạnh lùng ở bề ngoài nhưng rất lo lắng cho chúng tôi ở bề
trong. Tôi sợ thầy Huỳnh lắm. Đứng trước mặt ông, tôi không dám cử động mạnh,
không dám nhìn thẳng vào mặt ông và giọng nói của tôi trở nên ấp úng, mất bình
thường. Đối với thầy thì tôi như vậy, nhưng ngược lại, đối với tôi, thầy cũng
ngán tôi hầu như suốt cả niên học. Nguyên do là trong một ngày thuộc tuần lễ thứ
ba của niên học, thầy ra một đề bài cho học trò tập vẽ truyền chân. Đề tài là vẽ
tấm lịch treo tường có chân dung của Hoàng Đế Bảo Đại (khi đó đã hồi loan). Thời
hạn một tuần.
Khỏi phải nói dông dài, là trong suốt tuần lễ đó tôi đã mất
ăn mất ngủ thế nào về bài làm này. Bài khó chi lạ. Vẽ lịch thì dễ, nhưng trên lịch
lại có chân dung Hoàng Đế thì thật là cả một vấn đề nan giải. Tôi đã chịu khó
đi mượn được ba, bốn kiểu hình. Có hình chụp Hoàng Đế bận áo bào vàng, đầu chít
khăn. Có hình chụp Hoàng Đế chải đầu láng mướt, bận đồ tây, thắt cà-vạt. Lại có
bức hình chụp Hoàng Đế đứng trên xe hơi bóng loáng giơ tay vẫy vẫy mọi người,
chụp trong dịp ngài ra mắt đồng bào Thủ đô mà báo chí đăng tin rầm rộ là “
Hoàng đế hồi loan”.
Ngần ấy hình, ngần ấy kiểu, tôi đã hì hục làm việc, hết tẩy lại
xóa, tẩy xóa đến rách giấy thì xé vở soàn soạt, mà cuối cùng bổn phận của tôi vẫn
chẳng chu toàn. Cuốn lịch thì đã có hình thức rõ ràng, nhưng Hoàng Đế trên lịch
thì vẫn còn tèm lem những chỗ tẩy xóa chưa hoàn tất. Một "tác phẩm"
như thế sao gọi được là vẽ "truyền chân", ấy là chưa kể tới cái tội
"khi quân" bôi bác Hoàng Đế nữa. Ấm ớ có khi rũ tù. Tôi cứ bấm bụng
luôn than thầm sao thầy Huỳnh lại đi cho cái đề bài tập sao mà "ác"
thế!! Tới hôm nộp bài, tôi lo sợ phập phồng cứ như tử tội chờ đợi ngày xét xử.
Quả nhiên thầy Huỳnh "túm" lên bảng cả thẩy tám đứa,
trong đó dĩ nhiên có cả tôi. Đó là những đứa không nộp bài. Thầy hạ lệnh đánh
phủ đầu mỗi đứa ba gậy. Vâng, ba gậy chứ chẳng phải ba roi. Gậy đây là cái thước
gỗ to, dài, dầy ba, bốn phân mà thầy vẫn dùng để kẻ những dòng trên bảng đen
khi có bài tập viết. Nó làm bằng gỗ, thứ gỗ chắc nịch, rất nhiều gân, nhiều thớ
nhưng lâu ngày nó đã phủ đầy bên ngoài bằng những lớp bụi phấn trắng. Cái
"hình cụ" này mà phệt vào mông thì ôi thôi, cứ chỉ nghĩ tới cũng đủ rùng
mình sởn gáy lên rồi.
Ấy vậy mà mấy đứa bạn của tôi chịu hẳn ba gậy của thầy mà mặt
cứ nhơn nhơn. Có đứa lại còn cười ngỏn ngoẻn lúc đi về chỗ ra cái điều “ có
quái gì đâu!”, mặc dù tôi biết cu cậu cười là chỉ để chữa thẹn cho cái tội
không nộp bài đó thôi. Riêng phần tôi, ở gậy thứ nhất, mồ hôi lạnh đã đổ ra ướt
đẫm cả trán và lưng áo. Đến gậy thứ hai thì lớp học của tôi trở nên chòng chành
như thuyền đi trên sóng, và thầy chưa kịp thi hành nốt gậy thứ ba thì tôi đã
khuỵu ngay xuống nền gạch. Cả lớp chợt nháo lên. Thầy Huỳnh cũng xanh mặt. Thầy
hạ lệnh bế tôi nằm lên ghế dài, tìm dầu Con Hổ xức lia lên trán, lên cổ, vào
lưng, vào bụng rồi cả hai bàn chân nữa. Mười phút sau tôi mới tỉnh lại. Thầy
ngán ngẩm nhìn tôi không nói, rồi thầy tống tôi về chỗ ngồi và tha cho hình phạt
chưa thi hành hết, lại tha luôn cả con trứng vịt to và tròn đã nằm gọn ngon ơ
trong sổ điểm.
Kể từ hôm đó, thầy biết rõ tôi là một con sên thuộc bầy quỷ sứ
trong lớp của thầy. Thầy vẫn tiếp tục khện các cu cậu kia bằng những cái thước
kẻ bảng đau quắn mông, còn với tôi thì thầy chỉ trị bằng những cái nhìn dữ dội,
những cái xoắn tai đổ mồ hôi hột hay những con zéro ghi bằng mực đỏ lòm trong sổ
điểm. Nhưng cho dù thế nào thì cũng đỡ hơn nhiều so với bản án "ba gậy"
dành cho mấy đứa.
Ngồi cạnh tôi là anh bạn tên Hòa. Hắn lớn hơn tôi một tuổi
nhưng tầm vóc thì phải lớn hơn đến gấp rưỡi. Tôi với Hòa thân với nhau ngay từ
mấy ngày đầu. Và càng chơi với nhau lâu, chúng tôi càng khám phá ra rằng hai đứa
rất giống nhau về sở thích. Giờ ra chơi, tôi với Hòa không chạy nhẩy mà chỉ kéo
nhau ra gốc bàng ngồi tán chuyện ….tiểu thuyết!
Phải nói rằng vào thời kỳ đó, tôi cũng như Hòa đã ngốn vào đầu
biết bao nhiêu là thứ truyện tả pí lù. Về kiếm hiệp thì có Bồng Lai Hiệp Khách,
Côn Lôn Kiệp Khách, Thiên Thai Lão Hiệp, Độc Nhỡn Kiếm, Ngày Xuân của La Bích
Vân…về loại phiêu lưu giải trí thì có Dao Bay, Đoan Hùng, Lệ Hằng, Người Nhạn
Trắng...Còn tiểu thuyết đúng nghĩa thì hầu như chúng tôi thuê đọc hầu hết tác
phẩm của Nguyên Hồng, Trần Tiêu, Nguyễn đình Lạp là những tác giả viết loại tiểu
thuyết xã hội, hay của Thế Lữ với loạt truyện trinh thám quanh nhân vật Lê
Phong như Lê Phong Phóng Viên, Mai Hương và Lê Phong, Gói Thuốc Lá, hay Phạm
Cao Củng với nhà thám tử lừng danh Kỳ Phát trong những truyện như Vết tay trên
trần, Bàn tay sáu ngón, Đám Cưới Kỳ Phát, Kỳ Phát giết người..v..v…
Nhưng phải kể là tôi mê nhất truyện của Lê văn Trương với triết
lý người hùng rất thích hợp với máu anh hùng và tinh thần hướng thượng của tuổi
trẻ. Những tác phẩm của Lê văn Trương mà tôi còn ghi nhớ là những cuốn Trường Đời,
Tôi là Mẹ, Người Anh Cả, Hai đứa trẻ mồ côi, Thằng Còm, Anh em thằng Việt, Thằng
Việt Nghỉ Hè..v..v…Tuy nhiên cũng có truyện của Lê văn Trương tôi đọc nửa cùng
thì phải bỏ giở, không thích vì tánh cách tàn nhẫn của câu truyện, đó là cuốn
Những Đồng Tiền Xiết Máu. Thì ra khả năng thổi phồng cá tính “anh hùng” “hướng
thượng” của ông nếu đem áp dụng vào việc “diễn tả tội ác” thì điều này sẽ lại
nhân cái tính tàn bạo lên gấp bội, và đấy là lý do mà tôi không thích cuốn này.
Dạo ấy ở Hà Nội có một nhà xuất bản lấy tên là Văn Hồng Thịnh,
chuyên in đủ thứ truyện Tầu. Mỗi truyện lại không in nguyên cả cuốn mà chỉ ra từng
số, mỗi số 32 trang khổ trang giấy sách, truyện, cứ vài ba ngày lại ra số kế tiếp,
bán với giá mỗi số 1 đồng, rất phù hợp với túi tiền của bọn trẻ.
Chúng tôi là độc giả trung thành của loại sách này. Thôi thì
đủ loại tựa đề, như Tam Quốc Chí, Thất Quốc Chí, Chiêu Quân Cống Hồ, La Thông Tảo
Bắc..v…v.. Và có thể nói, không có ai thông thạo tình hình phát hành của nhà xuất
bản này bằng chúng tôi. Ngay trước cửa nhà in, người ta dựng lên một tấm bảng
đen lớn, ghi tên đủ các thứ truyện, truyện nào ra đến số mấy, số mấy thì ghi bằng
phấn trắng cho mọi người được rõ. Chúng tôi đã theo dõi tấm bảng này sát nút, cứ
như những nhà doanh nghiệp chuyên môn theo dõi tin tức, giá cả trên thị trường.
Thật không còn gì thú vị cho bằng đọc Thủy Hử đến đoạn Võ
Tòng đả hổ hấp dẫn, mê ly, chờ ra số mới cứ như chờ mẹ về chợ, đến lúc cô bán
hàng đi ra tấm bảng, xóa cái số cũ, đề số mới vô, thế là thế nào chúng tôi cũng
phải là những người khách đầu tiên. Tôi mua Thủy Hử thì Hòa mua Tây Du. Tôi mua
Thuyết Đường thì Hòa mua La Thông Tảo Bắc. Tôi mua Máu Đỏ Lòng Son của Phượng
Trì, một bút hiệu khác của Phạm Cao Củng thì Hòa mua Đêm Hội Long Trì của Nguyễn
Huy Tưởng v..v..…Cứ mỗi lần mua được số mới, tôi hay đi dọc suốt con phố hàng
Bông qua hàng Gai để ra Bờ Hồ trên đường tới trường học, một tay ôm cặp, một
tay cầm số mới ra, vừa đi vừa đọc. Nhiều hôm mải đọc, cả tôi cũng như Hòa, đều
hay bị củng đầu vô cột điện, đau như trời giáng, trán sưng u lên, tím bầm bầm, ấy
vậy mà vẫn không chừa cái tật vừa đi vừa đọc truyện ở ngay giữa hè phố.
Về phần tôi, chẳng những tôi mê mẩn vì lý do câu chuyện hấp dẫn
lý thú mà còn cả vì xấp giấy mới mua đầy mùi thơm quyến rũ nữa. Đó là mùi thơm
của giấy, của mực in với những hàng chữ sắc nét, tinh xảo lấp lánh ánh mực nổi
lên trên trang giấy nom tươi thắm như hoa. Tôi đã từng hít cái mùi thơm của giấy
mực ấy thật lâu, với tất cả sự rung động xao xuyến khó giải nghĩa. Rồi từ sự
quyến rũ ấy, tôi sinh ra cái thói quen là hay đứng ở các tiệm sách để dán mũi
vào tủ kính của các hiệu sách để ngắm không chán mắt những sách mới in ra, được
bầy trên những cái kệ nhỏ mà chung quanh thì toàn những thứ văn phòng phẩm mới
tinh hấp dẫn khác như thước kẻ, com-pas, hộp bút chì mầu, hộp ngòi bút rông, hộp
ngòi bút Mallat, tập vở, giấy mầu làm thủ công..v.v.
Tuy nhiên những thứ ấy không thể nào hấp dẫn bằng các cuốn
sách mới ra. Nào là 380 Bài Tính Đố của ông Nguyễn Vạn Tòng, nào cuốn Vật Lý lớp
Đệ Tam của ông Phan Thế Roanh, hoặc về tiểu thuyết thì những cuốn như Quán Gió,
Cầu Sương của Ngọc Giao, Hồi Chuông Thiên Mụ của Phan Trần Chúc, Răng Đen Ai
Nhuộm Cho Mình của Hà Bỉnh Trung, Bến Nước Ngũ Bồ, Trại Tân Bồi của Hoàng Công
Khanh, Gái Hà Nội, Nước mắt đêm mưa của Nguyễn Minh Lang, Vượt Cạn của Mộng
Sơn, Trên Vỉa Hè Hà Nội của Triều Đẩu, Kẽm Trống của Trúc Sỹ...v.v…cuốn nào cuốn
nấy có những cái bìa đầy mầu sắc quyến rũ, đến nỗi chúng tôi chỉ cần nhìn hình
bìa sách hay bìa bản nhạc là biết ai minh họa để rồi bàn tán xôn xao, so họa sĩ
này với họa sĩ kia, bởi chỉ cần nhìn nét vẽ là chúng tôi có thể phân biệt được
họa sĩ Lê Trung hay họa sĩ Mạnh Quỳnh, Hoàng Lập Ngôn hay Tạ Tỵ, Duy Liêm hay
Phi Hùng, Mai Lân hay Thy Thy Tống Ngọc...v..v…Thế giới tưởng tượng của chúng
tôi vì thế mà cũng tràn đầy mầu sắc và chan hòa cả âm thanh của những bản nhạc
hùng như Khỏe Vì Nước, Anh hùng xưa, Bạch Đằng Giang, Ải Chi Lăng, Gò Đống Đa,
Nhà Việt Nam..v.v...
Về mặt sách báo, tôi luôn thầm ước ao sau này mình cũng sẽ được
là tác giả của một trong những cuốn sách còn thơm mùi mực mới. Có lần tôi hỏi
Hòa:
- Sau này cậu có thích làm văn sĩ không?
Hòa đáp ngay:
- Thích mê đi chứ lỵ.
Cu cậu lại còn phát biểu thêm:
- Tớ sẽ viết toàn chuyện kiếm hiệp, ly kỳ hơn cả Bồng Lai hiệp
Khách với Kim Hồ Điệp nữa!
Tưởng cũng nên nhắc thêm rằng Kim Hồ Điệp là một nữ hiệp
khách lừng danh, cứ sau mỗi lần làm một công việc nghĩa hiệp thì nàng lại gài một
con Bướm mầu vàng trước khi bỏ đi để làm dấu tích, bởi Kim là vàng, Hồ Điệp tiếng
chữ nho là Con Bướm mà! Rồi “người theo bén gót” để hỗ trợ cho Kim Hồ Điệp là
chàng tráng sĩ Ngọc Kỳ Lân nữa. Cả hai tạo nên những tình tiết ly kỳ làm cho lũ
độc giả lau nhau như chúng tôi mê tơi, lắm khi tôi còn bỏ cả học để chui vào cầu
tiêu đọc lén cho nhà khỏi thấy nữa!
Cho nên nghe Hòa phát biểu, tôi không mấy ngạc nhiên. Bệnh kiếm
hiệp đã ăn sâu vào xương tủy của cu cậu rồi. Trong tập vở của hắn, tôi thấy hắn
vẽ đầy những tranh kiếm hiệp hầu hết là những trận đấu kiếm giữa hai hiệp sĩ,
mình mặc áo võ sinh, quần bó chẽn, đầu chít khăn, bên tai lại có gài một bông
hoa nữa mới đủ bộ. Nhiều khi hứng chí, Hòa còn cho hai người phun ra kiếm
quang, một bên thì phun ra ở mồm, một bên thì phóng ra từ mấy đầu ngón tay, nom
rất điệu nghệ! Như thế cũng được đi, vì dù viết thế nào mà có cứ sách in ra thì
cũng là văn sĩ rồi. Một văn sĩ kiếm hiệp, có sao đâu!
Riêng về phần tôi thì tuy không thích mấy việc viết truyện kiếm
hiệp, nhưng cũng chưa có một ý hướng nào rõ rệt trong đầu. Tôi thấy nếu phải chọn
lựa thì Lê văn Trương với Thằng Việt Nghỉ Hè, Người Anh Cả, Trường Đời, Tôi Là
Mẹ làm tôi thích thú hơn.
Tôi bàn với Hòa rằng muốn làm văn sĩ (dù là văn sĩ loại nào)
thì trước hết phải tập viết cái đã. Chứ không viết mà lại cứ mơ làm văn sĩ thì
có khác gì anh Lười ngồi ước ao lên Cung Quảng. Thế là tôi đưa ra một đề nghị
khá hay ho: hắn sẽ viết một truyện, tôi một truyện rồi hai bên trao đổi cho
nhau đọc.
Mắt Hòa sáng lên một cách khoái trá. Rõ ra là tôi đã gãi đúng
chỗ ngứa của hắn mà từ lâu hắn không nghĩ ra. Ừ! Đã vẽ la liệt hình đấu kiếm
trên khắp các trang vở thì tại sao lại không…viết nhỉ!! Thế là Hòa giơ cả hai
tay lên, bằng lòng gấp.
Thời hạn viết mới đầu Hòa đặt ra là một tuần. Tôi nói chỉ cần
ba ngày thôi! Nhưng khi đã thỏa thuận với nhau ba ngày rồi, mà chỉ mới tới buổi
học hôm sau là trong cặp của tôi cũng như của Hòa đã có sẵn sàng một truyện để
trao đổi rồi.
Truyện của tôi đầy 5 trang chữ nhỏ li ti, truyện của Hòa gần
10 trang, chữ lại còn nhỏ hơn nữa. Chắc cu cậu hẳn phải thức trắng đêm mất, chứ
về phần tôi thì đêm trước tôi đã phải thức đến gần hai giờ sáng, bỏ không học
bài Sử Ký, bỏ luôn hai bài toán mà thầy Huỳnh ra hôm trước.
Tác phẩm đầu tay của Hòa là một truyện có nhan đề "Tráng
sĩ Áo Xanh" (rõ ràng ảnh hưởng tên truyện "Tráng sĩ Áo Lam" tức
truyện Thạch Sanh đăng trong báo Phổ Thông Bán Nguyệt San mà cả hai đứa đã đọc).
Tuy nhiên về nội dung thì có khác. Hòa tả một tráng sĩ xông lên lên sào huyệt
giặc (?), một mình chống cự suốt đêm với chủ tướng và lũ lâu la, cuối cùng giặc
qui hàng, lại cứu thoát được một thiếu nữ con nhà quan, về sau hai người kết
duyên "tần tấn" (nguyên văn).
Còn truyện của tôi thì nhan đề "Chiếc Nhẫn Mặt Ngọc",
tả một thằng bé đi hốt rác, lượm được chiếc nhẫn mặt ngọc trong thùng rác liền
gõ cửa chủ nhà để trả lại (truyện này về sau tôi sửa lại cho thêm phần văn
chương, đem gửi nhật báo Giang Sơn của bác sĩ Hoàng Cơ Bình, được đăng không có
nhuận bút, nhưng đó là ngày "vinh quang tuyệt đỉnh", có nhiều chi tiết
đáng nói, xin để qua phần sau).
Đọc truyện của Hòa, tôi thấy chẳng có gì hay ho, nhưng vì cả
nể nên tôi không dám nói ra. Còn Hòa thì thực thà hơn, phê phán tác phẩm của
tôi huỵch toẹt:
- Chuyện của cậu viết là chuyện phịa. Làm gì có anh hốt rác
nào nhặt được cái nhẫn mà lại đem trả. Có họa nó đem ra tiệm mua bán vàng bạc
thì có.
Nghe xong, tôi bỗng thấy nóng mặt, hết cả nể nang, liền phản
pháo lại:
- Chuyện của cậu thì hơn gì! Còn phịa gấp mười của tôi nữa.
Giặc ở đâu ra? Tráng sĩ nào, ở đâu? Lại còn con quan nữa chứ! Đâu mà có thứ con
gái nhà quan lại nằm sẵn trong sào huyệt giặc để cho tráng sĩ của cậu cứu ra
đem về làm vợ!
Hòa cãi:
- Chuyện kiếm hiệp thì phải thế chứ. Ngày xưa khác, ngày nay
khác. Viết chuyện ngày xưa thì có quyền hoang đường, còn cậu chọn chuyện xã hội
ngày nay, viết hoang đường là phét lác! Thử hỏi trên đời này làm gì có anh hốt
rác nghèo rớt mùng tơi, nhặt được cái nhẫn mà đem trả lại. Thế chẳng hoang đường
thì là cái cóc gì?
Lý sự của Hòa làm tôi không cãi được, nhưng hắn sử dụng ngôn
ngữ “cạn tầu ráo máng” quá khiến tôi tức ứa gan đến độ muốn tuyệt giao ngay với
hắn. Nhưng nghĩ cho cùng, và cho tới ngay cả bây giờ, tôi thấy Hòa có lý: một
tác phẩm hay là một tác phẩm phản ảnh được đúng với thực tế. Mỗi nhân vật trong
truyện khi đưa ra, tự nó đã có sự sống trong cái hoàn cảnh mà người viết đưa
vào. Hoàn cảnh nào cũng có những chi tiết thực tế riêng của nó. Cho nên một
ngòi bút vững là một ngòi bút phải biết giới hạn cái tôi của mình và để cho
nhân vật sống theo đúng bản chất của nó. Bởi nếu không, sẽ xẩy ra cái hậu quả
là tác giả nói thay, làm thay những nhân vật trong truyện chứ không phải chính
những nhân vật đã nói, đã làm. Tìm ra được cái yếu tố này, tôi đã phải tự mầy
mò trong nhiều năm sáng tác về sau. Đúng như nhà văn Nhất Linh đã viết trong cuốn
"Viết và Đọc Tiểu thuyết" in năm 1961 như sau:
“ những việc xảy ra đều đúng sự thực. Tác giả không bao giờ uốn
nắn cuộc đời để lợi cho ý định của mình; tác giả chỉ biết tả đời sống thật còn
sự thực ấy nó tỏ rõ cái gì là việc về sau. ”
Và:
“ tác giả diễn tả bằng chi tiết chứ không bằng lời giảng giải.
Những việc xảy ra cả đến sự u ẩn của tâm hồn như những đoạn tả một người sắp chết,
một người con có ý giết bố, tả tình yêu đắm đuối v.v... tác giả không dùng lời
nói dài dòng mà chỉ dùng những chi tiết nho nhỏ để diễn tả. Chính "những
điều nho nhỏ, một nét mặt, một cử chỉ, một giọng nói, cho chúng ta biết rõ tâm
lý hơn; những cái mà ta thường coi là nhỏ nhặt vụn vặt hay mỉ, chính lại là những
cốt yếu của tiểu thuyết hay”
Rồi ông lại còn thú nhận:
"Sự lầm lẫn thứ nhất của tôi là lúc mới viết sách tôi chỉ
để ý đến các ý thích của riêng mình....
….Tôi đã đứng vào vị trí chủ quan, nghĩ là mình đứng làm chủ
mà nhận xét, chứ không đứng vào địa vị khách quan, nghĩa là mình biến thành một
người khách đứng ngoài nhìn vào bằng con mắt sáng suốt hơn, không bị cái yêu
cái ghét riêng làm cho thiên vị."
(Nhất Linh- Viết và đọc Tiểu Thuyết)
CHƯƠNG I (tt)
Theo quan niệm thông thường bây giờ, một tác phẩm văn chương
có nhiều tình tiết chưa hẳn đã là một tác phẩm hay. Nhất là những tình tiết đó
lại quá đặc biệt, quá éo le làm cho người đọc tưởng như thấy rõ có dấu vết bàn
tay xếp đặt của tác giả. Sự kiện đó dễ đem lại cho tác phẩm cái tính chất giả tạo.
Một người viết thông minh là một người biết khai thác cái hay trong những sự kiện
thật bình thường, biết phân biệt “chi tiết” với những “tình tiết ly kỳ”. Chi tiết
đem lại cho người đọc nhiều thông tin, nhiều cảm nghĩ, còn tình tiết ly kỳ thì
chỉ có tính chất hấp dẫn nhất thời nhưng thiếu giá trị trường cửu.
Trở lại chuyện xích mích giữa tôi và Hòa về tác phẩm đầu
tiên, khi đó tôi mới biết sự tự ái văn nghệ của con người ta to bằng cái đình.
Cái gì do mình viết ra thì cứ tưởng đã là tuyệt đỉnh đáng nhất trần đời, và sự
chủ quan nó làm che mờ cả sáng suốt, nên hễ ai đụng tới là sửng cồ lên muốn nhe
nanh múa vuốt với kẻ phê bình mình ngay rồi. Cũng vì cái tính tự ái văn nghệ
này mà bao nhiêu tình cảm tốt đẹp trong niên học giữa tôi và Hòa suýt nữa chỉ
vì sự chỉ trích lẫn nhau mà đi tiêu luôn.
Nhưng may mà tuổi trẻ lại hay chóng quên, hình như tôi với hắn
chỉ giận nhau đâu có mấy ngày. Sau đó mối liên lạc "văn chương" lại
ràng buộc hai đứa với nhau. Số là hôm đó trên tấm bảng đen của nhà xuất bản Văn
Hồng Thịnh lại ra "thông cáo" mới: Thất Quốc Chí đã ra số 17, còn La
Thông Tảo Bắc thì ra số 31.
Mọi ngày, tôi mua cuốn trên, Hòa mua cuốn dưới, xem xong thì
trao đổi. Bây giờ giận nhau, kẹt quá chừng! Giờ vào lớp, tôi đã muốn làm hòa lắm
rồi, nhưng còn đôi chút tự ái. Hòa hình như cũng vậy, và hắn ta lắm lúc ngập ngừng
tính nói ra nhưng rồi lại ngần ngại. Tôi bỗng nẩy ra sáng kiến đem trưng tập Thất
Quốc Chí lên mặt bàn. Hòa cũng rút ở hộc, đặt ra trước mặt cuốn Thất Quốc Chí.
Hai đứa nghênh nhau rồi chợt cùng nhoẻn miệng cười. Thế là huề nhau dễ ợt!
Buổi chiều lúc tan học, tôi và hắn cặp tay nhau đi ở ven Hồ
Gươm lại bàn chuyện sáng tác. Lần này chúng tôi ra thể lệ với nhau: Đọc tác phẩm
của nhau thì đọc, nhưng chỉ được viết nhận xét ra tờ giấy riêng để "tác giả"
đem về nhà đọc. Không chơi cái lối phê bình đốp chát ngay vào mặt nhau, dễ nộ
khí xung thiên lắm.
Thế là đêm hôm ấy tôi lại hì hục thức đêm để sáng tác truyện
mới. Lần này tôi mô tả một gia đình nghèo, có hai vợ chồng làm ăn vất vả để
nuôi một đứa con. Nhưng thời buổi khó khăn, cả hai cùng thất nghiệp nằm nhà. Cảnh
nheo nhóc đói khổ trở thành cơn đe dọa thường trực cho gia đình. Rồi khi bán hết
đồ dùng đến không còn gì để bán thì hai vợ chồng ngã bệnh. Vừa lúc đó có người
đến gọi người chồng đi làm phu hồ. Người chồng cố gượng dậy, đội mưa gió bão
bùng để ra đi. Kết cục anh ta chết trên đống gạch xây cất vì kiệt sức. Tác phẩm
của tôi dầy tới hơn 10 trang, chữ quều quào vì viết vội nhưng cũng đã xé mất
non nửa cuốn vở ghi bài Cách Trí dùng trong lớp học.
Ngày hôm sau, tôi háo hức trao đổi tác phẩm với Hòa. Cả hai đứa
bỏ cả giờ ra chơi để thưởng thức tài nghệ của nhau. Truyện của Hòa mang tên là
Hạ Sơn, tả một tráng sĩ hạ sơn sau mười năm luyện kiếm. Trước tiên, tráng sĩ về
thăm quê nhà, nhưng gia đình đã bị cướp (lại cướp!) phá tan nát từ một năm trước
đó. Tức giận, chàng xông thẳng lên sào huyệt đánh phá tơi bời, trả được thù nhà
rồi vác kiếm đi chu du khắp thiên hạ, chuyên làm việc nghĩa cứu người!
Cả hai đứa đều đọc xong lúc trống vào học, nhưng không một đứa
nào hé miệng để "hỏi thăm tình hình"! Một phần sợ đối phương nói thẳng
quá, mình không đủ bản lĩnh để gồng lên chịu trận. Một phần khác, luật lệ đã ra
rồi thì phải tôn trọng chứ! Thành ra suốt buổi tan học hôm đó, đi thơ thẩn ven
hồ Hoàn Kiếm, chúng tôi chỉ nói chuyện vu vơ mà tuyệt nhiên không ai dám đả động
gì đến chuyện sáng tác cả.
Mãi đến lúc chia tay, tôi mới dúi vào tay Hòa một mảnh giấy
nhận xét mà tôi đã viết lén ở trong lớp:
" Truyện làng nhàng, đề tài cũ rích, không biết thoát ra
khỏi cái vỏ kiếm hiệp thì không bao giờ khá được! Văn cũng xuôi xuôi, 3 điểm
trên 10".
Kể ra lời "phê" của tôi cũng ác thật. Nhưng hai đứa
đã ngoắc xẩu ngoắc xương rồi (tức ngoéo tay) là phải thành thực với nhau, không
thành thực thì không tiến bộ được. Và tôi đã thành thực với Hòa đến mức viết những
lời nhận xét như trên. Còn về phần Hòa, hắn cũng trao cho tôi một mảnh giấy còn
bé hơn mảnh tôi viết cho hắn nữa. Bên trong vỏn vẹn chỉ có một câu:
" Thuổng ý truyện Anh Phải Sống của Khái Hưng. Sổ toẹt!
Zéro trên 10".
Thật đúng là bằng hắn tát xiếc vào mặt tôi! Hắn lại dùng chữ
“thuổng” tức là hạ giá tôi xuống hàng đi “ ăn cắp văn”, như thế thì còn trời
cao đất dầy gì nữa hả trời.
Tôi nhớ lại là khi đó tôi đã chết đứng như trời trồng, mảnh
giấy của hắn tôi vo tròn trong lòng bàn tay. Trong đầu của tôi tràn đầy những ý
nghĩ cứ thay đổi nhau như những ảnh chạy trên màn hình lúc phim bị đứt: khi thì
tức tối, khi thì rủa xả thằng bạn bất nhân om sòm, khi thì lại thoáng nghĩ đến
nội dung câu chuyện, mình đã viết thế nào để thằng bạn kia nó chơi cho một câu
cạn tầu ráo máng đến thế.
Mà cái thằng sao thậm bất nhân. Truyện của nó đâu có hay ho
gì mà mình cũng cho tới 3 điểm. Đằng này nó phang ngay một con Zia-rô to tổ bố
thế kia thì còn trời đất nào nữa.
Và thế là bao nhiêu công trình đêm trước của tôi đi tiêu hết
cả.
Tuy nhiên, khi trong lòng đã nguôi ngoai tức tối đi rồi thì
tôi mới lại nhận thêm ra được một điều nữa là, có nhiều khi mình đọc tác phẩm của
người khác, rồi nó vô đầu mình lúc nào không hay, để ít lâu sau khi viết, cái ý
đó tự nhiên nẩy ra mà mình cứ tưởng là của mình, ai ngờ lại bị kết tội là đi
thuổng ý của người khác. Thằng bạn của tôi không phải là không có lý khi đã
dành cho tôi một bản án tầy trời như thế.
Khó thật! Con đường văn nghệ quả là chông gai và đối với tôi
lúc đó thật xa tít mù tắp.
Ngày hôm sau, trên đường đến trường, những ý nghĩ của tôi về
Hòa thay đổi luôn luôn. Có lúc tôi thấy hắn có lý khi hạ bút phê: "Sổ toẹt".
Nhưng suy đi nghĩ lại, tôi vẫn tức tràn hông vì thằng nhỏ chẳng nể tình bạn gắn
bó bao nhiêu năm, lại cứ khơi khơi phang nhau bằng thứ ngôn ngữ nặng nề như thế.
Cho nên tôi đã rắp tâm sẵn sàng rồi. Khi gặp hắn, nếu hắn
"nghênh" tôi, thì như thế là hết. Con đường văn nghệ đồng hành coi
như chỉ ngắn ngủi có ngần ấy thôi. Tôi sẽ không thèm về học chung một đường với
hắn. Tôi cũng sẽ không xếp hàng vào lớp chung nữa. Tôi sẽ ngưng không cho hắn
mượn truyện trong tủ sách của ba tôi mà tôi vẫn thường lấy lén đem đi. Tôi cũng
sẽ không thèm "cọp giê" các bài toán khó mà bao giờ hắn cũng tìm ra
đáp số trước tôi. Tôi sẽ…tôi sẽ...đủ thứ!
Nhưng bao nhiêu cái "sẽ" ấy vụt tiêu tan khi Hòa
đón tôi ở cổng trường với nụ cười thật tươi. Khuôn mặt của hắn rạng rỡ. Ánh mắt
của hắn thật sáng dưới vầng trán vừa cao vừa dồ. Hắn không có vẻ gì là khinh miệt
tôi cả. Hắn lại cười trước với tôi. Như vậy chắc là hắn cũng đã thấy hối hận
khi trao cho tôi mảnh giấy phê bình hôm trước. Vậy thì chẳng có lý do gì mà tôi
giận được hắn. Thế là tôi cũng mỉm cười lại, chẳng chút giận hờn. May quá! Tình
bạn vẫn còn y nguyên!
Hòa kéo tôi ngồi xuống bóng mát của một cây bàng rồi nói:
- Mình phải đổi phương pháp làm việc. Chứ giữa tớ và cậu, chẳng
ai chịu ai. Viết hộc máu mồm suốt đêm, rút cục là bài đứa nào cũng bị sổ toẹt!
Tôi cãi:
- Cậu "sổ toẹt" tớ vô lý. Tớ thề với cậu là khi viết
tớ không nhớ đến truyện Anh Phải Sống của Khái Hưng một tí nào.
Hòa cười:
- Cậu thề với tớ thì được, nhưng làm sao cậu thề được với
trăm ngàn độc giả nếu như tác phẩm của cậu được in ra. Chả lại lẽ ghi chú:
"Thưa quý độc giả thân mến, tôi xin thề là tôi không thuổng cốt truyện này
của ai".
Cơn tức lại nhen nhúm trong lòng, tôi gân cổ cãi:
- Ai thèm thuổng, truyện của người ta như thế mà nói là giống
của Khái Hưng à?
Hòa vội xua tay:
- Thôi…chuyện ấy hãy bỏ qua không nhắc tới nữa. Vấn đề bây giờ
là phải đổi cách làm việc thì mới tiến bộ được. Tớ đề nghị với cậu là từ nay viết
thì cứ viết, nhưng chẳng ai có quyền chấm bài của ai. Mình ra một tờ báo. Bài
anh nào viết xong cứ tương mẹ nó lên báo, chẳng ai có quyền kiểm soát ai. Hay
hay dở, đã có “dư luận quần chúng” phê phán!
Ôi cha! Đó là một sáng kiến tuyệt vời mà bao lâu nay tôi chưa
bao giờ nghĩ ra.
Phải rồi, người lớn có báo thì tại sao mình lại không có
riêng một tờ cho mình nhỉ. Sáng tác ra bài nào, cứ chép vào giấy, rồi cũng
trình bầy “cẩn tó’, cũng đánh số trang, cũng chia mục này mục kia, rồi vẽ thêm
cái bìa nữa là ra dáng ngay… một tờ báo chứ gì!
Sáng kiến này của Hòa hay quá làm tôi quên giận và vội vã đồng
ý ngay:
- Phải đấy. Mình ra một tờ báo viết tay, vui hơn nhiều. Lại
có đầy đủ các tiết mục, tha hồ mà khuậy.
Thế là suốt buổi học hôm ấy cứ thầy Huỳnh ngơi mắt dòm ngó ra
là tôi và Hòa lại chúi đầu vào nhau để bàn thảo cho chương trình ra báo. Tới giờ
tan học, tôi và Hòa không về nhà ngay mà còn ghé vào chiếc ghế đá xi măng ở đền
Bà Kiệu, gần Bờ Hồ để bàn thêm. Kết quả, tờ báo của chúng tôi thành hình như
sau:
- Tên báo: Bút Học trò.
- Chủ Nhiệm: Thanh Phong Tử (tức là Hòa).
- Chủ bút: Thiện Tấn (tức là tôi, tên Nhật Tiến xếp lại lộn xộn
thành Thiện Tấn, bắt chước theo kiểu nhà văn Khái Hưng, xếp lộn xộn lại từ tên
thật của ông là Khánh Giư mà ra).
- Biên tập viên: Huyền Minh Tử - Lang uyên Vũ- Song Điệp
Khách ( 3 tên này tức là Hòa)- Nhật Quang - Nguyệt Minh - Quang Minh (3 tên này
tức là tôi)
- Nội dung: Có những mục Lá Thư hằng tuần, truyện ngắn, truyện
dài, thơ, phiếm luận, tin tức hằng tuần, vui cười, câu đố, tranh phim.
- Hình thức: Báo ra 12 trang mỗi tuần, viết trên giấy học
trò. Hòa vẽ và trình bầy. Tôi chép bài vở.
- Hòa phụ trách Truyện dài, phiếm luận, tranh phim.
- Tôi phụ trách: Thư hằng tuần, mục giải trí, câu đố, trò
chơi, tin tức.
- Cả hai phụ trách: Thơ, truyện ngắn.
Báo sẽ làm ở nhà Hòa vào mỗi sáng Chủ Nhật vì mẹ Hòa rất khó
khăn, bà không cho hắn ra khỏi cửa trừ giờ đi học (con một mà!). Còn tôi, nhà
đông anh em, có đi lêu bêu cũng ít bị để ý.
Việc sắp xếp như thế kể là tạm xong. Ngay hôm ấy tôi về nhà
thảo ngay một bài Lời Phi Lộ cho tờ báo, với chủ trương:
1) Bắc một nhịp cầu thông cảm với Thiếu Nhi Việt Nam
"trên toàn quốc ' (!), mặc dù báo của chúng tôi chép tay có mỗi một bản.
2) Lập một diễn đàn văn nghệ để các bạn trẻ có cơ hội trau giồi
khả năng sáng tác cũng như phát triển những ý tưởng của mình, hầu xây dựng một
thế hệ ngày mai tươi thắm!
3) Đả kích những tệ đoan (?), những chướng ngại vật cản đường
ngăn lối cho sự phát triển của thế hệ Thiếu Nhi V.N.
Riêng về mục thứ ba này sở dĩ tôi đưa vào đường lối của tờ
báo là vì trong báo có mục phiếm luận. Mục này theo Hòa nói, thì hắn sẽ sử dụng
như một lưỡi kiếm báu (lại kiếm!) để diệt trừ những "sâu mọt" trong
làng Thiếu Nhi.
Tôi tin hắn lắm. Và quả nhiên trong bài phiếm luận ở số ra mắt,
ông lão gác cổng trường là "con mọt" trước tiên bị kiếm báu của Hòa
vung nhát mở đầu.
Số là, đối với toàn thể bọn học trò chúng tôi, lão gác trường
là một nhân vật đáng ghét vô cùng. Hầu như chưa bao giờ chúng tôi thấy lão ta
nhỉnh lên được một nụ cười. Vẻ mặt lúc nào cũng lạnh lẽo như băng, cặp môi cứ mỏng
dính lại, đôi mắt thì tráo trưng như sẵn sàng gây gổ với bất cứ đứa học trò nào
lai vãng tới gần. Hai giờ chiều trống đánh vào lớp, hai giờ năm phút, cổng trường
khóa kín, công việc đó lão ta đã làm như một cái máy tinh vi không biết mệt mỏi,
không sai lệch. Bọn chúng tôi hận lão vô cùng vì cái bản tính tôn trọng nguyên
tắc bất di bất dịch đó.
Đã nhiều lần trong năm học, tôi đến trễ chỉ chừng vài giây,
và khi tôi trông thấy lão ta đang từ từ đẩy hai cánh cổng gỗ với vòng xích cầm
trên tay thì tôi, một tay ôm cặp, một tay xốc quần, chạy chối chết, cố nhịn thở
để la lên:
- Chờ cháu với…chờ cháu với!!!
Nhưng như một khối đá vô tri, lão già phải gió ấy không thèm
chậm tay lại và vừa đúng lúc tôi nhào tới với quần áo lếch thếch tả tơi, mồ hôi
nhễ nhại thì cũng vừa vặn nghe được tiếng khóa kêu lên một tiếng tách khô khan
móc trên vòng xích.
Qua song cánh cổng gỗ, lão nhìn tôi bằng ánh mắt khoái trá, lại
đầy vẻ ngạo nghễ. Hẳn trong bụng lão mừng lắm đấy vì đã thắng được thằng nhãi
trong một cuộc đua ngắn ngủi và bất ngờ này. Rồi lão quay đi, bước chân chậm chạp,
những vệt nắng xuyên qua mái lá in từng vệt lốm đốm trên lưng áo đã bạc mầu. Ở
đằng sau, tôi mệt lử cò bợ, mặt đã tái mét lại thêm cơn tức trào lên đầy ứ cổ họng,
nước mắt cứ muốn ứa ra ở hai bờ mi.
Bọn trẻ trong lớp của tôi hầu như đứa nào cũng được
"sơi" món đòn chạy đua đó. Tất nhiên chúng nó cũng trả đũa lại bằng đủ
thứ trò độc địa khác. Và cứ như thế, mối oan khiên ngày càng chồng chất, thật
không có phương cách gì có thể san bằng đi cho được.
Riêng với Hòa thì mối thù của hắn đối với ông lão lại còn sâu
đậm hơn. Tôi còn nhớ một hôm Hòa suýt trễ học nên không kịp ra cầu tiểu trước
khi xếp hàng vào lớp. Giờ học hôm ấy lại có mấy đứa không thuộc bài làm thầy Huỳnh
giận dữ hơn bao giờ hết. Vì lẽ ấy, Hòa không dám hó hé viện cớ này cớ nọ để chạy
đi phun vòi rồng. Hắn ta ấm ách suốt giờ học. Đến giờ ra chơi, cầu tiểu đông
khách quá, thiên hạ đứng vòng trong vòng ngoài. Hòa chen vào không kịp, đành vắt
vòi rồng ở ngay gốc cây bàng cuối sân mà tưới xối xả.
Xui xẻo cho hắn là khi ấy lão gác trường lại đang lúi húi mài
dao ở ngay đằng sau phông ten nước gần đó. Nên vào lúc "sở cứu hỏa"
đang hoạt động mạnh mẽ nhất thì Hòa bị lão ta lén lại gần, rón rén vừa đủ để
cho Hòa không nhận biết, rồi bất thình lình lão giơ một thanh tre lên, khện cho
cu cậu một roi vào mông quắn đít. Hòa tá hỏa, la lên một tiếng chói tai rồi vừa
ôm vòi rồng vừa bỏ chạy. Báo hại, vòi nước ấm cứ xối vung tàn tán, văng bên này
vẩy bên kia, làm nguyên một bên ống quần của Hòa bị ướt như chuột lột.
Hòa căm vụ ấy vô cùng! Hắn vẫn thường đe sẽ cho lão này một vố
nhưng chưa có dịp nào thi thố cho đích đáng. Cho nên, lý do thật dễ hiểu khi
bài phiếm luận đầu tiên trong số báo ra mắt, kẻ "sâu mọt" trong làng
thiếu nhi đầu tiên bị lưỡi kiếm báu của Hòa hạ xuống chính là lão gác trường.
Tôi không nhớ Hòa đã viết những gì để mạt sát kẻ sâu mọt ấy, nhưng Hòa đã kết
luận bài báo bằng đoạn thơ lục bát dưới đây mà sau này bọn trong lớp chúng tôi
đều truyền tụng.
Đoạn thơ mở đầu bằng một câu cũ rích vẫn thấy nhan nhản trên
các bài văn, bài báo thời đó:
" Người đời sau mới có thơ rằng", và
"thơ" ấy như sau:
Trần gian có một không hai
Da sành, mặt sứa, đôi tai bú dù (bú dù là một loại khỉ nhỏ)
Răng hô, mũi vọ, lưng gù
Chân tay lẻo khoẻo, mắt mù thấy ai
Nho phong nghĩa khí ở đời
Tam tòng, tứ đức (!) ôi thôi biết gì
Sinh ra nào để làm chi
Gươm thiêng một nhát, chặt đi cho rồi!
Hạ địch thủ bằng đoạn thơ ấy, Hòa đắc ý lắm. Hắn đem đọc cho
mấy tên khác nghe. Một đứa trong bọn chợt óe lên: "Bú dù! Bú dù!". Thế
là lão gác trường được trao tặng cái danh hiệu mỹ miều "Bú dù" kể từ
đó.
Nhưng con đường nghệ thuật thật lắm chông gai. Trong trường
văn, trận bút không phải cứ vung kiếm báu lên chém thiên hạ vô tội vạ rồi được
ngồi cười hả hê. Nhiều phen phù thủy không cao tay ấn, lũ âm binh có khi quay về
phản phúc chính mình. Hòa đã học được bài học kinh nghiệm đó ở ngay những bước
dò dẫm khởi đầu.
Số là khi bài thơ ngắn của Hòa vừa được truyền đọc, và Hòa
đang hiu hiu tự mãn vì "đường gươm trác tuyệt" của mình, thì đùng một
cái, có chuyện động trời xẩy ra ở lớp Nhì phòng dưới. Một anh học trò vô danh
nào đó, chắc là hận thầy giáo lớp mình dữ đòn (hẳn cũng tương đương với mối hận
của Hòa với ông lão gác trường), nên một hôm đã lén vô lớp sớm, dùng phấn trắng
viết lên bảng một chữ tổ bố: THẦY H., rồi hai chấm xuống dòng, chép lại hai câu
thơ:
Trần gian có một không hai
Da sành mặt sứa, đôi tai bú dù!
Ôi trời đất ơi! Có lẽ khi trời sập thì chắc cũng không thể
nào náo loạn hơn là cái lúc thầy H. bước vô lớp học và phát hiện trên bảng đen
những hàng chữ ấy.
Thầy là người nổi tiếng vừa thâm vừa nghiêm khắc. Bọn lớp Nhì
kể rằng hình cụ của thầy thường có ba món ăn chơi. Trước hết là món "trao
đổi văn nghệ" áp dụng khi trong lớp có hai đứa cãi lộn với nhau. Thầy bắt
cả hai lên trình diện trước "khán giả". Thầy giới thiệu với mọi người
là thầy mới mượn được ở vườn Bách Thú về hai con bú dù. Bú dù hay đánh lộn nhau
lắm. Rồi thầy bắt hai đứa đóng vai bú dù tát vào nhau cho mọi người coi chơi.
Được xem màn kịch bất ngờ ấy, cả bọn trước còn bò ra cười. Nhưng đến khi thấy
hai đứa vả nhau đến đỏ vù cả má lên thì cả lớp đều xanh mặt lại. Tiếng cười trước
còn ròn rã, sau thưa dần rồi im phăng phắc. Chỉ còn có mỗi một âm thanh sắc và
nhọn của thầy đều đều vang lên: Nữa!...Nữa!...Nữa!....
Món ăn chơi thứ hai của thầy là món "trồng cây chuối"
áp dụng cho những đứa không thuộc bài. Nạn nhân bị gọi lên bảng, xây lưng vô tường,
rồi biểu diễn một màn chổng mông lên, hai chân ghếch lên tường, đầu chúc xuống,
dưới đất để quyển vở bài học, và cứ ở tư thế đó mà học bài cho đến khi thuộc!
Thường thì chẳng bao giờ tụi trẻ có thể thi hành được đúng như lệnh của thầy đã
ra cả. Tường thì trơn, lúc chúc đầu, máu dồn xuống làm mặt nặng như dưới lớp da
có dằm chì nên cứ phải đánh vật với cái tường suốt buổi, lâu lâu lại thấy té
cái "huỵch", té xong lại phải lóp ngóp bò lên, làm lại. Họ hàng nhà
lười rất sợ cái món ăn kỳ dị, quái ác này mà chỉ có thầy H. thâm trầm mới nghĩ
ra nổi. Thầy còn nói: " Ở nhภchăn ấm, nệm êm ngồi học tử tế không chịu,
thì cho học kiều này sau mới nhớ!"
Món thứ ba của thầy, tụi lớp Nhì gọi là món "đội
đèn", áp dụng cho những tội nhân nói chuyện trong lớp, không nghe giảng
bài, bắt nhắc lại lời giảng mà không nhắc được, hay có khi bị bắt quả tang đọc
truyện trong lớp….Nạn nhân bị kêu lên bảng, co một chân lên như kiểu cò bợ, người
phải đứng thẳng tắp, quyển vở thì đem đội lên đầu, cấm được đánh rơi xuống. Mỗi
lần mà quyển vở rơi xuống là thầy lại tiến tới xoắn tai một vòng, giật qua giật
lại vài ba "phùa" và nói với giọng chì chiết:
- Ăn hại hả? Đội có quyển vở không xong thì học hành cái gì.
Nhặt lên, đội lại!
Tất nhiên là dù có tài Thánh thì quyển vở cũng phải rơi vài
ba lần, và những cú xoắn tai, giật qua giật lại vài ba phùa lại tái diễn. Cu cậu
nào đã từng trải qua, ắt phải nhớ đời.
Một ông thầy nghiêm khắc và thâm hiểm như vậy mà lại bị gán
cho hai câu thơ bất hủ như trên thì thật không còn trời đất nào nữa. Cả buổi học
hôm ấy, lớp Nhì B náo loạn cả lên. Thầy không bắt được quả tang thủ phạm nên
"hành" cả lớp và đe dọa sẽ còn điều tra thủ phạm trong suốt cả năm học
còn lại.
Tin ấy đến tai bọn tôi làm cả hai đứa, tôi và Hòa xanh mặt. Lại
có tiếng xì xào:
" Hai câu thơ ấy thằng Hòa khoe là của nó đấy!"
Nghe được, Hòa chỉ muốn độn thổ ngay và ước gì mình chưa bao
giờ dính dáng chút xíu gì đến văn nghệ, văn gừng cả. Và sau đó dĩ nhiên, tờ báo
Bút Học Trò số ra mắt đang lưu hành trong lớp lập tức được chúng tôi thu hồi
ngay về, đem giấu biến. Cũng may, được cái cả bọn học trò lớp Nhất sợ bị liên lụy
nên cũng không đứa nào dám hó hé gì với nhân viên trong nhà trường cả.
Cả tháng sau, nghe chừng đã êm ả, chừng đó Hòa mới lại mạnh mồm
huyênh hoang:
- Năm ngoái tớ học ông ấy rồi. Tụi nó tặng hai câu thơ ấy thì
kể cũng đáng!!!
CHƯƠNG II
Tờ báo của chúng tôi thấm thoắt đã ra được đến số 5. Kiểm điểm
lại thành tích hoạt động thì tôi đã viết được sáu bài thơ, ba truyện ngắn và một
lô chuyện chọc cười trong lớp. Hòa cũng say mê không kém. Sách vở của hắn hồi
này độ dầy bị lép hẳn đi vì hắn chuyên xé ở giữa để lấy giấy làm bản thảo thơ
chọc cười và viết truyện kiếm hiệp.
Hậu quả chung cho cả hai đứa là trong bảng xếp hạng, đang từ
hạng trên 20 tụt xuống khoảng dưới 40. Hôm cuối tháng xin chữ ký chứng nhận
"đã coi" của gia đình, tôi bị ông cụ thân sinh xỉ vả cho một mẻ tối mắt,
tối mũi. Còn Hòa thì hình như bị nặng hơn. Hắn không nói ra, nhưng ít lắm thì
cũng bị nọc nằm ra giường lãnh vài thanh củi vào mông (ngày trước ở Hà Nội, mọi
nhà thường hay nấu bếp bằng củi nên tụi trẻ thường bị đòn bằng thanh củi).
Rồi chủ nhật tuần ấy, ngu dại thay, tôi vẫn vác mặt lại
"tòa soạn" tức nhà của Hòa để làm báo. Khi vào đến cửa tôi mới hay là
hắn đang bị bố nặng. Thì ra hắn đã mang đồ nghề làm báo ra tô vẽ trong khi chờ
tôi tới. Bà cụ của Hòa tuần lễ trước vẫn để cho tụi tôi lúi húi với nhau, nhưng
lần này bà đã khám phá ra cái nguyên nhân khiến cho Hòa tụt hạng. Thế là chẳng
báo với bổ gì hết, bao nhiêu hồ sơ bản thảo của chúng tôi bị bà xáo tung lên,
xé xoàn xoạt. Vừa lúc đó thì tôi thò mặt vào. Lập tức tiếng quát tháo ào ra làm
tôi khựng lại:
- Cậu về đi! Tôi cấm cửa cậu! Cậu làm hư thằng Hòa. Báo với bổ
cái gì…muốn đi ăn mày cả lũ hả?
Hòa cay cú lắm, như sợ mẹ nên mặt cứ cúi gằm xuống không dám
ngẩng lên. Còn tôi thì hết mở được mồm, cứ đứng như chôn chân một chỗ để chịu
trận. Rồi thừa lúc bà mẹ Hòa cúi xuống gầm giường kiếm cái ống nhổ, thế là tôi
co giò cút thẳng, không một lời chào.
Hôm ấy tôi vừa xấu hổ vừa buồn vô hạn. Cả một buổi sáng chủ
nhật tôi đã đi lang thang hết phố này tới phố khác, rồi cuối cùng tôi ngồi một
mình trên chiếc ghế đá trong sân tòa án Hà Nội (hồi đó ở đây có một khu vườn rất
rộng rãi, lại có một con đường xuyên qua vườn để khách bộ hành có thể đi từ mặt
tiền ở phố Rolland qua con đường Gambetta ở phía sau tòa án). Quanh tôi vắng ngắt
không một bóng người. Tòa nhà to lớn trước mặt đóng cửa im ỉm. Quanh vườn, những
hàng cây trơ trụi lá in hình dáng khẳng khiu trên nền trời đầy mây xám. Gió
trong vườn lạnh ngắt thổi xì xào mang theo cái hơi băng giá của mùa đông đang
chớm về.
Hà Nội đối với tôi bao giờ cũng đẹp nhất vào lúc tàn thu. Bầu
trời mầu chì như thấp xuống. cành cây như vươn cao hơn vì lá đã rụng nhiều.
Khung cảnh bốn bề không sáng quá dưới ánh nắng thoi thóp của mùa thu sắp hết. Mọi
vật chung quanh, từ những chiếc ghế đá trong công viên im vắng đến những cánh
lá úa vàng lượn xào xạc trên thảm cỏ và những hàng cây cao đã xẫm mầu thêm ra,
một mầu nâu điểm những vết mốc lốm đốm bạc, tất cả như đang xao động nhẹ nhàng
để đón lấy cái lạnh gây gây nhẹ nhàng của mùa đông đang lén tới.
Trong khung cảnh ấy, giữa nỗi buồn đè nặng trong tâm tư, tôi
càng cảm thấy mình tách lìa thực tế để thả hồn theo tiếng gọi thơ mộng của văn
chương. Tôi đã nghĩ rất nhiều về câu chuyện đã xẩy ra. Tôi thấy coi thường cái
"nhân tình thế thái" ở nhà Hòa vừa qua! Bà mẹ của Hòa thì đã đành đi
rồi. Một bà cụ nửa quê nửa tỉnh làm sao biết giá trị của văn chương. Nhưng thái
độ cúi gằm mặt xuống của Hòa không dám ngẩng lên biện hộ giùm tôi lấy một lời,
làm tôi thấy coi thường hắn quá.
Tôi đâu có làm hư hắn. Chính hắn tình nguyện hợp tác với tôi
để ra báo đấy chứ!
Ừ! Ít ra thì hắn cũng phải nhìn tôi, cũng phải chia sẻ với
tôi cái sự nhục nhã mà tôi bị bà cụ hắn giáng xuống. Hoặc ít lắm thì cũng phải
là một ánh mắt nhìn tôi với một vẻ như ngụ ý: "Mình gặp hoạn nạn chung. Cụ
tớ nói gì thì nói, đằng ấy đừng để bụng nhé!". Thế thì mới được chứ! Đàng
này hắn sợ quá. Mặt hắn cắm xuống, bỏ mặc cho tôi chịu trận. Những câu: "Cậu
về đi! Tôi cấm cửa cậu! Báo với bổ gì! Muốn đi ăn mày cả lũ à?", ôi chao,
đối với tôi còn nặng hơn cả những thanh củi mà bà cụ phang lia vào mông của
Hòa.
Càng nghĩ tôi càng giận đời. Tôi tự thề trong lòng là phải trả
lời những tiếng nhiếc móc ấy bằng công việc. Tôi sẽ viết những truyện thật lẫy
lừng. Tôi sẽ in tác phẩm của tôi. Rồi một ngày huy hoàng nào đó khi sự việc ấy
xẩy ra, tôi sẽ trịnh trọng đến thăm bà, biếu bà tác phẩm của tôi trong có lời đề
tặng đi kèm triện son đỏ chói: " Kính tặng cụ, viên gạch đầu tiên trên đường
sự nghiệp của cháu."
Ối chà chà! Chỉ cần nghĩ như thế là tôi đã thấy nhẹ tênh như
chính mình vừa chống trả một cách oanh liệt những câu riếc móc đến rứt thịt vừa
qua. Thế là lòng tôi lại tràn ngập cảm hứng. Tôi muốn được viết ngay lúc đó. Và
giả sử nếu có sẵn giấy mực, tôi sẽ ngồi đây cả ngày để khởi thảo "viên gạch
đầu tiên" của mình.
Hôm ấy tôi về thật trễ. cả nhà đã ăn xong bữa trưa. Tôi gặp
ngay ông cụ thân sinh của tôi đứng xỉa răng ở đầu hè. Ông nhìn tôi bằng cái
nhìn xoi mói từ đầu đến chân. Cặp mắt của ông nghiêm trang đến như có vẻ dữ dội.
Rồi ông hỏi tôi:
- Đi đâu về?
Tôi cố lấy giọng thản nhiên:
- Thưa, con ở nhà bạn về.
Lập tức ông đổi giọng quát tháo:
- Bạn với bè gì đi lang thang bỏ cả giờ cơm. Muốn trở thành
du thủ du thực hả?
Tôi vội vàng chối lia:
- Không ạ! Con lại đằng thằng Hòa hỏi nó bài toán, rồi nhà nó
có giỗ, nó giữ con lại ăn cơm luôn.
Ông cụ lại nhìn tôi từ đầu đến chân một lần nữa. Rồi như có vẻ
xuôi tai về cái lý do tôi vừa nêu ra, ông liền quay vào sau khi nói sõng một
câu:
- Liệu cái thần hồn đấy, không thì chết đòn.
Tôi thở ra một hơi khoan khoái. Chưa kịp hết mừng thì bà chị
của tôi đã reo lên:
- A! Cậu Tiến ăn cơm khách rồi hả?
Tôi nhìn theo thấy ông cụ vẫn chưa bước vô nhà, đành nói to:
- Em ăn rồi! Nhà thằng Hòa có giỗ!
Chị tôi cười ròn rã:
- Thế thì may cho cậu rồi. Ở nhà hôm nay cũng không có để phần
cơm. Cụ vừa ra lệnh đứa nào bữa ăn không về, cho nhịn đói luôn!
Tôi thấy cơn tức đầy ứ lên cổ, lại thêm cái đói bắt đầu hoành
hành, nhưng tôi vẫn vênh váo:
- Em việc gì phải nhịn đói. Giỗ nhà nó to, giết cả mấy con
gà, ăn căng bụng không hết.
Nói rồi tôi vùng vằng đi vào. Cái sự nhà không để phần cơm
cho tôi làm tôi đói thêm lên. Bụng tôi cồn cào. Hai chân, hai tay bắt đầu thấy
run. Trong tình thế này muốn hết run thì chỉ có cách là đi pha một ly nước trà
đường. Nhưng xui xẻo thay, lúc sờ tới hũ đường thì chỉ còn thấy mấy con kiến
đen chạy nhốn nháo ở dưới đáy lọ, y hệt cái cảnh nhà vừa dọn đi, đồ đạc trống rỗng,
trẻ con nhẩy múa huỳnh huỵch từ phòng này qua phòng khác một cách tự do như gió
trời.
Ngày hôm sau đi học lại, tôi đã chờ đợi cái giây phút bi thảm
mà tôi biết là nó sẽ tới. Quả nhiên vừa gặp tôi, Hòa đã nói bằng một giọng buồn
rầu:
- Mẹ tớ ra điều kiện là trong 3 tháng liền nếu đứng từ hạng 5
trở lên thì mới được cho cậu tới chơi. Còn từ nay tới đó thì…thì…
Tôi tức giận, nói ngay:
- Tớ đếch cần….Sẽ không bao giờ tớ tới nhà cậu nữa.
Hòa cười gượng gạo:
- Tớ sẽ cố. Tớ sẽ vượt tụi nó để lên hạng 5…
Câu nói của Hòa làm tôi thương mến hắn. Cơn giận vừa ùa đến
đã vụt tan đi. Dẫu sao thì Hòa cũng có nhiều tình cảm với tôi. Những lời hứa của
Hòa là một cách biểu lộ cái tình cảm ấy. Còn khả năng của Hòa thì tôi dư biết.
Trong suốt mấy tháng đầu của niên học, chưa bao giờ tôi và Hòa đứng hạng trên
20. Thường thường, Hòa ở vào khoảng từ 25 đến 30. Còn tôi thì tệ hơn hắn nhiều,
không biết sao con số 42 cứ có duyên với tôi hoài, có khi hai tháng liền tôi đứng
ở hạng 42. Có tháng tôi lên được thứ 37, nhưng tháng rồi lại tụt xuống 45. Đó
là kết quả của những ngày tôi bỏ học bài, bỏ làm toán để ngồi sáng tác đến 2, 3
giờ đêm.
Những lần trước, cầm bảng xếp hạng về xin chữ ký, tôi chỉ băn
khoăn trước lúc trao cho cụ thân sinh trong vòng nửa giờ. Và sau khi nghe bài
"luân lý giáo khoa thư" của cụ chừng mươi mười lăm phút là tôi đã lại
chứng nào tật ấy. Nhưng trường hợp của Hòa vừa xẩy ra khiến tôi suy nghĩ nhiều
hơn. Những lời khuyên bảo của cụ tôi như lại vẳng lên, có khi giận dữ, có khi
ngọt ngào, nhiều lần trước cái tính lì lợm lười biếng của tôi, cụ nói chán rồi
trở thành giận hờn: "Có thân thì lo đấy. Không biết lo thân, sau này ra đầu
đường xó chợ, đừng có oán ai hết nhớ".
Thông thường, bảng ghi điểm đem về nhà, phụ huynh chỉ cần ký
tên là đủ. Nhưng đối với cụ tôi thì khác, trước khi ký tên, bao giờ cụ cũng viết
thêm lời phê gồm nhiều điều. Tháng nào tôi đứng hạng vừa vừa thì cụ phê ngọt
ngào:" Hãy biết chăm chỉ học hành để khỏi phụ công ơn của thấy giáo và
lòng kỳ vọng của cha mẹ". Tháng nào giận quá, cụ chỉ vắn tắt có một câu:
"Bé không học, lớn làm gì?"
Trong hoàn cảnh ấy, tâm trạng của tôi thật rối bời. Một mặt,
tôi đã thấy rõ sự bê bết của tôi trong lớp học. Mặt khác, việc sáng tác văn
chương đối với tôi vẫn có sự hấp dẫn lạ kỳ. Trước khi có vụ của Hòa xẩy ra, tôi
đã lựa chọn văn chương để vùi đầu vào sáng tác, lòng không chút thắc mắc. Nhưng
bây giờ thì tôi phải xét lại.
Sau nhiều giây phút đắn đo, tôi đã tìm được giải pháp dung
hòa. Nghĩa là không bỏ cái này mà cũng không chỉ mài miệt với cái kia.
Tôi đã thiết lập một thời khắc biểu như sau:
Sáng:
6 giờ: Dậy.
6g-6g30: Tập thể dục.
7g-10g: Học bài, làm bài (nếu đã thuộc bài trước hạn định thì
đi chơi)
Chiều:
Đi học.
Tối:
7g30 -9g: Học bài làm bài.
(Sau 9 giờ, nếu có ý gì để sáng tác thì ngồi viết đến 11giờ.
Nếu không thì lôi truyện ra đọc)
Ngay dưới tấm bảng ghi Thời Khắc Biểu, tôi còn tự "trấn
an" mình bằng cách kẻ thêm một câu Pháp ngữ vốn thông dụng trong giới học
trò thời đó: " Vouloir c'est Pouvoir" (dịch quá lên, thì ra là: Muốn
là Được!")
Việc tu chỉnh lại lề lối làm việc đã khiến tôi cảm thấy nhẹ
nhõm đi rất nhiều. Kết quả đầu tiên ngay trước mắt, không phải chờ đợi chi xa
xôi lâu lắc, là bài Sử Ký của thầy Huỳnh cho tuần trước, tôi đã học thuộc trơn
tru một cách hiếm có. Bao nhiêu niên biểu, bao nhiêu tên các nhân vật lịch sử,
bao nhiêu địa danh, toàn là những thứ khó nhai, vậy mà tôi đã vượt qua một cách
dễ dàng.
Hóa ra việc học không thật sự buồn chán như từ lâu tôi đã từng
nghĩ như thế. Vấn đề cốt yếu là tôi đã tách rời được việc học ra khỏi những mối
cảm nghĩ bùng nhùng cứ theo đuổi tôi ở bất kỳ công việc nào trong ngày. Như thể,
trong những ngày trước, khi đang làm bài Toán thì tôi lại lo nghĩ vẩn vơ đến
bài Cách Trí chưa học. Thế là tôi bỏ vở Toán, đi lấy vở Cách Trí ra coi. Nhưng
mới chỉ liếc qua được vài ba trang, giữa những dòng chữ buồn nản của bài học,
tôi lại thấy nẩy ra những lời những ý mà tôi đang sắp xếp cho một câu chuyện sắp
sáng tác. Rồi cơn hứng trỗi lên, tôi đã bỏ cả Toán lẫn Cách Trí để xé vở xoàn
xoạt ra ngồi viết câu mở đầu cho tác phẩm. Rồi câu mở đầu còn đang lủng củng giữa
lời và ý thì bài Toán đố lại hiện ra xen với cặp mắt sắc như dao của thầy Huỳnh
cùng nét bút đỏ của thầy vẫn thường ghi con số zéro to, tròn, mầu đỏ như son
trong cột điểm.
Thế là bao nhiêu hứng thú bỗng tiêu tan, tôi lại trở về đánh
vật với bài Toán đố. Thường thường thời giờ của tôi đã trôi qua rất mau vì cái
cảnh loay hoay như thế, mà cuối cùng thì bài Toán cũng không tìm ra đáp số, bài
Cách Trí không thuộc và đến cả cái truyện muốn viết cũng chẳng bôi ra được quá
nửa trang. Cho nên cái sáng kiến lập “Thời khắc biểu” đã cứu nguy tôi ra khỏi cảnh
loay hoay đó. Thời giờ đã ấn định rõ ràng, nên định làm việc gì thì tôi chỉ
chuyên tâm vào việc đó. Tôi thấy thảnh thơi và giải quyết công việc một cách dễ
dàng hơn.
Chiều hôm ấy, một lần hiếm có trong đời cắp sách, tôi mong
cho kẻng mau đánh sớm báo giờ vào học. Và cũng là một lần hiếm có tôi dám ngang
nhiên nhìn thẳng vào ánh mắt sắc lẻm của thầy Huỳnh. Những buổi khác, giờ khác
thì ôi chao, mỗi lần thầy chiếu tướng xuống khu xóm chỗ tôi ngồi là y như tôi vờ
quệt mũi hay dụi mắt, hay làm một cái gì đó để nhìn lảng đi chỗ khác.
Vào giờ học, kẻ bị truy bài đầu tiên là một anh mang vần A ngồi
ở đầu bàn. Anh ta ậm ọe được hai dòng đầu thì đã bị thầy xách cái tai lên, xoắn
cho ba vòng rồi đẩy tuốt vô góc lớp chờ đủ "túc số" sẽ được đem ra
"làm lông" luôn thể.
Anh thứ hai ngồi ngay bàn phía trên của tôi, đang rì rầm ôn
bài học như một nhà tu hành chính hiệu tụng kinh, lúc bị kêu đến tên, anh giật
bắn người lên, hai tay run quá đến nỗi đánh rớt cuốn vở đến hai lần. Tới lúc phải
quay mặt nhìn xuống lớp học để trả bài thì anh ta tịt mít như pháo tịt ngòi, hầu
như chưa hề có một chữ nào lọt vô đầu mình hết. Giỏ câu của thầy Huỳnh thế là lại
thêm một "chú" nũa.
Tội nhân thứ ba bị ra trước vành móng ngựa đích danh là văn
sĩ kiếm hiệp của bổn báo Bút Học Trò. Lúc cái tên "Đỗ Hòa" được xướng
lên thì Hòa mới cuống quýt đi lục vở. (Cử chỉ này của Hòa làm tôi nể hắn luôn,
vì chắc hắn phải thuộc bài lầu lầu nên mới không cần mang vở ra ôn lại trước
khi thầy Huỳnh gọi học trò lên trả bài).
Sự chờ đợi của thầy làm hắn ta hơi luống cuống. Hắn bới mãi
trong hộc bàn mới tìm ra cuốn vở xẹp lép (chắc xé lấy ruột để làm báo nhiều dữ).
Cuốn vở nằm giữa các tập truyện toàn là những thứ như Thuyết Đường, Thủy Hử, Thất
Quốc Chí, La Thông Tảo Bắc…v..v…
Tập vở mỏng của Hòa bị thầy Huỳnh "úm" ngay khi hắn
vừa khép nép để trên mặt bàn. Thầy phát giác ra ở 2 mặt bìa trong Hòa đã vẽ
toàn tranh kiếm hiệp. Tranh nào cũng diễn tả hai kiếm khách giao đấu với nhau,
một bên là tráng sĩ chít khăn võ sinh, ở mang tai có gài một bông hoa, ngón tay
trỏ của tráng sĩ đang phun ra một luồng kiếm quang. Còn bên kia là một đại hán,
mặt đen sì, râu chổi sể đang phun ở mồm ra một luồng kiếm quang khác, mé bên dưới
bàn tay của đại hán còn phóng ra bốn, năm cái ám khí, toàn một loại "hắc
kim tiêu" mà Hòa đã có lần giải thích với tôi rằng đó là những mũi tên
vàng có tẩm thuốc cực độc!
Nhưng thầy Huỳnh chưa kịp ban ra hình phạt thì Hòa đã liến
láu cất giọng đọc bài. Hắn tuôn một hơi toàn thể bài học nghe rất chơn chu
không hề ngấp ngứ hay vấp váp. Quả là đáng nể thật, đây hẳn là thành quả của
cái sự giã từ nghề văn, nghiệp báo của hắn ta. Điều này đã khiến cho thầy Huỳnh
tỏ ra hài lòng, rất hài lòng. Cặp mắt sắc như dao của thầy trước đang nhíu lại
vì sự giữ gìn sách vở bê bối của Hòa, bây giờ đang giãn ra một cách thấy rõ. Với
vẻ tươi tỉnh hài lòng hiện trên nét mặt cương nghị, thầy ngoạch cho Hòa một con
số vào trong sổ điểm.
Lợi dụng lúc thầy đang vui, tên Hiệp ngồi ở bàn đầu nhổm ngay
lên, ngó thật nhanh, rồi quay lại xòe 7 ngón tay cho tất cả bọn tôi được rõ.
Chà! 7 điểm bài học đối với thầy Huỳnh là một sự chi tiêu hoang phí. Đó là một
chuyện lạ vì thông thường, thầy chỉ cho tới 6 điểm là cùng. Cái lạ đó làm cho bọn
chúng tôi hơi ồn ào. Sự ồn ào khiến thầy vụt ngẩng lên, bắt gặp đúng lúc tên Hiệp
đang múa tay làm trò. Thế là cu cậu bị túm ngay lên bảng.
Thầy xách cái tai của Hiệp lên và hỏi:
- Làm cái trò gì thế?
Hiệp đau quá chỉ trả lời được bằng những tiếng "ái..ối…con
lậy thầy…" nghe vang cả lớp. Cả bọn chúng tôi được hưởng một màn vui thú bất
ngờ nên đứa nào cũng cười khoái chí nhìn Hiệp đang chịu cơn hoạn nạn với tất cả
vẻ hả hê, như quên phắt hẳn cái công của Hiệp là đã gồng mình lên, dòm trộm sổ
điểm và thông báo cho biết về số điểm của Hòa. Đã thế, còn có đứa độc mồm xúi
thêm: "Nữa đi thầy!".
Nhưng rồi màn vui chợt tắt ngóm khi cả lớp nhìn thấy mặt của
Hiệp trở nên đỏ rừ, cái mồm méo đi, và hai hàng mi đã bắt đầu trào nước mắt. Bầu
không khí vui vẻ chỉ ùa lên như một cơn gió thoảng rồi vụt trở lại nặng nề cho
đến khi tất cả lớp trở nên im phăng phắc, thầy mới buông cái tai của Hiệp ra. Một
bên vành tai của hắn bây giờ không còn là mầu đỏ nữa mà đã ngả sang mầu tím.
Ôi chà! Tôi cũng đã có lần được nếm cái mùi đi ô-tô-ray này rồi (autorail=một
loại xe lửa chạy bằng dầu cặn, nhanh và êm hơn loại chạy bằng hơi nước nhiều). Tai
tôi đã bị ù lên suốt một ngày trời. Vành tai buốt thon thót. Còn kinh khủng hơn
là ngồi trên ô-tô-ray mở hết cửa sổ cho gió lùa vào tai khi tầu phóng với tốc độ
trên trăm cây số giờ. Đó là cách ví von của bọn chúng tôi thời ấy, chứ thật ra,
cả đời chúng tôi đã được bước chân lên ô-tô-ray bao giờ đâu?
Sau hình phạt ấy, thầy Huỳnh gấp sổ điểm lại, không truy bài
nữa. Cả lớp thở phào như vừa cất được gánh nặng. Chỉ có riêng tôi là tiếc đùi đụi.
Lâu lắm tôi mới thuộc bài trơn tru một lần. Lâu lắm tôi mới lại có cảm giác nhấp
nhổm chỉ mong cho ngòi bút đỏ của thầy dò xuống vần T. ở cuối sổ điểm. Vậy mà
không được thi thố tài năng để kiếm con 7 ngon ơ thì có phải là phí của giời
không. Thế là toi một lần học thuộc bài cẩn thận, rõ uổng vô cùng.
Buổi tan học hôm ấy, tôi vẫn đi bên Hòa và nói:
- Bài Sử ký, tớ cũng thuộc lầu.
Hòa nhìn tôi không đáp nhưng mỉm một nụ cười vẻ chế giễu,
không tin. Tôi cáu quá, đọc một lèo cho hắn nghe. Hắn hơi ngạc nhiên và lần này
nhìn tôi bằng ánh mắt khác, như thể tôi là một kẻ xa lạ không còn là đứa chuyên
chỉ học bài một cách ngấp ngứ đã ném sách vở vô cặp rồi. Hòa hỏi:
- Cậu nghỉ sáng tác rồi hả?
Tôi vênh mặt lên:
- Đếch! Việc gì mà phải nghỉ nhỉ. Tớ viết còn hăng gấp mười nữa
kìa (nói khoác với hắn thế cho bõ ghét!).
Hòa kêu lên:
- Ái chà, sang nhỉ! Vẫn học “cẩn tó” lại vừa có thể viết văn
được à?
- Được đứt đuôi đi chứ, sao không.
- Nói phét!
- Ừ! Cậu không tin thì thôi. Nhưng tớ nói cho cậu hay, tớ vẫn
viết, vẫn học được như thường.
- Còn tờ báo thì sao?
- Dĩ nhiên là vẫn ra chứ! (nói phịa vậy chứ, tới lúc đó tôi
cũng chưa dứt khoát là có ý định tiếp tục làm báo hay không).
- Cậu vẫn lấy tên là Bút Học Trò hả?
- Đời nào! Tớ sẽ ra báo của riêng mình tớ thôi!
- Tờ gì?
- Bí mật! Chờ vài hôm nữa sẽ biết.
Không ngờ lời nói chuyện tầm phào ấy lại lôi kéo tôi trở về với
ý định ra tiếp một tờ báo khác, tờ báo của riêng tôi, không liên hệ tới ai,
không phải bàn soạn với ai hết. Tôi muốn cho Hòa sáng mắt ra, rằng không có hắn
thì tôi vẫn làm được báo như thường!
Thế là buổi tối hôm ấy tôi hì hục ngồi vào bàn làm việc. Bỏ
luôn bài Địa Lý hôm sau phải đọc, bỏ cả bài tập vẽ truyền chân mà thầy Huỳnh
cho từ tuần lễ trước. Mỉa mai thay, cái Thời Khắc Biểu do tôi trịnh trọng tô vẽ,
trình bầy mới vài hôm trước còn chưa ráo mực thì bây giờ lại nằm trêu ngươi
ngay trước mặt.
Một ý tưởng áy náy chạy thoảng qua. Tôi định xếp giấy nháp lại
để đi học bài. Nhưng tính hiếu thắng của tôi lại mạnh mẽ hơn. Tôi không thể chịu
đựng được khi tưởng tượng mai mốt tên Hòa nhìn tôi, với cái cười nhếch mép đầy
khinh mạn của hắn và hỏi:
- Báo đâu? Cậu làm đếch gì mà ra được báo. Không có tớ thì
còn sơi! (tức là còn khuya, tiếng bây giờ).
Vả lại cứ cố gạt ra để học thì không nói, chứ việc làm báo đối
với tôi vẫn còn hấp dẫn lắm. Khi đã trải những tờ giấy trắng trước mặt, bút mầu,
dụng cụ vẽ để la liệt trên bàn, thật khó mà có thể dẹp đi để làm công việc buồn
nản khác như học bài Địa Lý hay Cách Trí chẳng hạn. Thế là suốt buổi tối hôm ấy,
tôi đã phác họa một mình tờ báo của riêng tôi. Tôi lấy tên báo là tờ Bút Mới.
Và tôi đã viết một bài phi lộ với lời lẽ đại ý:
" Cáo lỗi cùng độc giả toàn quốc: Vì tờ Bút Học Trò gặp
trở lực lớn lao trên trường văn, trận bút nên phải đình bản và thay thế bằng tờ
Bút Mới. Chúng tôi quyết san bằng mọi khó khăn nguy khốn để đáp lại thịnh tình
của bạn đọc bốn phương, đồng thời nỗ lực đóng góp vào công cuộc phát huy tương
lai văn hóa dân tộc!"
Ái chà chà, bài phi lộ nghe kêu như trống trận, ai có biết
đâu trở lực lớn lao, gian nan nguy hiểm mà tôi nói trên chỉ là bà cụ thân sinh
ra Hòa một phần lớn và những lời trách móc của Ba tôi một phần nhỏ.
Lần này báo của tôi ra những 4 ấn bản. Đấy là "một sự tiến
bộ trong ngành ấn loát của nền báo chí nước nhà " mà tôi cũng đã trân trọng
loan báo tới độc giả bốn phương trong bài phi lộ.
Sở dĩ báo của tôi hơn báo của Hòa tới 3 bản là vì tờ Bút Học
Trò chép tay bằng bút mực. Chép bút mực thì chỉ được một bản thôi là dĩ nhiên rồi.
Còn tờ Bút Mới của tôi chép bằng bút chì chuốt nhọn trên giấy pelure (loại giấy
mỏng để viết thư), ở dưới tôi để thêm 3 bản nữa có lót giấy than (carbone) đánh
máy. Khi chép cứ ấn tay thật lực là ba bản dưới cũng sẽ rõ… như ban ngày! Mỗi
trang chép xong xuôi tôi lại cắm bàn ủi điện chờ nóng rồi chà lên thật kỹ. Độc
giả bốn phương sẽ không bị lem tay khi cầm tờ báo lên đọc. Thật là một phát
minh mới trong thời đại mới!
Tôi có thể nói một cách không mấy khiêm nhường rằng tôi là một
kẻ luôn luôn cầu tiến. Mặc dầu so phần hình thức của tờ Bút Mới với tờ Bút Học
Trò, thì tờ của tôi đã tiến bộ lên gấp 4 lần (tức là đã có 4 ấn bản lận), nhưng
tôi vẫn chưa hài lòng. Tôi muốn cho văn chương phú lục của mình được phổ biến rộng
rãi nhiều hơn nữa, nên chỉ trong vòng 5 số đầu, tờ Bút Mới đã thoát xác thêm một
lần nữa. Tôi đã chuyển tới tay Hòa một tờ quảng cáo làm cho hắn phải ngẩn ngơ:
" Bút Mới xin long trọng báo tin để độc giả bốn phương
được hay, kể từ số sau, nghĩa là tới số 6, Bổn báo sẽ trình diện một hình thức ấn
loát mới: Chữ viết tay đẹp như rồng bay phượng múa với đủ loại nét viết thường,
viết rông, mà báo lại sạch sẽ, không lem luốc, bẩn thỉu khi mực dính ra tay, đặc
biệt mỗi kỳ ra 50 ấn bản toàn bài vở đặc sắc, hấp dẫn!
Một tiến bộ vượt bực mà trong làng báo học trò chưa một tờ
nào sánh nổi.
- Hàng chục chuyên viên đang làm việc (!)
- Nhiều cây bút đang cặm cụi sáng tác.
"Tất cả đều phục vụ cho độc giả bốn phương.
XIN ĐÓN COI KẺO LỠ RẤT UỔNG!!! "
CHƯƠNG II (tt)
Khỏi cần nói, các bạn cũng hiểu rằng anh bạn Hòa quý báu và
ưa tò mò của tôi nôn nóng đến mức nào sau khi đọc tờ quảng cáo viết trên giấy
do tôi xé ra từ vở học trò. Nhưng bí mật quân sự, không đời nào tôi cho hắn rõ
tôi đã âm thầm sửa soạn như thế nào. Trên đường về học, hắn chỉ còn biết hỏi
lân la:
- Báo của cậu liệu có ra đúng được 50 ấn bản không?
- Sao lại không! Nếu muốn, tớ có thể "in" 100 ấn bản
cũng được.
- Nhưng báo viết tay chứ?
- Viết tay đứt đuôi đi rồi.
- Tờ nọ có giống hệt tờ kia không?
- Hệt là cái chắc!
- Hừ, nếu vậy thì cậu làm thế nào hở? Cho tớ biết với!
- Bí mật nhà nghề. Đúng thứ Bẩy ngày 15 tớ sẽ phát hành. Chừng
đó cậu sẽ rõ.
Hòa tức lắm, nhưng không thể dò hỏi gì hơn. Hẳn trong lòng hắn
cũng đang nổi máu anh hùng muốn ra một tờ báo khác chọi lại tờ báo của tôi.
Nhưng Hòa rất sợ mẹ. Chính vì thế mà dù háo hức đến đâu hắn cũng cố dằn lòng để
học hành cẩn thận. Cuối tháng đó, hắn lên thứ 15 còn tôi tụt xuống thứ 45. Đó
là kết quả của những ngày tôi đã xé bỏ tờ Thời Khắc Biểu do chính tôi ấn định để
vùi đầu vào việc ấn loát cho tờ Bút Mới theo kỹ thuật mới.
Đó là kỹ thuật in thạch bản mà tôi học được từ một huynh trưởng
Hướng Đạo. Dụng cụ ấn loát gồm có:
- Thạch trắng (trong Nam gọi là xu xoa, loại mầu trắng)
- Phẩm tím loại tốt, thứ nhìn vô thấy có ánh xanh biếc. Loại
này thường bán ở các tiệm tạp hóa, dạng từng viên nhỏ như những hạt ngô, mầu
ánh biếc, cho vào nước ấm sẽ tan thành thứ mực mầu tím rất đậm.
- Giấy tầu bạch tức loại giấy in báo, dễ thấm nước để dễ hút
mực vào.
- Nồi thổi cơm và mâm đồng hay mâm nhôm.
Thạch trắng đem về thả vô nồi thổi cơm, đổ nước tới lưng lưng
rồi đun cho thạch tan hết. Sau đổ nó ra mâm cho thạch đông lại. Gặp trường hợp
lúc đã đông rồi mà thạch còn cứng ngắc hay vẩn lên những sợi gân trắng, ấy là
vì cho ít nước quá, hay nấu chưa tan, mực sẽ không bị hút vào thạch. Phải cho
thêm nước rồi nấu lại.
Khi thạch trong mâm đã nguội hẳn, lấy tay day day trên bề mặt
cho mặt dưới tiếp xúc với mâm long hết chân ra. Sau đó úp ngược mâm xuống một tờ
báo cũ trải rộng trên mặt bàn phẳng phiu rồi lấy ngón tay khẽ lách vào vòng
quanh mép mâm. Tất cả mâm thạch sẽ rớt xuống mặt báo. Đáy mâm thạch sẽ là bản để
in. Ta không thể dùng mặt trên mâm thạch để in được, vì khi đổ thạch nóng vào
mâm, trên mặt sẽ đóng một lớp váng mỏng, không ăn mực.
Nội dung tờ báo thì sẽ được viết hay vẽ trên giấy trắng bằng
mực tím pha đặc (lúc mực khô, khi nghiêng tờ giấy mà thấy những dòng chữ có mầu
ánh xanh biếc là được). Bấy giờ mới đem úp tờ giấy đã viết lên mặt mâm thạch. Nếu
báo khổ nhỏ thì mặt mâm thạch có thể úp lên 2 trang báo. Do đó, nếu báo dầy 16
trang thì phải nấu tới 8 mâm thạch. Thật là tử công phu!
Mực tím trên trang giấy sẽ được thạch hút vô. Nhớ xoa xoa tay
trên mặt giấy để mực được ăn xuống đều, lúc in sẽ không bị chỗ đậm chỗ nhạt. Chừng
vài phút sau, bóc tờ giấy ra, trên mặt thạch sẽ có một trang báo có chữ bị ngược,
sẵn sàng để in.
Giấy in là giấy tầu bạch tức giấy in báo được cắt theo khuôn
khổ của trang báo có khuôn khổ đã dự trù, và bây giờ được đem đặt lên mặt thạch.
Lấy tay vuốt nhẹ lên mặt giấy, mực tím sẽ từ mâm thạch truyền sang giấy in, và
thế là ta đã "in" xong một trang báo. Trung bình một bản thạch có thể
in từ 30 đến 50 tờ, sau đó thì mực tím sẽ nhạt đi, chữ không còn rõ nữa.
Tuy nhiên bản thạch sau khi in rồi, có thể cho vào nồi nấu lại
để in tiếp chứ không cần phải thay bằng thạch mới. Chỉ khi nào sau năm bẩy lần
xài, mầu thạch bị xẫm lại, tức là trong thạch đã chứa nhiều mực tím, có thể khi
in sẽ ăn sang toàn trang báo thì lúc đó mới cần thay.
Duy có một điều bất tiện là mực tím khi đem nấu trong nồi thổi
cơm thì mực sẽ tan ra, bám vô thành nồi hay mặt mâm, dù có chà rửa cách chi
cũng không thể sạch hết. Đó là một khuyết điểm khá lớn trong phương pháp ấn
loát của tôi ( và tôi cũng tìm được phương cách khắc phục, sẽ nói ở phần dưới).
Vì tôi đã dùng nồi thổi cơm của cả nhà để nấu thạch in báo
nên một hôm, trong bữa cơm trưa, bà chị của tôi nhìn bát cơm trắng mọi ngày bỗng
sao hôm nay lại thấy nó ngả mầu xám xám.
Ôi chao! Vận xui “áo xám” gì đã tới cho cả nhà đây? Bà chị
tôi xanh mặt lại vì hồi xưa ai cũng có niềm tin là nồi cơm mà đổi mầu xám là
nhà sẽ gặp đại họa. Vậy vận xám đã đến với nhà tôi thật rồi. Chị tôi quẹt một mẩu
cơm lên đầu đũa cả rồi đem đi cùng khắp hàng xóm để phân vua:
- Rõ ràng gạo nhà tôi là gạo mọi ngày, tôi vo kỹ ba, bốn nước,
nước để nấu là nước máy trong veo, vậy làm sao mà nó…xám được???
Theo lời khuyên của chòm xóm, chị trút cả nồi cơm vào nồi nước
gạo rồi đem nồi ra cọ rửa kỹ lưỡng để nấu thử nồi khác. Báo hại, lúc lùa cái giẻ
cọ nồi làm bằng quả mướp khô để chà mạnh vào thành nồi, chị tôi mới phát giác
ra cái giẻ dính đầy cặn dơ và phẩm tím! Thế là bao nhiêu nghi vấn về điềm gở, vận
xui đều tiêu tan. Tuy thở phào nhẹ nhõm nhưng bà chị tôi cũng vẫn nghi rằng
đích danh thủ phạm vụ này không ai khác hơn thằng em có nhiều thành tích bất hảo
trong nhà, là tôi. Nhưng hình như đã chót xé to cái vụ vận xui này với hàng xóm
nên chị không dám hó hé gì mà chỉ kéo tôi xuống, củng cho một cái nên thân vô đầu
và hỏi:
- Buổi sáng lúc chị đi chợ, cậu có đem nồi ra đun gì không?
Tôi ấp úng:
- Em…em…
- Còn tính chối nữa! Cậu nấu phẩm tím bằng nồi thổi cơm, phải
không?
Tôi cãi lại:
- Em đâu có nấu phẩm tím. Em nấu thạch đấy chứ.
- Nấu thạch làm gì?
- In báo…thạch in báo!
- Lại báo với bổ rồi bỏ cả học hành. Chị sẽ mách bố cho mà
coi.
Bữa cơm trưa hôm ấy trễ mất gần một giờ đồng hồ. Chị tôi đổ lỗi
cho tôi đã làm hỏng cả một nồi cơm vì dính phẩm tím. Thế là ông cụ xách cái chổi
lông gà ra khện cho tôi một trận nên thân. Nhưng may quá, mớ báo của tôi đã in
xong rồi và tôi đã kịp di tản chúng nó xuống dưới gậm giường, không có một số
báo nào bị phát giác để tịch thu hết! Thế là tôi như mở cờ trong bụng, mặc dầu
cả ngày hôm ấy cái mông của tôi vẫn còn buốt thon thót vì năm bẩy con lươn nổi
lên đỏ ửng xuống tận đùi.
Buổi ra mắt tờ Bút Mới với kỹ thuật in mới gây sôi nổi khắp lớp
học. Báo dầy 12 trang, khổ giấy học trò, in rất rõ và đẹp. Tôi đề giá 2 đồng mỗi
số, bán vèo một cái là hết 2 chục số. Tính sổ lại, tôi thấy:
VỐN: Một nửa lạng thạch 20 đồng, phẩm tím 3 đồng, giấy tầu bạch
10 đồng. Tổng cộng 33 đồng.
THU: 20 số x 2 đ = 40 đồng.
LỜI: 7 đồng và 10 số báo vừa biếu vừa giữ làm kỷ niệm.
(Không kể tiền nhuận bút bài vở, công chép, công in, công rửa
nồi, mâm, củi lửa, đóng xén…v.v.. Ồ! những thứ nhỏ nhặt đó không nên tính toán,
vì tôi chỉ cần phụng sự nghệ thuật!)
Sau đó tôi đã phác họa một lề lối làm việc qui mô, "khoa
học" hơn, bất cần tới cái phương tiện nồi niêu, xoong chảo của bà chị tôi
nữa. Tôi sắm riêng cho tôi một cái nồi đất cỡ nồi kho cá Thu cho cả nhà, và ghếch
nhờ nơi góc bếp. Như thế thì thạch thiếc, mực miếc có dơ bẩn cũng chẳng còn
liên hệ tới ai. Còn cái mâm đồng bầy thức ăn thì tôi cũng thay thế bằng một loại
khay làm bằng tôn, khuôn khổ vuông vức vừa vặn bằng một trang báo mà tôi đã đặt
làm ở phố hàng Thiếc, gần phố nhà tôi. Với những cái khuôn này, tôi tiết kiệm
được rất nhiều thạch trắng, vì nếu dùng mâm tròn, thạch ở quanh bốn rìa mâm
không làm bản in một trang báo được vì nhỏ quá, phải xắt bỏ để sau đem nấu lại.
Duy chỉ có tay chân, quần áo của tôi là thảm hại nhất. Mực
tím dây ra tôi từ đầu xuống chân. Sơ mi trắng của tôi không cái nào mà không có
lấy dăm bẩy vệt mực tím. Hôm bà cô họ tôi tới thăm, thấy tôi lem luốc quá, bà cất
tiếng khen:
- Thằng này học chăm quá! Nhìn nó chỗ nào trên người cũng
dính mực!
Bà chị của tôi bụm miệng cười rồi nói:
- Vâng…nó chăm lắm đấy ạ, nhưng thợ nhuộm thì cũng dính nhiều
phẩm tím đến vậy là cùng.
Mặc dù chị tôi có nhạo báng thế nào thì báo của tôi cũng ra đều
đặn được hàng tuần. Số độc giả tăng thêm 5 vị nữa, vị chi là 25 người. Tôi lời
đứt đuôi đi mỗi tuần 17 đồng, dư tiền ăn bánh rán nhân đậu xanh mỗi giờ ra
chơi.
Nhưng nếu cuộc đời cứ dễ dãi trôi chẩy nhột cách êm xuôi như
vậy thì còn gì để nói. Đàng này, báo của tôi ra loại mới chỉ được đến số thứ 5
thì một biến cố xẩy ra làm tôi choáng váng.
Số là vào thời kỳ đó, tổ chức Học Sinh, Sinh Viên chống Pháp
dưới danh nghĩa Ủy Ban Kháng Chiến Sinh Viên Học Sinh Đô Thành bắt đầu hoạt động
mạnh mẽ. Họ cũng in và phổ biến các loại truyền đơn, các tài liệu học tập truyền
tay bằng kỹ thuật ấn loát "tối tân" y hệt như tờ Bút Mới của tôi.
Nghĩa là cũng "in thạch bản". Nội dung truyền đơn thì hầu hết là hô
hào học sinh các trường trung học “bãi khóa”. Thế là ảnh hưởng trực tiếp đến tất
cả giới học trò Hà Nội rồi!
Sau đó, thiên hạ nhao lên vì đã có một vài vụ bắt bớ xẩy ra
trong giới học trò trung học. Loại ấn phẩm in bằng thạch bản dù nội dung bất kỳ
ra sao cũng bỗng trở thành một thứ đồ quốc cấm, nguy hiểm.
Vào lần chót, tôi ôm báo đến trường, vừa mở cặp lấy ra là bị
tẩy chay ngay:
- Thôi dẹp đi cậu ơi! Thời buổi này ấm ớ hội tề, coi chừng vô
Hỏa Lò sớm.
Báo kỳ đó của tôi còn nguyên, không bán được lấy một số. Thậm
chí cũng không còn anh nào dám cầm nó trong tay. Hầu như anh nào cũng sợ sệt có
cặp mắt do thám của công an lẩn quẩn đâu đó trong sân trường. Hòa còn nhát hơn,
hắn khuyên tôi:
- Cậu phải thủ tiêu hết đồ lề lủng củng ở nhà đi. Lỡ đứa nào
hoạt động thật, bị bắt, nó khai tưới cho cậu để bảo toàn cơ sở của nó thì cậu
có sống mà ăn sắn.
Tôi chột dạ nhưng vẫn làm bộ cứng cỏi:
- Các cậu nhát như cáy ngày. Tớ có hoạt động đếch gì đâu mà
phải sợ. Để rồi coi tớ có làm sao không.
- Ờ, tới lúc có làm sao, thì có hối cũng không kịp.
- “Khắm chửa”! Tớ có đi ăn cắp, ăn trộm của ai mà phải hối
không kịp.
Hòa cười chế nhạo:
- Ấy, thà ăn cắp, ăn trộm, tội còn nhẹ. Làm Hội kín còn nguy
hiểm gấp mười.
Tôi cãi:
- Kín đâu mà kín. Báo toàn viết chuyện học trò thôi mà.
- Ấy, chuyện học trò bây giờ mới nguy! Vua chống chính quyền
bây giờ là học trò đấy, cậu ạ.
- Đốt anh đi! Anh thử coi trong báo có bài nào tôi chống
chính quyền không?
- Hì …hì..cậu ra mà cãi với công an. Cãi với tớ vô ích.
- Cãi đứt đuôi đi chứ, ai mà sợ.
- Ờ, thế nó hỏi in báo để làm gì, cậu sẽ nói sao?
- Tớ sẽ nói là để phục vụ văn nghệ.
- Phục vụ văn nghệ để làm gì?
- Nói thối không ngửi được. Phục vụ văn nghệ là phục vụ cho
văn nghệ, chớ còn để làm đếch gì nữa.
- Cậu nói dễ nghe không! Nó sẽ hỏi cho ra nhẽ: "văn nghệ"
là cái gì, bao nhiêu người thì họp thành một cái văn nghệ, mỗi cái văn nghệ họp
mặt ở đâu, bàn gì, hoạt động gì, cách hò hẹn ra sao, ám hiệu, khẩu hiệu bí mật
trao đổi với nhau là những gì…
Tôi cáu sườn:
- Làm đếch gì có những thứ ấy.
Hòa cười hơ hớ:
- Ờ! Thì cậu cứ cãi với nó như thế để coi rồi nó sẽ làm gì.
- Ừ, thì nó làm gì được nào….
- Cậu ngây thơ như cái cột đèn đen. Nó hỏi, cậu không khai,
nó sẽ cho cậu đi tầu bay, chán rồi mời ngài đi tầu ngầm, khi đói thì mời ngài
sơi giò bó lạt!
- Thế là cái cóc khô gì?
- Đi tầu bay là quay điện đó! Nó có một cái máy điện to bằng
bốn cái bàn của thầy Huỳnh, dây nhợ bên trong gắn lung tung beng. Nó sẽ gắn vô
2 tai của cậu hai cái kẹp rồi dùng ma-ni-ven thứ xài cho xe ô tô, quay cho động
cơ nổ đùng đùng. Thế là điện nó làm cho cậu quay tít thò lò như thể đi trên tầu
bay, mà đau thì ôi thôi… tóe khói!
- Vua nói khoác! Cậu làm như chính cậu đã trải qua những thứ
đó rồi.
- Tớ không có kinh nghiệm nhưng chú tớ kể lại. Chú tớ có người
quen bị giam trong đó 7 tháng liền. Lúc thả ra, người đang 80 ki lô tụt xuống
chỉ còn sấp sỉ… 10 ki lô!!! Còn đi tầu ngầm là gì cậu có biết không? Là nó
nhúng cậu vô bể nước xà phòng, dùng cái sào dài dìm cậu xuống y như người ta
dìm một con chuột chết. Xà phòng qua mồm, chui vào bụng, chà xát ở trong dạ dầy
như thể ta giặt cái mùi soa…Ô là là…thấy ông bà ông vải!
Luận điệu của Hòa đã làm nhuệ khí của tôi mười phần giảm mất
tám chín. Nhưng tôi vẫn gân cổ lên cãi cho khỏi mất mặt anh hùng:
- Cậu nhát như cáy. Thế mà đòi làm những nhân vật kiếm hiệp
như Ngọc Kỳ Lân, Kim Hồ Điệp. Ngọc Kỳ Lân đâu có chưa chi đã co vòi lại như cậu.
Hòa vái vái:
- Thôi đi, tôi can cậu. Chả Kỳ Lân kỳ leo gì hết sất cả. Tới
mười Ngọc Kỳ Lân mà vô trong đó, bị nó bó giò thì cũng khóc thét lên mà đòi về
với má.
Tôi tò mò:
- Bó giò là làm sao?
Hòa quơ tay múa chân, cứ như thể hắn ta đã bị mật thám Pháp
đem ra bó giò nhiều lần:
- Này nhé, nó lôi cậu ra, bắt tụt quần xuống cho trơ thổ địa
ra, rồi lấy dây lạt cột hai ống chân lại nom như hai khúc giò, rồi sau đó đem cậu
đi ngâm nước! Ối chà chà, nước sẽ làm cho thịt của cậu…nở ra, dây lạt vì thế
thít lại. Ui! Nom đâu có khác gì khúc Giò Thủ ba ngày Tết, nếu có đem luộc rồi
chấm nước mắm chanh, ớt, tiêu, gừng thì chắc là hẩu sực!
Nói xong Hòa cười khà khà giọng đầy vẻ đắc chí, cứ như thể
chính mắt đã trông thấy tôi đang bị bó giò, ngâm nước theo cái kiểu đó. Đứt
đuôi đi rồi, từ bao lâu nay hắn vẫn hậm hực ghen tức vì tờ báo của tôi, mong
cho nó mau chóng chết ngỏm.
Tuy nhiên, có tức thì tức, hắn vẫn cứ phải tò mò coi xem
trong báo của tôi có những bài gì. Vì thế, hắn vẫn luôn luôn là thứ độc giả mua
báo đầu tiên khi mới ra lò. Chả biết hắn có khâm phục bài vở nào không, nhưng bề
ngoài thì bao giờ hắn cũng chê bai ỏm tỏi. Nào truyện này viết dở, bài thơ kia
lạc vận, chuyện cười này nhạt như nước ốc, cù cũng không cười..v..v…Nhưng chê
bai kiểu đó thì cũng phải thôi! Con gà tức nhau tiếng gáy mà lỵ! Nay có dịp
chính đáng để bươi móc, tội vạ gì mà hắn không mang đủ mọi thứ ra để dậm dọa
tôi đủ điều.
Nhưng nói cho ngay, hắn cũng có lý một phần. Vào thời kỳ đó,
học trò hoạt động bí mật bị bắt như cơm bữa. Nay có tin cậu này đang tung truyền
đơn trên lầu cao thì bị bắt quả tó, mai có tin cậu kia mang cả cọc truyền đơn
trong cặp táp bị chặn lại ở đầu đường để khám xét và bị phát giác. Rồi lại có
tin một toán học sinh đang ngồi ngay trong trường thì thào bàn soạn kế hoạch
kêu gọi học sinh bãi khóa thì mật thám ập vào truy hỏi, khám trong cặp lại thấy
những truyền đơn hô hào bãi khóa.. v.v.. Thế là bị tóm cả lũ, rồi bị đòn đau
nên nhiều cậu khai vung tí mẹt. Những màn tới tận nhà để bắt bớ lại xẩy ra khiến
dư luận học sinh và phụ huynh hết sức xôn xao. Trong cái tình thế đó mà cứ …ra
báo thì có khác gì "Lậy ông, tôi ở bụi này!"
Thế là sau buổi nói chuyện với Hòa, tôi quyết định đình bản
vô hạn định tờ báo. Bao nhiêu hồ sơ tòa soạn cùng là dụng cụ ấn loát gồm khuôn,
nồi, bút, mực…tôi lén đem ra thùng rác thủ tiêu hết.
Thôi rồi! Bao nhiêu công trình xây dựng và những mơ ước của
tôi lại một lần nữa tan ra mây khói!
CHƯƠNG III
Những tháng còn lại của niên học vừa đủ để cho tôi làm lại cuộc
đời. Khi đã rũ bỏ hoàn toàn ý định làm báo thì đầu óc của tôi trở nên thảnh
thơi để chỉ lo chuyện học hành. Ngoài ra, còn một động lực nữa đã ám ảnh tôi
trong suốt cuộc đời về sau này. Đó là một chuyện tuy cỏn con nhưng đã gây mãi
cho tôi nhiều âm hưởng xúc động.
Vào tháng cuối cùng trước khi rũ bỏ ý định làm văn nghệ, điểm
trung bình cuối tháng của tôi trong lớp đã suy sụp một cách thảm hại. Bài học
thường chỉ 1, 2 trên 10. Bài làm không lên tới 5 điểm để được trung bình. Riêng
hai bài toán của tuần lễ thứ ba và thứ tư thì tôi đã lãnh hai quả trứng vịt một
cách không oan uổng chút nào vì có đi học mà không nộp bài. Đó là kết quả của
những ngày chỉ mơ tưởng đến chuyện viết bài, chép bài và lụi hụi với những dụng
cụ ấn loát lỉnh kỉnh. Khi xếp hạng vào cuối tháng, tôi đứng hạng 51 trên 52 người,
hơn được đúng có một anh, không vẻ vang gì vì anh ta ốm liền một tuần, do đó
không đủ điểm để xếp hạng!
Buổi tối hôm đó, tôi hết sức lo lắng khi nghĩ đến lúc phải
trình sổ cho Ba tôi để xin chữ ký. Tôi không dám ra phố sau bữa cơm chiều để sẵn
sàng có mặt khi Ba tôi trở về. Tối hôm ấy, ông về trễ hơn mọi ngày. Trông ông đầy
vẻ mệt mỏi. Có lẽ ông đã gặp nhiều chuyện khó khăn ở sở làm. Khi ông đi qua cái
sân gạch rộng không đầy ba thước, lần đầu tiên tôi nhìn ông kỹ càng qua khung cửa
sổ ở bàn học. Quần áo của ông tuy tươm tất nhưng không giấu được vẻ nghèo nàn.
Vẫn cái quần tây sờn gấu mầu xanh nhạt, vẫn cái áo veston rộng thùng thình mầu
nâu xám đã bạc phếch sau bao ngày dầu dãi. Tôi vụt nhận ra rằng hình ảnh bộ quần
áo ấy đã in sâu vào trí nhớ của tôi không biết bao nhiêu năm trời đã trôi qua.
Nó quen thuộc đến nỗi tôi không còn chú ý đến nó nữa.
Ông không có nhu cầu. Nói đúng ra, ông không hề nghĩ đến nhu
cầu cho riêng mình, dù chỉ là may một cái quần mới, một cái áo mới thay cho bộ
đồ đã cũ kỹ từ bao nhiêu năm. Ông già đi hơn là hình ảnh quen thuộc vẫn lưu lại
trong ý nghĩ hằng ngày của tôi. Tuổi già làm trán của ông như sói thêm ra, những
lớp nhăn hai bên má như làm khuôn mặt của ông thêm dúm lại, và đôi vai gầy guộc
của ông như càng nhô thêm cao hơn sau lần áo rộng thùng thình. Ông đi những bước
mệt mỏi qua sân gạch. Đầu của ông cúi thấp. Hai ống quần rộng của ông không đủ
che lấp hai mũi giầy thật to, thật thô mà tôi nhớ hồi năm ngoái, khi ông đem về,
bọn trẻ ngu dại trong nhà tôi đã reo lên chế giễu:
- A… Giầy mõm nhái…Giầy mõm nhái…
- Ba chọn giầy gì mà nom kỳ khôi quá, thế hở Ba…
Ông không đáp lại đứa nào mà chỉ mỉm cười. Bây giờ hình dung
lại, tôi mới cảm thông được nỗi chua xót của ông qua nụ cười ấy. Rồi hồi lâu,
ông giải thích:
- Chú Minh thải cho Ba đấy. Nom nó thô một tí nhưng còn tốt
chán!
Lúc ông xỏ thử hai bàn chân vào đôi giầy, cả bọn chúng tôi cười
vang lên. Bàn chân của ông nhỏ quá. Lòng giầy lại quá to. Thằng em của tôi nói
rằng "chân của Ba bơi được trong đôi giầy".
Sau này ông đã sử dụng đôi giầy ấy với một mớ giẻ nhét vào
bên trong. Và bây giờ, trước mắt tôi, ông đang lê đôi giầy qua sân gạch với vẻ
mệt mỏi. Trong một giây thoáng qua, tôi vụt nhìn thấy tất cả sự hy sinh vô bờ bến
của ông cho đàn con dại sớm mồ côi mẹ là chúng tôi. Sự hối hận vì đã bê tha, thả
lỏng sự học trong mấy tháng trời qua làm tôi rưng rưng muốn khóc. Tôi muốn chạy
ra ôm chầm lấy ông để mà tạ lỗi, nhưng sự lầm lì, mệt mỏi của ông khiến tôi trở
nên rụt rè.
Lúc ông đi qua bàn học, tôi chào ông: "Thưa Ba đã về",
ông không nhìn tôi mà chỉ khẽ gật đầu, miệng ông hầu như muốn nhích một nụ cười,
nhưng vành môi khô héo chỉ khẽ rung động rồi thôi.
Suốt buổi tối hôm ấy, Ba tôi lầm lì không nói với ai một câu.
Bầu không khí trong nhà mang một vẻ u uất, buồn chán. Thật là xui xẻo cho tôi
vô cùng, vì cứ với cái đà này thì làm sao tôi có thể đẩy trôi được công việc ký
Học Bạ với cái thành tích khủng khiếp nhất so với tất cả mọi tháng kể từ đầu
niên học đến giờ.
Sau bữa cơm tối, ba tôi ra ngồi đọc báo trên ghế xích đu. Lũ
em tôi quây quần bên bàn học. Hôm nay chúng nó có vẻ nhộn nhạo dữ. Hết đứa này
gây gổ, chành chọe lại đến đứa kia quai mồm ra khóc. Hẳn nhiên cái bầu không
khí om sòm, ngậu sị đó dễ khiến cho người lớn bực mình. Tôi thì lại càng bực
mình hơn vì đang rình một cơ hội thuận tiện trong đó cả nhà đều vui vẻ để nuốt
cho xong cái màn "ký Học Bạ" gai góc này.
Cuối cùng khi Ba tôi buông tờ báo xuống để sửa soạn đi ngủ
thì tôi đành phải làm mặt chai lì, đẩy bảng phiếu điểm hằng tháng ra trước mặt
ông. Trống ngực tôi đập thình thịch. Tôi không rõ ông sẽ phản ứng thế nào khi
biết tôi "đội sổ" cho cả lớp. Ông bợp tai tôi chăng? Hay là ông nọc
tôi ra, phết cho một đòn nên thân như mẹ Hòa đã từng làm với hắn.
Nhưng bao nhiêu dự đoán của tôi đều sai hết cả. Ông đã đón lấy
bản phiếu điểm của tôi để xem một cách kỹ lưỡng. Cuối cùng ông ký tên một cách
lẹ làng, không hỏi một câu, không phiền trách một tiếng, cũng không thèm nhìn
xem cái bản mặt của thằng con trai ông đã tồi tệ đến mức nào để mà phải nhận
lãnh cái kết quả nhục nhã như vậy.
Thái độ ấy của ông đã xác nhận rằng tôi là một thứ bất trị, hết
thuốc chữa, khỏi cần khuyên bảo chi nữa cho mất công. Hẳn là ông giận tôi lắm
nhưng ông không biểu lộ ra bên ngoài. Tôi chỉ cảm thấy ông buồn nhiều hơn là giận.
Mỗi lúc buồn, khuôn mặt của ông như nhăn nhúm thêm, cằn cỗi đi, và ông bỏ lên
giường nằm, ngửa mặt lên trần nhà hút thuốc liên miên.
Về phần tôi, suốt đêm hôm ấy tôi đã thao thức. Tôi có cảm
giác như ở giường bên, Ba tôi cũng đang trằn trọc. Tôi nằm lắng nghe từng tiếng
động nhỏ nhặt ban đêm. Một vài con chuột nhắt chút chít kêu sau bàn thờ của mẹ
tôi, tiếng nói mê lảm nhảm ở bên giường các em tôi, và lâu lâu có tiếng Ba tôi
thở dài. Trong đêm vắng, tôi có dịp duyệt xét lại tất cả việc làm của tôi đã
qua. Tôi nhớ lại được cả trách nhiệm của tôi là phải làm gương mẫu cho lũ em
còn thơ dại đi sau. Việc học hành của tôi chắc chắn sẽ có ảnh hưởng đến chúng
nó. Nếu tôi khá hơn, tất chúng sẽ noi gương mà học hành chăm chỉ. Còn nếu cái
đà xuống dốc như hiện tại, chỉ một thời gian sau, chúng nó cũng chẳng ra gì.
Tôi vụt bừng tỉnh như một kẻ vừa được dẫn dắt qua khỏi vòng
tăm tối. Tôi tự hứa sẽ phải cố gắng thật nhiều hơn, giũ bỏ mọi đam mê hay những
thú vui tầm phào để chỉ lo lắng cho việc học hành. Tôi sẽ bắt đầu làm lại cuộc
đời từ ngày mai. Không văn chương, báo bổ gì nữa. Tôi sẽ bắt kịp các bạn tôi
trong tháng tới. Và kỳ thi cuối năm (hồi đó còn có kỳ thi Tiểu Học Tốt nghiệp)
cũng chẳng còn bao xa. Tôi sẽ chuộc lại lỗi lầm hôm nay bằng việc làm cụ thể.
Tôi sẽ thi đậu để cho ba tôi được vui lòng. Và hơn thế nữa, tôi sẽ cố gắng để
thi đậu vào trường Chu văn An vì được thế thì ngân khoản gia đình khỏi tốn kém
thêm tiền ra ngoài học trường tư.
Những ngày tiếp theo đó, tôi đã vùi đầu vào việc học. Trước,
thì như là một bổn phận, nhưng càng về sau, tôi lại càng thấy đó là một công việc
cũng có sự say mê. Một bài toán khó, moi óc để tìm ra được lối giải thì cũng thỏa
mãn được tính hiếu thắng mà từ đó sẽ vun đắp thành sự say mê. Hòa cũng như bị
lôi cuốn vào luôn sự say mê đó và khi giao hữu với tôi thì hắn đã mang cả tính
chất ganh đua nữa. Chì khác một điều là hồi xưa thì hai đứa ganh đua nhau về một
bài sáng tác nhanh hay chậm, dài hay ngắn, hay hoặc dở. Nhưng bây giờ thì chúng
tôi thách đố nhau về những bài toán khó.
Có tiền trong túi, chúng tôi không còn chi ra để mua truyện Tầu
nữa, mà gom lại để mua sách Toán như những cuốn 380 Bài Tính Đố, Tính Đố Luyện
Thi Tiểu Học, Giải Những Bài Tính Khó..v..v..Thậm chí gặp cuốn sách hay mà
không đủ tiền, tôi và Hòa phải đem truyện cũ đi bán cho các nhà cho thuê truyện.
Tôi còn nhớ cuốn Thủy Hử 72 số, mua gom từng số thành 72 đồng, đem bán chỉ 30 đồng.
Cuốn Thất Quốc Chí 18 số, bán 9 đồng, cuốn Tây Du hơn 100 số, Hòa bán 60 đồng.
Nói chung toàn là giá nửa tiền. Với tiền bán được, tủ sách học và luyện thi của
chúng tôi dồi dào phong phú hẳn lên. Hầu như bao nhiêu loại toán khó thời đó,
chúng tôi đều thu thập được hết và đã làm qua. Chúng tôi đã tiến bộ một cách
không ngờ!
Gần tới kỳ thi, thầy Huỳnh bắt chúng tôi đi học sớm thêm 1 giờ
để chuyên luyện Toán và Luận. Hồi này thầy càng dữ đòn thêm đối với những đứa
lười biếng. Nhưng giờ nghĩ lại, tôi mới thấy lòng thầy đối với học trò thật bao
la. Nhà thầy ở tuốt dưới khu Bạch Mai, coi như ngoại ô Hà Nội. Giữa trưa nắng,
thầy đạp xe đi dạy học từ hơn 12 giờ. Tới lớp, cả trường còn vắng hoe, chỉ
riêng có lớp của thầy là đã bắt đầu học. Thầy giảng bài rất tỉ mỉ và tận tâm.
Thầy có tâm trạng lo lắng như một bà mẹ sắp sửa phải đẩy đàn con vào cuộc đời
mà vẫn áy náy chúng nó chưa đủ lông, đủ cánh. Vì thế dù mệt mỏi, tốn sức bao
nhiêu, thầy cũng vẫn không quản ngại. Miễn sao lũ học trò ra khỏi tầm tay của
thầy, đứa nào cũng có một căn bản vững vàng như ý thầy mong mỏi.
Công trình khó nhọc của thầy trong suốt 3 tháng trước nghỉ hè
quả đã không uổng một chút nào.
Kỳ thi Tiểu Học năm đó, cả trường Nguyễn Du chỉ rớt có vài chục
người. Riêng lớp của thầy Huỳnh chỉ rớt có 5 người. Đó là một thành tích đáng nể!
Rồi vào đến kỳ thi tuyển lớp Đệ Thất ở trường Chu Văn An, lớp
của tôi có tới 28 người đỗ. Đó lại là thêm một thành tích và vinh dự khác nữa
vì tỷ lệ học sinh được vô lớp Đệ Thất trường công rất ít oi. Có cả vài ngàn thí
sinh mà số học sinh được tuyển vô chỉ hơn 700 người. Tôi còn nhớ Hòa đậu hạng
69 được xếp vào lớp 7 B2, còn tôi đậu hạng 320, được xếp vào lớp 7 B5.
Thế là ở niên khóa bước vào ngưỡng cửa của bậc Trung Học, tôi
và Hòa phải chia tay.
***
Trường Chu văn An năm đó còn nằm ở phố Hàng Bài, phía sau trường,
có cổng ra vào rất rộng thì nhìn ra đường Rolland, nay là đường Lý Thường Kiệt.
Thông thường chúng tôi toàn đi vào trường theo lối cổng sau mà nơi đó cũng hay
tụ tập khá đông đảo những hàng quà rong như bánh tôm, thịt bò khô, kẹo đúc
bào…toàn những món khoái khẩu của đám học trò thuộc con nhà khá giả. Hồi đó,
trong khuôn viên của trường còn chưa có sân khấu Côn Sơn, tức là một hí viện bỏ
túi được xây dựng do công lao vận động của Giáo sư Vũ Khắc Khoan về sau này.
Khi sân khấu Côn Sơn hình thánh, chính tại đây, các học sinh thuộc bậc đệ nhị cấp
đã tập tành văn nghệ để cuối năm trình diễn Tất niên tại nhà Hát Lớn với vở Kịch
Thành Cát Tư Hãn hay màn vũ Trấn Thủ Lưu Đồn mà những diễn viên của trường trở
nên nổi tiếng như cồn, tôi chỉ còn nhớ có Hoàng Thư, Long Cương….
Cũng vào thời kỳ đó, tổ chức “Sinh Viên Học Sinh Hành Chính
Kháng Chiến Đô Thành” hoạt động khá mạnh. Cứ vài ba hôm, đứng ở dưới sân trường
tôi lại thấy có bàn tay thò ra từ các cửa sổ của mấy tầng lầu trên để tung ra
hàng nắm truyền đơn bay lả tả rồi nằm phơi trắng xóa trong sân trường. Truyền
đơn in bằng thạch bản hay đất sét trắng (thay cho thạch trắng), cũng toàn kiểu
chữ kẻ bằng tay theo lối chữ in (để tránh bị giảo nghiệm) và nội dung thì kêu gọi
học sinh toàn thành bãi khóa để chống đối chính quyền. Cái màn bãi khóa này,
trước vì ham vui nên được học sinh tham gia nồng nhiệt, nhưng sau rồi cũng nhàm
và nhất là bị mất nhiều ngày học trong năm nên sau cùng chỉ có ít người hưởng ứng.
Điều này chứng tỏ ý thức chính trị của đám học sinh trung học thời đó cũng
không rõ nét là bao nhiêu. Về sau, vào khoảng năm 1950 hay 51 thì trường Chu
văn An được rời lên trường Đỗ Hữu Vị cũ, ở gần Cửa Bắc và ngôi trường ở phố
Hàng Bài thì đổi tên thành trường Nguyễn Trãi cho đến khi di cư vào Nam năm
1954.
Năm đầu tiên của bậc trung học đối với tôi thì thật nhiều bỡ
ngỡ. Tôi chưa quen với lối giảng dạy “mỗi thầy phụ trách một môn”, khác hẳn cái
thời ở tiểu học thì “mọi môn chỉ có mỗi một thầy”. Vài vị giáo sư hồi đó mà tôi
còn nhớ như: thầy Đặng hữu Thụ dạy môn Văn, thầy Lê Hữu Thu dạy Sử, thấy Bùi
đình Tấn dạy Địa, thầy Huỳnh Quang dạy môn Toán (qua năm sau thì thầy Nguyễn đức
Kim thay thế), thầy Nguyễn Quỳnh dạy Vạn Vật, thầy Nguyễn đức Hiếu dạy Pháp
văn, thầy Lê văn Hoạch dạy Anh văn, Cụ Nghè Giác tức Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Giác dạy
Hán văn, Nhạc sĩ Thẩm Oánh dạy Nhạc, sau này thầy nghỉ thì nhạc sĩ Chung Quân
thay thế (thầy Chung Quân là tác giả bản nhạc rất nổi tiếng “Làng Tôi”, thế mà
bọn chúng tôi hay gọi lén tên thầy là Chung Quần, thật láo hết sức!).
Vào niên học mới, tôi còn nắm vững được việc học tập trong
hai, ba tháng đầu. Nhưng càng về sau, sự cố gắng của tôi như lỏng dần ra. Lý do
thứ nhất như đã nói ở trên là mọi sinh hoạt cái gì cũng mới lạ: hết giờ thì đổi
giáo sư làm cho liên hệ giữa thầy và trò không còn chặt chẽ như xưa, môn học
cũng hoàn toàn khác lạ, nếu không được chăm sóc tận tình thì cặp giò non của bầy
chim bỡ ngỡ sẽ bị run rẩy và lạc hướng ngay. Tôi muốn nói đến tầm quan trọng và
trách nhiệm lớn lao của các thầy cô phụ trách những lớp khởi đầu cho những năm
nền tảng của bậc Trung Học. May mắn thay cho các bạn trẻ đã được gặp các vị
giáo sư tận tâm, thấu hiểu tâm lý trẻ và có kinh nghiệm trong ngành chuyên môn
của mình. Các bạn ấy sẽ được dìu dắt, hướng dẫn để đi những bước vững vàng. Và
cũng may mắn thay cho các bạn trẻ khi bị lạc hướng nhưng về nhà đã có anh hay
chị hoặc phụ huynh chỉ bảo, nâng đỡ.
Tôi đã không rơi vào hai trường hợp may mắn ấy, nên chỉ trong
vòng vài tháng đầu, tôi đã thấy ở một vài môn, nhất là môn Toán, đã không còn
thuần túy là môn Số Học mà ở tiểu học chúng tôi rất am tường. Lên trung học,
môn Số Học (Arithmétique) không còn nữa mà trở thành 2 ngành riêng biệt: Hình Học
(Géométrie) và Đại số (Algèbre). Thời ấy tôi chán nhất là môn Hình Học khởi đi
bằng những bài “Vẽ Toán” rất buồn nản, chẳng có gì hấp dẫn đối với tôi, ngoại
trừ chính ông Thầy dạy thì cứ tới cuối tuần lại xuất hiện trong ngôi nhà Kèn ở
vườn hoa Chí Linh để dạy bọn trẻ con khắp nơi tụ lại để học…hát!
Nhà kèn trong vườn hoa Chí Linh, cạnh Bưu Điện Hà Nội
Gọi là ngôi nhà chứ thật ra đấy chỉ là một cái đài hình bát
giác, cất trên nền cao, có mái vòm che kín và bốn bề tuyênh toang không có cái
cửa sổ nào bao quanh cả. Chỗ ấy, ngày thường là chỗ để cho khách nhàn tản ngồi
nghỉ chân hóng mát hay về đêm cũng là nơi trú ngụ của dân hành khất, không nhà,
không cửa. Nhưng vào chiều Thứ Bẩy hằng tuần thì ở đây đông vui vô số kể.
Tôi không ưa thầy dạy Vẽ Toán trước bảng đen phấn trắng nhưng
lại rất quý thầy ở những buổi chiều Thứ Bẩy vì thầy đã chịu khó tới đây, vừa
phân phát những bài hát in ronéo cho bọn trẻ bất cứ từ đâu kéo đến và vừa tập
cho cả lũ chúng tôi cùng hát.
Hầu như hồi đó, chẳng buổi nào mà tôi không cuốc bộ từ dốc
hàng Kèn ở ngay đầu phố Nhà Chung, đi ra Bờ Hồ, qua nhà Bưu Điện tới vườn hoa
Chí Linh để cùng chen chúc trước nhà
kèn với hơn trăm đứa trẻ khác cũng đã mò đến nghe dạy hát và
tập hát.
Nghĩ lại, thấy những con người thời xưa sao có thể ứng xử với
nhau hiền hòa và an bình đến như thế.
Cũng chính ở đây mà chúng tôi chen chúc nhau trước nhà Kèn để
gân cổ cất lên những bài ca yêu nước tuyệt vời như Bạch Đằng Giang, như Gò Đống
Đa, như Ải Chi Lăng..v..v…dưới đôi tay bắt nhịp của ông thầy. Cái quang cảnh ấy
là những hình ảnh tuyệt vời, bất diệt trong tâm tưởng lũ chúng tôi, và thế hệ
chúng tôi luôn biết cám ơn những ông thầy tận tụy như thế.
Khi ngồi viết đến đây, tôi lại nhớ đến Thầy Nguyễn An, người
dạy các lớp hè ở trường Bách Việt, ngôi trường nhỏ xíu nằm trên đường Tràng
Thi, khúc đường nhìn ra ngõ Hội Vũ. Giọng sang sảng của thầy cứ như còn vang vẳng
trong đầu. Thầy dạy chúng tôi môn Pháp văn khiến chúng tôi biết thêm nhiều thứ,
nhất là vở kịch Le Cid trong có những nhân vật như Don Gormas, Don Rodrigue, và
nhất là nàng Chimène yêu kiều mà bọn chúng tôi đã dùng tên của nàng thay thế
cho tên tất cả những “người đẹp” mà chúng tôi quen hay được biết.
Nhưng cũng chính thầy là người đã hay thốt nên lời, bằng tiếng
Pháp: “Où sont les neiges d’antan?” (Đâu rồi đâu tuyết cũ ngày xưa?) để gợi lên
trong lòng chúng tôi một nỗi niềm rung cảm, ngậm ngùi, luyến tiếc mỗi khi nhớ đến
những cảnh cũ người xưa.
Tôi nhớ đến câu của Thầy ở trên là vì nhân gợi lại quang cảnh
những buổi chiều thứ Bẩy hồi xưa ở vườn Hoa Chí Linh, ven Bờ Hồ - Hà Nội. Có vẻ
rằng tôi đã tham lam, chuyện gì cũng muốn ghi gói, kể lể. Nhưng sao tôi quên được
hình ảnh những buổi chiều êm ả, trong khu vườn hoa xinh đẹp kia đã vang vang tiếng
hát của đám trẻ nhỏ không rủ nhau mà cứ tự động kéo đến. Thật hiếm hoi khi lại
có thể nhìn thấy một tập hợp đông đảo bao gồm đám trẻ lau nhau thuộc đủ mọi
thành phần trong xã hội, lang thang bụi đời, không nhà không cửa có, mà thứ có
nhà có cửa, có mái ấm gia đình cũng có, tất cả lại tự động đến với nhau để cùng
nhau tập hát dưới sự chỉ dẫn tận tình của một nhà giáo yêu trẻ, yêu nghề. Thế
có lạ không!
CHƯƠNG IV
Nhưng dẫu quý trọng Thầy đến mức nào thì tôi cũng phải thú nhận
rằng sức học của tôi cứ thế…đuối dần, nhất là môn Toán! Hồi ở tiểu học, tôi
quen với lối giải toán “giả thử” như thế này, “giả thử” như thế kia, rồi so
sánh với các dữ kiện bài toán đã cho để tìm ra đáp số đúng. Cách giải này luyện
cho bộ óc của chúng tôi biết suy luận, biết khách quan, biết chọn lựa phương hướng
đúng..v.v….
Ấy vậy mà đi vào môn Vẽ Toán ở năm đầu bậc trung học, tôi cứ
phải chia tỉ mỉ trang giấy thành nhiều ô, mỗi ô tương trưng cho một độ chiều
dài có khi tính bằng centimet, có khi bằng mét, rồi vẽ hình vuông, hình chữ nhật,
hình thang, hình đa giác..v..v.. tất nhiên lợi ích của nó là rèn luyện tính tỉ
mỉ và chính xác vốn là điều kiện căn bản để đi xa hơn trong lãnh vực toán học.
Nhưng hồi ấy sao tôi thấy chán ơi là chán. Trước thì lơ đãng lúc nghe giảng
bài, sau vì bài học đã đi sâu hơn nữa thì tôi lõm bõm không hiểu thầy nói gì
(hay có khi là không chịu khó tìm hiểu ). Thế là đâm ra chán học, rồi từ chỗ
chán học, tôi lại bắt đầu buông thả trở về với những cám dỗ “văn nghệ” ngày
xưa.
Ngã rẽ khởi đầu vào một hôm trong giờ Vẽ Toán, anh bạn ngồi
bên cạnh tôi lén mở tờ nhật báo Giang Sơn ra khoe:
- Cậu có thấy cái này không?
Tôi nhìn xuống trang báo ngắm nghía. Hắn chỉ ngay vào một bút
hiệu đặt dưới cái truyện ngắn đăng trong mục “Truyện ngắn hằng ngày”:
- Song Vũ đó!
- Song Vũ là ai?
Hắn vỗ ngực:
- Tớ chứ còn ai! Trời ơi! Tớ viết báo từ lâu, cậu không biết
à?
Tôi nhìn hắn nghi ngờ. Trong thâm tâm, tôi không thấy có liên
hệ mảy may gì giữa cái tên cúng cơm Trần văn Tắc của hắn với cái bút hiệu Song
Vũ hào hoa kia. Chừng như hiểu rõ sự nghi ngờ của tôi, hắn hụp lưng xuống gậm
bàn để tránh cặp mắt kiểm soát của giáo sư, rồi moi ở ví ra một tấm danh thiếp
trao cho tôi. Tôi cầm lấy, liếc qua. Quả nhiên hắn làm cho tôi phục lăn vì mấy
hàng chữ:
TRẦN VĂN TẮC
Bút hiệu SONG VŨ
Journaliste
Journaliste thì là ký giả đứt đuôi đi rồi. Ôi chà! Mới mấy
phút trước, đối với tôi hắn chỉ là một thằng nhãi con, nhưng coi xong tôi thấy
hắn trở nên to lớn trọng đại vô cùng. Giuốc-nan-lít! Giuốc-nan-lít! Ba cái tiếng
đó như nổ lên đùng đùng, nghe sao mà hấp dẫn và giòn giã đến thế!
Tôi cầm tấm thiệp như cầm trong tay một phép lạ và nhìn hắn cảm
động như tôi đang được hân hạnh tiếp xúc với một yếu nhân. Mãi rồi tôi mới hỏi
hắn được một câu:
- Oai quá nhỉ! Cậu nhỏ thế này mà cũng được nhà báo mời cộng
tác kia à?
Tắc nhún vai ra vẻ điệu nghệ nhà nghề lắm:
- Ờ …thì cũng gửi bài thường xuyên.
- Đăng được bao nhiêu tác phẩm rồi?
Tắc hơi ấp úng:
- Cũng vài ba truyện gì đó…
Tôi chợt nghĩ bụng, dám tên này "lòe" mình lắm. Mới
vừa rồi nó nói " Tớ viết báo từ lâu", lại nói: "..thì cũng gửi
bài thường xuyên", như vậy mà mới chỉ đăng có "vài ba truyện gì
đó" là sao? Nhưng mặc dù vậy, sự cảm phục của tôi đối với hắn cũng chỉ giảm
đi có tí xíu, tí xịu thôi. Vì hắn có bài được đăng báo hẳn hòi, chẳng phải là
oai lắm sao. Mà bài báo ấy là đây, ngay trước mặt tôi, một truyện có tên là
"Nợ đời chưa trả" với cái tên tác giả SONG VŨ chềnh ềnh, được in tới
hai lần, một lần ở ngay cạnh tít bài, một lần ở cuối truyện, có mở ngoặc đơn
ghi thêm hàng chữ: " Hà Đô, một ngày sang mùa năm Sửu."
Ối chà chà….nghe sao nó "văn nghệ" đến thế!
Thế là từ buổi hôm đó, tôi cứ xoắn lấy Trần văn Tắc như bóng
với hình. Tôi cung phụng hắn đủ thứ mà không bao giờ tiếc tiền. Ăn một cái bánh
rán tôi cũng mua hai cái. Tính uống một ly nước, tôi cũng muốn cố chờ bằng được
để mời Tắc một ly dù đang khát khô cổ. Tắc không còn là thằng bạn tầm thường ngồi
bên tôi cả mấy tháng trời nay nữa. Bây giờ dưới mắt tôi, đó là một "Giuốc-nan-lít"
chính cống Bà lang Trọc, có "Các-vi-dít" in đàng hoàng và có tác phẩm
in trên nhật báo Giang Sơn.
Qua câu chuyện với Tắc, tôi vẫn giấu hắn là tôi cũng đã từng
làm chủ nhiệm kiêm chủ bút của tờ Bút Mới. Nói ra xấu hổ chết, vì một đàng báo
của hắn là báo in, có độc giả trên toàn quốc, còn báo của tôi chỉ là thứ báo
con nít, nào có khác chi một hòn non bộ để cạnh núi Thái Sơn. Bởi thế, tôi chỉ
đóng vai khù khờ "yêu văn nghệ nhưng không dám làm văn nghệ" và cứ để
cho hắn tha hồ huyênh hoang, nồ nạt tôi đủ thứ toàn những danh từ đao to búa lớn
như sáng tạo, thiên tài, vạch đường cho một nền văn nghệ mới…v..v…
Thực sự trong thâm tâm, tôi đã có chủ đích rồi. Tôi sẽ trở lại
với nghề văn chương. Nhưng lần này tôi sẽ quyết tâm đi bằng cánh cửa lớn: cánh
cửa "Nhật báo Giang Sơn" như Tắc vậy, chứ không thèm viết báo con nít
in thạch bản nhì nhằng nữa.
Định kiến của tôi là sẽ viết được một truyện ngắn thật hay, rồi
một hôm nào đó sẽ trịnh trọng mời Song Vũ đi ăn một chầu bánh tôm ở Cổ Ngư. Khi
đó tôi sẽ nhờ hắn giới thiệu với tòa soạn báo Giang Sơn. Hẳn nhiên là hắn sẽ chẳng
bao giờ chối từ một kẻ đã không quên nghĩ đến hắn từ một ly kem đến một cái
bánh rán, hoặc hôm nào rủng rẻng thì còn có thể thêm một chầu thạch trắng hay
thạch đen gì đó nữa không chừng.
Vấn đề chính yếu đi vào lãnh vực báo chí không phải là thiếu
người giới thiệu mà là ở chỗ phải viết cho hay. Viết không hay thì dù có đến
trăm lời gửi gấm tất cũng bị sổ toẹt.
Vậy thì tôi biết viết cái gì đây? Mà thế nào thì được gọi là
một tác phẩm hay? Ôi chà! Từ xưa đến nay đã bao nhiêu lần tôi được đọc các tác
phẩm hay của biết bao nhiêu tác giả lừng danh đương thời, vậy mà bây giờ bảo định
nghĩa thế nào là “một tác phẩm hay” thì tôi tịt mít.
Phải chi mà ngày đó tôi có được những bài đề cập đến việc viết
lách như cuốn “ Viết và đọc Tiểu Thuyết” của nhà văn Nhất Linh, hay bỏ rẻ lắm
thì cũng có được bài viết đăng ở Thiếu Nhi số 57 vào tháng 9-1972 thì hay ho biết
mấy. Xin trích lại như sau:
VIẾT LÀ GÌ?
“Viết là thể hiện lên trang giấy những cảm nghĩ, những tư tưởngcủa
mình. Có thể ta viết cho chính mình (viết nhật ký), cho bạn bè ( viết thư từ),
cho đám đông (sáng tác Thơ, Văn, Kịch, phê bình, biên khảo…).
Có nhiều vấn đề để viết. Có thể ta viết để mô tả một hành động,
diễn tả một tâm trạng, phát biểu một ý nghĩ, trình bầy một sự kiện, một biến cố…v.v..
Muốn viết được, trước tiên ta phải có Ý. Sau đem thể hiện Ý
thành LỜI tức CÂU VĂN.
Quy tắc viết một CÂU VĂN cho đúng, cho gẫy gọn gọi là VĂN PHẠM.
Trong một câu văn, Lời và Ý phải tương xứng với nhau. Ý ít mà
lời nhiều thì câu văn rườm rà, nhạt nhẽo. Ngược lại Ý nhiều mà lời ngắn ngủi
thì câu Văn trở nên Cộc.
Bởi vậy Ý và Lời luôn luôn có ảnh hưởng mật thiết với nhau. Hễ
sửa một Lời cho đẹp thì Ý có thể được nâng lên, mới hơn, hay hơn. Hãy nhận xét
đoạn văn dưới đây:
“ Và bên kia con đường Phan Thanh Giản một cây phượng đã nhô
lên sau bức tường của một ngôi biệt thự những cành cây khẳng khiu mang đầy hoa
đỏ nhìn ra trông thật tuyệt, mầu đỏ của phượng nổi bật giữa màu xanh tươi mướt
mịn của lá cây trong khu vườn ngoài cửa sổ lớp Hà”
Ta thấy tác giả có những ý sau đây:
1) Tác giả ngổi ở cửa sổ lớp học nhìn ra.
2) Ngoài cửa sổ là khu vườn có cây xanh tươi mướt mịn.
3) Bên kia khu vườn, qua đường Phan Thanh Giản là một cây phượng
nhô lên khỏi bức tường của một căn biệt thự. Hoa phượng đỏ trên cành nổi bật
trên nền lá xanh của khu vườn.
4) Cảnh đó thật tuyệt.
Với những ý đã phân tích và với lời trích đăng ở trên, ta thấy
lời không thể hiện hết ý, việc xếp đặt ý hãy còn lộn xộn làm câu văn chưa được
sáng sủa, mạch lạc. Có thể sửa lại như sau:
“ Qua khung cửa sổ chỗ Hà ngồi là vườn cây xanh mướt. Phía
sau vườn cây, bên kia đường Phan Thanh Giản là một cây phượng khẳng khiu nhô
lên từ dẫy tường vôi của một ngôi biệt thự. Hoa Phượng đỏ thắm. Mầu đỏ chói mắt
điểm trên màu xanh mát mắt của lùm cây, nom thật tuyệt.”
Văn sửa được như vậy được coi là gọn. Nhưng đoạn văn còn theo
khuôn mẫu tả cảnh thông thường bởi những chữ: bên kia đường là một cây phượng
nhô lên nom thật tuyệt. Có thể vẫn ý ấy, ta diễn tả một cách khác mang nhiều
tính cánh sáng tạo, riêng biệt hơn:
“Khung cửa sổ chỗ Hà ngồi là một thế giới đầy mầu sắc. Mầu
xanh trong của nền trời. Mầu xanh mướt của vườn cây. Mầu vàng chói của dẫy tường
vôi trong ngôi biệt thự phía đằng xa. Mầu nâu đậm của những cành cây phượng khẳng
khiu, gầy guộc. Và mầu hoa phượng nở đỏ chói trên cành. Tất cả như bừng dậy, rực
rỡ dưới bầu trời chan hòa ánh sáng.”
(ngưng trích)
***
Từ đoạn tả cảnh I đến đoạn tả cảnh III ở trên, ta thấy rõ là
có một sự biến đổi sáng tạo. Viết văn, cần nhất là sáng tạo. Đó là trên nền tảng
của những cái chung, ta tìm ra được những khía cạnh riêng của mình mà không ai
thấy, không ai có..v..v….Điều này sẽ làm cho tác phẩm dễ hay và không bị nhàm
chán bởi nếu không thì sẽ chóng rơi vào tình trạng “viết như thế thì ai cũng có
thể viết được”.
Vào thời gian đó, tôi không tìm thấy những bài báo nào hướng
dẫn cụ thể cho mình “viết văn” đại loại như loạt bài trên Thiếu Nhi kể trên. Mặc
dù vậy, tôi cũng biết tự mò mẫm bằng cách “đọc kỹ một cuốn sách”, rồi lại “đọc
trên báo bài giới thiệu hay phê bình cuốn đó”, mục đích là để nghiền ngẫm xem
các phê bình gia mổ xẻ và đánh giá một tác phẩm như thế nào. Tất nhiên những cuốn
của các nhà phê bình chuyên nghiệp như Nhà Văn Hiện Đại của Vũ Ngọc Phan thì bọn
tôi cũng đã vầy nát, không phải cả cuốn mà chỉ chú trọng ở những trang nói về
các tác giả hay tác phẩm nào mà mình thích thôi.
Căn cứ vào dư luận độc giả, cuốn được khen nồng nhiệt nhất
vào thời kỳ đó là cuốn "Đất" của nhà văn Ngọc Giao. Tác phẩm này diễn
tả cuộc đời vợ chồng anh Xã Bèo khốn khổ, sống chết cho mảnh đất của mình. Tôi
xúc động nhất là cái cảnh chị Xã Bèo còn đau chưa khỏi mà vẫn phải theo chồng
ra ruộng. Rồi anh chị thay nhau làm trâu kéo cầy để để vỡ mảnh đất của mình cho
kịp ngày gieo mạ. Đó là một hình ảnh chua xót của người nông dân V.N sau tám
mươi năm Pháp thuộc, nhưng đấy cũng là hình ảnh hào hùng, kiên nhẫn, chịu đựng
của một thế hệ mới đang ra công khai dựng lại từ đầu với hai bàn tay trắng và với
sự bền bỉ, nhẫn nại chỉ có ở những con người quê mùa, chất phác.
Tôi không dám ước mơ là sẽ đạt tới ngay mức nghệ thuật của
các bậc đàn Anh, đàn Cụ như vậy. Ước mơ nhỏ bé của tôi chỉ vừa vặn bằng một phần
tư trang nhật báo hàng ngày. Nghĩa là vừa đủ tầm mức để tòa báo chấp nhận cho một
truyện của tôi được đăng vô đó.
Tôi bỗng nẩy ra cái ý nghĩ đem bài của Song Vũ ra làm tiêu
chuẩn để mà sáng tác. Thật ra ba cái truyện ngắn của Vũ tôi đã đọc gần như thuộc
lòng vài đoạn. Hắn có biệt tài dùng câu văn sáo và rỗng, đọc lên chẳng có mấy
nghĩa lý gì nhưng nghe lại uyển chuyển vui tai. Tỉ dụ như tả cảnh buổi chiều ở
thành phố, hắn viết dông dài đại để như:
" Con phố rưng rưng trải dài triền miên trong không gian
khắc khoải tím như nỗi tím buồn hoàng hôn đong đầy không gian cô quạnh của
thành phố lúc lên đèn".
Hoặc giả những câu:" Đã hơn một lần mưa về trong khóm
lá…", "Đã hơn một lần con tim dạt dào thổn thức…"..v..v..Phải
thành thật mà nói, gò được như thế cũng không phải là dễ. Và vào thời kỳ đó,
văn chương tân kỳ gọt giũa bề gì cũng được tiếp đón nồng hậu hơn là thứ văn
xuôi xị, thẳng đuồn đuột, có gì nói nấy.
Bắt chước Song Vũ, tôi bắt đầu đem các truyện ngắn đã viết của
tôi ra lựa chọn và sửa chữa tuy không theo hẳn giọng văn cầu kỳ đó nhưng cũng
loại bớt đi những câu mà tôi cho là quá "thật thà". Truyện ngắn được
tôi lựa chọn đầu tiên là truyện "Chiếc nhẫn Mặt Ngọc", tác phẩm mà đã
có lần Hòa mạt sát không tiếc lời.
Tất nhiên những ý kiến của Hòa cũng đem lại cho tôi nhiều điều
hữu ích. Tôi sửa chữa cốt truyện lại cho bớt vẻ xếp đặt hơn, câu văn gọt giũa lại
cho bớt nôm na đi, và nhất là theo kiểu Song Vũ, thỉnh thoảng tôi lại chêm vào
ít đoạn tả cảnh theo đúng mốt đương thời: cũng hoàng hôn tím tím, cũng thành phố
lên đèn, cũng dòng đời tám hướng hay lạc nẻo tâm tư. Tổng cộng truyện ngắn của
tôi dài tới tám trang giấy khổ đôi, chữ nhỏ xíu. Sau khi kiểm điểm lại theo
đúng luật lệ nhà báo: chấm phẩy rõ ràng, khi đối thoại phải hai chấm xuống
dòng, có gạch đầu dòng, không viết tháu, không viết tắt, những chỗ in nghiêng để
nhấn mạnh phải gạch dưới, bài chỉ chép có một mặt giấy..v..v…
Cuối cùng, tôi hoàn toàn tự mãn về cả hình thức lẫn nội dung.
Rồi tôi trịnh trọng cho tác phẩm vào một phong bì thật trắng, thật phẳng phiu,
ngoài nắn nót đề: " Kính gửi ông Chủ Nhiệm nhật báo Giang Sơn", ở dưới
lại cẩn thận ghi thêm: "Bài lai cảo, không lấy nhuận bút."
Ối chà! Đấy là một kinh nghiệm bằng vàng mà Song Vũ truyền lại
cho tôi. Hắn nói:
- Cậu là tay mơ mới vô nghề, muốn dễ dãi được đăng thì phải đề
rõ là "không lấy nhuận bút". Bầy tỏ ý định dứt khoát như vậy sẽ khiến
người ta không ngại, chứ cứ im lìm không nói rõ ra, họ sợ khi đăng rồi, mình tới
gõ cửa đòi tiền thì vỡ nợ. Mà nếu có phải trả tiền thì thà họ để mua bài của
các cây bút đã nổi tiếng còn hơn.
Tôi thắc mắc:
- Thế rồi nay mai có bài đăng hoài, mình cũng phải theo cái
kiểu cơm nhà vác ngà voi vậy mãi sao?
Song Vũ cười ha hả:
- Cậu thật chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng Tổng. Thì cứ mong nó
đăng cho hoài đi đã nào. Càng đăng nhiều càng có tiếng. Một khi đã nổi tiếng rồi
thì ô-voa tụi nó, chạy qua báo khác. Có khi độc giả sẽ óe lên, cật vấn tòa soạn
là sao lâu không thấy xuất hiện bài của tác giả đó nữa. Ui cha, lúc đó phải biết,
có mà họ phải trải chiếu hoa mời cậu lại, chứ ở đó mà kỳ kèo chuyện nhuận bút!
Ngừng một lát, Vũ lim dim:
- Trong hoàn cảnh đó, mình sẽ vô làng báo bằng cánh cửa lớn!
Chả cứ một tờ mà vô số tờ xúm lại mời cộng tác. Cái cảnh "lai cảo" sẽ
không còn nữa mà cậu sẽ trở thành một nhà bỉnh bút, cậu hiểu chưa! Bỉnh bút chứ
không phải thứ độc giả tép riu gửi bài thất thường nữa. Tới chừng đó, nếu Thánh
cho ăn lộc, cậu sẽ lại còn được mời giữ một mục cố định trên trang báo, đại để
mục Truyện ngắn, mục Thơ hàng ngày…Úi chà chà…."văn học sử" có tên mấy
hồi!
Cái tương lai do Song Vũ vừa vẽ ra nghe huy hoàng quá, tôi
nghe mà thấy sốt cả ruột, không biết cái phận mình sẽ phải tới bao giờ thì mới
đạt được sự vinh quang đó.
Nhưng anh chàng Trần văn Tắc tự Song Vũ này bản tính cũng hay
khoác lác lắm. Nhiều lần hắn khoe là đã quen lớn ở tòa soạn báo Giang Sơn, lại
"trộ" (hù) tôi là đã được hân hạnh bắt tay bác sĩ Chủ nhiệm Hoàng Cơ
Bình mấy lần vì tác phẩm của hắn được độc giả viết thư về ca tụng không tiếc lời.
Ấy vậy mà khi tôi nhờ hắn gửi bài đi cho tôi, kèm theo "mấy lời gửi gấm nồng
nhiệt" thì hắn lại kiếm cớ thoái thác hoài. Cuối cùng tôi giận lắn, đi ăn
kem một mình và nhủ thầm:
- Đếch cần thằng nào nữa. Mình gửi lấy một mình, có làm sao.
Lý thuyết thì như vậy, nhưng bước vào thực tế thì tôi thấy quả
là rất cam go. Tôi còn nhớ là mình đã phải thật công phu mới đẩy trôi được cái
phong bì của tôi vào tòa soạn.
Trước tiên là tôi phải làm một cuộc điều nghiên về cái vị trí
của tòa báo. Nó nằm ở cuối phố Hàng Trống, tiếp giáp với phố Hàng Khay, mặt tiền
quay ra Hồ Gươm, xế cửa phía bên kia đường là nhà Khai Trí Tiến Đức, còn bên cạnh
thì có tiệm ảnh Hưng Ký, khách sạn Phú Gia, rạp chớp bóng Lửa Hồng của Hội Hướng
Đạo. Tòa báo tuy không to lắm nhưng cũng rất khang trang. Nhìn bên ngoài thì chỉ
thấy bảng hiệu báo Giang Sơn quét sơn đỏ chói, phía dưới thì một bên là cửa ra
vào, còn một bên là tủ kính trong suốt, đứng ở ngoài, ngó xa xa lại sẽ chẳng thấy
gì hết trơn ngoài mặt nước Hồ Gươm và lùm cây xanh phản chiếu trong kính gương
thấp thoáng.
Phía trước của tòa báo là một cái giá gỗ khuôn khổ bằng một tờ
nhật báo mở rộng. Mặt giá bên này dán trang 1 và trang 4 của tờ báo ra trong
ngày. Mặt giá bên kia dán trang 2 và trang 3. Vào thời kỳ đó, các báo ở Hà Nội
có một mỹ tục rất đáng tuyên dương là đem báo dán ở cửa tòa soạn cho độc giả
không tiền mua báo được coi thong thả. Ven hồ Hoàn Kiếm, xế rạp Philharmonique
cũng có một dẫy bảng dán báo như vậy, nhưng công trình này thuộc về Sở Thông
Tin Đô Thành với chủ trương báo chí phải được phổ biến sâu rộng để nâng cao dân
trí.
Nếu ai chịu khó bước vào phòng Thông Tin ở ngay cạnh đó thì
còn được xem "chùa" đủ các loại báo, kể cả những tờ nhật báo từ Sài
Gòn gửi ra. Mặc dù vậy, chẳng vì thế mà số báo bán ra của các tòa soạn bị suy
giảm. Ở Hà Nội, giới trung lưu, hầu như nhà nào cũng mua báo riêng để đọc, ít
ra là 1 tờ. Đọc báo ở nhà là một cái thú của nhiều người. Không ai tiếc 1 đồng
(sau lên giá 2 đồng) để mất công lóc cóc đi đọc báo cọp. Nạn thuê báo không bao
giờ xẩy ra như có một dạo tệ nạn này đã xẩy ra ở ngay tại Sài Gòn khiến nhiều tờ
nhật báo như Ngôn Luận, Sài Gòn Mới, Tiếng Chuông..v..v…la lên chói lói.
Khách khứa của những bảng dán báo vì thế không đông đảo là
bao. Phần đông chỉ là những người rảnh rỗi, chán cuốc bộ vỉa hè thì áp vô, liếc
qua coi tin tức cho giết thì giờ. Chỉ có bọn chúng tôi thì mới là đệ tử trung
thành của những truyện ngắn, truyện dài, phóng sự đăng rải rác trên các báo.
Tha hồ mà đọc, mỏi chân thì thôi, chứ không hề mỏi mắt bao giờ!
Buổi "ra quân" hôm ấy tôi đã đứng chồn chân ở cái
giá để báo. Tờ Giang Sơn phát hành buổi sáng tôi đã đọc không sót một mẩu rao vặt
nào. Mấy lần cứ định bước đại vô tòa soạn thì tiếng cười nói ồn ào ở trong lại
làm tôi khựng lại. Mồ hôi của tôi rịn ra ướt hết cả chân tóc. Tim phổi gì đâu,
cứ đập loạn xạ như người ăn vụng bị bắt quả tang. Tôi tưởng tượng ra cái cảnh mọi
người nhìn tôi chế nhạo khi biết tôi bé loắt choắt thế này mà dám làm hành động
chơi trèo là gửi bài sáng tác cho báo người lớn. Như nếu tôi bước vào, có vị sẽ
hỏi tôi:
- Cậu kiếm ai?
Tôi sẽ phải đáp rằng:
- Cháu…cháu có cái thư.. (tất nhiên là phải nói dối là thư,
chứ ai dại gì mà nói là bài).
Vị ấy sẽ hỏi lại:
- Thư gửi cho ai?
Thế là khổ rồi! Tôi sẽ không trả lời được là sẽ gửi cho ai. Rồi
người ta sẽ bóc thư ra coi. Họ sẽ khám phá ngay được rằng bên trong chẳng có
thư từ gì hết mà chỉ là một bài lai cảo, lại là thứ truyện ngắn nữa thì mới là
động trời.
Ôi chà! Một thằng nhãi ranh thế này mà cũng học đòi viết truyện
ngắn sao? Họ sẽ nhìn tôi bằng cặp mắt thương hại. Rồi có thể họ sẽ hỏi tôi tên
gì, năm nay “lên mấy”, rồi nếu ú ớ thì họ sẽ khuyên tôi nên về chịu khó học
hành tử tế đi đã rồi hãy tính chuyện sáng tác. Lại có khi còn tệ hơn nữa, là họ
sẽ còn chất vấn tôi con cái nhà ai, bố làm gì, mẹ làm gì, có mấy anh chị em,
đang học trường nào, lớp mấy, đứng hạng mấy, luận văn trong lớp được mấy điểm…Ôi
trời trời, hãy cứ giáng những cú búa tạ vào đầu tôi còn hơn là bắt tôi đứng trước
tòa soạn mà phải cung khai tá lả những điều như thế!
Vì cứ tưởng tượng ra như vậy nên bao nhiêu cái hăm hở hăng
hái lúc ban đầu đều tiêu tan hết ra mây khói. Suy đi nghĩ lại, tôi đành ôm cái
phong bì lủi thủi ra về mà không dám bước chân qua ngưỡng cửa tòa báo. Nhưng
khi về đến nhà, rút cái phong bì ra (lúc này đã hơi bị nhầu nát), tôi lại nổi
cơn giận với chính mình. Ừ! Có gì đâu. Chỉ cần bước đại vô, kiếm một ông ngồi gần
nhất, xỉa bao thư ra, nói đại một câu:
- Cháu gửi ông "cái này "!
Thế rồi chẳng cần biết ông ta có ngẩng đầu lên hỏi "cái
này là cái gì", mình cứ việc quay lưng đi thẳng ra cửa là hết hỏi, hết còn
ai để thắc mắc.
Tất nhiên là họ sẽ phải mở phong bì ra. Họ sẽ thấy đó là một
bài sáng tác. Họ sẽ chuyển qua bàn làm việc của ông Chủ Bút. Ông Chủ Bút sẽ mở
ra đọc và thấy …hay! Ông sẽ bấm chuông gọi phòng xếp chữ đem bài xuống sắp xếp.
Thế là xong! Chỉ không đầy một phút cố gắng là mọi việc sẽ ổn thỏa. Chỉ ngày
mai, hay ngày mốt, cùng lắm là qua tuần sau là bài của tôi sẽ được in trên báo
với tên tác giả Nhật Tiến rành rành, vừa to, vừa trịnh trọng chẳng kém gì cái
tên Song Vũ trên truyện ngắn của hắn hôm nào! Việc dễ như thế mà không làm để đến
nỗi đứng chôn chân ở ngoài cửa rồi đi không, lại cắp đít về không thì đúng là
tay ấm ớ, dớ dẩn. Thật tôi giận tôi vô cùng.
Thế là tôi quyết định phải làm lại. Và tôi tự thề nếu lần này
sứ mạng mà không xong, tráng sĩ ra đi ….quyết không trở về. Sáng hôm sau tôi trở
lại tòa báo sớm, hầu như chỉ mới mở cửa và tôi là người khách đầu tiên trong
ngày. Đi vào giờ đó rất thuận tiện vì tòa soạn lúc này chưa đông đảo, hẳn ít tiếng
người cười nói ồn ào, nhất là những tiếng cười mà tôi cứ bị cái ám ảnh
"các ông ấy" cười là để chế giễu mình.
Đúng như tôi dự đoán, bấy giờ tòa báo chỉ có cụ thư ký già
đang ngồi đánh máy lóc cóc. Cặp mắt Cụ hấp him, bàn tay run rẩy, cái mũi hơi
khoằm xuống mang vẻ khó ưa. Những hình ảnh này đã khiến cho tôi có cảm giác rằng
Cụ này hẳn là không văn nghệ văn gừng gì. Như vậy càng tốt, tôi càng đỡ phải
"khai báo" lôi thôi. Thế là tôi chào Cụ bằng tất cả sự lễ phép có thể
diễn tả được và tôi nói thản nhiên:
- Thưa Cụ, cháu gửi bài!
Ông cụ không đáp, cũng chẳng ngẩng lên nhìn. Đôi mắt hấp him
của Cụ còn bận dò những dòng chữ kín mít trên trang giấy. Cụ chỉ giơ bàn tay
già nua về phía tôi mà không ngó lại, như thể cái cảnh gửi bài này Cụ cũng đã từng
gặp thường xuyên. Tôi vội vã đặt bao thư vào tay Cụ. Cụ cầm lấy, để nó qua bên
cạnh và thản nhiên đánh máy tiếp. Thế là xong! Không đầy 15 giây ngắn ngủi tôi
đã làm xong nhiệmn vụ. Tráng sĩ ra đi quả có ngày trở về! Giản dị quá, dễ dàng
quá, có thế mà ngày hôm qua tôi đã băn khoăn đến trằn trọc gần như suốt cả đêm
dài.
Ở tòa báo ra, tôi băng qua đường Bờ Hồ, lòng cực kỳ khoan
khoái. Làn gió mơn man từ phía mặt hồ lại thổi qua càng khiến cho tôi khoan
khoái hơn lên. Tôi kiếm ngay một cái ghế đá còn trống để ngồi xuống tự thưởng
thức sự thành công vừa qua của mình. Cái phong bì đã đưa được vào tòa báo một
cách chót lọt. Nhưng đó mới chỉ là một bước tí xíu khởi đầu. Sẽ còn phải qua
nhiều chặng nữa, nào là bài của tôi phải tới tay ông Chủ Bút, rồi ông Chủ Bút
phải để thì giờ mở ra đọc. Đọc xong rồi ông ấy quyết định cho đăng. Rồi ông ấy
mới chuyển nó xuống nhà in cho thợ xếp chữ….
Ôi, chặng đường càng nghĩ càng thấy dài và bỗng nhiên một ý
nghĩ chợt thoáng qua làm cho tôi khựng lại, tê tái.
Ừ, không biết bao thư và số phận của nó lúc này ra sao? Không
biết ông già có nhớ tới nó mà trao lại cho tòa soạn không? Biết đâu nó lẫn
trong đống hồ sơ bên cạnh rồi ông vô tình hốt hết cả đám đem cất vô hộc tủ và
khóa lại, không biết đến bao giờ mới nhớ ra? Hay tệ hơn nữa, biết đâu nó lại chẳng
đứng chênh vênh bên mép bàn, rồi chỉ một cái quơ tay vô tình của ông cụ là nó rớt
xuống đất. Bao thư mà nằm dưới đất là thứ rác bỏ đi, đến giờ dọn dẹp lao công sẽ
hốt nó lên, tống chẳng tiếc tay vô thùng rác. Thế thì ôi thôi, công trình tim
óc cũng như mơ mộng hão huyền của tôi sẽ đi đời nhà ma trong âm thầm lặng lẽ.
Lòng tôi chợt nóng lên như lửa đốt. Tôi vô cùng hối hận là đã giao phó một cách
bừa bãi đứa con tinh thần của mình cho một người không quen, không hề biết văn
nghệ văn gừng là cái giống gì. Ôi! Thật là tắc trách, thật là ngu muội, thật là
thất sách. Nhưng tôi còn làm được cái gì nữa? Bề gì thì sự thể cũng đã muộn rồi.
Bây giờ chỉ còn biết cầu trời khấn Phật cho đứa con của mình tai qua nạn khỏi để
nó được thuận buồm, xuôi gió!!!
CHƯƠNG IV (tt)
Khỏi cần nói, độc giả cũng đã cảm thông được nỗi chờ đợi khắc
khoải của tôi đã đến như thế nào. Kể từ ngày hôm sau, không một buổi sáng nào
mà tôi lại không dậy sớm để lãnh việc đi mua mua báo cho Ba tôi. Mọi ngày, công
việc ấy tôi đùn cho thằng Tín, em trai dưới tôi vài tuổi. Nhiều hôm Tín dậy trễ,
chị tôi phải đi mua giùm. Còn về phần tôi, dĩ nhiên lúc đó hãy còn đang ngủ vùi
vì hôm trước tôi đã thức thật khuya để loay hoay với công chuyện…viết lách!
Tác phẩm dù thế nào thì cũng đã gửi đi. Lòng tôi nôn nao chờ
đợi như chưa bao giờ tôi phải nôn nao chờ đợi đến như thế. Sở dĩ tôi giành lấy
việc đi mua báo là cốt để nghe ngóng tình hình số phận cái bài của tôi. Ba tôi
thì chuyên đọc tờ Tia Sáng, tờ báo mà hồi đó được phần đông giới trí thức ham
chuộng. Còn báo Giang Sơn thì cũng có nhiều độc giả đấy, nhưng ở vào hạng yếu
hơn. Nhưng đối với, cứ có bài được in trên báo Giang Sơn là cũng
"chúa" lắm rồi. Nó sẽ là một vinh dự ra ngoài cả sự mơ ước của tôi từ
xưa tới nay.
Ở sạp báo, trước khi bỏ ra 1 đồng để mua tờ Tia sáng, tôi đã
mượn tờ Giang Sơn để mở ra coi cọp. Ngó kỹ càng từ trang 1 đến trang 4, chẳng
trang nào thấy có in bài của tôi, tôi mới lủi thủi trở về. Cái cảnh này cứ tái
diễn không chỉ vài ngày mà đã cả nhiều tuần lễ. Trong hơn một tháng liền tôi đã
kiên nhẫn làm cái công việc khi đi thì háo hức, lúc về thì buồn thỉu buồn thiu.
Tôi đã tự đặt ra đủ thứ nghi vấn để tìm hiểu xem nguyên nhân
vào mà cái truyện ngắn của tôi đã tuyệt vô âm tín. Mà lý do thì ôi thôi đủ thứ,
chẳng biết cái nào là đúng, cái nào là sai. Tại tôi viết dở, họ không đăng? Tại
ông Chủ bút Hoàng Cơ Bình bận rộn công việc quá nên chưa có dịp mở bài của tôi
ra coi? Tại bài vở nhiều quá, số truyện ngắn xếp hàng để chờ đăng quá nhiều nên
tôi phải chờ đợi quá lâu? Tại tờ báo bây giờ có nhiều quảng cáo nên tạm thời dẹp
mục truyện ngắn để chờ khi có dịp? Hay tại chính ông già hôm đó đã quên mang
truyện của tôi giao cho tòa soạn và có thể số phận của nó đã nằm trong thùng
rác từ bao lâu nay rồi?
Thôi thì đủ thứ lý do mà tôi đã viện ra mỗi khi buồn bã từ sạp
báo trở về. Nhưng cuối cùng thì tôi bám lấy cái ý nghĩ mà tôi cho là đúng nhất:
"Trên cõi đời này thiếu vắng những cặp mắt xanh văn nghệ"!
Chứ sao! Tôi đã từng đem so sánh những truyện được đăng trên
tờ Giang Sơn với cái truyện mà tôi đã gửi đi, thì thấy có nhiều truyện còn dở
hơn của tôi nhiều. Thế thì "mắt xanh" ở cái chỗ nào? Mắt toét thì có!
Tôi đâm ra ghét tòa soạn, oán kẻ lựa bài và giận đời không có "tri
âm" để hiểu giá trị tác phẩm của mình.
Tuổi trẻ có tính hay quên. Ban ngày thì tôi cứ ôm lấy nỗi buồn
kể trên mà tự dằn vặt, nhưng khi đặt lưng xuống giường ngủ thì lòng tôi lại
tràn ngập hy vọng ở ngày mai. Phải rồi, sáng mai khi bừng con mắt dậy, chạy ù
ra sạp báo, biết đâu tác phẩm của tôi lại chẳng nằm chình ình trên mặt báo với
những hàng chữ in thắm tươi còn nguyên mùi mực mới.
Sự nào nức chờ đợi vì thế vẫn còn tồn tại trong tôi, cứ thế
trong vòng hơn một tháng rưỡi! Ôi, trong suốt khoảng 50 ngày dài cổ thao thức,
chờ mong, thời gian thế mà cũng trôi nhanh như bóng câu qua cửa sổ.
Tuy nhiên tâm tình của tôi thì đã hết kiên nhẫn để chịu đựng
những cơn băn khoăn khắc khoải nữa rồi. Tôi tự thấy không còn thể kéo dài sự chờ
đợi vô vọng phi lý kia thêm một ngày nào nữa. Và tôi đã quyết định bỏ cuộc.
Nghĩa là sáng dậy, cứ lằm lì, phó mặc việc đi mua báo cho thằng Tín. Nghĩ lại về
những chuyện đã từng xẩy ra, tôi bỗng thấy ghét về đủ mọi thứ. Ghét ông chủ bút
Hoàng Cơ Bình, ghét tờ nhật báo Giang Sơn, ghét luôn cả nhà đại ký giả bằng hữu
quý hóa của tôi là Song Vũ với tên cúng cơm là Nguyễn văn Tắc. Văn nghệ đối với
tôi bây giờ không còn có gì là sinh thú, hấp dẫn nữa!
Rồi cho đến một hôm, vào một lúc bất ngờ nhất, chẳng màng chờ
đợi cái gì nhất, như một ánh chớp bàng hoàng, tôi bỗng nhìn thấy bài của tôi được
đăng trên trang 2 của tờ nhật báo Giang Sơn dán ở ngay trên tấm bảng thông tin
công cộng ở xế cửa rạp chớp bóng Philharmonique!
Tôi đứng sững ra nhìn như thể không tin ở mắt của mình. Mặt của
đỏ bừng, hai tai nóng rừng rực, còn con tim của tôi thì ôi thôi khỏi nói, nó đập
thòm thòm như trống trận!
Một niềm sung sướng hãnh diện tràn ngập trong lòng tôi, nó
khiến tôi như muốn bay bổng lên trời cao, nó làm cho mắt của tôi hoa lên, nhìn
ra chung quanh chỗ nào cũng thấy sáng rực. Mặt Hồ Gươm hôm ấy vẫn phẳng lặng,
Tháp Rùa xa xa vẫn êm ả phơi trong nắng thu đầm ấm và chiếc cầu Thê Húc với mầu
đỏ son hình như hôm nay nom rực rỡ hơn mọi ngày. Tất cả những hình ảnh ấy cùng
một lúc hầu như dấy lên những cảm giác nôn nao, xao xuyến, như cùng hòa nhịp với
niềm vui của tôi trước những dòng chữ đã in cái truyện của tôi còn tươi nguyên
mầu mực mới trên trang báo.
Cái bài thế mà dài! Nó chiếm trọn cả trang 2, đánh văng luôn
cả những dòng quảng cáo của nhà trồng răng Minh Sinh, nhà thuốc Nhành Mai, nhà
thuốc Tam Tinh Hải Cẩu Bổ Thận Hoàn, kể cả hình cái xe tang của nhà quàn Đức Bảo
hay hình cái anh chàng đứng giặt giũ, quảng cáo cho thứ "giấy hồ lơ"
làm trắng tinh quần áo sau khi giặt mà mọi khi vẫn nằm ở cả trang 2 nữa.
Tôi thầm cám ơn ông Chủ Nhiệm kiêm Chủ bút, ông Thư Ký Tòa soạn,
cụ thư ký già đánh máy, cả ông Chef Typo coi việc xếp chữ, đặt bài nữa. Cám ơn
luôn cả anh em ấn công, nhân viên phát hành báo và bà con bán báo tại các sạp
trên đường phố kể cả mấy chú nhóc từng ôm những sấp báo dầy chạy nhong trên các
đường, miệng rao "Báo ơ! Báo ơ!" nữa!
Thế là tên tuổi của tôi lần đầu đã được gửi đi "toàn quốc"!
Nhà nhà (nếu có mua báo Giang Sơn) đều đọc tác phẩm của tôi. Người người (nếu
có đọc báo) đều biết là đã có một cái tên Nhật Tiến vừa mới đặt bước chân đầu
tiên vào vườn hoa văn nghệ. Ôi! Khu vườn đầy ảo mộng, xa vời, tràn đầy đam mê
cám dỗ vốn đã mê hoặc tôi từ bao lâu nay, bây giờ đã mở cửa đón tôi vào. Mà dĩ
nhiên, khi đã "vào" rồi thì tôi sẽ quyết không quay ra nữa, không dại
gì mà quay ra nữa, cho dù sương nắng, mưa gió bão bùng.
Sau những giây phút bàng hoàng ấy, tôi định thần lại và thò
tay vô túi quần soóc đếm nhẩm số tiền mình còn trong túi. Tôi còn tới những bẩy
đồng. Món này trước thì tôi định chi vào việc đóng tiền Hiệu đoàn và mua một
ngòi viết máy mới. Nhưng bây giờ thì chẳng có thứ gì lại được ưu tiên hơn là tờ
báo đang ở trước mặt. Tôi sẽ bỏ ra 5 đồng mua 5 tờ, còn 2 đồng tất phải làm một
chầu kem Hùng Vương để đánh dấu một ngày trọng đại.
Tôi còn nhớ là mình đã phải đi hết ba đường phố, ghé tất cả 5
sạp báo mới thu thập được đủ mấy số báo dự tính mua (Thật ra tôi có thể mua
ngay 5 số tại một sạp báo thôi, nhưng như thế nhỡ người ta hỏi đã có bài in
trên báo thì sao phải đi mua thì mắc cỡ quá, không được!). Thành ra cứ mua được
tờ nào thì tôi lại nhét vô bụng áo, giấu đi, rồi tiếp tục đi mua tờ nữa ở sạp
khác.
Khi đã đủ 5 số báo như dự tính, tôi mới tìm một bóng mát ở
ven hồ, chỗ vắng người nhất, ngồi mở ra đọc lại tác phẩm của mình. Thật khó mà
diễn tả được tâm trạng hoan hỉ, sung sướng và hãnh diện của tôi lúc đó. Và với
5 số báo đã mua, tôi đã dự tính như sau:
- Tặng thằng Tắc một số, để cho nó biết là chẳng cần nó, tôi
vẫn cứ hiên ngang bước vô văn đàn như thường.
- Tặng Hòa một số để chứng tỏ tôi đã tiến bộ vượt bực trên
"trường văn, trận bút" kể từ "thưở hàn vi" mà tôi và hắn đã
từng chung nhau làm báo học trò.
- Một tờ tôi sẽ giả vờ thản nhiên để hớ hênh trên mặt bàn
trong nhà cho cả nhà cùng đọc.
- Còn hai tờ sau cùng tôi sẽ cất đi (một tờ thỉnh thoảng giở
ra coi lại, một tờ đóng vai dự trữ phòng hờ tờ kia…thất lạc! Cẩn tắc vô áy náy
mà!). Đã thế tôi còn có sáng kiến lấy trộm ve nước hoa của bà chị tôi, đem xịt
lên trang báo để gọi là ướp thơm một bông hoa vừa chớm nở trong vòm trời Văn
Hóa Dân Tộc!
Riêng cái vụ…phun nước hoa này cũng đã gây ra một cuộc bất đồng
ý kiến lớn giữa tôi và bà chị của tôi. Theo lập trường của tôi thì chị rất phi
văn nghệ. Chị coi trọng xị nước hoa hơn là một tác phẩm đã được sáng tạo bằng
tinh thần. Còn chị thì la như cháy đồi khi ngửi thấy mùi nước hoa quen thuộc bốc
um lên khắp cả nhà. Sau này tôi mới biết đó là thứ nước hoa đắt tiền chứ không
phải thứ nước hoa thợ cạo của mấy ông làm nghề hớt tóc ở dưới các gốc cây hay bờ
tường. Nước hoa của chị tôi thì chỉ cần phết sơ một tí lên cổ hay má là nó thơm
cho tới cả ngày. Ối chà, thế mà thằng nhãi đã "vẩy" bất cận nhân tình
lên cả một trang nhật báo thì còn trời đất nào dung thứ cho nữa cơ chứ!
Trước cơ sự như vậy, bà chị tôi chỉ còn biết la trời rồi đứng
chết trân ở một chỗ, mặt đỏ rừ lên và nước mắt tiếc của cứ chực ứa ra trên bờ
mi. Cả ngày hôm ấy chị không thèm nói với tôi một tiếng nào, mà cũng chẳng thèm
ngó tới tờ báo tôi đã mở sẵn trang 2, để chình ình trên mặt bàn.
May quá, đến tối thì anh Trường Giang, một thi sĩ, vị hôn phu
của chị tới nhà thăm. Chị trút cả nỗi bực dọc chất chứa trong lòng lên đầu ông
anh vô tội vào đúng lúc anh đem ra khoe chị một bài thơ vừa sáng tác. Chị gắt
lên:
- Thơ với thẩn cái gì. Anh làm gương hư cho thằng Tiến đấy.
Bị cụt hứng, anh ngơ ngác:
- Sao? Chú Tiến làm sao?
- Nó bỏ cả học hành, tối ngày chỉ lo viết với lách. Ông Cụ bực
mình lắm đấy.
- Thời buổi này, nó có chí hướng về cái gì thì phải để cho nó
theo chứ.
- Muốn theo gì thì theo¸nhưng phải học đã chứ. Dốt như con bò
mà học đòi chí hướng cái gì.
Tôi gân cổ cãi:
- Em vẫn học đấy chứ. Học rồi, dư thời giờ thì em viết thay
vì đi chơi. Có gì là quá đâu.
Anh Trường Giang dịu dàng:
- Nếu biết dung hòa như vậy thì cứ để cho chú ấy tự do. Đừng
ép quá.
Tôi tố khổ ngay:
- Tại chị ấy giận em làm vẹt đi nửa xị nước hoa của anh tặng
đấy mà.
Anh Trường Giang "à" lên một tiếng nhẹ nhõm trong
khi chị tôi nổi sùng, giận dỗi đi phắt vào trong buồng, đóng cửa lại. Báo hại,
cả tiếng sau nhà thi sĩ phải đứng ở bên ngoài chầu chực, tỉ tê dỗ dành. Mãi về
sau, tình trạng bế quan tỏa cảng mới chấm dứt. Chị tôi xuất hiện với vẻ mặt phụng
phịu. Còn anh Giang thì mừng quá, ngâm một câu thơ rồi xoắn xuýt:
- Ê! Còn sớm! Mình đi lên phố ăn mừng bài thơ mới làm của
anh.
Nói rồi anh rút ở bụng áo ra một xấp giấy, lựa ra một tờ trắng
tinh có chép bài thơ với nét bút còn tươi mầu mực mới. Anh có cái thông lệ là mỗi
khi làm xong bài thơ nào thì lại chép tặng riêng chị tôi một bản. Đến khi bài
thơ ấy đăng trên một tuần báo rồi, anh lại cắt riêng cho chị một bản nữa. Những
bài thơ ấy chị tôi quý như vàng, lâu lâu hai người lại chụm đầu giở ra, bàn bạc
lựa bài này, bỏ bài kia để sửa soạn cho tập thơ sắp in của anh. Bầu không khí ồn
ào xen lẫn chất văn nghệ của anh đem lại, làm mọi chuyện như dịu hẳn đi. Tôi
xen vào:
- Phải đấy! Anh rủ chị đi phố, nhớ mua đền hộ em lon nước hoa
em vừa xài.
Chị tôi trừng mắt:
- Nước hoa như thế mà kêu bằng"lon" à?
Tôi xí xóa:
- Ờ …thì lon, chậu... hay lọ, xị…gì cũng là để đựng cả mà.
Chị tôi "xì" một tiếng rồi mỉa mai:
- Dùng chữ nghĩa như vậy mà cũng học đòi làm văn sĩ!
Thế là cơn hoạn nạn của tôi đã qua như một luồng gió thoảng.
Tôi vui vẻ nhìn theo tà áo của chị quấn quít bên anh, trông như cánh bướm lúc
hai người đi ra ngoài ngõ.
Ngày hôm sau, nhân lúc vui chuyện, chị tôi nói với tôi:
- Anh Trường Giang đã đọc hết cái truyện của cậu đăng trên
báo Giang Sơn rồi.
Tim thôi thót lại vì hồi hộp. Tôi mở to mắt nhìn chị để nghe
chị lập lại lời phê bình. Lần đầu tiên được nghe một người thực sự trong giới
văn nghệ như anh nhận xét về tác phẩm của mình thì còn gì hay hơn. Chị tôi nói:
- Anh ấy khen cậu có ý thức ý thung gì đó khi viết truyện
nhưng lại chê là cậu còn nệ cách viết sáo quá. Chị chả hiểu gì nhưng nguyên văn
câu anh ấy nói là: "Vì rỗng nên mới sáo"!
Ôi chà! Sao mà đúng thế! Vì "rỗng" nên mới
"sáo" đích thị là căn bệnh của chúng tôi, nhất là Song Vũ Nguyễn văn
Tắc. Trong thời gian chép lại truyện này, tôi đã nghe Tắc xúi dại là phải sửa
cho nó kêu boong boong. Tắc nói:
- Khuynh hướng chọn bài của các báo bây giờ nó như thế! Chứ cứ
"dùi đục chấm mắm cáy" là vứt ngay vào thùng rác!
Thế là tôi đã nghe Tắc để đẽo gọt lại câu văn của mình, cóp
chỗ này một tí, thuổng ý sáo ở chỗ kia một tị để cố gài một cách gượng gạo vào
mấy đoạn văn của tôi.
Bây giờ nghe được lời phê của anh Giang, tôi đã thấy rõ như
ban ngày. Ừ thì "dùi đục chấm mắm cáy" tất nhiên là ít tính cách văn
chương rồi, nhưng kiểu văn như "tím như tím chiều hoàng hôn hoang dại trôi
theo dòng đời miên man biền biệt" thì nghĩ cho kỹ sẽ chẳng có nội dung gì,
lại lộ ra cái "rỗng" của người viết.
Thế là bao nhiêu niềm kiêu hãnh của tôi đối với tác phẩm đầu
tay trong phút chốc vụt tan ra mây khói. Tôi tự nhủ từ nay mình sẽ không làm
cái chuyện mài giũa quá đáng một câu văn ở ngoài tầm tay của mình để chỉ quan
tâm đến nội dung của cái "ý" mà mình muốn diễn tả.
Ghi chú thêm:
Trong chương I tôi đã có dịp nhắc đến cuốn "Viết và Đọc
Tiểu Thuyết" in năm 1961 của nhà văn Nhất Linh. Đây là một tác phẩm biên
khảo mà ông đã soạn một cách công phu để truyền lại kinh nghiệm viết văn cho
các thế hệ đi sau. Nhân đang đề cập đến chuyện " Vì Rỗng nên mới
Sáo", tôi xin trích thêm một đoạn trong cuốn sách kể trên để độc giả tham
khảo thêm (phần in đậm là do tôi có ý nhấn mạnh thêm).
Nhất Linh viết:
1. Sự lầm lẫn thứ nhất của tôi là lúc mới viết sách tôi chỉ để
ý đến các ý thích của riêng mình. Tôi thích những truyện về đời riêng của tôi
mà tôi thấy rất là lý thú, chỉ việc đem viết lên giấy và viết xong thấy nó hay
ngay. Nhưng nếu đưa một người khác xem thì người ấy không thấy hay ở chỗ nào.
Tôi đã bị cái tính yêu riêng những việc mình viết nó huyễn hoặc làm hoa mắt,
không nghĩ đến sự tìm tòi cái hay. Tôi đã đứng vào vị trí chủ quan, nghĩ là
mình đứng làm chủ mà nhận xét, chứ không đứng vào địa vị khách quan, nghĩa là
mình biến thành một người khách đứng ngoài nhìn vào bằng con mắt sáng suốt hơn
không bị cái yêu cái ghét riêng làm cho thiên vị.
2. Sự lầm lẫn thứ hai là cái thích những câu văn vẻ. Tôi bị ảnh
hưởng tai hại của sự học ở nhà trường của văn chương Pháp và của văn chương Tàu
hay ta hồi ấy (quãng 1922 - 1930); tôi thích những câu đọc lên nghe êm tai, nhịp
nhàng đăng đối (nhưng trống rỗng) thành thử tôi chỉ cốt viết ra những câu như
thế và cho ngay là truyện của tôi hay.
Tôi còn nhớ một lần viết truyện Hồng Nương (không xuất bản),
tôi viết xong một câu rồi đứng lên, đi đi lại lại trong phòng, trong lòng sung
sướng mê man, thỉnh thoảng lại ngừng lại đọc to câu đó lên:
"Hồng Nương! Hồng Nương! Sao đêm nay ta đọc đến tên
nàng" và tôi quên cả đi ngủ.
Đến bây giờ thỉnh thoảng tôi cũng đọc lại nhưng chỉ để tự giễu
mình sao một câu như thế lại có thể cho là hay đến mê man.
Ngay đến khi viết truyện đăng báo Phong hoá 1932 - 1933 (năm
đó tôi đã hăm bảy, hăm tám tuổi) mà vẫn còn bị câu "văn vẻ" nó quyến
rũ.
Thí dụ như câu cuối cùng trong truyện Nắng mới trong rừng
xuân:
"Đôi bạn tay cầm tay, nhìn nhau yên lặng, trên đầu gió
rì rào trong cành thông như tiếng than vãn của buổi chiều".
Tuy câu ấy không phải hoàn toàn dở nhưng bây giờ đọc lại tôi
vẫn ao ước rằng không có thì hơn, hoặc có nhưng đừng "văn vẻ",
"sáo" quá như thế, giản dị hơn như những câu trong các tiểu thuyết
sau này của tôi, viết chỉ cốt tả đúng cảm giác, đúng những nhận xét của mình;
điều cần không phải là câu văn hay mà ở chỗ cảm giác, nhận xét của mình có gì
hay không, đặc biệt không.
…….
Những cuốn tiểu thuyết hay là những cuốn tả đúng sự thực cả bề
trong lẫn bề ngoài, diễn tả được một cách linh động các trạng thái phức tạp của
cuộc đời, đi thật sâu vào sự sống với tất cả những chuyển biến mong manh, tế nhị
của tâm hồn bằng cách dùng những chi tiết về người và việc để làm hoạt động những
nhân vật cùng hành vi, cảm giác và ý nghĩ của họ.
Những cuốn đó cần phải do sự thành thực của tác giả cấu tạo
nên, viết bằng một lối văn giản dị, không giảng giải nhiều, và không phải hay
chỉ vì cốt truyện.
(ngưng trích)
***
Ngay tối hôm ấy tôi lại khởi sự viết một tác phẩm mới. Lần
này tôi sáng tác không còn được dễ dàng như ngày trước tôi từng cộng tác với
Hòa trong tờ báo Bút Học Trò. Lý do dễ hiểu là hồi trước tôi cứ viết bừa phứa,
bất cần quan tâm đến "độc giả" là ai vì báo chép tay có mỗi một bản,
chỉ có tôi với Hòa thưởng thức với nhau nên vấn đề "dư luận độc giả"
chưa bao giờ phải đặt ra.
Nhưng bây giờ thì hẳn đã khác rồi. Cái tên của tôi đã được
báo Giang Sơn chuyên chở đi "toàn quốc". Bài mới nếu có được đăng thì
số lượng người đọc tất phải gia tăng gấp bội lần. Mỗi dòng chữ, mỗi ý tưởng của
tôi khi in ra sẽ có tới biết bao nhiêu là con mắt dòm vào, bao nhiêu là ý kiến
nhận xét, phê phán khen, chê. Vậy tôi phải thận trọng hơn rất nhiều là chuyện
đương nhiên.
Chật vật trong ba hôm liền với những nhân vật và những chi tiết
muốn diễn tả vốn đã ám ảnh tôi suốt ngày cả lúc ăn cũng như lúc bắt đầu nằm xuống
ngủ, cuối cùng tôi đã viết xong được một truyện lấy tên là "Xóm Lá".
Truyện này gửi đi thì chỉ hai tuần sau lại được nhật báo Giang Sơn tuyển chọn.
Ba tuần sau đó, một truyện thứ ba có tên là "Đường Chiều" lại được chọn
đăng.
Tôi sướng mê tơi như một anh khù khờ đi câu, thả mồi nào xuống
nước là dính ngay một chú cá mắc câu. Chỉ có mỗi cái là vẫn phải tốn tiền đi
mua báo ở các sạp vì tôi vẫn xấu hổ không dám bước chân vào tòa soạn, nhận mình
là tác giả để xin vài tờ báo biếu. Tôi tự nghĩ mình loắt choắt thế này, xưng
tên có khi người ta không tin. Chẳng lẽ phải sùy Thẻ Học Sinh ra để chứng minh
thì mất mặt bầu cua quá.
Tuy nhiên về mặt tinh thần thì tôi được hưởng vô số kể. Trước
tiên là anh bạn Trần văn Tắc của tôi không còn nhìn tôi với mắt nhìn của một
đàn em văn nghệ nữa. Nếu có thua hắn, tôi chỉ còn thua có mỗi cái "các vi
dít" in hàng chữ Journaliste nữa mà thôi. Nhưng cái khoản trình diễn ấy tốn
tiền quá, vả cũng chẳng có mấy khi cần phải xài đến nó ngoài mấy tên bạn đã biết
nhau rồi, nên tôi tôi cũng không mấy quan tâm. Và nếu đem so sánh "thành
quả" thu lượm được thì Tắc có khi còn thua sút tôi thấy rõ. Có lần cả hai
đứa cùng gửi bài đi, nhưng chỉ có bài của tôi được chọn đăng trong khi bài của
Tắc chỉ nhận được lời nhắn tin " Xin gửi cho sáng tác khác."
Cũng vì thế Tắc bắt đều nghi ngờ khả năng tuyển chọn bài vở của
tòa soạn báo Giang Sơn. Hắn xoay qua gửi bài cho báo Chánh Đạo, báo Tiếng Dân,
báo Liên Hiệp…. Cuối cùng, Thơ của hắn được đăng tải lu bù. Thế là nghiễm nhiên
về sau này, Song Vũ đã từ một nhà văn biến thành nhà thơ, sáng tác rất hăng
hái. Hóa ra cái khả năng sử dụng ngôn ngữ mờ mờ, ảo ảo, như thực như hư của hắn
lại thích hợp hơn trong lãnh vực thi ca. Thế là Tắc in lại ngay tấm các của
mình. Lần này thì không xài tiếng Tây nữa mà để hẳn tiếng Việt đàng hoàng:
SONG VŨ
thi sĩ
Và Song Vũ kết luận chắc nịch:
- Tớ không có khiếu về Văn. Phải Thơ mới được. Thơ mới là đất
dụng võ của tớ!
CHƯƠNG V
Cuộc đời nhiều khi có những cái bất ngờ khó ai có thể đoán
trước. Trải bẩy, tám cái truyện ngắn được đăng rải rác trên một vài tờ báo ở Thủ
Đô như Giang Sơn, Chánh Đạo, Liên Hiệp, Hồ Gươm, Thời Tập…tôi những tưởng mình
sẽ theo hoài con đường sáng tác tiểu thuyết. Nhưng với sự lựa chọn này tôi đã bị
Tắc chê bai vô số kể.
Hắn nói là tôi dại, tôi quân tử Tầu, tôi không nắm vững bản
lĩnh cần thiết để chen chân thường xuyên vào trường văn, trận bút. Bởi nhân số
trong vườn hoa văn nghệ thì đông đảo, thiên hạ có biết bao nhiêu người muốn
nhào vô các trang báo, cho nên sáng tác gửi đi vài ba cái có khi mới
"dính" một cái, còn kỳ dư bao nhiêu công lao ngày đêm cặm cụi đều bị
chui vào sọt rác của tòa soạn các báo hết. Vì thế Tắc khuyên tôi viết được thì
cứ viết lia. Làm Thơ, viết Văn, soạn Kịch, nếu có gan thì viết cả Phê bình, Sưu
khảo nữa. Bản thảo bay về tới tấp các tòa báo, bị loại bài này đã có bài khác
thay thế. Trăm bó đuốc tất phải vớ được con ếch. Tên tuổi của mình sẽ xuất hiện
thường xuyên trên trang báo, "nổi tiếng mấy hồi"! Đó là châm ngôn làm
việc của Tắc vạch ra cho tôi trong những bước đầu trên con đường sự nghiệp. Tắc
còn nói:
- Đành rằng cậu thích tiểu thuyết, nhưng ở những bước đầu, đừng
bao giờ nói đến chuyện thích. Hãy nhào vô bằng mọi cách cho bàn dân thiên hạ
quen thuộc tên tuổi của mình đi đã. Đến lúc mình "trứ danh" rồi, cả
nước biết tiếng mình rồi, đã có một chân trên văn đàn rồi, chừng đó cậu lựa
"món" gì mà chẳng được.
Những lời khuyên đó, chính Tắc cũng đem ra thực hành. Hắn viết
Truyện, làm Thơ và…Phê bình văn chương. Hắn đã viết rất hăng, rất nhiều, nhưng
tính sổ lại chỉ có thơ của hắn là được đăng nhiều nhất. Bởi thế trong các cuộc
hội họp văn nghệ về sau này, anh em đều gọi hắn là Thi sĩ.
Tắc rất hài lòng về danh hiệu này và con người của hắn bắt đầu
có một sự sửa sang để cho phù hợp, đại để như quần áo trở nên lôi thôi hơn, đôi
mắt lúc nào cũng mơ màng hơn, mái tóc biếng chải hóa thành bù xù hơn. Hắn làm cứ
như thể từ thưở mới lọt lòng ra, định mệnh đã an bài cho hắn trở thành thi sĩ rồi.
Nói về nhân dáng thì cái bệnh “sửa sang” này không chỉ riêng
có một mình Tắc là sa đà vào. Bởi hầu hết bọn trẻ chúng tôi, ít anh nào lại
không biết làm dáng cho ra vẻ văn nghệ. Đặc biệt là cái món “để râu” cho thiên
hạ thấy mình không phải là thứ nhóc con để bị coi thường, hay bị cất lời dạy dỗ.
Khốn nỗi, ở cái tuổi 16, 17 thì đã làm gì có râu. Ấy vậy mà
không biết xuất xứ từ đâu mà bọn chúng tôi loan truyền với nhau rằng muốn cho
râu chóng mọc thì cứ bôi Huile de Ricin lên mép là râu sẽ bị “thúc” đến phải
lòi ra.
Huile de Ricin thật ra chỉ là tinh dầu lấy từ những hạt trong
quả đu đủ. Nó là thứ thuốc “giun” rất hiệu quả mà ngày xưa còn bé, cứ vài
tháng, mẹ tôi lại dẫn mấy đứa trong nhà đi đến nhà thương Phủ Doãn để nơi đây
cho mỗi đứa uống muột muỗng cái thứ dầu này. Ôi chao là khó nuốt! Dầu vừa trôi
qua miệng là muốn ọe hết ngay ra. Nhưng do kinh nghiệm, mẹ tôi đã mang sẵn mấy
miếng Oản làm bằng bột trắng tinh, mau tan và ngọt lừ. Cái oản này chận ngay
cơn buồn nôn vừa ập đến, và chỉ đến buổi chiều thôi, thì những anh giun trong bụng
chịu không thấu đã bị tống ra có khi hàng búi.
Nay thì chúng tôi đem cái thứ thuốc giun này ra xài để cho
chóng mọc râu. Ước vọng về râu sâu xa đến nỗi hồi đó còn có cả bài hát về râu nữa.
Đó là bài hát Cung Kèn Rạng Đông của nhạc sĩ Hùng Lân đã bị sửa lại lời.
Nguyên văn thì:
Anh nghe chăng cung kèn rạng đông
Đang uy linh lừng vang trên không
Đang thiết tha hùng hồn.
Khơi chí gan Lạc Hồng
Cháy lên nhuộn bao ánh hồng…
Bị đổi thành:
Thân nam nhi tri kỷ bộ râu
Râu ta đây là râu quai nón
Ăn uống tuy nhồm nhoàm
Râu đứng lên nhịp nhàng
Cái râu mọc quanh cái mồm…
Râu ơi râu ơi
Râu mọc quanh mồm….cái râu Sồm
Râu ơi, râu ơi
Râu mọc quanh tai…cái râu Quai
Ôi trời! Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò là như thế. Chắc nhạc
sĩ Hùng Lân hồi đó có nghe thấy thì cũng chỉ mỉm cười chứ chẳng nổi cơn lôi
đình cho tổn hại sức khỏe.
Kết quả của những ngày chăm chỉ mỗi sáng bôi thuốc mọc râu,
riêng tôi thì sau vài tuần cũng thấy râu cũng lún phún mọc ra, nhưng khốn thay,
lớp da bị thứ tinh dầu thúc cho nóng quá, nên cứ đùn ra những thứ mụn đỏ, mọc
còn mau hơn nữa.
Thế là cả bọn tém giẹp cái vụ râu ria, chẳng anh nào còn dám
rớ tới nữa.
***
Trở lại cái vụ lựa chọn bộ môn sáng tác, thì tôi thấy riêng
có lãnh vực soạn Kịch là Tắc không dám bước chân vào. Không biết Tắc đọc được ở
đâu một lời tuyên bố mà hắn cho là chí lý:
- Muốn viết kịch người ta phải ở tuổi ngoài bốn mươi. Phải đi
qua đủ các đoạn đường làm thơ, viết văn đã, rồi mới có đủ khả năng viết kịch. Kịch
là chặng kỹ thuật cuối cùng của con đường làm văn học nghệ thuật.
Thực ra thì trong các bộ môn, quả là Kịch khó sáng tác nhất.
Khó ở những nút thắt mở, khó ở những tình tiết, ở sự điều động các nhân vật ra,
vô hợp lý trên sân khấu. Và dĩ nhiên người viết phải nắm thật vững tâm lý, cử
chỉ, ngôn ngữ của các nhân vật.
Hơn nữa, khi viết kịch, tác giả còn phải nắm vững tính cách
là “kịch đang diễn trên sân khấu là thể hiện cái "hiện tại" đang xẩy
ra”. Người viết phải sắp xếp thế nào để qua ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật
sẽ làm khán giả thấu hiểu được "tình huống" của câu chuyện, tức là
quá khứ được phục hồi, chứa chất những tình huống có những gúc mắc, những vấn đề
nan giải bầy ra cho người trong cuộc phải giải quyết (có sự tham gia suy nghĩ của
khán giả) để rồi đi tới tương lai là cái kết thúc lúc hạ màn. Giới viết kịch gọi
cái phút chót này là "Coup de Rideau". Mà cái "cú" hạ màn
này lại cần phải có tính bất ngờ, gây ngạc nhiên thích thú và cả sự đồng tình,
tán thưởng của khán giả thì kịch mới được gọi là thành công.
Viết kịch nghe chừng khó thế nên vào thời kỳ đó, các tác phẩm
văn chương xuất hiện rất dồi dào, phong phú nhưng kịch bản thì hầu như chỉ lác
đác như lá mùa thu. Mỗi năm, ở Nhà hát Lớn thành phố chỉ có một mùa Kịch thường
là vào tháng Chín hay tháng Mười. Lúc đó tiết trời đã vào thu, không khí mát mẻ,
người đi xem diễn kịch ăn bận chỉnh tề, sang trọng như đi dự những buổi tiếp
tân.
Vài ban kịch nổi tiếng vào thời kỳ đó có thể kể như ban Tiền
Phong, ban Sông Hồng gồm nhiều diễn viên tài ba, tận tụy và đam mê với bộ môn Kịch.
Tôi còn nhớ những vở kịch nổi tiếng được trình diễn trong các mùa Kịch thời đó
như Tâm Sự Kẻ Sang Tần - kịch thơ của Vũ Hoàng Chương; Thế Chiến Quốc, Nửa Đêm
Truyền Hịch - của Trần Tử Anh; Bông Hồng dại của Tiền Phong, Thành Cát Tư Hãn -
của Vũ Khắc Khoan; Lôi Vũ của Tào Ngu….
Các cụ ngày xưa có câu tục ngữ "Điếc không sợ Sấm".
Đem áp dụng vào trường hợp của tôi thật không còn gì đúng hơn nữa, bởi vì bộ
môn Kịch khó khăn là thế mà tôi dám cả gan ghé chân vào.
Tất cả chỉ khởi đầu bằng một sự tình cờ. Số là vào thời kỳ
đó, có một nhà thi sĩ tạm gọi tên là Nguyễn Đông Tây. Ông này không phải xuất
thân từ giới học trò, nên khi xuất hiện trên Thi đàn, bọn chúng tôi hỏi nhau:
"Sao cái tên nghe lạ hoắc thế nhỉ?"
Đã thế, tuy chưa lấy gì làm "nổi" lắm mà hắn lại
dám bỏ tiền ra in cả một tập thơ đầu tay thì cũng không phải thứ vừa. Chỉ có điều
là khi quảng cáo cho tập thơ này, Nguyễn Đông Tây toàn dùng những chữ đao to
búa lớn, tự đề cao mình lên tới tận mây xanh. Điều này làm cho lũ chúng tôi
càng xôn xao, kể cả tức giận nữa.
Bài quảng cáo đó in rất trang trọng trên vài tạp chí văn nghệ
đang phát hành. Nội dung tôi còn nhớ đại khái như sau:
MỘT VÌ SAO SÁNG VỪA XUẤT HIỆN TRÊN
VÒM TRỜI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
Những người yêu Thơ không thể bỏ qua tập thơ:
MÙA THƯƠNG NHỚ
của Thi sĩ NGUYỄN ĐÔNG TÂY
* Nhẹ nhàng hơn hơi thơ Nguyễn Bính
* Say đắm hơn hồn thơ Xuân Diệu
* Chua chát hơn giọng thơ Trần Tế Xương
* Triền miên hơn ý thơ Nguyễn Du
*…và man mác như bầu trời vô tận của vũ trụ vô vàn Tinh Tú.
Ối chà chà! Chưa bao giờ trong sinh hoạt văn nghệ lại xuất hiện
một lối quảng cáo tác phẩm một cách um sùm, cao ngạo và lớn lối đến như thế.
Trách gì chẳng gây ra trong bọn chúng tôi một sự bất bình và bàn cõi ỏm tỏi:
- Nguyễn Đông Tây là ai thế? Đã có ai được đọc thơ của Nguyễn
Đông Tây bao giờ chưa?
- Rồi! Rồi! Thơ của "lão" đăng trên tờ Quê Hương mấy
bài.
- Thế hả? Bao giờ? Số mấy? Sao tớ không thấy nhỉ?
- Mà thơ có hay không?
- Hay mấy thì cũng không thể so sánh với Nguyễn Du, Trần Tế
Xương được. Phét lác không chịu được!
- Thì quảng cáo mà!
- Quảng cáo thì quảng cáo chứ. Thơ đâu phải Thuốc ho bà Lang
Trọc mà phịa quá như vậy.
- Thôi, hãy cứ chờ xem. Biết đâu lại chẳng là một thiên tài,
một vì sao sáng mới mọc trên vòm trời văn học nghệ thuật.
- Ngộ nhỡ thơ ra xong, đọc thối ủm thì sẽ ra sao?
- Thì sẽ "phang" bỏ bố nó đi chứ, cho chừa cái tội
bất kính với tiền nhân!
Người phát biểu câu lỗ mãng sau cùng đó là Trần văn Tắc. Hơn
ai hết trong cả bọn, Tắc tự cảm thấy mình có bổn phận phải làm sạch sẽ sinh hoạt
thi ca, bởi Tắc là thi sĩ. Là thi sĩ thì phải có trách nhiệm với thi ca là đúng
quá rồi. Thi ca là vùng đất thiêng liêng, không thể đem ra bôi bác được.
Thế là cả bọn chúng tôi đều háo hức chờ đợi một biến cố văn
nghệ. Trước hết là tập thơ Mùa Thương Nhớ của Nguyễn Đông Tây sắp phát hành. Thứ
đến là bài phê bình nẩy lửa mà Nguyễn văn Tắc đã hứa hẹn viết.
Hai tuần lễ sau, tập thơ đã phát hành, thấy bầy bán khắp thị
trường chữ nghĩa. Tắc giữ đúng lời hứa, cẩn trọng viết một bài phê bình dài 12
trang giấy kín mít. Tôi đòi xem trước nhưng Tắc xua tay:
- Chờ đăng đã! Chờ đăng đã! Phải đăng rồi đọc mới khoái.
Bọn chúng tôi đành phải nén lòng chờ đợi. Nhưng rồi một tuần,
hai tuần trôi qua, bài của Tắc chẳng thấy xuất hiện. Tắc ức quá, chép lại một bản
khác, có sửa chữa thêm chút đỉnh, rồi gửi cho tờ báo khác. Nhưng rồi tờ này
cũng không đăng. Tắc phân bua với anh em:
- Nó có "thế lực văn nghệ", các cậu ạ. Bài tớ viết
nẩy lửa như thế đời nào tòa soạn họ dám đăng.
Tuy Tắc viện cớ như vậy để biện minh cho mình nhưng bọn chúng
tôi ai cũng nghĩ là khả năng phê bình của Tắc chưa đủ sắc bén để được các tòa
soạn tiếp đón một cách nồng nhiệt. Nạn bè phái trong văn nghệ thì thời nào cũng
có, nhưng nói thực ra, cây bút Nguyễn Đông Tây không phải là một cây bút quen
thuộc, hay đã thành danh để có thể tạo nên thế lực. Theo sự "điều
tra" của chúng tôi, thì anh mới nhẩy vào làng văn không đầy bốn tháng. Lại
nghe một nguồn dư luận xì xào là anh ta rất ít quen thuộc với giới văn chương. Ở
ngoài đời, anh sống bằng nghề đạp xích lô. Đạp xích lô rồi để dành tiền in thơ,
đó là một hiện tượng đặc biệt, hiếm có.
Nhân vật Nguyễn Đông Tây chính vì thế lại càng gây cho bọn
chúng tôi sự tò mò, khích động, xôn xao bàn tán. Phải thành thực mà nói, thơ của
Nguyễn Đông Tây không dở. Anh ta có nhiều kinh nghiệm sống. Anh ta lại có đầu
óc xã hội. Những bài thơ in trong tác phẩm của anh tuy có nhiều nét vụng về
nhưng lại dồi dào sinh lực của đời sống. Vào giữa lúc mà văn chương phần đông
chỉ hướng vào những chuyện tình than mây khóc gió (giới độc giả phụ nữ thì đua
nhau tìm đọc cuốn Đồi Thông Hai Mộ để khóc sướt mướt) thì sự xuất hiện tác phẩm
của anh là một tia nắng mới. Chỉ tiếc là anh ta đã quá lớn lối khi so sánh mình
với hầu hết những tinh hoa, những Bắc Đẩu của làng thơ đi trước. Đó là một điều
không mấy ai hài lòng và tập thơ của anh vô tình đã phải gánh lấy cái vạ lây,
mà nói theo kiểu ngôn ngữ bọn trẻ chúng tôi thì là "không thể tha thứ được"!
Sứ mạng quất ngọn roi đầu tiên vào tờ quảng cáo ấy đã giao
cho Tắc thì Tắc đã không làm được trọn vẹn. Thế là, trong một phút nổi hứng bất
tử, tôi đã nhẩy vô vòng chiến, mà cũng là do cái tính háo thắng mà ra đó thôi.
Lần này tôi khôn hơn Tắc, ở chỗ là tôi không nhắm vào việc
phân tích từng câu thơ, từng ý thơ để hạch Nguyễn Đông Tây về tội dám so sánh với
Nguyễn Du, Trần Tế Xương ( vả lại thơ không phải lãnh vực của tôi, kiến thức về
thơ, tôi được mấy nả mà đòi đi phân tích thơ của người khác). Chiến thuật của
tôi là chỉ nhắm triệt để vào mỗi có tờ quảng cáo mà Nguyễn Đông Tây đã quảng bá
rộng rãi trên báo chí. Tôi tin rằng cứ đánh đối phương ở khe hở đó chắc chắn sẽ
được nhiều người đồng tình, vì nó có…chính nghĩa!
Trọn một đêm hôm ấy tôi đã viết xong vở hài kịch lấy tên là
"Tờ Quảng cáo".
Như ở trên tôi đã nói, kịch là bộ môn khó viết nhất, ít ai muốn
bước chân vào. Tôi biết như vậy, và thực tâm tôi cũng chẳng mong muốn mình đi
theo cái ngành khó khăn ấy. Vậy nếu có viết kịch lần này thì cũng chỉ là để giỡn
chơi cho thỏa cái sự ấm ức của tôi trong đôi lúc, mỗi khi nghĩ đến tờ quảng cáo
của Nguyễn Đông Tây mà thôi. Vả lại, nhìn tờ quảng cáo ấy dưới khía cạnh hài kịch
thì không còn thể văn nào thích hợp hơn.
Ngày hôm sau tôi tức tốc đem lại tòa soạn báo Cải Tạo do ông
Phạm văn Thụ làm Chủ Nhiệm để gửi đăng.
Vào thời kỳ ấy, cụ Đào Trinh Nhất đã thôi cộng tác với tờ Cải
Tạo là tờ tuần báo có trụ sở ở đường Mongrand sau đổi là Nguyễn Thượng Hiền, gần
hồ Halais tức hồ Thuyền Quang Hà Nội. Bộ biên tập sau đó nằm trong tay các cây
bút trẻ hơn như Nhị Lang (bút hiệu của Thái Lân, một nhà chí sĩ cách mạng sau
này), Văn Bình, Kim Sinh và Phạm văn Thụ. Tôi không rõ lắm về sự phân công
trong tòa soạn nhưng hình như công việc chọn lựa bài vở nằm trong tay ông Kim
Sinh và ông Văn Bình tức Chàng Thứ Mười Lăm (in trên báo là Chàng thứ XV).
Hai ông này chắc có máu tếu cùng mình nên bản thảo của tôi vừa
gửi đi tuần trước thì ở số báo tuần sau nó đã được chọn đăng, chiếm nguyên vẹn
một trang báo khổ lớn, nom rất trịnh trọng và xôm trò.
Vở kịch tung ra gây một trận cười vỡ bụng trong làng văn
chương choai choai mới lớn. Tôi còn nhớ Toàn (bây giờ là nhà văn Nguyễn đình
Toàn), hồi đó nhà ở bên Gia Lâm, cách Hà Nội khoảng vài cây số. Nhà Toàn ở rất
đơn sơ, mái tôn, vách gỗ, nhiều chỗ phô ra nhiều khe hở nên bà cụ mẹ Toàn lấy
giấy báo trám vô những lỗ thủng. Chính trang báo Cải Tạo có đăng vở kịch của
tôi lại cũng được đóng cái vai che chắn đó. Nó lại nằm ngay ở trước bàn nước,
nơi xếp ly tách, chai lọ nên một hôm Toàn đứng rót nước uống, vô tình để mắt
lên trang báo. Tuy đã đọc từ trước rồi, thế mà chợt nhìn lại, Toàn cũng không
nhịn được nên cười phá lên làm nước bắn tung tóe ra mọi người chung quanh. Giai
thoại ấy, Toàn đem kể lại cho bạn bè. Thế là nghiễm nhiên tôi đâm ra "nổi
tiếng" trong đám văn nghệ choai choai về ngành viết kịch và đám văn nghệ
trẻ phong cho tôi là …kịch sĩ!
Thừa thắng xông lên (chữ dùng bây giờ), tôi đình chỉ viết
truyện ngắn và chỉ miệt mài sáng tác kịch vui.
Cứ khoảng hai, ba tuần tôi lại cho ra lò một vở hải kịch và vở
nào thì tuần báo Cải Tạo cũng dành chỗ trịnh trọng để đăng lên. Điều mà tôi và
Tắc vẫn hằng mơ ước bây giờ đối với tôi đã thành sự thật. Nghĩa là cứ gửi bài đến
đến đi, gửi thật nhiều, thật bền bỉ, gửi vô điều kiện thì sẽ có lúc mình giành
được một mục thường xuyên trên tờ báo. Thế là mình …nổi tiếng, mình đã trở
thành "văn nghệ sĩ" và trong ngăn bóp có quyền mang theo một cái các
vi-dít đề tên mình với hàng chữ in nghiêng ở dưới: Thi sĩ, Tiểu thuyết gia, Kịch
tác gia hoặc muốn cho nó có vẻ khiêm tốn thời thượng hơn thì đổi lại là làm
thơ, viết văn, soạn kịch..
Riêng tôi thì chưa có dịp làm cái công việc này, lý do vì in
một cái các vi-dít cũng tốn kém lắm, ngót trăm bạc như chơi. Nhưng ngoài
"các" ra, chúng tôi còn ưa chuộng một thứ khác gọi là triện son. Triện
son có công dụng nhiều hơn là các vi-dít nên hầu như bọn trẻ chúng tôi, anh nào
cũng chịu chi cái khoản đi thuê khắc triện có tên của mình ở trên gỗ. Mà giá cả
lại rẻ hơn, khoảng bẩy đồng một cái triện hình vuông, mười đồng một cái hình
tròn hay bầu dục. Chưa kể hộp mực dấu, phải bỏ thêm tiền nhưng chúng tôi tự
xoay xỏa lấy bằng cách lấy cái hộp đựng viên thuốc nhện, tức viên thuốc nhức đầu
hồi đó có tên hiệu là Kalmine, nhét đầy bông và đổ mực đỏ vào. Thế là đầy đủ đồ
nghề cho một cái triện son.
Nói cho đúng ra, triện son là thú chơi tao nhã của những nhà
văn nghệ đã nổi danh, vốn đã có nhiều tác phẩm xuất bản rồi. Mỗi khi in một tác
phẩm mới, lúc ký tặng bản bè thì bên cạnh chữ ký, tác giả còn áp thêm một cái
triện son mang bút hiệu của mình (thường là khắc theo kiểu chữ Hán) ở ngay bên
cạnh. Những trang sách mà có lời đề tặng cùng chữ ký và triện son của tác giả
thì nom rất hấp dẫn, trang trọng và ….."văn nghệ" vô cùng!
Dĩ nhiên bọn chúng tôi thì chưa đứa nào có tác phẩm ra đời để
viết lời đề tặng và ký tên có triện son bên cạnh cả. Nhưng cần gì phải theo
đúng nguyên tắc của các bậc đàn anh. Nghĩa là khi có triện rồi thì chúng tôi
đem "ịn" lung tung lên đủ mọi chỗ. Từ tập vở cho đến sách học, từ tờ
nháp cho đến sổ tay. Nhất là khi viết thư cho ai thì khỏi nói, cuối thư thế nào
cũng áp một con dấu đỏ chói bên cạnh cái chữ ký loằng ngoằng. Nom cũng oách ra
phết!
CHƯƠNG V (tt)
Thấm thoắt đã hơn ba tháng trời, tôi "cộng tác" với
tòa soạn Cải Tạo được 8 vở kịch vui. Đó là một thành tích phi thường mà bạn bè
tôi ít ai sánh được. Bởi thông thường thì tỷ lệ số bài của bọn trẻ chúng tôi được
chọn đăng chỉ bằng khoảng một phần năm số bài gửi đi. Mà được như thế cũng đã
là quý hóa lắm rồi.
Trong các bạn bè tôi, chỉ có một người gửi bài nào là dính
bài đó. Lại dính ở một tờ báo sáng giá nhất hồi đó là tờ Tia Sáng, ấn bản đặc
biệt ngày Chủ Nhật. Đó là anh chàng Nguyễn Thanh Đạm tức nhà thơ Song Hồ bây giờ.
Đạm làm nhiều thơ. Thơ của Đạm mới mẻ, tân kỳ. Anh lại có tài tưởng tượng rất
phong phú. Chẳng hạn như những ngày hè nóng chẩy mỡ, Đạm chui xuống quầy hàng,
chổng mông ra, húc đầu vào, lụi hụi làm thơ trời lạnh có tuyết rơi và ở dưới
không quên ghi chú "Paris ngày…."
Tòa soạn Tia Sáng Chủ Nhật chọn đăng thơ của Đạm đều đều. Người
ngoài không biết tưởng nhà thơ này đã đi Tây, đã yêu nhiều, đã thất tình và từng
lang thang lê gót giang hồ tứ xứ. Ai có ngờ đâu, đó chỉ là một cậu học trò đang
mài đũng quần ở bậc trung học đệ nhất cấp!
Một nhân vật khác cũng có tài tưởng tượng hết sức phong phú
mà tôi còn nhớ được là anh bạn tên Nguyễn Đức Cầu, tức ký giả Hùng Phong của giới
báo chí Sài Gòn bây giờ. Tôi quen Cầu từ năm học lớp Nhất trường Hàng Vôi. Nhà
của Cầu ở phố Hàng Than, gần chợ Đồng Xuân Hà Nội. Anh ta chuyên đi một chiếc
xe đạp mà cái tay lái (guidon) không hiểu vì sao lại gẫy mất phần bên trái, chỉ
còn một bên tay phải, nên Cầu chỉ lái xe bằng có một tay. Cầu chơi đàn Banjo rất
giỏi, tiếng đàn gọn, lại chắc qua từng nốt nhạc và lúc "vê" cho âm
thanh kéo dài thì nghe rất ròn rã, điệu nghệ. Đã thế, Cầu còn viết cả phóng sự
được in hàng ngày trên tờ Liên Hiệp của ông Soubrier Văn Tuyên nữa thì mới
"chúa" chứ!
Đó là cái phóng sự nổi tiếng "Con Cò mày đi ăn đêm"
chuyên sưu khảo về những chuyện buôn hàng lậu từ Hà Nội ra vùng Kháng Chiến mà
hồi đó hay gọi là ra "hậu phương". Thật, cho đến bây giờ tôi cũng vẫn
không hiểu anh chàng có cái trán hói, mắt hơi lồi to và thân hình khá loắt choắt
này moi tài liệu ở đâu ra mà viết được những thứ đề tài hiếm hoi như thế. Chính
tôi cũng đã chịu khó hàng ngày cuốc bộ ra tòa báo Liên Hiệp ở góc phố Hàng Trống
và con đường đối diện Nhà Thờ Lớn để đọc "cọp" thiên phóng sự này tại
cái bảng treo báo trước cửa tòa soạn. Nội dung thiên phóng sự quả là hấp dẫn với
nhiều pha sôi nổi, hồi hộp, gây cấn từ các nhóm đi buôn. Cầu lấy bút hiệu là
Hùng Phong mà cho tới bây giờ bút hiệu ấy anh vẫn còn dùng khi viết báo ở Sài
Gòn.
Ngoài việc viết phóng sự, Cầu còn chủ trương riêng một mình một
tờ tuần báo chuyên dành cho trẻ em. Tôi nói "một mình" là bởi từ Chủ
Nhiệm, Chủ Bút đến nhân sự cộng tác viết bài, đi phân phối báo…tất cả chỉ có một
mình Cầu ôm tuốt luốt. Anh chàng lại còn vẽ lấy, trình bầy lấy trang báo, tự
xoay sở tiền bạc để có thể ra được mỗi tuần mốt số báo dầy 16 trang, khuôn khổ
bằng nửa tờ Thiếu Nhi bây giờ.
Chỉ đáng tiếc là tờ báo sống không được lâu vì sau 5 số báo
khá chạy, nó bị mấy tờ báo hùng mạnh hơn ra cạnh tranh trong thị trường báo chí
con nít. Có thể kể sự xuất hiện của tờ cậu Ấm Cô Chiêu (loại mới) do nhà Văn Hồng
Thịnh xuất bản, tờ Ngày Xanh (sau đổi tên là Thiếu Nhi) do nhà văn Anh Hợp chủ
trương và tờ Tuổi Ngọc của họa sĩ Thy Thy Tống Ngọc. Một mình cầm cự với ba
ê-kíp chuyên nghiệp như thế, lại chỉ là một cậu học sinh chưa qua hết bậc trung
học, Cầu dù tài năng cách mấy cũng không thể kéo dài, mặc dù nỗ lực của anh thật
đáng khâm phục.
Trường hợp "đơn thương độc mã" ra báo kiểu này, lại
một lần nữa xẩy ra trong lịch sử "bọn trẻ có ước mơ trở thành văn
sĩ". Đó là trường hợp của nhà văn Lê Tất Điều, thưở ông còn là một học
sinh lớp Nhất bậc tiểu học. Vào thời kỳ đó (sau 1954, ở Sài Gòn), cậu học sinh
tên Điều cũng tự đảm đương lấy một tờ báo với đủ mọi nhiệm vụ: Chủ nhiệm, Chủ
bút, Họa sĩ, Ký giả kiêm luôn cả Thầy cò sửa bản in và nhân viên giao báo. Báo
của Điều in tới 2.000 số, bán cũng khá chạy. Điều kể rằng hôm đến nhà phát hành
để thu tiền báo, ông giám đốc nhăn mặt nói:
- Cậu về nói với Ba cậu tới đây tính toán. Chuyện tiền nong
phải người lớn nói với nhau mới được.
Báo hại, ông chủ nhiệm tí hon phải móc bóp lấy thẻ học sinh
có dán ảnh đàng hoàng ra để chứng minh rằng mình tên là Lê Tất Điều mà tên chủ
nhiệm in trên báo cũng rành rành là Lê Tất Điều nốt. Cuối cùng ông giám đốc nhà
phát hành phải nhượng bộ, thanh toán tiền bạc¸nhưng hẳn vẫn mang trong lòng một
nỗi ấm ức không nguôi:"'Chủ nhiệm báo gì mà nhãi ranh như thế nhỉ!!".
Tờ báo của Điều hình như cũng chỉ ra được có vài số rồi chết.
Mớ báo cũ, Điều mang đi bán kí lô. Tổng số lời lên tới 600 đồng, một món tiền
to, tha hồ vung vít. Ông chủ nhiệm kể rằng đã mua được cây bút máy Pilot để xài
khi vào bậc trung học, một cái máy chiếu hình (loại con nít) để chiếu chơi và mời
bạn bè đi coi chớp bóng rạp thường trực, tới mấy phim mới hết tiền lận!
***
Một căn bệnh chung nữa của "Thưở mơ làm văn sĩ" là
ưa thành lập bút nhóm. Bút nhóm đầu tiên mà tôi gia nhập có tên là Nhóm Nắng Sớm.
Gọi là gia nhập thì cũng không đúng hẳn bởi tất cả các thành viên trong nhóm đều
là sáng lập viên ngay từ phút đầu. Và sau khi Nhóm đã thành lập rồi thì không
còn có ai xin gia nhập nữa.
Tổng số thành viên của Nắng Sớm chỉ vỏn vẹn có ba người. Hơi
ít đấy, nhưng bề ngoài thì trông rất đồ sộ. Bởi theo luật của Nhóm thì mỗi
thành viên phải mang ít nhất là ba bút hiệu, hai bút hiệu con trai và một bút
hiệu con gái (cho nó ra vẻ có nam, có nữ cùng tham gia đông đảo!). Trưởng nhóm
của tôi là Trần văn Tắc. Tắc lấy hai bút hiệu con trai là Song Vũ và Đơn Phong
(ý hẳn Đơn thì đối với Song, còn Phong thì đối với Vũ). Còn bút hiệu con gái
thì Tắc ký là Cát Loan. Loan là tên người yêu trong mộng tưởng của Tắc, còn Cát
là chữ Tắc viết ngược lại đó thôi. Về bút hiệu này, Tắc cũng ký dưới vài bài
thơ được in trên báo. Hẳn nhiên được đăng bài nào, Tắc cũng gửi theo lối nặc
danh cho cô Loan bài đó. Bọn tôi vẫn hay nói đùa:
- Như thế thì cô Loan của cậu sẽ cứ chỉ đi tìm nhà thơ nào có
tên là Cát chứ còn khuya mới biết nhà thi sĩ lại có tên cúng cơm là Tắc.
Hầu như Tắc không tin là người trong mộng của mình lại cù lần
đến thế. Hẳn nhiên lối tỏ tình của thi sĩ thì phải kín đáo hơn người, chứ ai lại
đi nói huỵch toẹt Tắc-Loan thì còn ….văn nghệ nỗi gì! Vả lại Tắc thành Cát, Cát
thành Tắc chỉ là lối đọc ngược đọc xuôi có gì khó đâu. Đến như ông nhà văn nổi
tiếng viết truyện đường rừng Đái Đức Tuấn còn lấy bút hiệu là TchyA, viết tắt
khó khăn như thế mà cũng bị đoán ra là "Tôi chỉ yêu Angèle" đó thôi.
Rồi ông họa sĩ ngym vẽ rất tuyệt trên bìa Phổ Thông Bán Nguyệt San hay trên các
báo Truyền Bá, Nhi đồng họa bản …mà tụi tôi rất mê, nên cũng đã bàn tán om sòm
về cái bút danh ngym này. Có anh nói:
- ngym là người yêu Michèle chứ gì!
Anh khác cãi:
- Sao cậu biết em-mờ là Michèle. Ngộ nhỡ là Mai, là Mơ, là Mỵ
…thì sao.
Một anh lại lên giọng thành thạo:
- Các cậu chẳng biết đếch gì hết. Tớ nghe mấy ông chú nói rõ
ràng rồi. Em-mờ ấy là Mợ. ngym là mấy chữ tắt của “người yêu mợ”!
Cả bọn nhao lên:
- Mợ? Mợ nào?
Anh kia tủm tỉm cười:
- Còn mợ nào. Mợ là tiếng gọi vợ âu yếm ngày xưa hay dùng. Mở
sách Tự Lực Văn Đoàn ra coi, có thiếu gì trang tả cảnh vợ chồng gọi nhau là “cậu-mợ”.
Sau này tân tiến hơn mới đổi thành chữ “mình” duy nhất, nghe nó âu yếm và thân
thiết biết bao.
Cái anh phát biểu câu này thế mà chí lý. Sau này ở Sài Gòn,
nhà thơ Nguyễn Vỹ mở riêng một mục “Mình ơi” trên báo Phổ Thông của ông. Nội
dung mục này là cốt giải đáp mọi thắc mắc trên đời. Những thắc mắc này được nêu
ra bởi một nhân vật đóng vai bà vợ. Mỗi khi có thắc mắc thì bà kêu chồng: “Mình
ơi!...” để cho ông chồng thông thái trả lời.
Tuy nhiên niềm tin của Tắc là người yêu của mình sẽ đọc “Cát
Loan” thành “Tắc Loan”, có lẽ không được cô Loan nào đó chia sẻ. Nên hai năm
sau đó, Loan lên xe hoa về nhà chồng. Hỷ tín, chúc mừng có đăng trên báo, nhưng
tên của chú Rể ….hỡi ơi, không phải là Trần văn Tắc!
Thành viên thứ hai của nhóm Nắng Sớm là một "nhà",
gọi là "nhà" gì cũng được vì anh ta làm thơ, viết truyện kiêm luôn cả
phê bình, biên khảo. Anh ta lấy một bút hiệu con trai và có tới 2 bút hiệu con
gái lận. Lý do là anh đã thầm yêu trộm nhớ cùng một lúc tới..2 cô! Cả hai người
con gái đó đều mới chỉ là người trong mộng. Giả sử nếu được một trong hai người
(cô nào cũng được) ngỏ lời yêu trước, thì anh ta làm như sẽ có thể chết vì cô
đó được. Duy chỉ có điều là anh rất nhát, gặp mặt người yêu thì quay đi, quay
đi rồi về đến nhà lại tiếc, nhưng qua lần sau gặp lại thì mặt lại đỏ phừng, tim
đập loạn xạ, chân tay lóng ngóng để rồi …quay đi nữa. Ôi chà, mối tình lẩm cẩm
của anh thế mà cũng kéo dài được bốn, năm năm, gợi cho anh biết bao nhiêu cảm hứng
sáng tác, giúp anh làm được bao nhiêu là thơ, mà hai bài thơ xuất sắc nhất, lâm
ly não nùng nhất là hai bài mà anh làm vào mỗi dịp hai người yêu của anh đi lấy
chồng.
Bút nhóm của tôi lấy trụ sở tại căn gác xép số 44 phố hàng
Bông Đệm (hồi đó cái biển ở đầu phố còn ghi tiếng Pháp là Rue du Coton). Căn
gác chật chội, cái buồng để cho chúng tôi còn chật chội hơn nữa. Gọi là
"buồng" nhưng nó chỉ là một khoảnh chìa ra ở mé ngoài, tiếp ráp với
phía sân sau của căn gác xép. Nó chỉ vừa đủ kê một nửa cái ghế ngựa (tức là giường
ngủ có 2 mảnh ráp lại, kê trên 2 cái kệ gọi là 2 chân mễ, vì đây chỉ có một mảnh
nên chỉ là một nửa) và một cái bàn nước. Trong buồng không có chỗ kê ghế nên
chúng tôi ngồi cả lên giường. Được cái nhân số của nhóm chỉ có 3 người nên hội
họp có vẻ ấm cúng. Tuy nhiên khi họp chỉ được ngồi mà không thể đứng lên, bởi nếu
đứng lên thì đầu sẽ đụng vào mái ngói thấp tè, dám vừa bể đầu vừa vỡ ngói vì
cái mái này nghe đâu cũng đã được lợp từ trên năm chục năm.
Chương trình nghị sự của buổi họp gồm có:
1) Thứ nhất là: báo cáo thành quả công tác văn nghệ của mỗi
thành viên. Nghĩa là anh nào có bài gửi bài đăng báo mà lại được tòa soạn lựa
đăng thì đem ra trình diện cho cả nhóm được biết. Theo luật lệ của chúng tôi đề
ra thì hễ trong 2 tuần liền, anh nào không có bài được đăng báo thì sẽ bị cảnh
cáo, ba tuần liền thì sẽ nộp phạt cho quỹ nhóm 10 đồng, còn đến 4 tuần liền thì
ôi thôi… cái thứ không có khả năng văn nghệ như vậy, hoặc có khả năng mà sinh
lười biếng, sẽ bị nhóm khai trừ không thương tiếc!!
Tuy nhiên luật Nhóm cũng đã dễ dãi ở chỗ có điều khoản
"du di"! Nghĩa là nếu tuần này tôi có những 2 bài thơ được đăng báo
thì tôi có thể "để dành", chỉ khai báo một bài, còn bài kia cất giữ
phòng hờ những tuần sau chẳng có báo nào in bài của mình. Mà chuyện này thì rất
dễ xẩy ra, vì trang báo dành cho mục văn nghệ thì có giới hạn mà bút nhóm thì mọc
lên như rươi. Cái nạn "nhân mãn" vẫn là sự đe dọa thường trực đối với
những cây bút mới bước vào làng văn như chúng tôi. Về sau, có kinh nghiệm chuyện
sợ phải đóng phạt hơn, khi gửi bài cho các báo, chúng tôi gửi kèm cả những mẩu
danh ngôn hay những chuyện vui cười. Ấy vậy mà Chuyện vui cười lại được chọn
đăng ngay "tút suỵt" (Tout de suite=ngay lập tức!) và chúng tôi có
lưng vốn để dành đem ra trình diện Nhóm. Quỹ của Nhóm vì thế chẳng thêm được đồng
bạc cắc nào về vụ phạt vạ cả.
2) Tiết mục thứ hai: là trình diện tác phẩm mới sáng tác (vẫn
còn nằm trong bản thảo, chưa gửi đi in). Đây là một biện pháp mà Nhóm muốn thúc
đẩy các thành viên tích cực làm việc. Tối thiểu mỗi tuần, nhóm viên phải trình
diện hai bài viết mới, hoặc thơ, hoặc truyện, hoặc phê bình….nhưng cấm đưa Vui
cười hay Danh ngôn ra thay thế vì đó không phải là sáng tác. Nhóm dễ dãi cho việc
đăng báo thì được chứ không thể nhân nhượng cho việc sáng tác. Đã vô Nhóm thì
phải viết, dù là viết dở không được các báo chọn đăng.
Về điều khoản luật lệ này chẳng có ai vi phạm cả vì bọn chúng
tôi, anh nào cũng sáng tác rất hăng. Có tuần Tắc trình diện 6 bài thơ, 2 bài
phê bình, 1 cái truyện ngắn và 1 bài bình luận. Ối chà, bản thảo của cu cậu dầy
cả xấp, ít ra là cu cậu cũng đã phải xé văng hai cuốn tập, hèn chi mà tập vở ở
trường, cuốn nào của Tắc cũng xẹp lép mặc dù ở ngoài bìa có in rõ là vở 100
trang, 200 trang.
Trong những ngày đầu họp Nhóm, ở tiết mục này còn có phần
bình tác phẩm của mỗi thành viên để anh em cùng nêu nhận xét. Nhưng chỉ thi
hành được có 2 tuần là chúng tôi phải dẹp ngay, lý do dễ hiểu là sau khi bình
lên thể nào cũng có những vụ cãi nhau ỏm tỏi. Tác giả thì cho là văn, thơ của
mình thâm thúy, sâu sắc, kẻ "phàm phu" đọc không hiểu, người phê bình
thì lại sử dụng toàn ngôn ngữ "móc máy" dễ khiến người nghe nổi nóng.
Thế là giận nhau, nếu không khéo dàn xếp thì Nhóm có thể tan vỡ mau chóng như bọt
xà phòng.
Tôi cón nhớ một lần, Nhóm bình lên bốn câu thơ của Tắc:
"Tôi chờ em dài đường đời tám hướng
Bóng kinh kỳ, ôi ngập ngụa kiêu sa
Em ở đâu, chừ bây giờ buồn hay sướng
Có nhớ tôi, kẻ cô lữ xa nhà…
Một cuộc chất vấn loạn xà ngầu sau đó xẩy ra:
- Sao lại tám hướng? Ngoài Đông, Tây, Nam, Bắc ra, còn có hướng
nào nữa?
Mặt Tắc đỏ lên vì tức tối. Gã cãi lại một cách khó khăn vì
cơn tức đã dâng đầy lên cổ:
- Đọc thơ mà hạch xách như bố người ta, thế thì còn văn nghệ
cái cóc khô gì nữa!
- Nhưng văn nghệ gì thì cũng phải có lý chứ. Phi lý quá sẽ trở
thành phi văn nghệ rồi còn gì.
Tắc vụt nghĩ ra câu trả lời bèn cười khẩy:
- Ngoài Đông, Tây, Nam, Bắc ra thì còn Đông Bắc, Tây Bắc,
Đông Nam, Tây Nam nữa, cả thẩy là tám hướng có được không?
Anh kia đuối lý nhưng cũng cười chế giễu:
- Hờ…hờ…thế là cùng khắp cả ….(lấy giọng ngâm) Tôi chờ em dài
đường đời cùng khắp mọi nơi..
Tắc cáu sườn lắm, định phá bĩnh không chơi họp nhóm họp nhiếc
gì nữa, nhưng tôi đã vội vã can thiệp:
- Tả đường đời mà nói tám hướng là rõ rồi đấy chứ. Người ta
còn nói đường đời muôn ngả, nếu lại hỏi muôn ngả là những ngả nào thì bố ai có
thể trả lời được. Thôi! Câu đầu thế là hay rồi. Mà chữ "dài đường đời"
mà cậu Tắc dùng ở đây là "mới" lắm đấy nhé. Cũng như ông thi sĩ nào
đó đã dùng chữ "vàng lá mơ bay" chớ không dùng "lá mơ bay
vàng" nghe nó nôm na, phi văn nghệ làm sao.
Tắc được tôi khen nở cả mũi nên cơn giận cũng nguôi ngoai.
Nhưng cái hoạn nạn này chưa qua thì cái khác đã tới. Anh bạn nhóm viên của tôi
lại phang thêm cho Tắc một chùy nữa:
- Bóng kinh kỳ ngập ngụa kiêu sa! Sáo còn hơn sáo vịt nữa.
Nhưng thôi, cũng cho là được đi. Nhưng còn câu thứ ba thì không thể chấp nhận
được. Cái gì mà "Em ơi em ở đâu, bây giờ buồn hay sướng.
Tôi nhắc anh ta:
- Em ở đâu, không phải Em ơi em ở đâu…
Anh chàng cười rồi nhắc lại:
- Ờ.. thì..Em ơi ở đâu bây chừ buồn hay sướng. Buồn thì phải
đi với vui, chớ đâu lại có buồn đi với sướng.
Tắc cãi lại:
- Được chứ sao không. Thơ mà, chứ đâu phải tội phạm mà hoạnh
họe đòi cái này, cái kia.
Tôi cũng đỡ lời Tắc:
- Mấy lỵ ở trên là tám hướng thì ở dưới phải là buồn hay sướng
thì mới hợp vận chứ. Sửa thành buồn hay vui thì còn vần với vì gì nữa.
Phần bình thơ cứ cái kiểu móc họng nhau đó kéo dài làm Tắc
sùng quá hất tung cả bản thảo rồi vùng vằng:
- Đếch chơi với các cậu nữa. Văn nghệ chó gì mà cứ lôi ra bắt
bẻ như vạch lá tìm sâu thì bố ai mà chịu được.
Phiên họp nhóm suýt vì cái màn giận lẫy ấy mà tan vỡ. Rất may
là tôi vuốt ve được tự ái của Tắc kịp thời và dàn hòa bằng những chuyện pha trò
tuy vô duyên nhưng cũng làm nhẹ được bầu không khí đang căng thẳng. Tắc bằng
lòng ở lại nhóm với điều kiện là bỏ cái mục bình thơ đi. Anh hậm hực nói:
- Nếu còn bình thơ thì thà ở nhà đem đàn ra gẩy tai trâu còn
sướng hơn.
Thế là món "bình tác phẩm" trong buổi họp Nhóm bị
xóa tên trong chương trình nghị sự.
Tiết mục sau cùng của buổi họp là trần thuyết cho nhau nghe về
tác phẩm của các nhà văn đi trước. Chúng tôi có lệ là cứ mỗi buổi họp, mỗi
thành viên phải trình bầy về một tác phẩm cũ hoặc mới xuất hiện trên thị trường.
Công việc này đòi hỏi các nhóm viên phải đọc nhiều, tập nhận xét, phân tích và
đưa ra những ý kiến cá nhân đối với tác phẩm.
Tôi còn nhớ trong các buổi họp này, tôi đã trần thuyết về tác
phẩm của Ngọc Giao, của Sao Mai, của Nguyễn Minh Lang, của Hoàng Công
Khanh..v…v…là những nhà văn thường xuyên góp mặt trên báo chí hồi đó.
Trong số những tác phẩm được đem ra mỏ xẻ, tôi còn nhớ cuốn
gây được sôi nổi nhất là cuốn Linh Hồn Ngọc của Hiệp Nhân. Cuốn này gây sôi nổi
không phải vì nội dung của nó quá hay hoặc quá dở nhưng là vì tác giả của nó chỉ
là một cậu học sinh mới bước vào năm đầu của bậc Trung Học Đệ Nhị Cấp! Vào thời
kỳ đó, đang còn cắp sách đến trường mà có truyện dài in ra là cả một hiện tượng
lạ. Anh chàng Hiệp Nhân này đã gây sôi nổi vì đã làm được chuyện đó.
Cuốn truyện dầy gần 200 trang, ấn loát đẹp đẽ, khi mới phát
hành Hiệp Nhân có tặng thầy Nguyễn Uyển Diễm một bản. Thầy Nguyễn Uyển Diễm hồi
đó cùng hiền nội của thầy là nữ sĩ Mộng Sơn (người có tác phẩm Vượt Cạn vừa
phát hành) đang chủ trương nhà xuất bản Vỡ Đất, trụ sở hình như đặt ở Phố Hàng
Bát Đàn. Thầy dạy môn Quốc văn ở hầu hết các trường tư lớn ở Hà Nội. Thầy lại
là người rất sốt sắng và cởi mở. Bởi vậy khi nhận được sách biếu, thầy đem đi
giới thiệu cùng khắp các lớp. Thầy nói đại ý là đã được tác giả cho xem cuốn
sách từ khi nó còn là bản thảo. Thầy khuyên tác giả rằng nó còn nhiều khuyết điểm,
nên sửa chữa. Nhưng tác giả "hơi vội" đã cho in ngay. Tuy nhiên đó là
bước đầu của một cây bút đầy nhiệt thành nên nó rất đáng khen ngợi và đáng
khích lệ.
Bọn lau nhau chúng tôi thì cứ tròn xoe mắt lên mà nhìn cuốn
sách với tất cả lòng khâm phục. Đối với chúng tôi thì dù là vội, dù là có khiếm
khuyết cần sửa chữa, nhưng tác giả của nó đã dầy công "khuậy" được từng
ấy trang (gần 200 trang in, đâu phải là chuyện chơi!), lại in được ra thành
sách, thế là "chúa" quá đi rồi. Dưới mắt chúng tôi, anh chàng Hiệp
Nhân bỗng trở thành một nhà văn thứ thiệt, có tác phẩm bán trên thị trường, tức
là đã ngoi chễm chệ lên bàn Nhất chứ không phải bàn Nhì lem nhem chỉ in bài trên
mặt báo như bọn chúng tôi.
Chẳng hiểu về sau Hiệp Nhân lời hay lỗ, lỗ thì lỗ bao nhiêu,
nhưng công trình đó đã vượt quá xa tầm tay của chúng tôi rồi. Bởi nội cái việc
bỏ ra cả ngàn bạc để in thành sách đã là một chuyện kinh khủng đối với lũ mạt rệp
như bọn tôi. Mỗi ngày, riêng tôi chỉ có ba đồng để ăn sáng. Tôi chỉ ăn có một đồng
xôi để dằn bụng. Còn hai đồng thì để mua thuốc lá phì phèo. Ôi chà, làm sao mà
có thể để dành tới bạc ngàn để in sách được.
Cũng còn một con đường khác có thể in được tác phẩm (nhưng rất
hiếm hoi). Đó là con đường bán tác phẩm cho nhà xuất bản Chính Ký ở đường Sinh
Từ, gần chợ Cửa Nam, Hà Nội. Vào thời kỳ đó, nhà Chính Ký hầu như là một nhà xuất
bản duy nhất dám in tác phẩm của các cây viết mới đang chập chững vào nghề,
theo tính cách cứ in một cuốn của nhà văn nổi tiếng thì lại chen vào một cuốn của
cây bút mới thuộc toàn giới trẻ như Nguyễn Đông Tây, Anh Quân, Thanh Hữu, Hùng
Phong, Vũ Mai Anh..v..v… Đáng kể nhất là Vũ Mai Anh, một cây bút còn hoạt động
cho đến bây giờ.
CHƯƠNG V (tt)
Hồi đó Vũ Mai Anh mới chỉ là một cậu học sinh lớp đệ Ngũ của
trường Chu văn An, nhà ở phố Hàng Đồng, gần Cửa Bắc Hà Nội. Mai Anh say mê văn
nghệ có thể nói còn hơn bất cứ một người nào khác. Cặp táp của anh lúc nào cũng
dầy cộm từng xấp bản thảo. Có bản đã viết xong, có bản đang cho in giở giang
trên báo. Đã thế lại có bản vừa khởi sự viết được vài chục trang. Tổng số tác
phẩm của Mai Anh vào lúc đó đã lên tới 4, 5 cuốn. Toàn là truyện dài chữ li ti
như con kiến, nội dung cũng toàn là những chuyện tình với tựa đề thật ướt át
như Duyên Kiếp, như Phũ Phàng..v.v..
Quyển Duyên Kiếp đang được đăng từng kỳ trên báo Hồ Gươm của
bác sĩ Bùi Cẩm Chương. Quyển Phũ Phàng chưa in trên báo nhưng lại được nhà
Chính Ký in ra thành sách. Cuốn sách dầy hơn 200 trang, bìa in Litho đủ mầu tuyệt
đẹp không thua gì in Ốp-sét bây giờ. Hình bìa vẽ một thanh niên thật bảnh trai
đang ngồi ôm mặt bên một nấm mồ. Trên nấm mồ có hương bay nghi ngút, có bia đá
đề tên thiếu nữ, xa xa có những giải mây bay lờ lững thấp thoáng qua mấy nhánh
thông gầy. Mộ xanh, cỏ úa, vẻ mặt người bi ai, rầu rĩ, cảnh trí nom thật …phũ
phàng!
Cuốn sách bán rất chạy. Có lẽ là chạy nhất trong những cuốn của
các tác giả mới ra lò. Mai Anh vụt nổi như sóng cồn trong đám văn nghệ trẻ như
chúng tôi. Và chúng tôi cũng đọc Mai Anh với tất cả say mê vì văn của anh vững
chãi, già dặn, có dáng dấp, kiểu cách rất hợp với không khí văn chương bình thản
hồi bấy giờ.
Đối với tôi, những người như Mai Anh, Hùng Phong, Hiệp Nhân,
Lê Ninh (nổi tiếng khắp giới học sinh Hà Nội chỉ vì một bài tùy bút rất hay
đăng trong giai phẩm Lửa Lựu xuất bản trong một dịp Hè)..v..v.. đều là những thần
tượng mà tôi mơ ước. Những thần tượng ấy không quá cao xa như Nhất Linh, Khái
Hưng, Trần Tiêu, Nguyên Hồng… mà lại gần gụi như tôi vì thấp thoáng cũng có
bóng dáng của tôi trong đó. Họ cũng như tôi đều còn là những cậu học sinh còn
đang cắp sách đến trường nhưng đã ôm trong lòng tất cả nỗi say mê, và mang
trong tim một hoài bão thiết tha, một ước mơ cố đạt thành. Đó là Mơ Làm Văn Sĩ!
Vào thưở còn cắp sách đến trường, số người mơ ước trở thành
văn nghệ sĩ rất đông. Hà Nội ngày xưa, với tâm trạng bình thản, khung cảnh nên
thơ thay đổi bốn mùa, khi vào hạ có hoa Sấu lấm tấm giải trắng mặt đường, buổi
sơ Thu lá úa bắt đầu trải vàng trên lối đi để lại những cành trơ trụi in khẳng
khiu trên nền trời đầy mây xám. Từng giải mưa Xuân, từng tiếng ve Hạ, từng vạt
nắng Thu hay những luồng gió Đông rì rào đập trên cánh cửa le lói ánh sáng của
những căn phòng ấm áp, tất cả đã gợi lên trong lòng mọi người biết bao cảm hứng.
Chúng tôi đã làm văn nghệ một cách say mê trong những khung cảnh
đó. Chúng tôi đã tạo dựng cho thế giới học trò một bầu không khí của thơ, của
văn, của nhạc đầy tính chất học trò. Ồn ào rộn rã thật đấy nhưng không khỏi có
những vấp váp, vụng về thật dễ thương. Một trong những kỷ niệm đáng ghi nhớ về
sự vụng về ấy là tờ giai phẩm Hồng Hà do Mai Anh và Trần Đỗ chủ trương (anh Trần
Đỗ tên thật là Trần Xuân Mỹ, bây giờ là giáo sư Sử Địa ở các trường tư lớn ở
Sài Gòn).
Giai phẩm Hồng Hà là một ước mơ đã thể hiện của những cây bút
học trò. Chúng tôi mơ ước thực hiện những công trình như những bậc đàn anh đi
trước: ra báo, in tác phẩm, lập Văn Đoàn và ấn hành Giai Phẩm. Có lẽ việc ấn
hành giai phẩm là một công việc tương đối dễ làm nhất. Vì giai phẩm có tính
cách tổ hợp, lại không phải là một công việc trường kỳ. Nó chỉ là một công
trình gom góp tác phẩm của nhiều người rồi in ra trong một dịp đặc biệt nào đó.
Riêng giai phẩm Hồng Hà còn là nơi qui tụ những tác phẩm của
các cây bút học trò, không phải là chuyên nghiệp, tất cả đã tự viết lấy, thực
hiện lấy, lo lắng lấy như một nụ hoa đầu mùa trổ lên giữa khu vườn đầy hoa thơm
cỏ lạ của những bậc đàn anh đi trước.
Tòa soạn của giai phẩm Hồng Hà đặt ở nhà anh Trần Đỗ, phố
Hàng Bát Sứ Hà Nội. Ròng rã hơn hai tháng trời đôn đáo bằng tất cả lòng hăng
hái của những tín đồ, ước mơ đã thể hiện. Tờ giai phẩm đã hình thành với những
bài vở thu thập được từ hầu hết của các cây bút học trò. Một ngàn tờ bích
chương to bằng trang nhật báo được đem dán khắp các đường phố.
Hồng Hà! Hồng Hà! Hồng Hà! Đi đâu cũng thấy hai chữ Hồng Hà đập
vào mắt, ở cột đèn., ở gốc cây, ở tường phố. Hàng Bông, hàng Gai, hàng Đào, Hồ
Hoàn Kiếm, đền Ngọc Sơn. Và dĩ nhiên là còn ở khắp các trường trung học.
Nhưng như đã trình bầy ở trên, chúng tôi chỉ là những tay mơ
mới chập chững bước vào nghề. Chúng tôi đã để lại trên đường đi đầy rẫy những
sơ sót. Từ cách tổ chức đến kỹ thuật trình bầy, ấn loát, phát hành và ngay đến
cả vấn đề luật lệ nữa.
Khổ sở nhất là về tấm bích chương quảng cáo. Thay vì xài giấy
mầu, chúng tôi đã cho in trên giấy báo thông thường. Thay vì có in chêm mầu
xanh, đỏ thì chúng tôi chỉ cho chạy toàn mầu mực đen (tiết kiệm mà!). Thành ra
những tờ quảng cáo của chúng tôi đã vi phạm luật lệ hiện hành. Vâng, theo luật
lệ về bích chương của tư nhân muốn phổ biến công khai thì phải in có mầu thay
vì chỉ toàn đen với trắng. Hai mầu đen với trắng thuần túy thì chỉ để dành cho
những thông tư, thông cáo dán nơi công cộng của nhà nước.
Thế là những tờ quảng cáo còn thơm mùi giấy, còn lấp lánh ánh
mực mà chúng tôi đã khổ công chia nhau đi dán ở mọi nơi, chưa qua được 24 giờ
thì đã có lệnh phải cấp tốc triệt hạ vì nó không phải là Thông Tư, Thông Cáo của
nhà Nước! Thật không còn gì cay cú cho bằng khi chúng tôi lại phải chia nhau đi
xé xoàn xoạt những sản phẩm tinh thần mà chúng tôi đã từng ấp trong lòng từ bao
nhiêu ngày qua, từ lúc cái ý định ra Giai Phẩm nẩy sinh ở trong đầu.
Các cụ ngày xưa thường nói "chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng
Tổng", câu đó thật đúng. Hôm mới lấy tấm bích chương ở nhà in về, cả nhóm
đã kéo nhau đi ăn mừng, bàn tán ỏm tỏi về niềm sung sướng, hãnh diện khi nghĩ đến
tấm bích chương hẳn sẽ gây xôn xao trong giới văn nghệ và người dân Hà Thành
khi nó được dán lên. Thế mà bây giờ chúng tôi phải cắn răng mà xé đi. Xé và xé!
Thật không còn gì cay đắng cho bằng, vì cứ thà xé ngay tim, gan, phèo phổi gì
đó của chúng tôi đi có lẽ cũng còn đỡ đau hơn nhiều. Hóa ra làm văn nghệ tay mơ
là như thế đó.
Nói đến tay mơ thì phải nói là tôi cũng đã "mơ" nhiều.
Ở đời có nhiều cái dại nhưng chẳng cái dại nào giống cái dại nào. Nhân đây, tôi
lại kể thêm về một kỷ niệm đáng nhớ về "cái dại" mà tôi cũng đã từng
trải qua. Đó là thời gian tôi hợp tác với anh Đặng văn Ngữ (anh Ngữ bây giờ hiện
ở trong Nam nhưng hơn mười lăm năm nay tôi chưa gặp lại) để tổ chức một chương
trình gọi là "Chiếu bóng chiều thứ Bẩy" cho học sinh cùng trường (trường
Nguyễn Trãi, trước có tên là Chu văn An - Hà Nội), và cả các trường khác.
Hồi đó, đối với những học sinh nghèo, đi coi ciné là một chuyện
xa xỉ mặc dầu giá vé hạng Ba (hạng chót) có đắt nhất cũng chỉ 15 đồng một vé.
Đó là kể những rạp hạng sang như rạp Philharmonique ở Bờ Hồ, Ciné Club hay Eden
ở phố Tràng Tiền, Majestic ở phố Đồng Khánh, hay Ciro’s hình như ở gần đầu Phố
Huế. Còn những rạp bình dân hơn như rạp Moderne ở phố hàng Quạt, rạp Olympia ở
chợ hàng Da thì giá vé hạng ba chỉ có 8 đồng.
Thành ra suốt mấy năm còn học ở tiểu học, rất ít khi chúng
tôi được vô rạp chớp bóng để coi "nguyên một phim". Thông thường thì
chúng tôi chỉ là khán giả thường trực của phòng Thông Tin Pháp ở phố Tràng Tiền.
Cứ tới giờ chiếu phim là chúng tôi đứng chầu ở cầu thang lối dẫn lên lầu để khi
sợi dây thừng ngăn lối lên được mở ra là chúng tôi ùa lên coi. Hôm nào chen
chúc đông quá thì nhân viên trực, thường là một ông Tây, đứng trên cầu thang chỉ
mặt từng người để cho vào. Ai không được “chỉ” thì coi như bị loại, mặt mũi tiu
nghỉu ra về. Mà nào có phải chen chúc để coi những phim gì hay ho cho cam. Tất
cả chỉ toàn phim thời sự của hãng Pathé hay tài liệu nói tiếng Tây thôi. Tụi
tôi nghe cũng hiểu lõm bõm đấy, nhưng chủ yếu là coi…hình!!
Ngoài ciné coi "chùa" ra, chúng tôi cũng hay lui tới
các rạp hát như rạp Đan Thanh ở phố Hàng Quạt, rạp Kim Phụng ở phố Hàng Bạc hay
Nhà Hát Lớn ở gần Nhà Bác Cổ. Đi coi rạp Kim Phụng thì chỉ mất có 3 đồng, đó là
tiền dúi cho người soát vé sau khi buổi hát đã trình diễn gần hết…hai màn đầu!
Thường thường mỗi buổi diễn bao gồm 3 màn, nếu vô rạp vào lúc màn hai sắp hạ
thì kể như đã tàn cuộc. Nhưng nghèo mà vẫn ham, vả lại cần chi cốt chuyện, miễn
cứ vô để được coi phông cảnh, cung cách trang trí sân khấu, y phục diễn viên và
nhất là được nhìn tận mắt các tài danh như Kim Chung, Kim Liên, Ái Liên, Ái
Loan, Bích Hợp, Huỳnh Thái, hề Tư Vững…Ôi chà! Như thế cũng là quá đủ!
Riêng Nhà Hát Lớn thì chỉ sinh hoạt nhộn nhịp vào mùa Kịch khởi
sự từ mùa Thu trong năm. Xem kịch Nhà Hát Lớn, bọn học sinh tiểu học chúng tôi
cũng không mất tiền, vì không hiểu sao, cứ mỗi khi màn Ba bắt đầu khởi sự thì
người soát vé biến đi đâu, cửa cứ mở tự do cho ai muốn vào thì vào.
Còn ai vào đấy nữa ngoài lũ nhóc tì chúng tôi! Thôi thì cả lũ
tự do như gió trời, vượt qua được hai cánh cửa sắt là chúng tôi leo tuốt lên lầu
ba, ngồi bảnh chọe trên những hàng ghế gỗ thường được mệnh danh là "chuồng
gà" để coi cọp. Gặp những hôm khán giả đông quá, chuồng gà cũng hết chỗ
thì chúng tôi tìm các hàng cột để dựa lưng coi "đứng". Hoặc giả bầu
không khí có ngột ngạt quá, mồ hôi mồ kê đổ ra nhễ nhại (hồi đó đã làm gì có
máy lạnh) thì chúng tôi kéo nhau đi khắp các vòng hành lang của ba tầng lầu để
sục sạo vô các phòng để phông cảnh, phòng hóa trang, phòng chứa các dụng cụ gần
như phế thải. Cứ đi đến đâu là chúng tôi lại đập cửa rầm rầm, la hét, gọi nhau
í ới tới đó.
Chính trong bầu không khí "vui vẻ quá" đó, tôi đã
được xem những vở kịch nổi tiếng như Tâm Sự Kẻ Sang Tần, Bông Hồng Dại, Tiếng
Trống Hà Hồi …và đặc biệt là vở Lôi Vũ của Tào Ngu dài tới 5 màn, kéo buổi diễn
từ 3 giờ chiều đến 11 giờ khuya mới chấm dứt. Khán giả đi coi phải mang theo
bánh mì để ăn trong giờ giải lao gọi là Entr'acte.
Những năm lên trung học, vì đứng đắn con người ra nên rất ít
khi tôi lui tới rạp hát nếu trong túi không có tiền. Cảm thông với rất đông học
sinh cùng cảnh ngộ, tôi đã bàn với anh Đặng văn Ngữ tổ chức chương trình
"Chiếu bóng chiều thứ Bẩy", nghĩa là hằng tuần, cứ đến chiều thứ Bẩy
là chúng tôi dự tính sẽ tổ chức chiếu một phim ở một rạp đàng hoàng, giá vé bán
đồng hạng có 5 đồng, ai đến sớm thì ngồi ghế đệm gọi là hạng "phô
tơi" (Fauteuil), ai đến trễ thì ngồi ghế gỗ.
Buổi tổ chức đầu tiên chúng tôi chọn một phim Ấn Độ có tên là
Saudaagar, fille des Indes (cô gái Ấn, tên Saudaagar) bởi vì trước đó cả Hà Nội
đã xôn xao rủ nhau nô nức đi coi một phim Ấn độ khác có tên là Mangala, fille
des Indes. Chúng tôi nghĩ, Mangala đã được tiếp đón nồng hậu thì Saudaagar chắc
cũng được cái âm hưởng dư thừa.
Trong vòng 2 tuần lễ, anh Ngữ và tôi đã đôn đáo chạy đi thuê
phim, mướn rạp, in vé, vẽ áp phích quảng cáo và đi đến đâu chúng tôi cũng được ủng
hộ nồng nhiệt tới đó. Chúng tôi dự tính mỗi kỳ bán ít lắm cũng được 600 vé để
thu về 3.000 đồng. Chi ra 2.500 đồng thuê phim, thuê rạp, 500 đồng in vé, in
chương trình và chi phí linh tinh. Coi như huề vốn, hoặc giả có lời hay có lỗ
thì tuần nọ bù tuần kia, chúng tôi vẫn có khả năng duy trì chương trình
"chiếu bóng chiều thứ Bẩy" cho anh em học sinh các trường đi coi giải
trí với giá bình dân.
Nhưng chúng tôi đã không lường trước một trở ngại lớn lao mà
sau này, hai đứa suýt bị khốn đốn. Đó là cái vụ phải đóng Thuế Hí Cuộc!
Vốn là những tay mơ, lại tưởng mình chỉ làm việc xã hội chớ
có buôn bán gì đâu mà phải tính tới chuyện thuế má. Nào ngờ khi làm đơn xin
phép trình chiếu ở rạp Đại Đồng phố hàng Cót thì Tòa Thị Chính cho biết các vé
trước khi bán ra phải đem lại cho Sở Thuế "đục lỗ kiểm soát" để sau
này căn cứ vào số vé bán ra, ban tổ chức phải nạp Thuế Hí Cuộc.
Thế là tôi và Ngữ ngã ngửa người ra vì cái tin động trời này!
Nhưng chương trình đã công bố rồi, nếu cứ tiếp tục tổ chức thì sẽ phải lỗ đứt
đuôi vài trăm bạc Thuế. Mà rút lại không tổ chức nữa thì tiền in vé, in chương
trình, tiền đặt cọc cho chủ rạp mà Ngữ đã xin ông bà cụ thân sinh ứng trước, tất
cả cũng đều sẽ tiêu tùng ra mây khói. Thật đúng là chúng tôi đã bị du vào cái
thế tiến thoái lưỡng nan, chót ngồi lên lưng cọp!
Cuối cùng, tôi và Ngữ bàn nhau chỉ còn có nước đi gặp ông
Chánh Sự Vụ Sở Thuế để năn nỉ xin "đại xá" cho một lần.
Ối chà! Đấy là lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi phải ra trước
“cửa công”. Tuổi sấp sỉ 16, thân hình lại gầy nhom gầy nhóc, trông tôi chỉ như
cậu bé mười ba, mười bốn. Còn Ngữ tuy mập và to con hơn, nhưng cũng chẳng già dặn
được bao nhiêu. Nhìn chung, "phái đoàn" của chúng tôi thật chẳng có một
kí lô gì so với tòa nhà to sừng sững ở ngay phố Bờ Hồ có những phòng ốc chật
ních những nhân viên. Nhất là có ông Chánh Sự Vụ bệ vệ mà tôi còn nhớ hình ảnh
của ông như in trong đầu.
Thân hình ông mập mạp, nước da trắng bóc điểm những nốt chấm
hồng hồng, trán hơi hói đã điểm thưa những sợi tóc bạc, còn những ngón tay của
ông thì vừa ngắn vừa to múp míp. Ông ta thuộc loại người vừa khó tính vừa hách
dịch, lại xui cho chúng tôi hơn nữa là đã đi gặp ông vào cái hôm mà ông ta đang
bị nhức đầu xổ mũi. Trong suốt buổi gặp hôm ấy ông hắt hơi luôn luôn, ống thuốc
long não để ngửi không ngớt được ông đưa lên hít hà khiến cho hai cánh mũi của
ông như phồng to lên và đỏ ửng như quả cà chua.
Thời tiết ấy, bệnh trạng ấy, lại phải lằng nhằng với mấy tên
con nít không biết "luật pháp" dưới quyền ông là gì, thì hỏi làm sao
mà ông không cau có, gắt gỏng, một đôi khi ông còn quát to khiến tôi xanh cả mặt
lên nữa.
Kết quả lần "du thuyết" đó, chúng tôi thất bại hoàn
toàn. Chúng tôi không xin được miễn Thuế Hí Cuộc. Chúng tôi phải đem vé đến đục
lỗ trước khi bán ra trong khi ngày trình chiếu cuốn phim ca vũ nhạc Ấn Độ
Saudaagar, Fille des Indes đã gần kề.
Cuối cùng, chúng tôi phải đem đầu đến nạp thầy Hiệu Trưởng
Nguyễn văn Mùi để biện bạch và xin cầu cứu. Thầy Mùi nhận lời cứu vớt chúng tôi
một nửa, nghĩa là xin giảm cho 50%. Đó là mức tối đa thầy có thể làm được.
Nhưng chúng tôi đành phải chấp nhận và xúc tiến tổ chức để khỏi lỡ hẹn với bà
con, cô bác. Nhưng sau lần đó, chúng tôi thề "cạch" tới già không tổ
chức chiếu bóng, chiếu bung gì nữa hết. Thế là chương trình "Ciné các chiều
thứ Bẩy" của chúng tôi tan theo mây khói.
CHƯƠNG Cuối
Cũng như sinh hoạt văn nghệ bây giờ, hồi trước hằng năm cứ
vào dịp gần Tết là bọn chúng tôi nô nức với bầu không khí sửa soạn viết bài cho
các báo Xuân. Đối với các cây bút có tên tuổi thì viết xong bài nào là có chỗ
tiêu thụ ngay bài ấy. Đó là chưa kể một số cây bút đã được tòa soạn giành xin
bài từ trước, có khi lại đưa trước cả tiền nhận bút.
Được các tác giả nổi tiếng đóng góp bài vở, tờ báo sẽ thêm uy
tín khiến cho số báo có thể bán chạy hơn, đặc biệt là những số báo Xuân. Mà khi
nhận được lời mời, nhiều tác giả còn cân nhắc xem tuy tín của tờ báo đến đâu,
có là loại báo đứng đắn, chuyên nghiệp không, hay chỉ làng nhàng, thậm chí còn
bị mang tiếng là báo lá cải. Câu tục ngữ "chọn mặt gửi vàng" xem ra
cũng đúng trong những trường hợp này, mặc dù dưới mắt bọn lau nhau chúng tôi
thì một sáng tác giá trị của một tác giả đã thành danh xét ra còn quí hơn…vàng!
Bọn chúng tôi thì chưa đạt được tới mức thượng thừa như vậy,
nên muốn chen chân tìm được đất đứng trong một tờ báo Xuân sẽ buộc lòng phải viết
tưới hột sen, và dòm chừng tờ nào tương đối dễ chen vô là gửi bài về tới tấp.
Hoàn cảnh của chúng tôi cũng chẳng khác gì những kẻ đi săn tài tử chỉ xài toàn
đạn ghém. Cứ bắn đại đi, khỏi cần nhắm kỹ, chắc chắn trong cả trăm viên chì
phóng ra cũng sẽ có viên dính được con mồi.
Được cái ở Hà Nội vào dịp giáp Tết, bầu không khí tuy lạnh lẽo
nhưng lại là cái lạnh lẽo dễ tìm chỗ ấm cúng để tụ tập và gây cảm hứng sáng
tác. Mỗi buổi tối sau khi cơm nước xong, cả lũ đều bận áo ấm để tìm tới nhà
nhau. Hôm nào "suông" (hết tiền) thì ngồi nhà tán chuyện gẫu, còn hôm
nào "rích kê" (có tiền) thì kéo nhau đi cà phê Nhân hay cà phê Giảng ở
đầu phố Cầu Gỗ gần Bờ Hồ để thưởng thức hương vị cà phê tuyệt hảo với khói thuốc
bay thơm lừng trong bầu không khí mùa đông, gió thổi lạnh lẽo trên mặt hồ.
Cà phê, một phin hết bốn đồng. Thuốc lá lẻ cứ hai đồng thì ba
điếu. Ngồi trong tiệm, mỗi đứa ngậm một điếu (cho khỏi mất mặt bầu cua), nhưng
trên đường về thì chỉ truyền nhau hút chung một điếu cho đỡ hao hụt. Đến lúc
chia tay, trong túi mỗi đứa cũng còn được đôi ba điếu để lận lưng chờ đêm đem
ra đốt lúc ngồi sáng tác. Sáng tác vào ban đêm hầu như là thói quen của nhiều
người, vì đó là lúc yên tĩnh nhất. Công việc thường xuyên trong ngày cũng đã chấm
dứt, chỉ còn một mình đối diện với trang giấy trắng muốt sẵn sàng đón chờ nguồn
cảm hứng sắp tuôn trào.
Tôi đã cài kỹ cửa lớn, cửa nhỏ lại cho gió đông khỏi ùa vào
phòng. Rồi bật đèn sáng, ngọn đèn đã được bao che bằng một xấp giấy báo để khỏi
làm sáng choang cả nhà. Rồi chùm chăn bông lên tận cổ, vừa ngồi xổm trên giường
hút thuốc phì phèo vừa kê tờ giấy lên mép bàn đã kê sát để cắm cổ viết. Trời
thì mùa đông đấy nhưng ý Xuân lại tuôn ra ào ào ngậu sị cả lên: nào khai bút,
nào xuất hành, nào Chúa Xuân, hoa Xuân, bướm Xuân, vườn Xuân ….cái gì cũng cố
gài tiếng "Xuân" vào cho hợp tình, hợp cảnh. Lại vì lâu lâu mới đi tiệm
một lần nên bị cà phê nó hành cho trắng mắt, thức đến bốn, năm giờ sáng mà vẫn
còn tỉnh như sáo sậu.
Sau một đêm như thế, tôi có thể đã hoàn tất một bài tùy bút,
một bài thơ, hay có khi là một truyện ngắn hay một vở hài kịch. Thật bây giờ
nghĩ lại cái khả năng viết mau, viết mạnh của hồi xưa mà bắt thèm.
Mỗi lần viết xong, hôm sau thế nào chúng tôi cũng chạy đi tìm
nhau để khoe sáng tác của mình. Nhiều khi móc túi chẳng ai còn đồng cắc nào,
đành lại đốt chung một điếu thuốc tới khi "rít" đến tận cùng, mẩu thuốc
vứt đi chỉ còn chưa quá nửa phân.
Lại cũng có nhiều hôm "vốn liếng" bết bát quá, mà
mua chịu của quầy thuốc lá lẻ cũng không xong vì sổ nợ cũng khá cao rồi (đến nỗi
khi đi qua, phải lảng tuốt qua bên kia hè phố để tránh mặt, chờ khi có tiền
thanh toán). Những hôm đó bọn tôi chỉ còn cách chui xuống gầm bàn kiếm những đầu
thừa vương vãi đâu đó đem đốt lại. Ấy vậy mà cũng có lần có đứa phải phàn nàn:
- Các cậu khai thác kỹ quá, chẳng còn mẩu nào "ra hồn"
cả!
Mặt ai nấy đều buồn hiu! Tuy nhiên, nhớ lại cái thời như thế
tôi lại thấy sao mà quý thế. Nó quá tươi đẹp, nó in dấu cả một thời đã sống hồn
nhiên, trong sáng, đầy ắp những kỷ niệm đáng nhớ của cái tuổi hoa niên đã qua
đi, không bao giờ còn trở lại.
Chắc tới đây hẳn có bạn đọc thắc mắc là viết bài như thế, báo
đăng như thế, thì tiền nhuận bút để đâu, không lấy mà xài?
Tôi xin thưa ngay rằng trong suốt quãng đời "mơ làm văn
sĩ" của tôi¸bài đăng cũng đã nhiều, ra vô các tòa báo cũng đã lắm, giấy bản
thảo đã xé từ không biết cơ man nào là tập vở, vậy mà tôi không được tòa báo
nào chi trả cho một đồng bạc cắc.
Thật ra, vấn đề này cũng đã được bọn chúng tôi đem ra bàn cãi
om sòm. Một phe chủ trương bài đã đăng thì phải là bài có giá trị. Mà có giá trị
thì phải trả tiền là đúng đứt đuôi đi rồi. Nhưng phe khác lại chủ trương
"văn nghệ là cao quý", xía vô vấn đề tiền bạc nó làm cho mất vẻ thanh
tao của con nhà văn nghệ đi. Thật ra đây chỉ là lập luận để che giấu một sự thật
phũ phàng mà không ai dám đương đầu, đó là sự nếu cứ nằng nặc đòi tiền nhuận
bút, tòa báo sẽ lẳng lặng xếp tác phẩm của mình vào hồ sơ: "Bài Loại".
Bài mà bị loại thì mất cả chì lẫn chài!!
Thế rồi cuộc tranh luận rút cục chẳng đi đến đâu. Phe hăng
hái thì cũng chẳng anh nào có gan ghi ở góc bản thảo mấy chữ "Có lấy tiền
nhuận bút". Mà thế vẫn còn "oách" hơn cái thời còn phải ghi mấy
chữ " Bài gửi đăng không lấy nhuận bút" nữa kìa.
Tình trạng đó kéo dài tới một dịp Tết. Tết năm đó tôi được chọn
đăng vở kịch vui một màn trên báo Cải Tạo. Vở kịch nằm trịnh trọng ở ngay trang
mười của tờ giai phẩm. Trịnh trọng hơn nữa là bài của tôi lại có cả họa sĩ minh
họa kèm theo tiêu đề chạy suốt bề ngang của trang báo nữa. Và mặc dù bài xếp chữ
cỡ 8, vở kịch của tôi cũng cũng đã chiếm trọn tới 2 trang. Một bạn xúi tôi:
- Tới đòi nhuận bút đi! Báo ra ngày thường thì được chớ báo
Xuân số đặc biệt mà không có xu nào thì vô lý quá.
Tôi nghĩ đến những điếu thuốc lá, đến những chầu cà phê buổi
tối ở cà phê Giảng ở đường Cầu Gỗ, xen vào đó là tự ái cũng nổi lên rầm rầm,
nên bùi tai bèn quyết định làm một việc mà tôi cho là khó khăn nặng nề hơn gấp
bội việc sáng tác. Đó là đi đòi tiền nhuận bút.
Nhuận bút! Nhuận bút! Hai tiếng đó thực tình chưa bao giờ tôi
nghĩ tới nó trong suốt mấy năm khởi sự đi vào làng văn nghệ, nhưng sao Tết năm
đó nó lại trở thành những tiếng ám ảnh tôi mãi không nguôi.
Một phần là vì những nhu cầu ùa đến trong mấy ngày tết. Một
phần khác nữa là vì lòng tự ái bỗng nhiên nổi dậy thôi thúc ầm ĩ. Không có lý
do gì một tờ báo do công lao của mình góp phần, khi bán ra là thu được tiền về
mà mình lại không được chia sẻ tí ti nào trong đó. Vả lại chẳng thà tất cả mọi
bài đã đăng đều chịu chung nhau một số phận. Đằng này tờ báo đã phân chia tác
giả ra làm hai loại, một loại phải trả tiền và một loại "viết chùa"
muôn năm. Tôi thì chưa phải loại muôn năm nhưng ít ra thì cũng đã hai năm rồi.
Hai năm chăm chỉ cộng tác, đều đặn, có lẽ còn hơn là người được giao phó trách
nhiệm một cách chính thức có trả lương. Mà bài của tôi cũng đâu có thua kém gì
ai. Nó cũng chiếm cả mấy trang báo. Nó cũng được họa sĩ minh họa tức có hình vẽ
đi kèm. Nếu có thua thì chỉ thua có mỗi cái khoản là tác giả của nó chưa hề được
lãnh một xu nhuận bút nào thôi.
Tự ái của tôi cứ cái đà suy luận đó mà vùng dậy. Bạn bè lại
thúc đẩy thêm vào khiến tôi càng hùng dũng hơn lên. Vả lại cái gì mình muốn thì
mình phải nói ra, không nói ai biết mình "ngứa" đâu mà gãi! Vấn đề giản
dị có thế mà từ bao lâu nay tôi cứ lúng túng mãi.
Nhưng chuyện chính yếu là tôi sẽ phải nói ra thế nào cho có
hiệu quả đây? Quả thực, tôi đã đưa ra không biết bao nhiêu là câu ướm thử,
nhưng câu nào tôi cũng thấy là chưa được trơn tru, ngon trớn:
- Thưa ông chủ nhiệm, tôi đến xin tiền nhuận bút (Không được,
nghe chữ xin có vẻ mất tư cách văn nghệ sĩ quá).
- Thưa ông chủ nhiệm, tôi đến đòi tiền nhuận bút (Ối chà, tiếng
đòi nghe có vẻ chối tai, không ổn).
- Thưa ông chủ nhiệm, tôi đến lấy tiền nhuận bút (Lấy thì ổn
đứt đi rồi, nhưng đã tới lấy thì phải có hẹn trước. Đằng này tôi có được hẹn hò
gì đâu. Vậy cũng là không ổn nốt ).
Sau cùng tôi nghĩ ra được một câu nghe tạm được. Đó là:
- Hì..hì…Thưa ông thế còn cái vụ nhuận bút….
Tôi đã chọn câu này làm câu "tủ" để nhập đề. Còn
sau đó đến đâu sẽ hạ hồi phân giải. Tôi tưởng tượng đủ hết mọi chi tiết trong
cuộc gặp gỡ sắp xẩy ra. Trước hết là tôi sẽ tới tòa soạn vào buổi sáng. Không sớm
quá để ông chủ nhiệm chưa dậy. Cũng không trễ quá để đụng phải đám đông đảo các
văn nghệ sĩ đàn anh như Nhị Lang, Văn Bình, Kim Sinh…sẽ khó ăn nói.
Đẹp nhất là vào được lúc tòa soạn không có ai, trước bàn giấy
chỉ có mỗi một mình ông chủ nhiệm ( ông cư ngụ ngay tại đây, vừa là nhà, vừa là
tòa báo). Tôi sẽ hỏi thăm ông trước. Rồi khen đến số Tết năm nay in đẹp, bài vở
độc đáo, phong phú. Và tôi sẽ tiếp:
- Hì..hì…Thưa ông thế còn cái vụ nhuận bút….
Ối chà! Tính toán công việc mà "suya" (sûr = chắc
chắn) như thế thì kết quả không còn chệch đi đâu một ly ông cụ nào. Hẳn ông chủ
nhiệm sẽ toe toét cười:
- A! Nhuận bút của "toa" hả. Có chứ! Đáng lẽ
"moa" phải cho vô phong bì đàng hoàng, nhưng thôi tiện đây cầm giùm
"moa" vậy nhé….
Và hẳn là ông sẽ móc bóp phơi lấy ra những tờ giấy bạc mới
tinh đem xòe to như đuôi công đang múa. Năm chục? Một trăm? Hai trăm? Ồ, cái đó
thì chịu không thể đoán được. Nhưng dù bao nhiêu thì tôi cũng thấy ông ta là một
bậc đàn anh văn nghệ rất điệu nghệ và dĩ nhiên là vô cùng hào phóng.
Kịch bản nói trên do tôi đạo diễn đã đem lại cho tôi biết bao
hăm hở. Tôi đã thao thức suốt đêm hôm trước, y như sự thao thức ngày nào năm
xưa tôi sửa soạn đem gửi cái truyện ngắn đầu tiên tới tòa báo Giang Sơn ở Bờ Hồ
Hoàn Kiếm. Lần này tôi không tới Hồ Hoàn Kiếm nữa mà phải xuống tận hồ Halais,
tức hồ Thuyền Cuông hay còn gọi là Thuyền Quang cách nhà tôi ở khá xa.
Tuần báo Cải Tạo nằm ở giữa phố Mongrand (sau đổi tên là Nguyễn
Thượng Hiền), cách bờ hồ Thuyền Quang cũng vài ba trăm thước. Hôm ấy tôi bận một
cái quần soóc bằng vải kaki, chiếc áo sơ mi trắng sọc xanh bỏ vào thắt lưng
đàng hoàng chứ không lè phè phủ ra ngoài như mọi khi. Chỉ còn thiếu đôi giầy
tây đi lộp cộp nữa là tôi ra vẻ một công tử con quan, nhà giầu.
Nhưng cho đến năm đó, dù lớn rồi tôi vẫn không nghĩ đến chuyện
xin nhà mua cho đôi giầy tây. Đi giầy tây nom trịnh trọng quá. Tôi lại không ưa
cái tiếng lộp cộp váng cả hè phố như mời gọi tất cả bàn dân thiên hạ chú ý tới
mình. Thế cho nên tứ thời tôi chỉ kéo một đôi dép da của phụ nữ, mà hình như đã
lỗi thời nên bà chị của tôi liệt vào đồ phế thải. Thấy còn tốt chán nên tôi
"thầu" lại để đi một cách ngon lành.
Tôi cũng còn một đôi giầy bata nữa, nhưng chỉ để dành khi đi
họp Hướng Đạo vào mỗi sáng chủ nhật. Chẳng phải tôi tiết kiệm gì, nhưng đi giầy
bata thường phải kèm theo đôi vớ. Mà vớ thì tôi chỉ có mỗi một đôi. Mỗi lần đi
họp, tôi thúc chân vào, khi trở về tháo ra, nhét đại vào trong giầy chờ tuần
sau mới lấy ra xài nữa. Có lẽ kể từ ngày mua vớ đến giờ, đã gần 9 tháng, tôi
chưa đem giặt nó lần nào. Ngó phần trên thì rất tươm, nhưng ở hai bàn chân thì
nó đóng keo lại, cứng như hồ bột (càng cứng càng sinh ra ngại đem giặt). Đi vớ
kiểu đó thì chẳng mấy hồi những ngón chân sẽ xuyên qua vớ mà bục ra ngoài, nhất
là hai ngón chân cái.
Có một đôi vớ quý hóa như rứa, không đời nào tôi dám chiềng
ra ở giá để giầy, bởi nếu bị khám phá ra thì tôi sẽ bị chị tôi la rầy, ngay đến
cả chuyện sẽ đem mách với Ba tôi. Cho nên mỗi lần đi họp về là tôi đùn nó sâu
tuốt vô tận mé trong gậm giường, để khi nào cần đến thì lấy cây gậy khều ra.
Ôi! Cái thời niên thiếu nhởn nhơ ấy sao mà sướng thế!
Trong những tòa soạn của các báo ở Hà Nội hồi đó mà tôi được
biết thì tòa soạn báo Cải Tạo nom có vẻ bề thế nhất. Nó nằm trong một khu yên
tĩnh của thành phố với con đường hai bên có những hàng cây cao phủ đầy bóng
mát. Căn nhà kiến trúc theo kiểu Tây, có cổng vào rộng rãi, có tường chung
quanh cẩn đá, cả tầng dưới chỉ là nhà phụ thuộc như hầm rượu, bể nước…Hẳn là thứ
kiến trúc mà trước đây chắc người Pháp ở nên mới có.
Khách khứa tới thăm phải bước lên một cầu thang bề thế, xây bằng
gạch, lối lên có bầy chậu cảnh đang nở hoa. Lên hết các bậc gạch thì khách đặt
chân vào một khoảnh có lát đá hoa khá rộng, có lan can nhìn xuống đường phố,
trên thành lan can cũng xếp đặt những giò hoa đựng trong những chậu sứ tráng
men nom rất sang trọng, quý phái.
Tới đây, khách sẽ đối diện với một cánh cửa bằng kính rất lớn
mà khi bước vào sẽ gặp ngay một căn phòng rộng mông mênh. Đấy là tòa soạn, có một
cái bàn dài chắc là để hội họp nhiều người. Bàn giấy của ông chủ nhiệm kê tuốt ở
phía cuối phòng. Trên mặt bàn, ngoài những đống hồ sơ cao nghệu tôi còn thấy cả
chồng báo Xuân vừa in xong, chắc là đang chờ phân phối cho nhân viên tòa soạn.
Tôi hơi tiếc là mình đã tới quá sớm vì lúc này căn phòng vắng
ngắt chẳng có ai, kể cả nhân vật chính duy nhất mà tôi cần gặp. Nhưng dẫu sao,
tới sớm có phải ngồi chờ lâu lắc thì cũng còn hơn là phải trực diện với mấy ông
nhà văn, nhà báo vốn đã từng lui tới nơi này hằng ngày như cơm bữa.
Chị người làm sau khi bảo tôi hãy ngồi chờ rồi rút êm vào hậu
trường để mặc tôi ngồi lại với cảm giác rụt rè, bỡ ngỡ giữa căn phòng rộng
thênh thang, gây gây lạnh. Tôi chợt nhận ra rằng thực tế đã đi ra ngoài mọi điều
mà tôi đã từng dự liệu. Câu nói làm như bất chợt: "À….thế còn cái vụ nhuận
bút…" xem chừng khó áp dụng ở đây. Vì trước đó phải diễn ra một cuộc chuyện
trò rôm rả. Sau khi rôm rả rồi thì mới …"À"…. được chứ? Còn bây giờ,
tôi đã phải ngồi chờ ở đây. Chờ đợi tức là cố tình mong gặp. Vậy khi gặp rồi
thì biết nói cái gì trước đây? Ôi chà, nếu lại vồn vã "Thưa ông chủ nhiệm,
ông có mạnh khỏe không? " thì nghe vô lý quá!
Thế là đầu óc của tôi lại phải vận dụng để tìm ra một câu
chuyện làm quà nào đó nghe cho xuông xẻ. Nhưng khổ nỗi giữa ông và tôi chẳng có
đôi chút giao tế nào trước đó. Kể từ ngày có bài đăng trên tờ Cải Tạo, tôi chưa
bao giờ nói chuyện với ông một câu. Tôi đến tòa soạn, bỏ bài vô thùng thư đặt ở
dưới lầu rồi lẳng lặng ra về. Một đôi lần gặp ông Văn Bình, trò chuyện vài câu
hay cũng có khi ông kéo tôi lên lầu nhưng ở đó vốn đang đông người ồn ào quá
nên tôi chỉ là một cái bóng mờ, một tay mơ loắt choắt đeo dính lấy cái bóng
dáng cao lênh khênh của ông.
Rồi thời gian trôi qua được chừng hơn 15 phút thì ông chủ nhiệm
xuất hiện ở cánh cửa thông với phòng bên trong. Trái hẳn với điều mà tôi vẫn lo
lắng là sợ ông ta không biết tôi là ai, đến làm gì, nhưng ông đã vồn vã khiến
tôi vừa ngạc nhiên, vừa cảm kích:
- A! Nhật Tiến hả? Vào đây….vào đây…
Tôi líu ríu đi băng qua bề dọc của căn phòng, vốn đã dài mà
tôi lại có cảm giác như nó dài hơn ra. Khi đối diện với ông, ông xòe ngay bàn
tay ra theo thói quen để bắt tay.
Ô, cái vụ "bắt tay" này hoàn toàn bất ngờ đối với
tôi vì tôi chưa bao giờ quen thuộc với cái lề lối xã giao của người lớn này. Bọn
trẻ khi gặp nhau thì chỉ là vỗ vai, huých khuỷu, hay thậm chí còn đá nhẹ vào
nhau nữa kìa. Vì thế tôi đâm ra lúng túng và cảm thấy ân hận rằng mình đã để
bàn tay của ông giơ ra ngỡ ngàng mất đến vài giây. Rồi tôi lại hấp tấp sửa sai
ngay bằng cách giơ cả hai bàn tay ra chộp vội lấy bàn tay của ông lắc đấy lắc để.
Và mặc dù lúng túng thế nào, tôi vẫn nẩy ra một nhận xét là bàn tay người lớn
mang vẻ khô khan và sần sùi. Cảm giác khô khan sần sùi ấy như còn đeo dính ở
lòng bàn tay của tôi, ngay cả lúc ông đã buông ra và chỉ lên mặt bàn ngổn ngang
những tờ báo mới:
- Bài của cậu khá lắm…mấy người khen rồi…Ờ, bài gì ấy nhì?
Tôi nhắc:
- Dạ…vở kịch vui!
- A! Phải rồi. Cậu có khiếu lắm về kịch vui đấy nhé. Ráng
lên!
Tôi sướng phổng cả mũi, miệng quíu lại, định mở lời cám ơn về
sự khen tặng của ông mà không kiếm ra được lời, vì vậy tôi chỉ biết diễn tả bằng
mắt. Tôi nhìn ông bằng ánh mắt hoan hỉ, biết ơn và dĩ nhiên đầy cảm tình. Ông lại
nói:
- Báo mới đấy. Cậu lấy đi mấy tờ đem về biếu bạn bè…
Vừa nói ông vừa rút ở chồng báo ra …hai tờ dúi vào tay tôi.
Ối chà! Tôi đã chắc mẩm ở nhà là ít ra thì tôi cũng có được 5
số báo biếu. Năm số này tôi đã chia phần rõ ràng: Tôi giữ riêng một số, tặng chị
tôi và anh Trường Giang mỗi người một số, phòng khách trong nhà để một số trưng
bầy mấy ngày Xuân, còn một số tôi sẽ xịt nước hoa, đem gói giấy dầu gửi tặng một
người quen. Bây giờ số lượng đó rút xuống chỉ còn có hai theo sự diễn dịch tiếng
"mấy" của ông. Thành ra bao nhiêu tình cảm nồng hậu vừa mới dâng tràn
thốt nhiên nguội băng đi và sự bức bắt đầu nhen nhúm trong tôi.
Tôi không còn nghĩ gì đến vụ nhuận bút nữa mà chỉ tranh thủ với
chính mình là có nên cầm hai số báo mỏng teo hay là trả lại luôn cho ông ta. Sự
suy tính này làm cho phản ứng của tôi bị chậm chạp đi (và sau này, rất nhiều lần
khác tôi cũng vẫn bị cái phản ứng chậm chạp này gây ra cho tôi những chuyện áy
náy hay bực mình). Hai tờ báo đã dúi vào tay tôi. Tôi đã cầm lấy như một cái
máy vô tri cùng với những ý nghĩ đảo lộn lung tung trong đầu. Ngay khi đó, ông
chủ nhiệm vẫn với giọng thân mật, ròn rã nói với tôi:
- Thôi ô-voa nhé. Hôm nay moa bận quá….Lo tờ báo Xuân, còn
bao nhiêu là việc…
Thế là ông lại giơ tay ra để bắt tay tôi. Tay tôi bận cầm hai
tờ báo vả nếu không bận bịu về công việc đó thì tôi cũng chẳng giơ ra. Lần này
ông chộp lấy bàn tay kia của tôi rồi lắc lắc (vậy là huề). Sau đó ông khoác vai
đưa tôi đi ngược trở lại căn phòng mà tôi vừa đi qua trước đấy không đầy 5
phút.
Tôi bước xuống cầu thang xây bằng gạch với tất cả sự chua cay
của kẻ chiến bại. Bao nhiêu dự tính, bao nhiêu lời cổ vũ thúc giục của bạn bè về
cái vụ nhuận bút đã tan đi như bong bóng xà phòng trong một khoảnh khắc.
Tôi kẹp hai tờ bào vào nách và đi lủi thủi về phía bờ hồ Thuyền
Quang. Gió trên hồ ùa đến, dù rất lạnh nhưng lại gây cho tôi cảm giác mát mẻ.
Chứng đó tôi mới khám phá ra rằng chỉ trong mấy phút ngắn ngủi tiếp xúc vừa
qua, mồ hôi của tôi đã mướt ra ướt đẫm cả lưng áo.
Tôi ngồi xuống một ghế đá ở ven hồ. Tôi nghĩ đến cái tỷ lệ
2/5 về những số báo tôi cần có. Cơn bực tức lại ùa lên làm tôi toan ném luôn 2
số báo xuống mặt hồ. Nhưng suy đi tính lại, hành động đó thật phi lý. Phải chi
tôi làm công việc ấy ngay từ lúc còn ở tòa báo. Chứ bây giờ đem vứt xuống hồ
thì chỉ có cái ghế xi măng nó biết mà thôi. Thế là phí phạm, thế là quân tử Tầu,
là anh hùng rơm. Không chấp nhận được.
Tôi bình tĩnh trở lại và thư thả ngồi mở rộng tờ báo ra, ngắm
nghía lại công trình sáng tác của mọi người trong đó. Tờ báo với đầy vẻ quyến
rũ đã hiện ra với mùi giấy thơm, mầu mực mới, những nét chữ tươi tắn, những bức
họa tài hoa, tất cả đều như cùng toát ra một vẻ mê hoặc, đầy quyến rũ của một
thế giới mà bao nhiêu ngày tháng qua tôi đã khổ công tìm cách đặt chân vào. Đó
là thế giới của văn nghệ, của báo chí, của những tấm lòng dào dạt tình cảm và
những khối óc đầy sáng tạo. Dẫu giận dỗi cách nào thì tôi cũng không thể vì một
chuyện cỏn con, nhỏ mọn vừa qua để mà rũ bỏ hết đi một cách phũ phàng.
Tôi mở trang báo có in bài của tôi. Tôi đọc lại từng dòng, đọc
một cách thoải mái, tự do chứ không phải theo cái kiểu he hé coi cọp ở sạp bán
báo mà người bán cứ đuổi quầy quầy. Tôi sung sướng thấy tên của mình ở đó. Cái
tên ấy nằm một cách trịnh trọng, trang nhã và dĩ nhiên hẳn là mang một ý nghĩa
vinh dự, niềm vinh dự của một nhà…nghệ sĩ có tài sáng tác và tác phẩm của hắn
ta được đăng trên trang báo để gửi tới độc giả bốn phương.
Niềm vui xen lẫn sự hân hoan hãnh diện bỗng xua tan đi mọi nỗi
bực dọc vừa qua. Tôi không thấy còn lý do nào có đủ vững chắc để khiến cho tôi
bẻ bút, quăng báo xuống hồ, không chơi với văn nghệ nữa. Văn nghệ vẫn là lẽ sống
của tôi. Văn nghệ vẫn là niềm vui của tôi. Văn nghệ vẫn là nhu cầu, là lý tưởng
mà tôi sẽ còn phải theo đuổi.
Tôi nhìn ra mặt hồ. Mặt nước trong xanh chứa cả một bầu trời
có nhiều mây xám ảm đạm. Gió thoảng nhẹ từ xa thổi vào mang theo cái giá lạnh của
một ngày cuối đông đang bắt đầu hừng nắng. Tôi bỗng chợt thấy lòng dâng lên những
cảm hứng dạt dào. Tôi nẩy ra được một đề tài mới hay ho cho một sáng tác mới.
Tôi nghĩ ngay tới ánh đèn vàng úa của ngọn đèn chong suốt đêm khuya chỉ có một
mình tôi cặm cụi với trang giấy trắng muốt.
Tôi sẽ viết… viết hoài… viết mãi…
Sài Gòn, 18/5/1973
Nhật Tiến
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét