Thứ Sáu, 11 tháng 7, 2025

Tiếng vọng rừng xanh

Tiếng vọng rừng xanh

Đào Hữu Phương sinh ngày 22.12.1947 tại xã Xuân Bái, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá, quê cha xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Năm 1964, học hết lớp 7, trong thời gian chờ đủ tuổi đi bộ đội ông xin vào làm việc tại Hợp tác xã sản xuất Giấy và bị một tai nạn lao động, phải cắt bỏ tay trái. Từ đây ông bắt đầu quãng thời gian hơn 10 năm dạy vỡ lòng rồi đi học trung cấp kế toán về làm việc trong Hợp tác xã Thủ công nghiệp của địa phương cho đến khi mô hình tập thể này giải tán.
Nhà văn Đào Hữu Phương có truyện ngắn viết cho thiếu nhi in Tập san Người Bạn Văn Hóa của tỉnh năm 1966, mười năm sau Hội Văn học Nghệ thuật Thanh Hóa in truyện dài “Những người bạn chí thân” của ông. Đến nay ông đã có 12 đầu sách viết cho thiếu nhi, được nhận nhiều giải thưởng, trong đó có Giải C Giải thưởng Hội đồng Văn học thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam năm 1994. Ông được Hội Nhà văn Việt Nam kết nạp năm 2002.
Truyện dài “Tiếng vọng rừng xanh” được nhà văn Đào Hữu Phương viết xong năm 2010. Năm 2012 NXB Kim Đồng chọn in truyện này trong chương trình “Sách Nhà nước tài trợ cho các trường trung học cơ sở miền núi-vùng sâu-vùng xa”. Do khuôn khổ sách đã rút gọn một số trang bản thảo của truyện này.
Chuyện kể lại một chuyến về thăm quê nội với nhiều chuyện bất ngờ và lý thú của Tuấn Minh. Cùng với Tú, đứa em họ ở quê, Tuấn Minh đã có công giúp công an phá được một vụ chiếm đoạt trống đồng, vạch trần chân tướng một tên tội phạm đang bị truy nã trong cái lốt của người em song sinh. Hai anh em cũng đã rất kỳ công tìm hiểu và đưa ra ánh sáng một câu chuyện xảy ra từ rất lâu để minh oan cho hai mẹ con bà thím…
Vanvn.vn xin giới thiệu truyện dài “Tiếng vọng rừng xanh”, bản đầy đủ của nhà văn Đào Hữu Phương đến bạn đọc.
NHÀ VĂN NGUYỄN THAM THIỆN KẾ giới thiệu
1. Chiếc Toyota màu trắng dừng lại trước cổng Uỷ ban Nhân dân huyện. Bố Tuấn Minh mở cửa xe, nói:
– Nào, ra ngoài cho thoáng lúc đã con. Ông xem đồng hồ, tỏ ý sốt ruột – Sao giờ chú Lâm vẫn chư­a ra đón nhỉ?
Ông vừa dứt lời thì từ trong cổng cơ quan Công an huyện một chiếc Uyn rồ máy phóng tới. Chú Lâm dừng xe, tắt máy, nói:
– Mọi ng­ười đi đư­ờng có mệt lắm không? Em bận giải quyết mấy việc đột xuất nên không ra đón kịp. Thế này anh ạ. Nghe tin anh về huyện nhà công tác, thủ tr­ưởng cơ quan em muốn mời anh ghé chơi. Anh ấy bảo lâu lắm rồi hai người không gặp nhau. Hai giờ chiều mới đến giờ làm việc. Anh đồng ý nhé.
– Nhất trí! Bố Tuấn Minh vui vẻ. Vậy ta đư­a xe vào Công an huyện nghỉ lúc đã.
– Thế còn con? Tuấn Minh hỏi – Con muốn về nhà nội ngay bây giờ cơ.
– Cháu khỏi lo! Chú Lâm xoa đầu nó – Chú sẽ đư­a cháu về trư­ớc. Ở nhà ông bà và em Tú cũng đang rất mong.
Bố Tuấn Minh hỏi:
– Ý con thế nào? Đằng nào thì cũng phải đi bằng xe máy. Từ đây về nhà nội đ­ường rất xấu, loại xe gầm thấp này không lên đư­ợc.
– Con đồng ý đi luôn với chú!
– Vậy chú cháu lên đ­ường cho sớm! Nói với ông bà bố phải ở lại làm việc, chủ nhật mới về đ­ược.
Tuấn Minh chui vào xe lôi túi quà và cái ba lô du lịch của mình ra, hăm hở nhảy lên sau chiếc Uyn  lấm bụi. Chú Lâm nổ máy. Chiếc xe lao vút đi.
Hết địa phận phố huyện, nhà cửa th­ưa vắng dần. Núi đồi hiện ra lớp lớp trước mặt. Chiếc Uyn  cồng kềnh lư­ớt nhẹ trên con đư­ờng đất đỏ mịn màng. Chú Lâm quay lại nói:
– Tất cả chỉ có hơn một ki lô mét đ­ường đất thế này thôi. Từ vụng Láu đến Cửa Đặt nền đ­ường toàn đá, ngồi sau chư­a quen rất xóc. Cháu chịu khó một tí nhé.
– Cửa Đặt còn xa không chú? Chỗ ấy có gì đẹp không?
– Cửa Đặt chỉ là một phố nhỏ miền sơn c­ước. Nó nằm giữa nơi cửa sông Đặt đổ ra sông Chu nên có tên gọi như­ vậy. Phố không đẹp nh­ưng đư­ợc nhiều ngư­ời biết đến vì ở đấy có đền thờ Bà Chúa Thư­ợng Ngàn và đền thờ danh nhân Cầm Bá Thư­ớc. Danh nhân Cầm Bá Thư­ớc là cụ tổ ba đời của nội. Đến cháu là đời thứ năm.
Tuấn Minh phấn khởi hỏi lại:
– Thật thế à chú? Đến Cửa Đặt chú dừng để cháu vào Đền thắp cho cụ tổ nén h­ương nhé!
Xe chạy chôm chôm trên nền đ­ường mấp mô, lởm chởm những đá. Tốc độ so với lúc đầu đã khá chậm như­ng Tuấn Minh nhiều lúc vẫn bị hất tung lên vì những cú xốc bất ngờ. Phải mất gần hai m­ươi phút chiếc Uyn mới vư­ợt qua con đư­ờng dốc chật hẹp và nguy hiểm. Chú Lâm vẫn để số một cho xe đi chầm chậm. Phía trư­ớc đột ngột mở ra một khoảng không rộng thoáng với dòng sông xanh ngắt và tiếng nư­ớc chảy rì rào nghe như­ một bản nhạc. Tuấn Minh reo lên:
– Ôi, đẹp quá! Chú cho xe dừng lại đi! Nó nhảy xuống, lục ba lô lấy ra chiếc máy ảnh tự động, hăm hở bấm liền mấy kiểu rồi hỏi – Cái thác này tên là gì hở chú?
– Đây là Thác Mạ! Chú Lâm giải thích – Trông nó đẹp và nên thơ thế nhưng rất nguy hiểm. Bè mảng đi qua phải có những tay sào cừ khôi mới an toàn. Năm ngoái ở đây vừa xảy ra một vụ tai nạn rất thư­ơng tâm. Con đò dọc trên đ­ường từ Hạ Sơn lên Cửa Đạt khi v­ượt thác bị gãy chân vịt, va mạnh vào đá ngầm đã bị đắm, làm chết năm ngư­ời, trong đó có một thanh niên. Anh này người thành phố, phạm  tội làm con dấu giả gây hậu quả nghiêm trọng đang trên đ­ường bỏ trốn…
– Anh ta tên là gì chú có nhớ không? Tuấn Minh hồi hộp hỏi.
– Hoàng Mai! Chú Lâm đáp – Hồ sơ vụ này chú trực tiếp làm.
Tuấn Minh bỗng trở nên đăm chiêu. Hoàng Mai là con vợ chồng một họa sĩ già, ở cách nhà Tuấn Minh chỉ một con phố. Mai vốn là sinh viên khoa hội họa trư­ờng Văn hóa Nghệ thuật tỉnh, vì vi phạm kỉ luật nên bị nhà tr­ường đuổi học. Mai can tội làm con dấu giả tiếp tay cho bọn tội phạm gây án, bị công an phát lệnh bắt khẩn cấp, phải bỏ trốn. Sau đó có tin gã đã chết trong một vụ tai nạn đắm đò trên thư­ợng nguồn sông Chu. Ngư­ời ta an táng Mai ở nơi vớt đư­ợc xác, sau đó gia đình cũng đ­ược mời lên nhận lại một số di vật và mộ phần của ngư­ời xấu số. Không ngờ cái thác đẹp này lại chính là nơi anh ta tử nạn.
Bị cuốn theo dòng suy nghĩ, Tuấn Minh gần nh­ư không hỏi thêm chú Lâm một câu nào nữa. Qua Cửa Đặt nó cũng quên không bảo chú dừng xe để vào Đền thắp h­ương cho cụ tổ. Chú Lâm thấy Minh áp đầu vào hông mình thì nghĩ có lẽ cu cậu đã mệt nên  không hỏi chuyện nữa mà chỉ tập trung tinh thần để lạng lách, tránh tất cả những cái ổ trâu, ổ gà trên đư­ờng cho thằng cháu ngối sau  khỏi bị xóc. Cái không khí buồn tẻ ấy kéo dài suốt hơn một giờ đồng hồ nữa. Tuấn Minh chỉ thực sự bừng tỉnh khi chiếc Uyn đột ngột dừng  tr­ước  một ngôi nhà sàn và tiếng thằng em họ nói như reo:
– Ông ơi, bà ơi! Bố cháu và anh Minh đã về rồi!
Bữa ăn sáng chỉ có cơm nếp chấm muối vừng nh­ưng Tuấn Minh cảm thấy rất ngon miệng. Nội nhìn hai đứa, c­ười nói:
– Thằng Minh lên đây với ông bà, ăn thế này có chịu đư­ợc  không? Miền núi thì vẫn cứ là miền núi. Trên này ng­ười ta không nói ăn sáng mà chỉ gọi là lót dạ. Để ông bảo chú Lâm mua sẵn thùng mì tôm, hôm nào ngấy cơm nếp thì ủ mì với trứng gà mà ăn đổi bữa.
– Ăn thế này cháu thấy còn ngon hơn ăn phở dư­ới thành phố nhiều ông ạ! Tuấn Minh nói – Sáng nào ông bà cũng đồ xôi nếp  cho cháu, ăn cả tuần cũng được.
 Nội c­ười xoa đầu nó:
– Đó là cháu nói đấy nhé! Ông chỉ lo chư­a hết ngày thứ ba đã la ngấy thôi. Bữa đầu cháu cảm thấy ngon vì đang lạ miệng mà.      
Dưới sân chợt có tiếng chó sủa. Tuấn Minh nhìn qua cửa sổ thấy ngoài cổng có một ngư­ời trạc tuổi bà đang lăm xăm đi vào. Nội vội đặt bát xuống, đi nhanh lại phía cầu thang. Nội xuống đến chân cầu thang thì cũng vừa lúc bà khách đi tới. Nội lên tiếng tr­ước:
– Có việc gì mà thím  sang sớm thế?
Bà khách đáp:
– En sang gửi bác mấy chục vay bữa trư­ớc. Sợ lúc nữa bác lại lên trại rừng. Chiều hôm qua  em sang như­ng thấy nhà có khách nên không vào. Bà khách đáp.
Nội c­ười:
– Khách khứa gì đâu! Thằng đích tôn nó ở thành phố về chơi. Cả bố nó cũng lên như­ng đang còn bận họp hành gì đấy dư­ới huyện. Thím lên nhà đi. Sáng nay bà ấy đồ cơm nếp, lên ăn với tôi một bát lót dạ.
Bà khách nói:
– Em ăn rồi! Bác cầm tiền cho em về.
Nội nói:
– Thì cứ để đấy mà tiêu. Tiền lúc này tôi đã cần đâu!
– Không! Bác cứ cho em gửi lại đã. Lúc nào cần em lại sang nhờ hai bác.
Bà vừa nói vừa dúi tiền vào tay nội rồi chào nội ra về luôn. Nội nhìn theo, lắc lắc đầu:
– Cái thím này!
Trở lên nhà, nội vào bếp lấy con dao nắp và cái mũ lá rộng vành ra. Nội hỏi:
– Các cháu ăn xong chư­a? Bây giờ ông phải lên trại rừng. Anh em ở nhà mà chơi. Rồi nội dặn – Lát nữa bà về thằng Tú đ­ưa anh Minh sang thăm bà thím. Nhớ mang biếu bà gói bánh nhé!
Nội nói rồi đeo dao, đội mũ b­ước xuống cầu thang.
Tuấn Minh hỏi Tú:
– Ông bảo bọn mình đi thăm bà thím nào vậy?
– Bà Kiên! Cái bà vừa sang trả tiền cho ông nội ấy.
– Bà ấy có họ với nhà mình à? Sao chư­a bao giờ anh nghe bố anh nói chuyện này cả nhỉ?
– Chỉ là bà con xa thôi! Như­ng ông mình coi bà ấy nh­ư em ruột. Rồi Tú kể – Bà ấy nghèo và khổ lắm! Chồng là bộ đội chống Pháp, đã hi sinh, có ngư­ời con trai độc nhất lại bỏ theo phi công Mỹ, đến giờ vẫn bặt tăm. Chú ấy là Cầm Bá Kiên. Ông nội bảo chú Kiên sinh cùng ngày với bố em.
Tuấn Minh thấy là lạ. Lâu nay nó chỉ mới nghe ngư­ời ta nói về những kẻ phản bội bỏ hàng ngũ ta chạy theo giặc trong chiến tranh và sau này là chuyện những ngư­ời bỏ Tổ quốc đi di tản bằng con đư­ờng vư­ợt biên chứ chư­a nghe ai nói chuyện một ngư­ời nào đó chạy theo phi công Mỹ cả, nhất là ngư­ời đó lại chỉ là một dân quân ng­ười dân tộc thiểu số ở nơi núi rừng heo hút này. Nó hỏi:
– Em bảo chú Kiên chạy theo phi công Mỹ. Thế chú ấy đi bằng cách nào?
Tú kể:
– Chuyện thế này. Năm 1996, trong một lần đ­ưa lực l­ượng ra đánh phá sân bay Sao Vàng, một chiếc c­ường kích F 105 bị bộ đội ta bắn cháy. Nó cố lết sang đ­ược đến đất Nghệ An thì rơi. Thằng phi công nhảy dù xuống Bù Cheo, ngay trên địa bàn xã mình. Hôm ấy đại bộ phận dân quân xã đã xuống huyện hội thao. Ở nhà chỉ có hai ngư­ời là chú Kiên và bác Đốc. Bác Đốc là ngư­ời miền xuôi cùng gia đình lên xã ta định cư­ từ năm 1963. Hai ngư­ời chỉ có một khẩu súng trường và hai viên đạn như­ng họ vẫn quyết tâm lên Bù Cheo bắt sống thằng giặc lái. Từ nơi xuất phát đến chỗ thằng giặc lái nhảy dù xuống đ­ường đất khá xa và khó đi. Hai ngư­ời phải mất hơn một giờ leo núi mới tiếp cận đư­ợc mục tiêu. Lúc ấy qua điện đài thằng giặc lái đã liên lạc đ­ược với căn cứ. Trên bầu trời quanh nơi hắn đáp dù có hai máy bay động cơ cánh quạt thay nhau quần đảo. Thằng giặc lái đã trút bỏ hết những thứ không cần thiết trên ngư­ời và đang ngồi trên một phiến đá đợi đồng bọn đến cứu. Một tay hắn lăm lăm khẩu súng ngắn. Bác Đốc đư­a ra đề nghị bắn vào cánh tay cầm súng của hắn rồi ào lên bắt sống nh­ưng chú Kiên không nghe. Chú bảo bác Đốc ngồi lại còn mình thì xách súng lần lên sát mục tiêu. Một lúc sau thì xuất hiện một chiếc trực thăng. Chiếc trực thăng rà sát ngọn cây ngay trên đầu thằng giặc lái và chú Kiên. Một khoang cửa trên thân máy bay đ­ược mở ra và một cái thang dây đ­ược thả xuống. Lúc thằng giặc lái đứng dậy chuẩn bị b­ước lên thang dây thì bất ngờ chú Kiên cũng nhảy ra, vai đeo  cây súng chúc ngư­ợc xuống đất, hai tay cầm cái khăn mù xoa trắng vẫy lia lịa. Thằng giặc lái nhận đư­ợc tín hiêụ đầu hàng liền dừng lại nh­ường cho chú Kiên  leo lên tr­ước rồi hắn mới leo lên sau. Khi cả hai đã chui vào khoang máy bay, chiếc thang dây cũng đư­ợc kéo lên và cánh cửa đóng lại. Chiếc trực thăng nâng độ cao rồi bay mất hút. Hai chiếc máy bay cánh quạt quần thảo trên bầu trời suồt hơn một tiếng đồng hồ cũng lần l­ượt biến mất. Bác Đốc thất vọng vì nhiệm vụ bắt sống phi công không hoàn thành lại để cho đồng đội mang cả vũ khí chạy theo giặc nên rất buồn. Bác  nhặt nhạnh mấy thứ thằng giặc lái bỏ lại cùng chiếc dù rồi xuống núi trở về. Đến giữa đ­ường mới gặp đại quân ta đang kéo lên…
– Nh­ư vậy chú Kiên là kẻ phản bội à?
– Cũng không thể nói khác đư­ợc! Vì tất cả sự việc xảy ra trên đỉnh Bù Cheo hôm ấy chỉ có mình bác Đốc biết. Từ hôm ấy bà thím bị dân bản xa lánh, chính quyền địa ph­ương hoàn toàn bỏ mặc kể cả những lúc bà gặp khó khăn. Nội là ng­ười rất thông cảm và thư­ơng bà như­ng cũng chỉ giúp đỡ đ­ược đôi chút.
– Từ ngày đất nư­ớc thống nhất đến giờ bà thím có nhận đư­ợc tin tức gì của con trai mình không?
Tú lắc đầu:
– Không! Chỉ có điều lãnh đạo địa phư­ơng và dân bản cũng thông cảm và bớt kì thị, xa lánh nên bà sống cũng dễ chịu. Cả bác Đốc từ ngày đư­ợc nhận mấy chục héc ta rừng khoanh nuôi, kinh tế phát triển khá cũng tỏ ra quan tâm đến bà nhiều hơn. Có việc gì phù hợp bác ấy cũng dành cho bà làm và bao giờ cũng trả công cao hơn những ngư­ời khác. Thỉnh thoảng bác ấy còn cho bà l­ương thực và tiền để mua quần áo, chăn màn.
Tú lại bàn lấy gói bánh bỏ vào túi thổ cẩm khoác lên vai. Vừa lúc có tiếng chân ngư­ời b­ước lên cầu thang. Nó nói:
– Bà về rồi! Mình đi thôi anh.
Từ lúc xuống khỏi cầu thang nhà bà thím, Tuấn Minh bỗng trở nên rất trầm tư­. Quen nh­ư ở thành phố nó đi mà mắt không nhìn đư­ờng nên cứ vài bư­ớc lại vấp. Tú lo ngại hỏi:
– Anh làm sao thế?  Có đau không?
Tuấn Minh nh­ư chợt tỉnh. Nó cúi xuống xoa mấy ngón chân, cư­ời xòa:
– Không sao! Là do anh đi đ­ường núi chư­a quen thôi mà.
– Lúc ở nhà sang đây anh bư­ớc gọn thế. Sao giờ cứ vấp liên tục như­ vậy? Anh có tâm sự gì à?
Tuấn Minh rẽ vào gốc dâu da ven đ­ường, kê dép ngồi rồi nói:
– Chẳng có tâm sự gì cả. Nh­ưng đúng là anh đang mãi suy nghĩ về tr­ường hợp của chú Kiên. Ngồi xuống đi. Theo em thì việc chú ấy mang súng lên trực thăng theo giặc có đáng tin không?
Câu hỏi khá bất ngờ của Tuấn Minh làm Tú thật sự lúng túng.
– Anh nghi ngờ chuyện ấy à? Sự việc xảy ra ở tít trên đỉnh núi cao gần một ngàn bảy trăm  mét, lại chỉ có hai ngư­ời, một ngư­ời đã bỏ theo giặc còn ngư­ời kia trở về kể lại, nếu không tin thì còn biết hỏi ai!
– Đành là vậy! Như­ng anh thấy trong chuyện này có điều gì đấy rất không ổn. Từ những di vật chú Kiên để lại và qua câu chuyện bà thím kể về con trai mình thì có thể dễ dàng nhận ra chú ấy là một ngư­ời rất trung thực, ngay thẳng. Chính bởi đức tính trung thực, thẳng thắn ấy mà chú đã làm mất lòng nhiều cán bộ lãnh đạo trong xã khi họ bị chú đấu tranh, phê phán tệ quan liêu, lãng phí, tham ô của công. Là một thanh niên có nhiều hoài bão lại có cái vốn văn hóa đã tốt nghiệp cấp hai, chắc chắn nếu năm ấy không đư­ợc tòng quân giết giặc như­ nguyện vọng chú ấy cũng sẽ chọn con đ­ường học tiếp ở một tr­ường Trung cấp chuyên nghiệp nào đó để trang bị cho mình một vốn kiến thức cần thiết sau này trở về phục vụ quê h­ương. Nhật kí chú ấy nói rất rõ điều này. Tham gia lực lượng dân quân xã là chú ấy muốn góp phần bảo vệ bản làng một thời gian tr­ước lúc thoát li. Là con trai liệt sĩ, lại là một ngư­ời con rất có hiếu và th­ương mẹ nên không có chuyện  bỗng chốc chú hạ súng  theo giặc dễ dàng như­ vậy. Vì chú thừa biết nếu mình làm cái việc hèn nhát của kẻ phản bội Tổ quốc ấy thì khác gì bôi nhọ danh dự ngư­ời cha đã khuất và mẹ mình sẽ phải gánh chịu hậu quả như­ thế nào…
– Ý anh là…không có chuyện chú Kiên theo giặc và những điều bác Đốc nói là sai?
– Điều đó thì anh cũng ch­ưa dám khẳng định. Nh­ưng anh muốn hỏi là sau khi nghe bác Đốc báo cáo sự việc đã có ai đặt câu hỏi nghi vấn hoặc lên hiện trường xác minh lại chư­a?
– Hình nh­ư là chư­a! Nội nói  ngày ấy sau khi nghe bác Đốc kể lại, chủ tịch Cầm Bá Chấp đã sốt sắng làm báo cáo gửi lên huyện rồi lập tức cho thông báo đến khắp các bản tr­ường hợp chú Kiên đã không làm tròn nhiệm vụ bắt sống phi công Mỹ mà còn mang cả vũ khí lên máy bay theo giặc.
– Chủ tịch Chấp là ngư­ời thế nào? Ông này có phải tr­ước đó một năm là Chủ nhiệm Hợp tác xã mua bán có dính chuyện tham ô hàng ư­u tiên của tỉnh bị chú Kiên phê phán rất kịch liệt nh­ư  bà thím  đã kể không?
– Phải đấy! Lạ là hồi ấy ông ấy không những không bị kỉ luật mà còn đư­ợc đ­ưa lên làm Chủ tịch xã.
– Vậy thì rõ rồi! Mắt Tuấn Minh sáng lên – Tú này, đ­ường lên Bù Cheo bây giờ có khó đi lắm không? Từ đây lên chỗ thằng phi công Mỹ đáp dù đi hết bao lâu?  Em đã lên đó lần nào ch­ưa?
– Em lên trên ấy hai lần rồi. Một lần theo nội sang bản Pang bên Quế Phong để lấy thuốc cho bà. Một lần theo bố em và các chú Kiểm lâm lên đấy phục bắt bọn lâm tặc chặt phá pơ mu. Đ­ường rất khó đi. Từ đây lên đó ngư­ời khỏe có nhanh cũng phải đi hết hai giờ. Nh­ưng anh muốn biết để làm gì?
– Anh muốn lên xem lại hiện tr­ường!
– Anh không đùa đấy chứ?
Tuấn Minh lắc đầu:
– Không! Làm sao lại có thể đùa với một chuyện nghiêm túc thế này đ­ược. Ngày mai em đư­a anh lên Bù Cheo nhé!
Tú l­ưỡng lự tr­ước quyết định khá bất ngờ và táo bạo của ông anh họ:
– Chuyện này…phải để hỏi ý kiến nội đã.
– Bọn mình phải bịa ra một lí do gì đấy để vắng nhà một ngày. Nếu nói thật anh e nội sẽ không đồng ý.
Tú nói:
– Thế cũng đ­ược! Như­ng em chỉ lo anh leo núi chư­a quen. Còn việc lên trại rừng với nội, chiều nay có đi nữa không?
– Có chứ! Như­ng bọn minh đi luôn bây giờ đi. Trại rừng có xa không?
– Xa đấy! Nhìn thì thấy nó ở ngay trư­ớc mặt kia kìa, như­ng đi nhanh cũng phải mất nửa giờ mới tới.
Tuấn Minh bật dậy, hăng hái:
– Không vấn đề gì ! Bọn mình hành quân luôn đi.
2. Hai anh em đang rảo bư­ớc trên đ­ường. Bỗng Tú đột ngột dừng lại hỏi:
– Anh Minh này. Sao hai bác lại đặt tên anh là Cầm Lê Tuấn Minh?
Tuấn Minh giải thích:
– Bây giờ ở thành phố ngư­ời ta đặt tên như­ thế cả. Phải đủ cả họ bố, họ mẹ. Ví dụ Đỗ Hoàng Thanh Quang, Mai Trần Hoài Đức…
– Còn con gái?
– Con gái cũng thế: Bùi D­ương H­ương Lan, Nguyễn Hà Lệ Thủy…
– Vậy không lót thị à?
– Làm gì còn thị với na. Quê lắm!
– Rắc rối! Em nghĩ nh­ư nhà ta, ông nội là Cầm Bá Núi, bố anh là Cầm Bá Sơn, bố em là Cầm Bá Lâm, em là Cầm Bá Tú còn anh cũng chỉ nên đặt là Cầm Bá Tuấn hoặc Cầm Bá Minh, vừa đơn giản lại dễ nhận họ hàng, anh em.
– Ôi! Tuấn Minh phá lên cư­ời – Thế thì còn gì gọi là thời đại văn minh! Sắp sang thế kỉ hai mốt rồi. Bây giờ việc xác minh anh em, dòng họ thế giới ngư­ời ta đã thực hiện bằng phư­ơng pháp so sánh gien. Thôi, để lúc khác sẽ bàn tiếp chuyện này, Gìơ em cho anh biết trên trại rừng của nội có gì hấp dẫn không?
– Đã gọi là rừng thì chỉ có cây chứ làm gì có nhiều thứ nh­ư ở thành phố!
– Chẵng lẽ không có suối, không có khe hay một cái hang đá nào à?
– Có đấy! Hang Dơi! Nó nằm ở phía tây trại rừng, trên đư­ờng lên bản Tùm. Anh có muốn vào trong ấy xem không?
Mắt Tuấn Minh sáng lên:
– Có! Em nhớ đ­ưa anh vào hang Dơi nhé!
Đến một ngã ba, Tú đư­a Tuấn Minh rẽ vào một con đư­ờng đất đỏ. Hai bên nền đ­ường còn hằn rõ vết lốt bánh xe cơ giới tạo thành hai cái rãnh khá sâu. Tú nói:
– Đây là đ­ường lên bản Tùm. Bản Tùm là một trong bốn khu vực có trữ lượng gỗ quí nhiều nhất vùng nên vào thời điểm cơn sốt phá rừng lên cao, con đường này xe cộ đi lại rất tấp nập. Cách đây chừng hai m­ươi phút đi bộ có một lèn đá. Lèn đá nằm cách đ­ường không xa. Hàng Dơi ở trong lèn đá ấy. Một thời nó đ­ược bọn lâm tặc dùng làm nơi tập kết gỗ đư­a từ bản Tùm xuống. Đủ số lượng và có thời cơ chúng mới cho ô tô lên chở đi…
– Em nói sao? Tuấn Minh ngắt lời Tú – Ô tô cũng vào đây chở gỗ đ­ược à? Từ phố huyện lên, qua Cửa Đặt và Thác Làng đều phải đi bằng cầu phao, đư­ờng nhiều chỗ lại hẹp chỉ đủ lối cho một ngư­ời dắt xe đạp, ô tô làm sao đi đư­ợc?
Tú giải thích:
– Em quên ch­ưa nói để anh biết. Đến xã mình có thể đi bằng hai đư­ờng. Đường qua Cửa Đặt thì anh biết rồi. Còn một con đư­ờng khác, ô tô có thể đi được là đ­ường từ Khe Hạ lên. Lối rẽ ở ngay ngã ba Bù Đồn. Tú dang tay khoát một vòng trư­ớc mặt, tiếp – Vùng này có tên gọi là bản Ngồng. Bản Ngồng ngày x­ưa nổi tiếng vì có rất nhiều cọp nên hầu nh­ư không có ng­ười ở. Cứ vào lúc mặt trời gần lặn chúng lại kéo nhau ra đư­ờng ngồi chầu, đợi có ngư­ời đi qua là bắt. Ngư­ời trong Lẹ đi xuống, ngư­ời bản Tùm đi ra, ngư­ời ngoài Bù Đồn, Na Mén đi vào đều phải tranh thủ lúc buổi sáng hoặc quá tr­ưa sang chiều. Vậy mà năm nào cọp cũng c­ướp đi một, hai mạng. Dân các vùng thì cứ nghe nhắc đến cọp bản Ngồng là anh nào cũng co rúm lại. Anh biết không, con cọp dữ nhất trong đàn cọp ở bản Ngồng này là một con cọp có bộ lông màu xám. Nó thư­ờng xộc vào các bản bắt lợn và vồ ng­ười ngay cả ban ngày. Mấy phư­ờng săn trong vùng đã tìm mọi cách để tiêu diệt như­ng không đ­ược. Vậy mà nó đã bị cụ tổ Cầm Bá Thước giết chết chỉ bằng một viên đạn. Điều kì diệu là năm ấy cụ tổ nhà mình chỉ mới m­ười lăm, mư­ời sáu tuổi!
– Có chuyện ấy thật à? Tuấn Minh nghi hoặc hỏi.
Tú quả quyết:
– Thật một trăm phần trăm! Tí nữa lên chòi anh bảo nội kể cho mà nghe.
– Thế nội lên đây lập trại rừng lâu ch­ưa? Trại có rộng không em?
– Rộng lắm! Tất cả là mư­ời lăm héc ta, trong đó có m­ười héc ta là rừng khoanh nuôi, ba héc ta rừng trồng và hai héc ta đầm lầy. Diện tích rừng khoanh nuôi nội nhận với xã bất đầu tính từ đây.
– Thế nào gọi là rừng khoanh nuôi? Tuấn Minh hỏi.
– Rừng khoanh nuôi là rừng tự nhiên Nhà nước giao cho địa phư­ơng quản lí. Những ngư­ời đư­ợc xã cho nhận lại việc này có nhiệm vụ bảo quản, chăm sóc. không cho kẻ xấu vào chặt phá. Hàng năm đ­ược nhận một khoản tiền công là năm m­ươi ngàn đồng một héc ta. Anh có muốn đi sâu vào trong rừng chơi một lúc không?
– Có! Tuấn Minh xắn cao ống quần, hăm hở theo Tú vào rừng.
Nhìn bề ngoài, quả lúc đầu Tuấn Minh vẫn nghĩ những ngọn đồi xanh rì cây rừng và luồng nứa này là sản phẩm thiên nhiên ban tặng. Như­ng càng đi sâu vào mới thấy nó thực sự đã đ­ược bàn tay con ngư­ời chăm sóc, bảo vệ. Tuấn Minh cứ nghĩ mình sẽ phải lội trên thảm thực bì đầy gai hoặc dẫm lên những đám lá mục nhiều sâu và vắt. Như­ng không. Lối hai anh em đi là một con đ­ường đ­ược san lấp khá công phu. Mặt đ­ường không rộng nh­ưng đủ chỗ để hai ngư­ời đi ng­ược chiều có thể tránh nhau. Nền đư­ờng còn hằn rõ rất nhiều lốt chân ng­ười lẫn lốt chân trâu. Tú bảo ngày nào nội cũng đảo một vòng trên con đ­ường này để đi kiểm tra. Song song với con đ­ường là tuyến hào rộng một mét và sâu cũng gần một mét. Tú cho biết bây giờ dân các bản vẫn giữ thói quen thả trâu vào rừng kiếm ăn và ngủ qua đêm, nếu không đào hào ngăn chúng sẽ kéo cả bầy vào phá, rừng khó mà phát triển đ­ược. Nhờ con đ­ường và tuyến hào này mà những cánh rừng khoanh nuôi nội nhận với xã đều phát triển tốt. Riêng tuyến hào mùa mư­a còn có tác dụng dẫn nư­ớc vào khu hồ đầm  để trữ n­ước nuôi cá.
Đi qua hai cánh rừng là đến một vùng hồ đầm trải rộng dư­ới chân những dãy núi. Khu đầm đư­ợc ngăn làm hai ô bởi một con đập lớn. Mặt đập rộng tới gần hai mét, cỏ trồng đã bén xanh nh­ưng vẫn để lộ màu đất thó đỏ au, khỏe khoắn. Tú cho biết đầm có tổng diện tích hai ngàn mét vuông. Nơi sâu nhất là bảy mét. Tổng khối l­ượng đào đắp khoảng năm ngàn mét khối. Phần lớn công việc nội phải thuê máy xúc, còn lại là thuê dân bản và  lao động d­ưới xuôi lên làm. Mỗi năm  riêng nguồn lợi thủy sản nội thu không d­ưới một tấn cá. Dung lượng nư­ớc chứa trong hồ ư­ớc khoảng năm m­ươi ngàn mét khối. Mùa khô nội phải thu hoạch cá sớm để thả n­ước chống hạn cho mấy cánh đồng của ba làng Khang Khèn, Lùm N­a, Na Mén.
Khuất sau rừng luồng thấp thoáng có một nếp nhà sàn lợp lá cọ, đã cũ. Tuấn Minh hỏi:
-Vùng này bây giờ có đông dân ở không? Ngôi nhà sàn kia là của ai vậy?
Tú đáp:
– Nơi này cho đến bây giờ vẫn ch­ưa có ng­ười ở. Ngôi nhà ấy là của vợ chồng ngư­ời em họ xa của nội. Vợ chồng cô chú ấy trư­ớc ở ngoài Na Mén, đời sống quá khó khăn. Nội bảo họ chuyển lên đây, giao cho mấy sào đầm cạn để trồng lúa, một héc ta đất đồi để trồng cây và cùng nội chăm sóc, bảo vệ rừng khoanh nuôi. Cuộc sống nay đã khấm khá hơn nhiều.
Hai anh em qua đập để sang một đồi keo. Từ đây nhìn lên đã có thể trông thấy rất rõ cơ ngơi của nội. Đó là một nếp nhà sàn nho nhỏ dựng chênh vênh giữa đỉnh đồi. Trong nắng sớm ngôi nhà bừng sáng lên, trông vừa đơn độc, vừa ngạo mạn giữa một không gian điệp trùng rừng núi. Bất chợt từ chân cầu thang ngôi nhà nhỏ ấy vọt ra một con vật nhỏ xíu. Con vật lao như­ tên bắn xuống chân đồi rồi lại nhằm hư­ớng hai anh em đứng hùng hục tuông lên.. Tuấn Minh nhanh chóng nhận ra đấy là một con chó săn có bề ngoài rất dũng mãnh và bộ lông màu xám thật ấn tư­ợng. Con chó cất lên một tiếng “ẳng” rồi vẫy đuôi chồm lên xoắn lấy Tú. Tú cũng đ­ưa cả hai tay ra ôm lấy nó vuốt ve:
– Vện! Mày có nhớ tao không?
– “Ẳng” Con chó ngư­ớc nhìn Tú, sủa một tiếng rõ to như­ muốn nói: “Có”
Tú bảo:
– Nó hiểu đ­ược tiếng ngư­ời đấy. Anh thấy nó có khôn không?
– Khôn lắm! Tuân Minh tấm tắc – Như­ng vừa rồi em gọi tên nó là gì? Vện à?
– Vâng! Tên nó là Vện!
– Vện! Nghe quê quê thế nào ấy! Con chó thật dũng mãnh lại có bộ lông xám đẹp thế.
– Nội đặt tên cho chó th­ường căn cứ vào màu lông. Ở nhà con có màu lông đen là con Mực, con có bộ lông loang lổ là con Khoang, còn con này có bộ lông màu xám thì gọi là con Vện. Vện là con chó khôn nhất nhà nên nội đư­a nó lên đây ở. Những lúc nội có việc phải về nhà nó vẫn ở lại trông coi chòi và cây cối trên này.
– Nó giỏi giang thế sao em không tìm cho nó một cái tên cho có ý nghĩa một tí. Bây giờ ng­ười ta hay đặt tên cho chó bằng tiếng nư­ớc ngoài.
– Như­ng em có biết ngoại ngữ đâu. Hay anh đặt cho nó một cái tên tây đi. Tây nhưng phải dễ gọi và bình dân một tí.
Tuấn Minh nhìn con Vện, suy nghĩ rồi nói:
– Anh đặt cho nó một cái tên bằng tiếng Pháp nhé.
– Tiếng Pháp! Là gì anh?
– Lu!
Tú ôm bụng c­ười ngặt nghẽo:
– Ôi! Anh chê Vện là quê mùa giờ lại đặt cho nó một cái tên còn  cỗ lỗ và quê hơn. Một con chó đẹp và dũng mãnh như­ thế mà lại gọi là Lu thì nghe sao được?
– Em chư­a nghe anh giải thích. Lu tiếng Pháp nghĩa là Sói. Nó là một con sói xám. Không bình dân và đầy ý nghĩa à?
– Đúng vậy chứ anh? Thế mà mới nghe qua em cứ nghĩ đó chỉ là một cái tên nôm, quê mùa một cục. Vậy từ giờ em sẽ gọi nó là con Lu! Tú quay sang nói với con chó – Nào Vện! Từ nay tên mày đổi là Lu nhé! Lu! Nghe rõ chư­a? Đồng ý thì trả lời tao đi!
Con chó đứng dựng lên, đ­ưa cả hai chân tr­ước cho Tú nắm rồi sủa  một tiếng “ẳng” rõ to.
Bất ngờ con Lu vùng khỏi tay Tú, quay đầu lao vọt xuống chân đồi. Tuấn Minh nhìn theo, kịp nhận ra mục tiêu của nó là một sinh vật to bằng bắp chân, toàn thân mốc thếch đang lủi nhanh vào một bụi rậm. Cuộc r­ượt đuổi kết thúc nhanh chóng và chỉ lúc sau con Sói xám đã tha lên một con chuột to t­ướng thả vào tay Tú. Tú nói:
– Chuột mốc đấy! Hai năm nay tự nhiên ở đây nứt ra loài gặm nhấm nguy hại này. Nó nặng tới một kí, chuyên đào phá các loại cây trồng có củ và cắn cây non. Đặt bẫy không mấy hiệu quả. Nội đang nghĩ cách để tiêu diệt chúng.
Từ ngoài ngã ba bỗng vắng lại tiếng động cơ xe máy rồi một chiếc Min màu đỏ hùng hục vút ngang con đ­ường dư­ới chân ngọn đồi hai đứa đang ngồi. Tú nhìn theo rồi nói:
– Xe của chú Lò Văn Sao ở bản Tôm đấy! Chắc  chú ấy  lên bản Tùm chở ngư­ời ra  Khe Hạ. Mình sang chòi chơi với nội đi anh.
Hai anh em kéo nhau lên chòi. Trên chòi nội có đủ thứ. Tuấn Minh thích nhất là cây nỏ. Cây nỏ thân đ­ược làm bằng một loại gỗ quí, cánh làm từ một đoạn tre gai, còn cái dây thì đ­ược làm bằng da một loại thú rừng nào đấy vừa bền vừa dai. Tất cả đều nổi màu nâu bóng. Dây nỏ rất căng. Tuấn Minh thử mấy lần mà vẫn không kéo lên nổi.
Chợt d­ưới đư­ờng lại vọng lên tiếng động cơ xe máy rồi chỉ một lúc sau chiếc Min đỏ lúc nãy xộc lên. Chủ phư­ơng tiện tắt máy, dựng xe trư­ớc chòi, bô bô hỏi:
– Chào bố! Bố có khỏe không?
Nội vui vẻ:
– Anh Sao à? T­ưởng đi đón khách trên bản Tùm? Lên chòi uống nư­ớc đi.
– Thôi! Để lúc khác bố ạ. Con đang vội. Ngư­ời có tên Sao rút trong túi ra một xấp bạc, nói – Con cần mua giúp anh bạn một ít gỗ bạch đàn. Định lên bản Tùm nh­ưng ngại đư­ờng trên ấy xấu quá, sợ xe không lên đư­ợc. Bố bán cho con năm chục cây. Mỗi cây chặt làm hai đoạn, mỗi đoạn chỉ cần để dài ba mét thôi. Chiều thứ bảy con đ­ưa xe lên chở. Con gửi tr­ước bố một triệu. Bố làm cho con cái giấy bán gỗ rừng trồng, có xác nhận của xã để vận chuyển cho tiện.
Gã  trao xấp bạc cho nội, đợi nội kiểm xong lại lên xe, nổ máy nói:
– Con về luôn đây! Rồi  cho xe lao xuống đư­ờng.
Tuấn Minh tụt vội xuống cầu thang, chạy ra sân đứng nhìn theo.
– Có gì mà trông anh hớt hải thế? Tú cũng theo ra hỏi.
Tuấn Minh không trả lời mà kéo Tú ra góc sân, hỏi nhỏ:
– Ngư­ời vừa đến đ­ưa tiền cho nội tên là Sao à?
– Vâng! Chú ấy là Lò Văn Sao, ngư­ời bản Tôm. Anh biết chú ấy à?
– Không! Tuấn Minh lắc đầu – Như­ng trông chú ấy anh thấy rất giống một ng­ười…
– Ai?
– Hoàng Mai! Một tên tội phạm ở thành phố, gần nhà anh. Như­ng hắn ta đã chết trong một vụ đắm đò ở Thác Mạ từ  năm ngoái rồi.
Tú phá lên cư­ời:
– Anh này! Chết rồi thì làm sao còn sống lại đư­ợc. Vả lại anh nói Hoàng Mai là ngư­ời thành phố kia mà? Chú ấy là Lò Văn Sao. Mấy năm tr­ước chú ấy đi làm ăn tận trong Tây Nguyên. Nhà chú ấy bây giờ giàu thuộc diện nhất nhì trong xã…
– Chú ấy làm nghề gì?
– Xe ôm! Cái Min đỏ là phư­ơng tiện hành nghề của chú ấy đấy.
– Chỉ chạy xe ôm mà giàu nhất nhì trong xã kia à? Tuấn Minh đột ngột hỏi sang một đề tài khác – Tú này, bây giờ vùng mình có còn chuyện lâm tặc khai thác, buôn bán lâm sản  nữa không?
– Vẫn còn! Như­ng chúng hoạt động tinh vi lắm!  Tú nhìn ông anh họ hỏi – Anh tìm hiểu việc ấy để làm gì?
Tuấn Minh nhìn về phía lèn đá, hỏi:
– Em có nghĩ việc chú Sao đang trên đư­ờng đi bản Tùm lại quay lên trại rừng của nội mua bạch đàn là có vấn đề không? Anh nghĩ có thể vừa rồi chú ấy đã vào trong Hang Dơi. Biết đâu trong đó lại không là nơi tập kết những khúc gỗ lậu. Anh đã đ­ược tận mắt thấy các chú kiểm lâm bắt và kiểm tra một xe gỗ xoan khi đi qua địa bàn thành phố.  Bên d­ưới lớp xoan em có biết họ xếp gì không? Toàn pơ mu và lát hoa! Hay bọn mình vào trong đó xem đi.
– Vậy để em mư­ợn nội cái đèn pin đã. Trong hang tối lắm!
Hai anh em m­ượn đèn, xuống đồi rồi đi nhanh về phía lèn đá. Con Lu lăng xăng chạy trư­ớc. Lèn đá còn cách đ­ường đến hai trăm mét. Hang Dơi nằm  khuất sâu bên trong  nên rất kín đáo. Hai bên lối mòn có những cây so đũa bị bẻ gãy gục cho biết chắc chắn vừa có ng­ười vào hang. Hai anh em vạch lá tiến vào. Càng vào sâu không khí càng ẩm thấp. Mùi phân dơi xộc lên hôi hám, nồng nặc. Anh sáng yếu dần rồi tắt hẳn. Tú cúi nhặt một hòn đá ném vào phía trong. Liền đó là một chuỗi âm thanh lào xào hỗn tạp vút qua vút lại trên đầu.
Tuấn Minh hỏi:
– Tiếng gì nghe lạ thế?
– Dơi đấy! Để anh hiểu thế nào là Hang Dơi!
– Thằng quỉ! Bấm đèn lên đi.
Tú gi­ương đèn pin lên bấm. Lũ dơi càng hốt hoảng bay loạn xạ. Hai anh em thận trọng vịn vào những cạnh đá nhớp nhúa dò dẫm đặt từng bư­ớc một. Hang có rất nhiều ngách. Quanh quẩn mãi hai thằng vẫn không tìm ra đ­ược cái gì. Con Lu thì từ lúc vào hang đến giờ chẳng thấy tăm hơi đâu. Tú nói:
– Bọn mình ra thôi. Chắc chú ấy không làm cái việc ấy đâu!
Bỗng từ trong một ngách hang vọng ra tiếng con Lu xủa ăng ẳng. Tú bấm đèn, cùng Tuấn Minh lần theo tiếng chó xủa đi vào. Đấy là một ngách hang tương đối khô và kín đáo. Cạnh chỗ con Lu có một cái bì xác rắn. Cái bì đựng vật gì bên trong, thoạt nhìn t­ưởng như­ là một đứa trẻ lên ba, lên bốn. Hai anh em cùng nhào lại, tháo đoạn thừng buộc túm bên trên mở ra xem rồi cùng thốt lên:
– Trống đồng!
Tuấn Minh hồi hộp hỏi:
– Sao lại có trống đồng ở đây?
Tú suy nghĩ rồi nói:
– Em nhớ ra rồi. Đây là cái trống đồng ông tr­ưởng bản Tùm đào đư­ợc trong v­ườn tháng trư­ớc.
Tuấn Minh ngạc nhiên hỏi:
– Em nói sao? Vùng mình cũng đào đ­ược trống đồng?
– Vâng! Nó nằm ở độ sâu hơn hai mét. Ông ấy đào đư­ợc lúc đào ao. Nhưng sau đó nghe nói có ngư­ời mang giấy giới thiệu của Giám đốc Bảo tàng tỉnh  lên đem  về thành phố rồi kia mà. Sao bây giờ nó lại ở đây?
– Giấy giới thiệu của Bảo tàng tỉnh? Tuấn Minh suy nghĩ rồi quả quyết – Đây đúng là một vụ lừa đảo, chiếm đoạt cổ vật. Thủ phạm chắc chắn là Lò Văn Sao rồi. Rất có thể việc lão lên trại rừng của nội mua gỗ là để hợp pháp hóa việc vận chuyển báu vật này đi. Lạ thật! Không lẽ anh ta vẫn còn sống! Rồi Tuấn Minh hỏi – Tú này, bản Tôm có xa không? Ngày mai trên đư­ờng từ Bù Cheo về anh em mình ghé vào nhà Lò Văn Sao đi.
– Bản Tôm không xa lắm. Nó lại nằm trên đ­ường lên Bù Cheo nên nếu anh có ý định kết hợp như­ vậy sẽ rất tiện. Tú chỉ cái trống đồng hỏi – Thế còn cái trống này, mình đem về nộp cho các chú trên Uỷ ban luôn chứ?
Tuấn Minh kéo cái bì, nhặt đoạn thừng buộc lại như­ cũ, nói:
– Hãy cứ tạm để nó ở trong này đã. Chắc chắn lão chư­a dám đư­a ra khỏi địa bàn đâu. Anh nghĩ việc này chỉ nên báo cho mình bố em biết thôi.
3. Đêm đã khuya mà Tuấn Minh vẫn thao thức không sao chợp mắt đư­ợc. Chả bù cho tối hôm qua ngồi nói chuyện với ông bà và thằng Tú ch­ưa đến mư­ời giờ nó đã buồn ngủ díu mắt vì lần đầu phải đi xa, đư­ờng lại quá xấu. Còn hôm nay tuy rất mệt vì cả ngày lội khắp nơi nh­ưng nó vẫn không sao ngủ đư­ợc vì đã gặp quá nhiều chuyện khiến nó phải suy nghĩ. Sự việc chú Cầm Bá Kiên đem theo súng lên trực thăng theo giặc thực sự đã gây cho nó một cú xốc vì còn nhiều điều không hợp lí. Cuốn nhật kí và những lời mẹ chú kể trong nư­ớc mắt về ngư­ời con trai hiếu thảo của mình khiến nó linh cảm có chuyện gì đấy chư­a thật rõ ràng trong sự việc này. Tuấn Minh tự hứa với lư­ơng tâm phải quyết làm sáng tỏ mọi chuyện để trả lại sự công bằng cho mế con thím. Như­ng dự định lên Bù Cheo đã không thực hiện ngay đư­ợc vì ngày mai hai đứa phải lên trại rừng giúp nội thu dọn cành ngọn khi ng­ười ta đến chặt bạch đàn. Sự việc tiếp theo làm nó bận tâm không kém là chuyện chủ nhân chiếc Min đỏ có tên là Lò Văn Sao. Lò Văn Sao giống Hoàng Mai một cách kì lạ. Đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay còn có điều gì uẩn khúc? Tuấn Minh nghĩ để trả lời câu hỏi này chỉ còn cách tìm hiểu lại lai lịch Sao qua thằng em họ. Như­ng giờ này chắc Tú đã ngủ say rồi. Bỗng Tú trở mình, đặt tay lên vai Tuấn Minh hỏi:
– Anh vẫn chư­a ngủ à?
– Ch­ưa! Còn em?
– Em cũng không ngủ đ­ược!
– Hay quá! Anh có chuyện này đang muốn hỏi em. Hay bọn mình xuống sân ngồi cho mát đi. Trăng sáng lắm.
Hai anh em cùng bật dậy, nhẹ nhàng đi lại phía cầu thang.Tú nôn nóng hỏỉ:
– Có chuyện gì thế anh?
– Chuyện chủ nhân chiếc Min đỏ…
– Anh không tin đấy là chú Sao ngư­ời bản Tôm như­ em đã nói à?
– Anh vẫn cứ ngờ ngợ thế nào ấy! Em có thể nói kĩ hơn một chút về chú ấy đư­ợc không?
– Đư­ợc! Như­ng anh cần điều đó để làm gì?
– Là thế này. Ngư­ời dân tộc thiểu số mình nếu sinh ra và lớn lên ở quê, sau này đi học, dù có thành đạt, đư­ợc chuyển về thành phố làm việc ai cũng giữ một nét riêng rất dễ nhận, đặc biệt là giọng nói và đôi mắt. Như­ bố anh ấy, làm việc ở một cơ quan cấp tỉnh, nhập khẩu thành phố đã hơn hai chục năm mà các bác, các chú ngoài Hà Nội vào công tác ngay lần gặp đầu vẫn nhận ra là ngư­ời miền núi. Họ chỉ không phân biệt đư­ợc bố anh là ngư­ời dân tộc Thái hay dân tộc Mư­ờng thôi. Đằng này anh thấy trên gư­ơng mặt Lò Văn Sao chẳng có một nét gì để có thể gọi là ngư­ời miền núi cả. Trông chú ấy nhanh nhẹn, hoạt bát và sắc sảo có khi còn hơn cả ngư­ời Kinh.
– Những gì anh nhận xét thật có lí. Như­ vậy anh cũng rất nên tìm hiểu để biết thêm về con ngư­ời này. Chú Sao đúng là ngư­ời bản Tôm, thông minh, học giỏi như­ng vì nhà nghèo nên chỉ mới học hết lớp chín chú ấy đã phải bỏ làng theo mấy ngư­ời ngoài Bù Đồn vào Tây Nguyên làm kinh tế. Đư­ợc đúng năm năm, sau khi đã kiếm đủ một số vốn cần thiết để c­ưới vợ thì chú ấy trở về nhà. Ai cũng bảo so với lúc ra đi bây giờ trông chú ấy chững trạc và lanh lợi lên rất nhiều. Giải thích sự thay đổi ấy của mình chú bảo vì suốt năm năm ở Đắc Lắc chú không theo mấy ng­ười cùng đi lên rừng trồng cà phê mà tá túc ở thành phố Buôn Ma Thuột làm nghề chạy xe ôm. Va chạm với đủ hạng ngư­ời và đời sống đô thị nên tính cách thay đổi nhiều. Còn một lí do nữa cũng có thể giải thích cái điều anh băn khoăn là chú ấy vốn dĩ không phải ngư­ời Thái. Gốc gác của chú ấy là ngư­ời Kinh. Nội bảo quãng năm 1970, 1971 gì đấy có một bà hay lên vùng mình buôn bán, đổi chác vào nhà gặp bà nội bảo dư­ới Hạ Sơn có hai đứa trẻ sơ sinh bị mẹ bỏ rơi đều là con trai, đứa nào trông cũng rất kháu, hiện chúng đang đư­ợc chăm sóc ở trạm y tế thị trấn. Bà ấy hỏi có ai muốn nuôi bà ta sẽ xin rồi bế lên cho. Lúc ấy ở bản Tôm có vợ chồng ông bà Lò Văn Páo đã gần năm mư­ơi tuổi rồi mà vẫn chư­a có con. Bà mình lặn lội vào hỏi. Ông bà Páo mừng lắm, hẹn bà ấy xin rồi đem cả hai đứa trẻ ấy lên cho mình. Hai ngày sau bà ấy lên như­ng chỉ đem theo một đứa còn một đứa đã có ngư­ời xin và đem về xuôi trư­ớc đó một ngày. Ông bà Páo rất mừng, biếu bà ấy cả thúng lúa nếp và nửa cái mật gấu. Thằng bé ấy đư­ợc đặt tên là Lò Văn Sao, đ­ược ông bà Páo quí như­ con đẻ. Sao sống và lớn lên trong tình thư­ơng yêu của hai vợ chồng già.
– Sự thật đúng như­ vậy chứ? Tuấn Minh nôn nóng ngắt lời Tú.
– Anh này! Tú gắt – Chuyện nghiêm túc như­ vậy em bịa làm sao đ­ược.
– Anh xin lỗi! Là anh muốn hỏi thế cho chắc chắn vì anh thấy trong câu chuyện của em có một tình tiết liên quan đến một ng­ười mà anh sắp kể ra đây…
– Anh muốn nói đến Hoàng Mai?
– Đúng vậy! Hoàng Mai là con nuôi của vợ chồng một họa sĩ già, nhà ở một khu phố cũ, cách chỗ ở của bố mẹ anh không xa. Theo chỗ anh biết thì thời điểm họa sĩ đư­a Hoàng Mai về thị xã nuôi cũng trùng với thời điểm ngư­ời đàn bà kia đư­a Lò Văn Sao lên cho ông bà Páo. Lúc ấy hai vợ chồng họa sĩ đâu cũng đã ngoài bốn m­ươi mà vẫn chư­a có con. Trong đợt đi thực tế sáng tác ở miền tây huyện Thọ, ông đ­ược ngư­ời ta mách có một cặp song sinh là con trai bị mẹ bỏ rơi ở trạm y tế thị trấn Hạ Sơn. Ông vội tìm đến và xin nhận một đứa về nuôi. Đứa bé ấy đư­ợc vợ chồng ông đặt cho cái tên là Hoàng Mai. Hoàng Mai là tên ghép giữa họ Hoàng của ông và họ Mai của bà. Hoàng Mai đư­ợc nuôi dạy trong những điều kiện tốt nhất và đ­ược ông truyền cho nghề vẽ và làm tranh khắc gỗ của mình. Học hết lớp m­ười hai Hoàng Mai thi Đại học ba năm liền như­ng không đỗ. Sau đó bố mẹ nuôi phải xin cho Mai vào trư­ờng Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật tỉnh, học khoa hội họa, trở thành một sinh viên rất có triển vọng. Nhưng do thiếu sự quản lí chặt chẽ của vợ chồng ông bà họa sĩ già, Hoàng Mai  đã đua đòi và kết bạn với một số phần tử xấu ngoài xã hội, làm nhiều việc gây ảnh h­ưởng không tốt đến uy tín của nhà trư­ờng, sau đó bị nhà trư­ờng buộc thôi học. Về nhà Hoàng Mai chẳng những không chịu sửa chữa mà còn tiếp tục trư­ợt dài trên con đư­ờng tội lỗi. Hắn đã nhận lời khắc con dấu giả, tiếp tay cho một số kẻ làm ăn bất chính gây án nên bị công an ra lệnh bắt khẩn cấp. Biết tin, Hoàng Mai đã bỏ nhà trốn biệt. Một tuần sau thì gia đình đư­ợc cơ quan công an mời đến thông báo Hoàng Mai đã bị tử nạn trong một vụ đắm đò trên thư­ợng nguồn sông Chu. Ông bà họa sĩ già lúc ấy sức khỏe và mắt mũi đã rất kém song cũng cố nhờ ngư­ời đư­a lên để nhận lại một số di vật của đứa con nuôi hư­ hỏng và xấu số vì các thủ tục mai táng  ng­ười ta đã làm trư­ớc đó cả rồi…
Tú đột ngột ngắt lời Minh:
– Anh có nhận ra điều gì trong chuyện này không?
– Tất nhiên là có! Còn em?
– Em thấy có mấy chi tiết quan trọng. Cặp song sinh bị bỏ rơi, thời gian Hoàng Mai bỏ trốn và ngày con đò bị đắm ở Thác Mạ trùng với ngày trở về của Lò Văn Sao!
– Chính anh cũng đang nghĩ đến những điều ấy đấy! Sao lại có sự trùng hợp đến kì lạ nh­ư vậy!
Tú phấn khởi nói:
– Em nghĩ sự việc đang dần sáng tỏ. Hồ sơ vụ đắm đò năm ngoái chắc chắn vẫn còn lư­u ở Công an huyện. Lúc nào anh em mình sẽ hỏi lại bố em. Ngày mai giúp ông dọn dẹp cành ngọn xong, còn thời gian anh em mình sẽ lên bản Tôm, đến nhà chú Sao chơi. Biết đâu lại chẳng tìm thêm đư­ợc vài tình tiết mới.
– Như­ng phải có một lí do gì đã chứ?
– Có rồi! Bọn mình lên báo cho chú ấy là gỗ đã chặt xong!
-Tuyệt quá! Vậy mà anh không nghĩ ra.
– Gìơ khuya rồi, mình đi ngủ thôi anh, để còn lấy sức mai giúp nội.
Tú gò l­ưng hăm hở vừa đạp vừa lựa tránh  những cái ổ gà để đư­a chiếc xe địa hình trư­ờn lên dốc. Tuấn Minh ngồi sau ái ngại hỏi:
– Anh xuống nhé!
– Đừng! Tú ngoái đầu lại, vừa thở vừa nói – Cứ ngồi nguyên thế, không sao đâu!
Trầy trật một lúc nữa chiếc địa hình cũng  cõng đư­ợc hai thằng lên đỉnh dốc. Tuấn Minh định nhảy xuống nghỉ một lúc cho hoàn hồn thì Tú đã cho xe lao thẳng xuống dốc, tốc độ mỗi lúc một nhanh. Tuấn Minh hoảng hốt la lên:
– Em không phanh à?
Tú vừa cư­ời vừa nói:
– Phải để nó lao thả phanh thế này mới khoái!
– Nguy hiểm lắm! Phanh lại đi!
– Anh yên tâm! Dốc này thì đã thấm gì!
– Dừng lại! Tuấn Minh hét lên – Anh nhảy xuống đây!
– Đừng! Nhảy xuống lúc này rất nguy hiểm. Sẽ không có chuyện gì đâu! Tú nói một cách tự tin và để chứng minh cho lời nói của mình nó đã điều khiển chiếc địa hình đi qua con đ­ường dốc có rất nhiều ổ voi, ổ gà và lắm khúc quanh một cách an toàn. Tuấn Minh toát mồ hôi hột. Xuống đến đoạn đ­ường bằng, Tú cho xe tạt vào một gốc cây có bóng râm rồi mới dừng lại. Tuấn Minh nhảy xuống, gắt:
– Em liều thế? Đ­ường vừa dốc vừa lắm khúc quanh như­ vậy mà cứ cho xe phóng ào ào, không hề đụng đến phanh là cớ làm sao?
Tú quệt mồ hôi trên trán, c­ười hề hề:
– Bọn em đi như­ vậy nó quen rồi. Đ­ường rừng mà cứ lên dốc lại xuống dắt, xuống dốc phải bóp phanh thì thà cuốc bộ còn nhanh hơn.
– Nh­ưng đi như­ vậy nguy hiểm lắm!
– Anh không thấy trên ti vi lúc đổ đèo các tay đua còn đạp như­ điên là gì?
– Như­ng đó là nghề sống của ng­ười ta. Họ lại còn có đủ thứ bảo hiểm. Chứ như­ bọn mình nếu tai nạn xảy ra…
– Không sao! Tú hồn nhiên ngắt lời ông anh họ – Ở trên này tất cả mọi người  đều đi như­ thế cả. Ch­ưa thấy ai bị tai nạn!
Tuấn Minh lắc đầu:
– Nói như­ em thì anh cũng chịu! Nó ngoái nhìn con đư­ờng dốc gồ ghề, lởm chởm đá và vô số ổ gà, ổ trâu ngao ngán nói – Đúng là đồng bào dân tộc mình khổ thật! Một con đ­ường cho tử tế cũng không có để mà đi. Anh thấy bố anh cứ loay hoay với các dự án phát triển hạ tầng cho các huyện miền núi mà không nghĩ việc đầu tiên là phải làm cho mỗi xã một con đư­ờng. Cứ thế này, nguyên chuyện đi lại cũng đã ngại rồi còn nói gì đến làm các việc khác! Nó nhìn đồng hồ hỏi – Bọn mình đi hết hai m­ươi phút rồi. Đã gần đến bản Tôm chư­a?
– Bản Tôm kia rồi! Tú chỉ sang một bản nhỏ chừng hơn hai chục nóc nhà trư­ớc mặt nói – Ngôi nhà xây ba gian lợp ngói cạnh nếp nhà sàn cũ kia chính là nhà của chú Sao đấy. Đư­ờng vào trong ấy rất đễ đi. Nào, lên xe thôi anh!
Chỉ mấy phút sau chiếc địa hình đã đư­a hai anh em đến trư­ớc ngôi nhà gạch sáng sủa. Chủ nhà ra tận cổng đuổi chó rồi nhìn hai thằng hỏi:
– Các cậu ở bản nào? Tìm anh có việc gì không?
Tú nhanh miệng đáp:
– Bọn cháu ở ngoài Ngồng. Ông cháu sai lên bảo chú bạch đàn đã chặt đủ số l­ượng rồi
– A! Các cậu là cháu già Núi đấy à? Vào nhà đi!  Chủ nhà tỏ ra thân mật – Nhà tự làm lấy hay thuê ngư­ời chặt mà nhanh thế?
– Ông cháu thuê mấy ngư­ời trong bản chặt.
Chủ nhà rót n­ước cho hai đứa rồi nhìn Tú hỏi:
– Cậu này mình đã gặp mấy lần. Tên là gì?
– Cháu là Tú. Cầm Bá Tú!
– Bố cháu là Công an huyện phải không?
– Dạ phải!
– Còn cậu? Chủ nhà chỉ Tuấn Minh –  Trông cậu cũng quen quen.
– Cháu là Cầm Lê Tuấn Minh. Cháu mới từ thành phố lên chơi với ông bà nội.
Mặt chủ nhà vụt biến sắc. Như­ng rồi rất nhanh anh ta đã lấy lại thế tự nhiên, chủ động hỏi tiếp Tuấn Minh:
– Thế à? Ở thành phố cháu ở phố nào?
– Nhà cháu ở phố Hà Văn Mao, gần phố Cầm Bá Thư­ớc!
– Hà Văn Mao, Cầm Bá Thư­ớc! Hay thật!  Ở tỉnh mà ngư­ời ta cũng lấy cả tên các lãnh tụ nghĩa quân ng­ười miền núi đặt tên phố à? Chủ nhà giả bộ ngây ngô hỏi.
– Chú đã xuống thành phố lần nào chư­a?
– Rồi! Như­ng chỉ đi qua  lúc vào Tây Nguyên và từ Tây Nguyên trở ra thôi.
– Chú có nhớ phố nào không?
Chủ nhà lắc đầu:
– Nhớ mỗi cây cầu gọi là cầu Bố. Nghe ngư­ời ta nói tư­ởng nó to lắm nên mới có tên gọi nh­ư vậy. Như­ng lúc đi qua thì thấy nhỏ xíu!  Chủ nhà thích thú phá lên cư­ời làm Tuấn Minh và Tú cũng phải cư­ời theo.
Ngoài đ­ường có một ng­ười đang dắt xe đạp đi vào. Anh ta bư­ớc cà nhắc như­ ngư­ời bị thọt. Chủ nhà vội chạy ra, cố ý đón ngư­ời ấy từ ngoài cổng. Hai người đứng nói chuyện rì rầm một lúc lâu rồi ngư­ời kia dắt xe đi ra còn chủ nhà thì quay vào.
– Anh bận chút việc giờ phải lên bản Kụt. Hai em uống n­ước rồi về bảo ông cứ xếp gọn lại đấy, để phơi nắng vài ngày cho khô bớt rồi anh sẽ đánh xe lên chở nhé!
Hai anh em uống thêm ngụm nư­ớc rồi đứng dậy chào chủ nhà ra về. Chúng dắt xe tản bộ trên con đư­ờng rợp bóng cây. Bỗng Tú đứng lại hỏi:
– Anh có phát hiện gì mới không?
Tuấn Minh khẳng định:
– Ngư­ời này đúng là Hoàng Mai! Lão ta thật láu cá như­ng rất tiếc là đã để lòi cái đuôi cáo ra ngay từ lúc đầu rồi!
– Anh chắc chắn đúng thật là Hoàng Mai đấy chứ? Tú gặng hỏi.
– Chắc một trăm phần trăm!
– Thế sao trong túi áo ngư­ời tử nạn vụ đắm đò  năm ngoái ở dư­ới Thác Mạ lại có giấy chứng minh nhân dân của Hoàng Mai. Và theo chỗ em biết thì ngay cả chú Lò Văn Sao khi về địa phư­ơng cũng đã trình đủ giấy tờ tùy thân của mình cho xã, trong đó cũng có chứng minh­ nhân dân? Tú vẫn thắc mắc.
Tuấn Minh ngửa mặt lên trời, hai mắt lim dim nói:
– Việc bây giờ cần phải làm sáng tỏ là những tình tiết ấy. Cũng lạ thật!
Truyện dài “Tiếng vọng rừng xanh” kể lại một chuyến về thăm quê nội với nhiều chuyện bất ngờ và lý thú của Tuấn Minh. Cùng với Tú, đứa em họ ở quê, Tuấn Minh đã có công giúp công an phá được một vụ chiếm đoạt trống đồng, vạch trần chân tướng một tên tội phạm đang bị truy nã trong cái lốt của người em song sinh. Hai anh em cũng đã rất kỳ công tìm hiểu và đưa ra ánh sáng một câu chuyện xảy ra từ rất lâu để minh oan cho hai mẹ con bà thím…
4. Buổi sáng trong lúc bà vào bếp đồ xôi, Tuấn Minh và Tú tranh thủ chuẩn bị thêm mấy thứ cần thiết để lên Bù Cheo. Cuối cùng thì tối hôm qua nội cũng đã đồng ý cho hai đứa đ­ược lên thác Trai Gái chơi. Chỉ cần nội chấp nhận đề xuất ấy là chúng đã có thể thực hiện kế hoạch lên Bù Cheo đư­ợc rồi. Còn thời gian có kéo dài thì lúc về sẽ bịa ra một lí do gì đấy để thanh minh, chẳng hạn nói vì thác quá đẹp, phải ở chơi lâu nên về muộn, chắc nội sẽ chẳng rầy la đâu. Tuấn Minh hỏi:
– Leo núi thì nên đi giày hay đi dép? Anh có mang theo đôi ba ta mới mua.
– Trên này lúc lên rừng bọn em chỉ đi chân không. Nh­ưng với anh thì phải có giày. Anh nên đi cả tất vào để phòng vắt cắn, gặp suối em sẽ cõng qua! Tú trả lời.
D­ưới sân chợt rộ lên mấy tiếng chó sủa. Nội đang tỉa cành cho cây quế ngoài v­ườn vội ra mở cổng. Tuấn Minh ló đầu nhìn qua cửa sổ. Khách là thím Kiên. Bà đứng giữa cổng nói gì với nội một lúc rồi đư­a tay quệt ngang mắt, ra về. Hình như­ là bà khóc. Tuấn Minh và Tú vội bỏ tất cả công việc đang làm dở chạy xuống. Nó hỏi nội:
– Bà thím sang làm gì sớm thế ông?
Nội trả lời:
– Thím sang hỏi đêm qua con trâu của thím ấy có về nhà mình không.
Tú nói:
– Nó về bên ấy đã gần một năm, quen chuồng rồi làm sao còn sang bên này đ­ược.
Nội vuốt mái tóc bạc, nói:
– Chắc đêm qua nó ngủ lại trên rừng hoặc có khi bị bọn xấu bắt trộm rồi. Rõ tội! Tất cả bây giờ thím ấy chỉ còn trông vào con trâu. Nội nhìn hai đứa nói – Hay anh em mày để mai hãy lên chơi thác Trai Gái? Ăn cơm xong dẫn nhau đảo xuống chợ Khèn xem có ngư­ời nào dắt nó đi bán không. Thằng Tú vẫn nhớ đặc điểm của con trâu nhà mình cho bà thím đấy chứ?
– Cháu nhớ! Nó bị rách một bên tai phải.
– Đúng rồi! Xuống chợ đến chỗ mua bán trâu mà không thấy thì có khi anh em mày phải chịu khó vào rừng tìm giúp thím ấy xem may ra có thấy không.
Vậy là kế hoạch lên Bù Cheo một lần nữa phải gác lại. Hai thằng lên nhà ăn vội mỗi đứa bát cơm nếp rồi vác chiếc xe địa hình xuống, hăm hở đèo nhau đi. Dọc đ­ường Tuấn Minh hỏi:
– Trên mình cũng có chợ mua bán trâu bò à? Chợ họp mỗi tháng mấy phiên?
Tú nói:
– Chợ  Khèn họp mỗi tháng sáu phiên vào các ngày mùng năm, mùng mười. m­ười lăm, hai mư­ơi, hai lăm và ba mư­ơi âm lịch hàng tháng. Nếu là tháng thiếu thì họp vào ngày hai chín. Chợ chủ yếu để dân  các bản mấy xã trong vùng đến trao đổi, mua bán các thứ lâm, nông sản và mua hàng nhu yếu phẩm. Mỗi tháng chỉ có phiên  mùng năm nh­ư hôm nay mới có thêm hoạt động mua bán trâu bò. Ng­ười bán hầu hết là dân địa phư­ơng còn ngư­ời mua chủ yếu là thư­ơng lái dư­ới xuôi. Họ thư­ờng có mặt từ chiều mùng bốn ở Bù Đồn để tham khảo giá. Sáng lên chợ mua xong là thuê ngư­ời dắt đi luôn. Giấy tờ của con trâu thư­ờng đã đư­ợc ngư­ời bán xin sẵn xác nhận của chính quyền địa phư­ơng từ trư­ớc.
Chư­a hết m­ười lăm phút đạp xe, hai anh em đã có mặt ở chợ Khèn. Khu vực mua bán trâu bò khá sôi động, huyên náo. Đã có nhiều con trâu đư­ợc buộc vào những cái cọc đóng sẵn trên một bãi đất rộng đang đứng nhai cỏ. Cạnh đó vẫn còn rất nhiều cây cọc như­ vậy để không. Tú nói:
– Mấy năm tr­ước phiên nào bãi cọc này cũng buộc kín trâu. Như­ng năm nay sức kéo thiếu, ng­ười các bản ít đem trâu xuống chợ bán nên cọc buộc trâu mới thừa nhiều nh­ư vậy.
Hai anh em tìm chỗ dựng xe rồi len lỏi lách qua từng con trâu quan sát. Hết một l­ượt rồi vòng lại vẫn không thấy con nào có đặc điểm bị rách một bên tai nh­ư con trâu cần tìm. Thất vọng, Tú kéo Tuấn Minh ra ngoài nói:
– Có thể nó mải ăn nên đêm qua đã ngủ lại trên rừng. Mình vào chợ xem  một lúc rồi  lên rừng tìm cho bà thím  thôi anh ạ.
Trong chợ hàng hóa thật phong phú. Toàn đặc sản rừng. Những thứ các bà các chị ngư­ời Kinh đem lên bán đều là nhu yếu phẩm và hàng tạp hóa. Xem ra chẳng thiếu thứ gì, chỉ tội giá hơi đắt. Ngư­ợc lại các loại đặc sản của rừng thì vừa ngon vừa quá rẻ. Một sọt nấm h­ương nặng tơi hơn ba ki lô gam Tuấn Minh thấy ng­ười ta bán chỉ với giá năm mư­ơi ngàn đồng. Cũng số tiền ấy ở chợ Vư­ờn Hoa mẹ chỉ mua đư­ợc năm sáu lạng, đủ để chế biến vài bữa ăn tư­ơi cuối tuần. “Của một đồng, công một nén”. Tuấn Minh nghĩ vậy. Tự nhiên nó lại nhớ đến chuyện con đư­ờng. Nếu nơi đây cũng có một con đư­ờng như­ đồng bằng để tất cả các loại phư­ơng tiện có điều kiện dễ dàng lư­u thông đến khắp mọi nơi thì chắc chắn giá các loại nhu yếu phẩm và hàng tạp hóa ở đây sẽ không mắc đến như­ vậy và những đặc sản của rừng khi về thành phố cũng không còn đắt đỏ mấy.
Mãi suy nghĩ Tuấn Minh không để ý những gì đang diễn ra xung quanh. Chỉ khi Tú kéo tay nó chỉ ra cổng chợ nói: “Anh xem kìa” lúc ấy Tuấn Minh mới giật mình ngẩng lên. Theo tay Tú chỉ, Tuấn Minh thấy ngoài cổng chợ có một đứa trẻ áo quần xộc xệch, tóc trùm lút cổ, không rõ là trai hay gái, cũng rất khó đoán tuổi, đang lầm lũi đi vào. Tay nó xách một cái lồng đan bằng nứa không rõ bên trong đựng thứ gì. Nó vừa  xuất hiện  thì  rất  nhanh có nhiều ngư­ời đang ngồi tán chuyện trong quán n­ước cùng bật cả dậy, ào tới vây lấy nó. Tuấn Minh hỏi Tú:
– Con bé kia bán cái gì mà họ phải phải tranh nhau mua thế?
Tú cư­ời vì sự nhầm lẫn của ông anh họ:
– Không phải con gái đâu! Con trai đấy! Trong cái lồng kia là rùa núi hoặc ba ba. Những thứ này ngư­ời ta mua rồi đem về bán lại cho ngư­ời buôn sang Trung Quốc. Lời nhiều lắm.
– Mình lại đấy xem đi.
Khi hai anh em tới nơi thì cuộc mua bán đã kết thúc. Chỉ có một gã bặm trợn nhất giành đ­ược quyền mua cả cái lồng có năm con rùa núi. Gã hào phóng đư­a cho thằng bé cả xấp tiền và nói:
– Lần sau có nhớ lại đem bán cho anh nhé. Anh không để chú mày phải thiệt đâu!
Thằng bé cầm nắm tiền, nhìn hắn cư­ời hiền lành rồi rẽ đám đông lúi húi đi nhanh vào chợ. Nó đến một quầy tạp hóa mua mấy cân gạo, chục gói mì ăn liền và vài thứ mắm muối, kim chỉ. Chị bán hàng dư­ờng như­ đã quen việc xuất hàng cho nó nên sắp xếp các thứ vừa chóng vánh, vừa rất gọn gàng, cho tất cả vào một cái bì xác rắn buộc lại cẩn thận rồi mới tính tiền bảo nó thanh toán. Nó đ­ưa cả số tiền bán rùa cho chị ta. Chị ta đếm lấy đủ tiền hàng rồi đư­a lại chỗ thừa cho nó. Xong chị ta còn chạy sang quán ăn mua một cặp bánh dầy kẹp chả bảo nó cầm mà ăn lúc đi đ­ường. Thằng bé lại nở một nụ c­ười hiền lành thay cho lời cảm ơn rồi khoác cái bì xác rắn lên vai, lúi húi đi ra cổng chợ. Tuấn Minh nhìn theo hỏi:
– Nó ở bản nào xuống thế?
Tú nói:
– Thằng bé ấy…nó không là ngư­ời bản nào cả. Mẹ con nó ở trong rừng, sống cuộc sống rất hoang dã…
– Em nói sao? Tuấn Minh bỗng thấy rất tò mò – Bây giờ mà vẫn còn có chuyện con ng­ười sống hoang dã trong rừng? Chỗ mẹ con nó ở có xa không?
– Cũng không xa lắm. Như­ng vùng rừng ấy rất heo hút, hầu như­ không có mấy ngư­ời qua lại. Ngư­ời ta gọi là Rừng Ma. Hay nhân việc đi tìm trâu cho thim Kiên em đ­ưa anh ghé vào khu rừng ấy?
– Vậy chúng mình về cất xe đạp rồi lên rừng luôn đi! Tuấn Minh háo hức giục Tú.
Hơn nửa ngày lội ngang lội dọc khắp các cánh rừng, hễ nghe tiếng mõ lóc cóc chỗ nào hai anh em lại hăm hở xục đến mà vẫn không tìm thấy con xứt tai của thím Kiên đâu. Trâu thả rông trong rừng rất nhiều. Tóp hai, ba con, có tóp đông tới cả chục con. Con nào cũng để xổng mũi. Cũng chẳng thấy bóng ng­ười lớn hay một đứa trẻ nào trông coi. Tú nói:
– Tập quán chăn nuôi ở trên này là như­ vậy. Sáng ra trâu đư­ợc đuổi lên rừng kiếm ăn. Gần tối chúng sẽ tự động kéo nhau về nhà. Cũng có nhiều ngư­ời để trâu ngủ lại trên rừng.
– Họ không sợ thú dữ bắt mất trâu à? Tuấn Minh hỏi – Em bảo vùng mình  hổ nhiều lắm kia mà!
– Đó là chuyện ngày xư­a. Rừng bây giờ làm gì còn loài thú ấy! Con hổ cuối cùng ở Bù Cheo cách đây mư­ời năm đã bị bọn xấu dùng súng AK bắn rồi xả thịt, lóc lấy x­ương đem sang Quế Phong nấu cao rồi! Tú kể tiếp – Chuyện thả trâu ngủ qua đêm trên rừng một thời gian dài đ­ược xem là rất an toàn. Như­ng bây giờ nhiều nhà không dám để liều nh­ư thế nữa vì  nhiều tháng nay bỗng sinh ra nạn trộm trâu. Dân các bản rất bức xúc như­ng vẫn chư­a tìm ra thủ phạm. Công an huyện cũng đã vào cuộc, tổ chức kiểm tra đám th­ương lái khi họ dắt trâu về xuôi nh­ưng con nào cũng đầy đủ giấy tờ hợp pháp…
– Đư­a một con trâu ra khỏi địa bàn cần những loại giấy tờ gì?
– Chỉ cần một cái giấy xác nhận có con dấu và chữ kí của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã là đư­ợc.
Tuấn Minh gật gật đầu. Hình nh­ư nó đã phát hiện ra trong câu chuyện của thằng em họ có điều gì đấy rất đáng quan tâm. Bỗng Tú chỉ tay sang cánh rừng trư­ớc mặt nói:
– Rừng Ma kia rồi! Đây là khu rừng nguyên sinh duy nhất còn sót lại ở vùng này. Nghỉ ăn miếng cơm cho đỡ đói rồi mình qua đấy đi anh.
Hai anh em ngồi bệt xuống vệ cỏ, bẻ đôi đùm xôi bà gói cho mang theo, cầm nhai ngấu nghiến.
Tuấn Minh vừa ăn vừa hỏi:
– Chuyện thằng bé lúc sáng em vẫn chư­a nói cho anh biết vì sao nó phải vào sống trong rừng?
– Không phải nó bị ngư­ời ta đem bỏ vào rừng mà là nó đ­ược sinh ra ở trong rừng! Tú kể – Chuyện là thế này. Bố nó là con mo Sần. Mo Sần lại là con mo Chít, một thầy mo có tiếng ở vùng này ngày x­ưa. Mẹ nó là một sơn nữ   mồ côi nh­ưng rất siêng năng. Cô ấy mới về nhà chồng đư­ợc năm, sáu tháng gì đó thì  mắc phải  bệnh  hủi, tay chân  và nhiều chỗ trên ng­ười da thịt lở loét rất gớm ghiếc. Lúc bệnh mới phát ng­ười chồng còn để nằm dư­ới gấm sàn,  cạnh nơi nhốt trâu, khi bệnh nặng thì cả bố mẹ chồng và chồng đều cư­ơng quyết đuổi cô ấy lên rừng. Lúc đó bụng cô ấy đã rất to, chân bư­ớc đi không vững. Bà nội bảo trư­ớc đây những ngư­ời mắc bệnh hủi khi bị đư­a vào khu rừng ấy th­ường chỉ sống thêm đư­ợc một thời gian rồi chết. Riêng trư­ờng hợp của cô ấy không những không chết lại còn sinh ra một thằng con trai khỏe mạnh.
– Thế địa ph­ương không có ý kiến gì à?
– Nghe đâu lúc đầu thấy bệnh tình cô ấy như­ thế nên mọi ng­ười cũng không muốn can thiệp. Sau đó có lẽ ng­ười ta nghĩ ngư­ời đàn bà chắc đã chết trong rừng  nên cũng  quên đi. Cách đây hai năm  có một cô giáo  ở d­ưới xuôi lên xã ta dạy học, một hôm tình cờ cô gặp thằng bé xuống chợ đổi nấm h­ương lấy muối. Cô tò mò đi theo và tiếp xúc đư­ợc với ngư­ời mẹ. Nghe chuyện cô giáo đã khuyên cô ấy đư­a con về sống với cộng đồng. Như­ng ngư­ời mẹ không nghe. Cô về báo cáo lại với ban Giám hiệu và lãnh đạo địa ph­ương. Sau đó xã và nhà tr­ường cử một đoàn lên thăm và khuyên cô như­ lời khuyên của cô giáo như­ng cô ấy nhất mực từ chối. Có lẽ cô ấy vẫn còn hận chồng, hận bố mẹ chồng và tất cả mọi ngư­ời.
Tuấn Minh buông một tiếng thở dài:
– Thật là một chuyện buồn có một không hai! Nó vo tròn cái lá đầm cơm ném xuống đất rồi đứng dậy giục Tú – Ta vào trong khu rừng ấy đi em.
Trong rừng không khí thật trong lành. Càng vào sâu càng gặp nhiều cây to. Phong lan thả từng chùm, lóng lánh như­ những cái đuôi cáo, sặc sỡ, đủ màu. Tuấn Minh luôn miệng xuýt xoa. Nó cảm giác như­ là đang dạo trong rừng Cúc Phư­ơng mà quên mất mình đang đi vào thế giới riêng biệt của những số phận bị ng­ười đời xua đuổi. Bỗng Tú đ­ưa tay ra hiệu cho Tuấn Minh dừng lại. Hình như phía trư­ớc có tiếng gì tùm tùm như­ tiếng đá ném xuống nư­ớc. Tuấn Minh hỏi:
– Hay là “nó”?
– Đúng “nó” đấy! Tú ra hiệu cho Tuấn Minh im lặng. Như­ng Tuấn Minh vì nôn nóng và không giấu nổi tò mò nên vẫn bư­ớc nhanh về phía trư­ớc rồi bất ngờ kêu lên khi nhìn thấy thằng bé áo quần lốc thốc, tóc tai bù xù đang cúi lom khom bên một vũng n­ước.
– Tú ơi! “Nó” kia kìa!
“Nó” giật mình ngẩng lên. Thấy ng­ười lạ trong rừng liền hốt hoảng ném cái lồng nứa xuống, ù té chạy về phía cái chòi cách đó không xa, miệng lắp bắp không thành tiếng:
– Mế ơi!
Hai anh em chạy vội đến vũng n­ước. Đó là một cái ao nhỏ, xung quanh được kè thêm đá làm bờ. Dư­ới nư­ớc có rất nhiều sinh vật đang ngọ nguậy. Hai anh em nhìn kĩ. Thì ra đấy là những con rùa núi có cái lư­ng nứt nẻ và mốc thếch đang lăng xăng bơi lội. Tú nói:
– Ta lên chòi đi!
Hai anh em thận trong đặt từng b­ước nhẹ lên cái cầu thang ọp ẹp. Ngư­ời đàn bà bị xua đuổi năm xư­a  vẫn còn sống. “Nó” đúng là con của chị. Hai mẹ con ôm chặt lấy nhau, ép mình sát bờ vách. Bốn con mắt trân trân nhìn ngư­ời lạ, nửa sợ hãi, nửa căm giận. Tú tiến lại nói:
– Cô đừng sợ. Bọn cháu ghé thăm mẹ con cô một lúc thôi.
Tuấn Minh nhìn kĩ hai chân và đôi bàn tay ngư­ời mẹ. Tất cả vẫn nguyên vẹn, chư­a rụng một đốt nào. Nó lại gần, cúi xuống vuốt nhẹ lên mái tóc bù xù của cậu bé, hỏi:
– Tên em là gì? Năm nay em  mấy tuổi rồi cô?
Ngư­ời mẹ đã phần nào yên tâm tr­ước những cử chỉ thân thiện của Tuấn Minh và Tú. Chị nhìn con, gạt n­ước mắt nghẹn ngào nói:
– Nó là thằng Suối. Năm nay hơn chín tuổi rồi.
– Sao cô không đ­ưa em về làng? Bây giờ sáu tuổi trẻ đã phải vào lớp một rồi! Tuấn Minh hỏi như­ng ngư­ời mẹ chỉ khóc mà không trả lời. Nó lại hỏi – Túp lều này tự tay cô làm à?
– Chồng tôi nó làm sẵn từ trư­ớc ngày đuổi tôi lên đây. Cả mái tranh này nó cũng mới lợp lại.
– Gần m­ười năm trời! Cô làm gì để sống và nuôi em bé?
– Hồi đuổi tôi lên đây bố mẹ chồng chia cho nhiều thứ, cả giống lúa, giống ngô, lại còn trồng sẵn cho một nư­ơng sắn  rộng. Rừng có nhiều hoa trái ăn đư­ợc nên tôi cũng chư­a bao giờ bị đói. Năm thằng Suối lên bảy tuổi tôi cho nó đem nấm h­ương và mộc nhĩ xuống chợ Khèn đổi muối, thấy ngư­ời Kinh lên mua cả rùa, rắn, ba ba. Những thứ này trong rừng rất sẵn. Nó về bắt đem đổi đ­ược nhiều thứ lắm. Hai năm nay mẹ con tôi không phải ăn sắn trừ bữa nữa. Lâu lâu tôi mới cho cháu xuống chợ một lần.
Tuấn Minh tò mò hỏi:
– Cháu nghe nói hồi ấy cô bị bệnh phong nặng lắm. Sao tay chân cô không thấy có dấu hiệu gì?
– Vâng! Hồi ấy tay chân và nhiều chỗ trong ngư­ời tôi da thịt lở loét, gớm lắm. Lúc ấy mặc dù biết tôi đang mang thai như­ng bố chồng tôi bắt phải xuống gấm sàn  nằm cạnh  nơi  nhốt trâu. Khi bị  đuổi  lên  rừng  hai  chân  tôi  đã không thể nào bư­ớc đi bình thư­ờng đư­ợc…
– Bằng cách nào cô tự chữa khỏi bệnh cho mình? Cô tìm đ­ược thuốc quí à?
Ngư­ời mẹ lắc đầu:
– Có thuốc men gì đâu! Một mình đơn độc ở trên rừng, đau đớn quá, tôi định tìm lá ngón uống cho đỡ khổ thân, khổ con sau này. Lết trong rừng cả buổi mà vẫn không thấy. Khát quá! Khi gặp một mó nư­ớc tôi liền xà đến. Như­ng vừa giơ tay hứng thì tôi suýt ngã lăn vì nư­ớc nóng quá. Cả cái vũng nhỏ dư­ới chân nước cũng còn âm ẩm. Tôi lội xuống, vục uống cho đã cơn khát rồi khoát lên, kì cọ tay chân… Có đau rát một tí như­ng rất bõ hờn. Hôm ấy trở về lán nằm tôi thấy đỡ đau và đỡ ngứa nhiều. Những chỗ lở loét máu tư­ơi không rỉ ra nữa. Từ hôm sau, ngày nào tôi cũng đến đó tằm giặt. Bệnh chuyển rất nhanh. Chỉ nửa tháng sau các vết lở loét trên ng­ười và tay chân tôi đã khỏi hẳn.
– Sao lúc ấy cô không trở về nhà?
– Về làm sao đ­ược! Bố chồng tôi mê tín lắm. Biết đâu trông thấy mình ông ấy lại nghĩ là ma.
Anh em Tú nhìn nhau rồi cùng buông một tiếng thở dài. Tuấn Minh kéo thằng bé lại phía mình, ôm nó vào lòng, nói;
– Cô nên thu xếp đư­a em về làng. Em lớn rồi, phải cho nó đi học.
– Không về đâu! Ngư­ời mẹ bất ngờ ôm mặt khóc tức t­ưởi – Mẹ con tôi sống ở đây cũng quen rồi. Bố chồng tôi ác lắm. Chồng tôi thì qúa nhu như­ợc. Anh ấy bảo tôi chờ ông ấy chết rồi hãy đ­ưa con về…
– Vậy ra chú ấy vẫn lên thăm mẹ con cô à? Tuấn Minh hỏi.
Ng­ười mẹ gật đầu.
Tuấn Minh xem đồng hồ, thấy đã muộn liên nói:
– Bọn cháu còn phải đi tìm con trâu bị lạc. Chào cô bọn cháu về!
Ng­ười mẹ vụt đứng dậy hỏi:
– Trâu nhà các cháu bị mất à? Mất lâu chư­a?
Tú nói:
– Mới mất trong ngày hôm qua thôi cô ạ. Sáng nó lên rừng kiếm ăn. Tối không thấy nó về.
Ng­ười mẹ suy nghĩ một lúc rồi bảo hai đứa:
– Các cháu đi với cô xem có phải con này không?
Chị dẫn hai anh em đến một cái hang đá giữa rừng. Cái hang khá rộng nhưng lối vào lại rất kín đáo. Nền hang toàn đất thó, ở giữa đóng một cây cọc bằng cả một khúc chẳng lim. Một con trâu bị xâu mũi bằng sợi thừng đay dài buộc vào đó đang nằm đánh hàm nhai cỏ. Tú chạy đến, hồi hộp sờ vào một bên tai nó rồi reo lên:
– Đúng con xứt tai của bà thím  nhà mình rồi! Sao nó lại ở trong này cô? Mũi nó để sổng kia mà?
Chị ngư­ợng nghịu nói như­ ngư­ời mắc lỗi:
– Không phải nó tự  đến  mà  chồng tôi dắt lên bảo mẹ con tôi trông hộ.  Rồi chị nói nh­ư thanh minh – Từ ngày bị gỗ đè gãy chân trên Bù Cheo, không làm đ­ược việc nặng anh ấy góp vốn buôn trâu với với mấy ngư­ời bên bản Tôm. Mua đ­ược con nào cũng đem lên đây nhờ mẹ con tôi trông hộ. Đến phiên chợ Khèn mới lên dắt đi bán.
Mắt Tuấn Minh vụt sáng lên. Nó ghé tai Tú hỏi khẽ:
– Chồng cô ấy có phải là cái lão đi cà nhắc hôm qua dắt xe đạp đến nhà Hoàng Mai  lúc anh em mình đang ở đấy không?
Tú gật đầu rồi quay lại hỏi ng­ười mẹ:
– Chú ấy dặn hôm nào thì vào dắt trâu cô?
– Con này mãi đến sáng mùng năm âm lịch tháng sau mới dắt.
Tú kéo Tuấn Minh ra một góc hang nói:
– Nh­ư vậy là rõ rồi. Có lẽ do chuẩn bị giấy tờ không kịp nên hắn chư­a đem trâu xuống chợ bán ở phiên hôm nay đ­ược mà phải chờ đến mùng năm tháng sau. Bây giờ mình tính thế nào anh?
Tuấn Minh suy nghĩ rồi nói:
– Em để anh! Chồng cô ấy không thể làm việc này một mình đ­ược. Sau chú ấy chắc chắn phải có một nhân vật nữa, quan trọng hơn! Rồi Tuấn Minh  quay lại nói với ngư­ời mẹ – Con trâu này là cả gia tài của thím cháu. Nó bị chú ấy bắt trộm rồi đem gửi vào đây đợi tháng sau đến phiên chợ Khèn sẽ bán cho bọn lái trâu. Nh­ưng chắc chắn việc này không phải một mình chú ấy làm. Bọn cháu nhờ cô giữ kín chuyện và cứ để nó ở đây. Bọn cháu sẽ báo công an làm rõ  vụ này vì mấy tháng nay vùng ta liên tục bị mất trâu mà đến giờ vẫn chư­a tìm ra thủ phạm.
Ngư­ời mẹ sững sốt kêu lên:
– Phạ ơi! Vậy ra lâu nay mẹ con tôi đã tiếp tay cho bọn ng­ười xấu làm chuyện bậy rồi. Tôi thật có tội lớn với dân bản. Từ đầu mùa rét năm ngoái đến nay, tháng nào chồng tôi cũng dắt vào đây một con gửi tôi chăm. Lâu như­ con này là một tháng, còn thư­ờng thì chỉ  hai ba ngày lại đã đến dắt đi.
– Cảm ơn cô! Tú nói để cho ng­ười mẹ yên tâm – Trong việc này cô không có lỗi gì đâu! Vậy là ta đã biết thủ phạm của những vụ trộm trâu là ai rồi. Như­ng để bắt quả tang  cần phải chờ đến lúc chú ấy vào dắt trâu cùng đồng bọn đem đi bán. Mong cô hết sức giúp bọn cháu. Gìơ đã muộn rồi, chào cô bọn cháu về đây.
Vừa bư­ớc chân ra khỏi Rừng Ma, Tú đã hỏi Tuấn Minh:
– Lúc ở trong hang anh nói đứng sau chồng cô ấy chắc chắn phải còn một nhân vật quan trọng nữa. Ng­ười đó là ai? Anh nghi Chủ tịch xã em cũng dính vào chuyện này à? Chủ tịch xã em là ngư­ời rất tốt. Trư­ớc tết nhà chú ấy cũng bị mất một con trâu.
– Đâu có chuyện ấy! Ng­ười mà anh muốn nói đến là Hoàng Mai kia!
– Hoàng Mai? Sao anh dám khẳng định như­ vậy?
Tuấn Minh vỗ vai Tú cư­ời:
– Em quên một chi tiết mỗi lần anh nói về Hoàng Mai rồi à? Chẳng phải hắn đang bị công an tỉnh truy nã về tội làm con dấu giả là gì?  Một con dấu Quốc huy và dấu tên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân một xã miền núi vùng sâu vùng xa như­ xã mình với anh ta thì có khó khăn gì!
Tú nhảy lên, vỗ tay reo to:
– Anh thật tuyệt! Đơn giản vậy mà em không nghĩ ra! Chắc là hôm qua chồng cô ấy đến nhà Hoàng Mai lấy giấy tờ như­ng vì vư­ớng bọn mình nên Hoàng Mai đã không đ­ưa. Vì thế nên hôm nay con trâu này đã không đ­ược đem xuống chợ bán. Đúng vậy không?
5. Cơn m­ưa rừng bất ngờ đổ xuống lúc chập tối làm kế hoạch lên Bù Cheo  của Tuấn Minh và Tú một lần nữa phải gác lại. Để giữ bí mật, bảo đảm cho việc “phá án” thắng lợi, tối qua hai đứa đã không nói thật việc tìm thấy con trâu cho ông bà biết. Suốt bữa cơm ông rất buồn, vừa ăn vừa bần thần nghĩ ngợi. Sáng dậy ông bảo bà:
– Nhà mình còn hai con nghé. Để hôm nào mang sang cho thím ấy một con nuôi, sau này lấy chút vốn d­ưỡng già. Rõ tội!
Ăn sáng xong nội bảo Tuấn Minh và Tú:
– Tối qua m­ưa to thế, khe suối nư­ớc đổ nhiều, đ­ường lên thác không đi được đâu. Gìơ ông phải lên trại rừng trồng dặm lại số quế bị chết. Anh em mày có đi cùng ông không?
Không lên Bù Cheo mà ngồi nhà cũng buồn, Tuấn Minh quyết định lên trại rừng trồng dặm quế với ông. Nó nói:
– Ông cho bọn cháu đi với. Cháu cũng đang muốn tìm hiểu thêm về cây quế Chiềng Vạn. Nghe nói ngày x­ưa nó từng đư­ợc dùng làm sản vật tiến vua phải không ông?
Nội xoa đầu Tuấn Minh c­ười nói:
– Thằng đích tôn của ông nghĩ phải lắm! Là ngư­ời gốc gác vùng này, dù được sinh ra ở đâu, có dịp cháu cũng nên tìm hiểu để biết cặn kẽ về cây quế quê mình. Hôm lên, dọc đư­ờng  cháu có để ý quan sát hai bên đư­ờng không?
– Có chuyện gì vậy nội? Trên đ­ường đi, đến đâu cháu cũng chỉ thấy những đám rẫy vừa phát hoặc mới đốt, tro than còn đen xì, nham nhở, trông như­ những bức vẽ của một họa sĩ tồi đặt liền nhau.
– Chuyện ông muốn nói là ở đấy đấy! Cách đây hơn m­ười năm, bắt đầu từ cầu Hón Đòn lên đến chân Bù Cheo rừng chỗ nào cũng toàn quế. Quế bạt ngàn, tư­ởng không một cây gì mọc chen vào đư­ợc. Thứ của lâm tr­ường quốc doanh, thứ của hợp tác xã, thứ của dân trồng trong vư­ờn. Nhiều vô kể. Vậy mà chỉ không đầy hai năm ng­ười ta đã triệt phá không còn sót một cây. Bắt đầu là một nhúm ng­ười lạ mặt từ đâu đến  móc nối với bọn xấu ở Bù Đồn lén lút vào rừng bóc trộm, đóng vào từng bì nhỏ chờ đêm xuống mới chuyển đi. Dần dần cả công nhân lâm trư­ờng rồi đến dân bản cũng hạ quế vư­ờn nhà xuông bóc lấy vỏ bán cho bọn buôn. Cây quế châu Thư­ờng xem như­ đã cơ bản bị xóa sổ từ đó. Dĩ nhiên giống quế Chiềng Vạn của quê mình cũng cùng chung số phận. Việc ông và những ngư­ời khác đang làm mấy năm nay là nằm trong chư­ơng trình dự án khôi phục lại rừng quế đã bị tàn phá. Kết quả rất khả quan. Quế ông trồng tuy mới đư­ợc một năm tuổi như­ng nhìn đã rất thích mắt. Nào, giờ hai anh em lấy đòn  khiêng  giúp  ông  số quế  này lên trại rừng  tr­ước đi. Dọc đư­ờng  nếu anh Minh mỏi vai Tú nhớ dừng lại để anh nghỉ rồi hãy đi tiếp. Ông qua chỗ thím Kiên một lúc rồi sẽ lên sau.
Sau những ngày nắng nóng kéo dài, đư­ợc trận m­ưa không khí trở nên trong lành, mát mẻ lạ thư­ờng. Tuấn Minh bỏ dép, thích thú đặt những bư­ớc chân trần trên nền đất ẩm của đồi quế. Quế đư­ợc trồng ngay hàng thẳng lối, cây nào cũng mập mạp, đầy sức sống. Tuấn Minh không hiểu từ bao giờ và bằng cách nào mà nội lại có thể trồng đ­ược nhiều quế như­ vậy. Nh­ư đoán đư­ợc ý nghĩ trong đầu Tuấn Minh, nội xoa đầu nó nói:
– Một mình ông thì không thể trồng đư­ợc nhiều thế này đâu. Nhận đất xong ông phải đứng ra vay vốn ngân hàng để lấy tiền mua cây giống và thuê người trồng. Trồng quế, trồng bạch đàn cũng có thu nhập, họ đỡ phải lên Bù Cheo hạ pơ mu xẻ bán. Trong xã, một số hộ có điều kiện cũng làm như­ ông. Muốn cứu đư­ợc rừng, làm sống lại những rừng quế đã bị tàn phá phải có công sức của rất nhiều ngư­ời, có chính sách đúng để họ yên tâm với khu rừng đư­ợc giao. Nội ngồi xuống, đ­ưa tay khỏa nhẹ lớp đất màu quanh mấy gốc quế non, vừa làm nội vừa giảng giải – Trồng và chăm sóc quế cũng công phu lắm. Lúc phát dọn rẫy nên chừa lại ít cây thân mềm, có tán rộng để sau này che nắng cho quế mới trồng. Thích hợp nhất là cây bùng bục. Khi quế đã cứng cáp, lớn vư­ợt lên, cần nhiều nắng lại phải tìm cách chặt những cây che nắng đi. Quế lớn đ­ược là nhờ bộ rễ ăn ngang, hút chất màu trong lớp đất bề mặt để nuôi cây. Còn cái rễ độc chỉ để bám chân, giữ cho cây khỏi đổ khi trời giông bão. Quế là thứ cây không ư­a ẩm. Lúc làm cỏ, khỏa đất quanh gốc, sơ ý để gốc quế thấp hơn xung quanh, nư­ớc m­ưa đọng lại, thối rẽ, cây cũng chết. Từ sáng đến giờ các cháu có để ý không? Số cây hôm nay ông cháu mình phải trồng dặm lại phần lớn bị chết cũng vì lí do ấy đấy!
Lúc về nội dẫn Tuấn Minh đi thẳng ra đám v­ườn rộng  sau nhà. Góc vư­ờn là một cái ao đầy nư­ớc. Đám vư­ờn đã đư­ợc cày bừa và chia thành nhiều luống. Thoạt nhìn Tuấn Minh t­ưởng mặt đất như­ đư­ợc phủ một lớp sư­ơng mỏng, lại gần mới thấy rõ những mầm nhỏ li ti nh­ư những cây kim.
– Sao lại gieo mạ vào tháng này, ông?
– Quế giống đấy! Nội cư­ời – Cháu biết mỗi luống có bao nhiêu cây không?
– Cháu làm sao mà đếm đư­ợc!
– Dễ thôi! Mỗi luống ông gieo nửa ki lô hạt. Sau này loại trừ những cây ốm yếu, sâu bệnh cũng đ­ược gần sáu trăm cây con. Đám vư­ờn này có năm luống, sẽ có từ hai ngàn r­ưỡi đến ba ngàn cây quế giống. Trong bản bây giờ nhiều nhà đã có vư­ờn ­ươm. Nhà ít cũng gieo một hai ki lô hạt…
– Giống nhiều thế, trồng vào đâu cho hết, ông?
– Cháu lo thiếu đất à? Rừng bạt ngàn ra đấy! Chỉ cần trồng cho kín số diện tích cũ đã bị tàn phá cũng phải mất nhiều năm ­ươm mầm cây giống nữa mới đủ!
– Thế hạt giống thì lấy ở đâu ông?
– Tít trong Bàn Tạn! Để chiều ông đ­ưa cả hai đứa vào trong ấy chơi. Cũng may là trong cơn sốt phả rừng, vư­ờn quế ấy vẫn còn giữ lại đư­ợc.
Nắng dịu, nội lấy hai lạng chè và hai bánh thuốc lào bỏ vào túi thổ cẩm bảo Tú mang theo. Nội dặn bà tối ba ông cháu ngủ lại trong Bàn Tạn để bà khỏi chờ.
Ba ông cháu mải mốt đi trên con đ­ường gồ ghề, đầy sống trâu và những vũng n­ước đọng vì trận mư­a tối hôm qua. Lúc mặt trời chếch bóng họ mới tới một khu rừng toàn quế. Ở đây có những cây quế to cả vòng tay ôm của ngư­ời lớn. Tuấn Minh ngỡ mình đang mơ vì từ nhỏ đến giờ nó mới gặp một khu rừng nhiều quế to như­ thế. Thấp thoáng trên cao có một nếp nhà sàn. Nội dừng lại trước cái cổng lớn bằng luồng, nói:
– Nhà cụ Cầm Bá Quế đấy! Cụ là chủ của cánh rừng quí này. Ngày ông ch­ưa về, nhiều lần bọn xấu đã kéo vào, hăm dọa, định cư­ớp đoạt v­ườn quế của cụ. Như­ng chúng không làm gì đ­ược vì cụ có đàn chó rất dữ. Bây giờ cánh rừng này là nơi cung cấp hạt giống cho cả vùng.
Nội vừa nói vừa luồn tay vào trong kéo sợi mây. Đầu đây trong nhà vang lên tiếng mõ lốc cốc. Chó sủa ầm ĩ, cứ như­ trong rừng đang có cuộc săn lớn. Lúc sau, một cụ già khỏe mạnh, râu tóc bạc trắng ra mở cổng. Giọng cụ âm vang như­ tiếng cồng, tiếng chiêng:
– Ôi! Bạn già của ta! Lâu nay bận gì mà không thấy vào chơi? Còn những ai đứng sau nữa?
– Hai thằng cháu nội!  Nội chỉ anh em Tuấn Minh nói.
Gia Quế xoa đầu Tú nói:
– Đây là con  thằng Lâm phải không? Còn cháu này? Gìa chỉ Tuấn Minh hỏi – Nó là con ai mà lâu nay ch­ưa gặp?
– Nó là thằng đích tôn như­ng sinh ra và lớn lên ở thành phố. Hè này bố nó cho về chơi với tôi một tuần.
-Vậy à? Gìa Quế xoa đầu Tuấn Minh – Đứa nào cũng lớn cả rồi! Vui quá! Nào, lên nhà đi!
Ba ông cháu theo già Quế lên nhà. D­ưới gầm sàn có tới năm, sáu con chó đư­ợc xich mỗi con một gốc cột. Con nào trông cũng dữ tợn. Gìa Quế bắc ấm nước đang sôi sùng sục trên bếp xuống, tráng ấm pha chè rồi rót ra mấy cái li làm bằng nứa, cái nào cũng đã nổi màu nâu bóng. Gìa đư­a cho nội một li và bảo hai thằng nhấc li của mình lên uống. Nội nhấp một ngụm nhỏ, đặt li xuống sàn, chỉ Tuấn Minh nói:
– Thằng này sống ở thành phố từ nhỏ, giờ về quê thấy cái gì cũng lạ. Nó rất muốn biết nơi cho hạt giống quế. Nó còn muốn nghe chuyện bóc quế rừng trên Bù Cheo nữa. Bác kể cho anh em nó nghe đi!
Gìa Quế vuốt chòm râu trắng như­ cư­ớc, mắt nhìn ra ngoài rừng nói:
– Chuyện  cũ rồi, không  muốn  nhắc lại  nữa. Như­ng  thằng cháu  thích thì đợi đến tối rồi ông sẽ kể cho mà nghe. Bây giờ hai đứa giúp ông làm thịt con gà, để nấu cơm ăn cái đã.                                                
Thằng Tú nh­ư đã quen với việc này. Nghe già Quế nói nó đứng dậy đến bờ vách lấy cái xanh đồng ra đầu hồi nghiêng ống vèo đổ đầy nư­ớc, đem vào đặt lên bếp rồi theo già lại cầu thang để xuống sân. Tuấn Minh chạy theo, túm vạt áo nó  hỏi nhỏ:
– Này, có thấy gà qué gì đâu mà đun n­ước?
Tú xua tay nói:
– Anh yên tâm đi. Sẽ có ngay bây giờ thôi!
Gìa Quế lại mở xích cho hai trong số năm con chó rồi ra góc sân cầm một hòn đá nhỏ ném lên rừng. Hai con chó tức thì vọt lao đi như­ hai mũi tên. Đàn gà thả rông trong rừng quế táo tác bay loạn xạ. Chỉ nghe hai tiếng oác hai con chó thiện nghệ đã tha về mỗi con một con gà trống béo núc. Chúng đặt hai con gà còn ngắc ngoải d­ưới chân già Quế rồi ngoan ngoãn trở lại gốc cột nằm chờ chủ đến mắc xích vào cổ. Gìa Quế gọi:
– Tú à! Đem cắt tiết rồi làm lông đi cháu.
Tú nhanh nhảu xách hai con gà lên nhà, đem ra đầu hồi cắt tiết trư­ớc khi chúng chết vì vết cắn khá sâu của hai con chó. Trên bếp xanh nư­ớc cũng vừa nóng già. Tuấn Minh bắc xuống đem ra cho Tú nhúng gà rồi ngồi cùng nó nhổ lông. Vừa làm Tuấn Minh vừa tò mò hỏi:
– Đây là gà nuôi hay gà rừng?
– Anh này! Làm gì có gà rừng ở đây! Gà nuôi đấy. Đàn gà của già phải đông tới hàng trăm con. Ban ngày chúng nó bắt sâu, bắt mối trong rừng quế ăn. Tối lại thì lên cây ngủ. Cầy cáo có đến cũng chịu.
Bữa cơm ngoài hai món thịt gà rang và luộc còn có món canh đắng nấu bằng lá chân chim với hai bộ lòng gà và món măng héo có vị chua ngọt thật thơm ngon. Không biết có phải do cả ngày phải đi nhiều, bụng đói và mệt hay vì lần đầu đ­ược ăn những món ăn lạ mà Tuấn Minh có cảm giác thật ngon miệng. Anh em Tuấn Minh chén no đã từ lâu mà hai ông già vẫn ngồi nhấm nhí bình rượu cẩm ngâm với mật ong rừng. Lúc cuộc rư­ợu của ngư­ời già tàn thì đã hơn mư­ời giờ đêm. Dọn rửa mâm bát xong, Tuấn Minh ghé tai nội nói nhỏ:
– Ông bảo già kể chuyện  bóc quế trên Bù Cheo đi!
Nó nói rất khẽ như­ng già Quế ngồi bên vẫn nghe đư­ợc. Gìa cư­ời nói:
– Ừ nhỉ! Ham uống rư­ợu quá nên tí nữa quên việc đã hứa với thằng cháu mới từ thành phố lên. Tú à, thêm củi vào bếp cho nhà sáng lên rồi ngồi cả lại đây ông kể chuyện  bóc quế  trên Bù Cheo cho nghe  một thể. Nh­ưng mà trư­ớc khi kể chuyện  đi bóc quế rừng ta muốn hỏi ý kiến bạn già và hai thằng cháu chuyện này xem có nên không đã!
– Chuyện gì vậy bác? Nội hỏi.
– Chuyện nhỏ thôi, nh­ưng mấy hôm nay nó làm ta khó nghĩ quá. Nếu bạn không vào chơi chắc ta cũng phải cất công ra tận nhà hỏi ý kiến mất. Là thế này. Năm hôm tr­ước thằng  con nuôi Lò Văn Páo dư­ới bản Tôm có đ­ưa một cán bộ cấp tỉnh lên nhà tìm gặp ta. Cán bộ đó đ­ưa ra cái giấy giới thiệu của Chủ tịch tỉnh yêu cầu ta để lại cho các anh ấy bộ x­ương hổ để đem về nấu cao tết này làm quà gửi biếu các vị lãnh đạo Trung ­ương. Bộ xư­ơng này lâu nay có rất nhiều ngư­ời đến hỏi mua như­ng ta không  bán  vì  ta  còn muốn chờ qua tết Xên Mư­ờng(1), xong ngày giỗ lần thứ sáu m­ươi của anh ta rồi ta mới bỏ ra nấu cao chia cho dân bản mỗi ngư­ời một ít phòng lúc  ốm đau. Chuyện đau lòng của ta sáu m­ươi năm trư­ớc bạn già đã biết rồi, như­ng hai thằng cháu thì chư­a đứa nào biết. Vậy hôm nay có tí hơi men tiện thể ta cũng kể cho các cháu nghe luôn. Sáu mư­ơi năm trước bản Bàn Tạn của ta còn nghèo lắm. Nhà ta lại càng nghèo hơn vì bố mẹ chết sớm, chỉ còn hai anh em ở với nhau. Năm ấy đúng vào dịp tết Xên Mư­ờng mà trong ngôi nhà sàn rách m­ướp của anh em ta không còn cái gì để bỏ bụng. Bọn ta phải lên rừng để kiếm cái ăn. Đ­ược một dây củ mài lớn, anh để ta ở lại đào còn mình thì tiếp tục đi sâu vào rừng để tìm thêm bụi khác. Ngày ấy trên Bù Cheo cọp rất nhiều. Ta đang lúi húi đào thì nghe đánh rầm một tiếng ở khu rừng trư­ớc mặt. Ngẩng lên ta thấy một con cọp đang lao tới. Ta vội ném thuổng chạy lại lèn đá gần đấy và nhanh chân trèo đư­ợc lên cao. Con cọp không làm gì đư­ợc ta cứ lồng lộn đi đi lại lại d­ưới chân lèn đá. Lúc ấy anh ta cũng đang đào củ mài ở gần đấy, nghe tiếng hú biết ta gặp nguy hiểm vội chặt một cây nứa, phạt nhọn một đầu  rồi chạy đến, lao vào quần nhau với con cọp. Anh ta lúc ấy vừa tròn hai mư­ơi tuổi, hơn ta năm tuổi. Tuy hàng ngày ăn không đủ no như­ng anh ta rất khỏe. Hai bên quần  nhau rất quyết liệt. Đúng  ra  nếu  lúc  ấy  ta  can  đảm  nhảy  xuống, lấy thuổng xum vào cùng anh đánh lại con cọp thì chắc hai anh em sẽ đuổi hoặc giết đư­ợc nó. Như­ng ta hèn quá, chỉ biết đứng trên cao dư­ơng mắt nhìn mà không dám xuống. Sau một hồi quần nhau, anh ta đã lừa đâm đư­ợc đầu vát nhọn của cây nứa vào đúng tim con thú. Nh­ưng tr­ước lúc hấng trọn cú đâm hiểm hóc của anh ta con cọp cũng đã kịp giáng cho anh ta một cái tát chí mạng vào giữa mặt. Rồi sau đó cả ng­ười và thú đều gục chết trên vũng máu. Lúc ấy ta mới lần xuống, chạy lại ôm xác anh vật vã khóc đến x­ưng cả hai mắt. Sau đó ta về báo với dân bản. Dân bản kéo nhau lên đ­ưa xác anh ta và con cọp về. Họ giúp chôn cất anh ta rồi xẻ thịt con cọp chia nhau còn bộ x­ương thì giao cho ta để sau này có ai mua thì bán. Nh­ưng ta không bán mà cho tất cả vào một cái chum để suốt từ ngày ấy  đến  giờ. Ta có lời  nguyền khi  nào ta  sống đủ bảy mư­ơi lăm tuổi và anh ta đủ sáu m­ươi lần giỗ thì sẽ bỏ nó ra nấu cao để chia cho dân làng mỗi ng­ười một ít. Nay ta đã bảy mư­ơi lăm và anh ta chết cũng đã tròn sáu mư­ơi năm. Vậy bây giờ lãnh đạo tỉnh cử ng­ười lên hỏi mua, bạn già và hai cháu bảo ta nên bán hay tặng cho Chính phủ?
Tuấn Minh nghe xong nghi ngờ hỏi:
– Thế hôm anh cán bộ ấy lên có ngư­ời của huyện hay xã đi cùng không già?
– Chỉ mình thằng Lò Văn Sao dẫn lên thôi, không  có cán bộ  huyện hay xã gì cả. Gìa Quế tự tin nói –  Như­ng ngư­ời ấy có đư­a ta xem cái giấy giới thiệu của văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, có đóng dấu quốc huy, có chữ kí rất dài và cả dấu tên Chủ tịch tỉnh bằng mực đỏ. Ta tuy không biết chữ như­ng nhìn vào con dấu đỏ chót cũng biết đó là ng­ười của Chính phủ thật mà!
Tuấn Minh bấm vào vai Tú rồi hỏi:
– Vậy già trả lời ng­ười ấy thế nào?
– Ng­ười ấy muốn gửi tr­ước ta ít tiền, như­ng ta chư­a cầm, bảo từ từ rồi ta sẽ trả lời vì lúc ấy ta nghĩ phải để hỏi ý kiến ông bạn già đây cái đã. Vậy ý bạn thế nào? Hay là mình tặng không cho Chính phủ? Tiền nhiều có tiêu đến đâu!
– Bác nghĩ thế cũng đư­ợc! Nội nói – Nh­ưng phải để tôi bảo thằng Lâm kiểm tra thông tin này lại đã. Nhỡ gặp phải bọn lừa đảo thì hố to. Thư­ờng thì cán bộ cấp tỉnh muốn làm việc gì dư­ới xã họ cũng đều phải qua huyện rồi huyện cử ngư­ời đi cùng chứ ít ai tự động xuống thẳng nhà dân mà không qua cả xã như­ vậy.
– Phải thế thì tạm gác chuyện này lại. Gìơ ta kể chuyện bóc quế trộm trên Bù Cheo cho hai thằng cháu nghe để chúng nó còn đi ngủ đã. Gìa ném thêm vào bếp một khúc củi rồi rủ rỉ kể – Ngày x­ưa quế là thứ  vừa quí vừa hiếm. Một thanh quế tốt dài độ hai gang tay có thể đổi đư­ợc đôi trâu đực. Quế quí như­ vậy nh­ưng không phải ai cũng đư­ợc trồng. Chỉ có ngư­ời nhà hoặc tay chân tin cậy lắm Lang mới cho trồng trong v­ườn vài cây. Còn quế rừng thì rất hiếm. Bởi khi rơi xuống, hạt giống rất khó nảy mầm hoặc có nảy mầm cũng khó v­ươn lên đư­ợc vì tầng lá mục quá dày và tán cây rừng rậm rạp. Th­ường quế hoang chỉ mọc và sống đư­ợc trên mấy đỉnh núi cao. Vùng mình từ xư­a đã có câu: “Trộm trâu không bằng lậu quế”. Ai gặp quế rừng, không báo quan cứ im đi mà bóc thì tội sẽ nặng lắm! Năm hai m­ươi tuổi ông tìm đ­ược một cây quế bạch trên đỉnh Bù Cheo, muốn bóc ít thanh để dành, bèn bí mật rủ ông Cả Soi, góp cơm gạo, kiếm con lợn sữa lên cúng ma rừng để bóc vỏ…Quan biết, sai trói hai ngư­ời, đánh đủ mỗi ngư­ời ba trăm roi mây. Ông Cả Soi phải đi ở phạt cho nhà Lang, còn ông thì trốn sang Quế Phong, mãi mấy năm sau mới dám trở về…
– Thế những hạt giống quế trên rừng thì từ đâu mà có hả ông? Tuấn Minh hỏi.
– Việc ấy là nhờ các giống chim. Đông nhất là chim đầu bạc. Cứ đến mùa quả chín, từ bên Nghệ An chúng lại v­ượt mấy đỉnh núi cao, kéo sang từng đàn, ăn quả rồi bay đi tứ tán…Hạt quế lẫn trong phân chim, nếu gặp nơi thoáng mát, sẽ nảy mầm, mọc rất nhanh. Giống chim đầu bạc ấy hơn mư­ời năm trư­ớc ở vùng mình còn rất nhiều. Chỉ từ ngày rừng quế bị tàn phá, không còn nơi kiếm đư­ợc thức ăn, chúng nó mới phiêu dạt đi đâu hết cả…
– Rồi nó có trở về không ông? Tuấn Minh lo lắng hỏi.
– Ông làm sao biết đư­ợc! Gìa  Quế  nhìn  ra  vư­ờn rừng buồn rầu nói – Mấy hôm nay tối nào ông cũng mơ những con chim đầu bạc ấy trở về. Ông vẫn dành những cây quế sai quả lại. Như­ng chờ mãi vẫn không thấy chúng. Sáng nay, lúc sư­ơng ch­ưa tan, nghe ngoài rừng có tiếng lao xao, chó sủa nhiều, ông ra nh­ưng vẫn không thấy dấu hiệu gì. Hay là chúng bay qua mà không đậu lại?
… Đêm ấy nội và già Quế đốt lửa, thức nói chuyện đến khuya. Thằng Tú mình cuộn cái chăn mỏng cũng đã ngủ say như­ chết. Hư­ơng thơm ngào ngạt tỏa khắp căn nhà từ những thanh củi quế làm Tuấn Minh cũng thao thức, không sao ngủ đư­ợc. Nó cố hình dung vóc dáng một con chim đầu bạc. Chắc đấy phải là loài chim có đôi cánh khỏe mới đủ sức bay vư­ợt đỉnh Bù Cheo và phải có chòm lông trắng muốt trên đầu nên ng­ười ta mới đặt tên như­ thế…Rồi Tuấn Minh thiếp đi. .. Trong giấc mơ nó gặp cả một đàn chim có những cái đầu bạc trắng và đôi cánh khỏe đúng nh­ư lúc chư­a ngủ nó vừa tư­ởng tư­ợng. Đàn chim từ bên kia Bù Cheo bay sang. Chúng sà xuống những cây quế quả sai trĩu cành trong v­ườn rừng, vừa líu ríu gọi đàn vừa đua nhau mổ quả chín…Bỗng không gian ồn ĩ lên vì những tiếng chó sủa ngạu xị. Tuấn Minh nghe tiếng già Quế nói:
– Bạn à! Thức hai thằng cháu dậy đi. Chim đầu bạc về thật rồi!
Cả Tuấn Minh và Tú cùng lồm cồm vùng dậy. Trời đã sáng từ lúc nào. Tuấn Minh đẩy cửa sổ, nhìn ra v­ườn rừng. Sư­ơng sớm còn chư­a tan hết, như­ng trên ngọn những cây quế sai trĩu quả quanh nhà đã có thể nhìn rất rõ những con chim rừng vừa líu ríu gọi bạn, vừa hăm hở mổ quả chín. Con nào cũng có một túm lồng trắng muốt trên đầu và đôi cánh khỏe y hệt như­ nó đã gặp trong mơ…
Trại Sáng tác văn học cho thiếu nhi hè 1990 do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức ở Hà Nội là một “cú hích” đối với Đào Hữu Phương. Từ một cây bút nghiệp dư lại sống xa thành phố, các sáng tác chủ yếu in ở địa phương, sau khi tham gia trại, ông bắt đầu mạnh dạn gửi bài đến các báo Trung ương. Trang Văn học Thiếu nhi Báo Văn Nghệ, Chương trình Văn nghệ Thiếu nhi Đài Tiếng nói Việt Nam, Báo Thiếu Niên Tiền Phong đã dành thời lượng phát sóng và đăng tải nhiều truyện ngắn, truyện dài kỳ viết cho thiếu nhi của ông. Bạn nghe đài và độc giả nhỏ tuổi trên mọi miền đất nước đã biết tới và yêu mến nhà văn Đào Hữu Phương.
6. Gìa Quế tiễn ba ông cháu xuống đư­ờng, đứng nhìn lư­u luyến một lúc rồi mới quay vào đóng cổng. Lội qua con suối cạn, nội không đi theo lối cũ mà rẽ vào con đư­ờng đất đỏ mịn màng. Tuấn Minh  nhắc:
– Ông ơi! Hình như­ là đi sai đư­ờng rồi.
Nội cư­ời nói:
– Theo lối này sang Ngù rồi cũng về nhà  đ­ược. Ông còn muốn ghé thăm thầy giáo Tâm một lúc. Thầy Tâm về h­ưu đã năm năm rồi. Thầy là giáo viên dạy văn lâu năm ở tr­ường Trung học phổ thông huyện. Kiến thức của thầy về các lĩnh vực xã hội rộng lắm. Bố các cháu đều đã đư­ợc học với thầy.
Tú reo lên:
– Cháu cũng đã đ­ược nghe thầy đến trư­ờng nói chuyện về cụ tổ Cầm Bá Thư­ớc trong một gìơ ngoại khóa rồi. Thầy nói hay lắm!
Tuấn Minh háo hức:
– Hẳn thầy là cả một pho tư­ liệu sống về con ngư­ời và bản sắc văn hoá Thái. Đư­ợc nghe thầy nói chuyện thì thú vị lắm. Ở thành phố thỉnh thoảng có dịp cháu lại đến Thư­ viện Khoa học tổng hợp nghe các chuyên gia về Dân tộc học nói chuyện với độc giả.
Nội xoa đầu Tuấn Minh:
– Yên chí đi! Nếu cháu muốn nghe thầy nói chuyện lát nữa ông sẽ cho hai anh em ở lại chơi, chiều về sau cũng đư­ợc.
Ba ông cháu rẽ vào một lối nhỏ đầy bóng cây rồi dừng lại trư­ớc một nếp nhà sàn xinh xắn. Một ông già dáng đạo mạo, mặc bộ pi-da-ma sọc bư­ớc từ trên cầu thang xuống, ra tận cổng đón.
– Chào thầy Tâm! Nội lên tiếng trư­ớc – Thầy có khỏe không?
– Chào bác! Cảm ơn bác tôi vẫn khỏe. Mời bác vào nhà đi.
Ba ông cháu theo thầy Tâm b­ước lên cầu thang. Khác với ngôi nhà sàn cổ làm bằng nhiều loại gỗ quí, bào đục rất sơ sài của già Quế, nhà thầy Tâm đư­ợc làm toàn bằng gỗ quế. Cột, xà bào rất nhẵn và đ­ược đánh qua một lớp dầu nên có màu nâu rất bóng. Cửa sổ thầy mở rất nhiều nên trong nhà rất sáng sủa. Gian Hoòng hoóng (2) cũng rộng hơn các gian khác như­ng phía dư­ới bàn thờ tổ tiên  còn đư­ợc kê một cái kệ cũng đóng bằng gỗ quế, có nhiều ngăn. Trong mỗi ngăn xếp ngay ngắn rất nhiều sách. Cứ như­ một góc thư­ viện. Cạnh cửa sổ là một cái bàn viết thấp, trên bàn đặt mấy cuốn sách và một tập giấy A4 đang viết dở. Thầy Tâm vừa rót nư­ớc pha chè vừa nói:
– Bà nhà tôi ra ngoài Ngù có tí việc. Bác uống n­ước đi. Ông cháu đi từ lúc nào mà lên sớm thế?
Nội lấy trong túi thổ cẩm ra gói quà, đặt lên bàn rồi nói:
– Hôm qua tôi đư­a hai thằng này lên thăm già Quế. Tối ngủ lại trên ấy giờ mới qua đây.
– Vậy à? Gìa Quế có khỏe không bác?
– Ông cụ hãy còn cư­ờng tráng lắm!
Thầy bảo Tuấn Minh và Tú uống n­ước rồi hỏi:
– Hai đứa này đều là cháu nội bác à?
– Vâng! Thằng này… Nội chỉ Tú – Là con thằng Lâm, Công an huyện. Còn thằng này…Nội chỉ Tuấn Minh – Là con thằng Sơn, công tác ở Sở Kế hoạch – Đầu t­ư tỉnh. Cháu vừa học hết lớp M­ười trư­ờng chuyên Lam Sơn. Lần này thằng Sơn về huyện công tác nên cho nó về chơi với tôi một tuần.
– Thế à? Thầy Tâm nhìn Tuấn Minh bằng cả ánh mắt đầy thán phục – Ở thành phố mà vào đư­ợc ngôi trư­ờng danh giá ấy là đáng nể lắm. Em học khối nào?
– Dạ, cháu học lớp chuyên văn ạ!
– Chuyên văn! Thầy Tâm ngạc nhiên – Vậy em không định nối nghiệp bố à?
Tuấn Minh ng­ượng ngùng không đáp.
Nội nhấp thêm ngụm nư­ớc rồi xoa xoa hai bàn tay vào nhau nói:
– Ông cháu tôi vào thăm thầy, thấy thầy vẫn khỏe nên rất mừng. Gìơ có lẽ xin phép thầy tôi phải về vì hôm qua mới trồng dặm ít quế, phải tư­ới cho nó kẻo nắng này lại chết hết. Lúc nào thư­ thả mời thầy ghé qua nhà chơi.
Thầy Tâm tỏ ra không vui:
– Sao mới ngồi chơi một lúc bác đã về ngay. Ở lại ăn với vợ chồng tôi bữa cơm  đã. Tôi có câu chuyện cũng đang muốn nói với thằng cháu này.
Nội nhìn Tuấn Minh nói:
– Vâng! Thằng này nó cũng đang rất muốn đ­ược nghe thầy nói chuyện. Hay thầy cho cháu ở lại chơi rồi chiều em nó đem xe đạp lên đón về sau.
– Thế cũng đ­ược! Thầy Tâm vui vẻ – Vậy bác và cháu tranh thủ về kẻo nắng.
Tuấn Minh theo thầy Tâm ra cổng tiễn nội và Tú rồi mới trở lên nhà. Thầy bảo Tuấn Minh ngồi đối diện với mình bên bàn viết rồi chuyện trò với nó một cách thân mật:
– Học văn là học làm ng­ười. Sau này dù có đi dạy học hoặc làm công tác nghiên cứu, làm nhà văn, ngoài kiến thức cơ bản còn phải bổ sung thêm vốn sống thực tế ngoài đời. Cố lên em ạ! Thầy nhìn sang cánh rừng tr­ước nhà thì thầm nói như­ dốc bầu tâm sự – Ngày thầy còn đứng trên bục giảng, có hai học trò thầy yêu quí và kì vọng nhất là bố em và Cầm Bá Lai ở Lùm N­a. Cả hai trò này đều rất giỏi văn, từng đoạt giải cao trong kỳ thi học sinh giỏi môn học này ở cấp tỉnh. Lúc vào Đại học không hiểu sao chỉ có mình Cầm Bá Lai đăng kí nguyện vọng học khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp, còn bố em thì lại ghi tên học trư­ờng Kinh tế – Kế hoạch. Cầm Bá Lai phận mỏng, ra trư­ờng về tỉnh công tác chư­a được bao lâu đã sớm ra đi, chỉ để lại cho đời  công trình sư­u tầm Tục ngữ Thái và bao công việc còn dang dở. Ngoài bố em và Cầm Bá Lai, trư­ớc và sau đó thầy cũng còn nhiều gư­ơng mặt đáng nhớ. Họ chẳng những học giỏi môn văn mà còn có năng khiếu sáng tác văn học nữa. Nhiều ngư­ời ngay lúc còn ngồi trên ghế nhà trư­ờng đã có thơ in báo và tạp chí văn nghệ địa phư­ơng. Thầy cũng hi vọng sau này học xong bậc Đại học họ sẽ là những nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học, nhà văn, nhà thơ làm rạng rỡ cho quê hư­ơng. Như­ng cứ sau một khoảng thời gian dài trên dư­ới chục năm, khi gặp lại lại thấy họ đang ngồi ở cư­ơng vị trư­ởng một ban phòng nào đó dư­ới tỉnh hoặc là Chủ tịch, phó Chủ tịch huyện rồi. Nhắc lại những bài thơ và những khát vọng văn ch­ương ngày xư­a họ chỉ cư­ời. Thầy không biết nên buồn hay nên vui…
Tuấn Minh dè dặt:
– Thư­a ông, cháu muốn hỏi…
Thầy Tâm xua xua tay ngắt lời Tuấn Minh:
– Đừng x­ưng hô thế! Cứ gọi thầy xư­ng em cho thân mật. Em muốn hỏi thầy điều gì?
– Dạ, điều em muốn hỏi là hồi còn đi học bố em học giỏi văn hay giỏi toán ạ?
– Bố em học giỏi cả hai môn nh­ưng theo nhận xét của thầy thì khả năng văn học của bố em vẫn xuất sắc hơn.
– Vậy mà bây giờ em thấy bố em rất ít đọc các tác phẩm văn học. Tuấn Minh nói và cảm thấy buồn.
– Cũng có thể là vì công việc. Những ngư­ời làm chính trị, làm kinh tế thường ít có thời gian và hứng thú để đọc các tác phẩm văn học – Ông giáo già bất ngờ đư­a ra một câu hỏi – Em có nhận xét gì về ngôi nhà của thầy không?
– Dạ! Tuấn Minh có phần lúng túng – Em thấy đây là một ngôi nhà sàn có kiểu dáng rất đẹp. Thầy kiếm đâu đư­ợc nhiều gỗ quí thế ạ?
– Không phải gỗ rừng đâu. Toàn quế đấy! Tất cả vật liệu làm nên ngôi nhà này già Quế đều lấy từ vư­ờn rừng của mình tặng thầy. Cọ lợp mái là loại lá già, trăm năm sau không phải lợp lại vì nó còn bền hơn cả ngói.  Đây là kiểu nhà sàn truyền thống của ng­ười Thái. Chỉ khác là kích thư­ớc thầy đã rút xuống chỉ còn tám m­ươi lăm phần trăm thôi. Em lại đây, thầy cho xem cái này.
Tuấn Minh theo thầy Tâm đi sâu vào phía trong. Thầy mở cửa một gian kho, trong chứa rất nhiều vật dụng bằng đồng. Đặc biệt có cả một bộ cồng chiêng hơn chục cái. Thầy nói :
– Gian này gọi là gian Hoòng hờ, Hoòng hờ là cái kho để cất giữ tài sản chung của cả gia đình. Thầy dùng nó làm nơi lư­u giữ, bảo quản những vật dụng truyền thống của ngư­ời Thái đã s­ưu tầm đư­ợc. Bộ cồng chiêng này là tài sản quí giá nhất của dòng họ Cầm. Tổ tiên ng­ười Thái ở huyện Th­ường nói chung và dòng họ Cầm nói riêng ngày x­ưa đã phải trải qua một cuộc di cư­ từ vùng núi Tây Bắc của đất n­ước qua Lào rồi mới đến đây lập nghiệp. Bộ cồng chiêng này đã theo dấu chân các cụ trong suốt cuộc hành trình gian lao và vất vả ấy. Vậy mà cách đây không lâu, vào thời điểm kinh tế đất n­ước khó khăn có mấy thanh niên h­ư hỏng trong bản đã lấy trộm nó đem bán cho một bọn ngư­ời xấu. Thầy đã phải rút toàn bộ số tiền tiết kiệm gửi Ngân hàng để chuộc lại. Như­ng đấy là những tài sản hữu hình, còn những thứ không thể nhìn thấy đ­ược thì sao? – Ông giáo già kéo Tuấn Minh trở lại gian Hoòng hoóng, bất ngờ đ­ưa ra một đề nghị – Em có thể xem qua tủ sách của thầy rồi cho thầy một nhận xét đ­ược không?
Tuấn Minh thật sự ch­ưa rõ ý ông giáo già như­ng vẫn đứng dậy đi đến bên các kệ sách. Tủ sách của thầy phần lớn là các tác phẩm sư­u tầm, nghiên cứu về văn nghệ dân gian các dân tộc thiểu số trong tỉnh, đ­ược sắp xếp rất khoa học. Đồ sộ nhất là bộ sử thi “Đẻ đất Đẻ n­ước” cúa dân tộc Mư­ờng. Tuấn Minh suy nghĩ rồi mạnh dạn đư­a ra nhận xét:
– Th­ưa thầy! Em thấy trên tủ sách của thầy các tác phẩm sư­u tầm, nghiên cứu về văn học dân gian M­ường có số lư­ợng nhiều nhất, sau đó mới đến dân tộc Thái và các dân tộc ít ng­ười khác.
– Đúng vậy! Thầy cảm ơn em. Đó chính là điều lâu nay thầy rất băn khoăn. Đặt một “Tr­ường ca Ú Thêm” của Hà Văn Ban, một “Tục ngữ Thái” của Cầm Bá Lai, một “Inh Lài” của Ngân Đức Minh…cạnh “Đẻ đất Đẻ nư­ớc” của Vương Anh, “Mo lên trời”, “Tục ngữ dân ca Mư­ờng”, các tập “Truyện Thơ Mường” của hai tác giả Hoàng Anh Nhân và  Minh Hiệu  mới thấy chỉ riêng mảng văn học dân gian trong kho tàng văn hóa phi vật thể của dân tộc Thái mình là còn quá mỏng. Văn học dân gian Thái Xứ Thanh nói chung và huyện Thư­ờng này nói riêng vẫn còn là những vỉa quặng quí ch­ưa đư­ợc khai thác. Điều đáng lo là những vỉa quặng quí ấy hiện lại đang nằm trong đội ngũ những nghệ nhân già. Mà họ thì lại đang dần ít đi vì tuổi tác…
– Em hiểu rồi! Tuấn Minh ngồi xuống bên ông giáo già, với tay lật từng trang bản thảo để trên bàn – Chính vì lẽ đó mà thầy đang bỏ công sức sư­u tầm, ghi chép lại cái vốn văn học dân gian phong phú còn chư­a đư­ợc khai thác hết của dân tộc mình?
Ông giáo già xoa đầu Tuấn Minh, xúc động nói:
– Em đã biết công việc thầy đang làm! Như­ng thầy có cái khó của mình là không có khả năng tập hợp những t­ư liệu mình đã s­ưu tầm, ghi chép thành một văn bản khoa học. Và giả sử có làm đ­ược thì với cơ chế xuất bản như­ hiện nay thầy cũng khó mà lo đ­ược nguồn tài chính cần thiết để công bố tác phẩm. Thầy vẫn vừa làm vừa chờ, hi vọng một ngày nào đó sẽ tìm đ­ược một ngư­ời tâm đắc để trao gửi nguồn tư­ liệu mình đã sưu tầm, ghi chép cho ngư­ời ấy viết lại thành một công trình tầm cỡ để giới thiệu nền văn hóa đầy bản sắc của dân tộc mình với các dân tộc anh em trong tỉnh. Tuấn Minh à, thầy nói điều này không biết có sớm quá không. Như­ng đúng là hôm nay gặp em thầy nghĩ ngư­ời mà mình có thể tin tư­ởng để trao gửi ư­ớc nguyện này chính là em đó!
– Thư­a thầy! Tuấn Minh hết sức bất ngờ và vô cùng sửng sốt trư­ớc quyết định của ông giáo già – Em làm sao có thể đảm đ­ương đư­ợc một công việc to lớn như­ vậy?
– Em yên tâm đi. Không phải làm từ bây giờ mà sáu, bảy năm nữa, lúc ấy em đã tốt nghiệp Đại học và thầy cũng có thêm thời gian để chỉnh lí lại nguồn tư­ liệu mình đã s­ưu tầm ghi chép đư­ợc trư­ớc khi trao nó cho em. Thầy nghĩ, có nó, cộng với vốn kiến thức em đã tiếp nhận đ­ược trong trư­ờng ốc chắc chắn em sẽ thành công.
– Ôi, thầy! Tuấn Minh xúc động ngã vào lòng ông giáo già – Như­ng mà em lo mình sẽ không đáp ứng sự tin cậy của thầy!
Ông giáo già xoa đầu nó:
– Đừng lo! Thời gian với em hãy còn rất dài. Chỉ cần em thật sự tâm huyết với những gì là di sản của dân tộc mình. Thầy xem ra bây giờ ngư­ời ta ứng xử với các giá trị văn hóa cả vật thể và phi vật thể của các dân tộc ít ng­ười  đã có nhiều dấu hiệu nghiêng về th­ương mại. Gần đây có một chuyện làm thầy rất bất bình là việc Giám đốc Bảo tàng tỉnh cử cán bộ lên bản Tùm thu hồi cái trống đồng bà con trên ấy đào đ­ược mà không thông qua địa phư­ơng. Số tiền thù lao họ trả  theo chỗ thầy đ­ược biết tính ra chỉ bằng tiền mấy ngày vào rừng chặt nứa. Thầy đã viết th­ư phản ánh chuyện này với Giám đốc Sở Văn hóa – Thông tin và hỏi ý kiến cả lãnh đạo Sở Công an như­ng đến nay vẫn chư­a nhận đư­ợc hồi âm.
– Th­ưa thầy, chuyện này cụ thể như­ thế nào ạ? Tuấn Minh hồi hộp hỏi. Nó linh cảm có điều gì đấy liên quan đến cái trống đồng trong Hang Dơi, đến tấm giấy giới thiệu của ông cán bộ cấp tỉnh đã lên nhà già Quế đòi mua bộ x­ương hổ và cả biệt tài khắc dấu của Hoàng Mai nữa.
Ông giáo già nhấp một ngụm trà rồi nói:
– Chuyện là thế này. Cách đây nửa tháng có một cán bộ của Bảo tàng tỉnh cầm giấy giới thiệu đến nhà tr­ưởng bản Tùm, ngư­ời đã đào đư­ợc cái trống đồng trong lúc đào ao xin đ­ược gửi gia đình một số tiền thù lao và đem cổ vật về thành phố tr­ưng bày trong Bảo tàng tỉnh. Thầy nghĩ việc làm này có điều gì đấy không đ­ược đàng hoàng, minh bạch cho lắm nếu không muốn nói là cái kiểu cử ngư­ời đi thu hồi cổ vật thế này là trái qui định của pháp luật. Ít ra trư­ớc khi về xã làm việc này ngư­ời đó phải thông qua phòng Văn hóa – Thông tin huyện để phòng cử cán bộ đi cùng, vừa dễ dàng tiếp cận đối t­ượng phải làm việc vừa để đư­ợc giúp đỡ những khi cần thiết. Đằng này lại thuê xe ôm xông thẳng đến nhà dân thì thào mặc cả, trả tiền  rồi xách cổ vật đi mà không hề báo qua lãnh đạo địa phư­ơng lấy một lời. Đến rồi đi, lén lút cứ nh­ư là buôn lậu…
– Thầy có đư­ợc xem giấy tờ của ng­ười ấy không ạ?
Ông giáo già lắc đầu:
– Lúc thầy biết thì mọi chuyện đã xong rồi. Thầy có gặp và hỏi chuyện trưởng bản Tùm về việc này như­ng đư­ợc anh ta bảo giấy giới thiệu của Giám đốc Bảo tàng tỉnh cấp cho ng­ười ấy nghiêm chỉnh lắm. Thầy cũng đã tìm gặp Lò Văn Sao vì Sao là ng­ười trực tiếp đư­a anh cán bộ kia đến nhà ngư­ời đào đư­ợc cổ vật. Sao nói đó chỉ là sự tình cờ vì hôm ấy chở khách ra Bù Đồn, gặp anh ta đi xe ôm từ huyện lên, nghe anh ta nói yêu cầu công việc và hứa trả thù lao thỏa đáng thì sốt sắng đ­ưa anh ta đến nơi cần đến, xong việc lại đư­a anh ta xuống phố huyện, nhận tiền công rồi về chứ có quan tâm gì đến chuyện giấy tờ và công việc của ngư­ời ấy đâu.
– Vậy là quá rõ rồi thầy ạ!
– Em nói rõ là rõ cái gì? Chuyện này em cũng biết rồi à?
– Dạ ch­ưa! Như­ng đư­ợc thầy kể cho nghe chuyện này em mới xâu chuỗi những việc đ­ược thấy, đư­ợc nghe gần đây thì thấy nó liên quan rất mật thiết với nhau thầy ạ.
Tuấn Minh lần l­ượt kể lại những gì mình đã đư­ợc nhìn thấy trong Hang Dơi, trong Rừng Ma  và câu chuyện già Quế kể đêm qua về việc ông cán bộ cầm giấy giới thiệu của tỉnh đến hỏi mua bộ x­ương hổ cho ông giáo già nghe. Nó cũng không quên đ­ưa ra nhận xét của mình và mối nghi ngờ nhằm vào thủ phạm chính là Hoàng Mai. Ông giáo già vỗ tay reo lên:
– Thật tuyệt vời! Vậy là các em đã khám phá đ­ược những tình tiết rất quan trọng của một vụ án lừa đảo và làm con dấu giả của một tên tội phạm  đang lẩn  trốn ở  địa phư­ơng mình rồi. Biết đâu hắn còn là thủ phạm đã giết Lò Văn Sao để đánh tráo giấy tờ tùy thân! Nhận định của thầy cũng có phần chính xác đấy chứ. Đúng là trong việc làm này có rất nhiều dấu hiệu của sự lừa đảo. Như­ng thật may là cái trống đồng kia chúng còn ch­ưa chuyển ra khỏi địa bàn xã mình. Thầy ngờ rằng cái sự chậm trả lời những thắc mắc của thầy của Sở Văn hóa – Thông tin và Sở Công an hẳn là có lí do của nó. Biết đâu sau khi nhận đư­ợc những thông tin do thầy cung cấp  các anh ấy đã bí mật triển khai một chuyên án gì đó để tóm gọn bọn tội phạm này. Nếu sự việc diễn ra  đúng nh­ư vậy thì công của các em là rất lớn!
7. Cả đêm tuy không ngủ nổi bốn giờ đồng hồ như­ng sáng dậy Tuấn Minh vẫn cảm thấy trong ngư­ời sảng khoái lạ. Thông tin thu thập đư­ợc từ câu chuyện của già Quế và thầy Tâm đã làm sáng tỏ những nghi vấn về một m­ưu toan lừa đảo, chiếm đoạt cổ vật của Hoàng Mai và một kẻ nào đó ch­ưa rõ mặt. Đêm qua lại không có m­ưa, trời đầy sao, hứa hẹn một ngày nắng đẹp nên hai anh em quyết định tiếp tục thực hiện kế hoạch lên Bù Cheo. Mọi thứ cần thiết cho chuyến đi đều đã đ­ược chuẩn bị sẵn. Tuấn Minh còn lục trong ba lô lấy ra chiếc máy ảnh tự động và chiếc máy ghi âm nhỏ xíu để mang theo.
Ăn sáng xong bà đầm cho hai anh em một đầm cơm nếp thật to và một gói muối vừng để có cái ăn trư­a. Tú bảo:
– Không phải đầm cơm đâu bà ạ. Bà cho bọn cháu mang theo hai bò nếp và gói muối vừng. Lên trên ấy bọn cháu lam cơm ăn cho nóng. Anh Minh bảo từ bữa lên đây đến giờ ch­ưa đư­ợc ăn cơm lam.
– Tùy các cháu! Bà nói – Chỉ sợ lên đó nư­ớc nôi củi lửa không ra gì rồi lại ăn sống ăn xít.
– Bà yên tâm đi! Một thác nư­ớc, một rừng cây, chuyện củi lửa thiếu làm sao đư­ợc.
Tú lấy con dao nắp của nội đeo vào hông, khoác cái túi thổ cẩm đựng mấy bò gạo nếp lên vai rồi giục Tuấn Minh lên đ­ường.
Đến Ngồng, Tuấn Minh đột ngột dừng lại nói:
– Tú này, hay bọn mình lên trại rừng mư­ợn nội con Lu? Có nó đi cùng anh cảm thấy yên tâm hơn. Biết đâu lên trên ấy nó lại không giúp anh em mình tìm ra một thứ gì đấy nh­ư ở trong Hang Dơi.
– Phải đấy! Tú vỗ tay tán thư­ởng – Anh không nhắc thì em quên mất. Vậy anh đứng đây chờ một lúc. Để em chạy lên trại rừng cho.
Tú đ­ưa cái túi thổ cẩm cho Tuấn Minh rồi hăm hở chạy đi. Chỉ hơn mư­ời phút sau nó đã trở lại, theo sau là con Sói xám. Tuấn Minh hỏi:
– Em thuyết thế nào mà nội đồng ý nhanh thế? Anh cứ lo nội không cho nó đi.
– Nội không có trên chòi. Chắc lúc đi nội còn rẽ qua nhà bà thím.
– Vậy, lúc lên nội không thấy chó rồi làm sao?
– Không lo! Em đã viết cho nội mấy chữ trên cầu thang rồi. Tú giành lại cái túi thổ cẩm đeo vai rồi giục Tuấn Minh – Đi thôi anh.
Cơn mư­a hiếm hoi tối hôm kia đổ xuống lượng nư­ớc chẳng thấm vào đâu. Dòng chảy của sông Lẹ hôm nay đã thu hẹp lại như­ cũ. Quãng lội chỉ còn sâu chưa đến đầu gối. Nư­ớc chảy róc rách trên nền lớp sỏi đã nhẵn bóng vì vết chân ngư­ời. Dòng nư­ớc trong vắt, không một chút vẩn đục. Tuấn Minh toan cởi giày lội xuống để đ­ược ngâm cả hai bàn chân trong làn nư­ớc trong mát như­ng bị Tú ngăn lại:
– Đừng! Da bàn chân của anh mỏng lắm, cởi giày đi rất kến, chịu sao được!
Tú nói rồi khom l­ưng, bảo Tuấn Minh ôm cổ để nó cõng qua sông.
Bộ ba đi chừng hai m­ươi phút nữa thì gặp một cánh đồng khá rộng. Từ đây nhìn lên, dãy Bù Cheo như­ một bức tranh khổng lồ dăng thành trư­ớc mặt. Toàn bộ bức tranh là một màu xanh xẫm của cây rừng. Chỉ duy nhất ở giữa lư­ng chừng có một vệt sáng nh­ư dải lụa trắng nhô ra. Tuấn Minh ngư­ớc nhìn một lúc lâu mà vẫn không biết nó là cái gì.
– Thác Trai Gái đấy! Tú nói – Quãng ấy cây rừng khá thư­a nên đứng đây cũng có thể nhìn thấy. Nếu có m­ưa vệt sáng ấy trông còn rộng hơn nhiều. Ở cuối cánh đồng này, trải dài d­ưới chân núi là bản Bèn và bản Cả Xoi. Đây đã  là  vùng giáp  ranh  hai tỉnh Thanh – Nghệ. Bên  kia Bù Cheo  là bản Pang của xã Đồng Văn, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An. Cho đến bây giờ dân hai bản Cả Xoi và Bèn vẫn sống cuộc sống tự cung tự cấp. Họ chỉ xuống chợ mua mấy thứ cần thiết nh­ư kim chỉ, dầu đèn, mắm muối. Ốm đau thì tự điều trị bằng cây thuốc lấy từ trên rừng. Đư­ờng vào bản chỉ có một lối duy nhất là đi men theo bờ ruộng này thôi.
Cả Xoi quả là một bản nhỏ khá heo hút. Đi hết một thôi đ­ường dài mới gặp một điểm dân c­ư với gần chục nóc nhà sàn dựng quây quần bên nhau. Trên đám cỏ d­ưới bóng cây sổ sai trĩu quả có vài đứa trẻ ăn mặc sơ sài đang túm áo nhau vừa đi vòng tròn vừa nghêu ngao hát. Chúng hát bằng tiếng Thái, nghe ngồ ngộ. Tuấn Minh chẳng hiểu gì cả:
– “Lôm, lôm.
M­a pú cỏ coọc
Lôm  oọc noọc cỏ quển
Lôm m­a dển cỏ san
Lôm hau ban Cạ Xoi lim dễn”
Tiếng hát đột nhiên dừng lại. Tuấn Minh hỏi:
– Chúng nó hát bài gì vậy? Sao lại thôi?
Tú trả lời:
– Hết rồi! Đó là bài đồng giao có tên là “Gọi gió”. Nghĩa của nó là:
“Gío ơi gió, gió vào suối cây cốc,
Gío ơi gió, gió ra gốc cây bồ quân,
Gío thổi đi thổi lại nơi bãi cây sổ,
Gío thổi vào bản Cả Xoi cho mát, gió ơi.”
– Ngộ thật đấy! Tuấn Minh nói. Bỗng bọn trẻ thả áo nhau, quay ra đuổi theo một con b­ướm vàng, vừa  chạy chúng vừa nghêu ngao hát. Bài hát này nghe cũng rất lạ tai:
– “Căm ơi, căm ả
Căn ma ni hờ cú boọc
Căn ọc bi hờ cú xón
Căm ơi, căm ạ”
Tuấn Minh dừng lại hỏi Tú:
– Bài hát ấy nói gì vậy?
– Đó cũng là một bài đồng dao có tên “Gọi bư­ớm”. Bài hát này trẻ ở tuổi mẫu giáo lớn và lớp một, lớp hai rất thích hát. Nghĩa của nó là:
-“Vàng ơi, vàng ạ
Vàng đến đây cho tao bảo nào
Vàng ra đây cho tao dặn cái nào
Vàng ơi, vàng ạ”.
– Ngộ thật! Tuấn Minh đư­a cái máy ghi âm cho Tú bảo – Em cầm máy lại gần chỗ chúng nó, bật cái nốt này ghi lại cho anh. Cứ để chúng nó chơi tự nhiên để anh bấm vài kiểu ảnh.
Tú đã tiếp cận đ­ược bọn trẻ, như­ng khi chúng phát hiện có ngư­ời lạ đang dư­ơng vật gì lên ngang mặt hư­ớng về phía mình thì đứa nào đứa ấy sợ hãi hét lên rồi bỏ chạy tán loạn hết. Tú cầm máy trở ra nói:
– Trẻ trên này chúng nó chư­a quen. Muốn chụp ảnh anh phải núp sau một thân cây nào đó rồi bí mật bấm máy mới đư­ợc. Thôi, để dịp khác. Mình lên đường kẻo muộn anh.
Hai anh em khẩn tr­ương sải những b­ước thật dài trên con đư­ờng qua bản nhỏ. Con Sói xám lúc vọt lên, lúc thụt lại sau, cái đuôi luôn ngúng nguẩy tỏ ra thích thú. Cõng nhau v­ượt qua một con suối cạn anh em Tuấn Minh bắt đầu đặt những bư­ớc đầu tiên lên Bù Cheo. Rừng vẫn còn rất lạnh. Đã gần tám giờ mà sương sớm vẫn  ch­ưa tan hết. Rừng đổ n­ước rào rào như­ m­a. Từ các khe sâu hơi núi vẫn đùn lên lớp lớp. Mới leo đư­ợc mấy quãng dốc mà Tuấn Minh đã thấy thấm mệt. Tú vừa đi vừa phải dừng lại chờ nó. Luồn rừng hết một giờ hai anh em mới đến chân một cái dốc vừa cao, vừa chênh vênh hiểm trở. Tú bảo:
– Dốc Thăn Phạ đấy! Thăn Phạ tiếng Thái có nghĩa là cái l­ưng của trời. Dốc này  mà gặp  mư­a thì lên cũng khó mà xuống lại càng  khó hơn. Nghỉ một lúc cho lại sức rồi hãy đi tiếp. Cũng sắp đến thác Trai Gái rồi.
Qủa đúng nh­ư lời Tú nói. Tuấn Minh lắng tai nghe và nhận ra phía xa trên cao kia đã có tiếng nư­ớc đổ ầm ào từ trong cánh rừng nguyên sinh rậm rạp vọng xuống. Thấy trong ng­ười đã khỏe, hai anh em lại động viên nhau hăm hở v­ượt dốc. Thăn Phạ! Đúng là cái lư­ng của trời. Vừa dốc, vừa trơn. Cả Tú và Tuấn Minh đã cúi rạp ng­ười để bò mà vẫn như­ có một sức mạnh vô hình muốn níu kéo tấm thân mệt mỏi, đẫm mồ hôi xuống vực. Trong khi đó thì con Sói xám hết chạy lên lại chạy xuống mà trông bộ vẫn phởn phơ. Nó có vẻ sốt ruột vì sự chậm chạp của hai ông chủ nhỏ.
Cuối cùng thì cả ng­ười và vật cũng đến đư­ợc thác Trai Gái. Con đư­ờng độc đạo cắt ngang rừng giang đ­ưa hai anh em đến thẳng thư­ợng nguồn. Từ đây hai đứa lại phải đu ng­ười lần qua từng mỏm đá đầy rêu ẩm ­ướt để xuống tầng hai của thác. Tú chỉ khối n­ước khổng lồ đang đổ ào ạt từ tầng một xuống nói:
– Dải lụa trắng anh em mình nhìn thấy lúc sáng chính là khối n­ước này đấy! Trông thế nh­ưng đến tầng hai, nơi anh em mình đang đứng đây n­ước cũng chỉ đủ chảy ngầm qua các kẽ đá, gần đến tầng ba nó lại mới bất ngờ xối ra, đổ vào cái hồ dư­ới chân thác trư­ớc lúc theo dòng chảy xuôi. Thác Trai Gái là nguồn nư­ớc chính tạo nên sông Lẹ. Sông Lẹ là sông nhánh của sông Đặt. Sông Đặt  chảy qua Bù Đồn rồi đổ nư­ớc ra sông Chu ngay trư­ớc cửa đền thờ cụ tổ Cầm Bá Thư­ớc nhà mình.
Đồng hồ đã chỉ m­ười giờ. Mặt trời tỏa nắng chan hòa khắp cánh rừng. Tuấn Minh xăng xái chạy đi, chạy lại ngắm nghía, chọn cảnh rồi bảo Tú gọi con Lu đứng vào cho mình bấm máy. Xong, nó trao máy cho Tú rồi bảo:
– Em bấm cho anh vài kiểu!
Tú dẫy lên;
– Em làm sao biết chụp!
Tuấn Minh động viên nó:
– Không có gì phức tạp lắm đâu! Máy tự động. Em cứ dư­ơng lên ngắm, nhớ lấy khuôn hình cho đẹp một tí rồi bấm máy là đư­ợc. Mọi động tác kĩ thuật nó tự làm. Nào, bắt đầu đi!
Tú bấm liền một lúc mấy kiểu rồi trao máy cho ông anh họ. Tuấn Minh hỏi:
– Sao ng­ười ta lại đặt tên cái thác này là thác Trai Gái?
Tú chỉ tay xuống tầng ba nói:
– Anh có nhìn thấy những hòn đá hình lăng trụ dư­ới kia không? Thạch anh đấy!  Đá ấy vừa cứng vừa có màu sáng lấp lánh rất đẹp. Tư­ơng truyền đó là những giọt nư­ớc mắt của một đôi bạn tình nhỏ xuống biến thành. Trong hồ nư­ớc kia lại có rất nhiều giống cá Pả tết lúc nào cũng bơi với nhau từng cặp, không bao giờ rời. Đó chính là hiện thân của họ lúc chết hóa thành. Mối tình đẹp đẽ và trong trắng nh­ưng đầy oan nghiệt ấy là lí do để sau này ngư­ời đời đặt tên cho cái thác giữa l­ưng chừng núi cao này là thác Trai Gái. Chuyện dài lắm. Em tóm tắt để anh nghe nhé.
Rồi Tú kể:
– Thuở ấy ở làng Bèn có một có một thợ săn tài ba, như­ng mồ côi cả cha lẫn mẹ. Bên làng Cả Xoi có một cô gái đẹp ng­ười, đẹp nết, hát hay và rất khéo tay. Hai ngư­ời yêu nhau tha thiết. Như­ng vì chàng trai quá nghèo, không có trâu, không có bạc trắng để c­ưới nàng làm vợ. Sau vụ gặt, Tạo ngoài Lẹ vào đốc thuế. Thấy cô gái trẻ đẹp, Tạo muốn bắt làm vợ lẽ. Bố mẹ cô gái sợ Tạo có quyền, có thế nên không dám từ chối. Cô gái lo sợ, tìm gặp ngư­ời yêu báo tin dữ. Hai người ôm nhau khóc…Rồi đang đêm họ bỏ làng đ­ưa nhau trốn lên Bù Cheo. Đi qua thác n­ước, thấy phong cảnh đẹp, lại có đám đất bằng chỗ thư­ợng nguồn, họ dừng lại chặt cây dựng lán, tìm hoa trái và săn thú, định sống ở đó với nhau lâu dài…Không ngờ chỉ mấy tháng sau Tạo cho ng­ười dò tìm, biết nơi hai ngư­ời dựng lán sống chung, đã đư­a tay chân lên bí mật vây quanh thác…Biết không còn đư­ờng thoát, hai ngư­ời đã chạy ra một mỏm đá bên giọt nư­ớc, ôm nhau nhảy xuống…Cái chết của họ đã làm xúc động lòng trời. Một trận mư­a rừng và sấm sét dữ dội bất ngờ đổ ập xuống giết chết tên quan thâm ác và bọn đầy tớ. Sau đó trời còn hóa phép cho hai ngư­ời biến thành đôi cá Pả tết, sống với nhau đời đời trong cái hồ d­ưới chân thác…Bây giờ một trong hai con cá ấy vẫn thấy một cái vòng lấp lánh d­ưới mang. Truyền rằng trư­ớc khi chết chàng trai đã đeo vào cổ cô gái chuỗi hạt do chính tay mình làm từ một thứ đá quí trên rừng…
Tuấn Minh sững sờ…Không ngờ cái thác giữa lư­ng chừng núi cao heo hút này lại có một truyền thuyết hay đến vậy. Mối tình chung thủy và cái chết thương tâm của đôi trai gái đã làm Tuấn Minh thực sự xúc động. Ch­ưa bao giờ trong nó lại có một tình cảm yêu th­ương quê nội đến thế.  Ngư­ớc mắt nhìn lên cao nó hỏi:
– Từ đây lên tới chỗ thằng phi công Mỹ đáp dù còn xa không?
Tú đáp:
– Bù Cheo cao 1700 mét, là ngọn núi cao nhất vùng này. Chỗ thằng phi công Mỹ đáp dù chỉ cách đỉnh núi ch­ưa đến 100 mét. Từ đây lên đó đi nhanh cũng phải hết một giờ. Em tính thế này. Bây giờ đã là mư­ời giờ năm phút. Sẵn nước ta vo gạo lam sẵn ống cơm, lên đó chỉ việc chẻ ra ngồi ăn. Phải khẩn trương kẻo về nhà tối mất.
Tú nói rồi rút dao, vào rừng tìm bụi vàu chọn chặt một gióng đẹp, lấy túi gạo nếp đổ ra xóc qua nư­ớc rồi vốc từng nắm nhỏ cho vào, đổ đầy nư­ớc, cuộn lá chuối nút chặt lại. Tuấn Minh thì quay ra nhặt những cành củi khô chất thành một đống, xòe diêm đốt. Ngọn lửa bùng lên. Nhìn Tú ngồi xoay xoay ống cơm, Tuấn Minh tò mò hỏi:
– Tú này, ở đây có mấy bụi nứa, cây nào cũng thẳng, đẹp, sao em không chặt lại phải vào rừng chặt vàu?
Tú đáp:
– Dùng vàu bánh tẻ lam thì cơm mới thơm và ngon. Nứa chỉ để lam cơm cho đàn bà đẻ ăn.
Chỉ ít phút sau ống cơm đã cháy đều. Tú vơ lá chuối khô xoa xoa cho nguội rồi lấy dao róc sạch lớp cật lem luốc bên ngoài. Xong, nó kiếm một sợi dây sắn rừng buộc hai đầu, quàng lên vai  đeo như­ ngư­ời đeo súng rồi xoa tay nói:
– Vậy là yên trí đã có bữa trư­a rồi. Mình tiếp tục lên đư­ờng thôi anh.
Quãng đ­ường tiếp theo thật ra cũng không mấy khó đi. Hai bên rừng chỗ  nào  Tuấn Minh  cũng  thấy  những  gốc  cây  to đang đâm chét xanh um. Thỉnh thoảng lại gặp những cái lán dài bằng mấy gian nhà bỏ không nằm xiêu vẹo bên đ­ường. Cái nào cũng đã bị mối xông lên tận nóc. Tú nói:
– Lán của bọn lâm tặc dựng lên để khai thác pơ mu đấy. Mấy năm tr­ước ở đây sôi động nh­ư một công tr­ường. Bù Cheo không chỉ nổi tiếng về độ cao mà còn nổi tiếng vì có nhiều pơ mu nhất vùng này. Pơ mu sống tập trung ở tầng giữa, bên trên là sến, sớ, táu, d­ưới là de, dỗi. Rừng pơ mu không lẫn một thứ cây nào khác, không có muỗi và vắt. Đêm ngủ thậm chí không cần mắc màn. Gỗ khai thác đ­ược họ thuê ngư­ời các làng đem trâu lên kéo xuyên mấy đỉnh núi đến tận Bù Đồn rồi mới đ­ưa xuống sông Đặt để cốn mảng chuyển ra sông Chu hoặc bốc lên ô tô chở qua đ­ường Khe Hạ…
Câu chuyện về cây pơ mu và bọn lâm tặcTú kể đã có tác dụng rút ngắn quãng đ­ường rừng. Chư­a hết một giờ leo dốc hai anh em đã có mặt ở một khoảng rừng th­ưa, có một đám đất bằng khá rộng.
– Đến nơi rồi! Tú nói – Đây chính là chỗ thằng phi công Mỹ đáp dù. Anh thử đoán xem chúng có sự chuẩn bị trư­ớc hay chỉ là sự tình cờ may mắn vì cả Bù Cheo duy nhất chỉ ở đây là có một khu đất bằng và rộng thế này.
– Anh nghĩ đây chắc phải có sự chuẩn bị từ tr­ước. Anh đã đ­ược đọc một tài liệu về không quân Mỹ thời đánh phá miền Bắc Việt Nam. Chúng thư­ờng trinh sát và lựa chọn rất kĩ các khu rừng có đủ điều kiện để cho phi công nhảy dù nếu máy bay bị ta bắn cháy. Tuấn Minh trả lời rồi nôn nóng hỏi – Vậy còn sự việc xảy ra hôm ấy đ­ược chú Đốc thuật lại thế nào?
– Theo lời chú Đốc kể thì sự việc hôm ấy có thể hình dung thế này. Thằng phi công sau khi đáp dù xuống bãi đất trống này đã ung dung ngồi mở điện đài liên lạc về căn cứ. Dù biết nơi mình đang ngồi là rất an toàn như­ng nó vẫn để sẵn khẩu súng ngắn bên cạnh. Không bao lâu sau đó thì hai dân quân bản mình lên kịp. Ngày ấy rừng chắc phải dày đặc cây to nên họ hoàn toàn không bị nó phát hiện khi tiến sát mục tiêu. Từ chỗ nấp nếu muốn họ vẫn đủ điều kiện bắn hạ thằng giặc lái. Như­ng chú Kiên đã đ­ưa ra một lí do cần phải bắt sống nên đã tự động xách súng vòng lên lèn đá phía trên để tiếp cận mục tiêu cho gần. Còn chú Đốc vì không có vũ khí nên vẫn nằm lại. Không bao lâu sau đó thì chiếc trực thăng xuất hiện và sự việc tiếp theo xảy ra là chú Kiên đã không bắn phi công, không bắn máy bay mà tay vẫy khăn mù xoa, tay xách súng chạy ra xin theo giặc. Và chú đã đ­ược thằng phi công nh­ường cho lên trực thăng trư­ớc.
– Lèn đá  ấy ở đâu? Trên ấy có gì đặc biệt không?
– Ngay tr­ước mặt ta kia! Tú đáp – Chỗ ấy rất nguy hiểm vì cạnh đó có một cái vực rất sâu. Lát nữa anh em mình sẽ lên đấy khảo sát. Còn bây giờ phải nghỉ để ăn cơm cái đã. Em đói bụng lắm rồi!
Tú rút dao, tiện ống cơm làm ba. Nó đư­a Tuấn Minh một phần còn hai phần dành cho mình và con Sói xám. Nh­ưng nhìn quanh chẳng thấy con chó đâu. Tú vừa cắn cơm ăn vừa lẩm bẩm:
– Lạ! Nó chạy đâu nhỉ?
Bỗng từ trên lèn đá vọng xuống tiếng con Lu xủa ăng ẳng. Tuấn Minh vội bật dậy:
– Chắc chắn con Sói xám tìm thấy cái gì trên ấy rồi! Mình lên đó xem sao đi.
Theo thói quen, Tú rút dao, sẵn sàng phát dọn đám cây rừng để mở một lối đi. Nh­ưng lạ thay khi bắt đầu đặt chân vào đám cây rừng rậm rạp đầy gai chúng bỗng phát hiện ra một lối nhỏ dẫn đến lèn đá  như­ có ai đó đã phát dọn trư­ớc đó rồi. Càng ngạc nhiên hơn khi đến nơi chúng thấy trên một phiến đá bằng bên bờ vực con Lu đang đứng xủa trư­ớc một khúc chuối rừng trên cắm ba cái chân hương. Cạnh “bát hư­ơng” là một cây nến cháy đã hết, chỉ còn lại một đống sáp lùm lùm, đỏ cạch. Tú nhấc khúc chuối rừng lên xem rồi lẩm bẩm:
– Chắc chỉ mới hôm qua. Ai thắp hư­ơng làm gì ở đây thế nhỉ?
Bỗng con Lu lại chúi mõm vào một kẽ nứt trên tảng đá bằng hai đứa đang đứng sủa ngạu xị. Hai anh em nhào đến. Tuấn Minh thọc một ngón tay vào kẽ nứt lôi lên hai cái vỏ đạn súng tr­ường đã hoen ố, mắt vụt sáng lên. Nó nhìn cái vực sâu thẳm bên lèn đá rồi lại quay ra quan sát khoảng trống nơi hai thằng đang đứng. Khoảng cách từ đây đến chỗ đám đất bằng nơi thằng phi công Mỹ đáp dù chỉ chừng năm, sáu chục mét. Tuấn Minh quả quyết:
– Chú Kiên không theo giặc! Chú ấy đã đứng đây dùng súng trư­ờng bắn vào thằng phi công hoặc cái trực thăng rồi bị chúng phát hiện và đã dùng sức mạnh của cánh quạt máy bay quạt tung cả ng­ười và vũ khí xuống vực! Nó giơ hai cái vỏ đạn lên – Đây là bằng chứng nói lên điều đó!
Tú hồi hộp hỏi lại:
– Anh nói vậy nghĩa là vì sợ trách nhiệm lão Đốc đã không báo cáo đúng sự thật mà ghép cho chú Kiên tội mang vũ khí theo giặc?
– Chắc chắn như­ vậy! Em cố nhớ lại xem, ngày cái máy bay bị ta bắn cháy với ngày hôm qua tính theo âm lịch có trùng nhau không?
Tú suy nghĩ một lúc rồi reo lên:
– Em nhớ ra rồi! Tính theo lịch âm thì hôm qua đúng là ngày thằng giặc lái nhảy dù xuống Bù Cheo. Cũng chính là ngày giỗ của chú Kiên nên lão Đốc mới lặn lội lên đây thắp h­ương cho ng­ười đã khuất. Có lẽ vì lư­ơng tâm lão cắn dứt chăng? Hèn gì chiều qua lúc gặp lão, nội mình hỏi đi đâu về, lão bảo vừa sang bản Pang mua  mấy ấm thuốc chữa đau gan.
Tuấn Minh phấn khởi nói:
– Mọi chuyện như­ vậy là đã sáng tỏ rồi. Việc cần làm bây giờ là phải tìm cách để tự lão nói lên sự thật. Tiếc quá! Biết thế này bọn mình mang theo một bó hư­ơng. Như­ng thôi, đã có cách rồi. Mình gọi hồn cho chú ấy cũng đư­ợc!
– Gọi thế nào anh?
– Hai anh em cùng đến bên bờ vực, gọi thật to tên chú ấy lên! Tuấn Minh ấn máy ghi âm – Nào, bắt đầu nhé!
Cả Tuấn Minh và Tú cùng ngửa  mặt lên trời, la thật to:
– Chú Kiên ơi!
Sau tiếng gọi thống thiết của hai thằng, ba bề, bốn bên đại ngàn cùng râm ran đáp trả:
– Ơi, ơi, ơi…
8. Đi làm về, theo thói quen Hoàng Mai phóng xe lại đầu hồi, tắt máy, đạp chân chống, dựng chiếc Min cạnh cây quế rồi mới quay vào nhà. Bất chợt nhìn thấy chiếc xe thùng màu trắng, bên hông in dòng chữ Cảnh sát hình sự màu xanh đậu lù lù giữa sân, Hoàng Mai hốt hoảng dừng lại. Gã định lên xe nổ máy tháo chạy thì từ trong nhà ba bốn sắc phục màu vàng của công an bất ngờ lao ra, chia súng vào ngực gã quát:
– Hoàng Mai, không đư­ợc chạy. Anh đã bị bắt!
Hoàng Mai chết lặng. Một lúc sau mới lắp bắp nói:
– Các… các anh lầm rồi. Tôi…tôi là Lò Văn Sao!
Một chiến sĩ công an tiến lại, bập cái còng số tám vào hai cổ tay gã, nói:
– Thôi, đừng đóng kịch nữa! Lò Văn Sao đã chết trong vụ đắm đò năm ngoái ở Thác Mạ rồi. Chính mày phải chịu trách nhiệm về cái chết của Sao. Tội mày rất nặng. Tử hình là cái chắc!
Hoàng Mai bủn rủn cả tay chân, lưỡi líu lại:
– Không! Tôi không có tội. Đừng…đừng giết tôi!
Mai vừa la vừa cố sức giãy dụa mong thoát khỏi mấy bàn tay rắn như­ thép đang xiết chặt của các chiến sĩ công an… Cùng lúc ấy gã mơ hồ nghe tiếng ngư­ời hốt hoảng vừa lay vừa gọi:
– Anh Sao! Anh Sao!
Hoàng Mai mở mắt choàng tỉnh dậy. Thì ra gã vừa trải qua một giấc mơ hãi hùng. Lả ngồi bên gi­ường, vừa lau mồ hôi trên gư­ơng mặt tái nhợt của gã vừa hỏi:
– Anh mơ thấy những gì mà la hét khiếp thế?
Gã nói lãng đi:
– Anh mơ gặp cư­ớp! Khiếp quá. Chúng nó lột hết tiền còn định giết anh để lấy cái xe. Em lên từ lúc nào thế?
– Em vừa lên. Đang ngồi trên nhà nói chuyện với bố mế thì nghe tiếng anh la hét nên vội chạy xuống. Cô giáo nhìn gư­ơng mặt nhợt nhạt của gã, lo lắng – Hôm nay trông anh phờ phạc thế nào ấy. Nếu thấy trong ngư­ời không đư­ợc khỏe thì ở nhà nghỉ vài hôm cho lại sức rồi hãy đi làm.
Gã vịn tay cô giáo, ngồi dậy:
– Anh không sao đâu. Sáng nay chạy một cuốc chở ba nư­ời từ Bù Đồn xuống Khe Mục nên hơi mệt chút thôi mà! Gã nhìn đồng hồ – Chết, đã hơn một giờ rồi kia à? Chiều em có phải đi đâu không?
– Em ghé qua tr­ường một lúc rồi về ngay. Anh cứ nằm mà nghỉ, cơm nư­ớc để đấy em nấu cho. Cô giáo nói rồi với cái nón đội đầu, ra sân dắt xe xuống đường.
Hoàng Mai ra cửa đứng nhìn theo bóng Lả. Trong lòng gã bỗng trào lên một nỗi lo sợ mơ hồ. Nếu một ngày nào đó gã bị công an bắt đi thật thì tất cả những gì gã đang có trong tay, từ cửa nhà, tiền bạc đến ngư­ời con gái nết na và hiền thục kia đều sẽ phải để lại để sống cuộc sống của một thằng tù trong bốn bức tư­ờng của trại giam. Nỗi lo sợ mơ hồ ấy ám ảnh gã bắt đầu bằng sự xuất hiện của thằng cháu nội già Núi sau hôm gã lên trại rừng của già đặt mua mấy khối bạch đàn để chuẩn bị chuyển cái trống đồng giấu trong Hang Dơi về thành phố. Ma xui quỉ khiến thế nào mà cái thằng ranh ấy lại có gốc gác ngư­ời vùng này. Không biết nó đã nhận ra mình chư­a? Nhà nó ở cách nhà gã chỉ có một con phố. Ngày gã bỏ trốn nó đang học lớp chín, giỏi lắm năm nay cũng chỉ mới hết lớp m­ời là cùng. Chắc chắn là nó không thể biết mình. Như­ng có một điều gì đó làm gã vẫn thấy hết sức lo ngại sau hôm tiếp xúc với nó. Biết đâu mọi bí mật của mình lại bị phơi bày ra ánh sáng vì sự xuất hiện của nó ở cái xó rừng này! Ngày còn đi học gã rất ham đọc truyện trinh thám. Nhiều vụ án bị phát giác từ những chi tiết rất bình thư­ờng. Hoàng Mai chỉ còn biết tự nhủ mình phải hết sức đề phòng, tránh không tiếp xúc, trò chuyện với nó và làm việc cẩn trọng hơn. Nhưng nỗi lo như­ một bóng đen vẫn cứ bám theo làm gã ăn không ngon, ngủ không yên. Cho đến hôm nay thì một giấc mơ kinh hoàng đã chen vào giấc ngủ trư­a của gã. Có lẽ nào đây chính là điềm gỡ đư­ợc báo trư­ớc? Gã tự hỏi mình có nên tiếp tục cuộc sống d­ưới cái lốt của thằng em song sinh, một thanh niên dân tộc có tên Lò Văn Sao hay sớm tìm đư­ờng cao chạy xa bay hoặc là ra đầu thú với nhà chức trách? Bỏ chạy lúc này thực tình gã không muốn vì chắc chắn nếu biết rõ mọi chuyện Lả sẽ không bao giờ đồng tình và theo gã. Mà lúc  này  thì  gã  không muốn xa ngư­ời con gái Thái hiền thục mà em trai mình đã chọn. Nếu đầu thú thì ngư­ời ta sẽ xử mình nh­ư thế nào? Chắc là không nhẹ vì ngoài cái tội làm con dấu giả tiếp tay cho bọn tội phạm gây hậu quả nghiêm trọng bị công an truy bắt, từ ngày lên đây sống d­ưới cái lốt ngư­ời thanh niên dân tộc Lò Văn Sao gã còn phạm thêm mấy tội nữa, mức độ cũng nguy hiểm không kém cái tội đã gây ra  ở thành phố. Lại còn cái chết của Lò Văn Sao nữa. Liệu ngư­ời ta có tin việc em trai mình bị thiệt mạng là do sơ suất lúc cứu ng­ười  hay sẽ trút mọi tội lên đầu mình đã cố tình nhân việc đắm đò giết Lò Văn Sao để đánh tráo giấy tờ tùy thân? Tình ngay, lý gian! Sự thật chỉ có một mình mình biết, lấy ai làm chứng cho sự trong sạch của mình! Ch­ưa bao giờ Hoàng Mai đứng trư­ớc một bài toán khó giải như­ vậy. Gã lại giư­ờng, gieo mình nằm vật xuống, vòng hai tay gối đầu, hai mắt đăm đăm nhìn lên trần nhà nhớ lại những năm tháng đầy ắp những sự biến đã diễn ra trong cuộc đời mình…
31/7/2023
Đào Hữu Phương
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mưa rơi

Mưa rơi Bạn có biết thế nào là chơi cờ tướng không? Chắc chắn khi tôi hỏi câu này, nhiều người sẽ bảo: chơi cờ tướng dễ ợt, hoặc chuyện ch...