"Hoàng Việt Hằng thơ tuyển":
Ấn tượng một lối ký thác vào thơ
Điều đáng trân trọng là trong tập “Hoàng Việt Hằng thơ tuyển” hầu như bài nào nhà thơ cũng tìm ra được cái tứ rất độc đáo. Đó là tâm trạng có thực của nhà thơ đã trở thành một khuynh hướng nghệ thuật, đậm chất nhân văn khơi gợi tình đời, tình người cao đẹp. Cách khơi gợi đó chạm vào chân lý phổ biến của tồn tại con người như: số phận, sự sống, cái chết, tình yêu, lòng chung thủy, khát vọng, hạnh phúc, niềm tin và tương lai…
Cuốn “Hoàng Việt Hằng thơ tuyển” NXB Phụ Nữ – 2023, dày gần
300 trang là thể hiện sự lựa chọn tinh kỹ từ tám tập thơ đã in của tác giả. Bao
gồm: 23 bài trong tập thơ “Những dấu lặng” (NXB Phụ Nữ – 1990); 9 bài trong tập
thơ “Tự tay nhóm lửa” (NXB Hội Nhà văn – 1996); 12 bài trong tập thơ “Chuông vọng”
(NXB Phụ Nữ – 2000); 14 bài trong tập thơ “Một mình khâu những lặng im” (NXB Phụ
Nữ – 2005); 12 bài trong tập thơ “Vệt trăng và cánh cửa” (NXB Phụ Nữ – 2008);
23 bài trong tập thơ “Xóa đi và không xóa” (NXB Phụ Nữ – 2012); 22 bài trong tập
thơ “Trăng vàng ngồi vớt trăng vàng” (NXB Phụ Nữ – 2015); 30 bài trong tập thơ
“Em đã đốt thơ tình anh tặng” (NXB Phụ Nữ – 2019). Với 153 bài thơ và lời cuối
sách, tập “Hoàng Việt Hằng thơ tuyển” đã chạm đến “nỗi niềm thương cảm đàn
bà với thơ và những góc khuất khác của số phận”.
1. Trục cảm hứng chủ đạo
Bằng cái nhìn thế thái, nhân sinh đầy tình nhân ái, tập thơ
đã thể hiện đa chiều những cảm xúc đằm lắng và đủ độ chín khi viết về những uẩn
khúc cuộc đời, những cảnh ngộ éo le, những tâm trạng bi kịch khó nói. Nhiều bài
thơ viết về nhân tình thế thái dần trở thành tư tưởng nghệ thuật, thể hiện mỹ cảm
của thơ Hoàng Việt Hằng.
Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm đó là những dắn vặt từ
trong cảm thức của nhà thơ sau mỗi bước chân đi qua mỗi vùng, mỗi ánh mắt nhìn,
bàn tay từng chạm đến. Nhà thơ nói về họ mà như nói về chính mình trong cuộc đời
để cùng trải nghiệm, cùng chia sẻ buồn đau và cần quan tâm trợ giúp để tìm ra lối
thoát.
Tập “Hoàng Việt Hằng thơ tuyển” bao trùm cả một không gian rộng,
dài theo đất nước và khoảng thời gian đằng đẵng đeo bám dài theo cả một đời người.
Có biết bao cảnh vật mây, trời, sông, biển, chùa chiền, đình miếu và cảnh heo
hút trên triền núi, hay vực thẳm hang sâu…, tất cả đều được nhà thơ nhìn với
cái nhìn đầy cảm thông, được chắt lọc từ thực tiễn cuộc sống…
Người đọc ấn tượng với một buổi sớm ở Bến Đoan, với “những
con thuyền ngủ trên cát trắng… sóng xô lên vạt áo xóm chài”. Ý thơ ở đây khơi gợi
sự hiện diện về những cuộc đời lam lũ, vất vả của người dân lao động vùng biển.
Từ đó đề cao đức cần cù, sự chịu thương chịu khó ấy như một vẻ đẹp tất yếu của
người dân đất Việt. Mô tả ánh mắt của con chim biển “dỏ dẻ” với dòng “nước mắt
trong veo”, tác giả mở ra một mùa thu tâm trạng độc đáo qua “những con
chim dỏ dẻ có đôi mắt mùa thu… mắt những con chim đất nước không thể khác/ vẫn
mùa thu phương Bắc tràn về”.
Đến với cảnh biển ở Hòn Gai, đảo Đèn, đảo Đá hay kể cả lần đầu
đi biển Khánh Hòa đến Hòn Lao ngồi ngắm núi Cô Tiên…, tất cả những hình ảnh sống
động ấy của thên nhiên biển trời đều hiện về tươi rói, tràn trề sức sống trong
thơ chị.
Hình tượng dòng sông trong thơ Hoàng Việt Hằng luôn thấm đẫm
tâm trạng. Đến với Tây Bắc hùng vĩ, nhà thơ có sự liên tưởng, phát hiện thật đặc
biêt:“sông Đà nước trong/ để làm bạn với đá ong/ để cười khóc trong lòng biết
thôi/ nỗi buồn riêng của đời người”. Trở về sông Hồng ngắm hoa cải vàng nở khắp
bờ sông, cảnh sắc đẹp mà lòng chị vẫn không sao vui được. Cầm lòng về với sông
Cầu đầy vơi thương nhớ mà lòng dâng đầy nuối tiếc, bâng khuâng:“Tôi mua một vé
sang sông/ Để chìm vào cảnh rêu phong cổng làng” (Vé sang sông một lượt,
tr 184). Có lúc đứng bên này sông Nậm Khan nhà thơ trăn trở, thẫn thờ, rưng
rưng dõi tìm hồn quê Việt nơi đất bạn Lào;
“Mắt đã nhòa ký ức phía sau lưng
Đâu thôn giã, đâu sông, đâu bản
Đâu hồn quê Việt ở đất Lào”
(Bên này sông Nậm Khan, tr,155)
Bên cạnh những vần thơ tả về sông, về biển, nhiều cảnh vật
núi non trong thơ Hoàng Việt Hằng được mô tả với một cách nhìn cũng rất riêng.
Đặt chân lên núi Thạch Lâm, chị ước:“ước gì xuống núi thảnh thơi/ Nỗi buồn núi
giữ niềm vui đem về”. Đến núi Lam Kinh, chị ngậm ngùi cúi xuống “nghiêng
mình bên Nguyễn Trãi”. Khi theo gió hây hẩy lên Mẫu Sơn giữa những ngày tuyết
phủ, chị “giấu câu chuyện tình. Để sống”.
Hầu như các cảnh vật trong thơ chị đều in dấu ấn các vùng miền
mà chị đã từng qua. Mỗi bài thơ viết về vùng đất hay con người ở đấy đúng như
chị nói: “Tôi đã chọn ghi chép… như ghi nhật ký để nói chuyện với chính mình… y
như nghề viết, như thơ, định mệnh, đã chọn tôi” (Lời cuối sách, tr 278).
Có điều chị khai thác tìm tòi được những ngôn ngữ thơ (lời thơ) rất dung dị mà
độc đáo, từ cách đặt tên gọi cho các tập thơ đến các cách thức khai thác hình ảnh.
Người đọc ấn tượng với tên của những tập thơ: “Những dấu lặng”;
“Trăng vàng ngồi vớt trăng vàng”; “Một mình khâu những lặng im”…, và nhiều hình
ảnh thơ đẹp, hàm súc mà sâu sắc, ẩn chứa nhiều sức gợi – “Đời người se chỉ
luồn kim/ Chị đành khâu những lặng im đời mình”. Hoặc “Bây giờ làng cổ chiều
mưa/ Thổ Hà trong giấc mơ xưa đã tàn/ gốm men vẫn óng mơ màng/ xếp thành phên
giậu tơ vàng mà ru” (Vé sang sông một lượt, tr 185). Ý thơ ở đây bộc lộ rõ sự
nuối tiếc về Thổ Hà đã để trượt mất nghề gốm từng nổi tiếng một thời, nay chỉ
còn vang bóng,
Bên cạnh sự chân thành quan sát, chân thành gánh vác, thơ Hoàng Việt Hằng còn thể hiện rõ sự chân thành giày vò. Trong tám tập thơ, dường như tập nào cũng có không ít bài thể hiện điều đó. Ví như bài Bên phải, ở đây chị chọn đường bên phải, nơi có cây ngải đắng mà nhìn vết thương hằn trên tay với nhiều khổ ải, ngang trái cuộc đời. Nhìn cây me lá vàng chị ngậm ngùi buồn đắng thấy mình như “sa mạc khô cằn” mà muốn tìm lối thoát, gắng vượt lên để sống.
Giày vò khiến chị sống không yên và “những ý nghĩ giày vò ấy
“ cứ hiện hữu xoáy sâu vào tiềm thực nhà thơ. Đó là nỗi ám ảnh về những bữa cơm
không đủ no, những người ăn xin chìa tay ngoài đường, những bàn chân tướp máu,
bởi cuộc sống khốn khó bủa vây:“lưng gạo, cọng rau, lễ tạ để đâu”…
Chị đã giãi bày lên trang thơ nhiều nỗi cô đơn, đau khổ cơ cực
đến rơi nước mắt, nhưng không để than phiền mà là để cảm thông, chia sẻ và nâng
đỡ. Bắt gặp những mảnh đời bất chợt chẳng liên quan đến mình mà chị vẫn thấy cứ
“day dứt mãi trong tôi”. Nhà thơ băn khoăn, day dứt khi gặp một ông già cô
đơn, sống một mình bên chai rượu trắng làm nghề liệm xác: “ông lặng lẽ nghe nhiều
tiếng khóc” và liệm xác cho không biết bao người. Những lời thơ bộc bạch “day
dứt mãi trong tôi/ nhìn xuống đất sâu/ đời ông già liệm xác/ ông bảo ông chỉ sống
một mình với chai rượu trắng?” Lời thơ buông bỏ ngỏ xong gợi nhiều suy tư. Nếu
không có một tấm lòng nhân hậu, trìu mến yêu thương đồng loại, chắc hẳn nhà thơ
không thể giãi bày những day dứt trầm lắng và sâu xa đến thế.
Sự chân thành giày vò được ẩn sâu sau “những dấu lặng”. Cách
so sánh của thơ Hoàng Việt Hằng thật độc đáo khi dấu lặng được chị ví
là những viên sỏi chấm trên đất cho bao dấu chân người vô tình dẫm đạp qua. Nhiều
khi muốn quên, muốn xóa đi mà không sao xóa được.
“Ta muốn quên chuyện buồn nên đi chợ Bắc Qua
Đông vui thế nỗi buồn không qua được
(“Viết ở tam quan chùa Vân Hồ”, tr 55)
Theo chị thời gian làm cho buồn phiền cũng có tuổi và lớn dần
lên theo số phận đời người. Trong thơ Hoàng Việt Hằng đầy triết lý về nỗi buồn:
Nỗi buồn riêng của đời người
Chắng san sẻ, chẳng chia phôi dễ dàng
Xin làm lữ khách đa mang
Thỉnh chuông một lạy chùa Hang không người…”
(Chùa trong núi Lăng Tiêu tr 87)
Viết cho con trai một tuổi, nhà thơ lặng lẽ ngậm ngùi nhấm
nháp: “Những nỗi buồn xưa/ nước mắt vừa xóa vội/ Những nỗi buồn bây giờ/
câu thơ nào chứa nổi” (viết cho con trai một tuổi, tr 40). Sự giày vò ấy cũng
in đậm dấu ấn cuộc đời chị. Chấp nhận tình yêu, xót mình đơn lẻ, chị bằng lòng
một cách nhẫn nhịn “lấy chồng, lấy để mua sầu làm sang”. Để rồi lầm lũi
cam chịu “một mình khâu những lặng im… khâu cay đắng với trớ trêu mỉm cười”.
Trong bài “Thơ tình viết ở tuổi 20” dường như chị đã tiên
đoán được nỗi buồn sẽ ám ảnh đời mình, nên cái ước cũng thật là lạ – “sau này
có ước làm cây/ để trông ra biển đọa đầy có nhau”. Những lúc ưu phiền hay
khi cõi lòng bế tắc, người ta tim đén cõi thiền để giải sầu, cầu nguyện. Nhà
thơ tìm đến chùa để tĩnh tâm, thư giãn và sự cầu nguyện cũng khác người. “Người
cầu con thảo dâu hiền/ người cầu có lắm bạc tiền giàu sang/… Tôi cầu một bình
yên thôi.. Để đi để viết để đời câu thơ” (Chùa Một Mái, tr 113).
Khi viết về nỗi buồn, chị nhặt nốt nhạc buồn, khi ngồi với
thênh thang cô độc, chị vịn vào trăng để thả đam mê, giống như “bùa ngải viết
thuê lần hồi”. Tập thơ “Trăng vàng ngồi vớt trăng vàng” được ra đời trong hoàn
cảnh đó. Tập thơ cũng được Giải thưởng của Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà
Nội, năm 2015.
Thơ Hoàng Việt Hằng khai thác những góc khuất cuộc đời, những
số phận éo le, buồn tủi, để cảm thông, để chia sẻ niềm tin và vực họ vươn dậy tự
vượt lên số phận, để sống có ý nghĩa. Tình yêu thương đó được Hoàng Việt Hằng
thơ hóa thành thành “nghệ thuật yêu thương” nên thơ chị chứa đựng hệ giá trị đẹp
về ngôn từ, hướng tới vẻ đẹp chân – thiện – mỹ, nên có sức lan tỏa, sức
lay động cảm xúc người đọc.
Bao nhiêu năm lăn lộn trên thương trường để viết và chỉ sống
bằng nghề viết, kết quả của việc phu chữ đó của chị đã được khẳng định bằng các
giải thưởng giá trị. Điều đó càng tôi luyện để nhà thơ có sự tìm kiếm, phát hiện
và không ngừng sáng tạo, nhất là việc sáng tạo tìm được những tứ thơ độc
và lạ hấp dẫn.
2. Về cấu tứ của tập thơ
Cái lạ và hay luôn hấp dẫn người đọc trong thơ Hoàng Việt Hằng
chính là ở tứ thơ. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Tứ thơ là cảm
xúc thơ, hoặc ý nghĩa hình ảnh thơ. Cấu tứ là tạo được hình tượng có khả năng
khêu gợi được cảm xúc thơ, tức cái cảm xúc nhân văn của tâm hồn con người. Đó
là sự kết hợp hình ảnh sống động và ý thơ, sao cho sự sống của hình ảnh càng
triển khai ra càng thêm nhiều ý nghĩa”(Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục,
1992, tr 208). Trong thơ Hoàng Việt Hằng có thể nói hầu như câu thơ, bài thơ
nào cũng có tứ – thể hiện một cách nhìn, cách cảm và cách nghĩ của nhà thơ.
Tứ trong thơ Hoàng Việt Hằng được hình thành bởi những
ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ “đắt giá”. Điều đặc biệt là cái “đắt” ở đây không có
gì cao siêu mà đơn giản chỉ là các hình ảnh dung dị, thân thuộc, gần gũi đời
thường được nhà thơ đặt “đúng chỗ”. Nên ngôn ngữ thơ Hoàng Việt Hằng có sự biểu
đạt hình tượng khá đặc biệt, gây hứng thú, tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
Để có được tứ thơ và việc cấu tứ sâu sắc ấy chứng tỏ nhà thơ phải có khả năng
quan sát tinh vi, có sự tìm tòi và phát hiện khá tinh tế.
Sự phát hiện tinh tế khi vãn cảnh trong “một chiều xuân” được
thể hiện ở cách so sánh thật lạ của nhà thơ: “ai đi tung muối vào sương/ cho
tình yêu mặn trên đường có anh”. Nhìn mùa lá đỏ theo gió cuốn đi, nhà thơ
liên tưởng “có những thứ đã buông mà không mất/ đổ theo mùa ký ức chẳng
tàn phai”. Nhìn cảnh núi non hùng vĩ của những con thác đổ, nhà thơ ký gửi mất
mát, ký gửi nước mắt để xâu chuỗi cuộc đời mình vào “nửa cuộc tình
chia ly/ dù cuộc đời sống gửi/ ký thác xong…thác về”… Những cách biểu đạt hình ảnh
đó trong tập thơ thật độc đáo, chứa nhiều tầng ý nghĩa, đọng sâu ấn tượng trong
lòng bạn đọc.
Cái tài của Hoàng Việt Hằng là chị tìm ra tứ rất nhanh và sâu
sắc, hầu như bài thơ nào trong tập thơ cũng đều có tứ. Những tứ thơ ấy được nảy
sinh mỗi khi quan sát cảnh vật, hoặc xúc động khi gặp góc khuất của những cảnh
đời éo le, bất hạnh, những con người nghèo khổ, dị tật. Đôi khi chị như đặt
mình vào những góc khuất ấy để đồng cảm sẻ chia. Ẩn sâu bên trong những nỗi băn
khoăn, trăn trở ấy đều chất chưa những nỗi niềm trần thế:
“ Duy nhất vị chánh án lương
tâm
Thẩm vấn chính ta ! về già
Nơi không có phiên tòa
Gió giông vu vơ vẫn hỏi
Này người gieo bão gặp gì?”
(Có trôi vào quên lãng, tr 197)
Tình yêu được Hoàng Việt Hằng giãi bày qua nhiều bài thơ tình
trong tập thơ. Nét lạ trong thơ tình Hoàng Việt Hằng là chấp nhận một nửa thuộc
về mình – “lấy chồng lấy để mua sầu làm sang”. Nhiều bài thơ thể hiện một
nỗi buồn nuối tiếc, cất giữ những tình cảm và kỉ vật tình yêu trong kí ức và
dùng thơ để ký thác tâm tình:
“Đúng là em đã đốt hết thơ tình
Anh tặng em tuổi 20 trăng vỡ
Những bài thơ nhìn tàn tro nín thở
Thuộc đôi dòng lục bát giấu ngăn tim
(…) Em cũng như rêu
Không cho mình phận bạc
Đã trăng vàng
Vằng vặc ướp mưa thu”
(Em đã đốt thơ tình anh tặng, tr 213)
Trong cuộc sống, việc đốt thơ tình người yêu tặng mình là
chuyện rất đời, ta thường hay gặp. Nhưng hình ảnh “những bài thơ nhìn tro tàn
nín thở/ thuộc đôi dòng lục bát giấu ngăn tim” thì cho thấy rõ ràng tình yêu
này “có vấn đề”, dồn nén nhiều điều trắc ẩn. Thêm cách so sánh, “em cũng như
rêu” nhằm diễn tả nỗi buồn nhớ đến cao độ, từng trải dài theo thời gian. Ý thơ
khẳng định, buồn nhưng không bi lụy là bởi chị “không cho mình phận bạc/
đã trăng vàng/ vằng vặc ướp mưa thu”. Thật là một nỗi buồn đẹp, tình yêu đã
giúp chị vượt dậy, tìm đến cách sống tươi sáng có ý nghĩa.
Cách viết độc đáo này đem đến sự cảm thông sâu sắc cho những
người cùng chung cảnh ngộ. Chứng tỏ việc tìm tứ cho bài thơ của tác
giả là công việc lao động nghệ thuật tinh vi, nó vừa đòi hỏi một sự khổ công
tìm tòi, vừa phải có một tài năng sáng tạo. Bởi tứ thơ có thể nảy sinh từ hình
tượng xuyên suốt cả bài thơ, có thể nảy sinh từ một cảm xúc chung rồi dẫn dắt
ra những dòng suy nghĩ, liên tưởng.
Điều đáng trân trọng là trong tập “Hoàng Việt Hằng thơ tuyển”
hầu như bài nào nhà thơ cũng tìm ra được cái tứ rất độc đáo. Đó là tâm trạng có
thực của nhà thơ đã trở thành một khuynh hướng nghệ thuật, đậm chất nhân văn
khơi gợi tình đời, tình người cao đẹp. Cách khơi gợi đó chạm vào chân lý phổ biến
của tồn tại con người như: số phận, sự sống, cái chết, tình yêu, lòng chung thủy,
khát vọng, hạnh phúc, niềm tin và tương lai…
3. Một lối thơ đa dạng thể thức, nghiêng về phía hiện đại
Tập “Hoàng Việt Hằng thơ tuyển” rất đa dạng về thể thức.
Thể thơ không chỉ gắn với nghệ thuật ngôn từ mà còn phải được xem như là biểu
hiện của quan niệm thẩm mĩ đối với đời sống. Ý thức về con người cá nhân và sự
vận động đổi thay của xã hội trong thơ Hoàng Việt Hằng được thể hiện rõ trong lối
thơ tự do, mang phong cách thơ hiện đại, không bị bó buộc câu chữ. Có nhiều câu
thơ văn xuôi dài tới 10, 12 chữ rồi thu về 1, 3, hay 4 chữ ở câu tiếp theo.
Một số bài thơ ngũ ngôn mang hơi hướng Kinh thi rất chuẩn
như: “Bạn tôi vẽ tôi” (tr 42); “Sao lại kết thúc thế này” (tr 53); “Mạ ở Gio
Linh” (tr 204); “Mưa ngâu chạm cửa”(tr 234). Câu mở đầu bài Mưa ngâu chạm
cửa gợi về tà áo 5 màu chứa đựng biết bao duyên dáng tình tứ. Bài thơ chứa
đựng nỗi buồn man mác “em vẫn trong cõi tam/ anh, nước trôi xa bờ”. Câu
cuối bài thơ kết lại “Đơn phương em đứng lặng/ quan họ buồn trăm năm”. Ở
đây nhà thơ đã mượn hình ảnh cái áo tứ thân và tình yêu của người quan họ để
bày tỏ cảm xúc trầm lắng trong tâm thức mình về nỗi buồn nhân tình thế thái
chung của nhân loại. Thể thơ 5 chữ dặt dìu qua nhiều cung bậc cũng đủ trở thành
một giai điệu buồn đẹp, mãi ngân vang trong lòng người đọc.
Tiếp nối truyền thống, tìm về mạch nguồn dân gian, thơ lục
bát trong “Hoàng Việt Hằng thơ tuyển” rất giàu chất trữ tình, giàu nhạc điệu và
mượt mà, uyển chuyển. Những khẩu ngữ, tục ngữ, cách ví von so sánh qua những
bài “Vé sang sông một lượt” (tr 184); “Xòe bàn tay bấm ngón tay” (tr 186)… rất
giàu sức gợi. Có những câu lục bát rất ấn tượng khắc sâu vào ký ức người đọc
như:
“Đám mây như chiếc khăn màu
Bay hồng cả nỗi nhớ nhau lưng đèo”
(qua Đèo Nai, tr 108)
Hoặc:
“Em ngồi với bóng trăng già
Nuôi con với muối, xát qua nỗi buồn”
(Xòe bàn tay bấm đốt (tr 186).
Những lời thơ dung dị ấy được nhà thơ sử dụng vần điệu tuân
thủ theo quy tắc lục bát, thể hiện đúng tâm trạng vân vi nhớ, trắc ẩn buồn của
nhà thơ. Đôi khi để tạo dấu ấn riêng biệt, lạ hóa, chị đã sử dụng tách câu thơ
ra làm nhiều dòng để làm mới thể thơ này. Hướng đến thơ tự do văn xuôi, thơ hiện
đại đòi hỏi nhà thơ phải đi sâu tìm tòi, khám phá, sáng tạo nghệ thuật, tránh sự
sáo mòn ngôn ngữ, sự khuôn mẫu về nhạc điệu, để gây được ấn tượng mới mẻ. Đưa
ngôn ngữ đời thường vào thơ khiến thơ dễ nhập vào người đọc và trở nên gần gũi
cuộc sống:
“Anh – thế giới bên này
Em – thế giới bên kia
Xưa
Có đêm hai ta nói chuyện về người đã khuất
Nay
Em nhìn bóng trên tường
Trò chuyện với anh”
(Chiêm bao, tr 112)
Nhà thơ như hòa mình vào những thân phận, ký thác vào thơ: Dù
cuộc đời sống gửi/ ký thác xong thác về. Ký thác cả chuỗi nỗi buồn của nhân
gian những mong chia sẻ nhằm làm vơi bớt nỗi nhọc nhằn buồn khổ trong cõi đời.
Đó là một xúc cảm nội tâm về lòng nhân ái cao đẹp của một người phụ nữ Việt
Nam. Những câu thơ ngọt ngào bao bọc, chở che, những âm vang chờ đợi với những
nỗi niềm thương cảm đầy nhẫn nhịn, cao thượng đã đem đến giá trị nhân văn sáng
giá cho tập Hoàng Việt Hằng thơ tuyển. Chính lối thơ đa dạng thể thức,
nghiêng lệch về phía hiện đại đã trở thành một đặc điểm phong cách sáng tác của
thơ Hoàng Việt Hằng.
7/1/2025
Nguyễn Thị Minh Bắc
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét