Thơ Lê Minh Thắng
và sự thể hiện cái khác
Lê Minh Thắng là nhà thơ luôn có sự kiếm tìm và đổi mới tư duy nghệ thuật theo từng hành trình sáng tạo của riêng mình. Đó là điều không phải ai cũng ý thức và thể hiện một cách hiệu quả như mong muốn. Từ tập thơ đầu tiên Hai bốn chữ cái (2017) đến tập thơ lần này Ánh sáng đổi ngôi (2024), quả là một sự thay đổi đầy bất ngờ của Lê Minh Thắng.
Trên nền tảng thi pháp sở trường và cái nhìn nghệ thuật luôn
hướng về chính mình và sau đó là hướng về cuộc đời trong muôn vàn biến động,
anh không ngừng thao thức để đi tìm cái Mới, cái Khác cho nghệ thuật thơ. Cái
nhìn nghệ thuật luôn gắn với cảm thức hiện sinh đã làm cho chất thơ và hồn thơ
Lê Minh Thắng không ngừng vận động và biến đổi, tạo thành cái tôi đang tư
duy một cách trữ tình, hiện thực nhưng cũng đầy tâm linh, huyền ảo và lãng
mạn.
Lê Minh Thắng là nhà thơ luôn có sự kiếm tìm và đổi mới tư
duy nghệ thuật theo từng hành trình sáng tạo của riêng mình. Đó là điều không
phải ai cũng ý thức và thể hiện một cách hiệu quả như mong muốn. Từ tập thơ đầu
tiên Hai bốn chữ cái (2017) đến tập thơ lần này Ánh sáng đổi
ngôi (2024), quả là một sự thay đổi đầy bất ngờ của Lê Minh Thắng. Trên nền
tảng thi pháp sở trường và cái nhìn nghệ thuật luôn hướng về chính mình và sau
đó là hướng về cuộc đời trong muôn vàn biến động, anh không ngừng thao thức để đi
tìm cái Mới, cái Khác cho nghệ thuật thơ. Cái nhìn nghệ thuật luôn gắn với cảm
thức hiện sinh đã làm cho chất thơ và hồn thơ Lê Minh Thắng không ngừng vận động
và biến đổi, tạo thành cái tôi đang tư duy một cách trữ tình, hiện thực
nhưng cũng đầy tâm linh, huyền ảo và lãng mạn.
Tư duy hình và tư duy ý trong thơ Lê Minh Thắng luôn gắn kết
và hòa quyện thông qua hình tượng và ngôn từ cũng luôn đa thanh và ảo ẩn. Vì vậy,
người đọc khó nhận ra tức thì/ trực tiếp ý tượng và nội dung, ý nghĩa mà anh cần
thông điệp. Phải đọc và lần tìm bên trong, bên sâu của ngôn ngữ và hình tượng mới
có thể hiểu được tư tưởng chính của khổ thơ, bài thơ.
Tôi muốn chứng minh nhận định trên bằng bài thơ Ánh sáng
đổi ngôi – bài thơ chọn làm tiêu đề cho cả tập thơ. Ánh sáng là đối tượng
được nhìn thấy/ khả kiến trong không gian bằng mắt thường của con người,
nhưng nó có tính chất đặc biệt trong những chuyển động bất thường. Nó có tốc độ
rất nhanh trong mọi điều kiện thời tiết và thời khắc, nhưng bằng cái nhìn thi
ca, Lê Minh Thắng đã nhìn ánh sáng một cách biến ảo và có phần bất ngờ trong nhận
thức của riêng anh: “vệt sáng đứt quãng động tình/ có thể nào sự nhầm lẫn/ ngọn
đuốc thiên nhiên hồi như xa xôi/ kỳ vọng đắm chìm giấc mơ niên đại/ kiếp
người đê mê phiêu dạt dòng đời/ con đường từng dấu chấm bất chợt”.
Rồi nhà thơ lại đặt ánh sáng bên những đối tượng và liên hệ khác nhau để thấy ánh sáng không chỉ là nó mà ánh sáng còn là những gì cao hơn/ khác hơn chính nó để hiện hữu những sinh vật/ sinh thể trên trần gian. Nhiều lúc nó mang thuộc tính người để đánh thức những gì đồng nghĩa với sự sống. Nhà thơ hiểu được nỗi niềm ánh sáng để hiểu được nỗi niềm nhân thế và hiểu cả những đối tượng tồn tại, chuyển động trên mặt đất này đều hiện hữu và được nhận biết thông qua ánh sáng đổi ngôi.
Tư duy nghệ thuật thơ Lê Minh Thắng là tư duy thực chứng vòng
tròn và va chạm, sinh thành theo logic đặc trưng như thế. Đó chính là cơ sở căn
nền để tôi lần hiểu và cảm thức tập thơ Ánh sáng đổi ngôi này của
anh. Cũng cần nói thêm rằng kiểu tư duy này đem lại sự khó khăn trong tiếp nhận
của người đọc, kể cả người đọc cao cấp/ người đọc đồng sáng tạo. Ngôn từ – hình
tượng – tư tưởng làm thành cái nhìn nghệ thuật và chất thơ riêng của Lê Minh Thắng
lại chịu quy định bởi cái tôi đa cực, cái tôi đang cảm xúc và đang tư duy giàu
biến ảo nên càng phức hợp và đa chiều, khó nhận thức và thấu hiểu theo logic
thông thường. Thơ Lê Minh Thắng đa nghĩa và đa cách tính chất chính vì lẽ đó. Mỗi
chủ thể tiếp nhận có cách hiểu của riêng mình.
Lê Minh Thắng tự hỏi chính nhịp đập trái tim mình bằng muôn
vàn câu hỏi. Rồi anh tự nhận biết mọi quan hệ tương tác trong không gian: “Tôi
hỏi tôi nhịp đập trái tim/ có phải đã chết trên dòng sông hiện hữu/ nơi thi vị
ngập tràn những đôi mắt/ sáng tối vô minh trên bức tường vô hình/ phủ bóng lên
trang sách tình yêu/ dở dang tôi hằng viết”. Từ sự nhận biết, cuối cùng
anh linh cảm được những gì đã qua kiểm nghiệm từ trái tim và ánh sáng để hiểu mọi
dại khôn trên cõi đời này. Đây là một kiểu tư duy đa phức được thể hiện thông
qua ngôn ngữ thơ cũng đa phức nên thông điệp trở nên hàm ngôn và đa nghĩa: “Tôi
nhận biết giữa không gian cách biệt/ thấp thoáng ngôi sao xa tít/ dịu
êm lướt qua đôi môi đồng cảm/ một góc trời chấm phá thành tâm/ biết
không em điều linh cảm/ hiện thực trong đôi mắt tôi/ xa mà gần/ hạt
cát niềm tin và ánh sáng/ buông giữa dòng đời biết mấy dại khôn” (Điều
linh cảm)
Như có lần tôi đã nhận xét, ngôn ngữ thơ Lê Minh Thắng luôn
diễn ra trong một chuyển động phẳng (flat motion), nó có khả năng liên hệ và nối
kết các sự vật, hiện tượng từ gần đến xa và ngược lại, từ xa đến gần để hiện hữu
trong nhau những tồn tại khả thể và biến thể trong cuộc sống, trong thiên
nhiên: “Ý thức trở về giản đơn/ không gian đa chiều và sự chuyển động/ ngoài tầm
kiểm soát của những thiên thời/ cái tương đối và tuyệt đối/ trong
lòng bàn tay vạn vật hấp dẫn”. Tất cả đều trông đợi và nương tựa vào ánh
sáng để nhận ra mọi bắt đầu và kết thúc của vạn vật.
Cứ thế, anh nhận biết chung quanh và mọi vật bằng cái nhìn
sinh thái thiên nhiên và sinh thái xã hội trong ước vọng điều bình lẫn nhau để
con người không thôi hy vọng vào những điều hằng cửu tốt đẹp: “Đôi mắt nương rẫy
lẫn vào tiềm thức/ chiếc lá lơ lửng một đời không định/ tôi nghe
trong từng giọt nắng/ tiếng gọi muôn thức/ cây cọ nơi hoang dã/ kỳ
vọng gì trong sâu thẳm mùa thu” (Cây cọ nơi hoang dã). Cứ thế, người
thơ không ngừng cảm niệm và chiêm nghiệm mọi quan hệ và kinh nghiệm sống. Anh
tin, sự vật được nhìn bằng ánh mắt thôi miên và giấc mơ di truyền theo cánh diều
bay lả. Anh tin rằng ở đâu đó, người vẫn thương người lắm, bên kia sông, có ai
đó gọi mình: “Tiếng gọi bên kia sông/ không ai oán/ thanh âm dạt dào hay
cách trở/ xa nhau chừng con nước/ bến sông này/ dập dềnh đi về
đâu/ hỡi người (Tiếng gọi bên kia sông).
Dù gì, đường chân trời vẫn rộng mở và ánh sáng vẫn luôn đổi
ngôi để mọi niềm yêu sinh nở trong ánh hào quang chói rạng. Thời gian và chiêm
nghiệm đời người sẽ giúp mỗi chủ thể hiện sinh nhận ra chính mình và tha nhân để
thấy mọi thanh tân đang chờ phía ban mai hồng hào rạng rỡ.
Toàn bộ tập thơ Ánh sáng đổi ngôi được Lê Minh Thắng
tư duy bằng phạm trù thời gian. Thông qua trục không – thời gian (chronotope),
anh bắt không gian và mọi đối tượng đều trở thành thời gian (không gian hóa thời
gian, đối tượng hóa thời gian) để anh đi tìm và hình thành, sáng tạo lại thời
gian: thời gian nội tâm và thời gian khách quan thường nghiệm. Và theo anh,
cũng chỉ qua phạm trù thời gian ấy, anh mới thực là mình, khách thể mới thực là
khách thể – một khách thể đã thành chủ thể, thông qua cái tôi đang tư duy của
nhà thơ: “Mùa thu vàng cái vẫy tay/ cây cầu ao nghiêng bóng nước/ bến vạn kiếp
hồn lá bay/ tình vu vơ người về an lạc/ thủy mặc nơi đây có hẹn hò” (Người
về an lạc).
Chỉ có kiểu tư duy và kiểu đồng hiện thời gian như thế, Lê
Minh Thắng mới quay ngược dòng sông tuổi thơ và bắt gặp lại thời gian ký ức cội
nguồn trong veo như cổ tích và huyền thoại. Vì vậy mà câu hỏi: Tuổi thơ đi về
đâu đã được giấc mơ trả lời: “Tuổi thơ trong giấc mơ/ đàn chim vui sải
cánh/ tìm gì nữa những tiếng hót/ một trời cao đang huyền thoại/ những tấm
lòng đã mênh mông” (Tuổi thơ đi về đâu). Ngay cả “em” trong đồng hiện của
người thơ cũng đã được định vị trong lung linh ánh nắng để nhận ra mọi da diết
ân tình: “Bâng khuâng em trong đám cầu vồng/ nhặt lung linh trên tầng nắng
ảo/ nhánh tơ hồng vắt ngang dải yếm/ cuối xuân thì ân tình gió mây” (Xuân
thì).
Với sự chiếm lĩnh thời gian theo kiểu tư duy huyền thoại và cổ
tích như thế, Lê Minh Thắng đã bắt không gian phải mênh mông, vô định và không
đóng khung trong những hữu hạn. Và như thế, chủ thể hiện sinh mới có cơ hội
làm chủ thời gan và lãng du qua những miền hiện thực và hoang tưởng có thật và
hợp lý: “Tôi nhón tháng ngày từng lãng du/ ngẫm nhìn hoa lá rải gấm vàng/ nhặt
một chút hương tình nơi lòng sông suối dạ/ vắt vào đây đôi giọt tường minh/ bức
ảnh đương thì đăng vô hình”. Trong cảm thức và cảm niệm của người thơ, thời
gian đã thành nguyên cớ để con người tiếp tục tồn tại, mơ mộng và lãng du qua
truông dài, phá rộng mong gõ nhịp và hoà hợp với thiên nhiên.
Không gian bầu trời và tiếng vọng nơi đường chân trời xa tít
đôi khi tĩnh lặng đến không ngờ, nhưng nhờ chúng mà nhà thơ đã không bao giờ
nguôi thao thức và chờ đợi những thanh âm vang vọng: “Chiếc khóa thường nhật
anh đã dành/ tiếng vọng bầu trời xa xăm/ không gian tĩnh lặng/ trăm
năm thao thức/ đôi người” (Tiếng chuông gió trên ban công). Thơ Lê Minh Thắng
nhiều lúc phản ánh cái nhìn âu lo và vô nghĩa của chủ nghĩa hiện sinh nhưng
không bi quan tiêu cực mà vẫn tràn ngập hành động, cảm nhận và sống trong viễn
tượng (perpectives) tốt đẹp của mỗi chủ thể hiện sinh tích cực.
Ở đó, mỗi trái tim luôn: “thổn thức điều mới lạ/ người và người
dìu nhau trong ý chí” để mọi duyên phận tốt đẹp và nghiệt ngã đều hiện lên
thành những táng cây hy vọng và những nhành nguyệt quế, những bản hoà tấu về một
miền đất hứa sẽ đánh thức trí nhớ và tư tưởng trong tương lai: “Cây cầu duyên vắt
vẻo bờ an/ dòng nước uốn quanh nghiệt ngã/ cuộc trường chinh dưới
tàng cây hy vọng/ khói bụi tung bay cuốn theo nhành nguyệt quế/ bản hòa tấu
để quên trong trí nhớ/ miền đất hứa đi về đâu” (Bản giao ước trên
dòng sông)
Lê Minh Thắng luôn mong mỏi và kêu gọi mọi hữu thể hãy quay về,
ý thức sự tồn tại của thời gian. Điều này cũng được chủ nghĩa hiện sinh đề cao,
để con người và sự vật luôn tự chứng ngộ bản thân mình và hiểu hết ý nghĩa của
sự tồn tại đó để cuộc sống và mọi hữu thể không vô nghĩa trước dòng thời gian
đang thao thiết chảy: “con đường uốn quanh ngơ ngác tiếng chim ca/ nghĩ về một
bầu trời êm đềm mây trắng/ cuốn hút giấc mơ nhân tình/ về đây thung lũng
gió”. Từ đó: “bài du ca chiều hôm em hát/ đôi môi thất lạc cánh rừng/ thảm
non xanh loang vết mực cô đặc/ tiếng gà gáy thấp thỏm ban mê”. Và mọi điều
tốt đẹp sẽ hiện lên: “bản tình ca trên thung cất lên/ đêm nghe suối hát
nhân tình” (đêm nghe suối hát nhân tình)
Mọi nước nguyền dang dở, giờ vẫn còn đây với thiết tha và ngọt
ngào dự cảm: “Lời ước xa xưa chưa phôi pha/ ta đi một thuở gót chân trần/ vượt
ghềnh ráng về suối ngàn dự cảm/ nguyên khí thả hồn đúc kết chân thành”
(Gió chiều nào thấp thoáng trên sông). Dẫu xa xôi nơi miền cô tịch, con người vẫn
tồn tại để mọi hiện hữu không trở nên vô nghĩa trước mọi ký ức an bài. Bởi mọi
tồn tại có trước bản chất nên con người có thể tự do lựa chọn cách hiện sinh
theo cách và theo phán đoán của mình. Biết mình buồn, biết mình sợ hãi là biết
mình tồn tại.
Được tự do lựa chọn nên con người cũng được tự do giải thoát, ít nhất là trong ý nghĩ và trong tư tưởng của mình: “Sự giải thoát sẽ làm ta thanh thản/ những ý nghĩ trời ban lưu giữa hai vách ngăn/ xin đừng hoa mỹ trên ban công vỉa hè/ cái giản đơn tia hồng đào thời che khuất/ đang hiện dần một ban mai chưa thấu/ những nhịp cầu thi vân” (Thi vân mấy nhịp cầu). Còn tư duy, còn nhận biết tức là con người còn tồn tại và còn khát vọng tự do. Và vì thế, con người còn biết yêu thương, giận hờn và hy vọng. Dẫu khoảng cách có xa xôi, nhưng mọi ranh giới sẽ bị xoá tan để những tâm hồn yêu thương luôn giao hoà, an phước.
Có thể nói rằng thơ Lê Minh Thắng là thơ của sự đi tìm về bến
Kim Minh trước muôn trùng hệ luỵ và bất ổn. Nhưng bản chất của con người là
luôn đi tìm những khát vọng Chân – Thiện – Mỹ nên trước bao lo âu, phi lý, hư
vô, con người vẫn hướng về mình và tha nhân trong khát vọng tự do và dấn thân,
có khi là nổi loạn để hoá giải hoàn cảnh và giải phóng mọi ràng buộc để tìm cho
được ý nghĩa của sự tồn tại. Đó là toàn bộ giá trị văn hoá và triết mỹ trong tập
thơ Ánh sáng đổi ngôi của Lê Minh Thắng.
Khép lại tập thơ Ánh sáng đổi ngôi của Lê Minh Thắng, người đọc thoả mãn được nhu cầu tiếp nhận thơ theo phạm trù cái Mới và cái Khác. Tất cả được bắt đầu bằng việc thay đổi cái nhìn nghệ thuật, tư duy nghệ thuật và cảm hứng nghệ thuật, kế đến là việc chọn lựa ngôn từ để tạo thành cấu trúc diễn ngôn mới lạ, giàu khả năng tạo sinh nghĩa bất ngờ, biến ảo cho từng hình tượng nghệ thuật. Tất cả hệ quả đều dựa trên sự thể hiện cái tôi trữ tình tác giả/ hình tượng tác giả luôn thay đổi và vận động trước hiện thực cuộc sống muôn màu muôn vẻ và cắt nghĩa chúng theo tâm thức hiện sinh của thời hiện tại đang tiếp diễn mà tác giả chiêm nghiệm, sống trải. Vì vậy, tứ thơ và triết mỹ thơ hiện ra cũng sâu sắc, mới mẻ theo kiểu khả giải, bất khả giải nhưng lại vô cùng hấp dẫn, có khả năng vẫy gọi liên chủ thể tiếp nhận thời hiện đại cùng đồng thuận và đối thoại. Toàn bộ đặc điểm thi pháp trên đã làm nên giá trị và vị trí của tập thơ Ánh sáng đổi ngôi trong dòng chung của thơ đương đại Việt Nam.
10/1/2025
Hồ Thế Hà
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét