Hồ Thế Hà - Phía sông Ngân vô thức TS. MAI BÁ ẤN
Khởi nguyên từ thơ, bản chất là một hồn thơ, nhưng Hồ Thế Hà tự vượt qua thơ để khẳng định tên tuổi trên văn đàn là một cây bút lý luận, phê bình. In nhiều sách tiểu luận - phê bình, nhưng PGS.TS Hồ Thế Hà vẫn đều đặn in thơ, vẫn chung thủy với thơ. Để đến tập thơ thứ tư “Thuyền trăng”, người đọc bắt gặp một hồn thơ Hồ Thế Hà với dáng nét rất riêng.
Nhà giáo, nhà nghiên cứu - phê bình Hồ Thế Hà đọng lại trong
lòng bao thế hệ sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh với đôi kính cận
nghiêm cẩn, mái đầu dần trắng theo thời gian cùng một tư duy khoa học khái quát
và nhạy bén. Nhưng cái “thói” ưa phiêu bồng, xê dịch, ham chơi của một nhà thơ
lại chính là điều mà những người thân quen, gần gũi với Hồ Thế Hà nhận ra nhanh
nhất và dễ gần gũi nhất. Thậm chí, có nhiều người còn thắc mắc, Hồ Thế Hà ham
chơi là thế, cuộc vui nào cũng có, cuộc nhậu đêm nào cũng say sau, về sau bạn
bè… không hiểu ông làm việc lúc nào mà viết được nhiều công trình như thế! Ở
đây, hình như, trong thẳm sâu cỗi nguồn, Hồ Thế Hà có một chút gì đó hao hao
Bùi Giáng (học như chơi, làm việc như chơi, làm thơ cũng như một cuộc chơi). Từ
những cuộc chơi phiêu lãng ấy, ta có một Hồ Thế Hà thơ. Thơ tự bản thể, tự vô
thức. Và một khi thoát ra khỏi cái từ trường tư duy logic của một nhà khoa học
tỉnh táo để đi về phía những cơn say, những mộng mị, chiêm bao, người đọc mới
nhận ra ở Hồ Thế Hà những bài thơ hay thực sự. “Thuyền trăng” đã chở hồn thơ Hồ
Thế Hà vượt thực-tại-ý-thức, neo lơ lửng phía sông-Ngân-vô-thức.
1. Huyền hồ bóng dáng
Đọc thơ
Hồ Thế Hà, người đọc luôn bị đẩy về phía siêu thực của những hình ảnh thực để
rồi sau đó bàng hoàng nhận ra một thực tại phía bề sau, phía bề sâu bản chất
hơn và cũng nghệ thuật hơn nhiều. Chính vì lẽ đó mà ta bắt gặp trong thơ Hồ Thế
Hà rất nhiều “bóng” và “dáng”, kể cả bóng dáng của những thực thể đã được hư ảo
hóa: Những thiên thể lung linh
màu sắc/ Bồng bềnh theo
dáng thuyền trăng (thuyền trăng).
“Thuyền trăng” đã là hư ảo, cái “dáng
thuyền trăng” lại càng rất huyền hồ, bởi cái dáng ấy được phản chiếu, quang phổ
từ những sắc màu lung linh của muôn “thiên thể” giữa trời cao. Cái giọng “khản
đặc” của người mẹ già gọi con, là rất thực, vậy mà rồi, Hồ Thế Hà đã đẩy cái
“âm thanh” ấy về phía của “nỗi nhớ” con (tức đã tạo nên khoảng cách không gian
và thời gian giữa mẹ và con) nên người đọc vẫn cứ nghe tiếng gọi như phát ra từ
phía muôn trùng, từ nỗi nhớ thương vọng lại ở cõi thẳm sâu của tận đáy lòng.
Tiếng gọi rất thực đã biến thành siêu thực. Cái hiện tượng cụ thể đã hóa thân
trong cái bản chất trừu tượng của ngút ngàn nỗi xa cách, nhớ mong: Ấy là âm thanh của Mẹ/ Khản đặc gọi con trong nỗi nhớ
(mẹ). Cả cái “đường kim vụng
về” rất cụ thể trong bàn tay run run khâu vá “vụng về” của người mẹ tuổi 90
cũng được nhà thơ đẩy về phía huyền hồ trong “dáng ngồi bào thai của mẹ”. “Tuổi
90” là cụ thể, nhưng khi nói “mắt mẹ đã về chiều” cùng cái “dáng bào thai” thì
thật sự đã “nhòa hóa” về phía của cảm-nhận-vô-thức: Một đường kim vụng về khi mắt mẹ đã
về chiều/ Ôi dáng ngồi bào
thai tuổi 90 của Mẹ! (mẹ).
Cái “bầu vú ngọt ngào của Mẹ”, cái “bào thai” trong lòng mẹ
là cụ thể, nhưng cái cụ thể đó sẽ chỉ làm nên một hình hài Phùng Quán, còn cái
“sự tái sinh như định số” từ cái “dáng bào thai” huyền hồ kia mới biến Phùng
Quán thành “một cậu bé mộng mơ” để trở thành một thi nhân trường cửu: Sự tái sinh nào như định số/ Từ dáng bào thai, từ bầu vú ngọt
ngào của Mẹ/ Cho ông thành
cậu bé mộng mơ… (cảm thức Phùng Quán).
Đôi lúc, Hồ Thế Hà cũng nói đến hình hài cụ thể, nhưng rồi
lại tự đánh lạc, làm thất lạc nó để đưa vào cõi mộng, chìm trong trăng nước mơ
hồ, và… chính cái hình hài mơ hồ ấy lại một lần nữa lên “đỉnh Ngự” cao xa “soi
mình vào sông” để tất cả trở nên thêm một lần hư ảo: Người đi lạc hút hình hài/ Mơ tàn canh mộng ra ngoài tàn canh/ Ngủ đi trăng nước mặp tình/ Mai lên đỉnh Ngự soi mình vào sông
(nến tình). Cái hư ảo đem “soi mình vào sông”, nhưng dòng sông đã vỡ ra
từng mảnh, và, cho đến lúc này thì… sông cũng “không còn hình dáng”, cho nên,
cái “soi mình” vào nó cũng theo những mảnh vỡ biến tan chỉ còn thấp thoáng
huyền hồ một mảnh hồn thơ phía mù tăm vô thức:
Những mảnh vỡ dòng sông
Đỗ ra biển thành mảnh vỡ không hình dáng (những mảnh vỡ).
Tưởng nhìn thấy một người “trầm ngâm trên vệ cỏ” cụ thể chỗ
bờ sông, nhưng không, đó chỉ là “mơ thấy”, và trong giấc mơ ấy, Hồ Thế Hà lại
nhìn ra phía “hư vô” có “Dòng sông êm soi bóng mây trời”: Mơ thấy mình trầm ngâm trên vệ cỏ/ Dòng sông êm soi bóng mây trời (hư
vô).
“Trót hẹn” với bạn bè (có ý thức vì sợ lở hẹn), tự rời xa
kinh thành Huế về với Phá Tam Giang tưởng để được thả hồn trên mênh mang nước,
để ngắm con đò; nhưng không, Hồ Thế Hà lại đi “tìm” mà không ngắm. Cũng không
phải “tìm” sông nước, tìm đò mà lại “tìm trong bóng nước”. Từ đó, người khách
đã hẹn kia không còn tỉnh táo để đứng nguyên phía khách quan chiêm ngưỡng Tam
Giang mà tự biến mình thành “ngư phủ” trên Phá Tam Giang, nhưng là “ngư phủ
không hồn”. Tất cả nhòa bóng trong, hòa làm một trong một Tam Giang mờ ảo: Trót hẹn tôi ngược Tam Giang/Tìm
trong bóng nước đò ngang chút buồn/ Tôi
làm ngư phủ không hồn/ Không
buông cần trúc, không còn tỉnh say (ngược phá Tam Giang). Nói chi đến khoảng cách gần giữa Huế
và Tam Giang, cả đến khi rời nước đến tham quan ở xứ sở xa xôi của “những người
đàn bà che mặt”, Hồ Thế Hà vẫn không đi sát thực tế để tham quan, tìm hiểu lịch
sử vùng đất, con người, mà đẩy họ lùi xa ra, để những người đàn bà ấy chỉ còn
là những “bóng đen lặng thầm”. Từ đó, nhà thơ lặng vào bên trong, tìm ánh sáng
từ phía “trái tim” họ, lắng lòng vào “khát vọng quẫy đạp” của chính cái sâu
thẳm bên trong để… không phải để kéo cái mạng che mặt cụ thể xuống mà là để “Mở
toang bóng mờ tôn nghiêm độc ác”, dìu họ đi dưới “ánh trời mơ ước”. Chính cái
tiềm ẩn bên trong ấy đã khiến thơ Hồ Thế Hà neo lại được nơi xứ sở xa lạ, mênh
mông kia những câu thơ mang tầm khát khao nhân loại: Có lẽ trong bóng đen lặng thầm/ Những người đàn bà nhận ánh sáng từ
trái tim mình/ Với khát
vọng quẫy đạp/ Mở toang
bóng mờ tôn nghiêm độc ác/ Để
được đi dưới chói chang ánh trời mơ ước! (những người đàn bà che mặt).
Nghĩa là, thơ Hồ Thế Hà ít đứng về phía cụ thể mà luôn đi về phía mông lung; ít
đứng nhìn bên ngoài mà thường lắng vào bên trong; ít đứng phía ngày mà luôn
thích đứng về phía của đêm sâu: Có
ánh mắt khép lại phía ngày/ Phía
bóng đêm ai đang tập nói cười (không đề). Ít
đứng về phía vui mà gia nhập phía buồn; ít đứng ở nỗi nhớ mà lặng vào cõi nhớ;
ít đứng phía thực mà luôn đi về phía “ảo ảnh nhạt nhòa”: Có một bài thơ day dứt điệu buồn/Khách
lại đến rồi đi như ảo ảnh/…/ Có
một cánh trâm giấu vào cõi nhớ/ Cho
tàn đêm ai nhòa nhạt lối tìm (tản mạn).
Ít đứng phía nói cười mà đứng về im lặng; không choáng sắc,
chỉ thoảng hương: Mãi vọng âm
từ im lặng/ Mãi thoang
thoảng hương từ âm thầm/ Mãi
lung linh sắc màu từ bóng đêm (cảm thức Trịnh Công Sơn). Không thấy người,
chỉ thấy bóng: Tôi đã thấy
bóng anh đổ trên trang giấy/ Trong
phòng văn khuya lạnh mưa xuân (người hầu chuyện tiền nhân). Không đứng phía
đời thực mà tìm về phía “tâm linh siêu hình”: Từ
sâu thẳm đại dương và từ cao xanh bầu trời vọng lại/ Con người đã kịp nhận ra không có
thượng đế siêu hình (trở về tâm linh). Không nghe gió thoảng ngang qua hoặc
từ trời thổi xuống mà chỉ nghe âm thanh gió vọng lại, vọng lên từ một hư vô: Nghe trong âm thanh gió/ Lời thì thầm từ bi/Vọng lên
từ xác mục/ Vọng lại từ hư
vô (trong xác lá bồ đề).
Tất cả đó đều được neo lại ở phía của
những bóng dáng huyền hồ, ảo ảnh của cảm nhận từ vô thức. Chính nỗi ám ảnh đã
lặng vào vô thức ấy mà mỗi khi ùa ra thành thơ, lý trí không kiểm soát nổi, chỉ
tiêng tập “Thuyền trăng”, Hồ Thế Hà đã sử dụng đến 22 lần các từ “bóng”, “dáng,
“hình” và “soi”…
Trăng ngự giữa trời. Trời thì cao xa. Trăng cũng cao xa.
Nhưng dẫu sao vẫn là vầng trăng thực thể của thái dương hệ. Chính vì thế, Hồ
Thế Hà không miêu tả vầng trăng mà hư ảo hóa thành “thuyền trăng”. Chiếc thuyền
ấy lại “trôi trong” và “neo” sào giữa dòng Ngân hà bồng bềnh hư ảo. “Thuyền
trăng” đã hư ảo lại “neo giữa” hư ảo “thiên hà” thì đúng là, lại thêm một lần
hư ảo: Bốn chiều không
gian khép lại/ Lạc
giữa màn đen hai ngôi sao xa/ Trôi
trong bồng bềnh hư ảo/ Thành
chiếc thuyền trăng neo giữa thiên hà (thuyền trăng). Cho dù là “lỡ” tay, Hồ Thế Hà
còn dám đem bản thể mình cầm vầng trăng “đánh rơi vào đáy nước”. Mà một khi
vầng trăng rơi vào đáy nước thì thực ra cũng chỉ là cái bóng trăng hư ảo mà thôi.
Đúng như Nguyễn Khắc Thạch đã gọi Hồ Thế Hà “ôm bóng trăng mà ngỡ là trăng”(1).
Đã tự ôm cái bóng trăng trong đáy nước thì chuyện đi vay cái không đâu để rồi
“mắc nợ với bơ vơ” cũng là một lẽ tất nhiên: Tôi
lỡ đánh rơi vầng trăng vào đáy nước/ Để
bây giờ mắc nợ với bơ vơ (mắc nợ). Trong
trạng thái vô thức ấy, Hồ Thế Hà đã tự “phân thân” để nghe hoa “ru” bằng
“hương”, “soi” mình “bằng trăng”, “xóa” hình hài thật bằng tình yêu của em. Hơi
thơ cứ phảng phất xa vời, lâng lâng, bay bay của giây phút phân thân, thoát
hình hài đi về hư ảo: Hoa
sữa nồng nàn ru tôi bằng hương/ Hồ
Tây gọi mời soi tôi bằng trăng/ Tình
yêu lứa đôi xóa tôi bằng
em (phân thân).
Chính mình tự lưu lạc mình, rồi tự đi
tìm mình, soi bóng mình giữa mênh mông muôn trùng “biển trời sông nước”, “ngắm
mình” qua khói sóng, “ngất ngưởng vọng” mình giữa cao ngất Ba Vì, mênh mang
mình giữa Hồ Tây, vọng tưởng mình cùng ánh trăng khuya… đã khiến tất cả cảnh
vật nhòa đi, chỉ còn mường tượng mình từ vô thức với những dòng thơ đọc lên
nghe rợn ngợp cô đơn: Ông đi
tìm ông, soi ông qua sông nước biển trời/ Tóc
râu trắng ông lên chòi ngắm sóng/ Ngất
ngưởng vọng Ba Vì, Hồ Tây và Trăng…(cảm thức Phùng Quán).
“Ai gọi ta rờn rợn” hàng đêm? Chính là
vô thức gọi, chiêm bao chờn chợn gọi khiến vầng trăng vỡ vụn giữa cơn mơ. Vầng
trăng bị “xé vụn” trong hư ảo cơn mơ, tưởng cụ thể nhưng té ra đó là sự vỡ vụn
ở phía cảm nhận của vô thức thơ:
Đêm đêm ai gọi ta rờn rợn
Giấc mơ xé vụn vầng trăng (hư vô).
Cũng vì lẽ đó mà trong cuộc bể dâu
trần thế, cái sự “nhớ về” của Hồ Thế Hà cũng tan hòa bàng bạc trong trăng, nỗi
nhớ mơ hồ sương khói: Nhớ
người thuở ấy Lưu hương ký/ Tìm
đến Tây Hồ tôi hỏi trăng/…/ Trách
chi dâu bể dương gian ấy/ Hương
khói còn thơm Cổ nguyệt đường!(Hồ Xuân Hương). Nhớ Hồ Xuân Hương thuở “Cổ Nguyệt
đường” xa xưa cũng thế, nhớ Nguyễn Xuân Hoàng - người bạn thơ đương đại của
mình vừa lìa đời cũng thế. Tất cả tan hòa trong bóng trăng, mà trăng lại soi
“bên giếng lạnh” nên nỗi nhớ cứ vời vợi xa xôi, rờn rợn nỗi cô đơn của kiếp thi
nhân: “Tóc mẹ ngàn lau” bên
giếng lạnh/ “Quỳnh hương”
lặng lẽ bóng trăng soi! (khóc Hoàng).
Chôn đi, gửi trả một mối tình, ắt hẳn
là một cuộc tình đau. Nếu chôn đi hoặc gửi trả xuống mồ thì địa điểm được xác
định cụ thể, Hồ Thế Hà lại gửi mối tình xuống dòng sông. Sông Hương lững lờ
trôi, “vầng trăng lữ thứ” trôi trên sông. Tình hư ảo, sông hư ảo, vầng trăng
soi vào sông lại càng hư ảo. Tiếng ca hờn trách không phải vọng lên từ sông mà
lại vẳng từ “phía thượng nguồn”. Hư ảo chìm trong hư ảo, hữu thức hóa thành vô
thức: Có một mối tình vừa gửi
xuống dòng Hương/ Lời thề
nguyện tròn vầng trăng lữ thứ / Có một tiếng ca như trách phía
thượng nguồn/ Theo con
nước dùng dằng xa bờ bãi (tản mạn). Nhà
thơ tự nhận mình bị bỏ “bùa mê”, nhưng thực ra khi còn biết tự nhận “bị bỏ
bùa”, nghĩa là còn rất tỉnh. Nhưng không, dù có thú nhận là “tỉnh ra” thì chính
giây phút tỉnh ấy, Hồ Thế Hà lại lạc vào cõi mông lung của bề sâu vô thức giữa
“sáu bề không gian”. Chính vì thế, “bóng trăng tan” trong cõi hư ảo ấy đã tự
mình hòa vào hư vô cho vơi bớt nỗi buồn thân phận: Hóa ra tôi bị bùa mê/ Tỉnh ra lạc giữa sáu bề không gian/Động
chèo cho bóng trăng tan/ Cho
tôi cùng với Tam Giang đỡ buồn! (ngược phá Tam Giang). Thả hồn theo trăng, nhưng không nhìn
trăng, tả trăng tự trời cao bằng mắt mà dường như Hồ Thế Hà chỉ tả vầng trăng
“mọc” trong chính tâm thức mình. Với thống kê lên tới 26 từ “trăng” xuất hiện
trong tập “Thuyền trăng”, tôi có cảm giác, trăng đã ám vào Hồ Thế Hà. Dường như
ở đây có sự khởi phát từ những công trình nghiên cứu chuyên sâu về Chế Lan
Viên, Hàn Mặc Tử cùng cái gốc gác Bình Định của nhà nghiên cứu, nhà thơ Hồ Thế
Hà. Và… dường như Đỗ Lai Thúy cũng đã hoài nghi: “Không hiểu sao, trăng, với
các nhà thơ Bình Định, bao giờ cũng mang tính ám thị. Có thể, đây là vấn đề
địa-tâm thức”(2).
Thơ tình đương đại đang tiến mạnh đến xu hướng “thông tục
hóa” của trường phải “giải sex” để có thể “phản ánh” đúng bản chất tình yêu của
hiện thực đương đại. Nhưng với Hồ Thế Hà, hình như cái “hiện thực tình yêu
đương đại” ấy chẳng mảy may tác động đến sáng tác của mình. Chí ít là trong tập
“Thuyền trăng” này. Đọc thơ Hồ Thế Hà, ta có cảm giác anh thể hiện cảm thức
tình yêu nhiều hơn là bộ mặt tình yêu. Chính vì thế, thơ tình Hồ Thế Hà thường
được đẩy về phía của những cơn mơ, những mộng-mị-tình tiềm ẩn trong vô thức.
Hình dáng hai người yêu nhau chỉ mơ hồ là “hai bóng trắng” ở một không gian
thần tiên nào đó. Cũng chẳng thấy ở đây một vòng tay ôm, một nụ hôn cụ thể nào
cả, chỉ huyền ảo một đóa hồng mở cánh trong chiếc “thuyền ái ân” hòa lẫn với
trăng. Và giữa xứ sở bản nguyên ấy, họ trao nhau “nụ yêu” trong chớp sáng của
trời cao, khi “ánh chớp” tan biến đi thì “nụ yêu” cũng “vỡ tan” theo, chỉ còn
“treo giữa không gian” cái dáng hình ảo mờ của tình yêu ấy: Bỗng hiện ra hai bóng trắng/ Nhấp nhô như những thiên thần/ Và một đóa hồng dịu êm mở cánh/ Thuyền trăng thành thuyền ái ân/ Nụ yêu trao sáng lên ngàn ánh chớp/ Vỡ tan treo giữa không gian (thuyền
trăng). Chính vì lẽ đó mà
bàng bạc trong “Thuyền trăng” là những cơn mơ, là cõi mộng với tần suất xuất
hiện rất đậm đặc (20 lần) cùng những “Đào Nguyên”, “Thiên Thai” của “hương”
thơm, của âm nhạc. Mà khi tình đã biến thành mộng thì đó chính là nỗi ám ảnh từ
vô thức của những cuộc tình đã qua, đã thành quá vãng: Ta đi trong lá, tìm trong mộng/ Thơm thảo mùa hương ngát Tây Hồ/ Đào Nguyên gặp chốn Thiên thai cũ/ Người xưa tương ngộ bến trăng mơ!
(bến trăng mơ). Hết cảm thức
tình yêu ở “Đào Nguyên”, “Thiên Thai” của Văn Cao tiền chiến lại đến vườn “Địa
đàng” của Trịnh Công Sơn thời chiến. Tất cả đều chìm trong “mưa xám”, “hạ
trắng”, “mây hồng”; trong “mê lộ bốn mùa”; giữa “mênh mông tình buồn”, “dạ lan
tương hợp” và “rong rêu mộng mị” của một cái gì đã vuột qua, bay mất: Người ru mưa xám hạ trắng mây hồng/ Bốn mùa mê lộ còn tìm cố nhân/ Cho ai ngồi khóc tình buồn mênh
mông/ Thiên thai, Địa đàng
giờ đã hư không/… /Tương
hợp một trời dạ lan/ Rong
rêu một trời mộng mị…(cảm
thức Trịnh Công Sơn).
Trong tình yêu, Hồ Thế Hà muốn “dìu em” cũng chỉ là hành động
của “vòng tay chiêm bao” vô thức, tự “phân thân” giữa thế giới của “hương”
trong màn “đêm ảo huyền”, “có có không không” (sắc sắc không không): Lại dìu em trong vòng tay chiêm bao/ Hoa sữa nồng nàn hôn tôi bằng hương/ Hồ Tây ảo huyền ôm tôi bằng đêm/ Tình yêu muộn phiền có tôi bằng em!
(phân thân). Cái “Mùa ái ân”
mà Hồ Thế Hà đến “muộn” cũng dệt bằng những “phập phồng hương” vương theo “dọc
miền ký ức” của một thế giới “mờ ảo khói sương” cho dù nhà thơ có nói cụ thể bị
“mắc nợ” bởi hương “hoa sữa” hay địa điểm cụ thể “Tây hồ” thì vẫn là cái mùa
tình yêu được cảm nhận từ thẳm sâu vô thức đầy hương hoa, mờ ảo của một thế
giới mang tính tượng trưng: Tôi
dẫu muộn màng may còn đến kịp/ Mùa
ái ân hương cốm phập phồng/ Hoa
sữa thơm dọc miền ký ức/Thơm sang Tây Hồ mờ ảo khói sương (mắc nợ). Giữa không gian Đà Lạt, địa điểm cụ
thể ở đây có thể là thắng cảnh “Thung lũng tình yêu” nổi tiếng, nơi đây nhà thơ
có “tình cờ gặp” lời ngỏ yêu của ai đó… nhưng tất cả đều được “nhòa hóa” trong
“chiều cuối thu”, “trong sương mù”, trong “hương” hoa tương tư của “một trời
lãng du” mộng mị: Tình cờ tôi
gặp cuối chiều mùa thu/ Lời
yêu ai thả lẫn trong sương mù/ Vòng
tay thung lũng một trời lãng du/ Mùa
anh đào rót hương vào tương tư! (Đà Lạt).
Rất khó tìm trong thơ Hồ Thế Hà một thứ tình yêu cụ thể. Thế
giới tình yêu ở đây không hề bị một mảy mảy vướng tục phổ biến của thơ tình
đương đại, cũng lại không hề có cái ngây thơ vụng dại hoặc kể cả màu sắc dục
vọng của tình yêu Thơ Mới. Đó là thế giới của những mộng-mị-tình được vớt lên
từ những cơn mơ. Đúng như nhà thơ tự vấn và tự trả lời: Bỗng vụt hiện niềm thiên lương bừng
sáng/ Phải giấc mơ nâng
cánh giấc mơ?/ Ta lênh
đênh trong sáu bề khải ngộ/ Vừa
tỉnh cơn mơ hồn đã hư vô! (hư vô)…
Dường như tất cả những “thao thức thơ”(3) để trăn trở với đời đều được Hồ Thế Hà
“áp vào giấc mơ”, để trong mơ bật lên tiếng thơ vọng về từ phía
sông-Ngân-vô-thức: Tôi đành áp
nỗi thao thức vào giấc mơ/ Trong
mơ bật lên thành tiếng/ Tiếng
của vô thức hiện về (những câu hỏi). Chính
vì vậy, mà “âm thanh” thơ Hồ Thế Hà là âm thanh vọng lại từ “tiền kiếp”, “từ
cõi vô minh”: Nghe như chính
âm thanh của mình/ Từ tiền
kiếp, từ cõi vô minh (những câu hỏi).
Nghĩa là, những bài thơ có tứ (thơ hay) của Hồ Thế Hà là
những “tứ thơ” thơ đã được gạn lọc “qua bùn, đất và nước” của hiện thực cuộc
đời, rồi được đẩy về phía vô thức của chập chờn những cơn mơ. Hồ Thế Hà “tin”
như thế:
Tôi tin, tứ thơ chập chờn trong mơ
Thì thầm trong chồi biếc và tiếng dế
Trong ngưng lặng của trăng non và giọt sương
Những tứ thơ đã qua bùn, đất và nước… (những tứ thơ tìm lại).
Đọc qua ba tập thơ đầu, đến tập “Thuyền trăng” này của Hồ Thế
Hà, chúng ta cũng vững tin như thế!
CHÚ THÍCH:
(1). Nguyễn Khắc Thạch, “Ôm bóng trăng mà ngỡ là trăng”, Lời
Bạt tập thơ Thuyền trăng của Hồ Thế Hà, Nxb Văn học, 2013
(2). Đỗ Lai Thúy, “Thuyền trăng hay là sự mơ mộng thi ca!”, Lời Tựa
tập thơ Thuyền trăng của Hồ Thế Hà, Nxb Văn học, 2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét