Phạm Công Thiện - Kỳ tuyệt môt thiên tài
Tâm Nhiên
Có những con người đến
rồi đi qua mặt đất trần gian này như một cơn giông tố bão bùng sấm sét, gây
chấn động kinh hồn, làm bùng vỡ một điều chi kỳ vĩ, tinh khôi trên bầu trời tâm
thức nhân loại, Phạm Công Thiện là một con người độc đáo như vậy.
Đấy là một thiền sư,
triết gia, giáo sư, nhà văn, nghệ sĩ hay một thi sĩ kỳ tuyệt thiên tài như
Henry Miller từ Hoa Kỳ đã phát biểu trong thư gởi Phạm Công Thiện đề ngày
8.8.1966 : “Mới ở tuổi 25 mà là khoa trưởng văn chương ở một đại học nổi tiếng
trong xứ sở của ông. Điều đó thật phi thường quá, quả thật khó tin, thật như
chuyện huyền thoại.” Đúng vậy, một con người đã đến và đi như huyền thoại giữa
cuộc sống đầy biến loạn tang thương trên quê hương Việt Nam vào thập niên 1960
đến 1970.
Rồi từ đó, từ năm
1970, Phạm Công Thiện bất ngờ làm cuộc lên đường qua Paris, bắt đầu chuyến đi
tuyệt mù viễn xứ vào những phương trời xa lạ, ngút ngàn nhật nguyệt thiên
thanh. “Anh đã ra đi từ đó, từ thời buổi hỗn mang. Trong từng khoảnh khắc sát
na, từng quãng liên tục vi tế của hạt bụi, anh từ chối chính mình. Khi mọi
người ca tụng anh như một thiên tài, anh vất bỏ thần tượng để đi như một tên
lãng tử vô lại…Người lữ hành bước đi, từng con sóng của đại dương cuốn theo xóa
sạch từng dấu chân đi. Lưu lại trong khách ảo ảnh tiền thân, phảng phất mùi
hương và sắc màu quá khứ không phai nhạt.” Tuệ Sỹ giới thiệu như thế về Phạm
Công Thiện, một tâm hồn hạo nhiên chi khí, một thi sĩ thượng thừa đã khơi nguồn
mạch sáng tạo trào dâng ngất ngưởng, mở ra thể điệu phiêu bồng trên cung bậc
văn chương, thiền học, triết lý, thi ca bát ngát dị thường.
Bước đi một mình một
bóng, đơn thân độc mã quá đỗi phong trần gần 70 năm trời nay, say gót mộng
chuếnh choáng lang bạt kỳ hồ, lang thang lêu lổng suốt muôn chiều phiêu lưu,
phiêu lãng ngàn phương. Lướt cánh đại bàng, tung hoành ngang dọc khắp năm châu
bốn biển, thênh thang giữa thiên địa hoàn cầu. Đi và đi theo thể điệu Bùi Giáng
rong chơi :
Đã đi đã đến cuối trời
Đã về như vẫn muôn đời
đã đi
Đi về đi ở đi đi
Đi là đi biệt từ khi
chưa về
Vào một chiều tháng 6,
bắt đầu mùa hạ năm 1941, Phạm Công Thiện ra đời bên dòng sông thơ mộng Cửu
Long, một dòng sông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng ngút ngàn chảy xuống dọc
ven bờ phố thị Mỹ Tho, một thị xã nhỏ nhắn, lặng lẽ hiền hòa ở miền Nam. Thi sĩ
lớn lên từ đó, suốt ngày đêm cứ mặc sức mơ mộng rong chơi, tha hồ tắm sông lội
nước, nằm ngắm mây trời bay lãng đãng xa xôi.
Rồi bất thình lình,
đột ngột một hôm vụt đứng dậy, xuất hiện trên văn đàn Việt Nam như một thần
đồng, một thiên tài lỗi lạc biết nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Nhật, Hán,
Phạn, Pali, Tây Tạng, Tây Ban Nha… Năm 1957, mới 16 tuổi đã xuất bản Tự điển
Anh ngữ tinh âm, 19, 20 tuổi viết Ý thức mới trong văn nghệ và triết học, 23
tuổi, viết Tiểu luận Bồ Đề Đạt Ma, 25, 26, 27 tuổi, viết Hố thẳm tư tưởng, Im
lặng hố thẳm, Ý thức bùng vỡ, Bay đi những cơn mưa phùn, Trời tháng tư, Ngày
sinh của rắn, Mặt trời không bao giờ có thực, Nikos Kazantzaki, Rainer Maria
Rilke, Henry Miller và dịch thuật từ tiếng Anh, tiếng Đức những tác giả vĩ đại
Krishnamurti, Nietzsche, Heidegger, Rainer Maria Rilke, Nikos Kazantzaki … làm
chấn động toàn thể giới văn nghệ sĩ trí thức Sài Gòn miền Nam thời bấy giờ.
Thời kỳ ấy, từ 1966
đến 1970 khi Phạm Công Thiện làm Khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh, đồng
thời là giám đốc soạn thảo Chương trình giảng dạy cho tất cả các phân khoa Xã
hội Nhân văn và chủ biên tạp chí Tư Tưởng thì Bùi Giáng, Tuệ Sỹ, Hoài Khanh, Lê
Mạnh Thát, Nguyễn Đăng Thục, Ngô Trọng Anh, Thạch Trung Giả, Trúc Thiên, Lê Tôn
Nghiêm, Doãn Quốc Sỹ, Nghiêm Xuân Hồng, Trần Ngọc Ninh, Phạm Thiên Thư, Trần
Xuân Kiêm, Nguyễn Hữu Hiệu, Thích Nữ Trí Hải… cũng có mặt ở đó thường xuyên, là
những cây bút cốt cán, nền móng trong tạp chí Tư Tưởng, tiếng nói của Viện Đại
học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, do Thích Minh Châu làm Viện trưởng.
Trước đó, nhà thơ cũng
đã từng làm những chuyến giang hồ tứ chiếng, xách túi thơ bầu rượu ngao du sơn
thủy qua Paris, London, New York, Washington rồi, từng diện kiến, tiếp xúc với
những nhân vật kiệt xuất lừng lẫy trên thế giới như Krishnamurti ở Paris, Henry
Miller ở Los Angles.
Văn chương nghệ thuật,
triết lý thi ca, những tác giả kỳ cựu, những bậc cao thủ thượng thừa thời đó
đều tập trung về Đại học Vạn Hạnh, tạo nên một bầu không khí sinh động vô vàn.
Đang là thần tượng của đám sinh viên các đại học Sài Gòn, Huế, Đà Lạt thì đùng
một cái, Phạm Công Thiện bỏ ngang chức Khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh,
lên đường viễn phương hành, làm cuộc ra đi theo quẻ Lữ trong Kinh Dịch, lênh
đênh qua tận bên kia bờ đại dương huyền ảo vào năm 29 tuổi, tức năm 1970. Đó cũng
là năm cuộc chiến tranh Việt Nam đến độ khốc liệt, kinh hoàng, khủng khiếp
nhất. trên khắp hai miền Nam Bắc phân tranh, đánh chiếm một cách tàn bạo, náo
loạn, sụp đổ vô ngần.
Cất cánh phụng hoàng,
thi sĩ bay vút đi xuyên qua gầm trời giông tố bão loạn, đang đắm chìm giữa dòng
sử lịch hỗn mang, tang tóc cuồng phong gầm thét dữ dằn, tan hoang thảm thiết,
xô đổ xuống mịt mù âm u hỗn độn, vây khổn đầy bóng tối vô minh trong đêm dài
điêu linh, trầm thống, đoạn trường.
Trước ngày khởi hành,
thi nhân leo lên đồi Hải Đức, Nha Trang ( nơi ngày xưa vào năm 1963, chàng chán
ngán cõi đời đi xuất gia, làm đệ tử thầy Trí Thủ ở đó với pháp danh Nguyên Tánh
) ngồi một mình trên đồi cao nhìn xuống biển cả muôn trùng vắng lặng, lắng hồn
cô đơn, tịch mịch để nghe vọng về bao nỗi đời ly tán, đớn đau, bàng hoàng trong
rưng rưng nhức nhối :
Hồi chuông chùa vọng
luân hồi
Chim chiền chiện hót
ngang trời đau thương
Trùng dương nằm đợi vô
thường
Đồi cao bạt gió hai
đường âm u
Âm u hai đường, đông
tây đôi ngã thê lương. Còn chi đâu mà nói nữa. Thôi thì cánh chim ngàn cứ tung
bay cho hết bầu trời tính mệnh bao la của mình. “Bổn phận của mi là lên đường
đi đến hố thẳm, một cách im lặng, rộng lượng và không hy vọng.” Văn hào Nikos
Kazantzakis đã nói như vậy, cũng như triết gia vĩ đại Heidegger làm những câu
thơ như âm thầm khích lệ thi sĩ lên đường :
“Bước tới và chịu đựng
Sự thất bại và câu hỏi
Trung thành với lối đi
duy nhất của mi.”
Thi sĩ Phạm Công Thiện
đã cảm nhận chân thiết lời thơ đó, nên hùng tâm tráng khí, im lặng thực hiện
một cách mãnh liệt cuộc lữ phi thường, khởi sự tấu khúc độc hành ca trên lộ
trình hướng về hố thẳm uyên mặc hay uyên nguyên khơi mở. Cuộc lữ dữ dội bi tráng,
mở ra những phương trời hoằng viễn như Henry Miller, Rimbaud, Nietzsche,
như Hoelderlin, Whitman, Krishnamurti, như Shakespeare, Kierkegaard, Nijinsky,
như Blaise Cendrars, William Blake, Paul Klee, như Thoreau, Emerson, Faulkner,
như Wolfe, Giono, Ce1line, như Etkhart, Goethe, Spengler, như Hermann Hesse,
Alan Watts, James Joyce, như Hemingway, Lawrence, Leopardi, như Nerval,
Tolstoi, Yeats, như Milarepa, Van Gogh, Vivekananda, như Trang Tử, Long
Thọ, Bồ Đề Đạt Ma, như Huệ Năng, Lâm Tế, Tuệ Trung Thượng Sỹ, như Lý
Bạch, Nguyễn Du, Hàn Mặc Tử… những đồng thanh tương ứng với thi nhân nên luôn
luôn xuất thần, ngất trời túy lúy, phóng cuồng phiêu đãng hoan say. Đó là những
cuộc đi vô định, vô sở trú, chất ngất trên tuyệt đỉnh núi cao và hun hút tận
nguồn sâu hố thẳm tâm linh, vừa bừng bừng thần khí rực ngời lửa tim hồn cháy,
vừa ầm ầm cuồng nộ, trào tuôn lai láng như sóng vỗ đại dương. Cháy và chảy,
cháy và chảy mãi trong hồn, như một lần lúc 24 tuổi, nhà thơ đã từng nhắn gởi
cho giới trẻ thanh niên Việt Nam : “Gởi một người đọc không quen, cùng cháy một
thứ lửa thiêng như tôi, cùng được nuôi bằng một thứ nước điên nào đó chảy trôi
như tôi, cùng sống như tôi đang sống : Cháy và chảy, cháy và chảy không
ngừng…”*
Hừng hực ngọn lửa
thiêng suốt ngày đêm bừng cháy trong trái tim, đồng thời một dòng sông xanh
ngát luôn tuôn chảy bất tuyệt ở trong hồn, nên chàng thi sĩ đã hào hứng
lên đường ra đi từ dạo đó, từ thuở nào vô thường dâu bể loạn mù xa. Giã từ nắng
quái chiều tà. Biệt ly túy lúy cuồng ca lộn nhào. Một hồn chết lịm chiêm bao.
Chao ơi ! Bái lạy mộng trào máu rơi :
Tôi đi đông chìm
Trời âm u thung lũng
khô
Nhiều mây chim bay
không nổi
Tôi đi
Dưới kia sụp đổ
Núi Cấm nổ tôi ra
Dòng sông Cửu Long bắt
nguồn từ vùng Kham tận cao nguyên Tây Tạng, phát xuất từ rặng núi Dunhbudsgra
chảy ngược lại vùng hoang dã Chlamdo, Tshawagang, Jang, Ju rồi trút đổ ào xuống
chập chùng lục địa Châu Á, chảy gập ghềnh quanh sườn đồi chất ngất Vân Nam qua
xứ miền Miến Điện, Lào và thơ mộng bồng bềnh chảy xuôi dòng cuồn cuộn cuốn lũ
phù sa qua Mỹ Tho, thành phố quê nhả một thời tuổi nhỏ của thi sĩ, rồi cuối
cùng tuôn tràn ra đại hải trùng dương. Chính dòng sông Cửu Long ấy đã nuôi
dưỡng tâm hồn thi nhân nên chàng luôn mang theo rạt rào trôi chảy suốt trong
lòng, còn ngoài ra không biết hồi thơ ấu có gì ấn tượng chăng mà chẳng bao giờ
nghe nhắc tới, chỉ biết rằng, thuở mới 13, 14 tuổi, chàng đã có những bài tiểu luận tham gia cộng tác với các tạp chí Phổ
Thông, Dân Ta, Bông Lúa, Giữ Thơm Quê Mẹ, Văn, Bách Khoa…Những bài viết triết
lý, thi ca, viết về các nhà thơ, nhà văn Đông Tây kim cổ, khiến Nguyễn Vỹ
( chủ bút tạp chí Phổ Thông, Dân Ta ) và học giả Nguyễn Hiến Lê đều nể phục,
xem là thần đồng vô cùng hy hữu trong thời hiện đại. Phải chăng, đó là sự tái
sinh của một bậc Bồ tát đại trí tuệ nào đó ? Có nhiều người nêu nghi vấn như
vậy.
Thế rồi, lạ thay, khi
danh tiếng lẫy lừng khắp chốn thì bỗng nhiên chàng buông bỏ hết sạch sành sanh, vất lại sau lưng những sự ngưỡng mộ bái phục
của thiên hạ, người đời, một mình làm cuộc phiêu lưu như cánh nhạn ngang trời,
vút bay qua Paris. Sống lênh đênh, bập bềnh lênh láng, trôi dạt bềnh bồng không
nhà không cửa, tựa như nhánh lục bình trôi phập phềnh trên dòng sôngSeinexanh
biếc mộng :
Mộng ở đầu cây mơ lá
cây
Dòng sông ngừng chảy
đợi mây bay
Kêu nhau nhỏ nhẹ sầu
năm ấy
Chim hải hồ bay trắng
tháng ngày
Ngày tháng lang bạt kỳ
hồ ấy, giống như thi sĩ Rimbaud dấn thân vào sa mạc Havar hòa mình sống chung
với thổ dân, tự nguyện làm kẻ du mục qua “Một mùa địa ngục” của trần gian, Phạm
Công Thiện cũng sống lang thang bạt mạng như thế, cũng đi từ bế tắc này đến
tuyệt lộ khác như chính chàng tâm sự : “ Giai đoạn sống ở Paris dạo đó là giai
đoạn bế tắc nhất trong đời tôi. Một ngàn chữ không cuốn theo bước đi tôi, không
tiền, không nhà, không nghề nghiệp, không tình yêu, không tương lai, không gì
cả. Thế mà tôi vẫn sung sướng nhất, giai đoạn ấy là giai đoạn sướng nhất, đẹp nhất,
thơ mộng nhất trong đời tôi. Tôi là một số không to tướng di động
giữa những đường phốParis. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi hiểu được thế nào
là đói là nghèo là khổ là tuyệt vọng. Có nhịn đói cả tuần lễ, có đi
lê lết khắp đường phố Paris suốt đêm mưa để tìm chỗ ngủ khô sau mấy hiên nhà,
có lén lút lẫn trốn mấy người cảnh sát Pháp vì sợ họ bắt nhốt về tội vô gia cư,
vô nghề nghiệp, có ăn mày từng điếu thuốc, từng khúc bánh mì khô, có chịu lạnh
lộ thiên giữa mùa đông tuyết phủ ở Paris, có đứng dựa ngủ dưới mái hiên ngoài
rạp hát ở Montmartre, có được chia sẻ từng tờ giấy nhật trình với bọn ăn mày
clochards để trải ngủ sau hè phố qua đêm lạnh thì mới hiểu thế nào là bế tắc,
là thất bại, là đói lạnh....Từ bế tắc này đến bế tắc khác, nhưng tôi vẫn cảm thấy
rằng tôi đã sống đến độ vỡ đê, yêu đời đến độ gần đứt mạch máu. Vâng, trong
cuộc đời hai mươi tám năm trên trái đất này, chưa bao giờ tâm hồn tôi thanh
bình, trong sạch xanh lơ như bầu trời mùa hạ, như những ngày sống ởParisdạo
đó.”**
Thời gian vừa bi đát
vừa hùng tráng ấy, rất may sau đó, chàng sống nhờ sự giúp đỡ tận tình của nhà
thơ Thi Vũ, Nh. Tay Ngàn, họa sĩ Trần Quang Hiếu, Vĩnh Ấn rất nhiều và đặc biệt
nhất là nhà văn Henry Miller đã cưu mang chàng hết lòng, bằng
những tấm ngân phiếu gởi từ Hoa Kỳ cũng như nàng thơ Thanh Hoài, một tiên nữ
định mệnh đã đến với chàng, tự nguyện sống chung một cách gần gũi cận kề, gắn
bó, mật thiết vô cùng suốt 13 năm trường đằng đẵng. Nhờ đó mà chàng có thời giờ
nghiên cứu, hoàn thành tốt nghiệp Tiến sĩ triết học tại đại học Sorbonne, rồi
sau đó giảng dạy triết học Tây phương tại đại họcToulouseở Pháp quốc.
Thế nhưng, lại một lần
nữa, từ trên tuyệt đỉnh vinh quang, đang là thần tượng của đám sinh viên Pháp,
Đức, Anh, Mỹ… ngưỡng mộ vô cùng, chàng lại vất bỏ giảng đường đại học để ra đi
như ngày xưa đã vất bỏ lại sau lưng đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn. Thật là quá đỗi
lạ lùng. Hồng nhan bái biệt vô chung cõi về. Nàng thơ huyền mộng đê mê. Đã tàn
cuộc rượu muôn bề chia phôi :
Đã đi thì đã đi rồi
Thượng phương trùng
điệp thấy gì nữa đâu
Hạ phương ngày tháng
bể dâu
Sắt son tình cũ phượng
cầu túy hương
Có còn chi nữa mà
thương
Buổi trưa nằm ngủ thấy
nường năm xưa
Đã đi rồi đã đi chưa
Thượng phương lụa
trắng đong đưa giữa trời
Đã đi mất hẳn đi rồi
Hạ phương tịch mịch
trùng khơi phong kiều
Chuyển hình trên đỉnh
cô liêu
Lửa bay thành ngọn
hồng điều mật ngôn
Đại Huyền biến ngưỡng
triều tôn
Tiền thân Tây Tạng
nhập hồn chiêm bao
Án nga nga nẵng bạch
hào
Một luồng sáng rực
chiếu vào trái tim
Trái tim bốc lửa tam
muội làm cháy tan hết những luật lệ phép tắc, những lề thói khuôn khổ, lối mòn
cũ rích của xã hội máy móc khô khan, cạn kiệt hết bầu sinh khí, chàng thi sĩ
muốn lên đường khai phá một con đường sáng tạo mới lạ hơn. Đứng trên tuyệt đỉnh
cô liêu, một chiều hoang vu nọ, chàng bỗng nghe văng vẳng những lời ẩn ngữ, mật
ngôn huyền bí và chợt thấy thấp thoáng tiền kiếp mình ở tận xứ miền tuyết trắng
Tây Tạng hoang sơ. Biết mình là hành giả Mật tông trong các dãy hang động trên
tuyệt mù Hy Mã Lạp Sơn nên trái tim Bát Nhã ứng hiện những nàng tiên huyền
diệu, dạo khúc cung đàn mười tám tiếng lòng Không Định rung ngân, khiến cho thi
sĩ chỉ còn biết đọc thần chú lim dim dung nhiếp :
Năm nàng thiên nữ tôn
nghiêm
Trùng quan ngũ sắc ứng
điềm tán không
Án đa la tịch mịch
hồng
Mười phương xuất hiện
những đồng sinh thiên
Bát Nhã là gái thiên
tiên
Khoan thai cởi áo mây
hiền trên cao
Gió lùa thơm tóc tơ
đào
Thập bát Không Định
tiêu dao tiếng đàn
Sắc son tình cũ nước
tràn sang sông
Tiếng đàn tiêu dao vô
thanh mà vang ngân bất tận lan dài theo cuộc lữ kỳ cùng, rung hồn rúng chuyển
gió sương ngàn khắp vùng thung lũng sơn khê. Ơi chao ! Một đóa hồng hoa vut trổ
im lìm như những nàng tiên nữ giáng trần sà nhẹ vào hồn tim, để cho thi nhân
xuất thần bay phiêu linh, phiêu hốt trong bồi hồi rộn rã
phập phồng :
Đã đi rồi có đi không
Thượng phương trùng
điệp cỏ hồng thúy hương
Đi đâu mà lại lên
đường
Hạ phương còn gặp cô
nường năm xưa
Đã đi rồi đã đi chưa
Sắt son triều ngưỡng
tình xưa hiện về
Phượng cầu ngũ lĩnh
sơn khê
Một bông hồng nở bốn
bề lặng im
Năm nàng tiên đậu vào
tim
Âm nhập dương khởi lim
dim xuất thần
Phải chăng, năm nàng
tiên nữ là ẩn ngữ ám chỉ cho năm nàng thơ đã từng xuất hiện, đi qua một cách cụ
thể trong đời chàng ? Có thể là như thế, phải không hỡi những Hương, Uyên,
Hoài, Loan, Sương ? Củng có lẽ không phải vậy, nhưng dẫu sao thì dẫu, cuộc đời
của thi nhân vẫn dạt dào cảm hứng từ những nàng thơ trên mặt đất trần gian này.
Tình yêu vẫn là tiếng lòng muôn thuở, là chất liệu cho thi sĩ huy hoàng sáng tạo vô biên như triết gia sấm sét Nietzsche : “Những
trực kiến, nhập kiến sâu thẳm nhất đều xuất phát từ tình yêu.” Còn Phạm Công
Thiện thì : “Nói đến tình dục, tình yêu thì mọi người đều run sợ. Đạo sư
Krishnamurti đã hỏi một câu rất sâu sắc : “Tại sao chúng ta biến tình dục thành
ra một vấn đề ?” Tất cả đều trở thành vấn đề, ngay cả tình dục cũng trở thành
vấn đề. Tại sao không để tình dục phát triển tự nhiên với tình thương như đóa
hồng hé mở với giọt sương mai ? Tình dục không phải chỉ là cảm giác, tình dục
là sự tuôn chảy tự nhiên từ Nguồn Suối Tình Thương Bao La của Sự Sống.”***
Vâng, đúng là như thế, tình yêu tình dục cùng chung một suối nguồn tuôn chảy
mênh mông. Tình thương, tình yêu dịu dàng phát sinh, khởi sự từ Chân Thiện Mỹ,
từ cái đẹp trinh tuyền nguyên sơ, tiêu biểu từ những thục nữ, thuyền quyên,
những nàng thơ, tiên nữ, duyên dáng mỹ miều, yểu điệu hồng nhan mà thi nhân bất
ngờ tao ngộ trùng phùng :
Càng xa càng mông lung
Tới gần vẫn lạ lùng
Nhắm mắt sao lạ quá
Mở ra ồ không cùng
Linh hồn con gái, phải
chăng là nhiệm huyền thi vị như vậy, khiến cho chàng thi sĩ mơ màng mộng mị
trong từng trận trận chiêm bao ảo dị dập dìu :
Một người nằm thở
quạnh hiu
Mơ mòng thiếu nữ cô
liêu giáng trần
Gió khuya đập cửa bất
thần
Giựt mình thức dậy mấy
lần chiêm bao
Có nàng tiên dáng cao
cao
Nước da mòng mọng hao
hao bông hường
Cái đêm lành lạnh
chiếu giường
Gió lùa hương lạ bên
đường tạt qua
Đêm qua thương nhớ
người ta
Tối nay tơ tưởng thiên
hà bơ vơ
Tháng ngày tôi nhớ
bâng quơ
Những nàng con gái bao
giờ gặp đâu
Gặp nhau bao giờ chưa
hỡi những sắc nước hương trời, những kỳ hoa dị thảo, những hương đồng cỏ nội
khắp lâm tuyền, biên ải ngoài bến gió bờ sương ở mọi chốn muôn nơi, hỡi Sương,
Loan, Hoài, Uyên, Hương… diễm tuyệt một thuở nào quyến rũ du dương tận xứ miền
Liên Chiểu hay ngút ngàn sương khói Đà Lạt quá mang mang :
Thương nhau gặp lại
trên ngàn đỉnh cao
Trở về Đà Lạt ngó đào
Ghé thăm Liên Chiểu
thuở nào yêu nhau
Yêu nhau cảm động
dường nào ơi xao xuyến, xốn xang, rộn ràng trong tiếng hát liêu trai của nàng
ca sĩ yếu gầy mà thi nhân hơn một lần say đắm trầm mê tha thiết trong hồn lệ rưng rung :
Cô đơn về trắng sương
rừng
Anh nghe tiếng hát
hoang đường nửa đêm
Khuya buồn tủi nhục
môi em
Mưa run lặng lẽ bên
thềm bơ vơ
Tiếng ru vàng xuống
đôi bờ
Hoang vu anh đứng đợi
chờ chim kêu
Tay gầy ôm chặt tình
yêu
Anh về phố gục những
chiều hư vô
Đời đi trên những nấm
mồ
Đau tim em hát cơ hồ
khăn tang
Phố chiều thả bước
lang thang
Như con sông nhỏ mơ
màng biển xanh
Nửa đêm khói đốt đời
anh
Yêu em câm lặng khô
cành thu đông
Lời em như một dòng
sông
Đôi bờ anh đứng giữa
lòng hoa niên
Mưa chiều nước chảy
triền miên
Một con chim dại lạc
miền hoang lương
Về đâu thương những
con đường
Lê thê phố cũ nghe
buồn hè xưa
Hè xưa phố cũ tuy buồn
mà vẫn có một vẻ đẹp não nùng của thứ tình yêu diêu mang lãng đãng. Chàng thi
sĩ đa tình đa cảm, trót vương mang nàng thơ gầy guộc có đôi mắt sầu mộng u
huyền trên cao nguyên nghi ngút sương mù bay trắng cả rừng thông, suốt mười năm
trời đằng đẵng mộng mơ, nhớ thương tưởng vọng trong da diết ngậm ngùi :
Mười năm qua gió thổi
đồi tây
Tôi long đong theo
bóng chim gầy
Một sớm em về theo
giấc ngủ
Bông trời bay trắng cả
rừng cây
Gió thổi đồi tây hay
đồi đông
Hiu hắt quê hương bến
cỏ hồng
Trong mơ em vẫn còn
bên cửa
Tôi đứng trên đồi mây
trổ bông
Gió thổi đồi thu qua
đồi thông
Mưa hạ ly hương nước
ngược dòng
Tôi đau trong tiếng gà
xơ xác
Một sớm bông hồng nở
cửa đông
Phải chăng đó là cõi
mộng hư ảo tự thuở nào xa ngút ở trên rừng Phi Nôm Đà Lạt hay dưới vùng biển
Vạn Giã Nha Trang. Ơi nhớ một chiều mưa thấp thoáng, chàng thi sĩ rời bãi biển
cát trắng, gõ nhịp bước đơn hành đi về leo lên sườn đồi cao Hải Đức, bỗng sực
thấy cây khế bừng rộ hoa tim tím bên triền dốc đá hoang thưa :
Mưa chiều thứ bảy tôi
về muộn
Cây khế đồi cao trổ
hết bông
Hoa nở rồi tàn cũng
như những nàng con gái mộng mơ đến rồi đi. Tuy vậy vẫn còn phảng phất những làn
hương quyến rũ mị kỳ cứ ám ảnh chập chùng mãi huyền mộng thơm tho trên suối tóc
dịu mềm :
Đêm tối nào ru mái tóc
em
Mộng gì lạ thấy quá êm
đềm
Em nằm thở nhẹ như
bươm bườm
Hai má thơm nồng lại
nóng thêm
Anh ngủ dịu hiền trong
giấc mơ
Rồi em vờ ngủ rất thờ
ơ
Chờ khuya em khẽ bàn
tay mộng
Choàng nhẹ vai anh bao
phím tơ
Con bướm xoay mòng bay
đi đâu
Mùa đông ôm nhau trên
thang cầu
Em ngồi anh hát cười
vang xóm
Bồ câu đập cánh bên
kia lầu
Bồ câu, bươm bướm,
chim chóc chập chơn bay lượn giữa trời thơ đất mộng vàng xanh óng ả những cụm
tơ trời long lanh lấp lánh quá đỗi lung linh :
Tình anh lồng lộng
Chim bay rợp đồng
Đàn trắng căng buồm
Thấp thoáng bên sông
Một con sông dài
Sông Hoài sông Hoài
Sông Hoài cũng chính
là nàng thơ Thanh Hoài, một tiên nữ giáng trần, sống gần gũi với chàng suốt hơn
mười năm dài ởParis. Nàng thơ nói về Phạm Công Thiên : “Chàng tìm đến tình yêu
cũng như chàng tìm đến tôn giáo. Tình yêu cũng phải thần thánh và linh thiêng.
Như giọt nước cam lồ tưới tẩm làm tan biến khổ não ưu phiền. Như sức mạnh của
thần chú xô người qua bên kia bờ giải thoát. Tình yêu cũng phải có mãnh lực đó.
Mãnh lực chuyển hóa và thăng hoa.”****
Đã qua rồi thời gian
hoa mộng đó, kể từ năm 1983, chàng thi sĩ tự ý khước từ danh vọng cao
sang, bước xuống giảng đường đại học Toulouse, từ bỏ kinh thành Paris hoa lệ để
bay vèo qua Hoa Kỳ, tự nguyện dấn thân vào phương trời vô sở trú, vô sở cầu, vô
sở đắc, chẳng thể nghĩ bàn. Chàng lại tiếp tục đi cho hết một đêm hoang vu trên
mặt đất. Đường của thơ là những nẻo đường ngược gió, là quán trọ, hiên chùa tá
túc qua đêm. Đêm và ngày trôi qua như giấc mộng ban đầu. Thấu thị nhân sinh,
tình yêu đã thăng hoa thành tình thương vô hạn trổ bừng đóa Bồ đề tâm thâm cảm
diệu thường.
Thầm cảm nhận thấm
thía hương vị mị kỳ của tình yêu tương đối và tuyệt đối, rồi từ đó, thi nhân tự
nhiên như nhiên chuyển dần sang ngạt ngào tuyệt bích tình thương. Tình thương
yêu tối thượng như mây lan tỏa khắp mười phương, chan chứa trộn lẫn trong giọng
chim ca lăng tần già hòa quyện tiếng kêu thanh tao, thánh thót nhập hồn sương
khói vô vi trở thành Bồ đề tâm thâm viễn miên trường :
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy cúng dường
Lôi bồ đề tâm dậy
Chấn động khắp mười
phương
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy vô lượng
Lôi bồ đề tâm dậy
Địa động cả mười
phương
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy đại dương
Lôi bồ đề tâm dậy
Sấm sét nổ mười phương
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy bất thường
Lôi bồ đề tâm dậy
Gió bão lặng mười
phương
Khi thi nhân quỳ
xuống, sụp lạy tất cả muôn loài vạn vật, đất trời thiên vạn cổ là lúc Bồ đề tâm
bừng dậy tỏa chiếu hào quang rạng rỡ khắp muôn phương. Đó cũng là hành động mà
Bồ tát Thường Bất Khinh vẫn thường thực hiện suốt bình sinh không hề mệt mỏi.
Bồ đề tâm chính là Đại bi tâm, có thể làm sụp đổ tất cả mọi ác pháp. Phạm Công
Thiện từ bao giờ đến bây giờ vẫn thường xuyên miên mật hít thở trong bầu khí
hậu phong nhiêu ấy, hơi thở biến thành hành động sụp lạy là đã nhập vào vô ngã,
vắng lặng cái tôi, vắng lặng mọi so đo chân giả, xa lìa mọi giả danh, tham
chấp, chỉ còn cái đang là tỏa sáng ánh thái dương :
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy vô thường
Lôi bồ đề tâm dậy
Sấm chẻ đứt Kim Cương
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy lên đường
Lôi bồ đề tâm dậy
Sấm trời động thượng
phương
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy thiên
hương
Bồ đề tâm tăng trưởng
Bông quỳnh nở bất
thường
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy vách tường
Bồ đề tâm quy ngưỡng
Bông trang trổ đầu
đường
Bồ đề tâm là sự tỉnh
thức toàn diện của tình thương vô hạn. Sức mạnh vĩ đại nhất trên tất cả mọi sức
mạnh của nhân loại. Đó là tình thương yêu diệu dụng vô điều kiện mà thi sĩ
thiền sư Phạm Công Thiện đã thể hiện một cách ngoạn mục trên cuộc lữ tuyệt
cùng.
Chúng ta hãy nghe
chàng nói : “Từ năm 1970 cho đến 1983, tôi đã sống ở Do Thái, rồi ở Đức quốc và
ở lâu dài tại Pháp quốc. Đến năm 1983 qua một cơn chuyển động toàn diện của tâm
thức viễn ly, tôi đã trở lại Hoa Kỳ, trở lại thành phốLos Angelessau một thời
gian xa vắng gần hai mươi năm. Từ năm 1983 cho đến năm 1994, trên mười một năm
nay, lại qua nhiều cơn chuyển động toàn diện liên tục của tâm thức viễn ly, tôi
vẫn tiếp tục sống ở thành phố Los Angeles, sau vài chuyến lui về vùng đồi núi
im lặng ở Úc Châu, tôi vẫn trở lại với thành phố Los Angeles như trở về tập
sống hồn nhiên tự tại với những cơn động đất thường xuyên của đời mình.
Cái “tôi” ở trên đã
trở thành một cái gì khác. Không biết là cái gì ? Cũng chẳng bận tâm biết đến
làm gì, chỉ biết ở đây và ở đó vẫn còn động đậy nhẹ nhàng những bước chân thầm
kín, những bước chân lặng lẽ, thong dong bình thản trở về sự im lặng.”*****
Trên ngõ về im lặng,
im lặng vô ngần giữa bốn bề, mười phương yên tịnh tịch nhiên. Xuất thần nhập
cốt, hưng phấn hân hoan rạt rào, vô cùng cảm hứng là những trạng thái kỳ diệu
mà Phạm Công Thiện thỉnh thoảng rơi vào một cách phiêu diêu, ngay từ lúc còn
tuổi thiếu niên, như một thời sống bồng tênh trên núi rừng phố hoa Đà Lạt, một
chiều hiu hắt nọ, chàng choáng váng, sững sờ khi bắt gặp Thiền tông giữa cơn
mưa gió bão bùng : “Tôi quỳ xuống lạy lung tung, tôi lạy gió, lạy mưa, lạy
nắng, lạy không khí, lạy cái ghế, lạy cái bàn, lạy vách tường, lạy đóa hoa
trong ly, lạy cái giường. Ồ tôi hạnh phúc, sung sướng, yêu đời, yêu cả vũ trụ.
Cảm tạ hết mọi đau khổ, mọi bất công, mọi bi kịch, cảm tạ hết, cảm tạ bất tận.
Tôi đã tìm được tất cả những gì đã đánh mất từ mấy ngàn năm nay.”******
Hay một lần nơi
thành phố Garden Grove ở California, trong căn phòng trống trải cô tịch vô vi,
thi nhân cũng nhập diệu, thấy mình hóa thân trùng trùng giữa mười phương pháp
giới vô ngần : “Trong tận cùng sâu thẳm của kiếp người, nó không khác người
khác, nó là tất cả mọi người đang di động trên trái đất, nó là tất cả những
định tinh và hành tinh, nó là con sâu, cái kiến, con bướm, con quạ, trái cam,
chiếc lá. Nó là cơn gió thổi vèo qua kẹt cửa, nó là luồng ánh sáng và đêm
tối…Nó là một cảm giác, một tư tưởng, một ý tưởng và một cử chỉ. Nó là mỗi chữ,
mỗi tiếng, mỗi lời trong tất cả ngôn ngữ loài người…Nó là sự trống không mênh
mông của mười tám cái không tràn trề của Trí Tuệ Bát Nhã sang sông…Nó là sức
mạnh vũ bão của tất cả năng lực vũ trụ, sự tập trung tư tưởng mãnh liệt nhất
của tất cả tư tưởng nhân loại, tập thành khủng khiếp của tất cả đạo lý và triết
lý…Nó là nguyên lý đồng nhất tối thượng, đồng thời là sự chuyển hóa tối hậu của
chính nguyên lý đồng nhất và bước nhảy tịch liêu vào cõi tịch mịch của một đóa
hoa hồng tơi tả…”******
Rồi một lần kia, nhà
thơ cô đơn, tha thẩn dạo chơi những ngày cận kề cuối năm ở tận góc bể chân trời
ven bãi biển Laguna Beach xa xăm bỗng nhập thần mộng thấy đại thi hào Nguyễn Du
và Thúy Kiều hiện về thấp thoáng vi vu :
Năm tàn nằm mớ Nguyễn
Du
Kiều trôi đâu mất la
phù dặm khơi
Cuốc kêu bảng lảng
tháp hời
Nhắc tên người cũ rã
rời cuối năm
Trầm tư bên một góc
quán cà phê ở Glebe, trên vùng đồi cao Earlwood, nhìn xuống dòng sông xanh, gần
thành phố Sydney ở tận bên kia bờ Úc Châu, thi nhân chợt nghe ra tiếng ngựa hí,
tiếng đàn vô thanh của Mã Minh và thấy Long Thọ lang thang dưới ánh trăng thái
cổ ảo huyền :
Con ngựa ô lồng lộn Mã
Minh gãy đàn
Long Thọ thở dài nhật
nguyệt lang thang
Rồi lại một chiều
phiêu bồng lãng bạt, rong rêu cùng họa sĩ Vĩnh Ấn bên dòng sông Seine bồng
bềnh, rực ngời hoa nắng ở thành phố Paris, thi sĩ bỗng thấy Van Gogh nhập cốt
ứng hiện huyền hòa :
Úm ba la u linh ma ha
Đất nứt nở ra bầy quạ
trắng
Hồn thiêng Van Gogh
nhập vào ta
Úm tô ra hương linh
hiện ra
Úm ba la ưu ưu Bát Nhã
Đất nứt nở ra đôi vạc
trắng
Hồn thiêng Van Gogh
nhập đêm qua
Van Gogh là một họa sĩ
dị thường, có một câu nói bất hủ : “Trong cuộc đời và trong cả hội họa cũng
vậy, rất có thể mi bỏ qua không cần Thượng đế, nhưng mi, kẻ khổ đau, mi không
thể bỏ qua, không cần tới một điều cao viễn hơn mi, chính là đời mi : Quyền
năng sáng tạo.” Vâng, sáng tạo là một nghệ thuật tối thượng, là bước đi tuyệt
cùng tự giải phóng, tự giải thoát bản thân khỏi nhà tù do chính mình tự tạo cho
mình, như nhà văn xuất chúng Henry Miller cũng đã từng tuyên bố : “Kẻ sáng tạo
kêu gọi con người trực nhận rằng, tất cả mọi tự do có sẵn trong bản thân rồi.
Rằng con người không cần phải bận tâm lo lắng đến vận mệnh thế giới ( vì đó
không phải là vấn đề của hắn ) mà chỉ nên lo giải quyết vấn đề riêng tư của
chính riêng mình, tức là vấn đề giải phóng, giải thoát, chứ không phải vấn đề
nào khác cả.”
Henry Miller lấy giải
thoát làm đề tài tối thượng và Phạm Công Thiện cũng tương ứng trên tinh thần
giải thoát giải phóng ấy, cho nên liền quảy túi thơ bầu rượu, xuôi ngược bước
đi nhảy múa trên thông lộ phong quang sáng tạo vô lường. Tường tận thấy rõ cái
thực tại ở đây bây giờ, thở cùng linh khí của nhật nguyệt thiên thu, tái tạo
từng điệu thở, từng ý niệm, nổ tung mọi cố chấp thâm căn cố đế để thể nhập Tánh
Không, xô cửa huyền vi mà bước vào Tâm giới, nơi tuyệt cùng của vạn vật Nhất
Như. Bước tự do tự tại, thênh thang giải thoát mọi dính mắc, buộc ràng, chỉ còn
sáng tạo và sáng tạo bao la, dốc hết tinh hoa, tinh túy để tựu thành những tác
phẩm độc đáo vô song : Từ Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất đến Khơi
mạch nguồn thơ thi sĩ Seamus Heaney, từ Một đêm siêu hình với Hàn Mặc Tử đến
Nguyễn Du đại thi hào dân tộc, từ Đối mặt với một ngàn năm cô đơn của Nietzsche
đến Chỉ còn tiếng thơ trên mặt đất, từ Triết lý Việt Nam về sự vượt biên đến
Khai ngôn cho một câu hỏi dễ hiểu : Triết học là gì ? từ Nét đẹp tinh túy trong
sáng của đạo lý Phật giáo đến Làm thế nào để trở thành một bậc Bồ tát sáng rực
khắp bốn phương, từ Những bước chân nhẹ nhàng trở về sự im lặng đến Trên tất cả
đỉnh cao là lặng im…là những bước nhảy thượng đẳng, tuyệt luân, hùng tráng, phi
thường, vượt qua sự chuyển hóa toàn diện của tâm thức đến độ vô sư tự ngộ, bùng
vỡ ra một điều chi bất khả tư nghì giữa như thị đang là, ngay ở đây thôi :
Những gì không vói tới
Thì có sẵn đó rồi
Bao nhiêu danh vọng
hời
Vài ba cụm bèo trôi
Ba mươi năm nằm dài
Một hôm đứng phắt dậy
Bất nhị xòe tầm tay
Bất ngờ tôi sụp lạy
Từ trống trải nhận
thấy
Tự trống trải lắng
nghe
Tịch diệt liền tại đây
Xuân dậy giữa trưa hè
Xuân là Nguyên xuân,
Tâm xuân, là mùa xuân miên viễn trong lòng người, thi sĩ đã thấy và nghe được
như một phép nhiệm mầu làm biến tan mọi niềm đau nỗi khổ, mọi phiền não lao đao
:
Hôm nay là hôm nào
Thôi đừng hỏi tại sao
Phép lạ đập vào cửa
Bông súng nở trắng
phau
Ngồi im giữa vòng tròn
Thở nhẹ như chim non
Mộng thân trùm pháp
giới
Bông quỳnh vừa nở trọn
Lắng vào trong cái
nghe
Rót vào lòng thật khẽ
Lọt vào trong lặng lẽ
Động tịnh đều dứt nhẹ
Hôm qua vẫn trở lại
Dĩ vãng là hôm nay
Ngày mai là hiện tại
Đấy là những bài thơ
ngắn gọn, tuy đơn sơ giản dị nhưng đi thẳng vào lòng người một cách tự nhiên,
thể hiện cốt cách đặc thù riêng biệt, hàm dung ý thiền “một là tất cả. tất cả
là một” của tinh thần Hoa Nghiêm. Tất cả ý thức và vô thức của con người bị phá
vỡ tung ra, xoay tròn trôn ốc mất hút trong trùng trùng duyên khởi của toàn thể
sự sự vô ngại pháp giới. Một giây phút kéo dài cả triệu kiếp, một bước đi
là nghìn tỷ dặm, một cái nhìn là thiên thu bừng dậy, nói như Phạm Công Thiện :
“Nếu chúng ta xoay chuyển cái nhìn của chúng ta vào trái tim vũ trụ theo nhịp
thở kinh Hoa Nghiêm thì tất cả mọi sự đều dung thông, dung nhiếp, viên dung tự
tại vô ngại, thời gian là không gian, một thời gian là tất cả không gian, một
không gian là tất cả không gian, tất cả thời gian là một không gian, tất cả
không gian là một thời gian.”*****
Khi tiềm ẩn nguyên
khí, nội lực thâm hậu thì bậc cao thủ cự phách thường kiệm lời, ít nói mà linh
hoạt, tùy hứng như trẻ thơ, hồn nhiên đùa rỡn, xem cuộc đời như một trò chơi.
Còn kẻ thi sĩ xuất chúng, sáng tạo vô vàn cảnh giới thi ca quá mộng thì ít nhất
cũng sờ đụng tới hố thẳm và đỉnh cao tâm linh của chính mình.
Đỉnh cao và hố thẳm
tâm linh ấy, Phạm Công Thiện đã từng va chạm, giáp mặt trong một bình sinh hy
hữu nào đó, cho nên cả trời thơ đất mộng dạt dào bao nhựa sống thâm trầm nhập
vào trong từng điệu thở tinh khôi :
Lùa nhẹ vào một mối
Đập mạnh một nhát thôi
Tất cả đều bày phơi
Trí tuệ sáng rực ngời
Muốn có được ánh sáng
quang minh trí tuệ rực ngời đó thì chẳng phải chạy tìm đâu xa mà chính ngay nơi
tận đáy lòng mình, chính nơi mình đang cư ngụ, lưu trú, ngay nơi những nghịch
cảnh, thử thách mà mình phải giáp mặt ngày đêm một cách anh dũng, không nao
núng, như nhà thơ từng nhắc nhở : “Chúng ta chỉ thành Phật được, khi chúng ta
là con người ở giữa thị tứ, không có cảnh Bồng lai thiên thai địa đàng nào là
thuận cảnh để ta giải thoát được, chinh tất cả Nghịch cảnh của nơi ta sinh sống
mới là nơi ta tự chuyển hóa tâm thức để nhập vào Tự chứng Thánh trí.”*****
Thánh trí đó là trí tuệ, tuệ giác, là cái bản tâm nguyên sơ thanh tịnh của mình
đấy thôi. Khi thấy rõ tận tường được điều đó thì xem mọi sự ở đời như sống
chết, đến đi, hơn thua, đúng sai, phải trái, giàu nghèo, thành công, thất bại…
đều là nhân duyên giả hợp, chẳng hề sợ hãi, lo âu chuyện còn hay mất :
Thất bại giữa đời này
Chết sáng ngời trên
cao
Bông tàn phai cõi đất
Mọc lại giữa trăng sao
Nhảy thẳng vào sự việc
Chẳng có gì đáng tiếc
Sự việc lớn lao nhất
Là hiện tiền tịch diệt
Thực tại hiện tiền là
ngay đây, bây giờ, ngay trong mỗi phút giây là chứa đầy thiên thu vĩnh cửu,
ngay trong từng hơi thở ra vào là đủ cả nghìn năm :
Bôn ba ngoài vạn dặm
Cũng chỉ một trăng rằm
Bao nhiêu là hố thẳm
Xoáy về nốt ruồi đậm
Hố thẳm là ẩn ngữ chỉ
cho tư tưởng của chúng ta. Chỉ cần một chút tơ tưởng móng lên thôi là cả ba
nghìn thế giới, sơn hà đại địa hay tiên nữ, thục nữ mười phương liền hiển lộ,
bừng dậy huy hoàng, rõ ràng hiện ngay trước mắt tức thì :
Chỉ cần một ý tưởng
Khắp vũ trụ mười phương
Sáng bừng lên vô lượng
Thiên tiên hiện đầu
giường
Phải chăng đó là cái
thấy tuệ giác siêu việt của một tâm hồn bao la thông suốt lẽ sâu xa của trùng
trùng duyên khởi Hoa Nghiêm pháp giới diệu kỳ :
Mỗi bước chân ra đi
Triệu vũ trụ thiên di
Mỗi chỗ tôi ngồi lại
Sáng bừng lên diệu lý
Chân lý vi diệu đó,
thi nhân bỗng phát hiện chẳng ở đâu xa mà ngay tại đây và bây giờ, ngay giữa
phù du cát bụi giữa vui buồn sướng khổ trong cõi lòng huyền diệu của thức tâm :
Trăm năm đời hờ hững
Đêm ngày buồn lơ lửng
Linh địa là tại đây
Nơi chỗ tôi đang đứng
Linh địa là mặt đất
thiêng liêng này, nơi thi sĩ đang sống từng phút từng giây đầy trọn vẹn. Sống
từ đồng bằng sông Cửu Long đến cao nguyên sương mù Đà Lạt, từ Mỹ Tho, Sài Gòn,
Nha Trang đếnParis, Los Angeles, Chicago, từ Monterey Park, Garden Grove, Long
Beach đến New York,, Bellflower, Washington, từ San Gabriel, Alhambra, Houston
đến Sydney, Earlwood, Glebe… ngút ngàn viễn xứ xa xôi :
Thoắt đi một đời người
Buồn hoài cũng thế
thôi
Trăm năm là giây phút
Chưa đi đã tới rồi
Hàng triệu tỷ năm trôi
qua và giờ đây ngưng đọng trong cái đang là, nơi người em thi ca từ vô lượng
kiếp trở về đang mỉm cười nguyên sơ rạng ngời mới lạ :
Mười lăm tỷ năm qua
Từ vạn triệu thiên hà
Bây giờ ta mới tới
Cuộc trùng phùng kỳ ngộ
thật vô cùng thú vị, tuyệt hảo tân kỳ như một kẻ đốn ngộ vô ngôn vì thấy toàn
thể vũ trụ là chốn đạo tràng đầy đủ chư Phật, Bồ tát, Thần linh đều viên dung
cùng một ngọn ngành thanh tịnh :
Tất cả là đạo tràng
thần linh
Ta ngồi tham ngưỡng
cội vô hình
Thênh thang phù thế
làm chim ó
Bay lượn tháng ngày
cõi lặng thinh
Bay lượn giữa phong
quang trời đất, nhật nguyệt hay thả trôi trên dòng sông Mật tông thấm đẫm tình
Mẹ Đại bi, Đại trí Tãra xanh biếc huyền mộng chan hòa. Cả vũ trụ mênh mông là
một tu viện rồi thì về chùa hay xa chùa cũng trong vòng tay bao dung mở rộng :
Tãra mười tiếng đại
không
Ảo thân nằm giữa dòng
sông Mật thừa
Về chùa một dúm muối
dưa
Xa chùa cũng thế :
Hứng mưa mỉm cười
Hầu như suốt cuộc đời
Phạm Công Thiện thường gắn bó, thân mật, cận kề với những ngôi chùa ở quê hương
cũng như các ngôi chùa nằm dọc ven đường lang bạt trên toàn thế giới, chàng ở
chùa nhiều hơn là ở nhà. Từ chùa Hải Đức ở Nha Trang đến chùa Vạn Hạnh ở Sài
Gòn, từ chùa Việt Nam ở Los Angeles đến chùa Viên Thông ở Bellflower, từ chùa
Diệu Pháp ở Monterey Park đến chùa Liên Hoa ở Garden Grove...Cửa chùa là cửa
Không, Không là Không Tánh nên tha hồ vào ra thoải mái, chẳng hề chướng ngại gì
cả. Cho nên từ Bát Nhã đến Pháp Hoa, từ Kim Cang đến Hoa Nghiêm, từ Mật tông
đến Thiền tông, từ thi sĩ đến thiền sư, Phạm Công Thiện lại tùy duyên cất cao
giọng sư tử hống trong các pháp đường, thiền viện ở Mỹ Châu và Úc Châu.
Mặc dù, mới buổi sáng
giảng kinh Kim Cang thao thao bất tuyệt trên thiền đường, rồi buổi chiều thõng
tay vào chợ uống rượu ngâm thơ túy lúy cùng bọn văn nghệ sĩ, giang hồ tứ chiếng
đó đây mà phong thái vẫn nhàn nhã, tự tại, tiêu dao. Mỉm cười buông bỏ nhẹ
nhàng để bước đi trầm hùng sư tử, tự do vô sự. Vô sự như “chim hải hồ bay trắng
tháng ngày” bay khắp thiên thanh vĩnh thúy rồi đậu xuống mái hiên chùa rêu
phong tịch mịch, ngồi nhập định du hý tam muội làm thơ kính tặng cõi thinh
không lồng lộng :
Mồng tơi mây ngủ hiên
chùa
Dâm bụt rực đỏ hai mùa
gặp nhau
Hơi rừng thơm nức
chiêm bao
Đêm thâu nín thở ngó
vào bài thơ
Toàn thể cuộc đời là
bài thơ, sống chết là bài thơ, có không là bài thơ, mộng thực là bài thơ, buồn
vui, sướng khổ là bài thơ, hơn thua, được mất là bài thơ, thành công, thất bại
là bài thơ, gặp gỡ, ly biệt là bài thơ, phiền não, an lạc là bài thơ, khổ đau, hạnh
phúc là bài thơ, chiêm bao mộng mị là bài thơ hay Vô thượng chánh đẳng, chánh
giác cũng đều là thơ thơ hết thảy, thơ ở trong thơ :
Tượng Phật ở bàn thờ
Dọn dẹp để trống trơ
Tôi vẫn lạy chỗ trống
Chỗ trống thành bài
thơ
Chính cuộc đời của
Phạm Công Thiện là một bài thơ quá tuyệt vời bát ngát, quá tuyệt mỹ lý thú, quá
tràn trề mê say, ngợp đầy hào sảng rạt rào vô hạn, đã khơi dậy nguồn cảm hứng
dồi dào, thắp lên ngọn lửa thiêng huy hoàng sáng tạo, bừng cháy bất tận giữa lòng
nhân thế tuyệt trần :
Hứng lúc nào cũng đến
Giờ nào cũng giờ hên
Ngồi thẳng lưng mà
viết
Vạn tơ tưởng bồng bềnh
Viết là sống. Sống một
lần Tự do đầu tiên và cuối cùng như Krishnamurti hay sống Alexis Zorba Con
người chịu chơi như Nikos Kazantzakis hoặc sống Chơi giữa mùa trăng như Hàn Mặc
Tử : “Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng
lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui buồn,
giận hờn đến gần đứt sự sống.” Thể điệu sống ấy, thật giống hệt với thi sĩ Phạm
Công Thiện xiết bao !
Thật vậy, chẳng những
giống như Hàn Mặc Tử về phong cách nhập cuộc tha thiết, kiệt tận bình sinh, dốc
hết toàn thể xương xảu máu me vào ly rượu tình yêu nồng say óng ả mà Phạm Công
Thiện còn tương ứng, tương tợ với nhà thơ lãng tử Rimbaud từng trải qua Một mùa
địa ngục bi tráng, bi hùng, với đại thi hào Walt Whitman, chỉ một Lá cỏ cũng đủ
chứa đựng cả vô tận đất trời, với Suzuki Thiền luận, với Padmasambhava Tổ sư
Mật tông Tây Tạng, với Milarepa Con người siêu việt, với Long Thọ Trung quán
luận, với Heidegger Về thể tính của Chân lý, với Nietzsche, Zarathustra đã nói
như thế trên ngõ về vĩnh cửu, với thi hào Hoelderlin lên đường Quy hồi cố
hương, với Apollinaire, một thi nhân trầm lặng mặn nồng, sống trọn vẹn hết mình
với tình yêu và nhất là với Henry Miller, một tâm hồn thượng đẳng mà Phạm Công
Thiện luôn luôn kính phục và ca tụng hết lời : “Đối với tôi, Henry Miller còn
vĩ đại hơn cả Walt Whitman, hơn cả Dante, Shakespeare và Goethe. Vĩ đại một
cách bí mật, một cách thần diệu và vượt ra ngoài cả văn minh, văn hóa và văn
chương của toàn thể nhân loại, vượt ra ngoài Thiện và Ác, Đạo và Phi Đạo.
Đứng trên đảnh núi cao
nhất của nhân loại, Henry Miller cùng cười to tiếng với Duy Ma Cật, với
Milarepa, với tất cả những gì chưa bao giờ xuất hiện trên toàn thể không gian,
thời gian của cái gọi là Thực Tại và của cái gọi là Hư Vô.
Tương lai của toàn thể
nhân loại phải bắt đầu lại với Henty Miller thì mới may ra chuyển hóa toàn diện
trái đất này thành viên ngọc mani ( như ý ) trong trẻo của Quán Thế Âm Bồ Tát.
Henry Miller là một trong vài ba thiên tài nhân loại đã đánh thức dậy thế lực
mãnh liệt nhất của Lòng Đại Bi trong ý thức và vô thức của con người trên mặt
đất…
Đọc Henry Miller là
nghe lại tiếng nói của Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Vệ Đà, Kinh Bát Nhã, Kinh Kim
Cang, Kinh Hoa Nghiêm, tắm mình trong không khí u trầm của Đạo Đức Kinh, đùa
hát trong tiết điệu của Nam Hoa Kinh, ca ngợi mặt trời trong Kinh Ai Cập, thờ
lạy buổi chiều trong Kinh Á Rập và Do Thái, nhảy múa với cái chết trong Kinh
Tây Tạng, làm ái tình trong Kinh Mật tông, say rượu ngọt trong Kinh Hy Lạp…Tất
cả đều là Kinh, tất cả đều là Đạo, tất cả đều là cầu nguyện, tất cả đều là hơi
thở của vũ trụ, tất cả đều là linh thiêng và đều huyền dị. Tất cả đều im lặng,
sự im lặng trong khiết, thoát ra từ hố thẳm vạn đại.”**
Lần đầu tiên qua Hoa
Kỳ lúc mới 24 tuổi, một người duy nhất mà Phạm Công Thiện muốn gặp là Henry
Miller và chàng đã toại nguyện. Henry Miller nói chàng là hậu thân của thi sĩ
Rimbaud, khiến chàng hốt nhiên đốn ngộ, bùng vỡ ra một điều gì ly kỳ vi diệu
cực cùng và từ đó, chàng sống trên cung bậc xuất thần liên tục hân hoan với cái
đang là.
Đang là thì không từ
đâu đến cũng chẳng đi về đâu, dù cuộc lữ bắt đầu khởi sự từ vô lượng kiếp rồi,
dù có đi vòng quanh hết quả địa cầu này thì cũng đẻ thấy lại cái tâm hồn mình,
như Henry Miller nói : “Vì chỉ có một cuộc phiêu lưu vĩ đại thôi, đó là đi vào
bên trong mình và đi vào trong lòng mình thì thời gian, không gian, ngay
đến hành động cũng không quan trọng gì cả.” Thì ra là vậy, thật đơn giản mà độc
đáo vô cùng.
Cùng nòi giống, cùng
dòng máu Henry Miller, lấy giải thoát làm đề tài tối thượng nên Phạm Công Thiện
cũng nhiệt liệt, hiên ngang theo dõi cuộc phiêu lưu thám hiểm vào nội tâm thầm
kín, để khai phá ra những bí mật bên trong thế giới tâm linh sâu thẳm của chính
mình. Cuộc lữ tư duy khủng khiếp từ khi thi sĩ tự nguyện làm lạc đà gánh nặng,
băng qua những sa mạc cát trắng khô hạn, cháy bỏng vết hằn cay đắng, thê lương,
vượt qua ngàn cơn bão lốc khốc liệt, kinh hoàng của nỗi đời dâu bể tan hoang
cũng như từng say đắm, say sưa chén rượu hồng nhan, túy lúy càn khôn bổi hổi,
rồi dấn thân làm sư tử oai phong lẫm liệt, đi đứng một mình, không bè nhóm,
không đảng phái, không ý thức hệ, chỉ gầm rống vang động, làm rung chuyển khắp
sông hồ dữ dội, hùng tráng, uy nghi, khí phách giữa tồn sinh bức bách, xuống
biển lên đồi.
Rồi bất ngờ đến kỳ lạ,
sư tử biến thành thằng bé trẻ dại hài nhi với nụ cười tươi tắn niềm hân hoan
thơ ngây, thấy gì cũng rực ngời mới lạ, bằng con mắt trong veo, trong trẻo
trinh nguyên xanh biếc trời thơ đất mộng không tên.
Trên cung bậc ngân
vang ngút ngàn sáng tạo, Phạm Công Thiện cùng tương ứng với triết gia Nietzsche
về ba hóa thân : Lạc đà,. sư tử và hài nhi. Trước hết tinh thần trở thành lạc
đà, chuyên chở gánh nặng văn hóa, truyền thống… tiêu biểu những giá trị lỗi
thời xưa cũ. Sư tử là chúa tể rừng xanh, tượng trưng cho ý chí, trí tuệ siêu
việt, mạnh mẽ phá hủy tất cả những triết thuyết độc thần, hư vô, duy vật lỗi
thời đó, làm sụp đổ hết thảy mọi thần tượng do con người sợ hãi dựng lên và
cuối cùng là hài nhi hồn nhiên, là biểu tượng cho sự bắt đầu, khởi nguyên hoàn
toàn mới mẻ, là một tiếng cười rỗng rang, một tiếng ừ chấp nhận thiêng liêng.
Hài nhi xem mọi sự như
trò chơi, trò đùa vui vẻ, chẳng có chi phải trầm trọng, nặng nề, chẳng có gì
phải van xin, tôn thờ, sợ hãi. Hài nhi chỉ biết yêu thương múa hát, hân hoan
sáng tạo và sáng tạo thênh thang.
Thênh thang ca hát như
Trang Tử dạo khúc Tiêu dao du bên bờ sông Dương Tử hay như Milarepa hát ca những
lời thơ siêu thoát trên tuyệt đỉnh Hy Mã Lạp Sơn lạnh rờn tuyết trắng, hoặc như
Beethoven Hòa tấu khúc thứ 9 bất hủ và Phạm Công Thiện cười vang lên như tiếng
gầm sư tử trầm hùng tự tại thong dong :
Anh vụt cười to động
đóa hồng
Dịu dàng em rắc giữa
hương nồng
Anh ngồi chỗm dậy như
sư tử
Vồ chụp bướm ngàn lúc
rạng đông
Khi sư tử mà đùa rỡn,
nhảy múa với chim ngàn hoa bướm là lúc mọi sự đã trở thành một trò chơi của hài
nhi hý lộng, rất mực thuần nhiên thoải mái, thanh thản nhẹ nhàng như thi sĩ tâm
sự khơi vơi về thái độ ứng xử giữa cuộc luân lưu sinh tồn linh động : “Sống, ăn
ở đời một cách khiêm tốn, tầm thường, nhỏ thấp, cung cách, cử chỉ lặng lẽ từ
tốn, nhún nhường, không tìm cách tỏ ra rằng mình là quan trọng đối với con mắt
thế gian, nhưng đằng sau bề ngoài tầm thường đó thì hãy để tâm thức mình bay
vút, vượt lên trên tất cả quyền lục và danh vọng thế gian…
Chấp nhận tất cả những
gì xảy đến đời mình với sự dửng dưng bình thản, mặc kệ giàu hay nghèo, mặc kệ
khen hay chê, không thị phi phân biệt cái này với cái kia như đức hạnh và đồi
bại, vinh quang và nhục nhã, tốt và xấu. Không đau đớn khổ sở và cũng không ân
hận những gì đã qua, không sung sướng hớn hở và cũng không hãnh diện về những
gì mình đã thực hiện thành tựu.
Ngó nhìn những quan
điểm xung đột và những phát hiện sinh hoạt đa dạng của chúng sinh với lòng bình
thản, khinh an và tâm thức siêu thoát. Phải hiểu rằng đời là thế và là thể điệu
tác động không thể tránh được của mỗi một sinh thể. Hiểu như thế thì hãy luôn
tỉnh thức, thanh thản trầm lặng. Ngó nhìn nhẹ nhàng xuống cuộc đời như một
người đứng trên tột đỉnh núi cao nhất, nhìn ngó xuống những thung lũng và những
ngọn núi nhỏ thấp trải ra dưới chân mình.”*****
Giữa muôn trùng cuộc
lữ, trên con đường mây trắng bềnh bồng, gió trăng đồng vọng, rung ngân lên văng
vẳng những cung đàn lã lướt dưới gót chân của chàng thi sĩ dị thường. Bước đăng
trình vạn lý du, có đôi lúc cũng dừng gót chân lãng tử lại nghỉ ngơi một vài
quán trọ dọc đường như giảng dạy triết lý, văn chương ở đại học Toulouse, nước
Pháp hay thuyết trình Thiền tông, Mật tông ở các đại học, thiền viện trên khắp
miền viễn xứ California và Hoa Kỳ.
Tiến sĩ Nhật Bản
Nohira Munehiro khi làm luận án tốt nghiệp tiến sĩ, lấy đề tài về triết gia
Phạm Công Thiện, cho biết các nhà học giả uyên thâm xứ hoa Anh Đào đều tôn
vinh, ca tụng Phạm Công Thiện là Long Thọ của Việt Nam. Từ năm 1966, mới 25
tuổi, Phạm Công Thiện đã nói về Long Thọ : “Theo Trung quán luận, thì sự nô lệ,
sự phiền muộn, đau khổ, chấp trước…chỉ là vọng tưởng.
Chúng ta bám chặt vào
sự vật, vào ý tưởng, vào con người, vào hoàn cảnh, vào nguyên nhân, vào kết
quả, vào mục đích, vào cứu cánh, vào phương tiện, vào sống và chết : Chỉ
vì vọng tưởng tạo ra những đặc tính và những hình ảnh mà chúng ta tưởng rằng có
thực và bất di dịch…
Con người giải thoát
làm việc thiện, cứu đời, độ thế, không phải để đạt đến kết quả nào ở đời này
hay đời sau. Hành động của con người giải thoát là hành động không mục đích và
không lý do. Lý tưởng Bồ tát thể hiện trong Đại bi là lòng thương không mục
đích, vì còn mục đích là còn trói buộc vào nhân và quả. Trói buộc là nô lệ, là
chấp nhân hoặc chấp quả, chấp ngã hoặc chấp pháp, chấp hữu hoặc chấp không. Hố
thẳm chính là phá chấp và phá chấp triệt để…”*******
Tinh thần phá chấp
triệt để ấy, thể hiện nhất quán qua toàn bộ tác phẩm Phạm Công Thiện từ thuở
xưa cho đến bữa nay, nên các học giả Nhật Bản sánh Phạm Công Thiện với Long Thọ
cũng là tương xứng, xác đáng. Đại văn hào Mỹ Henry Miller thì cho rằng, Phạm Công
Thiện là hậu thân của Rimbaud, một thi sĩ tiên tri thấu thị của nước Pháp. Nhà
thơ Giang Trần, nhà thơ Phan Tấn Hải bên Hoa Kỳ thì tôn vinh, tấn phong Phạm
Công Thiện là bậc Bồ tát, còn riêng người viết bài này, đã từng hân hạnh được
bắt tay, gặp mặt trò chuyện với Phạm Công Thiện ở Đại học Vạn Hạnh, vào một
chiều mùa hạ năm 1969 thì vẫn xem Phạm Công Thiện là một Bồ tát nghệ sĩ đồng
thời là một thi nhân, một thi sĩ với trọn vẹn ý nghĩa của danh từ.
Chính Phạm Công Thiện
cũng thường mặc nhiên tự nhận mình chỉ là nhà thơ, một thi sĩ thuần túy mà thôi
: “Ngôn ngữ của tôi là ngôn ngữ của thi sĩ, ai muốn hiểu sao đó thì cứ hiểu…
Thơ là linh hồn của tất cả âm nhạc, hình ảnh của thơ là vô hình đột chuyển
thành ra hiện hình và hiện ảnh : Hiện hình và hiện ảnh của thơ chính là hiện
cảnh linh động, hiện thực hơn tất cả những cảnh sắc và phong cảnh hiện tiền…
Thơ không nói về bất cứ cái gì cả, như vậy mới là tất cả. Thơ chỉ là thơ và thơ
tự nói về thơ từ trong thơ đến trong thơ, cả cao và thấp, cả trong và ngoài, ở
trên và dưới mặt đất, tất cả chỉ là thơ.”
Vâng, tất cả chỉ là
thơ, khi thấy muôn sự muôn việc trên cõi đời này chỉ là thơ và thơ thôi thì lúc
ấy mới bừng sáng rực ngời lên chân thực nghĩa vô lượng vô biên của Diệu Tâm
thâm diệu, của Nhất Chân pháp giới, trùng trùng duyên khởi Hoa Nghiêm, thấy tất
cả mọi sự đều tốt đẹp và tốt đẹp. Vì thế, cho nên thi nhân vẫn tiếp tục hân
hoan sáng tác, sáng tạo vô ngần bất tuyệt miên man :
Tháng ngày làm thơ
chơi
Hồn bay thẳng ra khơi
Bạch phát ngút ngàn
tới
Thu phong tắt nghẹn
lời
Làm thơ lúc rửa chén
Nước chảy tuôn rỏn rẻn
Bột trắng sạch rêu đen
Bếp nhà rân tiếng én
Xin gọi đại là thơ
Làm lúc nào chẳng nhớ
Cho một cô gái nhỏ
Chưa từng gặp bao giờ
Muốn gì mà có ngay
Thì tai nạn vạ bay
Không thèm muốn gì nữa
Đời tràn ngập thơ hay
Khi thơ hay bay ngập
tràn mặt đất trần gian, thì ngôn ngữ Việt Nam cũng bay về ngợp trời xanh bát
ngát, làm trang nghiêm cho nụ cười thanh tịnh, quang minh tính thể. Thế là trên
ngõ về im lặng, người thi sĩ kỳ tuyệt của chúng ta đã xuống tận hố thẳm cũng
như đã lên tột đỉnh cao chất ngất của tâm linh và chợt bừng ngộ thấy ra toàn
thể trò đời chỉ là một cuộc đại hòa điệu chơi tối thượng, một trận du hý tam
muội lồng lộng, phiêu bồng. Sống là chơi, chết là chơi, yêu là chơi, thương là
chơi, vui buồn, sướng khổ là chơi, có không, còn mất là chơi, hơn thua, phải
trái là chơi, thành cộng, thất bại là chơi, chiêm bao, mộng mị là chơi, tỉnh
thức, thực tế, thực tại là chơi, phiêu bạt giang hồ khắp thế giới là chơi,
giảng dạy triết lý, thi ca, thiền học là chơi, biết nhiều ngôn ngữ ngoại quốc
là chơi, thương yêu kiều nữ là chơi, làm đại đức, thiền sư Nguyên Tánh là chơi,
làm hành giả Mật tông là chơi, làm văn nghệ sĩ là chơi, làm thơ làm thẩn cũng
là chơi chơi hết thảy mà thôi. Ơi chao ! Một cuộc đại hòa điệu chơi trùng trùng
vô thủy vô chung giữa mênh mông vô tận, bất khả tư nghì…Án ma ni bát di hồng.
Án ma ni bát di hồng. Án ma ni bát di hồng…
Cuộc đại hòa điệu chơi
tới ngày 8.3.2011 tại Houston, Texas Hoa Kỳ, thi sĩ thong dong qua chơi bên
miên không có đâu. Trước giờ phút Trên tất cả đỉnh cao là lặng im này, không gì
hơn người viết xin kính tặng một bài thơ tiễn biệt Phạm Công Thiện về chốn miền
vĩnh cửu thiên thu :
Lãng tử phiêu bồng
không chỗ trú
Không chốn dung thân
giữa phong trần
Nên đi thỏa thích trời
vô định
Đỉnh cao hố thẳm ngút
phù vân
Dốc hủ Đông Tây tràn
tư tưởng
Nghiêng bầu kim cổ
ngập quang minh
Uống cạn ngàn năm bao
tinh túy
Đại hòa điệu chơi với
muôn tình
Tình thiên thu ấy đầy
ứng hiện
Xuất thần nhập cốt rộn
bừng say
Thắp lửa hồn thiêng
ngời tỏa sáng
Bát ngát điều chi chợt
hiển bày
Cười thênh thang quá
đường không lộ
Tung hoành ngang dọc
khắp năm châu
Bước chân nhẹ nhàng về
im lặng
Mà nghe rung động cả
địa cầu
Thơ Phạm Công Thiện,
trích trong 2 tác phẩm :
Ngày sinh của rắn. Nhà
xuất bản An Tiêm, Sài Gòn 1966
Trên tất cả đỉnh cao
là lặng im. Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn, 2009
* Phạm Công Thiện. Ý
thức mới trong văn nghệ và triết học. Tái bản lần thứ ba. Nhà xuất bản An Tiêm,
Sài Gòn 1966
** Phạm Công Thiện. Henry
Miller. Nhà xuất bản Phạm Hoàng, Sài Gòn 1969
*** Phạm Công Thiện.
Triết lý ViệtNamvề sự vượt biên. Hoa Kỳ 1995
**** Lê Khắc Thanh
Hoài. Chuyện một người đàn bà…năm con. Nhà xuất bản Thời Đại, Sài Gòn 2012
***** Phạm Công Thiện.
Những bước chân nhẹ nhàng trở về sự im lặng. Nhà xuất bản Phương Đông, Sài Gòn
2008
****** Phạm Công
Thiện. Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất. Nhà xuất bản Trần Thi,
California 1988
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét