SCHUBERT
Cobeo tổng hợp
“Khi tôi muốn ca hát về tình yêu thì tình
yêu lại biến thành đau khổ, nhưng khi tôi chỉ muốn hát về đau khổ thì đau khổ
lại hoá thành tình yêu.” - Franz Schubert
Franz Schubert (1797-1828)
Sự phát triển của con người và xã hội luôn liên
tục và âm nhạc cũng không đứng ngoài qui luật đó. Bối cảnh lịch sử những năm
cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX tại châu Âu có những biến động đáng kể tạo
nên những thay đổi lớn về chính trị, kinh tế và nghệ thuật. Hoà mình vào dòng
chảy đó, âm nhạc cổ điển cũng có những chuyển mình cho phù hợp với qui luật tự
nhiên. Giai đoạn Cổ điển Vienna khép lại với những tên tuổi lừng lẫy như Haydn,
Mozart, Beethoven để mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn Lãng mạn mà sự huy
hoàng của nó lan toả suốt thế kỷ XIX với rất nhiều nhà soạn nhạc ưu tú như
Mendelssohn, Schumann, Chopin, Liszt hay Tchaikovsky nhưng trong đó người khai
phá và là “nhân vật vĩ đại” đầu tiên chính là Franz Schubert.
Franz Schubert sinh ngày 31 tháng 1 năm
1797 tại Himmelpfortgrund, một làng nhỏ ở ngoại ô Vienna trong một gia đình có
nguồn gốc Bohemia. Cha của Schubert là một thầy giáo làng chơi được violin và
cello, mẹ ông vốn là đầu bếp. Cha mẹ Schubert có cả thảy 15 người con nhưng 10
người trong số họ đã chết ngay từ khi còn nhỏ, chỉ còn lại 5 người. Schubert có
3 người anh trai Ignaz (1785), Ferdinand (1794), Karl (1796) và một cô em gái
Theresia (1801). Chính người cha và anh trai Ignaz đã dạy cho Schubert những
bài học âm nhạc đầu tiên.
Lớn lên trong một gia đình mà mọi thành
viên đều có niềm đam mê âm nhạc lớn lao nhưng lại có nền kinh tế tỷ lệ nghịch
với niềm đam mê đó, thời thơ ấu của Schubert là những chuỗi ngày ông không thể
nào quên cho đến cuối cuộc đời. Luôn sống trong cảnh nghèo đói, những kí ức
tuổi thơ buồn bã thường xuyên xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm của Schubert
sau này. Năm 1804, khi mới 7 tuổi, Schubert được gửi tới nhà thờ Lichtenthal ở
Vienna để học chơi đàn organ. Năm 1808, để gia đình giảm bớt một miệng ăn,
Schubert tới học ở trường nội trú Convict nơi có nhà soạn nhạc nổi tiếng
Antonio Saliari - người cùng thời với Mozart làm hiệu trưởng. Tuy được miễn
hoàn toàn học phí cũng như tiền ăn, tiền trọ nhưng cuộc sống hà khắc nơi đây
thật quá sức chịu đựng của một cậu bé mới 10 tuổi. Trong thời gian 5 năm sống
tại đây, Schubert còn phải chịu đựng sự ghẻ lạnh của những người bạn học vốn là
con của những gia đình giàu có. Cũng trong thời gian này, Schubert ban đầu chơi
ở bè violin 2 sau đó chuyển lên bè violin 1 trong dàn nhạc của trường. Những
sáng tác đầu tiên của cậu bé cũng bắt đầu xuất hiện trong đó nổi tiếng nhất là
bản Fantasia cho 2 Piano (1810).
Rời truờng nội trú năm 16 tuổi, để san sẻ
gánh nặng cho gia đình, Schubert định đi đăng lính nhưng vì cận thị quá nặng,
bị quân đội từ chối, ông đành nghe theo lời cha đi làm thầy giáo tại Annegasse.
Tuy công việc khá nhàm chán không làm thoả mãn nhà soạn nhạc trẻ vốn đầy hoài
bão, ước mơ nhưng vì thực tế cuộc sống Schubert đành phải tạm bằng lòng với bản
thân. Trong thời gian 3 năm dạy học, Schubert đã sáng tác được 2 tứ tấu đàn
dây, những bản giao hưởng đầu tiên, một vài Piano sonata, Mass số 1 giọng Fa
trưởng. Tác phẩm Mass số 1 giọng Pha trưởng lần đầu tiên được vang lên vào
tháng 10 năm 1814 tại nhà thờ Lichtenthan với giọng hát chính do ca sĩ trẻ
Therese Grob đảm nhiệm, người mà Schubert đem lòng yêu mến. Sau này Schubert đã
ngỏ lời cầu hôn nhưng bị gia đình cô gái từ chối và từ đó Schubert luôn mang
trong mình vết thương lòng sâu sắc cũng như không bao giờ nghĩ đến chuyện lấy
vợ nữa.
Thời gian này các tác phẩm của Schubert
xuất hiện với số lượng thật đáng kinh ngạc. Năm 1814, Schubert hoàn thành vở
opera đầu tiên Des Teufels Lustschloss D.84 cũng như 17 lied trong
đó có những bài nổi tiếng như “Der Taucher” D.77/111 hay “Gretchen am
Spinnrade” D.118 (dựa theo thơ của Goethe). Một năm sau, 145 lied và 4 vở opera
khác ra đời, những con số thật ấn tượng. Có cảm giác không phải Schubert sáng
tác mà những bài hát tuôn trào dưới tay ông như một dòng thác.
Schubert chuyển đến dạy học tại trường
Laibach ở Slovenia vào năm 1816. Hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng được ông sáng
tác vào thời gian này. Tiêu biểu có các lied “Erlkonig” (Chúa rừng), “Gesange
des Harfners”, giao hưởng số 4 “Tragic” giọng Đô thứ D.417, giao hưởng số 5
giọng Si giáng trưởng D.485. Tháng 6 năm 1816, Schubert bắt tay vào viết bản
cantata “Prometheus”.
Một năm trước đó, trong một lần đến thăm
Linz, Schubert gặp Franz von Schober - một chàng trai trẻ rất đáng mến và họ
trở thành những người bạn thân nhất của nhau. Là con một gia đình khá giả,
chính Schober là người giúp đỡ Schubert nhiệt tình nhất trong cuộc sống sau
này. Nghe theo lời khuyên của Schober, Schubert đã rời bỏ nghề dạy học để thành
một nhà soạn nhạc tự do, điều mà Schubert luôn khao khát. Năm 1817, trở lại
Vienna thời gian đầu, Schubert sống tại nhà của Schober. Tại đây Schubert gặp
Johann Michael Vogl, giọng nam trung nổi tiếng nhất Vienna thời bấy giờ. Sự
cộng tác giữa họ đã tạo nên những buổi hoà nhạc rất ấn tượng thu hút được nhiều
sự chú ý mà công chúng Vienna hồi đó gọi là Schubertiaden. Tuy nhiên điều này
cũng không che giấu được thực tế là chàng trai 20 tuổi Franz Schubert vẫn rất
khó khăn trong việc khẳng định vị trí của mình. Các nhà xuất bản chỉ trả cho
Schubert những khoản nhuận bút rất thấp khi in ấn các tác phẩm của ông và
Schubert vẫn phải ở nhờ nhà bạn.
Với bản tính vui vẻ, thích giao thiệp
Schubert kết giao được rất nhiều bạn bè và một người trong số đó Anselm Huttenbrenner
đã giới thiệu ông đến làm việc tại lâu đài của công tước Esterhazy - nơi mà
Haydn vĩ đại đã từng sống. Thời gian đầu tại đây Schubert còn cảm thấy hạnh
phúc nhưng dần dần nỗi buồn xâm chiếm ông và trong vòng chưa đầy một năm ông đã
trở về Vienna.
Mùa hè năm 1819, một niềm vui nhỏ đến với
Schubert. Trong chuyến lưu diễn cùng với Vogl tại Upper, Áo, các lied của ông
được đón giới yêu âm nhạc nơi đây rất yêu thích trong đó nổi bật có lied “Die
Forelle” (Cá hồi) và Ngũ tấu Piano giọng La trưởng D.667 còn có tên khác là Ngũ
tấu “Cá hồi”. Năm 1820, Schubert hoàn thành Piano Sonata giọng La trưởng,
D.664, tác phẩm thính phòng xuất sắc Tứ tấu đàn dây giọng Đô thứ Quartettsatz
D.703, âm nhạc cho vở kịch Die Zauberharfe D.64 và vở opera Die Zwillingsbrüder D.647.
Lúc này Schubert đã trở nên nổi tiếng
nhưng sự nghèo khó vẫn không chịu buông tha ông. Các nhà xuất bản chỉ chịu trả
cho Schubert những khoản tiền ít ỏi để in những tác phẩm của ông. Thường xuyên
phải nhịn đói, đã có lần để đổi lấy một bữa ăn Schubert phải sáng tác một bài
hát tặng ông chủ quán.
Năm 1822 sự nghiệp âm nhạc của Schubert có
một bước ngoặt vĩ đại. Ông sáng tác bản giao hưởng số 8 giọng Si thứ “Bỏ dở”
D.759 nổi tiếng. Không hiểu vì lý do gì bản giao hưởng chỉ có 2 chương thay vì
4 chương như thông thường. Nếu như những tác phẩm được sáng tác trong thời gian
đầu của Schubert còn mang hơi hướng của trường phái cổ điển Vienna thì đến bản
giao hưởng này đã cho thấy một ngôn ngữ thể hiện hoàn toàn khác vượt qua những
qui tắc khắt khe, chặt chẽ để đến với những sáng tạo, tìm tòi mới tạo lập nên
một trường phái mới: Trường phái lãng mạn mà sau này đã lan rộng ra khắp châu
Âu trong suốt thế kỷ XIX trong đó Franz Schubert chính là “người vĩ đại đầu
tiên”. Tổng phổ tác phẩm này bị thất lạc trong hơn 60 năm kể từ ngày được
Schubert viết chỉ được tìm thấy một cách tình cờ trong ngăn kéo tại nhà Anselm
Huttenbrenner. Cùng trong năm 1822 này, Schubert hoàn thành bản Mass giọng La
giáng trưởng D.678 và tác phẩm nổi tiếng Wanderer fantasy cho Piano D760 (sau
này Liszt đã phối khí lại cho Piano và dàn nhạc). Sở dĩ có tên gọi như vậy là
vì bản nhạc này dựa trên lied “Der Wanderer” của Schubert.
Toàn bộ các sáng tác của Schubert đều mang
đậm màu sắc trữ tình, trữ tình đến mức nhiều nhà phê bình sau này không lý giải
được và họ phải thốt lên: “chất trữ tình đầy đậm đà như mặt nước của con sông
Rhein trôi êm đềm”. Phải chăng cuộc sống nghèo khổ lại là nguồn cảm hứng bất
tận và âm nhạc là người bạn sẻ chia mọi nỗi buồn đau?
Năm 1823, vở opera Rosamude,
furstin von Cypern (Rosamude, hoàng tử đảo Cyprus) và tập bài hát đầu
tiên Die Schöne Müllerin D. 795 (Con gái ông chủ cối xay xinh
đẹp) dựa theo thơ của Wilhelm Müller ra đời. Các tác phẩm của Schubert luôn
xuất hiện với số lượng đáng kinh ngạc cho thấy ông quả là một con người thật
phi thường. Một năm sau, Schubert sáng tác 2 bản Tứ tấu đàn dây giọng La thứ và
Rê thứ “Death and the maiden” (Thần chết và trinh nữ) cũng như Octet giọng Fa
trưởng D.803. Trong lần trở lại nhà công tuớc Esterhazy để dạy học cho 2 con
gái của công tước, ông viết “Divertissement a l'Hongroise” D.818 sau khi bị
những giai điệu dân ca Hungary chinh phục. Thời gian này, đời sống của Schubert
có khá hơn nhưng ông lại có những nỗi bực bội khác. Trong một bức thư cho bạn,
Schubert viết: “Tôi cảm thấy rất mệt mỏi. Sự tự do của tôi đang bị đánh cắp.
Tôi sẽ trở về và không bao giờ quay trở lại đây nữa”. Schubert là như vây, luôn
coi trọng tự do và không để những việc đời thường làm ảnh hưởng đến công việc
sáng tác của mình.
Trong thời kỳ mà sự ổn định tạm thời về
kinh tế xen lẫn với sự suy sụp về sức khoẻ, Schubert vẫn không ngừng sáng tác,
âm nhạc đối với ông như một niềm an ủi. Từ năm 1825 đến 1826, hàng loạt các tác
phẩm quan trọng ra đời như Piano Sonata giọng La thứ, Op. 42; giọng Rê trưởng,
Op. 53 và bản giao hưởng cuối cùng của ông bản giao hưởng số 9 giọng Đô trưởng
(the Great) D.944. Bản nhạc này cũng bị thất lạc như bản số 8 nhưng được Robert
Schumann tìm thấy vào năm 1839 trong đống giấy tờ còn sót lại của Schubert.
Mendelssohn đã lần đầu tiên chỉ huy bản giao hưởng này nhân dịp kỷ niệm mười
năm ngày mất của Schubert.
Năm 1827, Beethoven - người mà Schubert
luôn kính phục trong suốt cuộc đời mất. Như dự báo được số phận của mình,
Schubert lao vào sáng tác như để chạy đua với thời gian. Tập bài hát thứ 2 Winterreise D.
911 (Hành trình mùa đông) cũng dựa theo thơ của Müller ra đời và cùng với tập
thứ nhất là những viên ngọc vô giá trong kho tàng thanh nhạc của nhân loại. Bốn
Impromtu cho piano, D.899, Trio giọng Si giáng trưởng và Fantasia cho violin và
piano, D934 ra đời trong thời gian này cũng là những tác phẩm ưu tú.
Mười bốn lied trong tập liên khúc thứ 3 và
cũng là tập cuối cùng Schwanengesang D.957 (Bài ca thiên nga)
được Schubert viết vào năm 1828. Sáu bài trong số đó là dựa vào thơ của
Heinrich Heine. Các tác phẩm cuối cùng của Schubert là 3 Piano Sonata cuối cùng
cũng như Ngũ tấu cho dàn dây giọng Đô trưởng D.956 cho 2 violin, viola và 2
cello.
Giữa lúc sức sáng tạo đang dồi dào nhất,
sức khoẻ của Schubert ngày càng trở nên xấu hơn. Ông luôn phải vật lôn với căn
bệnh thương hàn và do chữa bệnh bằng thuỷ ngân (cách chữa bệnh phổ thông thời
đó) nên bệnh tình ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Schubert bị suy sụp hoàn
toàn vào tháng 10 năm 1828 sau khi trở về Vienna từ Eisentadt, nơi ông đi thăm
mộ của Haydn. Trong bức thư cuối cùng Schubert viết cho Schober ngày 12 tháng
11, ông đã thể hiện sự tuyệt vọng của mình: “Tôi đang ốm. Mười một ngày nay tôi
hầu như không ăn uống được gì. Tôi đi không vững nữa”. Schubert qua đời ngày 19
tháng 11 năm 1828. Và thể theo nguyện vọng lúc cuối đời của ông, mộ của
Schubert được đặt cạnh mộ của Beethoven tại nghĩa trang Walhring. Vào năm 1888,
hai ngôi mộ này được chuyển đến nghĩa trang Zentralfriedhof bên cạnh Johann
Strauss cha và Johannes Brahms.
Chỉ sống một cuộc đời ngắn ngủi nhưng
Schubert đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm thật đồ sộ. Chín bản giao
hưởng (bản giao hưởng số 7 bị thất lạc), khoảng 10 vở opera, 15 tứ tấu đàn dây,
8 Mass, gần 20 piano sonata, 500 tiểu phẩm cho nhiều nhạc cụ và hơn 600 lied,
những con số khổng lồ khiến chúng ta ngày nay vẫn chưa hết kinh ngạc. Thật tiếc
nuối cho Schubert và cho tất cả những người yêu âm nhạc, ở độ tuổi 31, Bach và
Haydn chưa có tác phẩm nổi tiếng còn Beethoven thì chỉ vừa mới hoàn thành bản
giao hưởng số 1. Sự ngọt ngào trong đau khổ của Schubert đã thổi vào nền âm
nhạc thế kỷ XIX những ngọn gió nhẹ trong lành, tươi mát mãi cho đến tận bây
giờ...
Nguồn: nhaccodien.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét