Tự tình khúc của tên mục đồng
Ðời vẽ tôi: tên mục đồng,
Rồi vẽ thêm con ngưạ hồng,
Từ đó, lên đường phiêu linh...
Chỉ có ta trong một đời - Trịnh Công Sơn
Rồi vẽ thêm con ngưạ hồng,
Từ đó, lên đường phiêu linh...
Chỉ có ta trong một đời - Trịnh Công Sơn
Cho đến nay, trước sau có ba nhạc sĩ Việt Nam tự nhận mình là người hát rong:
Phạm Duy, Trịnh Công Sơn và Trần Tiến. Phạm Duy rong ruổi trên con đường cái
quan, suốt từ Bắc vào Nam, rồi ra ngoài đất nước, đi khắp vòng thế giới để cuối
cùng, trở về điểm mốc ban đầu: quê nhà. Trần Tiến muốn nói lên sự thật về một đất
nước thừa nghèo đói nhưng cũng không thiếu điều nhố nhăng trên những nơi ông đi
qua. Còn Trịnh Công Sơn, người nhạc sĩ của hơn năm trăm ca khúc, đã cùng âm nhạc
của mình lang thang mãi giữa những lằn ranh của nắng-mưa, yêu-ghét, cảm
thông-chối bỏ, sống-chết, đi-về, nhớ-quên, buồn-vui, chiến tranh-hoà bình, hận
thù-ăn năn...
Năm 1991, trong lời bạt của tập bài hát «Em còn nhớ hay em đã quên», nhạc sĩ Văn Cao viết: «Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người ca thơ (chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào chính, cái nào là phụ. Và bởi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui và đau tận cùng những nỗi đau của Tổ quốc mẹ hiền... Cái quyến rũ của nhạc Trịnh Công Sơn là ở chỗ không định tạo ra một trường phái nào, một triết học nào, mà vẫn thấm vào lòng người như suối tưới. Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà cả ở bên ngoài biên giới nữa». Như vậy, nhạc sĩ Văn Cao, cũng như nhạc sĩ Phạm Duy trong tập «Hồi ký» của mình, đã nhắc về Trịnh Công Sơn với những lời lẽ đơn sơ nhưng trân trọng. Rất nhiều người khác trong giới văn nghệ sĩ đã đồng ý gọi Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ của Tình Yêu-Quê Hương-Thân Phận. Thật vậy, trong sự nghiệp sáng tác của ông, bên cạnh những tình khúc lãng mạn, những ca khúc phản chiến, kêu gọi xây dựng đất nước trong hoà bình, còn có những bài hát, như những dấu chấm hỏi và dấu chấm than về thân phận con người.
Năm 1991, trong lời bạt của tập bài hát «Em còn nhớ hay em đã quên», nhạc sĩ Văn Cao viết: «Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người ca thơ (chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào chính, cái nào là phụ. Và bởi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui và đau tận cùng những nỗi đau của Tổ quốc mẹ hiền... Cái quyến rũ của nhạc Trịnh Công Sơn là ở chỗ không định tạo ra một trường phái nào, một triết học nào, mà vẫn thấm vào lòng người như suối tưới. Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà cả ở bên ngoài biên giới nữa». Như vậy, nhạc sĩ Văn Cao, cũng như nhạc sĩ Phạm Duy trong tập «Hồi ký» của mình, đã nhắc về Trịnh Công Sơn với những lời lẽ đơn sơ nhưng trân trọng. Rất nhiều người khác trong giới văn nghệ sĩ đã đồng ý gọi Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ của Tình Yêu-Quê Hương-Thân Phận. Thật vậy, trong sự nghiệp sáng tác của ông, bên cạnh những tình khúc lãng mạn, những ca khúc phản chiến, kêu gọi xây dựng đất nước trong hoà bình, còn có những bài hát, như những dấu chấm hỏi và dấu chấm than về thân phận con người.
Tình khúc của Trịnh Công Sơn, với những cái tựa rất ấn tượng và siêu thực như
«Nắng thuỷ tinh», «Rồi như đá ngây ngô», «Biển nhớ», «Hạ trắng», «Lời buồn
thánh», «Hoa vàng mấy độ»... một lần được nghe, sẽ ở lại mãi trong lòng người
thưởng thức. Ca khúc về thân phận của ông, đôi bài rất gần với thánh ca, đạo
ca, thiền ca, dân ca, được không ít người suy gẫm: «Lời mẹ ru», «Ở trọ», «Xin mặt
trời ngủ yên», «Tự tình khúc», «Gần như niềm tuyệt vọng», «Một cõi đi về», «Biết
đâu nguồn cội», «Bay đi thầm lặng», «Tiến thoái lưỡng nan»... Chỉ có những ca
khúc phản đối chiến tranh, kêu gọi hoà bình của ông thời 1968-1973 và một số
bài hát viết sau năm 1975 là tạo nhiều «vấn đề», biến ông thành người hát rong
giữa những lằn ranh của định kiến ý thức hệ. Trong thời gian sáng tác các ca
khúc của hai tập «Ca khúc da vàng» và «Kinh Việt Nam», Trịnh Công Sơn đã phát
biểu: «Tôi phản đối chiến tranh, dù đó là chiến tranh chính nghĩa hay phi
nghĩa». Hình ảnh và tiếng nói của ông xuất hiện khắp mọi nơi trên thế giới,
nhưng đồng thời, trong nước, một số ca khúc của ông bị cấm phổ biến. Chính quyền
miền Bắc, với khẩu hiệu «Chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước», ra lệnh bỏ tù những ai dám nghe và hát nhạc Trịnh Công Sơn vì không ít
những cán bộ, bộ đội đã vì thế mà bỏ ngũ, quay lưng quay súng trong các chiến dịch
«chiêu hồi». Chính quyền miền Nam, dưới chiêu bài «Bảo vệ Tổ quốc, chống sự xâm
lăng của cộng sản phương bắc», cấm hàng loạt ca khúc của Trịnh Công Sơn vì cho
rằng những bài hát này làm băng hoại tinh thần chiến đấu của quân dân miền Nam,
khiến binh lính đào ngũ, người dân biểu tình, bãi thị, bãi khoá... Thế nhưng,
ngay giữa Hà Nội, chính nhạc sĩ Văn Cao đã được nghe những người thanh niên trẻ
say mê hát nhạc phản chiến đến đứt cả dây đàn guitare. Tại Sài Gòn và các
thành thị phía nam, bên cạnh những bài hát day dứt, nói lên nỗi thống khổ, tủi
nhục, mất mát trong chiến tranh như «Ði tìm quê hương», «Em đi trong chiều»,
«Giọt nước mắt cho quê hương», «Gia tài của mẹ», những bài hát hừng hực khí thế
tuổi trẻ đã được sinh viên, học sinh và hướng đạo sinh say mê vỗ tay mà hát. Họ
mong muốn những gì? Ðược «Nối vòng tay lớn», «Dựng lại người dựng lại nhà» và
«Chờ nhìn quê hương sáng chói». Cũng cùng một ý hướng như các nhạc sĩ Phạm Duy
và Phạm Ðình Chương khi sáng tác hai trường ca «Con đường cái quan» và «Hội
Trùng Dương», nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mong muốn được nhìn thấy một đất nước Việt
Nam thống nhất trong hoà bình và giàu mạnh khi ông viết các ca khúc rất lạc
quan: «Huế-Sài Gòn-Hà Nội quê hương ta», «Tôi sẽ đi thăm», «Ðồng dao hoà bình»,
những ca khúc được viết khi ông vừa hát vừa bị rượt đuổi và đang sống lê la trốn
lính với các bạn bè giang hồ.
Sinh ở Ðắc Lắc, nổi tiếng ở Sài Gòn, nhưng trong hai thời điểm đau thương của
miền Nam, 1968 và 1975, Trịnh Công Sơn lại có mặt ở Huế. Những hình ảnh hãi
hùng của Tết Mậu Thân đã để lại nhiều dấu vết trong một số ca khúc của ông. Ðịa
danh Bãi Dâu, hình ảnh người mẹ hoá điên khi nhìn ra thi thể con mình trong hầm
chôn tập thể, thay vì gào khóc lại vỗ tay reo mừng, hay câu hát «Xác nào là em
tôi giữa hố hầm này?», như những đoạn phim thời sự, vạch trần tội ác chiến
tranh và sự tàn bạo của những người chung một nòi giống. Sau năm 1975, theo tin
đưa của báo Le Monde và Libération (Pháp), Trịnh Công Sơn bị giữ lại Huế và cứ
một năm vài tháng, lại bị đưa đi trồng khoai sắn trên những cánh đồng còn gài đầy
mìn tại Cồn Tiên, gần vĩ tuyến 17. Mãi đến năm 1979, ông mới được phép vào sống
cùng gia đình tại Sài Gòn, lúc này đã mang tên thành phố Hồ Chí Minh. Ca khúc đầu
tiên sau biến động 30.04.1975 được ông vừa đàn vừa hát trên truyền hình mang tựa
đề «Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui». Bài hát lập tức bị đả kích ở trong cũng
như ngoài nước. Báo chí trong nước lên án bài hát đậm đặc tính chất tiểu tư sản,
những hình ảnh «Tôi nhặt gió trời, mời em giữ lấy, để mắt em cười tựa lá bay...
Tôi đợi em về, bàn chân quen quá, thảm lá me vàng lại bước qua... » không thể
nào chấp nhận được trong khi cả nước sôi sục khí thế lao động và chiến đấu chống
Khơ-me đỏ và «bành trướng» Bắc Kinh. Báo chí của người Việt hải ngoại đặt câu hỏi:
niềm vui ở đâu ra lắm thế trong khi quê hương lầm than, nhiều triệu người ly
tán, bị tù đày trong các trại cải tạo hoặc bất chấp mọi hiểm nguy tìm đường vượt
biển. Cũng thế, bài hát «Em còn nhớ hay em đã quên» ra đời sau đó cũng không
thoát khỏi búa rìu dư luận. Trong khi chuyện vượt biên còn là điều cấm kỵ, những
người bỏ nước ra đi cách này hay cách khác đều bị khép tội phản quốc, Trịnh
Công Sơn viết: «Em ra đi, nơi này vẫn thế, vẫn có em trong tim của mẹ». Sau khi
được Khánh Ly trình bày trên đài VOA (Voice Of America) trong chương trình phát
thanh về Việt Nam, bài hát liền lập tức bị cấm phổ biến tại quốc nội. Ở hải ngoại,
bài hát bị lên án là uỷ mị, làm mủi lòng người lưu vong, trong khi nhạc phẩm
«Khi xa Sài Gòn» (phổ thơ Kim Tuấn) của Lê Uyên-Phương, khi ấy đã định cư tại
Hoa Kỳ, lại không bị chỉ trích, dù nội dung và nhạc điệu buồn bã của hai ca
khúc tương tự như nhau. Chỉ có người Sài Gòn vẫn tiếp tục lén lút phổ biến bài
hát, bởi vì nó gợi lại một thời xưa cũ, bởi vì đó là bài hát đầu tiên ở trong
nước, từ sau ngày 30.04.1975, nhắc đến cái tên Sài Gòn, cái tên mà chính quyền
mới đã tìm đủ mọi cách để làm cho mọi người quên đi. Có lẽ, vào thời điểm đó,
chính người Sài Gòn cũng cảm thấy mình đang sống lưu vong ngay giữa Sài Gòn!
Không chọn con đường quay lưng chống đối, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn quyết định ở lại
với đất nước, dù bạn bè và các em của ông lần lượt ra đi. Sau nhiều năm tháng
lao động cải tạo trên những mảnh đất gài đầy mìn, ông viết: «Tôi chọn nơi này
cùng nhau ca hát, để thấy tiếng cười rộn rã bay». Nhưng như vậy, không có nghĩa
là ông tự phản, ông chấp nhận sống chung để cùng thay đổi, đồng thời, vẫn đi được
con đường riêng của mình. Nhìn lại những ca khúc của Trịnh Công Sơn được phổ biến
trong nước khoảng thập niên 80, người ta thấy, ngoài những ca khúc viết cho
phim truyện và phim tài liệu: «Ðời gọi em biết bao lần», «Cánh chim cô đơn», «Vẫn
có em bên đời», «Bốn mùa thay lá»... , ông còn một số bài hát viết về quê
hương, về mẹ, về tuổi mới lớn và tuổi thơ, như các bài «Huyền thoại Mẹ», «Chiều
trên quê hương tôi», «Em đến từ nghìn xưa», «Tuổi đời mênh mông», «Em là hoa hồng
nhỏ»... Vắng bóng những tình ca, nhưng không hề có một lời xưng tụng chế độ, đảng
cầm quyền cũng như những người lãnh đạo. Trong khi giới truyền thông trong nước
kêu gào, thổi phồng tin một số nữ thanh niên xung phong bị hãm hiếp và giết hại
dã man ở biên giới tây nam, Trịnh Công Sơn sáng tác một ca khúc vui tươi, với
những lời lẽ nhẹ nhàng: «Lên nông trường, ra biên giới, có đôi khi đi không trở
lại... ». Viết cho thiếu nhi, khi ấy vẫn còn bị nhồi nhét lòng căm thù trong
các bài học, ông có những câu rất đẹp: «Trang sách hồng nằm mơ màng ngủ, em gối
đầu trên những vần thơ... ». Và, rất lâu trước khi các ca khúc lãng mạn về Hà Nội
của thập niên 90 ra đời, khi người ta còn bị bắt buộc phải nghĩ đến Hà Nội như
nghĩ đến một «thành trì cách mạng», với quảng trường Ba Ðình và lăng Hồ chủ tịch,
nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mở đầu ca khúc «Nhớ mùa thu Hà Nội» bằng một hình ảnh
tương tự như tranh Bùi Xuân Phái:
Hà Nội mùa thu,
Cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ
Nằm kề bên nhau,
Phố xưa, nhà cổ, mái ngói thâm nâu...
Cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ
Nằm kề bên nhau,
Phố xưa, nhà cổ, mái ngói thâm nâu...
Hình như mọi người không ngạc nhiên khi biết, từ đầu năm
1975, Trịnh Công Sơn bắt đầu tìm đến với hội hoạ, và tranh của ông có một đường
hướng riêng, một chỗ đứng riêng. Bởi vì, trong các ca khúc, ông đã «vẽ» rất nhiều
bằng lời hát đầy chất thơ của mình. Những hình ảnh ngàn cây thắp nến lên
hai hàng, chiều tím loang vỉa hè, trời ươm nắng cho mây hồng, lòng ta trăm con
hạc gầy vút bay, bàn im hơi bên ghế ngồi... kết hợp cùng âm thanh du
dương, tạo nên nét độc đáo trong âm nhạc Trịnh Công Sơn. Người nữ, hao hao giống
những modèle cuả Ðinh Cường, ẩn hiện trong hàng trăm ca khúc: vai
em gầy guộc nhỏ, dài tay em mấy thuở mắt xanh xao, đôi môi lửa cháy, mi cong cỏ
mượt, da thơm quả ngọt, áo xưa lồng lộng... Tình yêu, cũng vì thế, thường
yểu mệnh trong các bài hát của Trịnh Công Sơn, tình vui rất hiếm, tình buồn,
«Tình xót xa vừa», «Tình xa», «Tình nhớ», «Tình sầu» nhiều hơn...
Một người nữ khác, người mẹ, cũng xuất hiện khá nhiều trong các nhạc phẩm của
Trịnh Công Sơn. Từ hình ảnh thanh bình: «Lời mẹ ru đêm vắng, ngón tay hồng»,
người mẹ đi qua chiến tranh, tủi phận trong «Ca dao Mẹ», hoặc nghẹn ngào thốt
lên: «Con ngủ tuổi hai mươi». Có khi đó là bà mẹ quê, ngơ ngác giữa đoàn người
di tản, với gia tài chỉ vỏn vẹn có mỗi trái bí trên vai. Có khi đó là người mẹ
gan dạ đứng dưới mưa để chờ xoá sạch dấu con về. Sau chiến tranh, tưởng
đâu những người mẹ ấy sẽ yên tâm lên núi tìm xương con mình, hoặc dâng
miếng cau rồi dâng ngọn trầu, nhưng cuộc «nội chiến» vẫn tiếp diễn dưới một
hình thức khác, mẹ vẫn trăn trở giọt ngắn giọt dài, mong: lũ con cùng cha
quên hận thù... Hình ảnh mẹ, cuối cùng trở nên huyền ảo: «Sương mù, tóc mẹ
trôi», «Mẹ chìm dưới cơn mưa», trước khi biến mất hoàn toàn trong tiếng kêu
than thống thiết của đàn con: «Mẹ bỏ con đi, đường xa hoạn nạn»...
Hình ảnh người mẹ thường gắn liền với lời ru. Nhưng lời ru trong âm nhạc Trịnh
Công Sơn đã chuyển sang thành tiếng những tình nhân thổn thức ru nhau, hoặc tự
ru mình. Nếu tình khúc «Tôi ru em ngủ» bắt đầu với nhạc điệu êm ả và lời hát gợi
cảnh yên bình: «Tôi ru em ngủ một sớm mùa đông, em ra ngoài ruộng đồng, hỏi
thăm cành lúa mới... », trong những ca khúc khác, như «Ru em», «Ru em từng ngón
xuân nồng», «Ru tình», «Rơi lệ ru người», «Ru đời đi nhé!», «Ru đời đã mất»,
«Ru ta ngậm ngùi»..., lời ru lãng đãng giữa bâng khuâng, nhớ nhung, hoang mang,
ưu phiền, ăn năn của tình yêu và sự khắc khoải của thân phận trước giấc ngủ sau
cùng, cái chết: «Ta ru ta ngậm ngùi, xin ngủ dưới vòm cây». Cái chết, một chủ đề
ám ảnh thường trực hành trình âm nhạc của Trịnh Công Sơn. Trong chiến tranh,
cái chết đến với mọi người, ở mọi nơi. Người con gái Việt Nam da vàng chết
trong đêm lạc đạn. Ðứa bé ra đồng chết vì mìn gài một buổi sáng mùa xuân. Người
phi công gẫy cánh. Ðám tang đi qua trái mìn nổ chậm, người chết, chết hai lần.
Những cụm từ xác người, người yêu chết trận xuất hiện đậm đặc trong
các ca khúc «Bài ca dành cho những xác người», «Hát trên những xác người»,
«Tình ca người mất trí» như sự lập đi lập lại của những hồi kinh cầu hồn. Những
người chết, người dân, người lính, của «phía bên này» hay «phía bên kia», đôi
khi chết mà không hiểu vì sao mình phải chết. Với bản thân người nhạc sĩ, cái
chết dường như ít khốc liệt hơn, hình như chỉ là nằm chết như mơ, hình như
chỉ đơn giản một hôm lên núi nằm xuống, hay: «Thí dụ, bây giờ tôi phải đi,
tay chia ly cùng đời sống này... ». Trong các sáng tác có tính chất đạo ca của
Trịnh Công Sơn, cái chết còn đến rất gần với thuyết luân hồi của nhà Phật:
Không có đâu em này,
Không có cái chết đầu tiên,
Và có đâu bao giờ,
Ðâu có cái chết sau cùng...
Không có cái chết đầu tiên,
Và có đâu bao giờ,
Ðâu có cái chết sau cùng...
Có thể nói một cách không quá đáng rằng Trịnh Công Sơn là một
nhà cách tân ngôn ngữ Việt Nam đương đại. Qua vô số hình ảnh tuyệt vời, ông đưa
vào lời hát rất nhiều so sánh, hoán dụ, ẩn dụ đắc giá: tóc trắng như vôi,
chập chờn lau trắng trong tay, biển rộng hai vai, đá lăn vết lăn trầm, tình
treo trên chiếc đinh không, đôi môi rồ dại, giọt máu cuồng điên, nắng khuya, mắt
đêm đèn vàng, tình yêu như trái phá - con tim mù loà, đời sao im vắng như đồng
lúa gặt xong, đôi khi thấy trên lá khô một dòng suối, thuyền nào chở mất thuyền
quyên?... Ông sử dụng tài tình sự tương phản và đôi khi dùng những vế câu
thật đơn giản để đẩy cao hơn điều muốn nói:
người vinh quang mơ ước địa đàng
người gian nan mơ ước bình thường
làm sao đến gần hy vọng cuộc vui chung?
người gian nan mơ ước bình thường
làm sao đến gần hy vọng cuộc vui chung?
hay:
Dù mùa xuân đã đến đây / Vẫn còn tiếng khóc thầm,
i>Triệu nụ hoa đang thoát thai / Viên đạn vẫn trên nòng...
i>Triệu nụ hoa đang thoát thai / Viên đạn vẫn trên nòng...
Tự học nhạc và bắt đầu sáng tác từ khi chưa đến hai mươi tuổi,
âm nhạc của Trịnh Công Sơn đi thẳng từ trái tim người sáng tác đến trái tim người
nghe, không bị lệ thuộc vào ảnh hưởng của âm nhạc kinh viện, âm nhạc thương mại
hay âm nhạc trình diễn, do đó, chỉ nằm trong các thể điệu slow, slow-rock,
blues, boston, valse hoặc surf, swing, soul chậm và hành khúc mà
thôi. Ngoại trừ nhạc phẩm phổ thơ Trịnh Cung «Cuối cùng cho một tình yêu», trường
ca «Dã tràng», liên-tiểu-khúc «Ðoá hoa vô thường» và một số ca khúc sáng tác
chung với nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu, các ca khúc khác của ông có giai điệu đơn giản,
đôi khi đơn điệu, nhưng luôn thăng hoa theo lời hát. Ðó chính là đặc điểm và
cũng chính là giới hạn của âm nhạc Trịnh Công Sơn.
Khởi đầu bằng các ca khúc «Ướt mi», «Thương một người» và kết thúc với «Sóng về
đâu?», «Ðồng dao 2000», suốt hơn bốn mươi năm qua, âm nhạc Trịnh Công Sơn đã đến
với thính giả qua tiếng hát và cách trình bày của nhiều thế hệ ca sĩ. Từ Thái
Thanh đến Ý Lan, Quỳnh Hương, Duy Quang, Thái Hiền, Thái Thảo, Thiên Phượng,
Mai Linh. Từ Thanh Thuý, Giao Linh, Lệ Thu, Lê Uyên đến Thanh Lan, Nguyễn Chánh
Tín, Carol Kim, Thuý-Hà-Tú, Tuấn Ngọc, Elvis Phương, Ðức Huy, Hoạ Mi. Từ Vũ
Khanh, Ngọc Lan, Kiều Nga, Hương Lan, Ái Vân, Như Mai, Don Hồ, Dalena đến Thanh
Hà, Thuỳ Dương, Huy Tâm, Mỹ Huyền, Lâm Nhật Tiến, Hoàng Nam. Từ Duy Trác, Quỳnh
Giao đến Nguyễn Thành Vân, Trần Thái Hoà. Từ Lê Dung, Cẩm Vân, Bảo Yến, Lan Ngọc,
Thanh Hải đến Khắc Dũng, Thu Hà, Thanh Lam, Tam ca Áo trắng, Mỹ Linh, Bảo Phúc,
Trần Thu Hà, Quang Dũng... Nhưng có lẽ chỉ có Khánh Ly và Hồng Nhung là hai tiếng
hát đã để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lòng người nhạc sĩ cũng như người thưởng
thức. Ca sĩ Khánh Ly nghĩ rằng bài hát «Yêu dấu tan theo» có lẽ được viết riêng
cho cô. Bài hát có những câu: «Em theo đời cơm áo, Mai ra cùng phố xôn xao, bao
nhiêu ngày yêu dấu tan theo... ». Ngoài ra, trong một ca khúc viết lúc cuối đời,
«Em đi bỏ mặc con đường», hình như cũng thấp thoáng đâu đó đôi lời trách cứ: «Bỏ
xa xôi yêu và gần gũi, bỏ mặc tôi buồn giữa cuộc vui... Bỏ tôi hoang vu và nhỏ
bé, bỏ mặc tôi ngồi giữa đời tôi»... Ðối với cô bé Bống Hồng Nhung, nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn đã riêng tặng một tam khúc: «Bống bồng ơi», «Bống không là Bống» và
«Thuở Bống là người». Theo Trịnh Công Sơn, Khánh Ly là người hát hay nhất những
sáng tác của ông, nhưng nếu Khánh Ly hát cho một thời vừa lãng mạn vừa đau
thương trong chiến tranh đã qua, thì Hồng Nhung làm mới lại những ca khúc, với
cách biểu hiện mới, phù hợp với tiết tấu của thời hiện đại. Ông cũng thường nhắc
đến tên ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh, chính là em gái út của ông.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, với đôi mắt kính gọng đồi mồi, với cây đàn guitare và
giọng hát khàn âm hưởng Huế, với cả những điếu thuốc lá và những ly rượu mạnh,
đã đi-qua-cuộc-đời và giã từ chúng ta ở tuổi sáu mươi hai. Bị bệnh tiểu đường nặng,
những ngày cuối cùng, ông phải di chuyển bằng xe lăn, đúng như câu hát đã viết
trước đó hơn hai mươi lăm năm:
Mệt quá đôi chân này,
Tìm đến chiếc ghế nghỉ ngơi,
Mệt quá thân ta này,
Nằm xuống với đất muôn đời...
Tìm đến chiếc ghế nghỉ ngơi,
Mệt quá thân ta này,
Nằm xuống với đất muôn đời...
Xác thân ông đã nằm xuống với đất, về làm cát bụi, nhưng thần
trí ông, vừa giã từ cõi tạm, có lẽ đang bay lượn đâu đó giữa chốn vô cùng, và tất
cả, hình như, chỉ là một lời chia tay mà thôi:
Những hẹn hò từ nay khép lại,
Thân nhẹ nhàng như mây...
Ðoá hoa vàng mỏng manh cuối trời
Như một lời chia tay...
Thân nhẹ nhàng như mây...
Ðoá hoa vàng mỏng manh cuối trời
Như một lời chia tay...
Cổ Ngư
Theo http://www.tcs-home.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét