Thứ Bảy, 6 tháng 3, 2021

Trong vườn hoa thơ 3

Trong vườn hoa thơ 3

13- Đôi cánh hoa rơi của Tản Đà

1.
Trong khắp ba cõi Việt Nam không ai không biết TẢN ĐÀ tiên sinh.
Không ai không thuộc, kẻ nhiều người ít, thi ca của Tiên sinh. Bởi vì danh tiếng của tiên sinh trên nửa thế kỷ nay đã vang dội khắp đây đó, và tác phẩm của tên sinh, nhỏ cũng như lớn, tất cả đã được phổ biến rộng rãi trên sách báo từ lúc tiên sinh chưa quy thần.
Tuy vậy vẫn còn một ít chắc là rất ít chưa được hành thế. Lão lượm lặt được năm ba vần, xin đem chưng bày lên Vườn Hoa Thơ, để quý bạn gần xa cùng thưởng thức:
TRỪ TỊCH
Lữ quán thùy tương vấn
Cô đăng bạn thử thân
Nhất niên kim dạ tận
Vạn lý vị qui nhân.
(Trần Danh Án)
Tản Đà dịch:
Ngậm ngùi quán khách vắng tanh
Đèn khuya một ngọn với mình lân la
Giờ đây năm cũ bước qua
Mà người muôn dặm đường xa chưa về!
Bài này Tiên sinh đã dịch đêm tất niên năm Mậu Thìn (1928) lúc vào Sài Gòn viết giúp tờ Đông Pháp Thời Báo của Diệp Văn Kỳ. Lão đã tìm được tại ngôi nhà tiên sinh trú ngụ buổi sanh tiền ở Ngả Tư Sở Hà Nội. Lão tìm được năm Nhâm Ngọ (1942), nhân dịp ra Hà Nội ghé thăm gia đình tiên sinh.
Trong dịp này, lão còn tìm thấy nơi bìa một quyển sách cũ một câu lục bát:
Cõi trần chẳng có Thiên Thai
Bỗng dưng trong lúc canh dài gặp tiên.
Chữ viết tuy đã nhòa, nhưng vẫn còn nhận được là nét chữ của Tiên sinh.
Một người đệ tử thân cận của Tiên sinh là Trần Văn Lai (1) cho biết gốc tích câu lục bát đó rằng:
Năm 1937 Tản Đà tiên sinh ở Hà Nội dọn về Khê Thượng.
Một đêm tiên sinh nằm chiêm bao thấy mình vào núi thưởng xuân. Chợt một đoàn tiên nữ xuất hiện. Một nàng lấy tay áo vẫy bảo tiên sinh đi theo. Tiên sinh theo vào một động đá có suối nước trong có hoa đào nở, phảng phất cảnh Thiên Thai của họ Nguyễn họ Lưu. Đương khoái mắt khoái lòng thì đoàn tiên nữ biến mất và khói mù nổi dậy phủ kín cả cảnh vật bốn bên. Tiên sinh thất kinh. Liền đó giật mình tỉnh giấc. Tiên sinh bèn trở dậy khêu đèn làm thơ chép mộng. Vừa viết được hai câu thì người nhà thức dậy làm tiên sinh bại hứng. Thành ra mộng dở dang mà thơ cũng dở dang!
Thật là hai khóm danh hoa, lại có một sự tích kỳ thú. Nếu không có duyên tao ngộ, bị mai một, thì uổng biết bao nhiêu!
Lão lại được nghe một bài song thất lục bát nhạo một cô gái nông thôn, dung nhan tầm thường, học hành ít ỏi, nhưng sính văn chương và mê thơ Tản Đà, đi đâu cũng tự nhận là thứ thất của Tiên sinh:
Gái họ Đắc có nàng quá lứa
Xuân bốn nhăm vẫn chửa Châu Trần
Kể bề yếu điệu thanh tân
Thì con người ấy mười phân hữu tình
Mắt chớp chới ba vành sơn khéo
Miệng mỉm cười hơi méo tí ti
Nước da xam xám màu chì
Mặt hơi rồ rỗ răng thì khấp kha
Cười rung cửa rung nhà từng chặng
Nói oang oang có bận hơn loa
Hơn đời được nết chua ngoa
Đầu dê mà chửi mất gà trộm kinh
Chữ mít đặc nhưng tinh nghe lõm
Lý sự cùn lỏm bỏm khoe tài
Văn chương cô chẳng nhường ai
Ngâm thơ học mót từng bài cháo trơn
Cô chỉ thích cảnh tơn cảnh phật
Nhưng lăm le ngồi ngất tòa sen
Lấy chồng cô bảo rằng hèn
Mắt xanh cô quyết chẳng thèm liếc ai
Cô chỉ cảm một người họ Nguyễn
Hiệu Tản Đà rõ chuyện vẩn vơ!
Yêu ai cô dốc lòng chờ
Khối tình lăn lóc bao giờ cho thôi!
Đây cũng là một giai thoại văn chương. Chép lại tuy không làm vinh dự chi cho Tiên sinh, nhưng vẫn giúp cho bạn đọc thấy rõ thêm rằng thơ văn Tản Đà đã đi sâu vào đại chúng vậy.
2.
Cuộc đời của Tản Đà tiên sinh đầy thơ và mộng.
Có nhiều sự kiện đã trở thành những giai thoại trong làng văn thơ.
Hầu hết những giai thoại về Tiên sinh đã được nhiều sách báo ghi chép. Nhưng cũng có đôi chuyện chưa được nhiều người biết. Như chuyện chưng tranh sau đây là một.
Vào khoảng 1913 hay 1914, ở Hà Nội có mở hội chợ đấu xảo, trong đó có cuộc triển lãm tranh.
Tản Đà có tranh dự thi.
Tranh của Tiên sinh là một bức thủy mặc trên giấy Tàu đại bản, vẽ một con cóc ngồi chổm chọe trên cành lan, ở dưới có mấy câu thơ:
Con cóc mà đậu cành lan
Cành ngô con phụng thế gian đã thường
Có ai thương cóc thì thương.
Bức tranh đóng khung lồng kính đẹp đẽ, nhưng ngày đêm vắng vẻ mắt xanh.
Tan cuộc đấu xảo, Tiên sinh mang tranh về, bảo:
- Không ai biết thưởng thức tranh.
Lão Vườn nhận thấy Tản Đà tiên sinh không thủ đoạn bằng Trần Tử Ngang đời Đường.
Trần Tử Ngang tự Bá Ngọc là một nhà đại bút đời Sơ Đường. Năm Vĩnh Thuần thứ nhất, đời Đường Cao Tôn (682), không được người có uy danh giới thiệu. Một hôm ra chợ Tràng An thấy có kẻ bán một chiếc hồ cầm để giá đến một vạn quan tiền. Ai nấy đều ngạc nhiên. Một phú ông giàu nhất kinh đô cũng có mặt nhưng không dám mua. Trước mọi người, Trần bỏ tiền ra mua, không một lời mặc cả. Người chung quanh đều kinh dị đua nhau hỏi duyên do. Trần đáp:
- Đàn này là một vật trân bảo nhất đời. Nhưng tiếc rằng bận việc không thể giải thích được, xin mời hàng thức giả mai đến xóm Tuyên Dương sẽ rõ.
Sáng hôm sau người ta kéo đến xóm Tuyên Dương đông như chợ. Trần đã bày sẵn mấy bàn rượu thịt để đãi. Khi đã cạn chén, Trần nâng cao cây hồ cầm lên nói:
- Tôi là Trần Tử Ngang quê ở Tứ Xuyên có hơn một trăm bài thơ đưa đến Kinh Đô mà chẳng ai biết cho. Còn cây đàn này là vật nhỏ mọn thì lại xúm nhau mà xem. Chốn văn vật này, ngờ đâu lại không có một người tri thức!
Nói xong, cầm cây hồ cầm đập tan. Đoạn lấy thi văn của mình đem phân phát cho mọi người.
Và chỉ trong một ngày văn chương của Trần đã được phổ biến khắp nơi. Quan Tư Không Vương thích khen văn tài đáng đứng đầu thiên hạ. Nhờ đó mà Trần thi đỗ tiến sĩ trong năm ấy và được trọng dụng ngay.
Nếu Tản Đà tiên sinh cũng biết cách quảng cáo như Trần Tử Ngang thì biết đâu bức tranh cành lan cóc đậu của Tiên sinh lại không gặp được một Vương Thích.
Còn một chuyện nữa mà Tản Đà tiên sinh chỉ là “thuật giả” chớ không phải là “nhân vật” trong truyện như có một số bà con nghe lầm. Đó là câu chuyện về cụ Từ Đạm.
Cụ Từ Đàm hiệu là Cúc Nhân, đậu tiến sĩ. Lúc làm quan đầu tỉnh Ninh Bình, lên chơi núi Dục Thúy tục gọi là núi Non Nước, sai khắc vào vách đá bốn câu thơ:
Người Cúc tính ưa cúc
Bạn bè hồ chọn ai?
Ây cái khe Non Nước
Có phúc được ngồi dai.
Lên chơi lần thứ hai, quan lại sai thợ đục hai bàn chân của mình vào đá, dưới chân vách đề thơ.
Một nhà thơ thấy vậy, liền viết bên cạnh bốn câu:
Nắm ngoái thơ quan đục mấy vần
Năm nay quan lại đục hai chân
Khen cho đá cũng bền gan thật
Chịu đựng cho quan đục mấy lần
Nhân vào Trung Việt chơi, Tản Đà Tiên sinh nghe được chuyện lý thú bèn viết đăng vào An Nam Tạp Chí để mua vui cùng độc giả.
Nay lão “tái thuật” để quí bạn ghé Vườn Hoa Thơ nghe cho vui. Đồ xưa đối với người hiếu cổ, lớn nhỏ chi cũng đều có giá trị.
Chú thích:
(1) Hiện làm việc tại quận hành chánh Vĩnh Xương (Khánh Hòa)
14- Đôi vần cũ mới của Hàn, Chế, Lan, Khê
1. 
Biết rằng Lão Vườn có bốn người bạn thân mà hai đã ở bên kia thế giới và hai ở bên kia Hiền Lương, nhưng còn để lại cho lão vườn nhiều giống hoa thơm, hai nhà thơ trẻ đất Đồ Bàn tìm đến vườn hoa thơ, xin cho được thưởng thức.
Bốn người bạn thân đó là:
- Hàn Mặc Tử
- Bích Khê
- Chế Lan Viên
- Yến Lan.
Hai nhà thơ trẻ đó là:
- Nguyễn Hoài ở Bình Khê
- Vũ Phan ở Tuy Phước
Đã là bạn cùng mang một nghiệp dĩ, nghiệp thơ, lại là bạn đồng hương Bình Định, lão tiếp đón tận tình, và cho biết:
- Di cảo của Hàn Mặc Tử và Bích Khê đã bị tiêu hủy vì binh lửa. Tập Điêu Tàn và Sao Vàng của Chế Lan Viên đã xuất bản rồi, hai bạn chắc đã được đọc. Còn Yến Lan trước khi đi tập kết ra Bắc có gởi lại cho lão hai tập thơ “Xa Xanh” “Kết Giao” và hai vở kịch “Bóng Giai Nhân”, “Gái Trử  La”. Trước khi vào tìm lão, chắc hai ông bạn đã định tìm biết những gì về bốn nhà thơ kia rồi. Vậy xin tùy tiện…
Vũ Phan:
- Bàn Thành Tứ Hữu gồm có Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan và Lão Vườn. Như vậy Bích Khê đứng ngoài?
- Bích Khê là người Cẩm Thành (Quảng Ngãi) cho nên đứng ngoài là lẽ tất nhiên. Nếu nhận Bích Khê vào nhóm thì nếu là bạn võ thì gọi là Ngũ Hổ thật tuyệt! Nhưng trên hình thức thì Khê đứng ngoài, mà trong tâm tình thì chúng tôi là một khối duy nhất và đồng nhất. Và tuy rằng ở trong một nhóm với nhau, một khối với nhau, nhưng mỗi người có mỗi cốt cách riêng, mỗi sắc thái riêng. Có thể gọi là Hòa nhi bất đồng.
Nguyễn Hoài:
- Nghe nói Hàn Mặc Tử có một tập thơ Đường luật gồm trên dưới trăm thiên. Trong tập chắc có nhiều giai tác?
- Tập thơ đó tác giả lấy tên là Lệ Thanh Thi Tập. Lão có trong tủ sách gia đình. Theo ý lão thì giá trị tập này không sánh kịp các tập Thơ Mới của Tử. Trong tuyển tập thơ Hàn Mặc Tử xuất bản thời Tiền Chiến và tái bản thời Hậu Chiến, lão có trích một số bài xuất sắc nhất đem vào tập. Chắc các bạn đã đọc rồi. Nhân đây lão muốn cùng các bạn bàn những vấn đề khác về Tử.
Nguyễn Hoài:
- Hàn Mặc Tử bỏ thơ Đường Luật sang Thơ Mới có phải vì nhận thấy luật thơ Đường quá bó buộc không thể phát triển được tài năng của mình chăng?
- Ở ngoài đời bất kỳ gì gì, hễ đã quen rồi thì không còn thấy khó khăn, không còn thấy bó buộc. Tuy vậy, khuôn khổ bên ngoài có thích hợp với tánh chất bên trong thì tinh ba mới phát triển đúng mức. Thể thơ Đường luật chỉ thích hợp với những tâm hồn đã được tiết chế, những tâm hồn tịnh. Nếu nằm mãi trong khuôn khổ thơ Đường thì một là khuôn khổ phải rạn nứt, đổ vỡ, hai là tâm hồn bị khô héo dần, mặc dù không thấy khó chịu vì đã quen tay. Hàn Mặc Tử sử dụng thể Đường luật một cách dễ dàng. Đến những cách tiểu xảo của các thi công bày ra để đua tài đấu sức mua vui, Tử cũng xem thường…
Nghe đến đây, hai ông bạn trẻ đều đưa mắt nhìn lão. Lão biết rằng hai ông bạn ngờ rằng lão đề cao Hàn Mặc Tử. Lão thản nhiên tiếp:
- Có một lần lão viết bài thơ nói về vua Tự Đức, và khen bài thơ Vô Đề của nhà vua đọc được sáu cách là rất mực tài tình. Tử viết thư vào nói: “Ai làm chẳng được mà khen”. Lão bảo Tử làm thử. Tử gởi ngay vào hai bài: Cửa sổ Đêm khuya, và Đi Thuyền.
Bài ĐI THUYỀN thua bài CỬA SỔ ĐÊM KHUYA:
Hoa cười nguyệt rọi cửa lồng gương
Lạ cảnh buồn thêm nợ vấn vương
Tha thướt liễu in hồ gợn bóng
Hững hờ mai thoảng gió đưa hương
Xa người nhớ cảnh tình lai láng
Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng
Qua lại yến ngàn dâu ủ lá
Hoa đàn sẵn có dế bên tường.
Sáu cách đọc là:
- Đọc xuôi,
- Đọc ngược,
- Bỏ hai chữ sau đọc xuôi,
- Bỏ hai chữ sau đọc ngược,
- Bỏ hai chữ trước đọc xuôi,
- ỏ hai chữ trước đọc ngược.
Nghe đọc xong sáu cách, hai ông bạn đều tán thán.
- Về thơ Đường luật, Tử làm đủ lối: Thủ vĩ ngâm, Thuận nghịch độc, Song thanh, Song điệp… lối nào cũng luận. Nhưng tất cả đều là thơ "Mua vui” thơ “phòng khách”, không đủ sức chịu đựng với nắng mưa. (1)
Vũ Phan: - Về Đường luật Bích Khê có sánh nổi Hàn Mặc Tử, trước khi bước sang làng Thơ Mới?
- Bích Khê đã có hàng trăm bài thơ Đường luật. Hàn Mặc Tử thì được Phan Sào Nam khen ngợi. Bích Khê thì được Huỳnh Minh Viên khen ngợi. Nếu hai ông bạn thấy vậy mà tự cao tự mãn, không bỏ làng để dấn bước giang hồ, thì làm sao có được những sự nghiệp lớn lao rực rỡ. Ra cõi ngoài “thấy làm ăn phát tài", Tử thường rủ lão ly hương. Song lão vốn nhát gan, không dám xông pha sóng gió, nên đành cam phận “Giữ gốc tre làng”. Trái lại Bích Khê dặn lão đừng bày cao hứng bỏ nhà mà đi và cũng đừng lén bán ruộng hương hoả để cho tình nhân Thơ Mới mà bị kiện ở tù mục xương.
Nguyễn Hoài: - Bích Khê phải.
- Lão cũng không dám cho Tử là trái. Song dù Khê có “trái” như Tử, lão cũng ù lì như các nhà chánh trị xôi thịt. Lão là một con trâu già "đánh không đi dò không đứng”, ưng tự mình kiềm chế lấy mình. Việc làm thơ cũng như việc ở đời. Chỉ thực hiện những gì mình muốn, mình thích, miễn sao những gì đó, xét kỹ, không thiệt hại đến người. Được khen thì mừng, bị chê không giận.
Vũ Phan: - Đó là khí tiết của nhà Nho.
- Không biết có phải chăng. Nhưng người đời gọi là ngông, là gàn, là lập dị… Gì gì cũng được hết, miễn mình là mình, và thơ mình cũng là mình, tức là chỉ giống mình chớ không giống người khác. Nhìn con mình giống mình chớ không giống ông hàng xóm, đó là cái thú của người làm cha. Làm thơ cũng thế.
Nguyễn Hoài: - Chắc cũng như Hàn Mặc Tử, thơ Đường luật của Bích Khê không có giá trị bằng Thơ Mới?
- Đúng vậy. Và cũng như Hàn Mặc Tử, thơ Đường luật của Bích Khê, sau khi Khê đã qua làng Thơ Mới rồi, xuất sắc hơn trước nhiều lắm. Trước kia, thơ Khê chịu ảnh hưởng cụ Phan cụ Huỳnh, nên khô khan. Khô khan hơn thơ Hàn Mặc Tử nhiều. Hình thức cũng như nội dung, thơ Khê gì như ông lão bảy mươi. Vì vậy lão không nhớ được câu nào cả, mặc dầu có nhiều bài đã đọc trên một lần. Đó là nói về số thơ làm khi trước. Chớ sau này, khi đã xa vườn thơ Tiếng Dân của cụ Huỳnh để đi theo tiếng gọi của Nàng Thơ Mới, thì thơ đường luật của Khê có lắm bài mới từ hình thức lẫn nội dung. Như bài sau đây là một: (2)
MỘNG TRONG HƯƠNG
Nửa cánh giang hồ bạc nhớ thương,
Đêm nay buồn lắm! gục bên giường.
Ngoài ly Lý Bạch trời như mộng,
Trong khói phù dung mộng có hương.
Thì mộng: Xuân Hương nường đã đến,
Thưa cô, dáng nguyệt tuyết còn vương.
Tỉnh ra lại thấy mình trong mộng:
Nửa mảnh trăng treo một mặt buồn.
Khi còn ở trong làng Thơ Cũ, thơ Khê có phần cũ hơn thơ Tử. Nhưng khi đã nhập tịch làng Thơ Mới, thơ luật của Khê lại trở mới hơn thơ luật của Tử.
Sau đây là một bài thơ luật Tử làm lúc đã nổi tiếng về Thơ Mới:
BUỒN THU
Ấp úng không ra được nửa lời
Tình thu bi thiết lắm thu ơi
Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt
Hiu hắt hơi may thoảng lại rồi
Nằm gắng đã không thành mộng được
Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi
Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt
Cảnh sắp về đông mắt lệ vơi.

Bài này hơn những bài trước kia ở tình tứ và âm điệu. Về phép tắc của luật Đường vẫn giữ y nguyên. Đây là một bài thơ hay. Song không có những nét độc đáo. Độc giả có thể lầm với thơ Tản Đà, thơ Đoàn Như Khuê… Chớ bài Mộng Trong Hương của Bích Khê có một vẻ riêng biệt. Trong số thơ Đường luật được truyền tụng từ xưa đến nay, không có bài nào, cả thơ Hồ Xuân Hương, có thái độ nghênh ngang như thế cả.
Nguyễn Hoài: - Lâu nay nhiều người đã phê bình thơ Bích Khê và Hàn Mặc Tử, nhưng các phê bình gia thường chỉ đề cập đến Thơ Mới chớ ít nói đến thơ Đường luật.
- Bởi vì một là thơ Đường luật của hai nhà chưa được phổ biến rộng rãi, bài là chân tài và chân tướng của hai nhà biểu lộ rõ rệt nơi Thơ Mới. Thơ Đường luật của Tử cũng như của Khê, sau này chỉ còn có giá trị về Thơ Mới mới là gương phản chiếu trung thành tâm hồn của Tử và Khê. Thơ Đường luật chỉ là những dấu chân trên đường nghệ thuật lúc mới khởi hành.
Vũ Phan: - Chế Lan Viên và Yến Lan có làm thơ Đường luật chăng?
- Đó là hai nhà Thơ Mới hoàn toàn mới. Cả hai đều rành quy tắc thơ Đường luật, nhưng không giờ làm thử. Bởi làm thơ đối với Viên cũng như đối với Lan, nhất là Viên, không phải là việc mua vui. Chỉ làm thơ lúc nào cần. Đó là chủ trương của nhóm anh em lão.
Nguyễn Hoài: - Như thế không bao giờ dùng văn chương để tiêu khiển?
- Bởi làm thơ đối với Viên cũng như đối với Lan, nhất là Viên, không phải là việc mua vui. Chỉ làm thơ lúc nào cần. Đó là chủ trương của nhóm anh em lão.
Nguyễn Hoài: - Như thế không bao giờ dùng văn chương để tiêu khiển?
- Không phải tuyệt đối như thế. Thỉnh thoảng cũng có “phạm cấm”, song kết quả của những cuộc mua vui kia, chúng tôi không gọi là Thơ. Cho nên nhiều khi không ghi chép lại. Nói thì có hơi tục và sẽ bị các nhà đạo đức mắng rằng đã già còn mang họ của Ngọc Chân, chớ mượn thơ để tiêu khiển, thật chẳng khác đi chơi hoang. Một đôi khi vì sung sức, sanh ra những đứa con thông minh tuấn nhã. Những đứa con như thế, vì không có giấy khai sinh, thường bị kẻ khác nhận làm con thừa tự. Yến Lan đã gặp phải trường hợp ấy.
Hai ông bạn nhìn lão với vẻ ngạc nhiên. Lão tiếp:
- Thời Pháp Thuộc, lão không nhớ năm nào, Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can vào Huế diễn kịch. Gặp Yến Lan, Bính rủ Lan cùng chung soạn vở kịch Bóng Giai Nhân để diễn. Yến Lan bằng lòng. Nhân lúc cao hứng, Yến Lan dành làm việc một mình. Nguyễn Bính rảnh tay, đi tìm thú vui trong rượu ngon và sắc đẹp. Vở kịch xong, Yến Lan giao cho Nguyễn Bính, rồi trở về Bình Định, với một bản phó đánh máy. Từ ấy vở kịch được diễn đi diễn lại nhiều lần ở các thành thị lớn, Huế, Hà Nội, Sài Gòn… Nhưng Yến Lan không được hưởng gì hết, cả vật chất lẫn tinh thần. Vì tiền thu chỉ đủ cho Nguyễn Bính và Trọng Can tiêu, và ai cũng tưởng soạn vở kịch chắc mình Nguyễn Bính. Nghe đâu, lão chỉ nghe chớ chưa thấy, vở kịch Bóng Giai Nhân đã xuất bản với tên tác giả là Nguyễn Bính, và gần đây viết về Nguyễn Bính, nhiều người cũng bảo Nguyễn Bính là tác giả Bóng Giai Nhân.
Vũ Phan: - Lão Vườn biết rõ sự việc, sao lại làm thinh?
- Ai hỏi mà nói, và nói ra chắc chi người ta đã tin.
Nguyễn Hoài: - Không biết Yến Lan có rõ tình trạng kia chăng?
- Cũng như  lão, Yến Lan sống thui thủi trong nơi tịnh vắng, làm gì biết được những gì xảy ra trong những nơi đô hội xa xôi. Mà nếu có biết e Lan cũng chả quan tâm. Vì sự nghiệp văn chương của mình đâu phải chỉ có một vở kịch viết để mua vui trong chốc lát. Đứa con hoang làm nên danh phận, nếu biết được ai là cha đẻ mà tìm về càng tốt, không biết cứ nhận cha nuôi là cha đẻ mà cũng không hề gì. Lan vốn là người khoáng đạt. Đó là đối với tác giả. Còn đối với tác phẩm, thì ai biết mà bảo Tần Thủy Hoàng là con Lữ Bất Vi cũng được, ai không biết bảo là con Dị Nhân cũng được: Tần Thủy Hoàng vẫn ngồi trên ngôi báu của nước Tần.
Vũ Phan: - Vở kịch Bóng Giai Nhân có đặc sắc chăng?
- Vốn không sở trường về kịch nên lão không dám lên quá đôi giày của lão. Lão chỉ nhấn mạnh cho quí bạn biết rằng bản thảo mà lão hiện có trong tủ sách gia đình là bản Yến Lan đã mang từ Huế về, giấy đã vàng, bìa đã rách. Lão muốn giữ nguyên hình để làm kỷ niệm nên không đóng bìa lại. Trước kia lão có đọc qua một lần. Gần đây có lần muốn lấy ra xem lại, nhưng thấy giấy đã bở quá, sợ rủi mạnh tay rách, nên thôi. Đó là nguyên nhân thứ hai khiến lão không phát biểu ý kiến về vở kịch để thỏa mãn lời yêu cầu của bạn viễn phương lai.
Nguyễn Hoài: - Thơ của Yến Lan chưa xuất bản thành tập, nên ít người biết. Sao lão vườn không đem chưng bày ra Vườn Hoa Thơ để mọi người được thưởng thức?
- Mở Vườn Hoa Thơ là để giới thiệu những giai tác của bạn bốn phương gởi đến, chớ đâu phải để phổ biến sản phẩm của nhà. Những tác phẩm của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan, Bích Khê giao cho lão, lão coi như của nhà. Chỉ khi nào túng thiếu quá mới dùng đến mà thôi. Lão phải dè dặt, vì đã mang tiếng rằng hay đề cao bạn bè.
Vũ Phan: - Lão Vườn dè dặt như thế, kể cũng thiệt thòi cho độc giả. Sao không đem những tác phẩm kia ra làm của chung cho toàn thể đồng bào, bằng cách xuất bản cả tập?
- Lão thì nghèo. Còn tìm đến các nhà xuất bản thì lão không đủ can đảm. Đoạn trường ai có qua cầu mới hay! Để khỏi mang tiếng ích kỷ, lão sẵn sàng trình cho khách yêu thơ tìm đến Vườn Hoa Thơ.
Hai ông bạn đồng thanh: - Xin lão vườn cho thưởng thức.
-  Thơ trong tập ĐIÊU TÀN của Chế Lan Viên, không ai còn lạ. Thơ trong BẾN MY LĂNG của Yến Lan tuy chưa xuất bản nhưng một số đã được phổ biến trên các sách báo. Lão xin “đãi” hai ông bạn một ít bài mới soạn trong thời toàn dân vùng dậy chống thực dân dành độc lập cho nước nhà:
BỪNG NGỌN ĐỎ
Tràn đêm rã rích cơn mưa
Nghìn năm buốt lạnh chưa vừa suối than
Mênh mông trời đất mênh mang
Tiếng kêu nát đá phai vàng, u minh
Ngồi lên ta đốt tâm tình
Hơ đôi tay, sẽ vin nhành xuân sau
Hân hoan hoa gió đón chào
Chói chang mắt ngọc mưa nào khuất che
Lửa dù tắt bóng dù đi
Thiên thu tâm sự còn ghi sắc trời
Lửa to sáng với mưa dài
Hoa vui nở ngọn, tiếng Người vây quanh.
Bài này CHẾ LAN VIÊN chép gởi cho lão tháng 9 năm 1948.
Thời Đệ Nhất Cộng Hòa có một vài tờ tạp chí ở Miền Nam Việt Nam lục đăng bài Bừng Ngọn Đỏ. Một người bạn trích gởi tặng lão. Trong bài ông bạn gởi đến, thấy có một số chữ  khác với bài tự tay tác giả chép:
Câu thứ nhất: Tàn đêm…
Câu thứ 4: Nghe như đá nát…
Câu thứ 6: Hơ đôi tay lạnh…
Câu thứ 7: Tuổi vui hoa gió…
Câu thứ 11: Lửa to cháy giữa đêm dài…
Câu thứ 12: Hoa vui đỏ ngọn…
Những chữ dị thù đó đều có nghĩa. Không biết là tác giả đã sửa lại như thế hay là người sao lục có máu Vương Kinh công.
Nguyễn Hoài: - Thanh điệu nghe thật du dương, song tôi không nhận thức được chủ ý của tác giả.
- Tác giả cho lão biết: “Bài thơ làm riêng cho mình, nói sự buồn nản về vũ trụ đã đi qua, sự tin tưởng ở con Người, ở Lửa Nhân Loại đã trở lại”.
Vũ Phan: - Thơ Chế Lan Viên vừa đẹp vừa sâu. Hiểu cho thấu đáo không phải là việc dễ. Nhiều người liệt thơ Chế Lan Viên vào loại thơ bí hiểm, bí hiểm vì người đọc không đủ trình độ học thức trình độ nhận thức để nhìn thấy những tình ý mầu nhiệm thâm viễn ở trong thơ.
- Chính thế. Núi quá cao, mình không đủ sức lên đến để thu thập những trầm kỳ ngà ngọc đầy nhẫy hang thẳm rừng sâu trên đỉnh, nên nhiều khi tức mình rủa núi là bí hiểm, làm như núi tự tạo ra bí hiểm để làm khó dễ người đời mà chơi! Người đời thường chỉ thích những cái dễ. Những nhà thơ có tài lại ghét cái dễ. Cho nên những nhà thơ đại tài thường được người đời kính nhi viễn chi.
Nguyễn Hoài: - Nhưng Chế Lan Viên rất nổi tiếng.
- Nổi tiếng là một việc, còn được người đời ưa thích là một việc. Chế Lan Viên nổi tiếng vì tuổi trẻ mà tài cao, nổi tiếng vì tập ĐIÊU TÀN là một ngọn tháp Chàm đứng chon von trên ngọn đồi vừa cao vừa quạnh quẽ. Chớ đã mấy ai thường lên chơi trên ngọn tháp kia, mấy ai đã thuộc nhiều thơ của Chế?
Vũ Phan: - Thời Kháng Chiến Chống Pháp, tôi được nghe một bài thơ của Chế Lan Viên mới sáng tác. Tôi còn nhớ được hai câu mà tôi thích nhất: Nghe tiếng gà kêu hoa cỏ mới/ Chếch con trăng cũ nhớ thương tà. Chắc Lão Vườn có bài ấy?
Mấy lâu nay Lão có chỗ thắc mắc về bài này, muốn nói nhưng không biết nói với ai. Được họ Vũ hỏi đến, thật là gãi nhằm chỗ ngứa. Lão nói: - Bài đó như thế này: 
MAI
Hôm nay bụi phấn ta còn đây
Mai đã về chơi trong khoảng biếc
Chén xuân có rót hãy dâng đầy
Đó ngọc lòng ra đương gặp tiết
Mai neo thuyền lạ bến sông xa
Nghe tiếng gà kêu hoa thảo mới
Chếch con trăng cũ nhớ thương tà
Ao đỏ lòng ta vừa gặp hội 
Trao nhau tên tuổi hẹn ngày mai
Tiếng hát hồi sinh bủa rạng trời
Qua chơi gặp đóa lòng ta nở
Cúi hái lòng ta giữa độ cười.

Bên cạnh bài này còn có một bài nữa:
LẠI
Nếp áo tiền thân vừa hút mắt
Tiếng gà lai kiếp cách ngàn sao
Ta nằm ở giữa cân trời đất
Khối ngọc chưa nghiêng một hướng nào
Thâm khuê ý thức chong đèn hạnh
Mặt nguyệt tâm tư tròn vẹn gương
Chiếc én thành son chưa đẩy cánh
Nét đau xanh liễu chửa buông tường
Em đến rủ ta vào cuộc sắc
Nghe em ta hái cụm hoa ngời
Nhớ thương từ ấy sông xanh mắt
Đỏ nụ lòng ta chói ánh vui
Đẩy tiếp xe son quá bụi hồng
Con roi hư ảo: dặm đường không
Ta khêu đĩa bấc trần tâm lại
Chim bướm phiền hoa lại nối vòng
Mé rừng quạ khuất nắng hư vàng
Trên bến gà kêu sao rụng ngọc
Om mặt nghìn năm ta lại khóc
Bến xưa rừng cũ thấy thời gian.
Hai bài này lão nhận được một năm với bài Bừng Ngọn Đỏ (1948). Lúc ấy Chế ở Liên Khu IV, lão ở Liên Khu V.
Năm 1967, một ông bạn đồng châu họ Trương, nhân về Bình Định lục được một bài thơ chép tay của Chế Lan Viên, liền sao lại gởi tặng lão. Bài ấy nhan đề là “Mưa xưa tiếng khóc, vàng mai trận cười”, gồm có bốn câu đề minh (épigraphe) và bốn đoạn, mỗi đoạn bốn câu.
Bước đi nhân thế, hoa còn mọc
Lối đỏ, vườn xuân còn ngậm hương
Đã quá mùa đau phai tiếng khóc
Ao xuân em hãy xuống thăm vườn.
Còn bốn đoạn thì hao đoạn đầu giống đoạn 1 và đoạn 3 trong bài LẠI, hai đoạn sau lại giống đoạn 2 và đoạn 3 trong bài MAI.
Trong bài “Mưa xưa tiếng khóc...” có đôi chữ khác:
- Ta nằm chính giữa cân trời đất
- Để nụ lòng ta ngụm ánh vui
- Tìm đến gà kêu sao rụng ngọc
- Chếch con trăng cũ tháng năm tà
- Cúi hái lòng ta giữa tro cười.
Họ Trương cho biết rằng “bài thơ chép đúng theo thủ bút của tác giả: đoạn đầu (épigraphe) chữ nghiêng, các đoạn sau chữ đứng. Toàn bài được phân đoạn bằng một dấu tréo (croix). Đoạn 2 - 3 không có dấu tréo. Bài thơ được mang tên THẠCH HÃN”.
Khi ở Liên khu IV, Chế Lan Viên, viết bài đăng báo thường ký tên THẠCH HÃN. Đó là tên một con sông của Quảng Trị, chánh quán của Chế Lan Viên.
Mấy năm nay không gặp họ Trương để đưa bài thơ của Chế chép gởi lão, cho xem thử nét chữ có giống nét chữ trong bản chính bài “Mưa xưa...” chăng. Và vì cách biệt Chế đã trên 20 năm nay rồi, nên không hiểu tại sao lại có cảnh “Đầu Lại đuôi Mai” như thế ấy. Bây giờ, để tìm hưởng cái hay cái đẹp của Thơ, chúng ta dùng bản chép tay của Chế gởi cho lão, làm bản chánh thức.
Nguyễn Hoài: - Thơ cũng như văn thời Kháng Chiến Chống Pháp, hầu hết đều dùng ngôn ngữ của thời đại, đều mang tư tưởng của thời đại, không nhiều thì ít. Làm gì cũng có những là “ăn gan uống máu quân thù”, “Ơn Bác, ơn Đảng”, "Kinh tế quyết định”, “Duy vật, duy tâm”… Trong hai bài thơ của Chế Lan Viên không hề tìm thấy mảy may dấu tích của thời đại.
Vũ Phan: - Chẳng những trong thơ Chế Lan Viên mà thôi, trong thơ của Yến Lan, ngấn vết thời đại cũng không có. Tôi xin đưa ra một bài trong số thơ Yến Lan tôi đã sưu tầm được trong mấy năm nay:
KẾT GIAO
Bốn bề cây phủ lá che
Thuyền tâm tư đậu trong khe Tịnh Bình
Dòng mây né gợn phù sinh
Lòng nôi mát rợi tay tình gió ru
Cô đơn chiếc én qua mù
Lênh đênh khói núi, biếc hồ mong manh.
Nghìn năm mộng trái sang cành
Gió đừng nhịp võng nghiêng xanh cây chào
Ghé nhìn quảng trống lao xao
Vươn tay vẹt lá kết giao bên ngoài.
Chưa xuân bỗng ấm đôi hài
Cỏ sương đường bụi cũng dài tâm tư.

GIÓ TRĂNG LỐI CŨ BÂY GIỜ CHIÊM BAO
Trăng biệt hồn hoa, hoa rụng nuối,
Vườn xuân mở lối đón hài tin.
Nhịp cầu tâm sự soi dòng suối
Nhẹ tiếp cành Thơ nhụy thắm vin.
Xe hoa hư ảnh khuất bên tường
Chở lại tiền thân nét phấn hương
Men rượu quan hà, sương kỷ nữ
Thôi còn hoen ố nụ văn chương.
Ngập ngừng bánh xe sao lặn mọc
Vệt mây thiên cổ tan niềm khóc
Đất trời cởi mở áo sơ khai
Non nước hết buông lời cô độc.
Cách quảng tường đêm khắc khoải qua
Thiên nhiên biếc đọng góc hương hòa
Chiêm bao lẩn quất ngoài trăng gió
Nhạc sống bồng lên lấp tiếng gà.
Cũng như thơ Chế Lan Viên, thơ Yến Lan là thơ Tượng Trưng, ý thì sâu sắc, lời thì bóng bẩy. Thời Kháng Chiến Chống Pháp, các nhà thơ hầu hết đều theo phong trào cách mạng, hướng về văn chương bình dân, văn chương đại chúng. Và tác phẩm của thời bấy giờ đều thiên về tuyên truyền, thường ra đời để phục vụ giai đoạn. Những bài như trên rất hiếm. Lão Vườn có biết hai bài Kết Giao và Gió Trăng Lối Cũ sản xuất vào giai đoạn nào?
Để khỏi sai lầm, lão phải mở tủ tìm bản thảo:
- Hai bài đó nằm trong tập KẾT GIAO, Yến Lan soạn trong năm 1949. Từ 1949 trở về trước, cán bộ văn hóa của Chánh Quyền mới ra công hướng dẫn các văn thi sĩ theo đường hướng của Chánh Quyền. Chủ Trương còn hòa hoãn. Cho nên những bài như trên còn được phổ biến, còn được hoan nghênh. Từ 1950 trở về sau thì văn hóa bị chỉ huy. Các văn thi sĩ nếu muốn có tác phẩm lưu hành thì phải theo đúng đường lối của cán bộ lãng đạo đã vạch sẵn. Bằng không thì bị coi là phản tuyên truyền, phản cách mạng. Do đó những thơ thuộc phái lãng mạn, tượng trưng, siêu thực... thời Tiền Chiến, không còn thấy sản xuất.
Để đáp lời ông bạn Nguyễn Hoài, lão nói thêm:
- Mỗi thời có một hoàn cảnh riêng, người mỗi thời cũng có những ý tưởng những cảm xúc riêng. Cho nên phải có dụng ngữ riêng để phản ánh cho đúng hoàn cảnh, để diễn đạt cho đúng ý tưởng cảm xúc của thời nhân. Lẽ tất nhiên phải thế. Chỉ trách những bọn văn nô thi nô, để mua lòng người trên, đã làm thái quá đó thôi. Còn về ảnh hưởng của thời đại thì không có ai có thể tránh khỏi. Chỉ có mức độ ảnh hưởng, dấu tích ảnh hưởng, nhiều hay ít, rõ hay mờ, sâu hay cạn... mà thôi. Nhìn kỹ vào những bài thơ của Yến Lan của Chế Lan Viên đó, chúng ta vẫn nhận thấy sự chuyển hướng của hai nhà. Nếu hai bạn đem những tác phẩm sản xuất thời Tiền Chiến ra đọc lại, thì sẽ nhận thấy sự thay đổi một cách rõ ràng. Nhưng chúng ta hãy nhượng công việc ấy cho các nhà khảo cứu, các nhà viết văn học sử. Chúng ta là những con ong dạo Vườn Hoa Thơ, thì nên lo tìm hưởng những hương thơm mật ngọt chứa đựng nơi “nhụy chữ, đài câu”.
Vũ Phan: - Phần lớn tác phẩm của bốn nhà thơ Hàn, Chế, Khê, Lan, đều nằm trong tay Lão Vườn. Vậy lão vườn có định viết về bốn nhà đó chăng?
- Về Hàn Mặc Tử và Bích Khê, lão đã viết rồi. Còn Chế Lan Viên và Yến Lan, lão đương viết. Nhưng lão viết theo lối hồi ký, tùy bút..., và thi ca chỉ trích dẫn một số ít mà thôi. Những tác phẩm đầy đủ của các bạn phải chờ thiện duyên. Thơ của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan, Bích Khê là những kho tàng châu báu. Muốn khai thác phải có những kỹ sư văn học đại tài. Chúng ta đây, hai bạn cũng như lão, nên làm ong hút mật cho sướng.
2.
Năm 1948 ở Huế có một nhóm anh em tổ chức cầu cơ. Đêm 8 tháng 5, Hàn Mặc Tử nhập cơ và tặng cho anh em bài:
TIÊU CẦU
Ô! Đêm nay trời trong như gương
Không làn mây vương, không hơi sương.
Tơ trăng buông rèm trên muôn cành,
Tơ trăng vàng run như âm thanh.
Từ đâu tơ sầu reo vi vu,
Buồn như làn mây chiều mùa thu,
Êm như dòng tơ trên vai nường,
Mong manh như là lời yêu đương.
Tiễn đưa tôi bay lên cung trăng!
Tôi phiêu diêu cùng ngàn sao băng.
A ha! lòng tôi như trăng là trăng!
A ha! trăng tràn đầy châu thân!
Cung thiềm đây rồi hương ngây ngây.
Ồ! bằng trân châu hay quỳnh dao?
Mà mớm cho tôi bao tình say,
Mà tôi mút bao dòng ngọt ngào.
Nghê thường lên khơi nường Hằng ra,
Hương trầm bâng khuâng quyện mình hoa.
Nhịp nhàng nường đi theo nhịp đàn,
Am thanh lên cao nhạc hường ran.
Tôi lại gần bên, ồ! lạ thường!
Nường Trăng, ồ! chính là Thương Thương!
Người tôi rung động như âm thanh,
Môi không ngừng dưới đôi tay xinh.
Hoảng hốt tôi ôm chầm lấy nường..
Than ôi! Nường đã biến ra sương!
Tôi ôm chầm phải tiếng tiêu sầu
Vi vu reo buồn trong đêm thâu.

Đến đêm 16, Phi Yến lại ứng vào cơ và cải chính giùm cho Hàn Mặc Tử  mấy chữ sai:
- Trong câu 19, sửa chữ BƯỚC thay chữ ĐI (nhịp nhàng nường bước theo nhịp đàn).
- Trong câu 25 và 27, sửa chữ CHOÀNG thay vào chữ CHẦM (Hoảng hốt tôi ôm choàng lấy nường. Tôi ôm choàng phải...)
- Trong câu 26, sửa chữ TRỜI ƠI thay vào chữ Than ôi (Trời ơi! Nường đã biến ra sương).
Phi Yến còn nói thêm rằng đó là “Khối tình mang xuống thuyền dài chưa tan” của Hàn Mặc Tử.
Nhiều người tin sự linh ứng của việc cầu cơ. Nhưng cũng lắm người không tin.
Lúc các bạn cầu cơ đó thì lão tản cư ở Liên Khu V. Năm 1955, nghe tin lão hồi cư về Nha Trang, một bạn thanh niên viết thư kể cho lão nghe sự việc, chép cho lão xem bài thơ, và hỏi lão đã từng nghe hoặc thấy bài Tiêu Sầu chưa.
Nhưng di cảo của Hàn Mặc Tử đã bị thất lạc lúc lão tản cư. Tất cả thơ Tử lão đã đọc trên một lần. Cho nên mặc dầu không có thi tập ở trước mắt, những bài nào đưa đến lão cũng có thể “nhận diện” được ngay. Đọc bài TIÊU SẦU, lão nghĩ mãi... nghĩ mãi… Khẩu khí thì là khẩu khí Hàn Mặc Tử còn cách điệu lại là cách điệu Bích Khê nhưng văn chương không sánh kịp những bài bình thanh trong Tinh Huyết. Lão không nhớ một bài bình thanh nào của Tử! Lão cũng không tin rằng Tử hiện về làm thơ để gởi gấm tâm sự. Nhưng ai dư công đi làm việc giả mạo vô ích... Cho nên lão không dám quả quyết rằng là thơ Tử hay không phải thơ Tử.
Năm 1960, hưởng ứng lời kêu gọi của lão, nhiều bạn gởi đến giúp lão những thơ của Tử mà quý bạn sưu tầm được. Trong số này có bài TIÊU SẦU do ông bạn Yên Giang ở Phan Rang gởi tặng. Bài này giống y bài thượng dẫn. Ông bạn cho biết rằng đã trích trong một tập thi tuyển chép tay của một người quen. Gần đây nhà thơ Vũ Phan Long ở Qui Nhơn bảo rằng đã thấy bài này rồi song không nhớ là thấy trong sách hay trên báo nào, vì đọc đã lâu.
Như vậy thì bài TIÊU SẦU đã được nhiều người biết, chớ không phải chỉ phổ biến trong nhóm anh em cầu cơ ở cựu Thần Kinh. 
Có người ngờ rằng:
- Bài TIÊU SẦU đã được sáng tác lúc Tử còn tại thế. Một trong những người cầu cơ thuộc được, bèn giả bộ hồn Tử nhập cơ, để mua vui.
- Nếu lời ức đoán kia đúng thì bài đó phải có trong tập Cẩm Châu Duyên mà nguồn cảm hứng là Thương Thương, bởi trong bài có tên của Nguồn Cảm Hứng.
Tôi lại gần bên, ồ! lạ thường!
Nường Trăng, ồ! Chính là Thương Thương!
Khi nào tìm lại được tập Cẩm Châu Duyên mới dám quả quyết bài TIÊU SẦU là của Hàn Mặc Tử hay không phải của Tử. Bây giờ tạm gởi vào chỗ tồn nghi. Nói vậy chắc có người mắng:
- Của mình bị thất lạc, người ta lượm được đem đến cho lại, lại ấm ớ rằng không biết có phải của mình hay không! Thật là phường ngớ ngẩn!
Kể cũng ngớ ngẩn thật. Song đâu phải một trường hợp duy nhất. Bài thơ CON MUỖI tương truyền là của Chí sĩ Phan Tây Hồ, song cụ Lê Ấm rể Phan Chí sĩ vẫn tuyên bố rằng không biết có phải của nhà hay không.
Cổ nhân dạy: Chưa chắc thì đừng (Dans le doute abstiens toi).
Chú thích:
(1) Xem ĐÔI NÉT VỀ HÀN MẶC TỬ.
(2) Xem ĐỜI BÍCH KHÊ.
15- Ít cánh thơ xuân
Để trang điểm cho VƯỜN HOA THƠ trong lúc xuân sang, các thi hữu bốn phương đã gởi cho người giữ vườn nhiều giống hoa tươi thắm. Riêng tiếc hoa thì nhiều mà vườn không được rộng, nên người giữ vườn xin ngắt mỗi thứ một vài cành, đem trình bày để tiêu biểu cho lòng thơm thảo của quí bạn thân yêu.
Quý bạn thân yêu của Vườn Thơ ở khắp các giới: Phụ lão, Phụ nữ, Thanh niên…, mà người trong giới nào lòng thơ cũng đượm nồng hương sắc.
Phải lắm, khi cụ mới 20 tuổi, đầu cụ có bạc mô! Mà hiện thời cụ mới 70 tuổi thôi. Nghĩa là cụ nhỏ thua cụ Trần Tu đến 3 tuổi khi cụ Trần đậu trạng và được nhà vua gả công chúa. Cụ cũng thua cụ Nguyễn Công Trứ 3 tuổi khi cụ Nguyễn bước vào phòng đuốc hoa:
Tân nhân dục vấn lang niên kỷ,
Ngũ nhập niên tiền nhị thập tam.
Như thế cụ Cù Huân còn trẻ chán. Hoa không nên chê già mà oan cho cụ. Huống hồ:
Hoa trông đầu bạc hoa cười,
Ai hay đầu bạc là người yêu hoa.
Như lời một thi hữu chốn Thần Kinh hoa lệ.
Cụ Khánh Thuận, xuân đến không xem hoa, lại soi gương và cùng gương thủ thỉ:
Tóc bạc, gương ơi, vì máu xấu,
Ba mươi xuân nữa mới đầy trăm.
Cụ Cù Huân thì ngó lui, cụ Khánh Thuận thì ngó tới. Mà lui hay tới, hai cụ đều có duyên như nhau.
Cụ Bình Sơn không chối cái già, cụ còn hãnh diện là khác:
Xuân ơi, chớ chê ông già:
Xưa nay gừng quế ai mà dùng non.
Thật là chí lý. Huống nữa đối với thời gian vô tận, trăm tuổi chỉ là sơ sanh, mà già là một biến thái cỏn con của đời xuân bất diệt, cũng như cây thay lá để đâm chồi non. Để diễn tả ý ấy, cụ Phước Hải trong bài Ngắm Trăng, có câu:
Bảy mươi sao gọi rằng già?
Cô Hằng Nga sống biết đà mấy muôn
Cô già cô trở lại non,
Ta già ta cũng sẽ còn xuân xanh.
Đâu phải là một lời tạc không. Người đời có “nhị độ xuân” (retour d’âge). Mà nhị độ đã có thì nhất định tam tứ độ cũng phải có. Vì vậy tục ngữ có câu: “Một đời ông già ba đời con nít”. Cho nên ai sợ già chớ các cụ già nhất định không sợ già. Phải chăng quý cụ?
Mà sao quý cụ lại vui thế? Thật sung sướng quá!
Quý cụ ông vui, quý cụ bà có vui chăng?
Xem qua những bài thơ xuân của quý bà, người giữ vườn đoán biết quý bà vui chẳng kém lúc quý cụ ông đi bỏ trầu cau.
Cụ bà Giác Thông, khi “cười xuân” có câu:
Trăm năm má phấn mà xuân mãi,
Nhìn bức tranh xuân có lẽ hơn.
Thật là chân lý của muôn thời nghìn thuở: Giai nhân dù đẹp đến đâu cũng không thể hơn được người trong tranh. Nhưng giai nhân được quý trọng hơn tranh là vì có khi trẻ khi già. Bởi có già mới có trẻ là quý. Chớ nếu trẻ mãi thì quý cụ Cù Huân, Khánh Thuận… mà cả đến bà Giác Thông nữa, nhất định không có những câu thơ thắm “duyên già” như kia.
Bà Ngộ Không lại không bận đến vẻ xuân bên ngoài:
Xuân về bầy trẻ đua hoa pháo,
Riêng đốt lò hương niệm Phật Đà.
Còn bà Thạnh Thới lại lấy vẻ xuân xanh của con cháu mà vui xuân:
Ta già vì bởi xưa ta trẻ,
Thấy trẻ vui xuân lửng tuổi già.
Đều là những cánh thơ cao quý ngậm chứa đạo vị và thi vị đằm thắm tươi trong.
Quý bà cũng như quý cụ, thấy xuân về thì vui. Thế mà một số bạn trẻ có thơ cho người giữ vườn, lại chứa chan nỗi buồn. Có bạn buồn về cảnh xa quê hương mà chưa biết bao giờ về thăm được. Có bạn buồn vì xuân đến mà bệnh chưa thuyên, tuổi xuân không chắc gì được cùng xuân tươi thắm lại. Bạn lại buồn vì tuổi xuân “đã chín” mà sự nghiệp “cấy mãi mà vẫn không đâm mầm”. Vân vân… Nhưng buồn mà đẹp, thì có hoa thơ của TỐ MUỘI.
Đây là những cánh đẹp nhất:
Mùa xuân là chuyến đò ngang,
Lòng ta là dặm tràng giang không bờ.
Vườn xuân nắng đã giăng tơ.
Nghẹn ngào tang tóc phủ mờ hồn ta.
Vườn xuân hương sắc đượm đà,
Lòng ta rụng hết đài hoa cuối cùng…
Chừ đây xuân nở nụ hồng,
Chừ đây ta khép cánh lồng cô liêu.
Nhưng sao cô lại buồn? Cô buồn vì:
Hồn thơ gọi mãi chưa về.
Còn say lá chín còn mê gió vàng.
Thật là một khóm cúc vàng nở trong sương thu buổi sớm, thơm mà lạnh, buồn nhưng tươi. Ý vị!
Trái lại, Uyên Nhi nhìn xuân trên những thảm cỏ non nơi đồng quê mà vui hưởng cuộc đời thơ trong mộng, một cuộc đời chan hòa ngoại cảnh nội tâm:
Nắng trải tơ vàng thêu cỏ lục,
Thủy tinh ngời chiếu giọt sương mai.
Long lanh ngọc đúc hồn ai
Kết nhành thơ để em cài tóc xuân.
Một bức tranh vừa trang vừa lịch.

Cũng như Uyên Nhi, CAO HOÀI NHÂN, nhìn xuân với tấm lòng tươi tươi sáng:
Hoa ướp mi huyền mộng mộng ướp môi,
Bướm gieo phấn lạ ngọt tinh khôi.
Cành mơ xõa tóc hôn vai bé,
Chim nhả lời yêu nắng ngập đồi.
Lòng trẻ thật là vui thắm!
Kỹ Phong dừng “Gót lãng du” nhìn xuân giữa khoảng trời mênh mông, lòng sanh buồn cho thân con người quá nhỏ đối với không gian vô cùng, tuổi xuân con người quá ngắn đối với thời gian vô tận, như Vân Hải Như:
Sương vương trên đồi thông,
Trăng gầy soi khóm hồng.
Ngàn sao rưng rưng sáng,
Gieo vàng vào hư không.
Dừng chân bên sông vắng,
Sầu vương trong mênh mông…
Còn Mạc Khánh, mặc cho “tiếng sáo mừng xuân rộn phố phường”, một mình lủi thủi vào rừng sâu để tìm ý xuân trong những cánh sim tím:
Hoa sim cánh tím mịn màng,
Rừng sâu riêng chiếc bướm vàng say hương.
Và nhìn bướm nhìn hoa, chàng ngẩn ngơ chìm theo mộng thắm:
Pha lê trong vắt vọng lời chim,
Nắng dệt rừng sâu thắm nhụy sim.
Hương đắm hồn thơ mình cũng bướm,
Lòng xuân phơi phới mộng lim dim.
Những người hết trẻ nhưng chưa chịu già thì trong khi vui xuân, lòng sanh ít nhiều lo lắng. Như anh Hương Sơn lo cảnh nhà:
Mừng thấy nhà huyên thêm tuổi hạc,
Luống mong chồi quế nảy xuân.
Ông Định Phong lo cho thân trai:
Mỗi bận xuân về thêm mỗi tuổi,
Nợ trai theo tuổi cũng chồng thêm.
Ông Tào Bỉnh Đức lo cho văn chương:
Xuân đà trang điểm đời hoa cỏ,
Bút gắng tô dồi mặt nước non.
Còn nữa, còn nữa… Nhưng vườn thơ đã rậm, người giữ vườn xin dừng tay, và xin gởi chút tình thơ đến quí bạn hầu mong:
Nước mây dù cách bến bờ
Mái đời sương tuyết lòng thơ đá vàng.
· Xuân kỷ Hợi (1959).
16- Tiếp khách hoa thơ [1]
(Bài này dài đến 16 trang A4, gồm 15 tiểu mục. Xin chia làm nhiều kỳ vì nếu để nguyên bài thì rất khó đọc)
1.
Năm Canh Tý này (1960) chắc Vườn Hoa Thơ tươi thắm hơn năm Kỷ Hợi. Vì mới sáng mồng một, trời vừa rạng đông, một cảnh rạng đông đẹp như một cô gái xuân vừa trang điểm xong để đi dự dạ hội, thì mấy bạn nga mi thân mến của Vườn đến mừng năm mới.
Cô nào cũng tươi như cảnh trời nguyên đán.
Và mỗi cô tặng cho Vườn một bó hoa xuân.
Lão trân trọng lựa trong mỗi bó một nhánh đẹp nhất đem ra chưng nơi vườn.
Đây là hoa của Ỷ Hương:
Sương bạch mai nở ngọc
Hương kim cúc lay vàng
Tường Vi giấc ngủ mơ màng
Gió xuân phảng phất thơm tràn tứ thơ.
Cũng theo thể thi ca liên hành, Thanh Ngọc tỉa nên mấy vận cũng đủ thanh sắc vị như Ỷ Hương:
Mành liễu xuân chỉ lục
Anh nắng sớm tơ vàng
Thoi oanh gió đẩy nhịp nhàng
Dệt thành bức gấm dịu dàng hương thơ.
Hai tác giả đặt tên cho Hoa là “Tứ Xuân”.
Lão khen:
- Tứ Xuân như thế thật là xuân mà cũng thật tình tứ.
Mộng Liễu vỗ tay reo:
- Hai chị được Lão vườn khen đầu năm, chắc năm nay gặp nhiều may mắn.
Hương và Ngọc đồng thanh:
- Chị Mộng Liễu chưa chi đã phân bì. Lão vườn đã “bế mạc” cuộc khen đâu.
Lão gật đầu biểu đồng rồi cắm nhánh hoa của Mộng Liễu vào bình và nói:
- Ba cô có hẹn với nhau hay sao mà cùng dùng một thể thơ?
Tơ sương dệt cỏ
Đài sáp châm hương
Ngập ngừng trăng thẹn dáng gương
Hoa lê điểm giọt nhớ thương canh chầy.
Ỷ Hương nói: - Không hẹn mà gặp. Bài cháu và bài Thanh Ngọc, cách điệu không giống hẳn nhau, mà tình tứ cũng phảng phất. Không bằng bài chị Liễu riêng hiếm một phương phải chăng Lão Vườn?
- Mỗi người một vẻ. Hai cô là hai cành hoa cẩm nhung “bất tri sầu”. Còn Mộng Liễu là nhánh thược dược “Hàm xuân lệ”. Mai Phi và Dương Phi, Tây Thi và Trịnh Đán. Không thể bảo người này hơn hay người kia hơn. Hơn hay kém là do chủ quan của Đường Minh Hoàng và Ngô Phù Sai đó thôi.
Thanh Ngọc:
- Lão Vườn thử làm vua Đường, vua Ngô xem sao.
- Sắp cỡi hạc theo Hà Tiên Cô rồi, lại không sẵn thành sẵn nước, nên lão không muốn đem Vườn Hoa Thơ đổi lấy ngôi vàng. Vậy để lão lựa thêm đôi vận hương nữa cho vườn thơ thêm xuân sắc:
BỨC HOA THƠ
Thoi oanh tơ liễu dệt thiều quang
Thành bức hoa thơ gởi tặng chàng
Xuân mộng dẫu khi thành cựu mộng
Ngấn hương còn đọng giấc mai trang.

Mộng Liễu hỏi: -  Của ai thế?
Lão ngạc nhiên:
- Các cô chưa trao hoa cho nhau xem sao?
Ỷ Hương đáp:
- Vì lòng quý trọng Lão Vườn, đâu dám để người khác xem trước.
Chủ nhân “Bức Hoa Thơ” mỉm cười biểu đồng cùng Ỷ Hương và thầm ngỏ ý bảo lão đừng nói tên. Lão nói:
- Tác giả đã kín đáo kết biểu tự của mình ở câu khai câu thừa, và gói ghém một cách khéo léo tâm sự mình ở câu chuyển câu hiệp. Chị em chỉ ngâm thơ với tấc lòng tương liên thì biết ngay ai là tác giả.
Thanh Ngọc khẽ khẽ ngâm:
Tình xuân vương  mối xuân sầu
Lòng hoa mong giữ mãi màu thanh xuân. 
Thu Hồng từ lúc vào vườn vẫn ít cười ít nói, vì đã có gia thất phải giữ gìn hơn các cô “tay không chân rồi”. Sau khi thấy các bạn được lời “ban khen” của lão vườn cả rồi, mới nói khẽ cùng lão:
- Chị em đều đem hoa xuân đến tặng Vườn, riêng Hồng lại đem hoa “Mùa Thu” đến. Tình thì hợp mà cảnh không hợp. Lòng không khỏi đôi chút ngại ngùng.
Lão cười:
- Cúc là hoa mùa thu, đáng lẽ để đợi thu về sẽ nở. Nhưng cô chẳng thấy sao? Trong chợ Tết hằng năm, cúc vàng cúc tím cúc trắng…, lại có phần nhiều hơn các thứ hoa xuân. Như thế hoa “Mùa Thu” đem vào chưng nơi Vườn Thơ trong lúc xuân về cũng không phải là trái thời tiết.
Thu Hồng vui vẻ mở bó hoa cắm vào bình.
Các bạn xúm lại:
- Quả là hiu hắt gió heo may.
- Nhưng hãy lắng lòng xem kỹ:
Trăng vàng rạng ánh trời thu
Phòng thu tưởng nghĩa hà châu chạnh lòng
Vườn quê dấu cũ rêu phong
Hoa đào mấy lượt bên song mơ màng
Cúc sương mấy lượt rơi vàng
Giấc mai mấy lượt bẽ bàng mộng xuân
Xác ve ngày tháng hao dần
Tóc xanh luống những ngại ngần bóng gương
Não nùng chiều gió mai sương
Cánh hồng bay bổng tuyệt đường nước mây
Trăng thu vơi mỏi thời đây
Phòng thu vò võ năm chầy lại năm..
Ruột đâu rối mối tơ tằm
Hồi Văn dệt ánh trăng rằm đợi ai!
Trong thu vẫn có hương xuân phảng phất khiến người thưởng thức cảm thấy lòng dìu dịu chớ không não nùng.
Vừa muốn trình bày thêm đôi khóm nữa, thì chợt thấy một em gái tóc gợn sóng, áo màu hường, gương mặt như ban mai song trong đôi mắt lại rươm rướm sương móc. Lão bước ra đón hỏi thì là THU AN, cháu kêu cố thi sĩ Bích Khê bằng cậu ruột.
Thu An tặng Vườn một bó hoa hàm tiếu: 
ĐÊM NAY TRĂNG VỀ BA KHÔNG VỀ
Đêm nay trăng về ba không về!
Đêm nay trăng về con tái tê!
Ba ơi giờ ni đang làm gì?
Nước mắt tràn lòng dâng đôi mi...
Trăng về êm êm trên nhung trời
Sao trăng không cười kêu ba ơi?!
Trăng về đi ngang qua nhà ta
Sao trăng không buồn kêu ba ba.
Ngập ngừng nhìn con trăng không cười,
Trăng trải trên đầu trăng trong ngươi.
Trăng khóc trên đầu con long lanh
Hay là sương lạnh của trời xanh?
Trăng đi êm êm gieo ánh vàng,
Trăng đang nghĩ gì như miên man?
Trăng nhé, đi tìm ba giùm tôi
Cho đời thôi lạnh tái đôi môi.
Trăng đi lang thanh mọi nẻo đường
Xoa dịu cõi lòng đang nhớ thương.
Trăng cười? Sao trăng rưng rưng buồn
Thoảng tiếng thở dài trong hơi chuông!
Đêm nay trăng về trong tay mềm,
Con đứng nhìn trăng rơi êm êm.
Con ngước lên trời kêu trăng trăng..
Trăng buồn không mở hội hoa đăng!
Me buồn nhìn trăng sau vỉa hè
Con buồn ngồi bên kêu me me!
Me khóc trong lòng con rưng rưng,
Trăng nhìn yên lặng núp sau lưng.
Đêm nay trăng về ba không về!
Trăng lạnh lùng nghiêng rơi bên tê!
Trăng lạnh lùng nghiêng rơi bên tê!

Tình ngây thơ, lời ngây thơ, song đượm đà thành thật, rung cảm lòng người đọc một cách nhè nhẹ mà thấm lần thấm lần vào tận đáy sâu.
Lâu nay lão nhận được hoa thơ của các bạn trẻ bốn phương cũng khá nhiều. Có nhiều bạn cho lão xem cả tập dày đến trăm trang. Nhưng phần nhiều là nỗi lòng yêu đương trên dòng sông Tương bên bờ sông Ngân, chớ ít thấy tả lòng Xuân Thảo, ít thấy ngâm vần Lục Nga.
Lão vốn mồ côi cha mẹ từ lúc nhỏ. Cho nên luôn luôn thấy buồn vì thiếu tình ấp ủ của cao thâm:
Cảnh có núi sông nhiều thú lạ
Đời không cha mẹ ít khi vui.
Lắm lúc lão muốn tả lòng thương nhớ, nhưng bút lão không đủ sức, vì trời cao biển sâu lời đâu mà diễn đạt! Cho nên những khi gặp được một bài thơ đề cập đến ơn cao thâm là lòng lão rung động rồi mượn lời người làm lời mình…
Thằng con trai thứ hai của lão có bài thơ MÀU TRƯA đăng ở Lành Mạnh năm 1959:
Những trưa vàng trước ngõ
Đùa bóng trúc rung rinh
Hoa nắng vờn trong gió
Xao xuyến lá trời xanh.
Dưới trúc mẹ bồng con
Dịu dàng buông tiếng hát
Môi hé nở niềm son
Hương vương tình bát ngát
Tình biển sâu mắt mẹ
Thuyền lòng con ra khơi
Ánh buồm mây khẽ khẽ
Mở biếc rộng chân trời.
Mộng trôi về xứ nhạc
Thơm tho nhụy nắng vàng
Thuyền lòng con bát ngát
Không thời gian không gian…
Lão đã đọc đi đọc lại không biết mấy lần, và mỗi lần lão đọc thì giọt lệ già không thể ngăn. Năm nay đọc bài “Trăng về ba không về” của cháu Thu An, lệ già lại nhỏ một lần nữa!
Đối với quý bạn, hai bài thơ đó hay dở như sao, lão không dám biết. Riêng đối với lão đó là hai mảnh lòng, hai mảnh “xích tử chi tâm”. Lão rất yêu quý. Chúng làm rơi nước mắt lão, nhưng lại làm êm dịu và làm trẻ lại lòng cằn cõi của con người đã "biết mệnh trời”.
Mặt trời đã lên cao. Cảnh trời xuân rực rỡ.
Bạn trẻ kéo nhau ra về vừa khuất nẻo, thì xa xa lão thấy một em ngập ngừng nửa muốn lui nửa muốn tới. Lão đến mời vào vườn, thì là HÀN LỆ THU mà lão đã gặp trong bệnh viện Quy Hòa mấy năm về trước. Lão chỉ gặp qua trong giới người đau thương, nên lão bị cảnh đau thương tập thể làm mờ nhạt hình ảnh cá nhân. Do đó sau khi thăm bệnh viện ra về, lão quên dần em bé khôi ngô và có tài đàn hát. Mình phụ người, nhưng người không phụ mình! Nên xuân này, nhớ lão, Hàn Lệ Thu tìm đến thăm và tặng lão rất nhiều hoa thơ cùng rất nhiều tâm sự.
Ấp niềm tâm sự vào lòng và trải đôi nhánh hoa thơ ra Vườn để cho Xuân thêm sắc.
Lâm vào hoàn cảnh Hàn Lệ Thu hoàn cảnh bi đát của Hàn Mặc Tử thì thơ của Thu không thể nào vui tươi như thơ các em gặp được nhiều may mắn. Tuy thế không đến nỗi ai oán não nùng:
ĐÊM NGHE CÚ KÊU
Đêm tịch mịch chìm sâu trong bóng tối,
Dãy thông dài tấu khúc nhạc ai bi!
Đôi mắt con ươn ướt lệ tràn mi
Và từng tiếng thở dài theo tiếng cú
Vang thanh âm lên một vì tinh tú
Như cầu mong tia ánh sáng vô ngần
Rưới vào con và thấm cả thế nhân
Cho tiếng cú không còn trong đêm tối…
Maria! Con đang giờ hấp hối,
Thuyền lòng con vùi dập lớn phong ba.
Giọng cầu xin trong nước mắt chan hòa:
- Mẹ ơi! Mẹ! Đem con vào ánh sáng
Cho ngày mai..., một ngày xuân quang đảng
Xóa nhòa muôn hình ảnh của đêm thâu..
Đọt dừa cao nắng nhuộm ướt tươi màu,
Không một chiếc lá vàng rơi tiếng gió.
Theo gương Hàn Mặc Tử, Lệ Thu nương vào Đạo để mà sống trọn cuộc đời thế gian, và lấy thơ làm bạn lòng trong nơi mà Xuân chỉ ghé qua trong khoảng khắc.
Những đóa hoa khác của Lệ Thu, sắc hương cũng tương tự như bài "Đêm nghe cú kêu”, nghĩa là giản dị và chân thành, buồn thương nhưng không oán trách. Trong nỗi buồn mảnh nhưng tươi.
Hàn Lệ Thu về rồi, lòng lão như:
Đột dừa cao nắng nhuộm ướt tươi màu
Không một chiếc lá vàng rơi tiếng gió.
2.
Mặt trời vừa mọc, Vườn Hoa Thơ vừa mở cửa, thì nhà túc nho NGUYÊN DẬT từ Bình Khê (Bình Định) chống gậy đầu cưu, ôm những giỏ hoa thơ ra để lựa, cụ vừa cười vừa nói:
Ở đời có lắm việc không nên làm mà ai cũng ưng làm. Đó là: Đặt câu đối - Làm mai dong - Lãnh nợ giùm - Thiến dái chó - Và cầm chầu. Năm việc ấy cổ nhân gọi là “Ngũ bất trí”.
Ca dao lại có câu:
Ở đời có bốn cái ngu
Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu

Vốn biết cụ là một nhà nho uyên thân, trong lời nói thường ngụ ý khuyên răn, lão cũng kính chào và đáp:
- Đã biết rằng “bất trí” mà nhiều khi phải làm. Ví như việc giữ Vườn Hoa Thơ cho Lành Mạnh.
Cụ cười hả hả: - Phải đó. Cổ nhân thường nói “Tự kỷ văn chương, tha nhân thê thiếp” mà Thi Nại Thị diễn nôm rằng:
Lạ gì thế thái nhân tình,
Vợ người thì đẹp văn mình thì hay.
Đụng đến văn hóa của người, mích lòng thật, chẳng khác việc cầm chầu.
- Cầm chầu sao lại mích lòng, hỏi cụ?
- Xưa kia không có hát trường. Người nào có việc mới rước bạn hát về hát. Tiền công không định trước. Hễ hát hay thì thưởng nhiều hát dở thì thưởng ít. Thưởng nhiều hay ít là do người cầm chầu. Người cầm chầu cần phải thấm nhuần đạo trung dung. Vì thưởng nhiều chủ nhà nóng mặt, còn thưởng ít thì bạn hát sực mũi. Nhưng đạo Trung Dung đâu phải dễ theo. Cho nên trong 10 đám thì hết 8, 9 đám người cầm chầu bị đất loi vào đầu, không phải chủ nhà loi thì bạn hát loi. Phần nhiều, kẻ loi đất là bạn hát. Vì cũng như số đông kẻ làm văn, bạn hát ít khi biết rằng mình hát dở, lại hay “sực điệu”. Cho nên người khôn thường tránh ngồi phản ngựa giữa, cầu chầu. Tôi có bài thơ cầm chầu rằng:
Ông cha thuở trước tội gì đâu.
Con cháu sanh ra muốn đánh chầu!
Nghỉnh mặt lì lì ngồi phản ngựa,
Hươi tay lịa lịa đập da trâu!
Múa hay nhảy lẹ ùm ba tiếng,
Ngọt giọng ngon hơi ném một xâu,
Bóp lắm vải nhiều sao cũng sực,
Chủ nhà, bạn hát: đất loi đầu.
Bài thơ có giọng hài hước, rất ý vị.
Khách chủ đương vỗ về cười với nhau, thì một thi hữu trong Liên Thành Thi Xã Phan Thiết là ĐỨC HUY bước vào.
Nghe nói chuyện “Cầm chầu”, Đức Huy liền ngâm:
Ai xa bạn cũ mà rầu,
Em xa bạn cũ xây chầu hát chơi.
Lão Vườn cười:
- Như thế khỏi vấp phải nọc bất trí. Vì mình cầm chầu cho mình.
ĐỨC HUY cười rồi ngâm tiếp:
Thương mến chi mà phải ỷ ôi
Xa chàng chỉ thấy sướng vui thôi.
Câu thơ biệt cảm đời ngâm mặc,
Tiếng trống ly ca thiếp điểm rồi.
Ngang dọc phỉ tình thuyền cách bến,
Am no thỏa dạ gái riêng nồi.
Dây tơ bà nguyệt đà buông mối
Bữa tiệc phân kỳ cũng hết xôi.
Cụ NGUYỄN DẬT vỗ đùi khen:
- Bài thơ đã thích được đầu đề khá lắc léo, mà còn dùng năm vận “Ôi thôi rồi nồi xôi” cũng khá gay go! Già xin phục đó.
Lão vườn vừa muốn chen thêm lời phê thì thấy bóng người ngoài ngỏ, vội chạy ra đón thì là người quen: Bà VI TRANG. Vào vườn, nghe xong bài thơ của ĐỨC HUY đọc lại, bà Vi Trang nói:
- Đó là một bài thơ trúng tuyển trong cuộc thi thơ do Liên Thành Thi Xã Phan Thiết mở hồi Tiền Chiến. đề ra vận hạn. Có trên 80 bài dự thi, mà bài của Đức Huy được đậu đầu hạng. 
Đức Huy khiêm tốn nói: - Trong nước mù thì anh chột mắt là vua.
Lão cười:
- Trong nước gì cũng vậy, được làm vua là sướng nhất.
Đức Huy tiếp:
- Có nhiều bài không được toàn bích. Như bài của ông bạn Liên Hoa, bốn câu sau thật hay:
Chẳng tiếc làm chi duyên bể bát,
Thà vui mà chịu số riêng nồi.
Bởi vì lắm chuyện gây nên nỗi
Đâu phải mình thêm bánh tránh xôi.

Trước đây lão vườn có gặp một hưu quan, người Thừa Thiên là cụ THỨC NHƯ. Cụ có đọc cho lão vườn nghe bài của cụ cũng thích câu ca dao ấy và cũng dùng 5 vận “ôi, thôi...", ấy, rằng:
Tình nghĩa chi mà phải “hỡi ôi”
Không thương nhau đặng nữa thì thôi.
Rơi châu mặt họ buồn duyên hẩm,
Đập trống mừng ta rảnh nở rồi.
Đó đã ở ra lành một xó,
Đây thà ăn trước phải xem nồi.
Một mình một chiếu từ nay khỏe,
Khỏi đấm mà hơn được oản xôi.
Bà Vi Trang hỏi: - Bài của Đức Huy và bài của Thức Như, bài nào hơn?
Cụ Nguyễn Dật ngó Lão Vườn. Lão cười, đáp: -Thưa bà, phê bình thơ cũng như cầm chầu, cổ nhân dạy nên cho thông qua.
Ai nấy đều cười. Rồi mỗi người đọc cho nghe những bài thơ của cổ nhân thích những câu ca dao tục ngữ, và dùng những vận, tục gọi là “vận có sẵn”, “vận đúc”. Như “xô, cô, vô, ô, rô”, “không chồng trông bông lông”…, rất thích thú. Như thích câu:
Đôi ta chẳng mốt thời mai
Chẳng trong tháng chạp cũng ngoài tháng giêng,

Dùng vận “Xô cô vô ô rô”:
Đây đó trăng già khéo giục xô,
Không chầy thời kíp vội chi cô?
Ngày kia bữa nọ duyên dù lảng,
Đông cuối xuân đầu lễ rước vô.
Có thuở chim cưu nằm ổ thước,
Lo chi sông Hán bắc cầu ô.
Góc thành lẩn thẩn chờ ta vậy,
Cái giống chim thuần giống nhảy rô.
Tác giả bài này là cụ ĐỖ MINH TÂM, người tỉnh Vĩnh Long, đồng thời cùng các cụ Nguyễn Đình Chiểu, Tôn Thọ Tường.
Thích cho ra đầu đề đã là một việc khó, mà còn phải theo những vần oái ăm như thế, thì phải một tay lão luyện trong trường thơ cử nghiệp, mới có thể hươi bút thành văn.
Để mua vui, nhiều khi cổ nhân dùng một câu tục ngữ hay thành ngữ làm đề, rồi lấy đề làm vận, thách nhau trổ tài. Những câu thường được dùng là “Không chồng trông bông lông”, “Lò mò lo cho trò”, “Thằng ăn măng nhăn răng”.,. Trong các đề ấy, đề “Không chồng...” được nhiều bài truyền tụng. Như bài của cụ Tam Nguyên Yên Đỗ NGUYỄN KHUYẾN:
Bực gì bằng gái chực phòng không
Tơ tưởng ai chung một tấm chồng.
Trên gác rồng mây ngao ngán nỗi,
Ven trời cá nước ngẩn ngơ trông.
Mua vui lắm lúc cười cười gượng,
Bán dại nhiều phen nói nói bông.
Mới biết có chồng như có cánh,
Giang san gánh vác nhẹ dường lông.
Bài của cụ Vân Sơn:
Lẽ thường ắt có cớ sao không?
Trong đục mơ màng…, khổ nỗi chồng!
Gần ước tiện nơi xa cũng ước,
Sớm trông gặp hội muộn càng trông.
Thẹn thùng hiên nguyệt người chào bóng,
Mong mỏi vườn xuân khách bẻ bông.
Ướm hỏi thế tình hay chẳng nhẽ?
Trông bông lông vậy nhớ bông lông.
Thời Tiền Chiến cụ Ngô Văn Nhượng ở Khánh Hòa có đọc cho Lão Vườn nghe một bài mà cụ bảo rằng của nhà chí sĩ Trần Quý Cáp làm lúc ngồi Huấn Đạo ở Khánh Hòa:
Sứ điệp tin ong những vắng không.
Biết ai chưa vợ biết ai chồng!
Quả mai ba bảy ôm lòng đợi,
Bến nước mười hai mỏi mặt trông.
Đối nguyệt luống mong người ấp nguyệt,
Hái bông chợt tưởng khách tìm bông.
Một mai duyên bén trang quân tử,
Gan ruột đem bày hết mảy lông.
Lão không tin bài đó của Trần Chí Sĩ, vì chí sĩ không hay làm thơ Quốc âm. Thảng hoặc có làm chăng nữa cũng không làm những bài chỉ để mua vui, vì chí bình sinh dồn cả vào việc nước việc dân, những gì không lợi ích cho Cách Mạng đều không để ý đến.
Nhưng các thi hữu hiện diện không ai biết rõ tác giả là ai, nên đành để vào chỗ “tồn nghi” vậy.
Lão lại đọc cho các bạn nghe bài của cụ Tam Xuyên TÔN THẤT MỸ, đỗ cử nhân lúc 18 tuổi, làm quan đến chức Tá lý Bộ Lễ, về trí sĩ năm Thành Thái nguyên niên (1888):
Chị em có cả một mình không!
Bán mấy nào ai biết giá chồng.
Chín lớp trồi đầu trời cũng muốn.
Bốn mùa mỏi mắt đá còn trông.
Quá rằm trăng dễ tròn hin bóng,
Lỡ lứa cây đà trắng toát bông!
Ong huyện Ba La đầu gặp gỡ,
Tương tư một gánh nhẹ bường lông.
Bà Vi Trang hỏi:
- “Chín lớp trồi đầu trời cũng muốn” là chữ PHU. “Đá còn trông” là mượn tích “Vọng Phu thạch”. Còn “Ông huyện Ba La” là điển gì?
Lão đáp:
- Chớ bà không nghe người ta thường nói “Xã Bông Lông, huyện Ba La” đó sao?
Cụ NGUYỄN DẬT cười:
- Gặp “bá láp” vậy mà cũng nhẹ được tương tư thì lòng muốn chồng thật đã thái thậm.
Bà Vi Trang lại hỏi:
- Lối “dùng thơ thích nghĩa một câu thơ, một câu ca dao hay một câu tục ngữ, thành ngữ…” gọi là lối gì?  Và những bài trên đã có thể gọi là tuyệt bút chưa?
Cụ Nguyễn Dật mỉm cười. Bác Đức Huy đáp:
- Như thế là tuyệt rồi chứ còn gì nữa. Còn lối thơ đó là thơ thích nghĩa.
Lão tiếp:
- Vâng chính đó là thơ thích nghĩa. Cổ nhân gọi là lối “phú đắc”. Đó là một lối thơ chơi. Các cụ ngày xưa thường dùng để thử tài nhau cho vui trong lúc trà dư tửu hậu. Những bài trên, rằng hay thì thật là hay. Song bảo tuyệt thì vẫn chưa tuyệt. Có thể gọi là tuyệt, những câu như câu thích thực câu ca dao “Thân em như cứt trôi sông, Thân anh như chó ngồi trông bên cầu”, sau đây:
Mười hai bến nước lênh bênh gớm,
Tiền rưỡi bên sông chỏ hỏ ngồi.
Trong câu đề có những điểm cần phải lột cho được, là “em, cứt, sông, anh, chó, cầu”, Chỉ dùng 14 chữ mà thích cho được hết ý nghĩa câu ca dao, như câu trên thì thật “quán tuyệt thiên cổ”. “Trong 14 chữ, tác giả khéo gói ghém "em và sông" vào “mười hai bến nước”, “anh và chó” vào “tiền rưỡi” (Ngồi chỏ hỏ như chó tiền rưỡi). Tuy vậy vẫn có người đánh rằng:
- Chưa được vì bị mạ đề và còn thiếu ý. Phép làm thơ tối kỵ dùng chữ trong đề ở câu trạng. Ở đây tác giả phạm đến 3 chữ là “sông, bên” và "ngồi”. Còn thiếu ý là vì “bên sông chỏ hỏ ngồi”, thì cầu ở đâu? Không lẽ sông nào cũng có cầu nên chỉ nói sông là đủ?
Đức Huy cười lớn:
- Lão Vườn tự mâu thuẫn với mình rồi! Đã gọi là Tuyệt là theo ý của Lão. “Văn chương tự cổ vô bằng cứ” kia mà. Huống nữa từ trước đến giờ đã có một câu nào thích câu ca dao  “Trôi sông” mà hay bằng, chớ đừng nói hơn, câu “Mười hai bến nước… Tiền rưỡi bên sông...” kia chăng? Bởi thế lão mới dám cả gan bảo rằng câu ấy “quán tuyệt thiên cổ”. Đó là đứng trên mặt tương đối mà phê.
Đức Huy đứng dậy:
- Lão già ngụy biện. Không khéo sớm rụng hết răng đó.
Các thi hữu đều cười rồ, và cùng đứng dậy cáo biệt.
Đưa khách ra đến ngõ, vừa trở vào Lão chợt thấy mấy ông bạn thanh niên. Té ra mấy ông bạn đến chơi từ lâu, nhưng thấy lão mắc khách, nên rảo bước ra xem hoa. Tuy bước dạo cùng hoa, mà tai vẫn để nơi câu chuyện thơ trong nhà khách. Vì vậy, thấy lão, các bạn đều hỏi:
- Thưa Bác, những bài thi chúng cháu được nghe khi nãy đó có phải là THƠ đúng với nghĩa của nó chăng? Hay chỉ là những bài vận văn của những tay thợ khéo?
Nghe hỏi, tự nhiên tay lão đưa lên đầu vuốt mái tóc, và tự nhiên lão liên tưởng đến chiếc đầu trơn tru của anh chàng hai vợ. Lão bật cười. Mấy ông bạn hỏi:
- Bác cười gì thế?
-  Cười “sự không tóc” của anh chàng hai vợ.
- Chúng cháu không lãnh hội được thâm ý của Bác.
- Nguyên xưa kia có một anh chàng tuổi đã sồn sồn, nghĩa là mái tóc vừa điểm hoa mai. Chàng có hai bà vợ. Một bà tuổi đã sồn sồn như anh chàng. Một bà nữa còn đương măng tơ. Mỗi bà ở riêng mỗi nơi. Anh chàng chia đôi duyên nợ, chia một cách công bình, nên được lòng cả hai. Khi anh chàng về cùng bà vợ sồn sồn thì bà này sợ chồng trẻ quá, mới lấy cớ nhổ tóc ngứa cho chồng, măn mo nhổ hết những sợi tóc xanh. Đến khi tới cùng bà vợ măng tơ, thì bà này lại sợ chồng già quá, lấy cớ nhổ tóc sâu, hì hục nhổ bớt những sợi tóc bạc. Bà này nhổ, bà kia nhổ. Nay nhổ rồi mai lại nhổ nữa… Nhổ nẹt, anh chàng không còn một sợi tóc để trần thiết cho chiếc đầu đa tình!
- Tôi thích cả thơ “Phú đắc”, tôi lại rất yêu thơ thuần túy. Nên thân với các bậc phụ lão, mà cũng rất thân với các bạn thanh niên. Không khéo tôi sẽ lâm vào cảnh anh chàng hai vợ kia vậy.
- Chúng cháu hiểu ý Bác rồi. Nhưng xin Bác cho biết: Không phải thơ thuần túy, những bài như các bài “thi mua vui” kia có nên bảo tồn chăng?
- Bổn phận người giữ vườn là phải giữ tất cả các loại hoa vì:
Hoa nào lại không hương sắc,
Một cánh hoa tươi một điểm tình.
Nhưng một thi bá đời Thanh là VIÊN TỬ TÀI nói rằng:
- Làm thơ Phú Đắc là “lấy nước rửa nước”, và khuyên đệ tử không nên tập. Thi bá lại còn khuyên không nên họa vận. Vì tình sanh văn, văn sanh vận. Ép mình theo vận là đặt cày trước trâu.
Lão cho lời thi bá Viên Tử Tài là phải, nên lão theo. Tuy thế lão vẫn hoan nghênh những người khéo tay nặn nên những bài “phú đắc” thích nghĩa được đề bài một cách đầy đủ và không lúng túng, như những bài các bạn vừa nghe.
Các bạn thanh niên đều cười:
- Như thế Bác không có lập trường rõ rệt!
Lão vui vẻ đáp:
- Có lắm chứ. Lập trường của Lão là không cố chấp. Và Lão chủ trương “Đường mình mình đi, đường người người đi. Nhưng phải biết người và mình. Và đối với mình phải nghiêm, còn đối với người phải khoan”. Cho nên khi thưởng thức thơ văn của người, lão đứng trên lập trường của người mà thưởng thức. Như thế mới thông cảm cùng tác giả được dễ dàng. Từ năm 1932 đến 1941, các nhà “Thơ Mới” và “Thơ Cũ” công kích nhau, lăng mạ nhau, chỉ vì bên nào cũng cứ cho mình là phải mà không chịu nhận những lẽ phải của đối phương.
Các bạn còn muốn thảo luận thêm mới vỡ lẽ. Song thấy mặt trời đã đúng ngọ, bèn cáo từ và hẹn khi khác sẽ tiếp tục vấn đề.
Các bạn vừa trở bước thì cụ NGUYỄN DẬT lại trở vào. Cụ bỏ quên chiếc dù, trở vào lấy. Nhân nghe lão nói chuyện, cụ cười hà hà và kéo tai lão nói nhỏ:
- Cẩn thận đó. Mái tóc không được dày, trán lại sói đã nhiều quá… Chớ nên “cầm chầu” vì đất vườn nhiều lắm, nhiều lắm.
- Xin vâng, xin vâng. Nhưng…
- Nhưng cái gì?
- Đã biết rằng “kẻ giỏi Kinh Dịch không hay giảng Kinh Dịch”, và “Kẻ giỏi thơ không hay bàn thơ”. Nhưng mình chưa giỏi…
- Chưa giỏi thì học thì học cho giỏi. Học cho giỏi để…
- Để làm gì hỡi cụ?
- Để tôi đi về kẻo nắng.
3.
Ông giáo NGUYỄN VĂN XUNG là một tay trồng hoa thơ lành nghề. Nhưng ít để cho ai trông thấy sản phẩm của mình nên ít người biết. Hôm vừa rồi tình cờ lão đến nhà thấy được mấy chậu, hương dịu sắc tươi, vun trồng khéo. Lão thích nhất khóm hoa.
DUYÊN XUÂN
Mùa thắm dâng triều, nao ý gió
Tóc thề ươm phấn cánh hoa mai
Nghe trong im vắng duyên mùa nở
Ai hẹn ai mà sợ nhạt phai?
Nhớ nhung xưa đã cạn rồi,
Khuya nay tình chớm, mấy chồi thanh tân.
Tương tư đôi hướng chuyển vần
Lòng trai quạnh quẽ mây Tần dáng xưa.
Duyên lành, hoa cánh đơm thưa,
Đất se ý thắm lòng chưa ngọt ngào.
Mai đây tình, hội hoa đào,
Tin yêu lòng chẳng kịp rào bốn phương.
Sầu đời rót nặng mái sương,
Đắng cay độ chín, mùa hương giao hòa.
Chiều về, màu ấm sinh ca,
Gió chênh cánh nắng, đài hoa dịu cành.
Anh đào chớm nụ đan thanh,
Lá vàng thu ấy, tình xanh xuân này.
Nắng về, cành lá say say,
Duyên xuân mới bén, tình cây ngại ngùng.
Du xuân chân bước chập chùng,
Cẩm châu duyên đó, tao phùng hội đây.
Quan hà chén tiễn hương bay,
Giang hồ thói cũ mơ say viễn trình.
Quê hương tình ngọt đất lành,
Mến thương hồ dễ xoay tình viễn du.
Đủ thanh sắc, vị. Thật là một khóm danh hoa.
Trong nhà ông giáo lại có nhiều khóm hoa trỗ thời tiền chiến mà khói lửa đã che khuất sắc hương. Như hoa:
GIAO MÙA của TRẦN HUYỀN TRÂN
Gió đã  khua lau dưới gậm cầu
Người về xóm lạnh bước thôi mau
Ngõ hoang đã nở dăm màu bướm
Đây lúc đôi mùa đưa tiễn nhau.
Đây lúc hồn hoa trở gót về
Thả đàn chim mộng xuống sương khuya.
Tôi nghe xa một làn mây trắng
Rời bóng kinh thành lững thững đi.
Tôi nhớ làm sao mấy bữa nay.
Khi mùa sum hợp vẳng đâu đây,
Dăm chàng nghệ sĩ như mây ấy
Lòng ghé phương nào rượu có say.
Tôi biết trong sương có những người
Từng quên mùa rét hẹn hoa mai
Để lòng lạc mãi giời tư tưởng,
Sực tỉnh mơ màng tóc đã phai.
Bài thơ quý giá: sắc thanh thanh, hương lạnh lạnh, có cốt cách của hoa cúc và tinh thần của hoa mai.
Người trồng hoa không biết hiện ở phương nào? Có còn như làn mây trắng lững thững đi trong sương “để lòng lạc mãi giời tư tưởng”, hay đã theo hồn hoa trở gót về nơi hư vô “Thả đàn chim mộng xuống sương khuya” rồi?
Thấy hoa chạnh nhớ người! Người lão đã gặp một lần ở Hà Nội năm 1942! Phút đà mười tám năm trời! Lòng già thê nhiên cảm khái! (1)
Lão xin hai khóm hoa đem về.
Vừa đến vườn thì đã thấy hai thiếu phụ đứng đợi: Liên Hương và Tuyết Nga, hai bạn quen thân của Vườn Hoa Thơ.
Hai nàng đến để tặng hoa và xem hoa.
Sau khi xem xong hai khóm của lão đem về, hai nàng trao cho lão những nhánh hoa tự mình trồng và tự mình cắt lấy.
Đây nhánh hoa đẹp nhất trong bó hoa của Liên Hương:
Áo bông ấm mộng ải ngoài,
Đèn khuya soi sáng dạ người phòng hương.

Và đây nhánh hoa tươi nhất của TUYẾT NGA:
Sóng vàng lấp lánh trăng khuya,
Gió sông đã lạnh ai về mà mong.
Đó là những cánh hoa tâm sự, một nhớ, một mong. Một bên không nói nhớ mà thật nhớ. Một bên bảo không mong nữa mà vẫn cứ mong. Khéo gói ghém vậy.
Còn đương trò chuyện thì ngõ ngoài có bóng khách vô. Khách vừa đi vừa ngâm:
Thi nhân lão khứ oanh oanh tại,
Công tử quy lai yến yến mang
Nghĩa là: Thi nhân đã già rồi mà con chim oanh mãi còn
Công tử đã đi về mà con chim én vẫn nhớ.
Biết rằng khách thấy có giai nhân trong vườn, nên mượn lời người xưa mà trêu cợt, lão vội ra đón và cười đáp:
Tịch dương vô hạn hảo
Chỉ trích cận hoàng hôn
Nghĩa là: Bóng chiều đẹp vô cùng/ Chỉ tiếc đã sắp chạng vạng.
Khách cả cười rồi cùng lão vào vườn. Liên Hương và Tuyết Nga thấy người lạ bèn tránh ra nơi có nhiều hoa lá làm rèm che. Khách trông thấy mỉm cười:
- Ngày xưa Tây Thi và Trịnh Đán thấy quân nước Việt vào vườn Ngự nước Ngô, vội vàng tránh núp dưới hoa. Đó là hai nàng phi sợ giặc. Nay nữ khách của lão giữ vườn thấy tôi vào cũng lánh mặt dưới hoa, ý hẳn cũng ngờ tôi là giặc?
Lão đáp:
- Phải chi bác và tôi đều trẻ trung thì cảnh vườn này trở thành bức tranh của TỐ NHƯ tiên sinh đã phác họa:
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh nhành dao.
Vương Quan quen mặt ra chào,
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.
Ông khách cười hả hả:
- Thế là mỹ nhân sợ già chớ không phải sợ giặc.
Nhận biết ông khách là người phong nhã, hai nàng bước ra thi lễ. Sau mấy lời giới thiệu cổ điển, lão trải chiếu dưới bóng cây mận mời ba vị khách ngồi uống trà và bàn luận Văn chương. Lão đem những bó hoa mới nhận được ra cho ông khách xem. Khách gật đầu khen đẹp, đoạn nói:
- Cổ nhân ưa dùng điển tích, kim nhân tự mình xuất tân ý. Cổ nhân thường nói những tình ý phổ thông. Kim nhân ưng tìm những gì độc đáo. Nói đến NGUYỄN DU tôi liên tưởng đến con ông mật, quyển Đoạn trường tân thanh là một tổ mật ong. Bao nhiêu những mật trong các đóa hoa Hán Đường Tống… của Trung Quốc đều bị hút vào đó cả.
Liên Hương nói:
- Cổ nhân thật cường ký quá sức! Bao nhiêu điển bao nhiêu văn thơ đọc rồi là nhớ tất cả! Chúng cháu thì chịu, cho đến thơ mình làm ra mà lắm lúc cũng quên đầu quên đuôi.
Ông khách đáp:
- Đó chẳng qua do tập quán cả. Nhưng biết nhiều điển mà không dùng điển mới là giỏi.
Lão tiếp:
- Cũng như người có thế mà không ỷ thế. Nhưng nhiều khi không cố ý dùng điển, mà điển tự nhiên đến. Cờ vào tay không phất cũng uổng, nên không nỡ mở ký ức mà xếp trở vào vậy.
TUYẾT NGA hỏi: - Nghe nói nhiều khi muốn diễn tả một ý mà cổ nhân dùng đến hai điển một lần. Quả có như vậy chăng?
Ông Khách đáp: -  Thường lắm. Ví dụ trong Kiều:
- Thâm nghiêm kín cổng cao tường,
Gạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh
- Dù khi lá thắm chỉ hồng.
Nên chăng thời cũng tại lòng mẹ cha.

“Lá thắm” là tích Vu Hựu vớt được chiếc lá hồng có bài thơ do người trong cung thả trên dòng Ngự Câu. “Chim Xanh” là tích Tây Vương Mẫu sai chim xanh báo tin cho vua Hán Vũ Đế. “Chỉ Hồng” là tích Vi Cố gặp ông lão cầm chỉ hồng ở dưới trăng.
Lão thêm:
- Đó là những điển tích phổ biến, ai nấy cũng đều biết. Nhiều khi Tố Như tiên sinh ghép ý hai câu thơ cổ của hai tác giả lại làm thành một câu. Như:
Thuyền tình vừa ghé đến nơi
Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ.
Cụ Trần Trọng Kim chỉ lấy câu:
Nhất phiến tình chân tân đáo ngạn
Bình trầm ba chiết dĩ đa thời.
Nghĩa là: Hôm nay thuyền tình mới đến bến/ Bình chìm hoa rụng đã từ lâu.
Mà giải thích cho cả câu lục và câu bát, nên bảo rằng chép “trâm gãy” là sai, phải để là “hoa gãy” mới đúng.
Theo ý lão thì để “trâm gãy” là đúng. Vì câu lục thoát ý câu cổ thi trên đó, còn câu bát thì xuất tự mấy câu này:
Thạch thượng ma ngọc trâm,
Ngọc trâm vị thành trung ương chiết
Tỉnh thượng vãn ngân bình,
Ngân bình vị thượng ty thằng tuyệt (2)
Bốn câu cổ phong này nghĩa là:
Mài trâm ngọc trên đá,
Trâm ngọc chưa thành nửa chừng gãy.
Kéo bình bạc trên giếng,
Bình bạc chửa lên giây tơ đứt.
Liên Hương nói:
- Làm thơ mắc mỏ như thế chỉ để cho các bậc hay chữ xem, chớ như chị em chúng tôi thì chịu đứt.
TUYẾT NGA cười:
- Cổ nhân có ngờ đâu con cháu lại dốt như bọn mình.
Lão nói:
- Cổ nhân không cố ý làm thơ mắc mỏ như phái bí hiểm của thế kỷ này. Đó chỉ là sự hào phóng của kẻ sẵn tiền đó thôi. Nhưng có người dùng điển mà không tự biết rằng mình dùng điển thì hai chị nghĩ sao?
TUYẾT NGA cười:
- Thì chúng tôi nghĩ rằng là chuyện vô lý. Bởi vì có biết điển mới dùng được điển. Mà đã dùng điển thì lẽ gì lại không biết điển của mình dùng.
Lão đáp:
- Trên đời có những chuyện vô lý như thế. Và những chuyện vô lý như thế, nếu các chị đọc những sách thi thoại của cổ nhân sẽ thấy rất nhiều. Nhưng tôi không nói ở đâu cho mất công chứng minh, tôi nói ngay việc ở trước mắt. Chẳng hạn như hai chị.
LIÊN HƯƠNG cười ngất:
- Chúng tôi dùng điển?
Lão thản nhiên:
- Vâng, dùng điển mà không biết. Tôi biết thế vì tôi đã nhận thấy tâm sự của hai chị trong hai nhánh hoa thơ của hai chị vừa tặng cho vườn.
TUYẾT NGA cướp lời:
- Đó là xúc cảnh mà làm. Cảnh ấy là cảnh trước mắt chớ đâu phải cảnh vay mượn mà Lão Vườn bảo rằng dùng điển.
Liên Hương tiếp:
- Chính thế. Chuyện áo bông gởi ra chiến khu cho người vị hôn phu của tôi thời chiến tranh vừa qua là chuyện có thật.
Lão cười:
- Nãy giờ lão có nói rằng các chị bịa ở mô. Lão chỉ nói rằng các chị dùng điển mà không biết đó thôi. Người đời nay khen người làm thơ là khen những tình hay ý mới trong thơ, chớ không khen sự học rộng, sự dùng điển thoát. Chớ nếu còn lấy sự dụng điển khéo làm mức cho tài bộ của tác giả như ngày xưa, thì có người sẽ khen các chị học rộng và chú rằng:
- Câu:
Áo bông ấm mộng ải ngoài
Đèn khuya soi sáng dạ người phòng hương,
Là thoát ý câu: “Miên đáp nhứ ngoại biên, u thất đăng thanh, bất thị vân sơn kỷ vạn lý” nghĩa là: “ngoài biên thùy sợi nào có phải cách mấy tầng núi mây”. (Truyện Tây Sương)
- Còn câu:
Sóng vàng lấp lánh trăng khuya.
Gió sông đã lạnh ai về mà mong.
Chịu ảnh hưởng câu “nguyệt mục mục dĩ kim ba” ý nói mặt trăng chiếu xuống nước thành sóng vàng. (Hán thư)
Hai nàng ngắt lời:
- Giải thích thơ kiểu Lão Vườn thì thật nguy cho tác giả!
Ông khách nãy giờ ngồi lặng thinh, chân nhịp nhịp tay măn mo hàm râu, vừa nghe nữ sỹ trách lão vườn, bèn nói:
- Lỗi ấy tại tôi. Vì khi nãy tôi nói rằng “cổ nhân thích dụng điển tích. Kim nhân tự xuất tân ý” nên lão vườn muốn nhắc khéo lão rằng: "Cái mình cho là mới chưa chắc đã là mới. Mình gọi là mới vì mới thấy lần đầu, chớ biết đâu chỗ mình ngồi đây, trước mình đã có người ngồi rồi vậy”.
Lão cười, không đáp và rót bốn chung trà nóng, mời khách nhắp lại thi vị của mấy bó hoa thơ.
Chú thích:
(1) Viết bài này năm 1960
(2) Bài này Tương Phố nữ sĩ dịch trọn bài (và đã đăng trên Lành Mạnh số 44), tác giả là Cố Huống nhưng nữ sĩ đã để lầm là của Bạch Cư Dị.
16- Tiếp khách hoa thơ [2]
4. 

Lão đương cùng bác LA DUNG dạo vườn xem những khóm hoa thu trổ nụ, thì TUYẾT NGA đón hỏi: - Để khỏi phụ lòng cổ nhân, xin hãy cho biết làm thế nào biết được rằng có thi cốt hay không thi cốt?
Theo ý Hứa Hồn, lão vườn nhủ rằng:
Ngâm thơ cốt tợ thành tiên
Không thơ trong cốt chớ phiền ngâm thơ 
(Do câu: Ngậm thi hảo tợ thành tiên cốt/ Cốt lý vô thi mạc lãng ngâm)
LA DUNG cười: - Có khó khăn gì. Hễ người có thi cốt thì không nghĩ tục, không nói tục, không làm tục.
Lão tiếp:
- Đúng vậy nên cổ thi có câu:
Bất tục nãi tiên cốt
Đa tình thi phật tâm.
Nhưng muốn trở thành một thi nhân có tác phẩm bất hủ, thì chỉ có thi cốt vẫn chưa đủ, mà còn cần phải có thi tài, thì là có giống tốt mà không có đất thích nghi. Có thi cốt thi tài mà không thi học, thì là có giống tốt đất tốt mà thiếu phân nước bón tưới. Bởi vậy có nhiều người có thi cốt thường gọi là người có tâm hồn mà suốt đời không có thơ truyền tụng. Đó là vì thiếu thi tài và thi học. Lại có lắm người lúc trẻ có nhiều giai phẩm, nhưng tinh ba chí phát lộ trong nhất thời; rồi ngày tháng trôi qua, giá trị văn chương hoặc nằm cầm chừng lại đó, hoặc đi xuống lần lần. Đó là vì vậy mà không chịu học vậy.
TUYẾT NGA: - Có thi cốt thi học mà không thi tài thì sao?
- Công học tập sẽ tạo nên tài. Sanh ra có tài đó là nhờ thiên phận. Người đời gọi những người có thiên phận là những bậc thiên tài. Còn những người nhờ công phu học tập mà trở nên tài, là những bậc thần hóa. Thơ của những bậc thiên tài thường thanh thoát cao siêu. Thơ của các bậc thần hóa thường uẩn tạ thâm viễn…
- Còn có thi tài thi học mà không thi cốt thì sao?
LA DUNG: - Chữ ART là nghệ thuật, sanh ra chữ ARTISTE là nghệ sĩ, và chữ ARTISAN là thủ công. Những người có thi tài và thi học mà không thi cốt, thì trở nên những nhà thủ công, làng thơ gọi là "thi công" tức là những ông "Thợ Thơ".
Lão biểu đồng và tiếp:
- Những ông thợ khéo gọi là lương công, những ông thợ khéo mà nổi danh gọi là danh công. Làm nên được một lương công, một danh công cũng là một việc rất khó: phải tốn công phu rèn luyện lâu ngày.
TUYẾT NGA: - Nói tóm lại. Muốn trở thành một thi nhân đúng với danh nghĩa của chữ (un vrai poète) thì phải có đủ ba yếu tố: THI CỐT, THI TÀI, THI HỌC
Lão cướp lời:
- Nếu rủi phải thiếu một, thì nên chịu thiếu thi học, còn thi cốt nhất thiết phải có..
LA DUNG: - Nếu không thi cốt thì nên nghe lời Hứa Hồn: “ Mạc lãng ngâm”. Vì làm một thi công dù có nổi danh đi nữa cũng chả “thú vị” gì. Để thì giờ làm thơ mà làm việc khác bổ ích hơn.
Lão cười: - Ý kiến của bác giống ý kiến Viên Tử Tài, trong Tùy Viên Thi Thoại: “Ông Cao Dao làm lời ca, ông Ích Tắc không nghe có lời ca; ông Châu, ông Thiệu làm thi, ông Thái Công không nghe có thi; thầy Tử Hạ, thầy Tử Cống nghe thường nói thi, thầy Nhan thầy Mãn không nghe nói thi… Như thế, người đời gắng gổ làm thi mà làm chi vậy?. Viên nói ra lời đó là vì những người trong cốt không thi mà sính làm thi vậy.
TUYẾT NGA: - Nếu đủ cả ba yếu tố cốt, tài, học, thì có nhất thiết trở thành thi nhân chăng?
LA DUNG: - Còn cần phải tu luyện nữa. Có tu luyện mới có pháp thuật, mà tu luyện có công phu, pháp thuật mới cao cường. Người học thơ cũng như người học đạo, phải dày công.
Lão hỏi: - Ông bạn muốn nói đến vấn đề kỹ thuật chớ gì?
- Phải. Một nhà thơ nắm vững kỷ thuật cũng như một nhà tu hành đắc đạo có tài đáo hải di sơn… Có tài biến không làm có… Mà trong thuật làm thơ, việc dùng chữ là một trong những yếu tố thành công. Có phải chăng lão vườn?
- Chính thế. Trong câu thơ, mỗi chữ ngoài nhiệm vụ chung là cấu tạo, còn phải có một tác dụng riêng là sáng tạo. Nghĩa là một chữ đã dùng thì chữ ấy chẳng những làm cho câu thơ hoàn thành, làm cho câu thơ đủ nghĩa mà tự nó phải nói lên, phải gợi ra một cái gì thêm. Nói một cách khác: mỗi chữ phải có công dụng kiến thiết, vừa phải có khả năng sáng tạo. Mà muốn tìm được những chữ có đủ “tư cách”, đủ “điều kiện”, nhà Thơ cần phải thôi xao… Những chữ á trệ, những chữ hối tịch, tức là những chữ ngọng nghịu, tối tăm, những chữ chết mà Tàu gọi là tự tử, Tây gọi là poids mort, nhất định phải tránh. Cố Văn Vi đời Thanh có câu rằng:
Vị cầu nhất tự ổn
Nại đắc bán tiêu hàn
Nghĩa là: “Vì cầu một chữ ổn đáng mà chịu được nửa đêm lạnh”. Xem thế thì biết người xưa lựa chữ công phu biết bao nhiêu. Đời nay, nhiều người lẫn lộn thị phi, thường đem lời chỉ trích.
TUYẾT NGA: - Quả vậy. Họ bảo rằng cứ để chữ tuôn theo dòng tư tưởng một cách tự nhiên thì thơ mới có thần, chớ không nên gò gẫm mà làm mất sanh khí.
LA DUNG: - Ai bảo gò gẫm làm gì cho mất sanh khí. Thôi xao đâu phải gò gẫm. Thôi xao là cân nhắc, là lựa lọc. Cân nhắc, lựa lọc để tìm cho những chữ thích nghi mà dùng cho ổn đáng. Còn gò gẫm là lo tìm chữ  cho mới, cho lạ, cho kêu... để đối chọi cho sít, để làm cho câu văn có vẻ khác thường... mà không cần đến ý nghĩa cho lắm. Một bên nặng về nội dung, một bên chỉ chuộng về hình thức. Không nên lầm lẫn vàng thau. Phải thôi xao, nhất định phải thôi xao, vì có nhiều chữ đồng một nghĩa, mà dùng chữ này thì câu thơ mới nổi bật, còn dùng chữ kia thì câu thơ lại chìm lỉm. Ví dụ bài “Sợi tơ mành” của Liên Tâm sau đây:
Thành xa mấy lượt trống sang canh,
Tựa án mình riêng cảm nỗi mình!
Cao cả chưa đền ơn chín chữ,
Nặng nề thêm ngán nợ ba sinh.
Chòm hoa dưới nguyệt so le bóng,
Tiếng hát bên sông bận bịu tình.
Nhện báo tin gì sa trước mặt?
Gió đưa lăng líu sợi tơ mành.
Sáu câu sau có thể gọi là hoàn hảo. Luận và kết nhập điệu. Song câu khởi non, câu thừa kém. Rất tiếc không quen biết tác giả để đề nghị sửa chữa cho được toàn bích.
Lão nói:
- “Sợi tơ mành” ra đời đã trên 20 năm nay. Tác giả hiện giờ ở đâu thật không ai biết. Nhưng vốn chỗ quen thân với lão, nên thay mặt tác giả, lão xin ông bạn phủ chính giùm cho.
LA DUNG cười: - Không đợi Lão Vườn xin, DUNG này cũng đã tự tiện sửa lại từ lâu, vì mỗi bận cao hứng ngâm nga, thấy không được sướng lô miệng.
- Xin cho nghe.
- Câu đầu chữ  “LƯỢT” đổi ra chữ “BẬN”. Câu thứ nhì bỏ hai chữ “Tựa án” ra, thay chữ “thổn thức” vào, và đem chữ “chạnh” thế cho chữ "Cảm”. Thử nghe xem:
Thành xa mấy bận trống sang canh
Thổn thức mình riêng chạnh nỗi mình.
Lão vỗ đùi khen:
- Hay! Giỏi! Những chữ sửa như thế, sách Tùy Viên thi thoại gọi là “Hồng lô điểm tuyết” nghĩa là những điểm tuyết trắng trong lò lửa hồng.
TUYẾT NGA: - Câu thừa sửa lại. Nga công nhận là hay hơn nguyên tác: Hai chữ "tựa án” trong nguyên tác chỉ có công dụng làm cho câu thơ đủ số chữ, chớ không nói lên được gì có ý vị. Chữ “cảm” ý nhẹ quá không xứng với ý các câu tiếp. Bác LA DUNG sửa lại như thế chẳng những đã thêm tình tứ cho câu thơ, mà ý thơ lại còn thừa thượng tiếp hạ một cách sít sao. Cái hay trong câu đó dễ thấy. Còn về câu “Thành xa...” thú thật rằng Nga chưa thấy chữ BẬN hơn chữ LƯỢT ở chỗ nào? 
LA DUNG: - Sự hơn kém rõ rệt lắm: Câu thơ nhuận sắc đọc lên nghe ấm áp như ngồi nói chuyện trong phòng khách, còn câu nguyên tác đọc xong không còn chút đỉnh dư âm nào cả, thật chẳng khác tiếng nói ở ngoài trời.
TUYẾT NGA: - Tại sao thế?
LA DUNG: - Nhờ trực giác mà Dung này nhận biết được như thế, nên không thể giải thích được “tại sao”.
Lão cười: - Tại vì chữ BẬN có hướng có lượng hơn chữ LƯỢT chớ còn tại sao nữa.
TUYẾT NGA: - Chưa đủ sức lãnh hội. Mong được nghe thêm.
- Quả như lời Bác La Dung: Với chữ LƯỢT, câu thơ đọc nghe bằng phẳng, không có dư âm, không làm cho người đọc chủ ý. Thay chữ BẬN vào, câu thơ tự nhiên thêm trọng lượng và đọc lên nghe dường có tiếng trống vẳng bên tai. Tại sao vậy? Tại vì chữ  LƯỢT thuộc loại Thiệt âm, dài và hẹp nên bổng, không giữ dư âm được lâu bền, nên không đủ sức gây thêm âm hưởng cho câu thơ, thành ra hơi thơ loảng. Còn chữ BẬN thuộc loại Thần âm, mập mạp nên trầm; âm hưởng của chữ giúp cho nhạc thơ trở nên dài và ấm, đọc lên chúng ta cảm thấy ngay câu thơ “lên cân”. Thêm nữa chữ BẬN đồng một âm loại với chữ BÙM vọng lại âm vang, đọc lên, trí chúng ta liên tưởng ngay đến tiếng trống và tai chúng ta thấy rõ khả năng sáng tạo của chữ BẬN dồi dào biết bao nhiêu!
TUYẾT NGA trầm ngâm giây lâu rồi nói: - Phải cho rành luật thanh âm thì mới có thể nhận thức tinh tường như thế. Sau khi nghe lão vườn, NGA xin phục bác La Dung, và xin công nhận rằng chữ BẬN đã làm tăng giá trị câu “Thành xa…”. Nhiều lắm.
Lão cười:
- Cho nên người xưa thường tôn làm thầy những người sửa cho một chữ ổn đáng: Thầy một chữ (nhất tự sư). Mà tôn làm thầy phải lắm, vì nhất tự hưng, nhất tự vong: một chữ mà làm cho câu thơ chết trở thành sống, thì giá trị của chữ ấy cao đến bậc nào!
LA DUNG: - Lại nhiều khi giá trị câu thơ thay đổi theo sự thay đổi vị trí của một hai chữ trong câu. Xin lấy bài THU SANG của Lão Vườn làm ví dụ. Bài ấy trước kia nghe đọc rằng:
Khắp nẻo hồng mai trải lá vàng,
Đàn ve dắng dỏi đón thu sang…
Lòng ơi, chớ để đêm trăng lạnh
Giấc mộng gia hương bướm phụ phàng.
 
Vừa rồi xem bản thảo ĐỌNG BÓNG CHIỀU thấy sửa câu đầu lại rằng:
Khắp nẻo hồng mai lá trải vàng.
Nghĩa là chữ LÁ đem lên trên, chữ TRẢI đem xuống dưới. Chỉ thay đổi vị trí của hai chữ ấy, mà giá trị câu thơ hơn kém nhau rất xa! Câu nguyên tác tả một cảnh thường, một cảnh quá thường và không linh động. Còn câu nhuận sắc gợi lên một cảnh rực rỡ và hoạt động, rất nên thơ.
TUYẾT NGA: - Để tán mỹ lời phê phán của bác La Dung, NGA xin góp thêm phần nhận xét: Vì sao cảnh tả trong câu nguyên tác là một cảnh tầm thường và không linh động? Là vì trong câu, chữ là phần tử chính, là than chốt của câu, mà LÁ VÀNG tự nó không có gì mới lạ, lại không nói lên được chút gì khác thường. Thêm nữa chữ VÀNG đi sau chữ gợi ngay trong trí người đọc, một màu sắc vàng úa đã không thích mắt lại còn nhuộm thêm vẻ tiêu điều…
LA DUNG ngắt lời: - Trong sắc vàng úa vẫn có cái ĐẸP, trong cảnh tiêu điều vẫn có cái THÚ. Mà có đẹp có thú tức là có Thơ kia mà?
TUYẾT NGA: - Tôi không phản đối. Song chỉ đẹp, chỉ thú, chỉ nên thơ khi nào bức tranh kia linh động. Cảnh tả trong câu “… trải lá vàng”, không chút linh động. Đó là vì chữ thành phần chính trong câu - đứng sau chữ TRẢI, phải đóng vai bị động, nên mang tánh cách tiêu cực, không gây được sức sống cho câu thơ. Trái lại, một khi được đưa lên trên chữ TRẢI, thì lá liền trở thành chữ động. Với tánh cách tích cực, làm cho câu thơ đầy sanh khí sanh lực và rực rỡ sắc hoàng kim, bằng cách “trải vàng” trên “khắp nẻo hồng mai” vậy.
Câu nhuận sắc hay hơn câu nguyên tác là vì thế, có đúng chăng hai ông bạn già?
Lão đáp:
- Cô bạn trẻ nói rất đúng. Và xem đó chúng ta thấy rõ rằng phép dùng chữ cũng như phép dùng tướng: Phải biết rõ sở đoản và sở trường, lại phải dùng cho đúng chỗ, Sở Bá Vương lực bạt sơn, chí cái thế, mà phải thua Hán Cao Tổ, một anh trùm làng hiếu sắc, chỉ vì không biết dùng người đó thôi.
TUYẾT NGA: - Và Khổng Minh điều khiển được Quan Vân Trường và Trương Dực Đức được dễ dàng là vì nắm được ưu điểm và nhược điểm của Quan Trường.
Lão cười:
- Nhưng chớ tự phụ. Khổng Minh đã phải khóc tấm tức tấm tưởi, sau khi thua trận Nhai Đình, vì không nghe lời Lưu Huyền Đức, dùng lầm Mã Tắc là “một chữ rỗng nhưng rất kêu”.
Và Khổng Minh cũng dùng nhầm Lý Nghiêm làm tư lệnh hậu cần, bị nó giã chiếu triệu về (vì không lo kịp lương phải cách chức nó).
5. 
Chị Ngọc Sương là chị ruột cố thi sĩ BÍCH KHÊ, là người mà Hàn Mặc Tử mới nghe tên đã “phải lòng” và thốt:
Ta đề chữ ngọc trên tàu lá,
Sương ở cung Thiềm nhỏ chẳng thôi.
Chị đến thăm Vườn với một bó hoa thơ mới nở và đầm đìa giọt sương mai:
Sương óng ánh cành mai ngời suốt bạc,
Hồn trắng trong mát dịu mắt thi nhân.
Mỗi ban mai sương đọng lá xanh ngần
Bay phơi phới trong bầu trời sáng láng.
Sương tươi mát những cành cây nức rạng.
Những mái nhà nóng bức dịu hơi sương.
Sương ấp yêu hoa cỏ cảnh ven đường,
Dòng thi tứ tình sương khơi tuyệt tác.

Đó là những “giọt sương” trích trong bó hoa thơ tác giả tặng cho Lão vườn.
Lẫn lộn cùng những giọt sương trong sáng và dịu mát, Lão vườn lại nhận thấy những giọt lệ đeo nặng trên những cánh hoa tươi:
Đời tôi xa cách bạn vàng,
Đời tôi sống giữa ngày tàn hắt hiu.
Đời tôi là bến cô liêu,
Chiều sương xuống lạnh lạnh nhiều bạn ơi!
Đời tôi còn một ngày vui,
Bóng chàng trở lại mới nguôi lòng sầu.
Ai làm nên cuộc bể dâu,
Cho thương nhớ trải bạc đầu mái xanh.
Đời đang cuộc sống yên lành,
Ai đem chia biệt bức thành mấy gang!
Đời tôi cuộc sống lỡ làng,
Vơi sầu đêm gảy khúc đàn năm canh.
Tình tang! ơi! ơi! tình anh!
Nhớ sâu đáy nước thương xanh cao trời!
Ngày mô trời sáng rực đời,
Vui bên mắt ấm, bên lời ấm êm,
Thì tôi gảy khúc nhạc đêm,
Tình tang tích tịch nhộn lên tiếng.. chàng…!

Đó là những mảnh lòng không cần biết tác giả, chỉ đọc qua mấy lời tâm sự, cũng đủ biết tình cảnh đau đớn như sao!
Đọc bài “Đời tôi” trên đây của chị Ngọc Sương, lão vườn nhớ đến bài “Sinh ly biệt” của Bạch Cư Dị:
Thực bách bất dị thực mai nan.
Bách năng khổ hề mai năng toan!
Vị như sinh biệt chi vị gian,
Khổ tại tâm hề toan tại can.
Thần kê tái minh tàn nguyệt một,
Chinh mã liên te hành nhân xuất.
Rồi khan cốt nhục khốc nhất thanh,
Mai toan bách khổ cam như mật.
Hà thủy bạch,
Hoàng vân thâu….
Hành nhân hà biên tương đối sầu.
Thiên hàn lộ khoan hà xứ túc?
Đường lê diệp chiến phong sưu sưu.
Sinh ly biệt!
Sinh ly biệt!
Ưu tùng hà lai vô đoạn tuyệt?
Ưu cực tâm lao huyết khí suy,
Vị niệm tam thập sinh bạch phát!
Tản Đà tiên sinh dịch rằng:
Sung, mơ ăn khó ai ơi!
Sung ăn thời chát, mơ thời chua sao!
Chưa bằng sống biệt ly nhau,
Ruột gan chua chát lại đau bội phần
Lầu trăng gà gáy hai lần,
Hét luôn tiếng ngựa giục dần khách xa
Trông nhau một tiếng khóc oà,
Mơ chua sung chát như là mật ngon!
Nước sông trắng mây vàng tuôn,
Kẻ đi người ở cơn buồn bên sông.
Ngủ đâu? trời lạnh đồng không!
Đìu hiu ngọn gió loạn rung lá đường.
Biệt ly lúc ấy lạ nhường!
Mối lo chẳng rứt từ phương hướng nào?
Quá lo huyết khí tiêu hao,
Chưa ba mươi tuổi tóc sao trắng rồi! 
Ai đã từng nếm vị sanh ly mới thấu nổi chua chát của Ngọc Sương và Bạch Cư Dị. Đem sánh cảnh sanh ly với cảnh tử biệt, thì kẻ sanh ly chỉ hơn kẻ tử biệt bằng những hàng lệ thấm hàng thơ! Cổ nhân có câu:
Nhược tỷ cửu nguyên tuyền lộ biệt,
Chỉ đa hàm lệ nhất phong thư.
Nghĩa là:
So cùng chín suối xa xôi,
Chỉ hơn hàng lệ sụt sùi trong thơ.
Đó là vì quá buồn mà than vậy thôi, chớ:
Số khá bỉ thôi thời lại thái,
Lẽ thường đông cuối trở sang xuân
(Nguyễn Công Trứ)
Và:
Ly biệt có từng cay đắng trước,
Tương phùng mới biết mặn nồng sau.
(Khuyết danh)
Cho nên dưới lớp giá lạnh lùng, mầm non đã ngấm ngầm thai nghén. Và một ngày kia, bỉ cực thái lai, thì:
Từng dĩa ngọc trăng vàng bay nghi ngút,
Từng bát sao long lanh màu sáng rực,
Từng tiềm hoa, ngào ngạt vị hương nồng,
Gió lam chiều đến  quyện nước khơi sông,
Chung một món rượu nồng say gió nước,
Một bản nhạc muôn lời ca náo nức
Trên cành vàng chim cất tiếng chân reo.
Gót nhạc sen tiên bạn nhịp nhàng theo,
Tình bốn hướng dồn trên muôn sắc lá,
Nhạc khiêu vũ lòng hòa vui rộn rã…
Vợ chồng tiên hòa điệu giữa lòng con,
Xóa trên mi những ngày tháng mỏi mòn,
Đời gắn chặt hoa hồng trên môi thắm.
Ngày nào đó mở trang đời ra ngắm,
Nhìn biệt ly ghi đậm nét đau thương,
Ta cười vang châu ngọc tỏa sáng đường,
Thành nhung gấm bước nhịp nhàng êm ái.
(Mở Hội - Ngọc Sương)
Và nhân lúc xuân đến, ra vườn hái hoa về phòng “Cắm hoa chờ”:
Em cắm lọ hoa hồng,
Chờ anh trong xuân mới.
Lòng em dường phơi phới
Nghe hương đượm trời xuân.
Lòng em dường lâng lâng
Nghe hương reo trong lá
Có tiếng gì thong thả?
- Ý gió lộn màu xanh.
Có tiếng gì thanh thanh?
- Nhạc hồn ru bóng mộng.
Tình mở giăng trời rộng.
Anh nguyệt ngời lưu ly..
Nghe hương nở hồn thi,
Nghe hương dồn xuân thắm,
Bên mối tình đầm ấm,
Giữa khoảng đời thơm thanh.
Vần Lý Bạch long lanh
Say trong niềm thương nhớ
Cùng với hoa hồng nở
Chờ anh về trong xuân,
Cùng với nụ xuân tình,
Cười say xuân nồng ấm.
Hy vọng tràn đầy và tuôn thành những vần thơ trong sáng.
Bó hoa thơ của chị Ngọc Sương vốn đem tặng riêng cho lão. Song nghĩ đến câu chuyện lão được nghe ông già bà cả kể lại lúc lão chưa lên lão, mà lão sợ...
Chuyện rằng:
Ngày xưa có một người suốt ngày suốt đêm nằm giữ một kho tiền của chủ. Đói khát đã giơ sương mà hắn ra không dám rời kho tiền để đi ăn đi uống, mà cũng không dám lấy một đồng trinh để mua bát cơm bát canh. Một ông thổ thần đi ngang qua, thấy tình cảnh đáng thương, về trời tâu cùng Thượng Đế, xin thưởng cho con người có nghĩa. Thượng Đế liền quở:
- Có nghĩa gì mà có nghĩa? Kiếp trước hắn là một đứa keo kiệt, ích kỷ. Có vật gì tốt đẹp, có biết được gì hay ho thì hắn cứ giữ bo bo  riêng cho mình hắn. Nên nay ta đày làm kiếp Mọi giữ của để răn đời.
Nghĩ đến chuyện đời xưa ấy, lão sợ cho kiếp sau của lão, nên lão không dám giữ riêng bó hoa thơ của chị Ngọc Sương. Lão lấy ra đôi nhánh đem chưng bày trong vườn hoa thơ, để trong lúc xuân về, quí khách yêu hoa trong bốn phương đồng lãm, hầu mong kiếp sau, lão khỏi làm kiếp...
6.
Tiết vừa sang hạ mà nắng thật đã gắt gao! Chợt nhớ bài thơ của ông Tú Vị Xuyên:
Trời làm đá nát lẫn vàng sôi
Thiên hạ trông mưa đứng lại ngồi.
Ngày trước biết gì ăn với ngủ,
Bây giờ lo cả nước cùng nôi
Trâu mừng ruộng nẻ cày không được,
Cá sợ ao khô vượt cả rồi.
Tình cảnh nhà ai nông nổi ấy,
Quạt mo phe phẩy một mình tôi.
Đứng dưới gốc cây mận trong vườn, lão vừa phe phẩy quạt mo vừa ngâm khẽ khẽ bài thơ của ông Tú.
Con trâu của ông Tú thấy nắng nôi thì “mừng ruộng nẻ không cày được” còn lão nhìn “đất nẻ” lại lo ngại cho cảnh vườn hoa thơ. Một ông bạn láng giềng, bác Hương Khê trông thấy dáng lo ngại của lão, bèn vạch rào sang vỗ vai lão và ngâm:
Vườn thơ Lành Mạnh hết hoa tươi,
Lão giữ vườn hoa mếu máo cười…
Không đợi ông bạn dứt lời, lão ngâm tiếp:
Vườn dẫu không hoa hương vẫn ngát
Quanh giàn hoa lý lá trăng rơi.
Rồi hai khuôn mặt nhăn nheo móm mém nhìn nhau cười tích tác. Chợt người phát thơ đem vào cho một chiếc hộp nhỏ niêm phong cẩn thận. Vội mở ra xem thì chỉ có một cành hoa hai đóa của Tùng Chi từ bờ sông Đông Ba Huế gởi đến:
Ấp ủ lòng hoa sương phủ lạnh,
Đón ngăn đường mộng núi giăng xanh.

Đó là mảnh tâm sự gói ghém thành hai đóa cẩm nhung mùi hương hơi cay cay đắng đắng.
Kế đó khách yêu hoa xa gần lần lượt đến thăm vườn và tặng hoa. Lão nhìn thấy khuôn mặt của ông bạn Hương Khê trở nên đầy đặn. Lão rờ thử lên mặt lão thì thấy cũng bớt móm và bớt nhăn: Té ra khi có điều vui thì lòng già non trở lại. Hương Khê ngó lão mà cưỡi, lão cũng ngó Hương Khê mà cười, rồi cùng nhau đi đón khách và nhận quà. Quà khá nhiều.
Đây một nhánh hoa duyên dáng nhất trong bó hoa của ông Thanh Trúc ở Thôn Mỹ Đức, quận Bình Khê, tỉnh Bình Định:
Giải trí hằng ngày đem sách đọc,
Sợ già mỗi bữa lấy gương soi.
Hoa ông già mà có duyên quá!
Ông Lý Lạp Mai ở Tuy Hòa cũng có duyên già như ông Thanh Trúc, nhưng khác ông Thanh Trúc, Lạp Mai tôn ông lại không ham sách không thích gương, vì:
Mở sách chỉn e lờ nét chữ,
Gần gương những sợ bạc hàm râu!
Ông già này lấy nhân làm quả. Thật là “liến”
Trong các bó hoa khác, gương và sách vẫn thấy gói theo nhiều. Như:
Buồn xích gần gương cho có bạn,
Rảnh năng lấy sách để tìm thầy.
Của ông Bích Hồ ở Đà Lạt, trong bài “Một mình”. Chỉ có một mình mà vẫn tìm có thầy có bạn. Ông già này thật có tài “biến hóa” vậy. Ông Xương Huân ở Nha Trang, trong bài “Tuổi già” có câu:
Khen lão còn xuân gương tủm tỉm,
Sợ già lú chữ sách nghê nga. v.v...
Mà chẳng phải chỉ các bạn già thường nhắc đến gương đến sách, mà bạn trẻ cũng rất ưa sách ưa gương:
Trông gương mình thấy mình: Thương quá!
Ai thấy mình, ai nỡ chẳng thương?
Của Xích Tùng, một chàng trai còn “bảo thu miên”
Vợ ngủ, chong đèn nằm đọc sách,
Bạn về, tựa cửa đứng trông mây.
Của Thạch Bích người đã từng nghe tiếng thích thơ của sĩ tử song chưa được nghe tiếng khóc của Khánh Thuận:
Đường khuya mai liễu tạnh phong trần,
Mở sách mong tìm bóng mỹ nhân.
Lan Lý vườn bên hương nở thắm
Ngập ngừng theo gió lọt song vân. 
Đối với gương với sách, thì già có cái thú của già, trẻ có cái thú của trẻ. Nhưng lão lấy làm lạ rằng trong những món quà lão nhận được ngày hôm qua, sách và gương thiêng hẳn về nam giới. Bên nữ giới chỉ có hai câu của Hồng Vân:
Kim chỉ lẽ đâu rời mặt sách,
Phấn son chi để thẹn lòng gương.
Đó là lời nói của người cầu tiến và chăm tu dưỡng. Và đó là lời của lí trí. Hồng Vân còn một câu tâm tình:
Trót thương, khổ quá! thương là lụy!
Toan dứt, than ôi! dứt chẳng đành!
Đều là những đóa hoa đáng nâng niu.
Người bạn thân của Hồng Vân là Thanh Thủy cũng có một kiên khả ái:
Biết phận bèo mây là phận mỏng,
Riêng tình sông biển vẫn tình thâm.
Câu này cũng như câu “Trót thương” là khổ qua hầm thịt nạc. Có nếm thì nuốt mau chớ đừng chíp chắp. 
Trong những bó hoa thơ của các bạn gái, lão nhận thấy có nhiều đóa thật đẹp, song dưới sắc đẹp luôn luôn hiện nét buồn, như:
Vị trà hòa ánh trăng trong
Tâm hoan nhắp chén đắng lòng cố nhân.
Của Chức Thành:
Trăng vàng lờ rạng sông xanh,
Nhớ thương đứt ruột vẫn đành thờ ơ!
Của Như An:
Cũng chung tình cảnh cùng Chức Thành và Như An, Mỹ Dung có câu:
Đã ngăn cánh bướm tìm theo mộng
Còn ngắm hoa đèn nán đợi tin!
Và câu:
Vắng thơ thổn thức can tràng,
Được thơ lại sợ, vội vàng trả thơ!
Nghĩ cũng tội. Nhưng:
Trăm năm trong cõi người ta
Tu là cõi phúc tình là dây oan.
Ai bảo các chị có tình?
Bác Hương Khê đồng ý, nhưng rồi cười hả hả và ngâm:
Bất tục mãi tiên cốt,
Đa tình thị phật tâm.
Đoạn trao cho lão xem những nhánh hoa khả ái bác đã lựa được trong những bó hoa của các em học sinh. Đây nhánh hoa “Đàn hồn vọng nguyệt” của Duy Trang: 
Nhạc trầm hương êm vút
Phiếm lệ rủ hồn ca
Chiêm niệm người năm trước
Hồn phiêu bạc trời xa…

Kinh thành ơi! Kinh Thành!
Đêm nay trăng còn xanh?
Lối xưa quen tình tự
Hoa bướm kết duyên lành?
Từ mắt khép hồn say
Ta đi tìm tình vơi đầy
Dù phương xa gió lạnh
Và mưa sầu loạn bay.
Rồi nay rằm tháng tám
Thương nhớ về kinh thành
Hồn hương theo khói xám
Người phương nào? Mây xanh!
Còn đây trang tình sử
Đây mộng vàng xa xôi
Đây tóc thề duyên cũ
Hương thoảng tình chưa vơi…
Nhạc trầm hương sầu ngút
Phiếm lạnh rồi ly ca
Chiêm nghiệm người năm trước
Hay chiêu niệm hồn ta?
Và đây nhánh hoa “Hoang sầu” của Cao Hoàng Nhân:
Trăng sầu viễn xứ
Gió siết hồn hoang
Cô độc nghìn xưa vè chế ngự
Mắt xanh tươi bở ngỡ kinh hoàng.
Người xưa độc ẩm
Rượu bồ đào thơm phảng phất không gian.
Lạnh lùng nghe bọt sóng
E ấp dạo cung đàn
Kiêu căn nhìn bão thét
Rung rinh đồi Hy Mã chuyển động Thái Bình Dương.
Trắng tay cười khinh thế sự
Mà trong tim từng thế kỷ suy tàn
Muôn khối tinh cầu nức vỡ
Tiếng pha lê xao xuyến trăng vàng.
Sầu vây lớp lớp
Mộng gởi lầu trang
Tóc trùng dương buộc vào án sách
Tâm sự, ôi, ngổn ngang!
Mắt xanh nghiêng ngửa mười phương gió
Vất áo hoa mà nghe tiếng thời gian

Đó là những cánh hoa chớm nở nhuộm sắc thái tâm hồn của những chàng trai mới lớn lên, chí chưa định, lòng chưa đâu. Người xem hoa nên mở rộng cõi lòng để đón chút hương vị thanh thanh lạ lạ... khác hẳn hương vị của những đóa hoa đã trình bày trên kia, mà kẻ vun vén là những người đã từng trải việc đời không nhiều thì ít.
Trong khi lão lom khom chưng hoa nơi vườn thì bác Hương Khê cặm cụi lựa chọn khá nhiều, nhưng lão nghĩ chưng bấy nhiêu hoa cũng đã vừa rồi, nên để dành lại cho bữa khác. Bác Hương Khê vừa tẩm nước cho hoa vừa ngâm:
Hết xuân, úa liễu phai đào
Bốn mùa hương phấn ngạt ngào vườn thơ.
7.
Anh nắng chiều rải lên mặt hồ muôn vàn ngôi sao bạc lóng lánh long lanh. Lão đẩy gối ngồi dậy, hứng chí ngâm:
Hiên mây gấm dệt tờ thơ cổ,
Sân mận hương lồng giấc ngủ trưa..
Sương khói lưng chiều buông nửa mộng
Theo dòng hoa lá gợn ngàn xưa.
Tiếng ngâm vừa dứt thì từ ngoài ngõ đưa vào một nhịp cười lanh lảnh!
- Có khách.
Lão vội bước ra đón. Mỹ Dung theo vào:
- Thơ Lão Vườn làm toàn bằng chất mộng!
- Mộng là Thơ còn ở trong tâm trí. Thơ là Mộng đã ra cùng văn chương.
Mỹ Dung cười lớn:
- Sao hôm nọ Lão Vườn lại bảo: “Thơ là giai nhân”?
- Thơ là giai nhân của tâm hồn. Giai nhân là Thơ của thân mắt….
- Mà Thơ là Mộng thì Giai Nhân cũng là mộng nữa rồi?
- Chính thế. Cho nên nhiều người nói: “Đẹp như mộng”.
Nhân nói đến mộng, lão chợt nhớ bài thơ của Tản Đà, bèn ngâm:
Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi
Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi.
Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng,
Tiếc mộng bao nhiêu dễ chán đời!
Những lúc canh gà ba cốc rượu,
Vào khi cánh điệp bốn phương trời?
Tìm đâu cho thấy người trong mộng,
Mộng cũ mê đường biết hỏi ai!
Mỹ Dung:
- Trong thơ của Tản Đà tiên sinh, bên mộng vẫn thấy bóng đời rõ rệt. Trong thơ Lão Vườn bóng đời biến hẳn thành bóng mộng hoàn toàn… Nhưng đó là phần việc của các nhà phê bình. Bây giờ xin hỏi thăm “Giấc Mộng” Trong bài thơ của Hà Nhiệm Đại, tiến sĩ đời nhà Mạc, vịnh Nguyễn Trãi:
Giấc mộng hai nơi khéo tỏ tường,
Tới non lam gặp Đức Cao Hoàng.
Hịch thư nhiều thuở tài mau mắn,
Pháp độ trăm đường sức sửa sang.
Công giúp hồng đồ cao ngất núi,
Danh ghi thành sử sáng bằng gương
Hoa kia gây bởi văn hoàng lỗi,
Rắn nọ lời đâu chỉn lạ nhường!
“Giấc mộng hai nơi” là tích gì?
Lão đáp:
-  Đó là câu chuyện “lịch sử” đã xảy ra trong thời nước ta bị nhà Minh đô hộ.
Thời đó có người ở hạt Hoắc Sa thuộc tỉnh Sơn Tây tên là Trần Nguyên Hãn, đi ngang qua làng Thụy Hương, nhân trời tối, vào nghỉ ngơi miếu thờ Khang Thiên Vương Lý Ông Trọng. Nửa đêm Trần mơ màng nghe tiếng vị thần ở làng bên cạnh đến đón Thiên Vương đi chầu Thượng Đế. Thiên Vương từ chối rằng có quí khách trong miếu, không thể đi được. Vị thần ra đi một mình, đến gà gáy trở lại. Thiên Vương hỏi thăm việc thiên triều. Vị thần đáp rằng: “Thượng Đế thấy nước Nam hiện không có chủ, nên sai Lê Lợi làm vua Nguyễn Trãi làm tôi”. TRẦN NGUYÊN HÃN tỉnh dậy đi tìm Nguyễn Trải, thuật lại chuyện trong giấc mơ. Nguyễn Trãi liền đến miếu khấn hỏi lại Thiên Vương. Thiên Vương ứng mộng, bảo rằng: “Cơ trời không dám lậu. Hãy đến hỏi bà Tiên Dung. Bà biết rõ chi tiết, và vì là đàn bà dù có nói ra, Thượng Đế cũng không quở trách”..
Mỹ Dung gườm:
- Lão Vườn chỉ có thưa thớt mấy cọng râu, cọng nào cũng quặp trước vào cổ. Thế mà hễ động tới đàn bà là lo nói xấu!
- Đâu dám. Lão nói theo sách.
- Sách nào?
- Tang Thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn An.
- Tác giả cũng như Lão Vườn… Nhưng thôi, hãy kể tiếp.
Lão tiếp:
- Nguyễn Trãi nghe lời, cùng Trần Nguyên Hãn mang lễ đến cầu Tiên Dung. Đêm đến mộng thấy Tiên Dung gọi bảo rằng: “Lê Lợi sẽ làm vua nước Nam, Nguyễn Trãi sẽ phò tá. Nhà ngươi chưa biết sao?” Nguyễn Trãi cầu xin được rõ tung tích Lê Lợi Tiên Dung cho biết là người ở Lam Sơn.
Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn băng ngàn tìm vào Lam Sơn, gặp Lê Lợi, thân mặc áo vải cụt cách, vai vác cuốc, tay dắt trâu ở ruộng về. Hai người theo đến nhà, xin ở nghỉ nhờ để dò xem tình thế. Bữa hôm đó, nhà Lê Lợi có kỵ. Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn giúp việc nấu nướng. Lê Lợi cần dao thái thịt, vừa thái vừa nếm luôn mồm. Nguyễn Trãi chê là người không có tư cách, bảo cùng Nguyên Hãn: “Thế này là Tiên Dung đã lừa chúng ta rồi!” Hai người bèn bỏ ra về, và đến đền Tiên Dung đòi lễ lại. Đêm đến Tiên Dung báo mộng rằng: “Cơ trời đã định. Có điều thiên tinh chưa dán đó thôi. Sao không nấn ná chờ đợi?”. Hai người bèn trở lại Lam Sơn. Trong lúc Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn trở về Bắc thì ở Lam Sơn Lê Lợi tình cờ bắt được binh thư và thần kiếm, đêm đêm chống kiếm ngồi xem sách một mình. Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đến nơi, nấp ngoài rình xem, trông thái độ và thần khí của Lê Lợi khác hẳn ngày xưa, bèn đẩy cửa bước vào. Lê Lợi nghe tiếng động vung kiếm đứng dậy. Hai người sụp lạy, thưa: “Lũ chúng tôi lặn lội tới đây là biết rằng minh công sẽ làm chúa thiên hạ”. Lê Lợi mừng rỡ lưu hai người lại cùng nhau lo việc cứu nước an dân.
Mỹ Dung cười:
- Thật là cảnh Đà Lạt trăng mờ của Hàn Mặc Tử!
Hư thực làm sao phân biệt được
Sông Ngân Hà nối giữa màn đêm.
Mà dường như Hà Nhiệm Đại tin việc thần ứng mộng kia là chuyện thực, nên mới nói:
Giấc mộng hai nơi khéo tỏ tường,
Tới non Lam gặp Đức Cao Hoàng.
Lão đáp:
- Nếu quả tin là thực thì đâu có hạ chữ “Khéo”. Tác giả muốn mượn chuyện hoang đường “Thần báo mộng” mà mở đầu, rồi mượn chuyện hoang đường “rắn trả thù” mà kết thúc, để bảo thầm cùng thế gian rằng những chuyện trong tủ sách chép về Nguyễn Trãi, ngoài hai chuyện hoang đường kia, tất cả cũng đều là chuyện hoang đường nốt.
- Sao lại nghi ngờ quá thế?
- Bởi vì BOSSUET đã nói: “Từ khi có những nhà viết sử thì không còn có sử nữa” (Depuis  qu’il y a des historiens il n' y a plus d’histoire) . Không có sử nửa tức là chỉ còn những chuyện hoang đường do các nhà viết sử tưởng tượng ra mà thôi.
- Sao lão vườn lại gán ý tưởng của một văn sĩ pháp ở thế kỷ thứ XVII vào nhà văn sĩ Việt ở thế kỷ thứ XVI như thế? Thật là xáo trộn cả thời gian lẫn không gian!
Lão cười, ngâm:
Lúc hứng ngửa nghiêng trời đất rộng,
Ngồi buồn xáo trộn cổ kim chơi…
Mỹ Dung:
- Có người bảo rằng: “Lão Vườn bình giảng thơ rất chủ quan”. Nghĩa là thường nhìn thấy hình ảnh mình ở trong thơ người nhiều hơn là nhận thấy chân tướng của tác giả. Càng gần lão càng thấy sự nhận xét kia là đúng.
Lão cười:
- Không ai chủ quan bằng những người tự xưng rằng mình phê bình văn chương một cách khách quan. Nói một cách ba hoa: Các ông ấy đã khách quan một cách hết sức chủ quan vậy. Riêng về phần lão: Lão chỉ nói ra những gì lão nghĩ, lão cảm, lão nhận thấy. Luôn luôn lão nhìn với con mắt hóm hém của lão, lão nói với lỗ miệng móm mém của lão, chớ không bao giờ lão mượn con mắt và lỗ miệng của người khác dù cho miệng mắt ấy là của một tuyệt đại giai nhân.
- Và lão vườn tự cho những gì lão nhận thấy, nói ra là đúng?
- Đúng đối với lão, đúng theo lão.
- Nếu có người bảo lão sai thì sao?
- Lão sẽ công nhận là sai nếu lão xét lại thấy quả thật là sai.
Mỹ Dung còn muốn hỏi nữa, nhưng lão chận:
- Có lẽ cô đến đây mục đích không phải để nghe lão lý sự, mà cũng không phải để lý sự với lão?
Mỹ Dung cười:
- Chính thế. Đến để tặng hoa cho vườn thơ. Mà hoa đây không phải của tôi. Đây này: 
SÔNG THƠ
Sương cành rụng ánh dương trong,
Hiu hiu gió lấp trải lòng sông thơ.
Giấc thuyền mơ ven bờ tỉnh sáng,
Làng thu ba lênh láng trời ngân..
Trời ngân nhạn điểm câu thần,
Ao tiên muốn gột ngại vầng mây trôi.
Cánh hoa môi bồi hồi nhịp sóng,
Khúc cao tình đồng vọng non xa..
Tình lơ lửng quyến yên hà,
Nao nao biển nhạc là là dặm hương…
- Của ai?
- Của một người bạn thân không muốn cho biết tên.
- Đối với lối thơ tượng trưng như bài này, tên tác giả không giúp gì thêm cho việc nhận thức cái đẹp cái hay trong thơ. Không muốn cho biết cũng được.
- Mong lão vườn cho biết ý kiến. Về bài thơ.
- Ý kiến của lão là không nên phát biểu ý kiến, vì đó là một bức tranh thêm bằng chí mộng rút trong sự thật bao trùm một màn sương mơ. Vì đó là nước mặt hồ lung linh phản chiếu bóng một giai nhân ẩn hiện sau mành liễu buông xanh. Cứ để tự nhiên cho người muốn thưởng thức tìm lấy những gì đáng thưởng thức.
- Như thế là lão vườn đã công nhận “SÔNG THƠ” là một bài thơ hay, một đóa hoa đẹp?
- Một đóa hoa hương sắc gồm đủ, theo chủ quan của lão.
Mỹ Dung cười lớn:
- Thế là lão vườn đã tự mâu thuẫn với lão rồi! Lão bảo không nên phát biểu ý kiến mà lão lại nói bô bô ý kiến của mình ra cho thiên hạ nghe!...
Lão hô người, lẩm bẩm:
- Thật là khôn từ thuở lên ba...!
Và đưa Mỹ Dung ra về, lão tự hứa:
- Thấp cơ thua trí đàn bà,
Từ nay cái dại ba hoa xin chừa.
16- Tiếp khách hoa thơ [3]
8.
VIÊN TỬ TÀI, tác giả Tùy Viên Thi Thoại, nói rằng:
- Chữ TRUYỀN là chữ NHÂN thêm chữ CHUYÊN, ý nói: người chuyên ắt truyền được vậy.
Từ ngày học thơ, NGUYỄN THỊ KIM NHUNG chỉ chuyên về thể Lục Bát và Song Thất Lục Bát. Có một số bài khả ái, nếu gặp được cơ duyên biết đâu lại không được truyền tụng. Như:
GHÉ NGANG
Lòng em là bến hàn giang,
Anh, thuyền du khách ghé ngang một chiều.
Thuyền đi bến lại cô liêu,
Chân cò mặt sóng cánh diều lưng mây!
Nước trôi ngày lại trôi ngày,
Lòng xao sóng lạnh mây bay bóng thuyền.
Bài này chịu ảnh hưởng bài SANG NGANG của cố thi sĩ NGUYỄN ĐÌNH THƯ, mà lão nhớ chừng chừng rằng:
Lòng em là chiếc thuyền lan,
Tình anh là khách sang ngang một chiều
Thu nào quá đỗi cô liêu
Bờ hun hút lạnh nắng hiu hiu buồn…
Đi rồi thuyền cách bến thôn,
Tình người gió biển mưa nguồn biết đâu!
Cầm tay chừ hẹn chi nhau
Bên sông nước chảy một màu bao la!
Thể cách tuy đồng, những mỗi bài có một phong thú riêng biệt. Bài của NGUYỄN ĐÌNH THƯ man mác bao la. Một mối tình hiện tại bao trùm cả quá khứ lẫn tương lai, một quá khứ xa xôi, một tương lai vô định! Một mối tình bát ngát mênh mông! Còn bài của KIM NHUNG chứa chan một mối tình quá khứ đương nằm trong hiện tại, một mối tình ôm thu một khoảng thời gian và không gian dài rộng vào trong một khung cảnh cỏn con! Ý vị!
Về Song Thất Lục bát, KIM NHUNG cũng đã luyện lắm. Như: 
NGỌN ĐÈN KHUYA
Cúc đơm hương trời sương ngào ngạt,
Chén quan hoài, đậm? Nhạt? Tình ai…
Ngọn đèn riêng bóng thư trai,
Mộng xuân chưa dệt, còn dài tơ duyên..
Trăng thượng huyền nghiêng nghiêng vẻ ngọc,
Thuyền lãng du ngang, dọc, đời ai!
Ngọn đèn lụn bấc thư trai,
Tơ duyên mong dệt cho dài mộng xuân…
Lời văn tuy không được mới, chữ dùng tuy có phần xưa, song cách dàn ý, lối diễn tình thật có chỗ cá biệt, và vị thơ cũng khá đượm đà.
Lão đương cùng chén trà mai gục gặt, thì KIM NHUNG tìm đến hỏi lão:
- NHUNG muốn tập làm thơ Đường luật, phỏng có được chăng?
Lão đáp:
- Đường nhân HỨA HỒN có câu rằng:
Ngâm thi hảo tợ thành tiên cốt,
Cốt lý vô thi mạc lãng ngâm.
Nghĩa là:
Ngâm thơ cốt tợ thành tiên ,
Không thơ trong cốt chớ phiền ngâm thơ.
KIM NHUNG vốn là người có sẵn thi cốt thì muốn làm thơ gì lại chẳng được.
KIM NHUNG cười:
- Lão Vườn muốn mượn lời cổ nhân để nhủ khách làm thơ rằng “Thơ quý ở cốt chứ không phải ở cách”?
Lão gật đầu:
- Chính thế. Một thi nhân nước Pháp ở thế kỷ thứ 18 là André CHENIER cũng có câu rằng: “L’art ne fait que des vers, l’âme seul est poète”. Nghĩa là “Nghệ thuật chỉ làm ra những câu thơ, chính tâm hồn mới là thi sĩ”.
- Nhưng có tâm hồn mà không có nghệ thuật thì thơ cũng chẳng nên thơ.
- Quả vậy. Nhưng tâm hồn là của trời, nghệ thuật là của người. Trời khó vói, người dễ gần.
- Tuy rằng dễ gần, song há ai cũng có thể gần được? Dễ mà khó, thật khó!
- Có khó mới có thú.
KIM NHUNG cười: - Khó quá cũng hết thú. Như thơ Đường luật.
Lão hỏi:
- Thơ Đường luật khó ở chỗ nào?
- Phép đối chọi.
Lão cười:
- Nếu quả phép đối chọi là khó, là thật khó, thì những tay rành nghề còn công sức đâu mà bày ra nhiều cái rắc rối thêm? Như đã hạn những vận mắc mỏ, còn buộc kẻ làm thơ phải dùng những chữ những tiếng.. đã lựa sẵn trong mỗi câu... hoặc phải dùng cái này cái nọ, phải tránh điều này điều nọ. Vân vân…
- Ví dụ bài Chê gái lấy chồng già của cụ tú Nguyễn Đức Thuận, dùng vận từ thứ (vận trong bài Từ Thứ qui trào của Tôn Thọ Trường) câu trên có tên một giống chim câu dưới có tên một giống thú, và mỗi câu có tên một vị thuốc Bắc. (Từ Thứ vận, thượng cầm hạ thú, nhất cú nhất vị dược):
Chim QUYÊN bả đậu nhánh choi voi,
MANG bạch đầu ong nỏ mặn mòi. (1)
PHỤNG ước thung dung ăn trái trúc,
THỎ đâu cam toại ấp nhành còi.
Liên kiều THƯỚC bắc so le nhịp,
Sơn giác NGỰA đua hụt chạc roi.
LOAN chạ từ cô đừng chuyện ấy,
Kén LỪA quân tử giá ngàn thoi.
Bài này do một quan tổng đốc Bình Định ra đề. Thí sinh có hàng trăm nhưng chỉ có bài của cụ tú NHUẬN là trúng tuyển và được hậu thưởng.
Về loại này cụ Tam Xuyên TÔN THẤT MỸ rất sở trường. Cụ có nhiều bài truyền tụng, như bài GHẸO O ĐOÀI BÁN BÁNH, trong mỗi câu có tên một quẻ trong bái Quái và tên một thứ bánh:
Vẻ ngọc CÀNG say rượu ít nồng (2)
Khen ai vòng KHẢM đúc hình dung.
CẤN nơi quán khách e dầy dụa
CHẤN bức mành ba những ước mong
Gieo lá TỐN công dòng bích thủy,
Dấu bèo LY hận ngọn đông phong.
Ngắm em xem chợ tình KHÔN hỏi,
Ngoảnh lại non ĐOÀI ngọn ráng hồng. 
Một hôm vào chơi nhà người bạn thấy một thiếu nữ ngồi tập đánh vần chữ Quốc ngữ, cụ bèn làm một bài thơ ghẹo trong có tên những dấu Huyền sắc nặng hỏi ngã và một câu có mỗi chữ cái La Tinh. Lão chỉ nhớ mày mạy được bốn câu giữ, rằng:
HUYỀN vi máy tạo E lời lậu ( `, e)
SẮC sảo câu thơ IT chữ đề ( ', x)
NẶNG gánh tương tư tình ép uổng. ( ., f)
HỎI nơi kỳ ngộ dạ đê mê (?, đ)
Cụ tú NHUẬN và cụ Tam Xuyên là những bậc tiền bối đã qua đời. Hiện nay còn có cụ NGUYỄN KHOA VY ở Huế, làm thơ rất lanh và có tài nói lái. Như:
Nhắc bạn riêng thương tình nhạn bắc,
Trông đời thêm ngán cảnh trời đông.
Hoặc:
Bảy cụ bóp lầm cô bụ cảy (bụ cảy: vú đau)
Ba trò ăn xả thịt bò tra. (bò tra: bò già).
Cụ còn nhiều ngón lắc léo khác, như toàn bài dùng những chữ khởi đầu bằng một phụ âm hay một nguyên âm, dùng một số chữ nhất định hay một câu thơ thành một bài thơ có nghĩa lý, vân.. vân… Rất tiếc là lão không nhớ để dẫn ít câu cho vui. Câu này:
Tin nhạn mong chờ e  ít hát (E,X,H)
Gối loan trằn trọc ép anh ca (F,N,K)
Dường như cũng của cụ là phải.
Còn rất nhiều người khác bày ra nhiều ngón xảo kỷ khác, như dùng chữ Pháp lẫn cả nghĩa khác vào thơ. Ví dụ:
Phản săn ngồi mãi đơ hai gối (Deux: hai)
Xe lửa nghe ra huýt tám giờ (Huit: tám)
Của Khương Hữu Dụng. Vân vân…
Thật là khéo! Lối kỹ thuật tiểu xảo ấy, người xưa không có. Người xưa đặt ra phép, đặt ra luật, cốt để cho người làm thơ nương theo đó mà phô diễn cho dễ có tiết tấu dễ có vần điệu. Phép đối trượng bày ra để cho câu thơ được thêm phần trang trọng, để cho nhạc thơ được dễ điều hòa. Phép đối trượng của cổ nhân rất giản dị: Về thanh thì chỉ có chữ thứ 2, chữ thứ 4, chữ thứ 6, bằng trắc phải đối nhau, chữ thứ 1, chữ thứ 3, chữ thứ 5, không cần phải đối (nhất, tam, ngũ bất luận; nhị, tứ, lục phân minh). Còn về tự thì chữ hư đối với chữ hư, chữ thực đối với chữ thực…, nghĩa là loại chữ nào đối theo loại chữ nấy. Đối thế nào cho câu thơ được thăng bằng, hòa hợp, nhạc thơ được nhịp nhàng êm ái là ổn thỏa, là thành công, chớ không cần phải chỉnh từng chữ một. Ví dụ câu thơ của cụ Tam Nguyên Yên Đỗ:
Bạn già lớp trước nay còn mấy,
Chuyện cũ mười phần chín chẳng như.
Nếu lấy ra so sánh từng chữ, thì trừ hai chữ đầu của mỗi câu là chọi nhau sít sao, còn các chữ khác thì không chỉnh. Thế mà đọc lên chúng ta không hề thấy lệch lạc, và xưa nay ai nấy cũng đều công nhận. Lắm lúc cổ nhân bỏ cả đối. Ví dụ cặp trạng trong bài Hoàng Hạc Lâu của THÔI HIỆU đời Thịnh Đường:
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du…
Mà Tản Đà dịch là:
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn thu mây trắng bây giờ còn bay.

Câu thơ của họ Thôi chẳng những bỏ đối, mà còn bỏ cả luật bằng trắc. Thế mà câu thơ vẫn giữ được thế quân bình và tạo nên một nhạc điệu đặc biệt gây nhiều hứng thú cho người đọc thơ.
KIM NHUNG: - Như thế chứng tỏ rằng Thi nhân đời Đường sáng chế ra luật thi, nhưng không cố chấp luật.
- Bởi vì cổ nhân không bao giờ coi luật thơ có giá trị tối cao, bất khả xâm phạm, mà chỉ coi là một phương tiện, và lẽ tất nhiên không phải là phương tiện duy nhất, độc tôn. Cố chấp luật thi là người đời sau, và bày ra những kỹ thuật tiểu xảo cũng do người đời sau. Vì chấp luật, vì ưa chuộng xảo kỷ mà phần đông người làm thơ quá thiên về hình thức, xao nhãng mất nội dung, khiến vườn thơ hiện ra một cảnh hoa giấy tưng bừng nhưng thiếu hương vị. Đó là cảnh tượng làng thơ Đường Luật buổi Tiền Chiến. Do đó mới có phong trào Thơ Mới nổi dậy đả kích thơ Đường Luật ngót 10 năm trời, từ 1932 đến 1941… Cũng vì quá chuộng hình thức, cũng vì lo gò gẫm trong việc đối chọi, làm mất sanh khí của thơ…, nên Lưu Trọng Lư mới dám lớn tiếng công kích rằng: “Phép đối trong thơ cũ bất ngoại con chó đi ra, con mèo chạy về”.
KIM NHUNG cau mày: - Sao lại quơ đũa cả nắm như thế?
Lão cười:
- Cũng bởi mình có đũa nên người ta mới quơ được chứ.
- Theo lời Lão Vườn thì không nên chú trọng đến việc đối chọi. Song NHUNG nhận thấy thơ Lão Vườn không bài nào đối không chỉnh, cả đến thơ tứ tuyệt không cần phải đối, mà thỉnh thoảng lão cũng đối rất sít sao. Như:
SONG CHIỀU
Ngày trôi chậm chậm sông đưa lá,
Thoi liệng xa xa én dệt mù.
Mở rộng song thơ chờ ánh nguyệt,
Nửa lòng xuân sắc nửa lòng thu!
Kim Nhung nhìn lão một cách hóm hỉnh, có ý bảo thầm rằng lão nói một đàng làm một nẻo. Lão mỉm cười:
- Đó chỉ là thói quen, cũng như các ông già hay vuốt râu vậy thôi… Nhưng nếu bài SONG CHIỀU quả là một bài thơ hay, theo ý của Kim Nhung, thì thử xét kỹ xem nó hay nhờ đối chọi sít sao hay nhờ những gì khác? Xin thú thật rằng lão làm thơ thì trước uẩn nhưỡng tâm tư, sau mới thôi xao từ điệu. Mà thôi xao từ điệu là cốt để diễn đạt tâm tư cho được chu đáo, chớ không phải để khoe tài văn chương, vì làm văn làm thơ là gởi tấm lòng vào thiên cổ chớ đâu phải làm việc phấn sức cho tài ba trong một thời.
KIM NHUNG: - Làm thơ Đường luật mà không đối có được chăng?
- Không nên cố chấp mà thôi, chớ bỏ hẳn thì không còn gọi là Đường luật nữa. Có nhiều nhà thơ hiện đại dùng thể Thất Ngôn bát cú nhưng bỏ đối, tạo thành một thể mới không kém phần trang nghiêm. Ví dụ bài NGHE HÁT của VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Phách ngọt đàn say nệm khói êm,
Tiếng ca buồn nổi giữa chừng đêm.
Canh khuya đưa khách lời gieo ngọc,
Mơ gái Tầm Dương thoảng áo xiêm,
Ai lạ nghìn thu xa tám cõi,
Sen vàng như động phía châu liêm.
Nao nao khói biếc hài thương nữ,
Trở gối hoa lê rụng trắng thềm.
Và bài NGHẸN BƯỚC của Vũ Hân:
Nắng rụng gầy sương đường lỡ thì
Thương người khăn gói nghẹn chân đi!
Quán nghiêng nửa mái chờ giông tố,
Cửa hẹp mây đùn sập nét mi!
Quỉ dựng đàng sau muôn lớp ải,
Lòng nghe nai gặm cỏ biên thùy.
Xoa tay nhớ lại mùa xuân trước
Phấn bướm còn vương nhịp trúc ti.
Những bài thơ như thế chẳng những có giá trị về văn chương, mà còn ngậm chứa hương vị thời nhà Đường, nhất là hai cặp kết.
Vậy theo ý lão, thì KIM NHUNG nên tập làm thơ Thất Ngôn Bát Cú theo cách này. Và lão khuyên nên tránh xa lối tiểu xảo của các thi công trong làng thơ Đường luật. Những kỷ thuật tiểu xảo chỉ làm vui mắt những kẻ hiếu kỳ, nhưng thường hay làm chết hồn Thơ là cái cần thiết, cái cốt yếu vậy.
KIM NHUNG cười lớn:
- Một nhà thơ Đường luật có tiếng là cân nhắc từng câu từng chữ, lại khuyên người không nên chú trọng về hình thức!
Lão liễm dung đáp:
- “Cân nhắc từng câu từng chữ: và “chú trọng hình thức” thật khác nhau xa lắm. Và “Chú trọng hình thức” với “lo tỉa vẽ những nét tiểu xảo” cũng khác nhau xa. Người có thi cốt như KIM NHUNG không nên lầm lẫn. Những sự lầm lẫn như thế hay nhường lại cho những người chưa hiểu Thơ cũng như những xảo kỷ kia nên nhường lại cho các thi công lấy thơ làm món tiêu khiển, món trang sức.
KIM NHUNG xin “lĩnh giáo”, nhưng lại nói: - Thú thật cũng Lão Vườn, Nhung thích đối quá, mặc dù biết rằng khó.
- Sở thích ấy đã biểu lộ trong những câu thơ lục bát:
Thuyền đi bến lại cô liêu,
Chân cò mặt sóng, cánh diều lưng mây.
Nước trôi ngày lại trôi ngày,
Lòng xao sóng lạnh, mây bay bóng thuyền.

Cách tiểu đối ấy báo trước rằng Kim Nhung sẽ đạt được ý muốn… Nhưng không nên say đắm mà sớm già như lão đó.
KIM NHUNG cười, ngâm:
Ngòi hoa mỗi nét thêm già giặn,
Mái tuyết nghìn thu vẫn trẻ trung.
Lão vỗ tay khen:
- Nữ nhi đáo thử thị hào hùng!
Chú thích:
(1), (2) Ở miền Trung từ Huế trở vào, những chữ có G đọc in những chữ không G, nên MANCÀN lộn với MANGCÀNG.
9. 
Cặm cụi cùng mấy giỏ hoa, từ hừng đông đến đứng bóng, mà không lựa được một nhánh xuất sắc để đem chưng bày ra vườn Thơ! Mỏi quá lão ra nằm khểnh dưới gốc mận, ngửa nhìn mặt trời lách qua tầng lá để “bắt chước những vì sao”. Thỉnh thoảng gió biển thổi đến làm rụng đôi ánh nắng đậu cành cao. Lão cao hứng nhịp đùi ngâm bài “Một buổi trưa mùa thu” trong Mùa Cổ Điển:
Gió tự mô về? Thổi đến mô?
Mấy cành sao rụng bóng hoa nô.
Đây vài giọt nhẹ rơi mưa lá,
Đó một màu im trải nắng hồ.
Tóc vướng hơi hương vườn thúy liễu,
Lòng nương tiếng địch bến vi lô.
Trưa Bồng Lai khẽ rung rinh biếc,
Nghiêng cả hồn thu xuống lững lờ.
Đương lúc lão “quên thiên hạ”, thì BA NẠI HÀMẠN ĐÀ HOA đến dựng dậy:
- Lão Vườn có vui lòng tiếp chúng tôi?
- Trong lúc nằm không mà có người đến nói chuyện thì còn gì thích thú bằng.
MẠN ĐÀ HOA: - Nếu câu chuyện không được thích thú, thì lỗi không phải tại nơi chúng tôi.
- Thì tại lão.
BA NẠI HÀ: - Đúng vậy. Vì trong câu chuyện nói cùng chị Kim Nhung hôm nọ, Lão Vườn có dùng mấy chữ “Uẩn nhưỡng tâm tư, Thôi xao từ điệu”, mà chúng tôi không được rõ nghĩa, nên nay đến thỉnh giáo.
Lão cười: - Đã gieo gió thì phải gặt bão, lão đâu dám phàn nàn. Vậy lão xin giải thích:
UẨN NHƯỠNG là nung nấu lâu ngày, nấu từ từ với một sức nóng điều độ, nấu cho đến lúc chín rục, nhuyễn bấn, như nấu rượu, nấu cao.
Làm thơ không nên vội vàng hấp tấp. Những ý niêm, những tình cảm, những tư tưởng… phải được nấu nung hun đúc cho thật chín, cho thật nhuyễn, nghĩa là phải được nghiền ngẫm, nhào nặn, phân tách, thử thách… cho thật kỹ rồi mới đưa ra cùng văn chương.
Như thế là uẩn nhưỡng, là phanh luyện.
Cổ nhân có câu:
Ngâm thành ngũ cá tự,
Dụng tận bán sanh tâm.
Nghĩa là: Làm nên được một câu thơ năm chữ, thì đã dùng hết tâm lực của nửa đời người.
Xem đó thì biết rằng cổ nhân làm thơ thật là công phu. Mà cũng nhờ có công uẩn nhưỡng phanh luyện, thơ của cổ nhân mới sống mãi với nghìn thu. Lòng của cổ nhân vẫn cùng lòng của người nghìn muôn thu sau giao cảm.
- Đó là “Uẩn nhưỡng tâm tư”. Còn “Thôi xao từ điệu”?
- Thôi là xô đẩy, thúc dục. XAO là gõ, đánh. Đó là nghĩa đen. THÔI XAO trong câu dùng theo nghĩa bóng. THÔI XAO TỪ ĐIỆU là lựa chữ, chuốt lời, gióng điệu... để diễn tả cho kỳ được những gì mình muốn diễn tả.
MẠN ĐÀ HOA: - Sao từ “Xô... Gõ...” mà lại biến thành “lựa, chuốt..” được ? Thật giống thuyết “Chim se sẻ hóa làm ngao biển” quá!
BA NẠI HÀ: - Không lẽ cổ nhân dùng chữ sai?
Lão đáp: - Ở đời, cái gì cũng có nguyên nhân.
Nguyên đời nhà Đường có một thi ông tên là GIÃ ĐẢO, tự là LÃNG TIÊN, hiệu là Kiệt Thạch Sơn nhân. Buổi thiếu thời cắt tóc đi tu, nhưng tính tình rất phóng khoáng.
Một hôm, nhân đêm trăng sáng đến tìm nhà ẩn sĩ Lý Ngưng, hứng cảnh được hai câu rằng:
Điểu túc trì biên thọ,
Tăng xao nguyệt hạ môn.
Nghĩa là: Chim ngủ nơi cây bên bờ ao, nhà sư gõ cửa dưới bóng nguyệt.
GIÃ rất lấy làm đắc ý, song lại muốn đổi chữ XAO ra chữ THÔI. Cân đi nhắc lại thấy chữ nào cũng hay cả, nên không thể quyết định lấy chữ nào bỏ chữ nào. Suốt đêm không ngủ được. Sáng ngày dậy đi lang thang hết đường này đến nẻo nọ, một tay ra hiệu xô, một tay giả bộ gõ… Xảy có quan Binh bộ thị lang là HÀN DŨ đi ngang qua, trông thấy lấy làm lạ, dừng xe lại hỏi. GIÃ ĐẢO nói thật sự tình. HÀN lấy làm thích thú xuống xe cùng GIÃ đến nơi gốc cây ngồi nói chuyện, và khuyên GIÃ nên để chữ XAO.
HÀN để chữ XAO, vì chữ này vừa tả được thái độ ung dung của nhà sư, vừa gợi được cảnh tĩnh mịch của đêm trăng trong nơi ẩn dật. Còn chữ THÔI và ngậm ý vội vàng, bài tỏ ra vô tình đối với ánh trăng trước cửa. Không ý vị bằng chữ XAO (1) 
MẠN ĐÀ HOA cười: - Có tích mới dịch ra tuồng... Nếu cứ chữ đầu nghĩa đó thì đố ai hiểu cho nổi! Mà người xưa làm thơ sao mà khổ công lắm vậy?
Lão đáp:
- Tính khổ công như thế mà nhiều khi còn không nói hết nỗi lòng, huống hồ hạ bút viết đại!
BA NẠI HÀ: - Nghe nói LÝ THÁI BẠCH một đấu rượu nghìn câu thơ, thì sao?
Lão cười:
- Nếu sự thật quả như vậy, thì thơ họ LÝ còn truyền lại, sau mấy mươi năm say ngâm, ngâm say, biết chứa vào đâu cho hết được? Nhưng thôi, hãy để vị Trích Tiên lại đó. Khi khác sẽ bàn đến. Bây giờ lão xin kể thêm một câu chuyện nữa về GIÃ ĐẢO cho vui.
- Hoan nghênh.
Một hôm khác, GIÃ ĐẢO cỡi lừa đi dạo quanh Tràng An. Nhân trông thấy lá vàng rụng đầy đất, bèn cao hứng ngâm:
Lạc diệp mãn Tràng An.
Nghĩa là: Lá rụng đầy cả Tràng An.
GIÃ thích chí vỗ tay cười lớn. Nhưng rồi tìm mãi không ra tứ cho vế đối, dong lừa đi lững thững trên đường, miệng lẩm ba lẩm bẩm… Chợt nhìn xuống sông… Gió xao sóng gợn làm nảy tứ, đối ngay:
Thu phong xuy Vị Thủy.
Nghĩa là: Gió thu thổi sông Vị Thủy.
Khoái quá đâm cuồng, GIÃ giục lừa nhảy lung tung, chẳng may nhảy xô vào xe quan đại doãn. Lính hầu bèn bắt giam cho đến sáng hôm sau mới tha về! (2)
Câu chuyện không mấy lúc mà truyền khắp Tràng An. Người đương thời có lời vịnh GIÃ rằng:
Kỵ lư xung đại doãn,
Đoạt quyển ngộ tuyên tôn.
Nghĩa là: Cỡi lừa xông vào quan đại doãn, giựt sách lầm phải đức tuyên tôn (đức vua). 
MẠN ĐÀ HOA: - Vế trên nói về chuyện “hứng bất tử” của Lãng Tiên. Còn vế dưới nói về việc gì?
- Trước hay sau việc “cỡi lừa đi dạo” đó, GIÃ đến thăm nhà sư chùa Pháp Kiền. Hai người ngồi nơi trai viện ngâm thơ. Vua Đường Văn Tôn vi phục đi chơi, ghé vào chùa thấy hai nhà sư ngồi đối diện ngâm nga ra vẻ đắc ý, bèn đến gần nghe. Nhân thấy quyển thơ để bên cạnh, thuận tay nhà vua cầm lên xem. GIÃ dằn lại, và mắng: “Nhà ngươi thật lỗ mãng! Biết gì mà xem?”. Vua bỏ đi ra. Giây lâu thị thần lẻn vào cho biết rằng người bị mắng là đương kim hoàng đế. GIÃ sợ toát mồ hôi. Sáng hôm sau đến phủ phục trước cửa đền vua xin chịu tội. Vua truyền tha…
Lão vừa dứt lời thì bê kia rào có tiếng cười hả hả: - Chàng thi sĩ thầy tu kia sao mà lắm chuyện?
Lão quay lại: - Nhờ vậy mới có kẻ núp rào nghe.
Ông bạn láng giềng lách rào bước sang: - Còn chuyện gì vui, hãy kể nghe cho hết buổi.
- Nhân vừa kể chuyện thi nhân gặp vua, lại vừa có kẻ núp rào nghe trộm, nên lão xin kể một chuyện cũng có thi sĩ cũng có vua mà cũng có núp…
MẠN ĐÀ HOA vỗ tay reo: - Thế thì thú lắm.
Ông bạn láng giềng cười lớn:
- Lão Vườn sẽ kể chuyện Đông Phương Sóc chớ gì?
- Không phải. Lão kể chuyện MẠNH HẠO NHIÊN.
- Chuyện họ MẠNH trông thấy nhà vua, sợ hãi chun xuống giường mà núp đó phải không?
- Phải.
- Biết rồi.
- “Đừng nói nữa, khổ lắm”?
BA NẠI HÀ: - Hai đứa tôi chưa biết.
MẠN ĐÀ HOA: - Để cho người biết rồi khỏi khổ lắm vì nghe nói nữa, tôi xin đề nghị người biết rồi kể lại chuyện Mạnh Hạo Nhiên.
Ông bạn láng giềng vuốt râu: - Tớ kể chuyện không có nhưng nhị. Song không hề gì, vì câu chuyện, tự nó đã đủ hương, đủ vị rồi. Vậy nghe đây:
MẠNH HẠO NHIÊN là một thi nhân đứng vào bậc niên trưởng đời Thịnh Đường. Người có khí tiết, thích an nhàn, không chịu xuất sĩ, ẩn cư trong núi Lộc Môn. Thi tiên Lý Bạch, thi thánh Đỗ Phủ... đều tôn xưng là Phu tử, là tiên sinh.
Tiên sinh  là bạn học cùng VƯƠNG DUY. Lúc họ VƯƠNG làm Thượng thư Hữu thừa ở Tràng An, tiên sinh tìm đến thăm, và ở chơi cùng bạn. Một hôm hai người đương ngồi bình luận văn thơ nơi sảnh đường, thì tình cờ vua Đường Huyền Tôn đến. MẠNH tiên sinh sợ hãi liền tụt xuống gầm giường mà trốn, để một mình họ VƯƠNG ra nghinh giá. Nhà vua vào thấy vật dụng bày chung quanh, biết là vừa có khách ngồi nói chuyện, bèn phán hỏi. VƯƠNG không dám dấu sự thật. Nhà vua mừng rỡ phán: "Trẫm nghe danh đã lâu nhưng chưa biết mặt. Nay gặp đây, việc gì phải trốn”. Đoạn gọi tiên sinh ra, bảo ngồi và đòi nghe thi phẩm. Tiên sinh phụng mệnh.
Khi nghe đọc bài “Quy Chung Nam Sơn” có câu:
Bất tài minh chúa khí
Đa bệnh cố nhân sơ
Nghĩa là “Không tài minh chúa bỏ, lắm bệnh cố nhân sưa”, thì nhà vua cười, phán: “Đó là khanh không chịu đến với trẫm, chứ trẫm có bỏ khanh đâu, sao lại nói vu như thế?”. Tiên sinh làm thinh. Nhà vua bảo Vương Duy khuyên ở lại giúp việc nước, nhưng tiên sinh cố từ, và rồi trở về núi.
Lão tiếp: - MẠNH HẠO NHIÊNVƯƠNG DUY là hai thi nhân có tiếng là khổ ngâm. Họ MẠNH mỗi lần ngâm xong một bài thi thì lông mày rụng gần hết! Còn VƯƠNG DUY có lần cấu tứ chạy xả vào  vò dấm! Làm thơ khắc khổ như thế, mà thơ hai nhà vẫn ung dung hoà nhã như tuồng hạ bút thành văn. VIÊN TỬ TÀI khen là “Thiên y vô phùng” nghĩa là “Áo trời không đường may”.
BA NẠI HÀ: - Làm thơ mà khổ công như thế thì còn gì hứng thú?
Lão đáp:
- Có từng sống với Thơ mới thấu triệt được nỗi khổ sướng. Người đời Đường có câu:
Khổ ngâm tăng nhập định,
Đắc cú tướng thành công.
Nghĩa là: Khách thơ khi làm thơ dụng công khó nhọc chẳng khác nhà sư tham thiền để vào định xứ; Đến khi làm được câu thơ đắc ý thì lại vui sướng không thua một ông tướng xuất trận được thành công.
Công phu như thế, thích thú thế mà rủi gặp phải một người xem thơ không biết mùi vị thì thật là bất hạnh! Bởi vậy Giã Đảo có câu:
Lưỡng cú tam niên đắc,
Nhất ngâm song lệ lưu!
Tri âm như bất ngộ
Quy ngọa cố sơn thu.
Tạm dịch là:
Ba năm lòng gởi đôi câu,
Ngâm lên một tiếng lệ châu ướt dầm!
Đường đời không gặp tri âm,
Non xưa trở lại ôm nằm với thu.

MẠN ĐÀ HOA: - Thật là cảm động! Đó là “tấc lòng gởi vào thiên cổ” Dẫu đến người vô tâm đọc lên e cũng phải động tâm.
Lão nói: - Thơ mà truyền cảm được như thế là nhờ công uẩn nhưỡng.
BA NẠI HÀ: - Nhưng văn chương lại rất bình dị, nghe qua tưởng ai cũng có thể làm được dễ dàng.
Ông bạn láng giềng: - Biết đâu tác giả lại không mất ăn mất ngủ vì thôi xao. Nếu không có sách vở để lại thì chúng ta làm gì biết được họ GIÃ, họ MẠNH, Họ VƯƠNG… Làm thơ khổ khắc, khi chúng ta rung đùi thưởng thức giai phẩm của quý ông. Nhớ đến câu thơ của Tản Đà:
Dâu xanh rút trả sợi tơ vàng,
Thân thế con tằm như tớ nhĩ,
Tơ tằm đòi đoạn mối văn chương!
Và:
Bao nhiêu củi nước mới thành văn,
Được bán văn ra chết mấy lần!
Mà thêm thương cho người kim cổ sống về nghiệp văn thơ!
Lão cười:
-  Làm thơ là lẽ sống của con nhà thơ, cũng như kéo tơ là lẽ sống của con tằm. Lão tưởng không có chi đáng thương cả. Chưa biết chừng những kẻ chung số kiếp với tằm kia lại trở thương hại chúng ta là người không có lẽ sống như họ… Âu là ai lo nghiệp nấy, chẳng cần ai thương hại ai…
Câu chuyện đương nồng thì bóng mặt trời đã lách vào song tây. Lão nhìn khách ngâm khẽ khẽ:
Tịch dương vô hạn hảo,
Chỉ thị cận hoàng hôn!
Ong bạn láng giềng ngâm đáp:
Thiên ý lân u thao,
Nhân nhàn ái vãn tình.

MẠN ĐÀ HOABA NẠI HÀ hỏi: - Là nghĩa làm sao?
Lão đáp: - Câu trên là câu thơ Đường, nghĩa là “Bóng nắng chiều thật tốt vô hạn, nhưng lại là lúc gần đến hoàng hôn”.
Ông bạn láng giềng: - Còn câu dưới, tớ mượn trong Tùy Viên Thi Thoại, ý nói: “Ý trời vốn thương những giống cỏ mọc nơi thâm sơn u cốc; còn người nhàn lại yêu bóng trời chiều tạnh ráo”. Như thế buổi mai có cái Đẹp cái quý buổi mai, buổi chiều có cái Đẹp cái quí buổi chiều… Việc gì phải nghĩ ngợi…
Chủ khách cả cười: - Như thế là ngày hôm nay của chúng ta không mất vậy.
Chú thích:
(1) Đã nói rõ trong bài “Thôi Xao” ở trước (chương Đ mục 1)
(2) Đã nói ở chương Đ mục 1 ở trước.
Quách Tấn
Theo https://dinhquat.blogspot.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Những trường đại học của tôi 2XXX

Những trường đại học của tôi 2 Kèm theo lời nói, cánh tay trái lông lá của ông ta làm điệu bộ giống như chém vào không khí, còn tay phải t...