Thứ Bảy, 6 tháng 3, 2021

Trong vườn hoa thơ 4

Trong vườn hoa thơ 4

16- Tiếp khách hoa thơ [4]
10.
Hai ông bạn già VÂN SƠNĐỨC HUY đến vườn tìm mấy bận đều thấy cửa đóng, bèn thẳng đến thảo lư của lão.
- Bớ Lão Vườn, lâu nay làm gì mà vắng tăm vắng dạng như thế?
Lão đương lom khom rảy nước cho mấy giỏ hoa vừa nhận được, nghe tiếng người quen liền bước ra đón:
- Chà! Đến cả cặp. Thú quá!
- Háo khách như thế mà sao lại đóng cửa vườn?
- Vì mưa gió…
Bác VÂN SƠN thong thả đọc:
Chẳng tạnh cho mình ngó chút chơi
Gió mưa sao cứ gió mưa hoài!
Hai hàng lụy ngọc tuôn vì nước,
Một tấm lòng son ngó với trời
Trước mắt thấy mây giăng lớp lớp.
Bên tai nghe sét đánh nơi nơi,
Gió mưa chẳng tiện bề lui tới,
Kẻ ở trong trông kẻ ở ngoài.
Bác ĐỨC HUY vuốt râu cười:
- Hay thì hay thật, song không hợp cảnh hợp thời!
Bác VÂN SƠN đáp: - Hợp thế nào được, vì thơ làm đã trên năm mươi năm nay, lúc Phan Sào Nam tiên sinh còn ở hải ngoại. Đó là tấc lòng của một nhà ái quốc nóng chờ tin tức của các đồng chí xuất dương. Nay nghe Lão Vườn thốt hai chữ “Gió mưa” chợt nhớ đến ngâm cho vui vậy thôi.
- Tác giả là ai?
- Không được rõ.
Lão chen vào:
- Thơ của các nhà ái quốc tiền bối có nhiều bài rất hay, ngọc lấp hương tan, nhưng vì không có người sưu tập nên bị mai một gần hết. Thật là uổng!
Bác VÂN SƠN liền ngâm:
Vì lòng thương ngọc tiếc hương,
Nhặt hoa đem trải lên vườn hoa thơ…
Phụ phàng dù gió dù mưa,
Nghìn sau thơm thắm vẫn lưa ít nhiều.
Đoạn nói:
- Xin tặng lão vườn mấy câu lạo thảo. Và Lão Vườn lâu nay chắc thâm lượm được nhiều hoa thơ, hãy đem ra cho nhau thưởng thức với.
Lão trải chiếu nơi hiên mận rồi vào lấy hoa đem ra:
- Đây “Những cành nhớ nhung” của các thi hữu đất Bình Khê vừa gởi đến. Nhờ hai bác lựa giùm những đóa thơm tươi.
Hai ông bạn trịnh trọng đón hoa… Hồi lâu đưa ra một cành:
Bấy chầy lão phố lánh nơi đâu
Mà để vườn thơ vắng trước sau?!
Hường huệ ngổn ngang sầu cỏ rối;
Liễu dương sùi sụt lệ mưa ngâu...
Chờ mong tin gió đưa chim thước,
Thương nhớ hoa xuân trỗ mái đầu.
Đường trạm biết vui về lũng thủ
Giang Nam cành mộng gởi trao nhau.
Bác Đức Huy cười:
- Người tặng hoa không để tên, nhưng nghe hơi hám cũng có thể đoán biết là giai nhân.
Bác Vân Sơn tiếp: - Nếu giai nhân thì càng tốt bằng không phải giai nhân cũng không sao. Điều cốt yếu là thử xem có chi xuất sắc chăng vậy.
Lão đáp:
- Cặp trạng từ điệu đáng yêu. Người làm thơ thường thường ngắt hơi ở chữ thứ tư, chữ thứ ba, chớ ít khi nghỉ ở chữ thứ 5 hay chữ thứ nhất.
Vân Sơn: - Tôi muốn bỏ phức dấu hai chấm, để ai muốn đọc sao thì đọc hiểu sao thì hiểu. Cành hoa nửa ẩn nửa hiện trông mới thật là đẹp, ngắm mới thật là thú. Các bác nghĩ sao?
- Đồng ý.
Bác ĐỨC HUY phê tiếp: - Cặp luận, vế dưới hay, vế trên hơi kém.
Bác VÂN SƠN cãi: - Không kém. Hai vế đối nhau đã cân mà ý tứ lại rất liền lạc. Đọc hai câu này tôi liên tưởng đến câu:
Hỏi thăm tin tức bao giờ lại,
Con thước qua song lại ỡm ờ!
Trong Mùa Cổ Điển, câu:
Tương tư  nhuốm nửa mái đầu hoa râm.
Trong Đoạn Trường Tân Thanh, và câu Đường thi:
Cổ Viên thơ động kinh niên tuyệt,
Ba phát xuân thôi mãn kính sanh.
Mà Trường Xuyên đã dịch là:
Năm mòn mỏi mắt tin nhà vắng,
Hoa trập trùng gương mái tóc sanh.
Khi làm hai câu:
Chờ mong tin gió đưa chim thước,
Thương nhớ hoa xuân trổ mái đầu.
Không biết tác giả có nghĩ đến mấy câu kia chăng?
ĐỨC HUY: - Chưa chắc. Có nhiều khi tình cờ ý người này trùng ý người nọ. Cho nên Tây triết có câu: “Những kẻ đại tài thường gặp ý nhau" (Les grands esprits se rencontrent).
Lão bồi thêm:
- Chính thế. Vô tâm mà giống nhau là chuyện thường trong làng văn thơ. Tùy Viên có trích dẫn hai câu thơ của hai thi nhân ở cách xa hàng vạn dặm và chưa hề quen biết nhau, mà tình ý giống nhau như hai anh em ruột. Một câu trong bài “Ngẫu thành” của Đào Hoàng Thôn rằng:
Đa tình chỉ hữu tiêu tiêu trúc,
Thời đới tà dương lục đáo song.
Nghĩa là:
Đa tình riêng khóm trúc hoa,
Ngày ngày đeo ánh dương tà vào song.
Và một câu trong bài “Lương giai” của Diêu Cơ Truyền rằng:
Nhân tích bất như tu trúc ảnh,
Mỗi tùy minh nguyệt đáo trung đình.
Nghĩa là:
Dấu người thua bóng trúc xanh
Đêm đêm theo ánh trăng thanh vào thềm.
VÂN SƠN: - Hay quá!
ĐỨC HUY: - Mà dù có mượn ý của nhau cũng không sao, miễn lời văn đừng giống nhau là được. Các nhà văn nhà thơ khác nhau ở cách diễn tả, mà hơn nhau cũng ở cách diễn tả. Còn ý thì ai cũng thể có những ý hay.
Lão biểu đồng: - Huống nữa, mượn ý nhau, người xưa cũng thường có. Như Lý Thái Bạch mượn thơ Tạ Khương Nhạc, Đỗ Phủ tập thơ Dũ Tử Sơn, Âu Dương Tu phỏng thơ họ Hàn… Có người cho là “du dạo”, Lưu Cống Phủ cười đáp: “Nhưng không thiệt hại đến sự chủ”.
VÂN SƠN: - Nhiều khi những gì mình thâu thập được trong sách vở ăn sâu vào đáy lòng, rồi lúc cao hứng, vụt tuôn ra một cách bất ngờ khiến mình ngỡ rằng chính mình đã nghĩ được.
Lão đáp: - Quả có thế. Và đó là “tiêu hóa”: Đồ ăn ăn vào đã biến thành khí huyết. Những “ gì ấy” trước kia là của sách vở, mà một khi đã thấm vào lòng rồi tuôn ra bút như thế, thì trở thành của mình chớ không còn là của sách vở nữa. Ví dụ bọn già mình đây dùng cho thật nhiều nhung nhiều lộc giác giao vào rồi sanh thêm út một út hai nữa, thì những út đó là con cái nhà mình, chớ nào phải con hươu con nai.
Bác VÂN SƠN vỗ vế cười ngất: - Lão Vườn ví dụ thú vị quá!
Bác Đức Huy, tai thì để nơi câu chuyện, còn mắt thì để vào giỏ hoa, và tay luôn luôn tỉa lựa. Nghe Lão nói, liền giơ cao một nhánh hoa thơ, cười hả hả: - Lão già phong tình! Hèn chi TIÊU LIÊU TẨU gởi nhắn rằng:
Ông bảo rằng ông tuổi tác già…
Ông già ông vẫn khác người ta:
Nguyệt lồng gối mộng say sưa nguyệt,
Hoa bén vườn thơ ấp ủ hoa.
Đầy vạt thanh sam hương phấn điểm,
Quên đài minh cảnh tuyết sương pha.
Đường đời còn lắm duyên tri ngộ,
Gậy chạm đầu cưu hãy chống ra. (1)
Bác VÂN SƠN khen:
- Cha chả! Ông lão nào đây mà văn chương tươi trẻ như thế?
Lão đáp: - Đó cũng là giống phong tình, già một lớp da ba lớp mỡ đó.
Bác ĐỨC HUY khích: - Tiêu Liêu Tẩu khai chiến. Lão Vườn định nghinh chiến hay qui hàng?
VÂN SƠN: - Qui hàng thế nào được. Chúng mình buộc lão phải giao phong kẻo mất danh lão tướng.
Vốn không “tập vợt” đã lâu ngày, không còn đủ khí lực, song bị thôi thúc, lão phải cố gắng hươi tay:
Tôi đã già rồi, bác cũng già,
Phong lưu còn nặng nợ đôi ta.
Xùng xình với nguyệt vì ưa nguyệt,
Ấp ủ giùm hoa kẻo lạnh hoa.
Hương ngấm lòng thơ riêng ấm áp,
Gương vờn mái tuyết lắm phôi pha.
Vườn xưa tạm đóng phòng mưa gió
Mừng đón dương xuân hé mở ra… 
Bác VÂN SƠN vuốt râu khen:
- Giỏi! Giỏi lắm! Rõ là:
Ông già, già tóc, già râu,
Những ngón tí tửng ông đâu có già!
Bác ĐỨC HUY cao hứng họa ngay bài lão:
Tuổi tác tuy già tâm chẳng già,
Trần gian lắm kẻ há riêng ta.
Đeo gương ngắm nguyệt say tình nguyệt,
Chống gậy tìm hoa bẻ nhụy hoa.
Hương sắc trăm năm cho thắm đượm,
Phong trần hai mái mặc phôi pha.
Phải như lão phố người tri kỷ
Thời cửa vườn thơ mở rộng ra.
Bác VÂN SƠN tán thưởng: - Lanh lắm! Lanh lắm! Thật là:
Ông già ông khác người ta,
Cười hoa cợt nguyệt ông ma hơn người.
Bác Đức Huy nhìn bác Vân Sơn:
- Tới phiên bác.
- Thôi, vừa rồi. Huống nữa ai nấy đều hát thì còn ai cầm chầu.
- Ừ, thì gióng chầu lên.
- Nãy giờ đánh trống thưởng đã nhiều rồi, bây giờ xin gõ tang chút chơi: Hai bài của Tiêu Liêu Tẩu và của Lão Vườn không có gì đáng nọc. Có thể gọi là toàn bích. Riêng bài của Đức Huy, ba chữ “bẻ nhụy hoa” lời thanh nhưng ý không nhã. Đề nghị sửa lại.
Lão đồng ý.
Đức Huy cười: - Thì tìm cho ba chữ khác.
Lão đáp: - Nên sửa là “Đẹp ý hoa”.
Bác VÂN SƠN vỗ tay khen:
- Hay! Lời nhã, đối chỉnh, ý kín, lại đổi hẳn khí thế câu thơ. Câu nguyên tác chỉ diễn tả hành vi của người đeo gương chống gậy. Nguyệt và hoa bị thụ động, người ngoài không rõ được phản ứng của chúng như sao. Còn trong câu:
Đeo gương ngắm nguyệt say tình nguyệt,
Chống gậy tìm hoa đẹp ý hoa.
Thì bên năng (người chống gậy đeo gương), bên sở (hoa nguyệt) tương ứng, có vẻ ý hiệp tâm đầu. Trong nguyên tác vì hai chữ “ bẻ nhụy” rõ ràng là nói về người chống gậy, cho nên hai chữ “say tình” ở trên nhất định phải thuộc về người đeo gương. Trong câu phủ chính, chữ “đẹp” là của hoa, nên chữ “say” trở thành của nguyệt. Trong câu nguyên tác, ý đi xuôi một chiều như dòng nước xuống biển. Trong câu phủ chính có hô có ứng, như tiếng gọi buông ra tiếng vang dội lại. Khí thế của hai câu khác nhau ở chỗ đó. 
Bác ĐỨC HUY gật đầu. Lão hỏi: - Trong giỏ hoa còn nhành nào khả thủ chăng?
- Muốn tìm một nhánh danh hoa mà không thấy.
- Diêu hoàng Ngụy Tử làm gì có được nhiều. Trong cơn mưa nắng thất thường mà tìm thấy được một nạm hoa ngâu, một búng hoa lài cũng đã đáng quí rồi vậy.
- Thì đây, nhánh hoa lài của Vương Kính Sơn:
Vườn thơ vắng lão nhặt hoa thơ,
Con én rường cao đứng thẫn thờ!
Lạnh lẽo thềm mai hương gởi gió,
Bơ phờ mái liễu nhện buông tơ...
Ba xuân du tử buồn qua lại,
Bốn bể tri âm luống đợi chờ.
Ngoài dặm ráng mây tình có thắm,
Phấn hương vườn cũ nỡ thờ ơ?! 
Và đây khóm hoa ngâu của Trương Ỷ Hương:
Vườn thơ vắng lão giữ vườn,
Để lan chờ đợi để hường nhớ nhung!
Cầm trăng liễu để tơ chùng,
Thềm mai để mộng lạnh lùng hương khuya.
Gió xuân mấy độ đi về,
Hoa không người hứng quanh hè hoa rơi!
Ráng mây tầm mát chơi vơi...
Ai tri âm đó? Đây lời tri âm. 
Bác VÂN SƠN ngồi trầm ngâm hồi lâu rồi nói:
- Giá không sánh kịp hải đường tường vi, song cao hơn hoa lài hoa ngâu một bậc. Bài của Ỷ Hương có thể sánh với hoa cẩm nhung. Còn bài của Kỉnh Sơn thì chưa tìm ra giống hoa thích đáng..
Bác ĐỨC HUY ngắt lời: - Thì để đó đã. Bây giờ xin cho biết Kính Sơn dùng chim én vào thơ có ý gì chăng?
Lão đáp: - Tác giả họ Vương nên mượn chim én để nói mình, vì Đường Thi có câu:
Cựu thời Vương Tạ đình tiền yến
Phi nhập tầm thường bách tánh gia.
Nghĩa là:
Én xưa đình Tạ đình Vương
Lạc loài đến chốn tầm thường nhân gia.
VÂN SƠN:
- Con én trong vườn hoa thơ lại không bay đi nơi khác, mà cứ đậu nơi rường cao mà chờ lão vườn. Có tình thật!
ĐỨC HUY:
- Hai bài này, bài của Ỷ HƯƠNG trội hơn bài của KỈNH SƠN.
Bác Vân Sơn đồng ý. Lão tiếp:
- Khi nãy bác ĐỨC HUY có nói đến cách diễn tả. Chúng ta có thể mượn hai bài này để chứng minh lời nói ấy. Trong hai bài này có nhiều ý giống nhau, và mối tình nhớ thương cũng không lấy gì làm khác cho lắm. Riêng nói về câu 3 câu 4 của hai bài: Kính Sơn và Ỷ Hương đều dùng liễu dùng mai để tả nổi lòng của mình. Nhưng đọc lên câu của Ỷ Hương rung cảm chúng ta hơn câu của Kính Sơn. Vì sao vậy? Chẳng phải vì câu của Ỷ Hương giàu hình ảnh và giàu âm nhạc hơn câu của Kính Sơn đó ư?
VÂN SƠN: - Nghĩa là kỹ thuật của Ỷ HƯƠNG tinh diệu hơn Kính Sơn?
- Chính thế. Các nhà văn thơ khác nhau ở kỷ thuật và hơn kém nhau cũng do kỷ thuật. Lời của bác Đức Huy quả thật đúng vậy.
ĐỨC HUY: - Nhưng có kỹ thuật mà không có tâm hồn thì trở thành những anh thợ làm hoa giấy.
Lão tiếp: - Còn có tâm hồn mà không có kỹ thuật thì chẳng khác có giống hoa quý trong tay mà không biết cách trồng trỉa.
VÂN SƠN: - Tức là nội dung và hình thức phải tương xứng thì tác phẩm mới thành giai phẩm, bằng mích một bên thì là hạ phẩm. Hoa dúi dẻ có hương, hoa bìm bìm có sắc, nhưng chỉ có các em bé là bạn tương tri. Còn những nhánh hoa thơ chúng mình lựa nãy giờ, tuy không phải “quốc sắc thiên hương” song sắc hương đều có đủ, thật đáng đem chưng nơi phòng khách, phòng văn.
Lão toan vào lấy thêm một ít hoa nữa ra nhờ lựa giùm, nhưng bác Đức Huy bác:
- Để hôm khác. Hôm nay chừng nớ tạm đủ dùng để tiếp khách yêu hoa.
Bác VÂN SƠN tiếp: - Bữa nay nhân trời tốt, lại lựa được một ít hoa vừa ý, âu là chúng ta giúp lão vườn dọn dẹp để mở cửa vườn trở lại.
Thế là dưới ánh nắng vàng dịu buổi mai cuối xuân, ba mái tóc bạc bay phất phơ theo ngọn gió nồm, trong mảnh vườn nhỏ mà rêu đã phong nửa đường lối đi. Chốc chốc vang lên tiếng cười tích tác và tiếng ngâm nga:
- Ra công quến mận vun đào
Nghìn thu hương phấn thấm vào văn chương.
- Trải lòng dấp hạnh ủ hường,
Ngòi hoa chi ngại gió sương phụ phàng. 
- Chút tình thương huệ tiếc lan.
Từng xâu ngọc đúc từng hàng sao đông.
Chú thích:
(1) Chim cưu là giống chim ăn không nghẹn. Cây gậy ông già chạm đầu chim, có ý như ăn uống ngon lành.
16- Tiếp khách hoa thơ [5]
11
. 
Bóng mặt trời vừa lên khỏi rặng núi phương đông. Gió biển thổi dìu dịu. Một mình ngồi dưới gốc mận già, lão ung dung mở từng bó hoa thơ của bạn phương xa gởi đến để so hương đọ phấn. Chợt ông bạn già LA DUNG và cô bạn trẻ TUYẾT MAI đến kêu mở cửa vườn. Lão vội vàng ra đón khách với niềm hân hoan của tuổi già nở hoa. 
LA DUNG hỏi: - Lão Vườn đương làm gì đó?
-  Tuyển hoa khôi.
TUYẾT MAI mỉm cười: - Hẳn là “Nghìn thắm trăm thơm đấu mỹ miều”?
Lão đáp:
Từng quen với lửa cao vàng đá.
Trót gọi rằng hoa tụ phấn hương.
LA DUNG tỏ vẻ nghi ngờ: - Như thế thì tấc cả hoa thơ gởi đến lão vườn chắc đều được nâng niu tán thưởng?
Lão cười:
Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi,
Thơ hay chẳng luận của người của ta.
Khách cả cười và mỗi người trao tặng lão một bó hoa bọc kín. Lão toan mở giấy, LA DUNG ngăn lại: - Khoan. Hãy cho xem hoa trong vườn lão trước đã.
Lão đưa khách đến bên giỏ hoa lão vừa soạn. LA DUNG vói rút một nhánh thuận tay, xem qua rồi nói: - Đây là “Cành hoa anh thảo” của VŨ HUYỀN DƯ ở Huế. Vũ quân gặp trên đường Van Thế cành hoa ấy, thấy có hương có sắc bèn nhặt gởi tặng lão vườn. Cả nhánh trổi nhất là hai đóa này:
Nhặt chiếc hoa rơi xin kính lão
Hương lòng hòa nhịp sắc hương hoa.
TUYẾT MAI phê bình: - Kể cũng có tình, song ai lại nhặt hoa rơi mà tặng? Nếu có thương hoa thì Vũ quân nên “Nhặt cánh hoa về ấp ủ hương” Còn muốn gởi tặng lão vườn thì thiếu chi hoa tươi trên cành? Nhặt hoa rơi dưới đất, dù là danh hoa đi nữa cũng là thất lễ, huống hồ anh thảo hoa.
Lão nói: - Đó chỉ do chỗ nghĩ không chín của Vũ Quân, chớ xem tình ý trong thơ thì thấy Vũ Quân có lòng muốn “đắc thọ”.
LA DUNG: - Tình thì quá đáng mến, nhưng lý thì không thể không trách. Khách phong tao cần phải thận trọng khi ngọn bút vào tay.
Lão tiếp: - VƯƠNG KINH CÔNG đời Tống nói rằng: “Chữ THI một bên chữ NGÔN, một bên chữ Tự. Tự là nơi quan cửu khanh ở, lời nói phi lễ phép không được vào”. (Thi giã TỰ NGÔN giã. Tự vị cữu khanh sở cư, phi lễ phép chi ngôn bất nhập). Đó là sợ kẻ làm thi mang lỗi bất kính nên KINH CÔNG mới nói ra lời ấy. Vì phần đông bạn thanh niên ít xem cổ văn nên không biết vậy.
TUYẾT MAI đón cành hoa xem kỹ: - Vũ Quân sắp xếp những cánh hoa đầu cành thành chữ LÀNH MẠNH, kể cũng đã công phu.
LA DUNG: - Đó là cách chơi chữ rất phổ thông trong làng thi Đường luật, và là ngón sở trường của những bạn lấy thơ làm món tiêu khiển như rượu cờ. Muốn trở nên một nhà thơ chân chính (un poète) thì những món tiểu xảo như thế nên nhường lại cho các ông thợ làm thơ (les versificateurs).
Lão nói thêm: - Trong một bài thơ, cũng như trong một khóm hoa, tình ý là gốc, từ cú là nhánh. Ca dao có câu:
Tiếc công vun quến cây tùng.
Săm soi trên ngọn dưới gốc sùng không hay.
Và cổ nhân dạy rằng: “Làm thơ trước hết phải lập ý. Ý lập được rồi thì lời tự đạt, vận tự hiệp, bài dễ tự thành. Nếu chẳng lo lập ý mà cứ lo trau dồi từng câu từng chữ, thì dù không rơi  vào chỗ cắt xé, cũng rơi vào chỗ chắp vá”.
Việc chuốt chữ còn phải tránh huống hồ việc chơi chữ. Phải tránh vì không khéo bị lâm vào cảnh “vun quến cây tùng”.
TUYẾT MAI: - Theo lời lão vườn vừa nói thì thơ hay ở ý. Nhưng đã có lần lão bảo rằng “Thơ là giai nhân nên trước hết phải đẹp”. Hai lời nói dường như mâu thuẫn nhau.
- Không có gì là mâu thuẫn. Thơ là giai nhân, giai nhân là hoa. Cho nên Thơ cũng như giai nhân trước hết phải đẹp. Đó là chân lý của muôn thuở. Nhưng giai nhân mà có là nhờ thịt nhờ xương. Tình ý là xương của thơ, mà từ cứ là thịt. Và giai nhân đẹp là nhờ thịt, nhưng nếu không có xương, hoặc xương bị gãy hay bị cong, thì liệu thịt có thể tự chải chuốt cho giai nhân trở nên đẹp?
LA DUNG: - Người năng thuyết phải tùy đối tượng mà thuyết, thì sở thuyết mới có hiệu quả đối với người nghe. Lão Vườn đã theo phép ấy.
TUYẾT MAI gật đầu, rồi lựa chọn một nhành hoa vừa ý đưa ra giới thiệu: - Đây nhánh “Sầu trăng” của CAO HOÀNG NHÂN, một nhánh hoa, theo ý tôi, có thể gọi là hoàn hảo:
Rạo rực hồn yêu là bóng trăng,
Mang mang tình ái vướng gương Hằng.
Triều thơ tưởng vọng chìm hương quế,
Sóng lệ hoài mơ loáng gác Đằng.
Nửa mảnh trời êm sầu vợi vợi..
Một màn sương dịu nhớ giăng giăng.
Người ơi! Hương lạnh trang tình sử,
Hư ảnh người xây mộng kịp chăng? 
LA DUNG khen “thanh tao”, rồi hỏi lão: - CAO HOÀNG NHÂN là ai?
- Là một thanh niên trước đây tòng học ban Trung Học đệ nhị cấp trường Võ Tánh Nha Trang, hiện làm giáo sư một trường tư thục ở Phan Rang. CAO HOÀNG NHÂN có thi tài, nhưng thi học chưa được sâu rộng, nên thi phẩm thường được hoa lệ mà thiếu phần hàm súc, thâm thúy. Tuy vậy không có gì đáng ngại: Tuổi chàng đương trẻ, sức chàng đương hăng, bước tiến của chàng trên đường văn nghệ sẽ đi xa chưa biết đến đâu là cùng nếu chàng chịu khó nghiên cứu thêm văn chương Ầu, Á.
- Sách Á cũng như sách Âu dạy phép làm văn làm thơ thật là sâu xa, rành mạch. Rất tiếc phần đông thanh niên ta hiện giờ Hán văn đã kém mà Pháp văn cũng kém. Còn bên quốc văn lại chỉ có lơ thơ đôi quyển thi pháp nhập môn quá ư sơ lược. Kẻ cầu tiến bộ thật không biết đâu để đặt chân.
TUYẾT MAI: - Tôi thường nghe nói rằng: Thơ hay là do thiên tài chớ không phải nhờ học vấn. Như Anh Thơ. NGUYỄN BÍNH,… thời tiền chiến, học lực không quá mức tiểu học mà văn chương vẫn nổi tiếng một thời.
Lão đáp: - Không phải rằng đậu bằng nọ bằng kia mới gọi là có học. Cũng không phải đọc được thiên kinh vạn quyển mới gọi rằng có học. Học là thâu thập những tinh ba của người xưa người nay gởi trong sách vở, rồi nhào trộn biến chế thành vật sở hữu riêng biệt của mình, như con ong hút mật, con tằm ăn dâu…
TUYẾT MAI: - Nhưng có lắm người học vấn uyên thâm mà suốt đời không thấy một thi phẩm truyền tụng. Như thế học vấn có lợi gì cho thơ?
Lão cười: - Dường như NGHIÊM VÕ ngày xưa biết trước rằng TUYẾT MAI sẽ thắc mắc điểm ấy nên đã giải thích rành mạch.
- Giải thích thế nào?
- Rằng: “Thi có biệt tài chớ không quan hệ ở sách. Thi có biệt thú chớ không quan hệ ở lý. Nhưng không đọc nhiều sách, không hiểu thấu lý, thì thi không đến chỗ cùng tột được”. (Thi hữu biệt tài phi quan thơ giã. Thi hữu biệt thú phi quan lý giã. Nhiên phi đa độc thơ đa cùng lý, tắc bất năng cực kỳ chí giã). Lưu Tri Cơ: “Có tài không có học như người thợ mộc khéo thiếu gỗ, không hay vận búa được. Có học không có tài như người đi buôn ngốc cầm vàng, không hay chứa hàng được” (Hữu tài vô học như xảo tượng vô mộc, bất năng vận cân. Hữu học vô tài như ngu cổ thao kim, bất năng đồn hóa). Lão xin nói thêm cho “rậm đám”: Thiên tài là giống tốt của trời gieo, học vấn là phân nước của người bón tưới. Giống dù tốt đến đâu mà thiếu nước thiếu phân thì lộc có nảy chồi có sanh đi nữa cũng không được thạnh mậu. Nếu NGUYỄN BÍNH, ANH THƠ... chịu khó học hỏi thêm thì sự nghiệp văn chương nhất định sẽ cao thêm năm mười bậc nữa.
Nhưng thôi, lý luận mãi sanh nhàm. Hãy lo thưởng thức những hoa còn lại ở trước mắt. 
TUYẾT MAI lựa thêm được hai nhánh. Một nhánh của Hoàng Khanh ở Bình Định đối chọi nhánh “Nhắn lão vườn” của nữ độc giả đã được giới thiệu kỳ trước. Một nhánh của VŨ TÒNG ở Kon Tum “Gởi tặng lão Vườn Thơ”. Nàng cầm xem hồi lâu rồi lấy kéo xắp những lá lảy rườm rà và những đóa hoa bầm héo, chỉ còn để mỗi nhánh hai đóa song sanh.
Đây là hoa của họ Hoàng:
Xuân gầy gõ bướm duyên cành phấn
Thu sụt sùi mưa lệ bến ngâu.
Và đây thơ họ :
Bút ngưng ý nhạc lời gieo ngọc
Mực thấm tình hoa giấy trải hương. 
LA DUNG khen hay. Lão nói:
- Nếu không nhờ bàn tay khéo léo của TUYẾT MAI thì những đóa hoa kia đã bị khuất  lấp trong mớ lá rậm hoa hư. Giai nhân lắm lúc thật có lợi cho văn chương lắm vậy.
TUYẾT MAI mỉm cười. LA DUNG vội lấy lại bó hoa trao cho lão khi nãy:
- Phải lắm, những gì không đáng để mà để lại thì rất bất lợi cho những cái đáng để.
Nói đoạn mở vất tất cả những giỏ hoa, chỉ để lại có hai nhánh. Một “tức cảnh”, một “tức sự” và mỗi nhánh chỉ còn vỏn vẹn có hai đóa hoa tịnh để cân phân:
Mây hồng nắng hạ non xung bạc
Trăng gợn song thu nước mạ vàng.
- Nhẹ gót non mai choàng gió mát,
Neo thuyền bến lách vọc trăng trong.
Lão khen:
- Đẹp! Cặp trên dụng công. Cặp dưới tự nhiên, ba chữ “vọc trăng trong” thật liến!
TUYẾT MAI cười: - Rõ là khẩu khí khách phong lưu!
LA DUNG cũng cười: - Văn là người kia mà.
TUYẾT MAI: - Tôi nhận thấy trong số hoa thơ gởi đến cho Lão vườn đa số thuộc giống Đường luật. Có lẽ vì lão vườn thích thơ Cũ hơn thơ Mới xui nên thanh khí ứng cầu? Hay người đời nay trở lại thích sự ràng buộc của người trước?
- Đối với lão, không có thơ Mới thơ Cũ mà chỉ có thơ dở thơ hay mà thôi. Và đối với Thơ chỉ có chất thơ và vị thơ là đáng chú ý, còn thể thơ là phụ thuộc, người làm thơ tùy sở thích mà chọn lựa thế nào phù hợp với tâm hồn. Thể Đường luật, qui tắc chặt chẽ, chỉ thích hợp với những tâm hồn nhã đạm, trầm tĩnh…, những tâm hồn đã được tiết chế kỹ càng. Đối với những tâm hồn phóng túng, những tâm hồn nhiệt động… thì Đường luật bị coi là chướng ngại vật, nên rất ghét và tránh xa. Nhưng đã gọi là Thơ thì dù là Thơ Tự Do đi nữa cũng vẫn có qui tắc, chớ nào có phải tự do múa gậy vườn hoang. Mà đã có qui tắc tức đã có sự buộc ràng. Có lẽ TUYẾT MAI đã có nghe lời của văn hào André GIDE?
- André GIDE nói thế nào?
- Nói rằng: “Nghệ thuật sanh do cấu thúc, sống nhờ tranh đấu và chết vì tự do”. (L’ art nâit de contrainte, vit de lutte et meurt de liberté).
LA DUNG:
- Vấn đề nghệ thuật nói không biết bao giờ cho hết. Hãy gác lại để thưởng hoa của TUYẾT MAI đây.
Vừa nói LA DUNG vừa mở gói giấy: - Đây là nhánh là giây thì đúng hơn hoa antigone hái nơi lưng thành một blokhaus hoang vắng đứng dưới bóng chiều tà.
Lửa nguội lòng chinh chiến
Đỉnh lô cốt chon von...
Lưng tường chiều trải bóng
Tươi thắm màu ty gon.
Lão gật gù:
- Đó là một bức tranh chấm phá! Lời ít mà ý nhiều! Có phải TUYẾT MAI muốn diễn cái ý “vạn vật vô tình”?
- Phải. Ngọn lô cốt kia nào phải vì ghét nhân loại mà phun lửa đạn ra giết người, và cũng không phải vì thương hoa nên trải lưng cho hoa nương tựa. Còn hoa kia nở dưới bóng chiều là đến lúc phải nở chớ nào phải để Tuyết Mai thưởng thức rồi hái tặng lão vườn.
LA DUNG:
- Đây là một bài thơ tượng trưng, có tánh cách gợi cảm hơn là phô diễn.
Lão tiếp:
- Vì vậy ngoài cái ý vạn vật vô tình, nó còn gợi hình ảnh con người và dục vọng. Ngọn lô cốt kia là thân xác của con người. Những người núp trong lô cốt với súng đạn là dục vọng. Khi dục vọng nổi dậy thì con người trở nên xấu xa và độc ác biết bao nhiêu. Nhưng khi tham sân si đã diệt được hết rồi, thì còn gì đẹp đẽ bằng hình ảnh con người giác ngộ: cao siêu tự tại như ngọn tháp đầu non, và hiền lành như bóng chiều, vui tươi như màu hoa sắc lá. 
TUYẾT MAI: - Ý tưởng ấy, xin thú thật rằng tôi không nghĩ thấu. Lão vườn đã phong phú thêm cho bài thơ.
Lão đáp: - Có nhiều khi ý tưởng nằm sâu trong tiềm thức, nhân cơn hứng nổi dậy mà theo ra cùng văn chương. Tác giả vô tình không trông thấy, nhưng độc giả hữu ý nên tìm ra.
LA DUNG: - Nhìn vào mặt nước, khách si tình thấy bóng mình, thường tưởng là bóng tình nhân.
Lão cười: - Tây Thi nhìn thấy bóng mình trong lòng giếng Cô Tô. Narcisse trông thấy bóng mình dưới dòng khe ngưng túy. Rồi Tây Thi yêu giếng, Narcisse mê khe. Ý hẳn chàng cũng như nàng đã lầm tưởng bóng mình là bóng khe giếng? Nhưng nói chi thì nói, chớ nước mà đã in rõ được bóng người soi thì chất nước nhất định phải trong lắm lắm. Mà còn gì quí hơn chất thơ trong?
Khách thích ý cười to. Nhưng khí nóng của mặt trời quá buổi giục khách phải tạm biệt.
12.
Nghe tin lão đi Nam Đô vừa về bạn Hồng Sơn đến thăm:
- Đi Nam Đô về có đem về được nhiều hoa thơ quí giá chăng hỡi?
- Đi không chẳng lẽ lại về không.
Nhưng hoa thơ lão đem về đây không phải hái cũng không phải mua trong cảnh tưng bừng nhộn nhịp của Đô thành. Ở nơi phồn hoa đầy hoa: Hoa Giai Nhân, hoa Đà Lạt, hoa ni lông, hoa đèn điện… nghìn sắc muôn hình. Nhưng thiếu hoa thơ, vì quá náo nhiệt, nàng Thơ phải lánh mình trong  những nơi đường hẻm, ngõ sâu.
Đi chơi cùng lão có anh chàng họ CAO và anh chàng họ NGUYỄN. Biết lão muốn tìm nàng Thơ, hai chàng bèn rủ vào vườn Thảo Cầm mà xưa kia gọi là Vườn Bách Thảo, là nơi có rào chắn ngựa xe.
Trong vườn này có nhiều cây to và nhiều thú, chớ không phải chỉ có những giống cỏ và những giống chim, như tên đã đặt. Và ở đây cũng có nhiều giống hoa như ở ngoài phố.
HỒNG SƠN:
- Trong nơi yên tịnh, đã có nhiều hoa thì chắc là nhiều thơ lắm lắm?
Lão cười:
- Chắc tìm cũng không thấy thơ, nếu không gặp được ông VƯƠNG HỒNG SỂN ở Tàng Cổ Viện trong Thảo Cầm Viên.
Hồng Sơn vỗ vế cười ngất: - Thế thì Vương tiên sinh đã “ cù” nàng Thơ vào Tàng Cổ Viện rồi chớ gì?
- Không phải nơi Tàng Cổ Viện, mà nơi mấy chén cổ, tô cổ của ông.
Ngoài bộ chén Mai Hạc có in câu thơ lục bát của cụ Nguyễn Du đề lúc đi sứ sang Trung Hoa:
Nghêu ngao vui thú yên hà,
Mai là bạn cũ, hạc là người quen.
Ông Vương còn có một cái chén và một cái tô cổ vẽ sơn thủy và đề thơ Nôm.
Trên chén vẽ một người hành khách đứng bên ngựa, ngước mặt nhìn một cảnh cung điện nguy nga. Bên cạnh đề bốn câu thất ngôn rằng:
Một cảnh lâu đài tốt mỉa tiên
Những con mắt tục ắt ưa nhìn .
No nao tay phiếm giây cầm sắc
Kẻo nhọc thung thăng sứ điệp truyền.
Bài này lão nghi là của PHAN HUY ÍCH đời Tây Sơn, vì tương truyền rằng khi đi sứ sang Trung Hoa cùng Vũ Văn Dũng, họ PHAN có đề tặng một nhà làm đồ sứ một bài thơ, mà văn chương bài này thật giống văn họ PHAN. Nhưng đó chỉ là ức đoán chớ không có chi làm bằng.
Còn chiếc tô của ông VƯƠNG là một tô chữ NHẬT vẽ phong cảnh nước non, và đề một bài ngũ ngôn bát cú:
Một thức nước in trời
Đò ai chiếc lá khơi.
Non cao xem vọi vọi,
Dòng biếc thấy vơi vơi.
Mắn khúc Thương Lang khảy,
Ở đây nhiều khách chơi
Mong chờ yên sóng gió,
Qua lại mặc người đời.
Ông VƯƠNG bảo rằng chiếc tô này do vua Tự Đức đặt người Trung Hoa làm, nhưng chưa kịp phân phát ra ngoài dân gian thì vua băng, nên tô này ít nơi có.
Cũng như bài tứ tuyệt trên, bài bát cú này do ông Vương đọc cho lão nghe, chớ lão chưa được nhìn nét chữ ẩn hiện dưới nước men Trung Hoa. Và bài ngũ ngôn bát cú này lão thấy có sách chép dưới nhan đề là “Đề tranh sơn thủy” với đôi chỗ hơi khác:
Một thức nước in trời,
Đò ai chiếc lá khơi,
Non xanh cao vọi vọi,
Dòng biếc chảy vơi vơi,
Mắn khúc Thương Lang gảy
Ưa tình lữ khách chơi.
Mong chờ yên sóng gió
Qua lại mặc người đời.
Ông Vương còn cho biết rằng chén Mai Hạc có đến hai thứ, hình vẽ giống nhau, nhưng một thứ đề câu thơ lục tát của cụ NGUYỄN DU, một thứ đề hai câu ngũ ngôn chữ Hán:
Mai sơn xuân tín tảo,
Tiên hạc tháp vi đầu.
Nghĩa là:
Tin xuân mai mách sớm,
Tuổi thọ hạc bay cao. 
Nói đến đồ cổ, lão chợt nhớ đến câu chuyện lão được nghe lúc thiếu thời. Rằng:
Một hôm có người Trung Hoa đến tặng bà Huyện Thanh Quan một bộ chén sứ, và xin bà một câu đối. Bà liền hạ bút viết hai câu thơ nôm:
Như in thảo mộc trời Nam lại,
Mang cả sơn hà đất Bắc sang.
Người Trung Hoa không hiểu ý nghĩa câu thơ như sao, mừng rỡ đem về Tàu, và lần sau sang, đem đến tặng bà huyện một bộ chén có in hai câu thơ ấy. Một người xem thấy, nói đùa:
- Phải chi sự thật được như thơ, thì dân tộc Việt Nam không đến nỗi phải dùng đồ đất!
Kể cũng là một chuyện có lý thú, song nếu mắt được nhìn thấy bộ chén có hai câu thơ của bà Huyện Thanh Quan, thì thú càng thêm thập bội.
Hồng Sơn cười:
- Hoa thơ Việt Nam mà mọc trong men Trung Quốc, ngày xưa đã lấy làm quí, đến bây giờ lại càng quí biết bao! Vừa nghèo vừa quê như chúng mình, làm gì có những bảo vật ấy, để mà thưởng thức! Nhờ lão vườn cao hứng đi Nam Đô mà già này biết thêm được đôi cái chưa biết. Đó cũng là DUYÊN. Nhưng đó là hoa trong men sứ. Thủ đô là nơi tụ tập nhân tài, có lẽ lão vườn cũng có hái được ít nhiều hoa của các thi hào thi bá?
Lão liền vào nhà, khuân ra một chồng cao “hương sắc”:
- Đây là của Vũ Hoàng Chương, đây là của Đinh Hùng, đây là của Đông Hồ, Mộng Tuyết, đây là của Bùi Khánh Đản, đây là của Hà Thượng Nhân, đây là của Bút Trà thi ông..
Hồng Sơn vội ngắt lời:
- Các danh nhân trước, lão vườn chỉ kể tên, sao đến Bút Trà, lão vườn lại phải thêm hai chữ thi ông ở cuối?
- Bởi vì trên 30 năm nay người ta chỉ biết có bà BÚT TRÀ là một vị phu nhân đã dùng ngòi bút và giấy mực, tạo nên sự nghiệp “vĩ đại” ở Việt Nam. Nay nếu chỉ nói trổng hai tiếng BÚT TRÀ thì sợ e có cảnh “cằm râu lầm lẫn”.
- Thơ của BÚT TRÀ thi ông có hay chăng?
Lão thành thật đáp:
- Cũng như các thi nhân lão vừa kể và hầu hết các tao khách trong nước, thơ Bút Trà đã  hành thế.
Hoa thơ đã bán chợ đời,
Vườn lòng đã mở cho người thưởng chung.
Thì xin mời bác “tùy thích tùy nghi” vậy.
Hồng Sơn ung dung ngồi xem những giai phẩm từ Nam Đô lão mang về:
- Cỡi ngựa xem hoa, không thể nhận thức được chu đáo. Già xin mượn câu thơ của Lão Vườn, để phát biểu ý kiến, sau khi xem xong các tập còn thơm nét mực đô thành:
Hoa nào hoa lại không hương sắc,
Một cánh hoa tươi một điểm tình.
Lão biểu đồng và tiếp:
- Riêng về ĐÔNG HỒBÙI KHÁNH ĐẢN, ngoài những giai tác đã in thành sách, hoặc đã đăng lên báo chí, hai nhà còn nhiều văn thơ mới lọt qua mắt năm mười bạn tương tri như:
ĐỀ VƯƠNG GIÃ HƯƠNG ĐÌNH
Đâu đây thoang thoảng gió hương ngàn?
Hương gió ngàn chăng? Hương gió lan?
Cho mực đượm vào hương sực nức,
Cho thơ hòa với gió mơn man..
Phương tâm tìm được trong vương giã,
U cốc gần nhau giữa thế gian.
Dầu chẳng đá rêu dầu chẳng  suối,
Lòng tiên cõi tục cũng thanh nhàn.
Bài bày tác giả tự  tay viết viết chữ quốc ngữ bằng ngòi bút lông - thành một bức trướng rất đẹp…
Hồng Sơn chận lại: - Khoan. Vương Giả Hương Đình ở nơi nào, xin cho biết trước đã, rồi muốn nói chi thì nói.
Lão cười: - Là Đình thơm của Đông Hồ ở tại Sài Gòn vậy.
Bốn chữ này nếu viết “Vương Giả Hương Đình” thì có nghĩa là Đình thơm của bậc Vương giả. Còn viết “Vương Giả Hương Đình” thì nghĩa là Đình đầy mùi hương Vương giả, tức là Đình hoa lan. Nghĩa tuy khác nhưng ý vẫn như nhau, cho nên chủ nhân viết không có những ngang nối, để cho rộng nghĩa.
- Lão Vườn đã đến Vương Giả Hương Đình chưa?
- Lão có đến thăm Đông Hồ mấy lần. Song nơi chủ nhân tiếp lão, không biết có phải là Vương Giả Hương Đình chăng. Lão không thấy hoa lan, nhưng mùi hương sực nức, vì hai đỉnh trầm luôn luôn cuốn khói xanh.
Đông Hồ có phong thái của người xưa, và thi sĩ sống một cuộc đời phong lưu đài các, có thể nói là một cuộc đời vương giả.
Hiện giờ tại Thủ Đô cũng có một số nhà văn nhà thơ sống trong cảnh phú quý. Song giàu thì giàu, sang thì sang, vẫn nhượng Đông Hồ, đọc bài thơ trên, Già cũng thấy qua được con người của thi sĩ.
Còn BÙI KHÁNH ĐẢN?
Lão lấy tập Đường thi trích dịch của họ Bùi đưa cho ông bạn:
- Chỉ làm được bấy nhiêu công việc cũng đã hết sức hết hơi. Thế mà đó mới là phần I, còn phần II nữa dày gần gấp đôi. Chưa hết, Bùi quân sắp cho ra đời một tập thơ gồm 400 bài sáng tác. Sức bút của họ Bùi thật là khỏe, tứ thơ của họ Bùi thật là giàu.
Và đây lão xin giới thiệu cùng bác một bài tác giả vừa mới làm ngày 1/2/1962:
BẠCH CHỈ HOA
(Đề dàn hoa giấy trắng trên cụm hoa giấy hồng tại tư thất Đoàn Thi sĩ)
Bạn hỏi: Mây tan hay tuyết rơi?
Thưa: Thơ nghìn mảnh nguyệt đương cài.
Lá phô nền biếc đàn thân mật,
Hoa rủ khung hồng kết thắm tươi.
Đài khép thanh sương trời sớm đọng,
Cánh đưa luân vũ gió đông cười.
Dù cho giây phút dù muôn thuở
Cũng đã nên duyên cảnh với người. 
Văn thật là già dặn, tứ thật là mới mẻ. Trong làng Thơ Đường luật hiện thời, những bài như Bạch chỉ hoa, Vương Giã Hương Đình... là những ngôi sao trong lúc trời gần sáng! 
BÙI KHÁNH ĐẢNĐÔNG HỒ thường qua lại với nhau trong bút mực. Tự đề Đường Thi trích dịch, Bùi quân có bài: 
GIÓ NHẸ TRĂNG NON
Đây chút tơ tằm trả nợ sâu
Đem lòng người trước gởi người sau.
Mong làm gió nhẹ qua hiên gác,
Luống thẹn trăng non xế mái lầu!
Ai xót Thanh Liên bờ Thái Thạch,
Ta sầu Đỗ Mục đất Dương Châu.
Đêm đêm đọc lại dòng thơ cũ,
Có thấy tâm tình gặp gỡ nhau.
ĐÔNG HỒ họa vận, dưới đầu đề THỬ TÀI LÝ ĐỖ: 
Chớp mắt tàn theo mấy bể dâu
Nghìn xưa còn sống với nghìn sau.
Thời gian mực xóa bờ kim cổ,
Hồn mộng thơ xây nếp thấn lầu.
Đàn sáo dặt dìu ca vũ địa,
Vàng son lộng lẫy đế vương châu.
Đâu là Lý Đỗ đâu Bùi Đỗ.
Khéo trộn vào nhau cho lẫn nhau. 
HỒNG SƠN: - Thật xứng đào xứng kép. Nhưng trong câu chuyển bài của Đông Hồ, có chữ BÙI ĐỖ, Bùi là Bùi Khánh Đản còn Đỗ là của ai?
Lão lật quyển Đường Thi trích dịch:
- Đỗ bằng Đoàn, người cộng tác cùng Bùi quân trong việc dịch Đường Thi. Bùi quân lo việc dịch vần, Đỗ quân lo dịch nghĩa và chú thích.
Hồng Sơn: - Thơ Đông Hồ có vẻ đài các. Thơ Bùi Khánh Đản đượm buồn.
Lão đáp “Thơ là Người” rồi đọc tiếp bài thơ của Bùi quân đã “Trả lời” cho những bạn đọc quen biết:
Đừng hỏi thơ sao vẫn đượm buồn.
Đời tôi: lá úa đọng hoàng hôn.
Tình theo sương nhạt tan đầu núi
Ý gởi trăng mờ lạc cuối thôn.
Bốn ngả anh em đều góp hận,
Hai phương sông núi đã chia hồn.
Vườn hoang còn một bông hồng nhỏ,
Mưa gió e rồi cũng rụng luôn!
Hồng Sơn cảm động. Một thoáng mây buồn lướt qua gương mặt lúc nào cũng thấy vui. Ông bạn khe khẽ ngâm:
Vườn hoang còn một bông hồng nhỏ,
Mưa gió e rồi cũng rụng luôn!
Và nói:
- Sao bi quan đến thế? Trong bài, hai câu này và câu thứ hai thật hay. Cổ nhân thường nói “Đời sông của Bùi quân đối với Đông Hồ chắc cũng bên chú bên bác?
Tự nhiên lão cảm thấy buồn, nhưng với giọng thản nhiên lão đáp:
- Vì sanh kế BÙI KHÁNH ĐẢN thi nhân đã trở thành một công chức làm việc một ngày hai buổi tại nhà Văn Hóa Sài Gòn.
HỒNG SƠN cười: - Như thế BÙI quân vừa là bạn đồng điệu vừa là bạn đồng nghiệp với Lão Vườn.
- Đồng nhưng bất đồng. Riêng nói về nghiệp: Bùi quân là một công chức văn hóa. Lão là một công chức hành chánh…
Tuy thế vẫn là công chức.
Mang lấy nghiệp công chức, lắm lúc thật buồn cho sự nghiệp văn chương. Tuy văn chương là lẽ sống ở đời, nhưng hết bảy phần trăm thì giờ phải bỏ ra để lo tròn nhiệm vụ người công chức. Lại còn một sự thật rất đau xót: Hồn thơ Đường không phù hợp với cuộc đời hành chánh, nên tình đời khi ghét khi thương…
Nửa trái đào tặng bạn đương khi bạn vui, thì bảo đó là tình chân thành tha thiết. Cũng nửa đào ấy mà khi ghét, thì người tặng đào bị mang tiếng khinh ngạo khi thường.
Đã bao lâu hồn Thơ lạc loài nơi các công sở, văn nghiệp bị thương tổn khá nhiều, mà nạn nhân là lão, vì gánh nặng gia đình, phải cam lòng chịu vậy.
Nghĩ phận lão, lão chạnh thương Bùi quân.
Nhưng lão lại mừng cho Bùi quân, vì bùi quân được làm việc trong một công sở lo về việc văn hóa, lại gặp được ông phó giám đốc là một nhà văn có bụng lẫn tài. Bùi quân khỏi bị sống bơ vơ giữa những người suốt đời xa lạ tuy sớm thấy mặt nhau, chiều thấy mặt nhau.
Hồng Sơn đứng dậy cáo từ, vừa đi vừa ngâm lớn:
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đành trách lẫn trời gần trời xa.
Lão ngâm tiếp:
Trăm năm trong cõi người ta,
Đá vàng đã quyết phong ba cũng liều.
Văn chương mang lụy dẫu nhiều,
Vườn hoa thơ miễn mai chiều phấn hương.
(1962)
16- Tiếp khách hoa thơ [6]
13.
Sau khi xa cách Vườn Thơ, Chức Thành có câu:
Nhớ vườn hoa nở ngọt ngào,
Dưới trăng chung bóng ra vào cùng thơ.
Nhưng đã ngót mấy năm nay, nàng không có thơ từ chi cho Vườn Thơ cả. Lão đinh ninh rằng:
Hoa còn đượm mãi vườn xưa,
Lòng thơ năm trước bây giờ đã phai.
Vừa rồi trong khi không chờ đợi, lão nhận được hai nhánh hoa thơ nàng gởi tặng vườn:
GIŨ BỤI PHIỀN BA
Thinh thinh áp giũ bụi phiền ba,
Vui với con thơ với mẹ già.
Dâu lúa thú quê mùi đạm đạm,
Ráng mây tình bạn bóng xa xa.
Dịu dàng cánh bướm hương đưa mộng,
Mát mẻ vườn thơ gấm trải hoa.
Thương kẻ tình duyên xuân mới nở
Bên thêm hoa lý lắng oanh ca. 
NƠI THÔN QUÊ
Quên tính trăng thu mấy độ tròn,
Mùi quê quen thú lợt mà ngon.
Chuyện đời theo nước trôi đi hết,
Tình cũ trong thơ mở vẫn còn.
Am ỷ ngọn đèn canh nhớ bạn,
Dịu dàng tao võng khúc ru con.
Mây ai biết được lòng vui tẻ
Mỗi bận xuân về dịch véo von. 
Xem tình ý trong thơ, lão tự cười mình hay nghi ngờ lẩm cẩm:
- Tình thơ xưa cũng như nay, đông cũng như tây, có bao giờ phai lạt. Tuổi già hay nghĩ lếu thật!
Lão còn đương gật gù ngâm:
Chuyện đời theo nước trôi đi hết,
Tình cũ trong thơ mở vẫn còn.
Thì có khách đến: Bác Vân Sơn TRẦN QUANG DỤC và chị MINH LỆ, một người bạn mới của Vườn Thơ.
Đương lúc cao hứng lão giới thiệu ngay với khách hai thi phẩm của Tuyết Nga. Bác VÂN SƠN trầm ngâm giây lâu rồi nói:
- Lời thơ thanh lão. Vị thơ mới nếm qua đường lợt, nhưng càng chíp chắp càng đượm đà. Câu:
Dịu dàng cánh bướm hương đưa mộng,
Mát mẻ vườn thơ gấm trải hoa.
Thật kịch sự!
MINH LỆ tiếp: - Văn chương đã luyện quá thành ra tự nhiên. Câu:
Âm ỷ ngọn đèn canh nhớ bạn
Dịu dàng tao võng khúc ru con.
Rung cảm lòng người một cách nhẹ nhàng nhưng thấm thía. Cảnh thì là cảnh thông thường mà tình lại là tình riêng biệt.1 tấm điềm đạm nhưng thiết tha.
VÂN SƠN: - Nếu người của tác giả không sống trong cảnh ấy, lòng của tác giả không sống với cảnh ấy, nghĩa là thơ nhất định phải chơn.
Lão tiếp: - Mà thơ muốn chơn thì trước hết người làm thơ phải có tánh tình. Nếu không tánh tình mà cố gắng làm cho có thơ, thì thơ ấy chỉ là những nhánh không hoa lá. Dù có cách vẫn không có thú.
VÂN SƠN: - Có nhiều người không mừng mà reo, không thương mà khóc… Nhưng họ reo cũng rất giòn, học khóc đến ra nước mắt! Những kẽ ấy tưởng có tài làm thơ đấy chớ?
Lão cười: - Bác làm lão nhớ đến một câu chuyện trong Tùy Viên Thi thoại.
- Câu chuyện thế nào?
- Có một thầy đồ đến xin nương tựa nơi một nhà quyền quý. Để tỏ tài văn chương của mình, thầy đồ dâng lên một tập thơ. Nhà quyền quý lặng lẽ ngồi xem, xem hết trang này đến trang khác, không một lời khen cũng không một tiếng chê. Sau đọc đến bài “Thuận hoài” có câu:
Cha chết nằm Vi bắc,
Em đày sang Giang Đông. (1)
Nhà quyền quý buông sách thở dài, và than: “Tình cảnh sao mà thảm quá thế!”. Thầy đồ liền đứng dậy khúm núm bẩm rằng: “Bẩm Đại Nhân, sự thực thật không có như thế. Ngu phu mồ côi cha từ lúc thơ ấu, và trên không anh, dưới cũng không em. Nhân nhớ đến cảnh Vi Bắc mà phải dùng cảnh Giang Đông để đối cho chỉnh, và đã có cảnh rồi phải mượn tình lồng vào cho câu thơ có đủ cảnh đủ tình vậy thôi. 
MINH LỆ: - Ở đời sao lại có người kỳ cục đến thế?
Lão đáp: - Đó là không bệnh của những người “cốt lý vô thi” mà lại sính làm thi, chớ có gì là lạ.
VÂN SƠN ngắt lời: - Kết thúc câu chuyện “Vi Bắc Giang Đông” thế nào?
- Không thấy Tùy Viên nói. Nhưng chắc nhà quyền quí mời thầy đồ sang Vi Bắc hay Giang Đông, vì một người không thành thật trong văn chương, thì ngoài đời nhất định không thể thành thật được, mà người đời ai lại thích gần người không thành thật làm chi?
MINH LỆ cười: - Nếu không do miệng thầy đồ nói sự thật ra thì ai biết được rằng thơ thầy nói dối.
Lão đáp: - Hồ ly là giống dấu đuôi rất khéo mà nhiều khi còn bị lộ, huống hồ loài người không tinh ranh bằng hồ ly. Vì thế nhà thi hào Racine của Pháp quốc nói rằng: “II n’y a point de secret que le temps ne révèle”, nghĩa là không có điều bí mật gì mà thời gian không tiết lộ.
VÂN SƠN: - Nãy giờ mãi ham chuyện người mà quên chuyện mình!
- Chuyện gì thế!
- MINH LỆ có một ít hoa thơ muốn tặng lão vườn, nhưng e ngại nên cậy già đến mở “Lời phi lộ”.
- Lời phi lộ đã mở rồi, vậy hãy cho lão xem thơ.
MINH LỆ rụt rè: - Đem Vạn Thọ, nở ngày… đến nơi vườn đầy tường vi, thược dược… thì thật là…
Lão cười, ngâm:
Thanh bằng cung chủy đô tu túy,
Vị tẩn toan hàm chỉ yếu tiên.
VÂN SƠN: - Thơ của ai thế?
- Của Viên Mai.
MINH LỆ: - Viên Mai là người đời nào? Và câu ấy nghĩa như sao?
- Một đại thi hào đời Thanh. Ông ấy luận thi thì dường khoan mà kỳ thật rất nghiêm. Khi soạn bộ Tùy Viên thi thoại, ông đặt ra câu kia để làm khẩu hiệu, đại ý nói rằng: “Tiếng thì cung tiếng chủy chi cũng được miễn sao cho giòn;  Còn mùi thì chua mặn chi cũng xong, cốt cho tươi là được”.
Người đồng thời của Viên Mai là TỪ SƠN cư sĩ lại có câu:
Thi chơn khởi tại phân Đường Tống
Ngữ diệu hà tằng lộ khắc điêu
Nghĩa là “Thơ hay há phải chia ra Đường Tống; Lời diệu cần chi phải có sự chạm trổ”, tức là thi cốt ở tánh tình, và không cần phải giống thơ Đường hay thơ Tống mới gọi là hay. Mỗi lần bàn luận về thơ lão không quên hai câu thơ ấy. Vậy MINH LỆ không nên ngại lòng.
MINH LỆ trao tập thơ. Lão xem qua một lượt, nhận thấy phần nhiều nói đến thân phận, tả về nỗi lòng... Có một số bài văn chương đã luyện lắm. Trổi nhất là bài “Chắp mối tơ thưa”.
Tơ đứt cầm loan chắp mối thưa
Ba năm chung gối mộng thờ ơ
Tình xưa nỡ để trôi dòng biếc
Kiếp sống thôi đành ủ giấc mơ.
Gượng nét tàn dung vui với cảnh,
Gói niềm tâm sự gởi vào thơ…
Nỗi lòng ai xét ai không xét
Thương cũng nhờ ơn ghét cũng nhờ. 
VÂN SƠN: - Theo già này thì bài “NHỚ HUẾ” ở trong tập cũng là một nhành hoa khả thủ.
Chẳng biết bao giờ viếng cố hương
Cho vơi nỗi nhớ cạn niềm thương.
Gió trăng Cù hải tùy đằm thắm,
Mây ráng Bình sơn mãi vấn vương.
Bến nước còn sâu tình Vĩ Dạ?
Nhịp cầu đã bắt nghĩa Kim Luông?
Đêm qua giấc ngủ rủ hồn theo mộng,
Con bướm ngu ngơ dẫn lạc đường!
Lão gật đầu:
- Văn chương lưu loát lắm. Câu kết thật liến! Lời trong tứ mới. Những câu thơ như thế không phải lúc nào cũng làm được, chứ không phải người nào cũng làm được.
MINH LỆ:
- Lão Vườn muốn khuyến khích mà khen quá lời chăng?
Lão đáp:
- Thơ không hay mà khen thì lời khen chẳng những không có lợi cho người được khen mà còn làm hại cho người khen. Lão đâu có dại. Có người trách lão sao hay khen mà ít thấy chê. Lão chỉ đáp: “Bởi vì lão nhận thấy hay thì lão khen, còn lão không trông thấy dở thì bảo lão chê thế nào được”. Nói là nói vậy, chứ thật ra lão không dám chê ai, nhưng khen người cũng không phải đụng đâu khen đó.
VÂN SƠN: - Thơ hay thì mỗi bài hay mỗi vẻ. Xem thơ thì mỗi người thích mỗi cách. Lời khen chê phần nhiều do sở thích mà ra. Ca dao có câu:
Hoa huệ hoa lan hoa lài hoa lý
Anh yêu hoa nào hoa ấy là xinh.
Cho nên người xem thơ thấy thích thì cứ  khen, khen cho sướng miệng; người nghe khen thấy thú thì cứ nghe, nghe cho sướng tai; chớ hơi đâu ngại lời thị phi, phi thị.
Lão cười: - Vậy hãy khen một câu nữa trong tập cho thêm vui.
VÂN SƠN: - Câu nào?
- Câu kết bài “Nhập đoàn Thanh Nữ tự trào”.
Ghé tai chàng lén thì thầm hỏi:
Thanh nữ sao mà lại lắm con?
- Thật là dí dỏm! Lão Vườn quả tinh mắt. Chình già này xem tập thơ đã nhiều lần mà không để ý.
- Đó là vì những câu trên có phần vụng, nếu không chịu khó tìm thì thường bỏ rơi.
MINH LỆ: - Không phải vì MINH LỆ, mà chính vì vườn hoa thơ, chính vì Hoa vì Thơ thì đúng hơn. Bởi:
Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi.
Thơ hay ai nỡ tiếc lời khen hay.
VÂN SƠN: - Lão Vườn thường ngâm câu ấy, và nghe ngâm có một ít bạn gởi hoa thơ đến cho vườn. Không hài lòng khi thấy tác phẩm mình không được tán thưởng.
MINH LỆ: - Sao thế?
VÂN SƠN cười: - Vì “tự kỷ văn chương” chứ sao!
Lão phân trần: - Kể ra cũng đáng trách chớ chẳng không. Vì ngoài những nhánh hoa khô héo, có nhiều nhánh đủ sắc đủ hương, có nhiều nhánh đầy nhựa sống, song chỉ dành riêng cho tác giả cùng lão vườn thưởng thức với nhau mà thôi chớ không tiện chưng bày ra giữa nghìn mắt… Như vậy:
Nỗi lòng ai xét ai không xem,
Thương cũng nhờ ơn ghét cũng nhờ.
VÂN SƠN:
- Câu chuyện văn chương còn dài. Bây giờ chúng tôi xin tạm biệt.
Đưa khách ra cửa, lão ngâm đùa:
- Không ở không cầm, cầm chẳng ở.
VÂN SƠN đối ngay:
- Vừa đi vừa tiếc, tiếc nhưng đi.
MINH LỆ ngâm tiếp:
Tái lai còn lắm giai kỳ.
Ra về mượn ít hương thi đem về.
Chú thích:
(1) Hai câu thơ của thầy đồ bằng chữ Hán nhưng vì lão quen nên phải thay hai câu thơ trên diễn đúng ý tác giả, (hoặc có sai đôi chút nhưng không sai xa)
16- Tiếp khách hoa thơ [7]
14.
Vừa rồi ra Bình Định, lão có hái được một ít hoa, hương không nồng lắm, sắc không thắm lắm, nhưng đượm đà khí vị non sông.
Phần nhiều là những dã hoa mọc nơi cổ tháp Chiêm Thành.
Đây khóm hoa tháp PHỐC LỐC:
Lên thăm hòn Phốc lốc,
Núi cao đường dốc,
Em nghĩ thương dân tộc người Chiêm:
Gặp cơn bể nổi dâu chìm,
Đã không người vá khuyết lại không chim lấp thù!
Tháp đành ôm hận nghìn thu,
Nấu nung vàng đá mịt mù khói mây…
Nhưng em nghĩ rằng:
Trời còn đây đất cũng còn đây,
Lẽ đâu trục đất lại không vần xây cơ trời.
Tháp Phốc Lốc tên chữ là Phú Lộc, Pháp gọi là Tour d’or (Tháp vàng), đứng trên hòn thổ sơn ở giữa cánh đồng mênh mông, một thửa thuộc Phù Cát một nửa thuộc An Nhơn.
Đối diện cùng tháp Phốc Lốc là tháp CÁNH TIÊN. Tháp ở trong phạm vi thành Đồ Bàn. Gần bên tháp có lăng miếu thờ hậu quân Võ Tánh. Vì vậy bên tháp có một khóm hoa mọc đã trên một thế kỷ rồi, cánh đã khô mà hương còn ngát:
Ngó lên hòn tháp Cánh Tiên,
Cảm thương ông Hậu thủ thiền ba năm.
Cách tháp Cánh Tiên chừng mươi cây số, bên cạnh quốc lộ số 1, gần cầu Bà Di, có tháp BÁNH ÍT đứng trên một ngọn núi cao, in bóng xuống dòng sông xanh bên đường cái. Qua đây lão hái, được nhánh hoa này:
Tháp Bánh Ít đứng khít cầu Bà Di
Sông xanh núi cũng xanh rì,
Vào Nam ra Bắc ai cũng phải đi con đường này.
Nghìn thu gương cũ còn đây,
Lòng ơi, hãy lo nung son sắt kẻo nữa đầy bể dâu.
Xuống đến địa dầu thành phố Quy Nhơn thì thấy hai chiếc cầu bắt song song bên đường Quốc lộ. Tháp ấy gọi là THÁP ĐÔI, và cầu ấy gọi là CẦU ĐÔI. Những cặp yêu đương ở đó thường hái những đóa hoa này để tặng nhau:
Tháp kia còn đứng đủ đôi,
Cầu nằm đủ cặp, huống chi tôi với nường.
Tháp ngạo nắng sương,
Cầu nương sắt đá.
Dù người thiên hạ
Tiếng ngã lời nghiêng,
Cao thâm đã chứng lòng nguyền,
Còn cầu còn tháp còn duyên đôi đứa mình:
Non sông nặng gánh chung tình. 
Nếu chúng ta đi ngược dòng sông Côn đến quận Bình Khê thì chúng ta thấy ở hai bên sông có hai cụm tháp. Cụm phía Bắc ba ngọn đứng trên một nổng gò đất sỏi. Đó là tháp DƯƠNG LONG. Cụm phía Nam, một ngọn đứng trên một dãy gò thấp chung quanh có ruộng nương nhà cửa. Đó là tháp THÚ THIỆN. Hai tháp này xưa kia làm móc ranh giới cho ấp Tây Sơn là nơi phát tích nhà Tây Sơn. Gần đây nhà anh hùng Mai Xuân Thưởng, lãnh tụ đảng Cần Vương Bình Phú, xây đồn lũy ở núi Hương Sơn gần bên tháp, để đánh Tây. Do đó mọc lên một khóm hoa mà người Bình Khê luôn luôn gìn mưa giữ nắng:
Vững vàng tháp cổ ai xây?
Bên kia Thú Thiện bên này Dương Long.
Nước sông trong
Dò lòng dâu bể,
Tiếng anh hùng
Tạc để nghìn thu.
Xa xa con én liệng mù,
Tiềm long hỏi chốn vân du đợi ngày. 
Nhân đi tìm hoa nơi tháp Thú Thiện và Dương Long, lão ghé lên Phú Phong ở gần đó, mà người Bình Khê có vịnh rằng:
Nhất huyện Bình Khê đất Phú Phong,
Ruộng nương màu mỡ chợ làng đông.
Chàm pha núi Kính cây sum trái,
Lụa trải sông Côn nước khỏa dòng.
Cây Cốc phố phường danh Tấn Sĩ;
Đồng Hưu đồn lũy hận anh hùng.
Cổ Bàn non nước còn thiêng mãi,
Có thuở Hầm Hô cá hóa rồng.
Muốn biết phong cảnh Hầm Hô như sao mà cá lại hóa rồng được, lão nhờ người địa phương đưa đi xem.
Đó là một dòng suối rộng lớn chảy giữa hai dãy núi sườn đứng sững và đá mọc ngổn ngang. Lòng suối cũng đá là đá. Hòn hòn to như bồ đựng lúa. Nhiều hòn đá bị nước chảy lâu ngày biến thành những hình dạng kỳ quái. Có nơi trông như bầy voi tắm. Có nơi trông như bầy ngựa đua. Vân vân…
Lại có một ngọn thác nước chảy ồ ồ. Mùa gió Nam và mùa nước lụt, cá sông về nguồn đẻ phải nhảy qua thác này. Ông già bà cả bảo rằng đó là cá thi để hóa rồng. Cho nên thác gọi là Long Môn hoặc Vũ Môn, và người Bình Khê dựa vào đó mà có câu “Hầm Hô cá hóa rồng” vậy.
Vào Hầm Hô, lão thấy nơi vách đá có nhiều hoa mọc lắc la lắc lẻo trong im lặng. Sẵn tay lão hái một nhánh gần:
Nguồn ân núi Tượng Nhảy sông Côn,
Qua suối Hầm Hô nước dập dồn.
Dòng cuốn ngựa voi sừng sững đá,
Bờ xây thành quách trập trùng non.
Lấp hờn, giục giã mây xua sóng,
Vá khuyết, chơi vơi cuốc gọi hồn.
Ngòi lạch nhắn nhe bầy cá trẻ:
Nắng mưa rèn luyện chí long môn. 
Xem Hầm Hô xong, lão trở về Phú Phong, tình cờ đi ngang qua một dãy gò có dấu nền cũ chứng tỏ rằng nơi đây xưa kia có những tòa ngang dọc. Hỏi thăm, người địa phương cho biết rằng gò đó là gò Cây Cốc, trước chiến tranh có hãng dệt của ông L.ĐELIGNON tục gọi là ông Tấn Sĩ. Hãng dệt to lớn, đã nuôi sống hàng ngàn thợ thuyền do đó xứ  Cây Cốc trở nên một nơi thị tứ. Hãng dệt bị Việt Minh phá hoại năm 1947. Hiện nay chỉ còn một dãy gò không thả bò ăn.
Gò nằm bên nam ngạn sông Côn. Bên gò có bến nước gọi là bến Cây Sung. Từ xưa đến nay thuyền câu luôn luôn đậu nơi bến, lúc giặc giã cũng như lúc bình thường. Do đó mọc lên một khóm hoa khép nép trong đám bìm lau, người đời qua lại ít ai để ý:
Xưa dãy gò không, nay đất không…
Thuyền câu chẳng đổi bến Cây Sung.
Buông tơ sớm tỏ lòng dâu bể,
Lặng lẽ nằm nghe sáo mục đồng.
Trên gò thấy lác đác đôi khóm hoa. Nhưng gò có nhiều gai gốc nên lão không vào, chỉ đứng ngoài vói hái vài cành:
Ráng mây thấp thoáng hồn Vương Thạch.
Hoa cỏ xuê xoang giống Lạc Hồng. (1)
Rồi lão theo bờ sông Côn đi lần xuống để tìm thêm một ít ngâu núi sim rừng. Chợt lão nghe tiếng cười khúc khích. Ngước lên nhìn thì lờ mờ thấy một người đàn bà ẵm đứa con. Thấy một ông già lụ khụ dậm sỏi vẹt gai để tìm hoa, người đàn bà chế nhạo:
Thương ông đầu bạc đa tình
Dày sương dậm sỏi băng mình tìm hoa.
Không chịu nổi với lời mai mỉa, lão liền đáp:
Hoa ơi, tóc bạc lòng son,
Hương chưa nhạt gió lão còn yêu hoa. 
Người đàn bà phá lên cười. Lão xích lại gần, nheo mắt nhìn kỹ thì té ra là chỗ quen biết! Đó là TUYẾT NGA, người đã đến viếng vườn hoa thơ Lành Mạnh và thường gởi hoa đến tặng vườn. Lão mừng rỡ hỏi: - Từ đâu đến?
Rằng:
Từ nơi núi mọc bên sông,
Hoa chen lũy cỏ mây lồng tháp cao.
Hỏi: - Đến làm chi?
Rằng:
-  Thương lòng bền bỉ sương sao
Vườn lòng bẻ nhánh hương trao tặng lòng.
Lão trân trọng nhận lấy hoa, một bó hoa mới hái, cánh hương chưa ráo giọt sương mai:
LÒNG KHUYA VẮNG
Tiếng đồng tan vỡ ngập âm ba
Phòng vắng xanh, xao ngọn nến tà.
Xuân mộng trở trăn thành cựu mộng;
Phồn hoa run rủi lụy tài hoa.
Sầu tuôn mắt mẹ dòng thơ mật,
Tình đọng môi con giọt huyết ngà.
Trà ướp hương xưa duyên đã nguội,
Còn chăng? Đắng đót ngọt ngào pha… 
Từ giã TUYẾT NGA, tấm lòng già cỗi khô khan bỗng sanh bồi hồi áo não! Nhánh “Lòng khuya vắng” của Tuyết Nga xui lão nhớ đến cành “DẠ CỐ NHÂN” mà lão đã hái được mấy mươi năm về trước:
Đêm mấy lần mưa gió mấy lần!
Hoa tuy còn giữ nét thanh tân,
Am thầm nuốt biết bao nhiêu lệ!
Muôn dặm dừng cương, dạ cố nhân….
Rồi lão lại liên tưởng đến cành hoa của Uông phu nhân đất Dương Châu bên Trung Quốc gởi tặng chồng đi viễn chinh:
Thủ chiết ba chi thúy đại tần!
An cần dục ký viễn chinh nhân.
Minh tri đáo nhật ưng tiều tụy,
Tức thử ba chi kiến thiếp thân.
Nhánh hoa này lão đem về ương nơi vườn nhà ở Bình Khê , và đã trổ thành một đóa hoa Việt:
Nhành hoa tay bẻ mày nhăn!
Sa trường thăm thẳm ân cần gởi trao.
Tới nơi héo nhụy phai đào…
Chàng ơi! Thân thiếp khác nào thân hoa!
Đó là những khóm viên hoa. 
Lão nhận thấy những viên hoa của lão hái được toàn là những đóa hoa lòng, nghĩa là thiên về tâm tình, còn những khóm dã hoa đều là giống hoa cảm hứng thiên về lý trí.
Dã hoa là của chung
Viên hoa là của riêng.
Mà chung hay riêng cũng đều nhờ ơn đất nước mà có. Và đây chỉ là những đóa hoa lão hái được ở những nơi gần. Còn nhiều lắm… Còn nhiều nơi lắm hoa… Khắp các tỉnh, trong những nơi thôn dã trong những nơi sơn lâm, hiện có nhiều vườn hoa trồng nhiều giống lạ giống quí, nhưng chủ nhân nhất thiết không đem ra bán phố phường. Lão vái chín tầng trời, mười lớp đất cho lão mạnh tay khỏe chân để đi khắp nước, lục lạo tìm cho được những kỳ hoa dị thảo ẩn bóng trong đồng rộng núi cao, đem về hiến cho các bạn yêu hoa thân mến.
Chú thích:
(1) Thơ của Hương Sơn Nguyễn Đình Mẫn.
15.
Trần Thúc Lâm và Nguyễn Hoài Văn là hai nhà cựu học, tuổi hơn “nửa thế kỷ” rồi mà chưa chịu đi tìm thọ viên, cứ lẩn quẩn bên thi uyển. Một hôm lão “Quở”. Hai ông bạn cười:
Mình chẳng còn răng mà tưởng trẻ
Người chưa bạc tóc lại chê già.
Lão đáp ngay:
Bạn già chẳng biết lòng ta trẻ.
Không đợi lão ngỏ biết ý, họ Trần ngắt lời:
Bầy trẻ thường chê tánh bác già.
Lão không nhịn thua:
Tánh già già khác người ta
Hoa thơm cách mấy ngàn xa vẫn tìm.
Họ Nguyễn cười:
- Hoa thơm thì cách mấy ngàn xa vẫn tìm, còn hoa không thơm mấy, người ta đem đến tặng có nhận chăng?
Lão đáp:
Hoa chẳng hương thời sắc
Hoa nào không sắc hương
Đìu hiu lau trỗ bạc
Dầm bút vị văn chương.
Họ Trần hỏi:
- Hoa lau trổ văn chương, xuất xứ ở đâu thế?
- Nam có bắc có. Các bác không nhớ tích bà mẹ nhà đại văn hào Âu Dương Tu dùng lau làm bút dạy con học ư? Lý Bạch có bài thơ:
Âu mẫu dương niên thiện giáo nhi
Nhất tòng lưu đắc tả thu ti
Giang dầu phong thối sương đinh ốc
Mộng lý ba khai tuyết mãn chi.
Nhạn quá bình sa tương tác tự
Nguyệt minh Hán thủy tự lâm trì
Tố hồi tiện dục tài tân sinh
Trâm hướng cao quan thị ngọc trì.
Nghĩa là: Vịnh Cây bút bằng lau. Bà mẹ ông Au Dương Tu năm xưa khéo tay dạy con. Một khóm để lại được, chép lòng nhớ thu. Đầu sông, gió lui thì sương đầy từng dãy. Trong mộng hoa nở thì ánh tuyết tràn cả nhánh. Nhạn qua bãi cát phẳng cùng viết thành chữ; trăng soi sáng dòng sông Ngân Hán tự  tìm đến ao. Nghĩ lại việc ngày xưa, bèn muốn trồng giống mới tốt, vì chính nơi thềm ngọc, trâm dắt đầu hướng nhìn mũ cao.
Thế là “bút lau” có sản xuất. Còn “dầm vị văn chương” thì như bài “lô bút” của Lý Bạt. Văn Thiên Tường có câu nói đến lau:
Mãn địa lô ba hòa ngã lão
Cự gia yến tử vị thùy phi.
Nghĩa là: Đầy đất hoa lau cùng già với ta, còn nơi nhà cũng đoàn én vì ai mà bay?
Trong bài Chiêu Hồn của cụ Nguyễn Du có đoạn nói đến hoa lau:
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não nùng thay buổi chiều thu
Ngàn lau nhuộm bạc lá ngô rụng vàng… 
Trong bài THU của Chế Lan Viên cũng có đoạn nói đến hoa lau:
Cũng mới độ nào trong gió lộng
Nếu lau bừng sáng núi lau xanh
Bướm vàng nhè nhẹ bay ngang bóng
Những khóm tre cao rũ trước thành. Vân vân…
Đó hai bác thấy chưa: Tình hoa lau mà khách văn chương còn chẳng nỡ phụ huống hồ các giống hoa khác, trừ hoa cốc. Nhưng hoa cốc, chưa thấy dáng đã nghe mùi rồi. Các bác cũng như lão, cũng như tất cả những người yêu hoa, đều tránh xa thứ hoa ấy. Vậy lão chắc chắn rằng những hoa hai bác đem đến tặng vườn, thế nào cũng quí giá hơn hoa lau. Vậy xin đưa đây, đừng khách sáo. 
Nhân và xem qua mấy bó hoa thơ của hai ông bạn, lão rất mừng. Chẳng những mừng vườn thơ có hoa chưng bày, mà còn mừng bước tiến vượt mức của hai bạn.
Nguyễn Hoài Văn và Trần Thúc Lâm mấy mươi năm bị tiêm nhiễm lối thơ cử nghiệp. Làm thơ lo giữ gìn cách luật cho nghiêm túc, thành tứ thơ tình thơ bị gò bó, khô khan. Lấy tình cố giao, lão thường đem lời người xưa ra khuyến cáo. Lão thường nhắc câu của Tùy Viên:
Thi hữu cán vô ba thị khô mộc giã (1)
Thi hữu cách vô thú vị thổ ngưu giã (2)
Họ Nguyễn hỏi:
- Thế nào gọi là hoa có cọng không hoa, thế nào gọi là thơ có cách không thú?
- Giảng rườm lời mà khó nhận thức, nên xin đưa ví dụ ra cho tiện. Và xin lấy một bài của một quan trạng đời Lê mà lão quên tên, bài thơ rất được truyền tụng và các nhà dạy thơ trước đây thường đem làm mẫu. Đó là bài:
CÁI CẮNG ĐÁNH NHAU
Vừa mưa vừa nắng bởi vì đâu?
Cái cắng làm sao lại đánh nhau?
Vác gậy bà chằn phang dưới gối
Vơ dùi ông hểnh choảng trên đầu.
Cha căng mất vía bon lên trước,
Chú kiết kinh hồn lẩn lại sau.
Cái cắng từ rày còn thế nữa
Thì ra đi rủ cái bồ câu.
Nguyên tục ngữ có câu: “Vừa mưa vừa nắng, cái cắng đánh nhau, bồ câu ra chữa, tí nữa thời tạnh”. Bài này các ông dạy thơ Đường luật khen là hay về phép tắc (3). Bởi đúng phép làm thơ: Đề trạng luận kết không có chỗ bắt bẻ được. Tám bệnh không mắc bệnh nào. Cũng không phạm ngũ kỵ, không phạm tứ bất nhập cách (4). Cho nên khen là phải. Nhưng chúng ta ngâm đi ngâm lại xem có thú vị chi chăng? Chúng ta ngắm đi ngắm lại xem có đẹp đẽ chi chăng? Chắc hai bác cũng như tôi, không ai thấy đẹp mắt khoái lòng. Không thích mắt thỏa lòng, đó là hữu cán vô ba, hữu cách vô thú.
Nói cho rõ thêm: Thơ hữu cán vô ba là thơ không có sắc, trông như một cây khô. Không bông không lá.
Thơ hữu cách vô thú là thơ không vị, chẳng khác một con trâu đất không hồn.
Họ Trần tiếp: - Tức là thơ không hồn.
Rồi lại hỏi: - Anh thường bảo thơ phải gồm đủ THANH, SẮC, VỊ, mới là thơ hay. Nhưng đó chỉ mới nói đến sắc và vị. Vậy nếu thơ thiếu THANH thì gọi như thế nào?
- Lão chỉ đưa hai khuyết điểm mà quí bác thường mắc phải đó thôi. Chớ thật ra còn nhiều như “hữu nhân vô ngã”, “hữu trực vô khúc”, “hữu thanh vô tận” v.v… Điểm bác hỏi đó là “hữu thanh vô vận”.
Hữu thanh vô vận thị ngõa phẫu giã (5).
Bài thơ “Cái cắng đánh nhau” đọc nghe chẳng êm tai tí nào cả. Đó là tiếng của một chiếc phẫu đất vậy.
Đem một bài thơ thiếu cả thanh sắc vị để làm mẫu cho kẻ học làm thơ thì bảo thơ hay thế nào được? Nhưng thơ làm đúng cách thức như thế, vào trường dễ đậu, xướng họa để đua tài lẫn nhau, không ai bắt bẻ được, nên những sĩ tử ít tài, những thi công háo thắng, rất ưa làm. Chúng ta làm thơ là để ký thác tâm sự, để giải phóng tâm hồn, thì không nên theo lối thơ cử nghiệp.
Một ông khách bành thính nói:
- Làm thơ thất ngôn bát cú đã bị niêm luật ràng buộc, lại còn bị bệnh này bệnh kia nữa. Chi bằng làm thơ lục bát khỏi niêm khỏi luật, khỏi bệnh khỏi hoạn chi cả, chẳng khỏe hơn sao?
Lão đáp:
- Đã thích thì dù khó đến đâu cũng cố gắng. Còn nếu không thích thì dù dễ đến đâu cũng không dùng. Nhưng bảo thể lục bát không niêm không luật thì không đúng. Trong các sách dạy thơ như sách của Lam Giang, của Dương Quảng Hàm, v.v… đã nói rõ. Còn đã gọi rằng bệnh, thì thơ nào tránh khỏi nếu kẻ làm thơ kém kỹ thuật kém tài năng. (6)
Quý bạn thử đọc những câu này xem sao:
Trèo lên cây bưởi hái bòng
Hái chẳng được bòng khóc ròng nãy giờ
Biết ai mà phỉnh mà phờ
Đút tay vô lờ mới lỡ một lần
Ơ sao phải phải phân phân
Củ chóc củ nần không bằng củ từ…
Những câu ấy nghe đâu có êm tai bằng những câu:
- Một mai ai chớ bỏ ai
Chỉ thêu nên gấm sắt mài nên kim
- Chim chuyền bụi ớt líu lo
Lòng thương quân tử ốm o gầy mòn. 
- Nhà em có bụi mái mưng
Có con chó dữ anh đừng vô ra… 
Vì sao vậy? Chỉ vì một bên không theo đúng quy củ của thể lục bát còn một bên thì tuân thủ triệt để.
Ở trên đời này có thứ ngôn ngữ nào không có nguyên tắc? Có thể thơ nào không có nguyên tắc? Đâu phải chỉ có thơ Đường luật mới có nguyên tắc. Thơ Mới, thơ Tự Do… vẫn có nguyên tắc của Thơ Mới thơ Tự Do… Cũng như nước nào có luật lệ của nước ấy. Chỉ khác nhau ở điểm rộng hay hẹp, tồn cổ hay duy tân.. đó thôi.
Luật thơ Đường mới ban đầu cũng rộng rãi lắm. Nhưng càng ngày càng thêm chi tiết mới trở thành khó khăn cho người mới học làm thơ. Thể này chỉ thích hợp với những tâm hồn đã được tiết chế, những tâm hồn bình tĩnh, những tâm hồn vô ngại… chớ không thích hợp với tâm hồn người đời nay. Vì vậy nên không cần mạt sát đả đảo, thể Đường luật cũng phải chết theo những nhà thơ cữ, không kíp thì chầy.
Lão công nhận rằng thể Lục bát ít bó buộc hơn thể Đường luật nhiều. Nhưng lão nhận thấy: thơ Đường Luật khó làm nhưng dễ hay, thơ lục bát dễ làm nhưng khó hay. Do đó từ xưa đến nay chỉ có một quyển Đoạn Trường Tân Thanh.
Trần Thúc Lâm và Nguyễn Hoài Văn nghe lão nói nhìn nhau. Lão hiểu ý, khuyên:
- Hai ông bạn thử đổi thể thơ.
- Xin lĩnh ý.
Trà ấy gắng công Lão mừng: Thơ Lục Bát của hai ông bạn khác hẳn thơ Đường luật mà lão được xem bấy lâu. Không còn khô khan gò gẫm như  trước. Trong thơ có chất thơ ngoài thơ có tiếng nhạc. Đây thơ của họ Trần:
TẤC LÒNG QUÁN TRỌ
Bao phen là nhuộm vàng thu
Lênh đênh thương gót lãng du chưa về
Bồi hồi ngoảnh lại trời quê
Núi sông ngăn cách tư bề nước mây.
Non Nam cách nhạn lạc bầy
Cỏ hoa đất Bắc độ này tuyết sương
Riêng phần sông vệ núi Dương
Gió mưa xoáy cuộc tang thương đã nhiều
Còn chăng trẻ trĩu nhánh điều
Ruộng mai vàng lúa bãi chiều xanh dâu
Và người năm ấy giờ đâu
Trên sông hoài vọng đứt cầu âm hao
Lạnh lùng bóng nguyệt mài dao
Quốc cừu biết có lúc nào trả xong
Ngập ngừng chiếc én sang song
Ngóng xuân luống những phập phồng tin xuân.
Và đây là thơ của họ Nguyễn:
MỘT NHOÁNG SE MÀU 
Cuộc đời thay biển đổi dâu
Thương vườn xưa cũng hoan màu phong sương
Cỏ gai rấp nghẽn lối đường
Bìm leo nách dậu bốn tường trơ vơ
Hoa buồn bướm lại thờ ơ
Liễu gầy oanh luống ngẩn ngơ giọng chiều
Một mình đứng giữa cô liêu
Hồn nghe vang vọng sóng triều cõi sâu
Xuân xanh một nhoáng se màu
Gió về run rẩy mấy tàu chuối khô…
Chưa phải là khúc Dương A giới lộ, nhưng không đến nỗi bị liệt vào hàng khối lỗi lậu chi (7). Và những câu như:
- Riêng phần sông Vệ núi Dương
Gió mưa xoáy cuộc tang thương đã nhiều
Khối lỗi là con nộm nang Lậu chi là chén thủng. Chữ mượn trong câu: Hữu nhơn vô ngã thị khối lỗi giã; hữu trực vô khúc thị lậu chi giã.
Và câu:
Một mình đứng giữa cô liêu
Hồn nghe vang vọng sóng triều cõi sâu
Xuân xanh một nhoáng se màu
Gió về run rẩy mấy tàu chuối khô.
Thì có thể khen hay mà không chút ngượng ngại. Câu của họ Trần tuy dùng chữ TANG THƯƠNG là chữ cũ mà nhờ có chữ XOÁY thành ra câu văn trở nên mới mẻ. Cổ nhân gọi là “Xuất tân ý, khử trần ngôn”. (8) Còn mấy câu của họ Nguyễn thì tứ mới lời mới, thoát hẳn ảnh hưởng của thơ cử tử ngày xưa.
NGUYỄN ĐÔN PHỤC có câu:
Đất đã đắp đắp cho nên núi, chín chày phải gắng công lao;
Đường dù đi đi dốc đến nơi, nghìn dặm chi mài khó nhọc.
Lão xin mượn để tặng hai ông bạn họ Nguyễn họ Trần.
Bỏ là bỏ cách dùng. Chữ không có mới cũ. Mới cũ là do cách dùng. Cho nên mới nói là “trần ngôn”. Tức là bỏ cách nói đã mục nát thành bụi.
Chú thích:
(1) Có cọng mà không có hoa đó là cây khô.
(2) Có cách không có thú đó là con trâu đất.
(3) Trong báo Hữu Thanh số 10 năm thứ tư nơi mục “cái bàn cách làm thơ” ông Đào Nguyên Thiện cũng đưa bài “Cái cắng đánh nhau” ra làm mẫu.
(4) Trong quyển Thi Pháp Nhập Môn có nói rõ, người làm thơ Đường Luật ai cũng biết, nên miễn bàn thêm.
(5) Có tiếng mà không có âm vận thì là phẫu đất. Chữ THANH đây là tiếng. Còn chữ THANH của bạn Thú Lâm hỏi đó là thanh điệu, là âm vận. Câu “Hữu thanh vô tận” nghĩa là có lời mà không có nhạc, đọc nghe không êm tai.
(6) Quy tắc về thể lục bát các sách đã nói nhiều rồi nên không cần phải nói thêm.

(7) Dương A Giới Lộ (ánh mặt trời chiếu vào giọt sương móc) là một khúc ca nổi danh, giá trị kém hơn Dương Xuân Bạch Tuyết một bậc.
(8) Xuất ý mới, bỏ lời trần hủ.
Đôi nét cương yếu về thi học [1] [2]
1.
Vương Anh Lạc từ Bình Khê vào Nha Trang tặng lão vườn mấy khóm hoa thơ tự tay vun quén. Lão lựa được một khóm đủ hương đủ sắc đem chưng nơi vườn thơ:
THỀM HOANG
Ngọc anh nở mấy mùa
Người đi đã về chưa
Hương lạnh tình ong bướm
Chim vàng nương bóng trưa
Đoạn cùng Vương ngồi dưới gốc mận đơm hoa trò chuyện. Chợt Nguyễn Kính Sơn và Diệp Hà Giao ở Đà Lạt về Quy Nhơn ghé lại thăm vườn. Lão giới thiệu tác giả Thềm Hoang. Diệp quân thấy bài thơ là thơ ngũ ngôn tứ tuyệt và tác giả là một thanh niên tuổi mới lớn “bách niên bán diệt bán”, tỏ ý xem thường:
- Mới tập làm thơ nên làm thơ ngăn ngắn như thế, đã khỏi bị túng chữ lại khỏi bị khổ cực vì sự đối ngẫu khó khăn .
Vương Anh Lạc bị chạm tự ái, song vì nghĩ câu “kính lão đắc thọ” nên ngồi lặng thinh. Lão cười:
- Đó là một mối lầm be bé của những người chưa sống với thơ. Lão xin hỏi ông bạn: Một bát trà Huế và một cốc trà Liên, bên nào có giá trị hơn bên nào? Và nấu trà Huế và chế trà liên, bên nào khó hơn bên nào?
Diệp quân biết rằng lão chiếu bí, cười:
- Hỏi tức là đáp. Như vậy theo lão vườn thì làm thơ tứ tuyệt khó hơn thơ bát cú?
- Đối với người khác thì khó dễ thế nào lão không dám biết. Còn đối với lão thì tứ tuyệt khó hơn bát cú nhiều. Đối chọi không phải là việc khó đối với những người đã lành nghề. Lựa chữ chuốt lời cũng không phải là việc khó dưỡng thần. Tuyệt cú chỉ có một nửa thể tích của bát cú, nhưng vẫn phải chứa đựng. Lại còn phải làm sao cho khí thơ mạnh mẽ liền lạc, thần thơ sáng mà không lòa. Khiến cho không khí bài thơ được điều hòa, nội dung bài thơ được sung thêm.
Nguyễn quân biểu đồng ý kiến của lão, và tiếp:
- Thơ tứ tuyệt lời bình dị mà ý hàm súc. Cổ nhân bảo rằng đó là phần kết tinh của thơ. Chỗ tinh diệu chỉ có thể ý hội chớ không thể ngôn truyền. Và vì khó làm nên trong số thơ truyền tụng, từ đời Trần đến nay, thơ tuyệt cú không có mấy, không có mấy bài được như sao hôm sao mai.
Lão nói:
- Thể tứ tuyệt chỉ thích hợp với những tâm hồn tế nhị thanh tịnh như các thiền sư Lý Trần, hoặc hoa lệ phong phú nhưng đã từng được tiết chế như các thi nhân Đường Tống. Thơ tuyệt cú của Lý Trần Đường Tống, hầu hết là những viên minh châu, từ xưa đến nay không mấy ai phủ nhận giá trị, nhưng cũng chưa mấy ai nói cho rành mạch những cái hay cái đẹp của thơ. Quả như lời bạn Kính Sơn đã nói, chỗ tinh diệu chỉ có thể nhận hiểu bằng thần ý chớ không thể diễn thuật bằng lời.
Diệp quân hỏi vặn:
- Chẳng lẽ thơ quốc âm không có bài nào đáng kể sao?
Lão đáp:
- Có, nhưng có ít chớ sao lại không. Song thơ xưa thì lão chưa có duyên được thưởng thức, còn thơ nay thì ngũ tuyệt lão thích bài TÌNH QUÊ của Kiến Đạo, thất tuyệt lão thích bài MỘT NỬA TRĂNG của Hàn Mặc Tử:
TÌNH QUÊ
Thu về mai nở gấp
Trùng cửu nảy chồi xanh
Tết đến xuân đi trớt
Đồng quê bát ngát tình.
MỘT NỬA TRĂNG
Hôm nay có một nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi
Ta nhớ mình xa thương đứt ruột
Gió làm nên tội buổi chia phôi.
Mỗi lần đọc đến hai bài này, lão đều phải đọc tiếp câu thơ VỊNH CÚC của Hòa Thượng Thích Viên Thành ở Huế:
Bình sanh ngạo cốt lăng tằng thậm
Mỗi đáo đê đầu chỉ vị khanh.
Nghĩa là:
Bình sanh tánh vốn ngang tàng
Nghiêng đầu xuống thấp vì nàng đó thôi.
Kính Sơn cười hả hả:
- Hòa Thượng Thích Viên Thành đã đa tình, lão giữ Vườn lại còn đa tình gấp bội. Chữ KHANH của nguyên tác nghĩa rộng. Chữ NÀNG trong dịch văn làm nổi bật tánh yêu hoa của khách ngạo cốt lăng tằng.
Vương Anh Lạc, từ đầu câu chuyện, thủ phận “đồng tử tạo ngung”. Đến khi nghe Nguyễn Kính Sơn bình luận, thì tình dù đượm đến đâu cũng không bền bỉ. Mà tình của thi nhân vừa đa lại vừa chung. Cho nên khi đã chịu “nghiêng đầu xuống thấp” thì lòng yêu, kính đã trộn lẫn thành một chất rượu kinh niên.
Diệp Hà Giao nhìn lão:
- Lão Vườn đã chịu “đê đầu” trước Tình Quê và Một Nửa Trăng, mà lại tuyển thủ Thềm Hoang cho Vườn Hoa Thơ. Như thế có phải ngụ ý rằng Thềm Hoang không thua Tình Quê và Một Nửa Trăng, hoặc dụng ý rằng kẻ hậu sanh sẽ theo kịp hai bậc tiền bối?
- Khi lão chọn Thềm Hoang thì hai bài kia nằm sâu trong ký ức và chỉ xuất đầu lộ diện khi hầu chuyện cùng hai lão hữu mà thôi. Như vậy thì không hề có sự so sánh. Đó là điểm thứ nhất. Còn điểm thứ hai thì tất cả mọi người lo tu thân không phải ai cũng có thể trở nên hiền nên thánh. Song những kẻ đã giốc lòng lập đức thì đều phải lấy hiền thánh mà tự kỳ. Như vậy, cầu mong kẻ hậu sinh theo kịp hàng tiền bối chẳng phải chính đáng lắm sao?
Diệp quân cười:
- Sắm được một lão giữ vườn lão khẩu, thì “viên thể” ít khi bị nhục, và khách đến thăm vườn chẳng những được sướng mắt sướng mũi mà còn được sướng tai. Mình khen cho đó.
Một trận gió nồm thổi râu mận bay phơi phới như mưa tuyết và nhuộm trắng cả mái đầu chủ khách, không còn phân biệt ai trẻ ai già. Ai nấy đều cười thoải mái.
Kính Sơn ngồi trầm ngâm hồi lâu rồi nói:
- Bài Thềm Hoang đọc đi đọc lại thấy gồm đủ thanh sắc vị. Nhưng kiến trúc chưa được vững. Dường như bị thiếu một yếu tố nào đó, nhưng tôi tìm mãi không ra.
Hà Giao vụt đáp:
- Câu thứ nhì bị thất luật. Chữ thứ hai câu ấy phải là tiếng trắc vì chữ thứ hai câu trên là tiếng bằng. Thơ không theo đúng luật bằng trắc thì đọc không êm. Đó là lẽ thường chớ có gì lạ đâu mà phải mất công tìm kiếm.
Biết rằng ông bạn là một tay cử nghiệp keo sơn cùng nguyên tắc của trường thi. Để có thể đánh ngã tánh cố chấp kinh niên, lão phải bài binh bố trận chặt chẽ:
- Tay nhà nghề có khác. Quả như lời các bà lão thường nói: “Con ruồi bay qua, biết ngay là đực là cái”. Song ông bạn quên rằng thơ tuyệt cú, cũng như các loại thơ khác, đã thịnh hành từ các đời Hán, Ngụy, Lục Triều. Đến đời Đường thanh vận mới hòa hiệp mà đặt ra Luật Thơ. Người đời Đường đặt ra Luật thơ sau bao nhiêu kinh nghiệm rút được nơi người xưa và nơi bản thân. Đặt ra để điều khiển thi hứng tới lui đi đứng được uyển chuyển điều hòa, không thái quá cũng không bất cập. Chẳng khác cương vế điều khiển con tuấn mã tế kiệu cho đều đặn nhịp nhàng, tấn thối cho đúng đường đúng lúc. Tức là đặt ra Luật thơ cốt giúp cho thi nhân những phương tiện ổn định để diễn đạt ý thơ cho được hoàn hảo, giúp cho nghệ thuật đi đến mức linh diệu tinh vi. Nhưng đã gọi là phương tiện thì giá trị chỉ tương đối chớ không phải tuyệt đối, không phải bất khả xâm phạm như hiến pháp một quốc gia có cương kỷ. Bởi vậy cách áp dụng phải linh động. Nhiều khi, để tránh cái họa hình thức làm hại nội dung, thi nhân có quyền nới rộng khuôn khổ lề lối, hoặc vứt bỏ hẳn luật lệ như người bơi qua sông nước chảy mạnh phải vứt bỏ xiêm y. Hy sinh quy tắc để giữ trọn thi hứng, chính người đời Đường là đời đặt ra Luật thơ, vẫn thường thực hiện. Như Lý Thái Bạch, Thôi Hiệu, Tống Chi vấn. Những bài phá luật như Đăng Hoàng Hạc lâu của Thôi, Anh Vũ Châu của Lý, Tâm Dương Cung Thanh, Tôn Huyền thị Yến của Tống, đều là những giai phẩm được lưu truyền. Về thơ Ngũ Tuyệt, vì ít chữ ít câu, đáng lẽ hình thức trang nghiêm của Luật Đường phải được tuân thủ triệt để. Thế mà niêm luật lại được nới rộng hơn thơ Thất Ngôn, nếu không có tên tác giả đi kèm thì người đọc có thể lầm là thơ cổ:
DỊCH THỦY TỐNG BIỆT (1)
Thử địa biệt Yên Đan
Tráng sĩ phát xung quan
Tích thời nhân dĩ một
Kim nhật thủy do hàn
Lạc Tân Vương
Nghĩa là:
Nơi này biệt Yên Đan
Tóc tráng sĩ dựng ngược
Người xưa dẫu không còn
Nước vẫn còn lạnh buốt
TĨNH DẠ TỨ
Sàng tiền khán nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.
Tạm dịch:
Ánh nguyệt rọi bên giường
Lòng ngờ đất tỏa sương
Ngẩng đầu trông nguyệt rạng
Cúi đầu nhớ cố hương. 
DẠ VŨ
Tảo trập đề phục yết
Tàn đăng diệt hựu minh
Cách song tri dạ vũ
Ba tiêu tiên hữu thanh.
(Bạch Cư Dị)
Tạm dịch:
Dế giun kêu mỏi lại ngừng
Hoa đèn đã lụn vụt bừng sáng thêm
Ngoài song biết có mưa đêm
Giọt tiêu tích tách qua rèm tiếng đưa
Thơ ngũ tuyệt đời Đường mà lão được đọc, đa số là thơ phá luật. Phá luật song không làm tổn hại đến phép làm thơ. Như những bài thượng dẫn. Để thêm vui, xin lục thêm một bài thất tuyệt phá luật của Đường Nhân:
MANG SƠN
Bắc Mang sơn hạ liệt phần doanh
Vạn cổ thiên thu đối Lạc thành
Thành trung nhật tịch ca chung khởi
Thử sơn duy văn tùng bách thanh
(Thẩm Thuyên Kỳ)
Tạm dịch:
Dưới Bắc Mang sơn mả sắp hàng
Lạc thành muôn thuở mặt trông sang
Trong thành hôm sớm chuông ca rộn
Tùng bá trên non tiếng dịu dàng.
Phá luật mà câu thơ không gập ghềnh, mạch thơ vẫn liền lạc, nhạc thơ vẫn điều hòa, không phải là việc dễ. Và xem các bài thơ thượng dẫn, hai ông bạn có cảm thấy hoặc nhận thấy thiếu “một cái gì” làm cho kiến trúc bài thơ không được vững chắc như khi đọc bài Thềm Hoang của Vương Anh Lạc không? Chắc là không. Đó không phải vì bị uy danh của các tác giả làm mờ tâm trí, mà chính vì bút pháp của cổ nhân đã đến mức tinh luyện, tinh luyện tới độ trở thành tự nhiên như nói cười đi đứng, tự nhiên như bốn chân ngựa đã thuần thục, đi đường núi cũng vững như  đi đường bằng.
Hà Giao ngồi làm thinh. Kính Sơn nói:
- Giải thích rõ ràng. Tôi công nhận bài Thềm Hoang không phải vì không theo đúng niêm luật mà trở nên lỏng lẻo. Nhưng mặc dù cố dựa theo lời giải thích của lão vườn để tìm lấy khuyết điểm mà vẫn không tìm ra.
Lão đưa mắt nhìn Hà Giao. Hà Giao nguýt:
- Ai lão khẩu thì thuyết trình chớ đây vô phận sự.
Lão nói:
- Bài thơ ngó lỏng lẻo là vì thiếu chỗ tựa. Lạc Tân Vương lấy THỬ ĐỊA làm chỗ tựa. Lý Thái bạch lấy SÀNG làm chỗ tựa . Bạch Cư Dị lấy SONG làm chỗ tựa. Thẩm Thuyên Kỳ lấy MANG SƠN làm chỗ tựa. Còn chỗ tựa trong bài Thềm Hoang là đâu để cho hoa cho người cho hương cho chim quy tụ? Thật chẳng khác một giáo hội mà không có trụ sở: Tín đồ dù đông mấy cũng không thể vững mạnh, bởi thiếu sự sinh hoạt cộng đồng.
Kính Sơn biểu đồng:
- Vậy nên cất cho tình ý bài Thềm Hoang một trụ sở để có nơi tương ỷ tương y.
- Đất không còn chỗ trống. Nếu muốn có chỗ tựa thì phải hy sinh một ngôi nhà nào thấy không cần thiết. Trong câu “Hương lạnh tình ong bướm”. Chữ HƯƠNG thật đẹp. Song bỏ đi, ý thơ vẫn không bị sút giảm bởi đã có hoa Ngọc Anh nở mấy mùa. Cho nên lão đề nghị bỏ chữ HƯƠNG để thay chữ THỀM vào làm trụ sở.
Ngọc anh nở mấy mùa
Người đi đã về chưa
Thềm lạnh tình ong bướm
Chim vàng nương bóng trưa.
Hà Giao đứng dậy:
- Hảo tai! Hảo Tai! Trụ sở cất rồi, chúng ra nên giải tán.
2.
Được lão chỉ giùm chỗ khuyết trong bài Thềm Hoang, Vương Anh Lạc cao hứng về Bịnh Định rủ ba chú trẻ nữa vào thăm lão:
- Huỳnh Phú Thọ
- Tạ Hữu Giang
- Lý Như Hải
Lão hỏi:
- Có hoa thơ cho vườn chăng?
Vương Anh Lạc:
- Hôm trước đánh liều… Từ hôm ấy mới biết rằng cháu đã lầm tưởng thơ không cần học.
Lý Như Hải:
- Chính chúng cháu cũng đều lầm như thế. Đó không phải vì dốt nát mà lầm. Chính do đọc sách mà lầm. Chúng cháu đã đọc sách thấy nói rằng văn sĩ Caldwell của Mỹ, một văn sĩ nổi tiếng khắp thế giới, không hề đọc ai cả. Chúng cháu nghĩ không đọc ai cả tức là không học. Không học mà vẫn giỏi thì muốn trở thành thi sĩ cần chi phải học. Cứ lo làm thơ cho nhiều thì thơ sẽ hay.
Huỳnh Phú Thọ:
- Lại có đôi nhà văn nói: Đọc sách nhiều, khi viết sẽ bị ảnh hưởng của người xưa, không sáng tạo được gì mới mẻ.
Tạ Hữu Giang:
- Cũng có người nói: Người viết nhiều thì không đọc, người đọc nhiều thì không viết, bởi đọc nhiều tưởng người trước đã viết hết rồi, mình có viết nữa cũng chỉ lặp lại một cách vô vị những ý kiến những tư tưởng của cổ nhân. Chúng cháu đều là những người ưng viết, nên nghe sách nói, người sanh trước nói, thành ra khinh thường việc học hỏi. Sau khi anh Lạc về nói chuyện lại cuộc thâm kiến lão vườn, chúng cháu tỉnh ngộ. Nên vào kính xin lão vườn chỉ điểm cho những điều thiệt hơn.
Nhận thấy những lời của mấy ông khách trẻ đều là lời chân thành, lão ôn tồn đáp từng điểm một:
- Ở đời có ba thứ biết: Không học mà biết, cổ nhân gọi là sanh nhi tri; Nhờ học mà biết, cổ nhân gọi là học nhi tri; nhờ gặp những bước khốn cùng mà biết, cổ nhân gọi là khổn nhi tri, tức là nhờ lịch duyệt mà biết. Biết làm thơ cũng thế. Nhà văn Calwell là sanh nhi tri. Những bậc thiên tài như thế đâu có nhiều. Hầu hết những nhà thơ nổi danh xưa nay đều nhờ công học hỏi, rèn luyện mà thành tài.
Bảo rằng đọc sách nhiều sẽ bị ảnh hưởng sách, không thể sáng tác được gì mới mẻ, điều đó không phải là không có. Như Âu Dương Tu học thơ của Hàn Dũ thì hay phỏng theo Hàn Dũ. Tô Đông Pha hễ học Lý Bạch thì phỏng theo Lý Bạch, học Đỗ Phủ thì theo Đỗ Phủ… Nhưng đó là lúc còn thanh niên. Chớ đến khi trưởng thành thì tự xuất tân ý tạo thành nhất gia cơ trử, danh sáng không nhượng các bậc bổn sư. Mới học ai lại không bắt chước thầy. Như con gà con thì phải theo mẹ, phải cần có mẹ bươn chải tìm mồi cho ăn, ấp ủ để tránh mưa gió, song đến khi đủ lông đủ cánh thì phải tự lực cánh sinh. Vật kia còn thế huống hồ kẻ học làm thơ… Người học cũng như cây, sách vở thầy học cũng như núi. Một khi đã đâm rễ vào núi, thì chồi nảy sanh…, mỗi ngày một thêm cao lớn, tàn xanh hoa thắm che lắp sắc núi, vượt cao hơn núi. Đứng ngoài mà nhìn nào ai có thấy núi, mà chỉ thấy lá và hoa của cây. Như thế học có hại cho việc sáng tác ở chỗ nào?
Còn nói học nhiều sợ viết nữa sẽ bị lặp lại những ý kiến những tư tưởng của cổ nhân. Theo lão dù có lặp lại cũng không hề gì. Bởi những lời dạy của cổ nhân chắc chi ai nấy cũng đã được nghe, chắc chi những người được nghe ai nấy cũng đều thấu đáo… Chúng ta đây đều là Phật tử, thử xem những lời đức Phật dạy, đã được các nhà thông thái lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần, mà đã ai hiểu hết chưa, ai đã nhớ hết chưa, đã ai thấy những lời lặp đi lặp lại đó trở thành vô vị vô bổ chưa? Ví dụ như Na Tiên Tỳ Kheo Kinh là một bộ kinh phản ánh những đường nét chính yếu của Giáo lý nguyên thủy. Thế mà trên dưới hai mươi thế kỷ nay đều được tán thán là đặc sắc. Đặc sắc ở điểm ngài Na Tiên đã dùng những tỷ dụ do ngài sáng chế để làm sáng tỏ các chủ điểm giáo lý của Phật Giáo Nguyên Thủy. Mới hay cũ là ở cách nói nhiều hơn là ở lý tưởng. Biết cách nói thì cũ cũng trở thành mới. Không biết cách nói thì mới cũng trở thành cũ. Bởi trong thế gian này những cái gọi là mới chỉ là những cái cũ đã bị vùi lấp quên lãng lâu ngày, được tìm thấy lại và chùi rửa sạch bụi thời gian đó thôi.
Đến điểm “Người viết nhiều thì không đọc. Người đọc nhiều thì không viết”, theo lão, có nghĩa như thế này:
- Người không đọc sách cũng như Hà Bá sông Hoàng Hà chưa xuống biển đông, tưởng sông mình nước nhiều nhất vũ trụ. Tự thấy mình là lớn là hay chữ, ưng làm thầy thiên hạ, nên viết sách để dạy đời. Còn những người đọc nhiều, tự thấy mình không đủ sức để khai triển để phát huy những cái hay cái đẹp của cổ nhân, có viết nữa chẳng qua chỉ nhai lại những cái cũ; sách mình ra đời chỉ là một bản trùng tuyên vô vị vô bổ, không đáng làm hao giấy mực của đời. Một bên thì tự thị tự đắc. Một bên thì tự ty hoặc tự trọng.
Lý Hải Như: - Hai hạng người ấy ở Việt Nam có nhiều chăng?
- Lão không thể biết, vì chưa ai làm bảng thống kê.
Tạ Hữu Giang: - Xin lão vườn cho chúng cháu được biết để theo: Khi mới học làm thơ và khi đã biết làm thơ rồi, Lão Vườn đã đọc những sách nào?
- Ban đầu chỉ đọc quyển Quốc Văn Trích Diễm của Giáo sư Dương Quảng Hàm. Đó là quyển sách bằng quốc âm duy nhất dạy cách làm thơ mà lão được đọc, lúc còn ở trường. Sau khi ra trường thì được đọc toàn sách chữ Hán và chữ  Pháp.
Huỳnh Phú Thọ có vẻ ngạc nhiên:
- Lão Vườn chuyên về thơ Đường Luật mà sao lại học sách dạy thơ bằng chữ Pháp? Không lẽ thơ của Pháp cũng có thơ Đường Luật?
- Lão học là học thi pháp. Còn niêm luật của thơ Đường Luật thì nội quyển Quốc Văn Trích Diễm cũng đã tạm đủ rồi.
Vương Anh Lạc: - Niêm luật không phải thi pháp sao?
- Là một điểm trong thi pháp và chỉ luật Thơ Đường mới áp dụng chặt chẽ. Thi Pháp rộng như biển. Còn niêm luật chỉ là một chum nước thôi.
Nhận thấy mấy chú trẻ không tin lời nói của lão, song không dám nói ra, lão cười:
- Những người chưa thạo thơ Đường luật hoặc mới học làm thơ Đường luật đều cho niêm luật là khó là bó buộc. Nhưng người đã lành nghề thì cho là trò chơi, không chút bận tâm. Đó cũng do các sách dạy thơ giảng không có khoa học nên khó nhớ. Khi lão mới học, lão phải học thuộc lòng:
Bằng bằng trắc trắc trắc bằng vần.
Trắc trắc bằng bằng bằng trắc trắc vần
Trắc trắc bằng bằng bằng trắc trắc
Bằng bằng trắc trắc bằng bằng vần…
Bằng bằng trắc trắc bằng bằng trắc
Trắc trắc bằng bằng trắc trắc vần
Trắc trắc bằng bằng bằng trắc trắc
Bằng bằng trắc trắc trắc bằng vần.
Đó là thể bằng. Còn thể trắc thì câu đầu phải khởi sự bằng hai tiếng trắc… Cứ vậy mà học thuộc... khi quen tay quen miệng rồi thì “bằng trắc tùng tâm sở dục”. Hễ sai một chữ là biết ngay. Chừng đó lão mới tìm thấy một phương pháp làm cho kẻ mới học thơ dễ nhớ hơn phương pháp học thuộc lòng “bản hiến chương” kia.
Mấy chú trẻ đồng reo:
- Lão Vườn vui lòng truyền cho chúng cháu.
- Theo bản bằng trắc “tiền chế” đó, thì câu một bằng trắc giống câu 8, câu 2 giống câu 3, câu 4 giống câu 5, câu 6 giống câu 7. Ngoại trừ chữ cuối ở mỗi câu. Bởi chữ cuối của câu 1 và 4  câu chẵn để dành cho vần của bài thơ. Hễ vần ở câu chẵn là tiếng bằng thì chữ thứ bảy của câu lẻ phải tiếng trắc, và trái lại. Đó là niêm.
Niêm tức là dính lại với nhau, ăn khớp với nhau. Niêm thuộc về câu. Còn luật thuộc về chữ trong mỗi câu. Trong mỗi câu thì chữ thứ nhất, chữ thứ ba và chữ thứ năm, không cần theo đúng bằng trắc. Chỉ có chữ thứ hai chữ thứ bốn và chữ thứ sáu, bằng trắc không được sai với bản “ bản phong thần” mà thôi.
Cổ nhân gọi là “Nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh”. Thế là mỗi câu chỉ còn có ba chữ phải theo đúng luật bằng trắc. Ba chữ đó gọi là ba “phần tử tiết điệu”. Chúng theo thế quân bình tam phân: hai phần tử ở hai đầu, tức là chữ thứ hai và chữ thứ 6, đối lập cùng chữ ở chính giữa, tức là chữ thứ 4. Nếu chữ thứ 4 là tiếng trắc thì chữ thứ hai và chữ thứ 6 phải là tiếng bằng. Nếu chữ thứ 4 là tiếng bằng thì chữ thứ 2 và chữ thứ 6 phải là tiếng trắc. Nói một cách nôm na: chữ thứ 2 và thứ 6 kẹp cỗ chữ thứ 4. Hoặc 2 bằng kẹp cổ trắc, hoặc 2 trắc kẹp cổ bằng.
Bây giờ nói đến Niêm: Cổ nhân bày ra niêm là cốt để cho không khí bài thơ được điều hòa, để cho câu trên câu dưới khỏi “cãi cọ” nhau. Ví như bốn cặp vợ chồng nằm chung trên một chiếc giường, phải làm sao để tránh sự nghi kỵ, sự phân bì…, để khỏi mích lòng nhau mà sanh ra bất hòa bất thuận.
Nếu sắp đàn ông tức là câu trống, một phía, đàn bà tức là câu mái, một phía, thì chính giữa trống mái, phải có một vách ngăn, hoặc một chiếc gối to và dài làm ranh giới, hầu tránh sự lộn xộn lúc tắt lửa tối đèn. Giường vừa đủ tám người nằm, nếu thêm vách thêm gối vào nữa thì thiếu chỗ. Huống nữa làm như thế sẽ mang tiếng chia rẽ bắc nam. Mà Niêm bày ra là để cho sự đoàn kết giữa câu này và câu kia được mười phần chặt chẽ…
Vương Anh Lạc:
- Thì cứ sắp cặp vợ chồng nào nằm theo cặp vợ chồng nấy.
- Đúng. Nhưng phải sắp cách nào cho ổn? Nếu cứ sắp chồng đâu vợ đó, như thế này:
Chồng                        *------------------*--------------------*
Vợ                              *------------------*--------------------*
Chồng                        *------------------*--------------------*
Vợ                              *------------------*--------------------*
Chồng                        *------------------*--------------------*
Vợ                              *------------------*--------------------*
Chồng                        *------------------*--------------------*
Vợ                              *------------------*--------------------*
Thì trừ hai người nằm ở hai đầu được tự do day trở, còn những người nằm giữa thì chỉ được nằm ngửa hoặc day mặt vào người bạn trăm năm của mình mà thôi. Bởi nếu làm khác đi thì hoặc ít hoặc nhiều, không sao tránh khỏi sự ngờ vực… bởi thế, vẫn giữ nguyên tắc “chồng đâu vợ đó” cổ nhân xếp đặt một cách hợp tình hợp lý hơn:
Chồng                        *------------------*--------------------*
Vợ                              *------------------*--------------------*
Vợ                              *------------------*--------------------*
Chồng                        *------------------*--------------------*
Chồng                        *------------------*--------------------*
Vợ                              *------------------*--------------------*
Vợ                              *------------------*--------------------*
Chồng                        *------------------*--------------------*
Như thế ai nấy đều được tự do day trở. Trở nghiêng bên này thì gặp bạn trăm năm, tạo nên cảnh loan phụng hòa bình. Day sang bên kia thì gặp bạn đồng giới, tránh hẳn lẽ âm dương tương khắc. Ai nấy đều ngủ yên. Bài thơ khỏi bị “lủng củng nội bộ” (2)
Mấy chú trẻ khoái ý vỗ tay reo:
- Chúng cháu nhận thức đầy đủ rồi. Chúng cháu sẽ tập làm thơ Đường Luật.
- Ý đừng! Ý đừng! Nói ra cốt để cho các chú em thấy rằng thơ Đường luật khó, mà không khó. Không khó ở niêm luật, đối, bệnh…, tức là hình thức, mà khó cũng như các thể thơ khác, ở cách diễn đạt tình, lý cảnh, sự cho được trung thực, cho được linh động, cho được tự nhiên…, tức là khó ở chỗ làm như thế nào để cho nghệ thuật được vận dụng, tận dụng, diệu dụng, hầu phục vụ nội dung được hữu hiệu, được đến mức hoàn toàn.
Lý Như Hải: - Tại sao lại không nên học thơ Đường luật, nếu quả hình thức không làm hại nội dung?
- Làm hại nội dung là do tài bất cập. Với hình thức nào mà tài bất cập đều không diễn đạt được những gì mình muốn diễn đạt, chớ không riêng gì với thể thơ Đường.
Huỳnh Phú Thọ: - Như vậy chỉ cần luyện tài chớ không cần chọn thể?
- Cũng cần lắm. Vì nội dung và hình thức phải ăn nhịp với nhau thì thơ mới hoàn hảo. Như người Mỹ, người Phi… mà mặc áo đen dài bịt khăn đóng, thì coi không được. Những trang y của các giai nhân ngày xưa mà chúng ta thấy ở trong phim chiếu bóng Trung Quốc, thật đẹp đẽ biết bao. Thế mà Mao Trạch Đông, Tưởng Giới Thạch có còn dùng cho giới phụ nữ Trung Hoa nữa chăng? Kiểu nhà chữ Môn, đâu phải là không mỹ thuật, nhưng trừ những chùa chiền miếu mạo, có nhà giàu sang nào dùng để xây cất biệt thự trong những nơi đô hội phồn hoa? Thể thơ Đường luật cũng thế. Phải để cho “đương sự” nằm yên trong dĩ vãng. Những ông già bà cả phải chết đi, thì người đời mới thương tiếc, chớ cứ sống mãi thì chỉ làm cho người thân yêu giảm lần hết cảm tình.
Tạ Hữu Giang: - Thế sao lão vườn vẫn giữ  thể thơ Đường luật?
- Đó là do “tập dữ tánh thành”. Răng đã nhuộm đen rồi, mỗi ngày xỉa thuốc cho đen thêm, hoặc cho khỏi tróc khỏi lợt, chớ không nên theo thời thượng lấy nước cường toan đánh cho trắng. Bởi đã không thể nào trắng được, mà còn xam xám rai rái trông hết sức khó coi. Các chú em đương trắng răng, sao lại muốn ra chợ Đông Ba mua thuốc xỉa?
Vương Anh Lạc: - Không nên tập, nhưng phải biết. Biết để dễ thưởng thức những bài thơ Đường luật của cổ nhân còn lưu thế. Xin Lão Vườn cho biết thêm về niêm luật của Ngũ ngôn.
- Niêm của Ngũ Ngôn không khác Thất Ngôn, còn luật thì giản tiện hơn, bởi số chữ ít. Cũng như thơ Thất Ngôn, Ngũ Ngôn luật thi luôn luôn dùng cước vận và cách vận. Và vận nằm ở câu thứ nhất cùng ở các câu chẵn. (Câu thứ nhất của thơ Ngũ Ngôn nhiều khi không cần bỏ vận). Như thế câu thơ chỉ còn có 4 chữ, mà chữ thứ nhất và chữ thứ ba bằng trắc không cần theo đúng luật. Chỉ có chữ thứ 2 và chữ thứ 4, bằng trắc phải phân minh thôi. Chữ thứ 2 và chữ thứ 4 là 2 phần tiết diệu. Hai phần tử ấy đối lập với nhau: Hễ chữ thứ 2 là tiếng bằng thì chữ thứ 4 phải là tiếng trắc. Còn chữ thứ 2 tiếng trắc thì chữ thứ 4 phải là tiếng bằng. Đó là thế quân bình song lập.
Như bài Thềm Hoang của chú em, câu thứ nhì luật sai niêm cũng sai. Để cho đúng niêm luật thì phải đổi:
Người đã đi về chưa
Nhưng đúng niêm luật để làm gì nếu ý thơ bị phản? Còn sai niêm luật mà ý thơ không bị phản, nhạc thơ không bị lệch, không khí bài thơ không bị “nóng lạnh cách biệt thái quá”, thì chẳng những không bị phạt mà còn được thưởng. Bởi không theo con đường đã vạch sẵn, mà đi đúng phương hướng, đi không bị vấp ngã. Như thế chẳng đáng khen lắm sao?
Vương Anh Lạc:
- Đó là ngẫu nhiên mà được, chứ không phải do nghệ thuật cao. Cho nên sai không biết, được cũng không biết. Lão Vườn nhìn vào thấy ngay ưu khuyết. Được vậy là nhờ có học, nhờ học nhiều… Cho nên chúng cháu xin nguyện ráng học…
- Học rồi phải suy tư để cho những gì học được có thể tiêu hóa, và phải tập để cho tri đi đôi với hành. Khách làm thơ cũng như người cán bộ chính trị, phải dùng lý thuyết để thực hiện công tác cho đúng chủ trương đường lối, và lấy công tác thực tiễn mà bổ khuyết mà phong phú cho lý thuyết. Thi pháp không phải do người làm thơ bày đặt ra, mà chính là những nguyên tắc đã rút được nơi các tác phẩm thành tựu. Học cho nhiều mà không hành cũng không ích gì cho bản thân, còn làm việc mà được mất do sự may rủi, chớ không do tài hay dở, học nhiều ít, thì kết quả kia cũng không đáng kể. Chẳng những thế theo đúng nguyên tắc đã nắm được mà đi đến chỗ thành công, nhưng không nhờ sự thành công kia mà rút thêm được những gì mới lạ để phong phú nguyên tắc, cải tiến nguyên tắc, thì cũng chưa đúng với ý nghĩa của sự học tập. Phải “nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân” mới được… Nói thì dễ mà làm rất khó… Lão luôn luôn cố gắng, nhưng vẫn chưa gặt hái được chút đỉnh gì! Lão đặt niềm hy vọng ở đoàn hậu tiên…
Tạ Hữu Giang: - Chúng cháu lâu nay cố công đọc sách. Song sách về thơ bằng Quốc âm rất hiếm. Còn chữ Hán và chữ Pháp, chúng cháu lại không thông thạo. Cho nên muốn thực hiện những lời chỉ dạy của Lão Vườn, chúng cháu không biết làm sao đây?
Lão chợt nhớ đến cách học của lão ngày xưa, học lúc chưa gặp được thầy được sách:
- Đọc thơ cho thật nhiều. Khi gặp được một bài thơ hay, thì phải xem kỹ “tại sao mà hay”. Câu đặt như thế này, chữ dùng như thế này, điệu gióng như thế này, mạch chuyển như thế này…, nên thơ hay. Nếu đổi khác hết, hoặc sửa đi đôi chút…, tình tứ trong thơ, tinh thần bài thơ..., có đổi khác đi chăng, có kém sút đi chăng? Rồi rút ra một nguyên tắc để áp dụng. Đó là kinh nghiệm bản thân. Và lão thu được ít nhiều kết quả. Những kết quả ấy sau này lão đem đối chiếu với lời sách dạy, không sai khác bao nhiêu. Các chú em thử tạm dùng thử..
Chú thích:
 (1) Kinh Kha đời Chiến Quốc, vâng lệnh Thái Tử Đan của nước sang giết vua Tần. Thái Tử đưa đến sông Dịch Thủy, Kinh Kha cảm khái hát: “Phong tiêu tiêu hề, Dịch Thủy hàn. Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn”. Hát rồi nộ khí xông lên đến nỗi tóc dựng đứng.
(2) Sáng kiến của Khương Hữu Dụng.
Đôi nét cương yếu về thi học [3] [4] 
3.
 
- Trời Đông Chí, nắng trong nhưng gió lạnh. Hoa mận rụng đầy sân, bay đầy ngõ. Mùi hoa trong và ngọt. Sắc hoa trắng và nhẹ. Lão có cảm giác đương ngồi thưởng bạch mai nở trong tuyết lúc mặt trời lên. Cao hứng lão cất tiếng hát:
Gió hương thổi lọt hoàng bào
Kiều mai tuyết điểm động đào mây giăng
(Đào Tấn)
Chợt có tiếng từ ngoài đường vọng vào: - Có gì thích thú mà ngồi hát nghêu vậy?
Tiếng vừa dứt thì hai ông khách ung dung vào vườn. Một ông tóc đen râu bạc, một ông tóc bạc râu đen. Tưởng rằng khách lạ ai ngờ bạn quen: Bác Khánh Vân và bác Hòa Phong.
Khánh Vân: - Hôm nọ đi ngang qua vườn, nghe lão vườn nói chuyện thơ cùng mấy ông khách thanh niên. Dừng lại nghe trộm, nhận thấy có đôi điều chưa vừa ý, nên rủ bác Hòa Phong đến thảo luận cùng lão vườn.
- Lão xin lĩnh giáo.
- Tại sao lão vườn chỉ nói cùng các ông khách thanh niên về niêm luật, mà không nói rõ về bát lệnh, ngũ kỵ, tứ bất nhập cách… Như thế họ tưởng rằng Luật Thơ Đường chỉ có bấy nhiêu, lòng kỳ thị đã có sẵn của họ, không khéo vì Lão Vườn mà tăng trưởng đó chớ chẳng chơi.
- Những khách thanh niên đó đều là người đồng hương với lão. Tất cả đều là người hiếu học cầu tiến. Đáng được dìu dắt nâng đỡ. Nhưng kinh nghiệm cho lão thấy rằng: Người mới học làm thơ thường hay sợ khó, và người muốn thưởng thức thơ, phần đông đều ghét khó. Cho nên đưa những cái khó của luật Đường ra, chẳng những không lợi cho người nghe, mà còn có hại cho người nói bởi những điều không thích nghe làm giảm hứng thú và giảm cảm tình của người nghe.
- Lý luận như lão vườn, thì cổ nhân đặt ra những thứ đó để làm gì?
- Cổ nhân không đặt ra những thứ đó, mà chính đã rút ra từ trong những tác phẩm lưu thế và nơi kinh nghiệm bản thân, rồi hệ thống hóa, cụ thể hóa, và đặt cho mỗi thứ  cái tên cho dễ phân biệt dễ nhớ đó thôi. Cũng như những đức tốt vốn đã sẵn có trong tâm hồn loài người, Thánh Hiền chỉ có công khai thác và giảng minh. Cũng như các thứ bệnh vốn đã có sẵn trong mình người đời, các nhà thông thái nhờ khoa học tiến bộ mới phát triển được những vi trùng vi khuẩn một cái tên cho dễ phân biệt dễ nhớ đó thôi. Những lợi những bệnh mà cổ nhân đã rút ra được, tất cả đều được giảng cứu biện minh rồi mới viết thành sách. Viết ra không phải để khoe tài khoe học, mà cốt để giúp cho những người đã biết làm thơ có thể nương vào đó mà đi đến chỗ tinh vi của nghệ thuật.
Bác Hòa Phong ngồi trầm ngâm hồi lâu rồi gật đầu tỏ ý tán thành. Bác Khánh Vân hỏi vặn:
- Như vậy đối với hàng hậu sinh cầu học, lão vườn đãi ngộ như thế nào?
Lão chợt nhớ đến câu chuyện của vua tôi người Pháp mà lão đã được đọc trong sách lúc ở trường, nên bụng bảo dạ:
- Bác Khánh Vân hay nói nên râu bạc trước tóc. Bác Hòa Phong hay nghĩ nên tóc bạc trước râu.
Lão bật cười và đáp:
- Mỗi khi họ đưa thơ đến Vườn, thì nhân những khuyết điểm trong thơ họ mà cho họ thấy cái bệnh mà cổ nhân đã giảng minh, và đưa những ưu điểm trong thơ của cổ nhân hoặc của thời nhân để cho họ thấy những cái lợi mà sách khuyên nên luyện tập. Phải tùy trình độ học vấn, trình độ nhận thức của mỗi người mà thuyết minh.
Khánh Vân cười: - Vậy từ ngày mở cửa Vườn Hoa Thơ,  chắc lão đã kết nạp được nhiều đệ tử?
- Bác tưởng đâu tất cả những người đưa thơ đến Vườn đều là những người hiếu học cầu tiến? Họ đưa thơ đến mục đích chính là để được khen. Lắm người không được lão khen tỏ ý bất bình. Cho nên lão có câu bá cáo:
Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi
Thơ hay ai nỡ tiếc lời khen hay.
Thêm nữa lão rất sợ làm thầy, nên giúp đỡ những bạn trẻ cầu học thì lão sẵn lòng giúp đỡ, chớ nhận làm môn đệ thì lão rất e dè, bởi nếu không tác thành nổi thì rất khổ với lương tâm. Huỳnh Thạch Công chỉ có một mình Trương Lương là đệ tử. Lão vốn không phải Huỳnh Thạch Công, mà trên đời này không thể có Trương Lương. Cho nên trong Vườn Hoa Thơ này chỉ có tình bằng hữu chớ không có tình sư đệ.
- Nhưng nếu có người tôn kính Lão Vườn làm thầy thì lão vườn tính sao?
- Thì hết lòng với người ấy, hết lòng truyền thụ những gì mình biết mà người ấy có thể thu nhận được, và thương yêu họ như con em trong gia đình. Song đối với lương tâm lão không chịu trách nhiệm về kết quả, đắc cũng như thất. Đó cũng như những bậc kiếm hiệp lão thành đưa người có tài có tâm chí về sơn động dạy dỗ tận tình nhưng không chịu nhận lễ bái sư.
Hòa Phong vuốt râu cười:
- Lão Vườn phòng xa! Thói phản sư xưa nay thường lắm. Cho nên đừng nhận danh vị sư để khỏi mang tiếng bị phản chớ gì?
- Không phải thế. Không nhận danh vị Thầy chỉ vì tự biết mình không đủ tài đức để lo tròn phận vụ của một ông Thầy theo đúng ý nghĩa của chữ Thầy trong thiên luân. Mà không lo tròn phận vụ của Thầy, thì Thầy đã phản trò trước, chớ đâu đợi trò phản thầy.
- Không nhận danh vị mà lại tận tâm lo phận vụ. Như thế đối với mình đối với người đều ổn thỏa.
Khánh Vân:
- Mở Vườn Hoa Thơ để nói chuyện văn chương chớ đâu phải để bàn đạo lý. Vậy xin hãy gác chuyện Thầy Trò lại để cho tớ hỏi đôi điều mà lâu nay chưa có dịp hỏi.
- Những điều ấy có khó lắm chăng?
- Khó hay không là do ở chỗ biết hay không biết.
- Xin cho nghe.
- Ở Âu Châu có những trường thơ, như trường Cổ Điển, trường Lãng Mạn, trường Thi Sơn, trường Tượng Trưng, trường Siêu Thực, v.v... Ở Trung Hoa có những phái thơ, như phái Duy Mỹ đời Lục Triều, phái Phục Cổ, phái Xã Hội, phái Tự Nhiên, phái Nhàn Tản, phái Biên Tái, phái Quái Đản…, đời nhà Đường; phái Tây Côn, phái Bạch Thể, phái Giang Tây tức phái Huỳnh Sơn Cốc…, đời nhà Tống; phái Thần Vận của Vương Sĩ Trinh, phái Tánh Linh của Viên Tử Tài, phái Thanh Điệu của ngày phong trào Thơ Mới nổ dậy (1932) làng Thơ cũng chia ra nhiều phái nhiều trường, như Hoài Thanh đã nói trong Thi Nhân Việt Nam. Mong lão vườn cho biết: Từ đầu thế kỷ XX trở về trước, thơ Hàn luật có chia trường phái chăng?
- Ông bạn biết quá nhiều rồi, sao còn đi hỏi một lão già không nhìn xa quá bốn góc rào của một vườn hoa thơ bé bỏng trong một địa phương quê mùa? Toan vấn nạn chăng?
- Không phải thế. Những cái biết kia là những cái rút trong một quyển sách biên khảo đại lược về Văn Học Trung Hoa. Đó là lập lại những điều người ta nói, chớ nào phải tự mình đã đọc thơ Âu thơ Đường thơ Tống thơ Thanh được nhiều rồi rút ra những nhận xét quí báu, hoặc đọc nhiều Văn Học Sử Âu Châu, Trung Quốc thu thập được những nét đại cương… Đó là tớ học cách lòe đời của những người ít học mà ưa khoe, để lòe Lão Vườn chơi cho vui đó thôi.
- Ông bạn đã lòe lão bằng sự hiểu biết của ông bạn. Để trả thù lão cũng xin lòe lại ông bạn bằng sự dốt nát của lão: Lão vốn không sở trường việc khảo cứu, lại không được đọc trọn những tác phẩm của các thi nhân nổi danh của các triều đại Trần, Lê, Nguyễn. Vì vậy lão không thể nói được chắc chắn rằng trong làng thơ Hàn luật từ đời Trần đến đời Nguyễn có chia ra trường phái hay chăng.
- Xin cho biết một cách đại khái.
Hòa Phong:
- Việt Nam ta chưa có một quyển văn Học Sử nào đích đáng. Cũng chưa có một thi nhân văn sĩ nào ra công nghiên cứu để viết một quyển thi sử có quy mô. Bởi muốn có một tác phẩm có giá trị về biên khảo, thì trước hết phải lo sưu tầm, sắp xếp, phối kiểm... các áng dị văn, khôi phục lại những nguyên thoại. Những công việc ấy muốn thực hiện được đầy đủ cần phải có khả năng, có phương tiện, cần phải trì chí, phải chuyên tâm... Tâm chí tài thì Việt Nam ta nhiều người có, song phương tiện thì thiếu hẳn. Không phải thiếu vì loạn lạc, mà chính vì kẻ có quyền thế thiếu thiện chí thiện tâm.
Khánh Vân: - Đã có quyền có thế rồi, còn có thiện tâm thiện chí nữa thì mang sao nổi? Nhưng thôi, đừng cầu toàn. Lão Vườn hãy cho biết đại lược về trường phái trong thơ Hàn Luật.
- Bị bức bách thế này thì dù nói đại lượt đi nữa cũng không tránh khỏi sai lầm. Cho nên chỉ nói thầm với nhau nghe cho vui mà thôi…
- Nói đi. Đừng đắp bờ con mãi, chán lắm!
- Thơ Âu Châu, trường phái này khác với trường phái kia rõ rệt như rồng khác với phụng, phụng khác với lân, lân khác với quy. Còn trường phái của Trung Hoa khác nhau chỉ khác như phụng hoàng khác với đại bàng, đại bàng khác với khổng tước, khổng tước khác với hạc, trĩ, nga, âu… Riêng nói về trường phái Trung Quốc: Từ đời Đường trở về trước các thi hào thi bá như Kiến An Thất Tử đời Tam Quốc, Trúc Lâm Thất Hiền đời Tấn, Đào Tiềm, Tạ Linh Vân… đời Lục Triều, Lý Thái Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Giả Đảo, Lý Thương Ẩn… đời Đường, mỗi nhà đều có một cốt cách một tinh thần riêng biệt. Người sau theo tính cách đặc biệt của mỗi nhà mà chia ra thi phái, chớ chính bản ý của thi nhân không nghĩ đến bỉ thử, ai theo khuynh hướng nào cứ theo, chớ không ra công tranh luận để dành phần phải. Môn hộ bắt đầu chia từ đời Tống trở về sau. Đến đời nhà Minh thì phái này phái nọ luôn luôn đánh đổ chê bai nhau thái thậm. Mỗi phái đưa ra một chủ trương đường lối, người trong phái phải theo đúng, thật chẳng khác các đảng phái Chánh trị Cách Mạng hiện thời…
Còn về Việt Nam nghe truyền có 12 văn phái:
Phái Cổ Âm của Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Phái Liễu Ngạn của Ôn Như Hầu,
Phái Thụy Khuê của Phan Huy Ích,
Phái Thanh Nê của Trương Đăng Quỹ,
Phái Lai Thạch của Nguyễn Huy Tự
Phái Phú Thị của Nguyễn Huy Lượng,
Phái Mộ Trạch của Võ Duy Đán
Phái Cổ Độ của Nguyễn Bá Lân,
Phái Cổ Liêu của Nguyễn Công Trứ,
Phái Tiên Điền của Nguyễn Du
Phái Chúa Trịnh
Phái Chúa Nguyễn,
Những văn phái ấy không biết do các vị thủ xướng hoặc môn đệ đặt ra, hay do người nghiên cứu văn học đặt ra. Nếu người trong phái đặt ra thì chủ trương đường hướng của mỗi phái như sao? Nếu do người khảo cứu đặt ra thì những yếu tố nào là những yếu tố căn bản để phân biệt phái này với phái kia? Đó là những điểm mà người đọc cần biết để “phán xét” cho được công minh. Chúng ta đây, hai ông bạn cũng như lão, không nắm được một yếu điểm nào trong tay, thì không thể bảo rằng sự phân phái kia có hợp tình hợp lý hay không.
Riêng chỗ nhận xét của lão qua những thi ca của cổ nhân còn lưu thế, thì thơ Hàn luật không có trường phái rõ rệt. Cũng như thi nhân đời Đường, mỗi nhà có một cơ trữ riêng, một xu hứng riêng, nhưng không tự phân lập môn hộ. Đó là vì thơ Quốc âm ngày xưa chưa có một địa vị cao sang trên nền văn học, người chú tâm chỉ nhắm mục đích tiêu khiển. Không mấy ai tầm sư cầu học như bên Hán Văn. Cũng như một đảng phái Chánh trị hay cách mạng, một nhà thơ muốn thành lập môn hộ phải có nhiều người hưởng ứng phụ họa, có nhiều người theo tôn chỉ kỷ cương của mình. Các thi hào thi bá trong làng thơ Hàn luật, vị nào có nhiều đệ tử làm hành tinh vệ tinh để tạo thành một thái dương hệ mà mình là mặt trời?
Vì vậy ngày nay, muốn rõ những thi phái của ngày xưa không phải là việc dễ. Năng lực không đủ, nên lão xin đầu hàng trước những khó khăn mà lão thấy trước quá nhiều.
Hòa Phong: - Các nhà thơ Việt Nam, về bên Hàn luật, từ đời Trần đến nay, có nhà nào theo hẳn một thi phái của Trung Hoa chăng?
- Chưa nghiên cứu kỹ càng, lão không dám phát ngôn cẩu thả. Bác nên tìm những nhà viết văn học sử mà hỏi, may ra mới biết được phần nào.
Khánh Vân: - Thấy lão phụ trách việc giữ Vườn Hoa Thơ, tưởng lão học rộng biết nhiều. Té ra cũng chả hơn gì lũ này!
- Vườn cũng có nhiều thứ Vườn. Vườn của lão giữ đây là một mảnh vườn nhỏ ở trong một địa phương quê mùa, như lão đã thưa khi nãy. Vì học ít biết ít, nên mới giữ vườn nhỏ như thế này. Chớ nếu học nhiều biết nhiều thì đã chạy chọt để được giữ công viên của những đô thị lớn trong nước. Huống nữa giữ vườn thì chỉ biết những gì ở trong phạm vi của vườn. Các bác lại hỏi những điều rộng lớn quá tầm vói của lão, thì bị thất vọng là đáng kiếp, chớ còn than van nỗi gì?
Khách cười lớn mà chia tay.
4.
Mở Vườn Hoa Thơ chỉ để cùng bạn đồng thanh nói chuyện thi ca cho vui, chớ thật tình không có ý phổ biến sở đắc hầu hướng dẫn bất kỳ ai theo chủ trương đường lối của mình. Song ngoài khách “trồng hoa thơ”, thường có nhiều em học sinh cấp Trung Học Phổ Thông đến hỏi lão về những nguyên tắc trong trường Thơ Cũ, tức thơ Đường luật, vì theo các em ở trường có dạy nhưng dạy rất sơ sài, mà tánh tò mò của các em lại thúc giục các em tìm hiểu kỹ kỹ thêm đôi chút.
Nhớ lại lúc lão còn nhỏ:
Học được một ít phép tắc làm thơ và tập tò làm được một vài bài thơ đúng niêm luật, lão quyết tâm học tập để lớn lên có thể xây dựng được sự nghiệp văn chương. Vì thiếu thầy thiếu sách, nên hễ gặp được bài thơ thì lão tìm tới để cầu xin chỉ bản cho những lẽ phải điều hay.
Một hôm lão tìm đến nhà một vị túc nho ở thôn Phú Phong quận Bình Khê tỉnh Bình Định, là chốn “nghìn năm văn vật” đối với địa phương lão sanh trưởng. Thấy lão là một cậu học trò học chữ Tây, vị túc nho có ý khinh thị. Khinh thị là phải. Bởi phần đông học trò chữ Tây lúc bấy giờ tự cho mình là văn minh, thường buông lời bất kính bất tốn đối với các nhà cựu học, coi lối cựu học là lối học hữu lâu đã làm cho nước yếu dân hèn! Chính lão là học trò chữ Tây mà thấy thái độ hống hách mất dạy của một số đông bạn bè, còn khó chịu thay, huống hồ quý cụ. Cho nên bị vị túc nho bạc đãi, lão không chút mủi lòng, và từ cử chỉ đến ngôn ngữ lão luôn luôn giữ đúng lễ phép. Nhận thấy lão không đến nỗi “cẩu bất giáo” (1), vị túc nho lần lần trở lại trạng thái ôn hòa của con nhà Trình Chu… Khi nghe lão thỉnh giáo về thơ, cụ hết sức ngạc nhiên:
- Chữ Tây mà cũng có thơ à?
Lão thành thật trình bày những điều đã học được ở trường và xin cụ chỉ giáo thêm. Cụ đọc cho nghe bài Ký Nội của Phan Thanh Giản. Nhưng lại đọc cặp luận lên làm cặp trạng và cặp trạng xuống làm cặp luận. Không biết rằng cụ muốn trắc nghiệm sức hiểu biết của lão, lão vội thưa:
- Về ngoại biểu thì bài thơ thất niêm, về nội dung thì trạng luận điên đảo.
Cụ vuốt râu cười thoải mái:
- Khá đó. Không ngờ trong đám học trò chữ Tây mà lại có người biết thơ Nôm.
Lòng chân thành của lão làm vị túc nho cảm động. Cụ bèn đem những sở học của cụ truyền cho ít nhiều. Rồi nói:
- Tôi không sở trường về Quốc âm. Thơ quốc âm cũng không thuộc được nhiều… Có thể giúp cậu học hỏi thêm nên tìm đến những ông này…
Đoạn cụ đọc tên và nói rõ địa chỉ.
Nhờ vậy mà mỗi kỳ nghỉ hè, lão học thêm được nhiều điều bổ ích và sưu tập được một số thơ của các danh nhân tỉnh nhà.
Trong lúc “tầm thầy học đạo”, lão gặp nhiều sự khó khăn. Có khi phải “tam cố mao lư” mà rốt cuộc chỉ được nghe giảng những điều mình đã học rồi, những điều mà sách Quốc Văn Trích Diễm của Dương Quảng Hàm nói rành mạch gấp bội. Lão nhận thấy phần nhiều học trò thi ngày xưa học thi pháp chỉ học những nét đại cương đủ để làm bài cho đúng niêm đúng luật. Riêng những người sính thơ mới tìm tòi đọc thêm những sách ngoài quyển thi Pháp Nhập Môn. Các vị này lại hay dấu nghề. Phải khéo léo lắm mới mong được nghe giảng đôi “món gia truyền”, bày cho đôi “phương bí nhiệm”.
Vì nhớ lại tình cảnh lúc nhỏ của mình, lão trải lòng đón tiếp các học sinh hiếu học đến Vườn Hoa Thơ. Nhưng không biết bắt đầu bằng những gì, nên các em hỏi đâu đáp đó, và tùy từng trường hợp tùy từng đối tượng mà nói gọn hay nói tường.
Những câu hỏi của các em, nhiều khi lão không trả lời nổi. Lắm khi không dùng được, lão trả lời một cách trừu tượng, mơ hồ. Như một hôm một em hỏi:
- Thơ có từ thời đại nào? Người còn dã man có thơ chăng?
Lão phải dựa theo lời tựa Kinh Thi mà giải đáp:
- Thơ gốc ở Chí. Tại tâm gọi là Chí, phát ra lời gọi là thơ. Tình động bên trong thì hiện hình ra lời nói; Lời nói không đủ thì phát ra giọng ta phán; Ta phán không đủ thì phải cất tiếng ca hát ngâm nga; Ca hát ngâm nga không đủ bèn dậm chân múa tay theo nhịp theo điệu, để nói lên cho kỳ được cái Chí của mình. Đó là lời của thánh hiền xưa để lại. Theo đó thì thơ có từ lúc con người - giống hữu tình - biết cảm xúc và biết thể hiện mối cảm xúc của mình trên lời nói. Chúng ta thường nghe thấy người Thượng ca hát nhảy múa. Như thế là người còn ở trong trạng thái man dã vẫn có thơ. Những bài ca bài hát của họ là những bài thơ không viết ra giấy.
Các em có thật thỏa mãn chăng chẳng biết. Riêng lão, lão chưa thật vừa lòng, song không biết nói cách nào khác!
 Trong số học sinh thường đến thăm Vườn, có một vài thiếu nữ đã làm được đôi bài thơ nghe được. Một cô hỏi: - Thơ quý do nội dung hay do hình thức?
Lão cười: - Người con gái quí nhất ở dung nhan hay tài hạnh?
Một cô khác đáp ngay: - Ở tài hạnh.
- Nếu một người con gái có tài có hạnh mà thiếu nhan sắc thì có được phái thanh niên để ý chăng? Còn một người dung nhan kiều diễm nhưng hạnh kiểm xấu học thức kém thì có được người đời quí trọng chăng?
- Chúng cháu hiểu ý lão vườn: nội dung và hình thức phải tương xứng.
- Chính thế. Thơ là một mỹ thuật, cho nên Đẹp là một yếu tố cần thiết. Đẹp chẳng những đẹp bên ngoài mà còn phải đẹp bên trong. Cái Đẹp bên trong của người con gái là Tài và Đức, và cái Đẹp bên ngoài là Dung và Ngôn. Cái Đẹp bên trong của Thơ là Ý, và cái đẹp bên ngoài là Thanh và Sắc. Ý gồm có bốn phần là TÌNH, LÝ, CẢNH, SỰ. Cho nên có thơ biểu tình, thơ lý thuyết, thơ tả cảnh, thơ tự sự. Lắm khi trong tình có lý hoặc có cảnh hoặc có sự; trong sự có tình, có cảnh, có lý… Vì vậy, ý có lúc đơn thuần, có lúc phức tạp. Thơ nhờ vậy mà phong phú. Để diễn đạt ý thơ thì phải dùng ngôn ngữ. Mà ngôn ngữ muốn có sức truyền cảm tức là dễ lọt vào tai để đi vào lòng người nghe, thì lời phải đẹp giọng phải êm. Lời đẹp tức là sắc, giọng êm tức là thanh.
- Như vậy có phải lão vườn theo thuyết Duy Mỹ của thi nhân đời Lục Triều chăng?
- Phải mà không phải. Vì thi nhân đời Lục Triều nhiều khi chỉ chú trọng ở vẻ đẹp hình thức. Còn lão thì lão nặng cả hình thức lẫn nội dung. Nhưng điều này xin gác lại để cùng quí cô bàn về Sắc mà phần đông các em học sinh chưa thấu triệt ý nghĩa.
- Chúng cháu xin nghe.
- Về vẻ đẹp của thơ, lão đã nói rõ trong 1 bức thư gởi cho Bàng Bá Lân. Họ Bàng đăng thư ấy trong quyển Văn Thi Sĩ Hiện Đại, tập II, và Nguyễn Tấn Long trích đăng ở bộ Thi Nhân Tiền Chiến, tập Trung. Nay lão xin  nói dưới một hình thức khác, nói theo lời dạy của cổ nhân:
Sắc gồm có 4 điểm là Đoàn Luyện, Trang Điểm, Bạch Miêu, Hình Dung. Đó là bốn tiêu chuẩn của sắc.
Đoàn Luyện là rèn dũa, tức là đúc chữ, rèn câu, sửa bài cho được tinh hảo xảo diệu. Như:
Chín tầng sen rớt hơi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
(Thanh Quan)
Vàng thếp giếng ngô sa lá gió
Bạc xuy dậu cúc nảy chồi sương.
(Tương An)
Sầu tuôn mắt mẹ dòng thơ mật
Tình đọng môi con giọt huyết ngà                              (C.T)
Dòng bích thề cùng thu có nguyệt
Sử xanh chép để bút còn hương
(Vương Tường)
Lạnh lẽo lưỡi quyên kêu dưới nguyệt
Thơm tho hồn bướm ngủ trong hoa.
(Khuyết danh)
Trang Điểm: Tìm những cái bên ngoài thêm vào cho câu thơ thêm hình ảnh màu sắc, tức là dụng điển cố. Như:
Cỏ biếc chẳng treo hồn Sở trướng,
Trúc vàng thà điểm giọt Ngu cung.
(Phạm Thái)
Biển xanh thấp thoáng hồn Tinh Vệ
Trời biếc mơ màng đá Nữ Oa.
(Khuyết danh)
Biển Bắc chín tầng rồng lẫn sớm
Non Nam một đỉnh hạc về trưa.
(Cựu thần nhà Lê)
Bóng mây thấp thoáng hồn Diên Hạc
Vách đá lờ mờ nét Phạm Trương.
(Nguyễn Đĩnh Giác)
Thuyền mọn năm canh người Bích Hán
Địch dài một tiếng khách Tầm Dương.
(Khuyết danh)
Bạch Miêu: Vẽ trên nền trắng, không dùng màu sắc, tức là vẽ thủy mặc, tức là tả sự thật với những nét đơn sơ mà đặc sắc. Như:
Lưng dậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
Mắt lão không viền cũng đỏ hoe
(Yên Đỗ)
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
(Yên Đỗ)
Thà không trời không đất không chi cả
Còn có non sông có lẽ nào
(Sào Nam)
Đành chẳng công đâu may khỏi tội
Bao nhiêu chữ đó bấy nhiêu tâm
(Sào Nam)
Chữ hiếu ít nhiều trời đất biếc
Gánh tình nặng nhẹ chị em chung
(Tôn Thọ Tường)
Thà chịu chết trong hơn sống đục
Chết nào có sợ chết như chơi
(Mai Xuân Thưởng)
Nằm gắng đã không thành mộng được
Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi
(Hàn Mặc Tử)
Hình Dung: Tả rõ trạng thái của những gì mình muốn tả, tức là làm cách nào cho ý thơ nổi bật ở trước con mắt người đọc. Như:
Thảm lấp Phủ Câu sông một giải
Sầu giăng Long Thọ núi liền giây.
(Tương An)
Kim cổ treo chung tranh thủy mặc
Tang thương chớp nhoáng bóng hoàng hôn
(Hoàng Cảnh Tuân)
Sóng lớp phế hưng coi vẫn rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
(Thanh Quan)
Đá vẫn bền gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương.
(Thanh Quan)
Quanh tường một bức khăn là rủ
Treo nguyệt ba canh bóng quế cao.
(Vương Tường)
Nắm xương dưới váng  chau mày khóc
Hòn máu trên tay mỉm miệng cười.
(Hồ Xuân Hương)
Gió lọt chòi canh dao cắt ruột
Hoa thêu cửa tướng phấn dồi chân
(Khuyết danh)
Đua chen trước mắt mây mờ mịt
Đày đọa sau thân núi nặng nề
(Tự Đức)
Những câu thơ lão dẫn chứng là nhớ đâu dẫn đấy. Mà lão thuộc được như thế là nhờ chúng hay, chúng đẹp, muốn quên cũng khó quên.
- Thưa lão vườn: giữa Đoàn Luyện và Bạch Miêu, sự khác biệt dễ nhận thấy, vì một bên điêu trác, một bên tự nhiên, một bên nồng, một bên đạm. Còn giữa Trang Điểm và Hình Dung, chúng cháu thấy dường như biên giới không được rõ rệt.
- Trang Điểm là dùng điển xưa tích cũ, mượn chữ trong ca dao tục ngữ hoặc trong thơ văn của người trước, để điểm nhiễm câu thơ của mình cho lời thêm đẹp ý thêm giàu, cũng như người thợ vẽ dùng màu sắc điểm xuyết cảnh vật trong tranh, người con gái dùng phấn son vàng ngọc tô điểm cho nhan sắc. Còn Hình Dung là mượn những vật hữu hình để cụ thể hóa những ý trừu tượng, mượn những vật này thay thế cho vật kia để cho vật kia vật mình muốn tả được nổi bật. Trang Điểm là tô dồi cho thêm đẹp. Hình Dung là so sánh cho rõ hơn .
Một ông khách ngồi nghe, cao hứng:
- Các cô em bảo rằng giữa Trang Điểm và Hình Dung ranh giới không mấy rõ rệt, quả đúng vậy. Hai bên cũng đều dụng công chạm trỗ câu văn để cho ý thơ thêm đậm nét. Một bên dùng cách phấn sức, một bên dùng phép tỷ giảo. Phải rành nghề mới dễ nhận thức. Nếu không, nhiều khi bị lầm lẫn lại qua.
Ví dụ câu:
Vũ trích nham hoa Thần nữ lệ
Phong xao đình trúc Bá Nha cầm (2)
Thì thử hỏi, đó là Trang Điểm hay Hình Dung?
Một cô em nhanh nhảu đáp: - Trang Điểm vì có dùng điển.
Ông khách cười: - Sai rồi! Tuy dùng những tiếng Thần Nữ, Bá Nha. Song dùng để tỷ dụ chớ không phải để điểm nhiễm. Mưa nhỏ trong khoảng hoa ngàn, trông đẹp như những giọt lệ của Thần nữ; gió thổi vào nơi sân trúc, nghe êm như tiếng đàn của Bá Nha. Đàn Bá Nha, lệ Thần Nữ chỉ dùng để làm nổi bật giọng thanh tao của tiếng gió thổi trúc, vẻ kiều diễm của giọt mưa rưới hoa.
Lão cười: - Cô em nói là Trang Điểm thì không đúng chớ không sai.
Khách cự: - Đừng chơi chữ chớ “Không đúng” khác với “sai” à?
- Làm thơ cũng là một cách chơi chữ mà. “Không đúng” và “sai” nghĩa có dị có đồng, song đại đồng mà tiểu dị, cũng như “Hình Dung và Trang Điểm”. Lão xin hỏi ông bạn: Làm nổi bật ý thơ cách nào nếu không phải là Trang Điểm cho câu thơ và Trang Điểm câu thơ làm gì, nếu không phải để làm nổi bật ý thơ? Bởi từ và ý không thể tách rời nhau.
- Lão vườn muốn chiếu bí mình?
- Không phải muốn chiếu bí mà muốn làm sáng tỏ vấn đề.
Các thiếu tỏ vẻ vui mừng. Lão tiếp:
- Hình Dung đôi khi mượn chữ có sẵn, điển thường dùng. Nhưng điển dùng trong Trang Điểm, ý nghĩa tương đồng cùng ý nghĩa tác giả muốn diễn tả. Còn điển dùng trong Hình Dung không cần đến ý nghĩa bên trong mà chỉ cần hình thức bên ngoài. Như Bá Nha không liên quan chi đến Gió, Thần Nữ không liên quan chi đến Mưa. Danh từ Thần Nữ, Bá Nha chỉ là danh từ mượn để hình dung cho sự trong trẻo đẹp đẽ, cho sự êm ái dịu dàng. Chúng đã trở thành những hình dung từ, chớ không còn là điển nữa.
Không ai phản đối. Lão nói thêm:
- Để cho dễ hiểu, chúng ra nên tóm tắt như thế này:
Đoàn luyện: đẹp chải chuốt, bóng bẩy.
Bạch miêu: đẹp chân thật, tự nhiên.
Trang điểm: đẹp nhờ khéo dùng điển cố.
Hình dung: đẹp nhờ khéo dùng tỷ giảo.
Khách cười:
- Nghe xuôi tai tạm được.
Các thiếu nữ:
- Xin cho nghe về THANH.
- Ngày xưa học về THANH có phần khó khăn hơn ngày nay. Chữ Hán chữ Nôm không có dấu như chữ Quốc Ngữ. Để biết tiếng nào là BẰNG tiếng nào là TRẮC, ông cha chúng ta phải dùng cách “đánh vần”. Ví dụ muốn biết chữ VÂN là bằng hay trắc, thì phải đánh vần: “Vần vân bằng, vẩn vẫn trắc”. Thế là chữ VẦN và chữ VÂN là tiếng bằng, còn chữ VẤN và chữ VẬN là tiếng trắc. Thế thì chữ VẨN và chữ VẪN bằng hay trắc? Thì cũng phải đánh vần: “Vần vân bằng, vẩn vẫn trắc”. Thật phiền phức. Ngày nay nhờ có dấu, chúng ta nhìn mặt chữ có thể nhận ngay được tiếng bằng trắc: Những chữ không có dấu và có dấu huyền là tiếng bằng, còn những chữ có dấu sắc nặng hỏi ngã, đều thuộc tiếng trắc.
Những tiếng bằng tiếng trắc lại chia làm bốn thanh nữa là Bình, Thượng, Khứ, Nhập.
Để phân biệt bốn thanh này cổ nhân dùng dấu bán nguyệt vòng ở bên bốn góc chữ:
Thượng  Khứ
Bình       Nhập
Người mới nhập môn thật khó phân biệt cách làm dấu. Lại thêm bốn thanh này lại còn chia mỗi thanh ra làm hai: Phù (hay đoản) và trầm (hay trường). Cho nên việc phân biệt thanh này với thanh kia bằng việc làm dấu vòng bán nguyệt, không được minh bạch và không túc số. Ngày nay nhờ các dấu, chúng ta có thể phân biệt một cách rành mạch và dễ dàng:
Thanh BÌNH gồm những chữ không dấu và có dấu huyền
Thanh THƯỢNG gồm những chữ có dấu hỏi và dấu ngã.
Thanh KHỨ gồm những chữ có dấu sắc và dấu nặng.
Thanh NHẬP gồm những những chữ có dấu sắc và dấu nặng và mẫu âm sau cùng là chữ C,T,P.
Còn về Phù, trầm thì:
PHÙ BÌNH gồm những chữ không dấu,
TRẦM BÌNH gồm những chữ có dấu huyền.
PHÙ THƯỢNG gồm những chữ có dấu hỏi.
TRẦM THƯỢNG gồm những chữ có dấu ngã.
PHÙ KHỨ gồm những câu có dấu sắc,
TRẦM KHỨ gồm những câu có dấu nặng.
PHÙ NHẬP gồm những câu có dấu sắc,
TRẦM NHẬP gồm những câu có dấu nặng.
Phù trầm tức là Nhẹ Nặng, Nổi, Chìm.
Nhìn vào các dấu, đọc lên thành tiếng, chúng ta nhận thấy ngay nhẹ, nặng, chớ không cần phải nghĩ ngợi, cân nhắc.
Và chúng ta nhận thấy:
Những chữ thuộc tiếng Bằng đều là thanh Bình.
Những chữ  thuộc tiếng trắc gồm 3 thanh Thượng, Khứ, nhập.
Khách làng thơ lại còn chia Bình Thượng Khứ Nhập ra tiếng Thanh, tiếng trọc, tiếng ức, tiếng dương.
Vương Ngư Dương cho những tiếng Phù là THANH (trong), những tiếng Trầm là TRỌC (Đục).
Trương Tiêu Đình gọi những tiếng Bình tiếng Khứ là DƯƠNG (cao), những tiếng Thượng tiếng Nhập là Ức (thấp).
Tiếng THANH và tiếng DƯƠNG đưa vui.
Tiếng TRỌC và tiếng Ức gợi buồn.
Người làm thơ có biện biệt thanh sắc thì thơ mới đẹp đẽ, êm đềm. Thanh và sắc là hai yếu tố quan trọng để giúp cho lời đạt được ý một cách chu đáo, và cùng ý gây hương vị cho bài thơ.
Muốn tạo cho câu thơ bài thơ đầy đủ thanh sắc, chẳng những cần chọn chữ sửa câu cho ổn đáng, mà còn phải biết cấu tạo hình ảnh, phải biết điều hòa tiết điệu, tức âm nhạc. Một bài thơ, một câu thơ, càng giàu hình ảnh, giàu âm nhạc bao nhiêu, thì càng có sức truyền cảm có sức trì hứng bấy nhiêu.
Cổ nhân ra công thôi xao từ điệu là cốt tạo cho thơ được đầy đủ thanh sắc.
Nhưng chỉ có thanh có sắc mà không có ý thì vị sẽ kém. Cũng như người con gái hát hay vẻ đẹp mà thiếu đức hạnh, khiến người đời chỉ coi là một món đồ chơi dùng để làm vui tai mắt nhất trong thời chớ không quí trọng.
Cho nên cổ nhân thường dạy: Trước khi thôi xao từ điệu, thì phải lo uẩn nhưỡng tâm tư. Tức là trước khi tập làm thơ thì phải lo sống, sống với ngoại cảnh, sống với nội tâm, tức là phải hàm dưỡng, phải huân tập…, hàm dưỡng những gì mình thu thập, huân tập những gì mình đã súc tích. Khi tâm hồn mình đã thật sung đủ, đã thật phong phú rồi mới lo điêu trác từ chương.
Các thiếu nữ ra về, ông khách trách:
- Lão vườn nói chuyện thơ mà không nhắm đối tượng! Các nữ học sinh kia, trình độ nhận thức đã được bao lăm mà lão vườn giảng nhiều điều chỉ có bọn nhà thơ chúng ta lãnh hội được.
- Ông bạn chớ khinh thường đám trẻ. Các cô ấy đều là tú tài bán, tú tài toàn cả đấy. Những học sinh đến thăm vườn, nam cũng như nữ, đều là các em từ đệ tứ niên trở lên. Một đôi khi có cả sinh viên nữa. Ở trường các em đã học nhiều về thơ. Những điều lão nói phần nhiều chỉ để làm sáng tỏ thêm hoặc bổ túc đôi chút những gì các em đã học được. Còn đối với những người đã rành nghề thơ như ông bạn, thì lão đâu dám múa rìu…
-  Đừng ngụy tốn mà bị đòn chừ. Hãy cho mình biết thêm điều này mà lâu nay chưa tự minh biện được, song không biết hỏi ai. Nay nhân Lão Vườn giảng về thanh sắc nghe khá xuôi tai, thì chắc có thể cởi mở giùm những thắc mắc ấy được, nếu không nhiều thì ít, chớ không đền nỗi toàn vô.
- Mong được “cho xem”.
- Vương Ngư Dương chủ trương “Thần vận”, Viên Tử Tài chủ trương “Tính linh”. Triệu Chấp Tín chủ trương “Thanh điệu”, Trầm Đức Tiềm chủ trương “Cách điệu”.
Giữa Thần Vận và Tính Linh, ranh giới dễ nhận, vì một bên chú trọng từ điệu, một bên chú trọng tánh tình.
Còn giữa Cách điệu và Thanh điệu thì lấy gì để phân biệt cho rành mạch rõ ràng?
- Họ Triệu nặng về Thanh. Họ Trầm nặng về sắc. Họ Triệu bảo thơ hay nhờ âm nhạc điều hòa. Họ Trầm cho thơ hay nhờ phép tắc nghiêm chỉnh. Họ Trầm thường nói: “Thơ quí ở tính tình, nhưng cần phải có phép tắc, nếu bối rối lộn xộn không tằng không thứ, không phải là thơ”. Như thế Trầm tuy không chủ trương Cách điệu nhưng vẫn trọng tánh linh. Cũng như họ Viên tuy chủ trương Tánh linh, nhưng vẫn không xem khinh thanh vận cách luật. Viên chê người đương thời mắc phải ba bệnh mà không tự biết:
- Dùng điển quá nhiều, thành ra thơ đầy tử khí,
- Thiếu uẩn súc, thành ra thơ không có chiều sâu,
- Quá chú trọng đến thanh điệu, lấy bằng trắc mà định giá trị của thơ.
Đó là Viên chỉ trích:
- Trang điểm thái quá.
- Bạch miêu thái quá,
- Đoàn luyện thái quá.
Nói một cách khác là một bài thơ hoàn toàn phải gồm đủ ba yếu tố: Tình, Hình, Thanh.
Các đại gia Văn Chương, kẻ nặng mặt này, kẻ nặng mặt khác, chớ thơ của họ thường thường đều gồm đủ 3 yếu tố kia.
Tánh linh thuộc về tình,
Cách luật tức phép tắc thuộc về hình.
Âm điệu thuộc về thanh.
Thử tìm sách đọc kỹ thơ của Vương Ngư Dương, Viên Tử Tài, Triệu Chấp Tín, Trầm Đức Tiềm, tuy chủ trương khác nhau, mà những bài thật hay, của các nhà ấy có bài nào thiếu yếu tố nào trên ba yếu tố kia chăng?
Đời Thanh, sau các thi nhân Vương, Viên, Triệu, Trầm, còn một nhà nữa cũng đáng cho người học thơ noi gương là HOÀNG CẢNH NHÂN.
Họ Hoàng vừa theo thuyết tánh linh của Viên Mai vừa theo thuyết thần vận của Vương Sĩ Trinh.
Chúng ta nên bắt chước họ Hoàng để cho thơ làm ra, nội dung cũng như ngoại diện, cách luật cũng như thanh điệu, được tương y tương xứng.
Khách: - Như thế là phải. Hoa có sắc không hương, có hương không sắc, sao bằng gồm đủ sắc hương, người đủ dung, công, hạnh, mà tiếng nói ngọng nghịu khó nghe, sao bằng gồm đủ cả tứ đức.
Đưa khách ra về, lão thêm:
- Thi học như Sông Cửu Long, chúng ta như con chuột nhắt bò bên bờ uống nước mỗi ngày…
- Vâng chỉ uống cho đỡ khát đó thôi, chớ uống thế nào cạn được hết con sông từ Trung Hoa chảy sang Việt Nam yêu kính.
Chú thích:
(1) Chữ các nhà nho Bình Định thường dùng để ám chỉ đám tân học thiếu lễ độ.
(2) Nghĩa là: Mưa rơi trong khoảng sườn non hoa nở trông trong trẻo đẹp đẽ như nước mắt của Thần Nữ; Gió thổi nơi sân trúc nghe êm ái thanh thoát như tiếng đàn của Bá Nha. (Xem thêm chương H: Thơ Xuân Vườn Cũ).
Đôi nét cương yếu về thi học [5] [6]
5.
Ông bạn già Định Phong gởi tặng vườn Hoa Thơ ba bài ngũ luật:
CÔ NGÂM
Đôi vần hương gói ghém
Ròng rã đợi tri âm
Khói ráng tâm tình trượng
Vườn nương khí vị thâm
Vơi vơi sầu viễn biệt
Lạnh lạnh thú cô ngâm
Gối tỉnh canh đồng vọng
Ngàn khơi tiêu vỹ cầm
CHỨC PHỤ TỪ
Tơ thắm ngọn đèn xanh
Hồi văn dệt chửa thành
Lạnh lùng cây trở bấc
Rộn rã bịp giao canh
Má ngoẹn dòng u hận
Tay phăn mối viễn tình
Mở phong lòng ải quạnh
Đầy đọng bóng trăng thanh.
QUA ĐÒ GẶP NGƯỜI CŨ
Ba năm trời xa xôi
Phong trần cam lắm nỗi
Gặp nhau đành thương nhau
Nhìn nhau không nỡ hỏi
Nước lặng dòng mây trôi
Tre nghiêng bờ gió thổi
Rồi ngàn dâu ngàn dương
Ngập ngừng chuông điểm tối.
Lương Chu Phát, Hoàng Ninh Chữ và Vương Tri Thủy đến thăm vườn, khen rằng lưu lệ mà thâm viễn.
Tri Thủy: - Trong làng thơ quốc âm xưa nay ít thấy thơ ngũ luật. Tại sao?
- Tại thơ ngũ ngôn dễ mà khó. Dễ ở chỗ câu ngắn. Khó ở chỗ câu ngắn. Người biết rõ chỗ khó, e ngại mà không dám làm. Người chỉ thấy chỗ dễ, xem khinh mà không thèm làm. Nhân chỗ dễ mà vượt qua chỗ khó, không mấy người dụng công.
Đó là về phần người làm thơ.
Còn người xem thơ thì phần đông vì quen nghe tiếng tơ tiếng trúc của thơ Thất Ngôn nên không thích nghe tiếng săng tiếng đá của Ngũ Ngôn. Mà đời không có tri âm thì tiếng sanh tiếng khánh thỉnh thoảng mới gióng lên trong nơi nước thẳm non sâu mà thôi.
Đã ít người làm lại không người truyền thì bảo thơ Ngũ Ngôn có nhiều trong làng thơ thế nào được.
Lương Chu Phát: - Những gì hiếm cũng đều quý
- Hoa lan hoa ly hiếm mới quí chớ hoa chàng rành hoa cỏ chân vịt càng hiếm càng khỏi mất công phá hủy để khỏi vương víu đến những danh hoa.
Hoàng Ninh Chữ: - Nói là nói về những thứ hoa có hương  có sắc, chớ ai nói đến những giống kia mà làm chi. Nhưng hãy gác lại vấn đề “giá trị”. Mong Lão Vườn cho biết: Thơ Ngũ Luật có trước hay thơ Thất Luật có trước?
- Bên Việt Nam thì lão không biết rõ, vì tự mình không đủ khả năng nghiên cứu, các sách văn học sử hiện hành lại không thấy sách nào đề cập tới. Còn bên Trung Hoa thì, theo các sách biên khảo mà lão đã được đọc, lịch trình tiến triển của Thơ như thế này:
Về các đời trước, thơ phần nhiều đều theo thể Tứ Ngôn. Đến đời nhà Hán (206 tr. Tây lịch 195 sau C.N) mới có thơ Ngũ Ngôn và Thất Ngôn. Sang đời Ngụy (196 -220) qua đời Lục Triều (221- 621) thể Ngũ Ngôn thịnh hành, thể Thất Ngôn chỉ dùng trong nhạc phủ. Đến đời Đường (618-907), thể Thất Ngôn được thông dụng hơn thể Ngũ Ngôn.
Thơ đời Hán đời Ngụy chỉ có vần chớ không có luật. Qua đời Lục Triều (1), Lục Cơ và Phan Nhạc đời Tấn mở đầu cho lối thơ đối ngẫu. Thầm Ước. Đời Tề xướng ra thuyết Tứ Thanh và Bát Thể tức bát bệnh của âm vận. Sang đời Đường phép đối ngẫu và phép thanh bệnh được nghiên luyện tinh mật. Thẩm Thuyên Kỳ và Tống Chi Vấn, sau khi khảo nghiệm cách điệu được ổn thuận, mới định ra luật ngũ ngôn bát cú. Sau đó luật Thất Ngôn bát cú mới sản xuất.
Thơ làm theo luật gọi là thơ Cận Thể để phân biệt với thơ Cổ thể là thơ không theo luật.
Từ đời Đường trở về sau thi luật mỗi ngày mỗi được thi nhân tinh vi hóa.
Vương Tri Thủy: - Đó là về thể thức. Còn tánh cách?
-  Thơ đời Hán đời Ngụy, phần nhiều từ và ý đều chất phác. Sang Lục Triều, phần đông thi nhân đều theo thuyết duy mỹ, lấy hoa lệ du dương làm hay. Đến đời Đường thì thơ phát đạt đến cực điểm. Thơ gồm đủ tánh chất đủ thể cách. Bao nhiêu tinh ba của các đời trước đều dồn cho đời Đường. Cho nên thơ Đường hay đủ vẻ, từ giản dị đến phức tạp, từ tự nhiên đến điêu trác, từ thanh đạm đến diễm kiều, từ tiêm nùng đến cổ kính, và hùng hồn có, u hận có, cao cổ có, ôn nhu có, hào phóng có, trang nhã có, sơ khoáng có, hàm súc có… Nội dung cũng như hình thức thật giàu mà cũng thật sang. Rõ là trăm hình nghìn sắc và muôn hương của hoa xuân trong vườn Thượng uyển. Người đời thường gọi Đường là Hoàng Kim thời đại của Thơ.
Nói tóm lại: Thơ đời Hán đời Ngụy, phần nhiều chất thắng văn; thơ đời Lục Triều, phần nhiều văn thắng chất; riêng thơ đời Đường là văn chất bân bân vậy. Bởi thế cổ nhân có câu “Đường thi, Tấn tự, Hán văn chương, nhân gian tuyệt phẩm” (2). Thơ các đời sau mỗi đời có một sắc thái riêng, có những đặc điểm riêng, nhưng vẫn không hơn nổi thơ Đường. Cả Au lẫn Á, các nhà phê bình văn học đều nhận như thế cả.
Hoàng Ninh Chữ:
- Xin trở lại cùng thơ Ngũ Ngôn. Lão Vườn đã cho biết Ngũ Ngôn luật thi có trước Thất Ngôn luật thi. Và từ đời Đường trở về sau Thất Ngôn thịnh hành hơn Ngũ Ngôn chăng?
- Không kém. Để chứng minh, lão xin đọc một ít bài Đường thi lão thuộc:
BIỆT HỮU NHÂN
Thanh san hoành bắc quách
Bạch thủy nhiễu đông thành
Thử địa nhất vi biệt
Cô bống vạn lý chinh
Phù vân du tử ý
Lạc nhật cố nhân tình
Huy thử tự tu khứ
Tiêu tiêu ban mã minh.
(Lý Bạch)
Dịch phỏng:
TIỄN BẠN
Giăng cõi bắc non xanh từng dãy
Quanh thành đông nước chảy trắng phau.
Nước non này một xa nhau
Lênh đênh muôn dặm biết đâu cách bồng
Y du tử mây lồng man mác
Tình cố nhân bát ngát trời hôm
Vẩy tay vó ngựa khôn cầm
Từ đây tiếng lạc âm thầm bên tai…
XUÂN VỌNG
Quốc phá sơn hà tại
Thành xuân thảo mộc thâm
Cảm thời ba hữu lệ
Hận biệt điểu kinh tâm
Phong hỏa liên tâm nguyệt
Gia thư để vạn câm
Bạch đầu tao cánh đoản
Hồn dục bất thăng trầm
(Đỗ Phủ)
Dịch phỏng:
TRÔNG XUÂN
Nước dẫu phá non sông còn đó
Rợp thành xuân cây cỏ khoe tươi
Lệ hoa sùi sụt cảnh đời
Biệt ly để hận tơi bời lòng chim
Liền ba trăng ngập chìm khói lửa
So nghìn vàng nét chữ gia hương
Lụn dần đôi mái tóc sương
Cành trâm cất giữ chán chường điểm tô.
NHẠC DƯƠNG VÃN CẢNH
Vãn cảnh hàn nha tập
Thu phong lữ nhạn qui
Thủy quang phù nhật xuất
Hà thái ánh giang phi
Châu bạc lô ba thổ
Viên hồng thị diệp hi
Trường An ti thấp địa
Cử nguyệt vị thành y
(Trương Quân)
Dịch phỏng:
CẢNH CHIỀU Ở NHẠC DƯƠNG
Chiều xuống cây đầy quạ
Nhạn về hiu gió may
Nước chao vầng nhật nổi
Ráng cuộn giải sông bay
Vườn thị hồng rơi chậm
Bờ lau trắng phủ dày
Tràng An đất ẩm thấp
Tháng chín áo chưa may.
TẶC BÌNH HẬU TỐNG NHÂN BẮC QUY
Thế loạn đồng nam khứ
Thời thanh độc bắc hoàn
Tha hương sanh bạch phát
Cựu quốc kiến thanh sơn
Hiểu nguyệt quá tàn lũy
Phồn tinh túc cố quan
Hàn cầm dữ suy thảo
Xứ xứ bạn sần nhan
(Tư Không Thự)
Dịch phỏng:
GIẶC YÊN TIỄN NGƯỜI VỀ BẮC
Lúc loạn cùng chung bước
Lui chân chỉ một mình
Quê người sanh tóc bạc
Nước cũ ngắm non xanh.
Trăng sớm qua tàn lũy
Sao hôm nhóm cố thành
Nơi nơi chim lẫn cỏ
Đưa đón dáng buồn tênh!
Lương Chu Phát:
- Tình cảnh như vẽ! Lời ngó thưa mà ý thật nhặt, câu tuy ngắn nhưng âm và hưởng đều du trường. Chính chỗ khó mà lão vườn nói khi nãy, Đường nhân đã vượt qua dễ dàng.
- Cổ nhân nói: “Một bài thơ Ngũ luật như một hội 40 hiền nhân, lẫn một kẻ tục tử vào không được”. Ý nói thơ ngũ ngôn luật, tiết ngắn âm dài, nếu một chữ hỏng thì cả bài bị hỏng. Đường nhân nhờ thận trọng nên thành công.
Vương Tri Thủy:
- Xem ba luật thơ của Định Phong, tôi nhận thấy tác giả đã học được âm điệu đời nhà Đường. Nhưng thơ của Đường nhân tuy buồn mà không lạnh, còn thơ của Đinh Phong lại hiu hắt như chiều đông!
- Đó là do tánh tình một phần, do hoàn cảnh một phần. Theo chỗ lão biết thì mấy bài kia. Định Phong sáng tác thời Kháng chiến chống Pháp, tại Liên Khu V. Lúc bấy giờ tác giả vừa bị cán bộ địa phương cô lập vừa tự cô lập:
Tình bận nước non canh đỗ vũ
Đời riêng thơ mộng gác liêu trai.
Thì làm sao thơ không lạnh lẽo được.
Hoàng Ninh Chữ:
- Bài QUA ĐÒ GẶP NGƯỜI CŨ vừa bỏ vần trắc vừa không đối nhau ở cặp trạng. Như thế có phải thơ Cổ Phong chăng?
- Không phải. Đó là thơ Đường luật. Đường nhân thỉnh thoảng cũng có dùng vận trắc. Còn thơ luật mà hạm liên không đối song ý liền nhau, đến Cảnh liên mới đối, đó là PHONG YÊU THỂ. Lại có 1 thể nữa, câu 3 và câu 4 không đối nhau, nhưng câu 1 và câu 2 đối nhau. Đó là DU XUÂN THỂ. Du xuân là “ăn trộm xuân” ví cũng như hoa mai ăn trộm xuân mà nở trước trăm hoa vậy.
- Chắc còn nhiều thể khác?
- Còn khá nhiều, như  Đoạn Huyền Thể (3), Cách Cú Thể (4), Hồi Văn Thể, Điệp Tự Thể, Bình Đầu Thể, Ao Thể,  Câu thi thể (5), Toàn trắc, toàn bình thể, vân vân…
Lương Chu Phát:
- Sao lão Vườn không đem ra giảng minh và phổ biến để giúp ích cho kẻ muốn học làm thơ?
- Ai còn học Thơ Cũ nữa? Huống hồ đó là phận ự các nhà viết sách dạy thơ, các nhà nghiên cứu về thi học. Lão chỉ lãnh nhiệm vũ giữ vườn, không dám bắt chước anh thợ đóng giày phê bình họa phẩm.
Chú thích:
(1) Lục Triều: Các Triều Đông Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần đều đóng đô tại Kiến Khang, nên gọi là Lục Triều. Nói thơ Lục Triều là lối thơ duy mỹ là nói bao quát. Chớ cũng có lắm nhà thơ như Đào Tiềm, văn chương thanh đạm cao viên…
(2) Thơ đời Đường, chữ đời Tấn, văn đời Hán, đó là những nghệ phẩm tuyệt diệu trong thế gian.
(3) Lời thơ ngó rời rạc mà ý thơ liền nhau, như giây tơ đứt mà tiếng ngân vẫn không ngừng.
(4) Câu lẻ đối với câu lẻ câu chẵn đối với câu chẵn.
(5) Không theo đúng hẳn luật bằng trắc.
6.
Cũng như thơ Ngũ Ngôn luật thi, thơ Thất Ngôn tuyệt cú và Ngũ Ngôn tuyệt cú còn được truyền tụng rất ít. Và từ ngày Vườn Hoa Thơ được mở đón hương sắc bốn phương, hoa thơ gởi đến hầu hết là Thất Ngôn bát cú.
Nhiều khách làng thơ cũ tỏ ý khinh thường. Người thì cho rằng tuyệt cú không đối và ít câu, ai làm cũng được. Kẻ lại bảo chữ ít quá không đủ để diễn tả trọn nỗi lòng.
Vừa rồi lão cho ra đời tập ĐỌNG BÓNG CHIỀU gồm toàn thơ Thất tuyệt. Các bạn quen biết, phần đông thương hại cho lão lực yếu tài suy không còn làm nổi thơ bát cú. Lại có người tưởng đám thanh niên công kích, tán đảm mà xoay chiều. Ông bạn già Đoàn Thúc Luân đến hỏi lão:
- Có lẽ chê thơ đối ngẫu không còn hợp thời nữa chăng?
- Con chim chiền chiện lúc cao hứng bay lên không trung kêu hót líu lo. Hứng tàn hạ cánh xuống chui vào cành xanh cỏ biếc mà nghỉ ngơi… Lão cũng như con chim chiền chiện kia, có chạy theo thời đâu mà bảo rằng hợp rằng lỗi.
- Chớ tại sao?
- Lúc còn nhỏ, chắc ông bạn cũng như lão, hễ gặp bạn thân lâu ngày xa cách, thì mừng rỡ vỗ vai vỗ vế, cười nói suốt thời gian gần gũi nhau. Nhưng đến lúc tuổi đã cao, tánh đã thuần, tâm đã định, thì chỉ một cái gật, một nụ cười…, cũng đã đủ để nói lên tất cả những gì chất chứa trong bụng. Làm thơ chủng vậy. Cái quí nhất là ở chỗ không nói mà nói, ở chỗ nói giữa những hàng chữ, nói ngoài lời thơ. Diệu của thơ là ở chỗ nói bằng cách không nói chớ không phải bằng cách nói khéo. Đó là bí quyết thành công của thơ Tứ Tuyệt. Lão ráng tu luyện bấy lâu và tập Đọng Bóng Chiều mới là những bước chập chững.
Lão có hai ông bạn gì thường tới lui với nhau là Đoàn Thúc Luân và Lý Thường Kiến. Thúc Luân thì sính thơ nhưng nhác nghiên cứu thi học. Trái lại Thường Kiến rất ghét xướng họa, cao hứng lắm mới ngâm chơi đôi vận mà thôi, song thi pháp rất vững và bút pháp của các danh gia Đường Tống Minh Thanh được ông bạn nhận xét rất tinh tế. Nhưng ông bạn rất dè dặt. Ngồi với người lạ thì không bao giờ đề cặp đến thơ, còn đối với tri âm thì nói chuyện suốt ngày đêm không biết mỏi. Nghe câu lão đáp lời Thúc Luân, ông bạn gật đầu biểu đồng. Và để cho Thúc Luân thấy rõ rằng lão không ngụy biện, ông bạn trích dẫn đôi bài thơ trong Đọng Bóng Chiều có những câu đối ngẫu:
XUÂN QUẠNH
Thược dược gió bay màu túy vũ
Hải đường sương tỉnh giấc xuân tiêu.
Con oanh năm ngoái không về nữa
Sắc liễu xanh xao tiếng địch chiều.
ĐỒNG QUÊ
Mây biếc đồng quê xuân tới đó
Cỏ thơm người cũ mộng tìm đâu
Đãi đưa hoa nở vần cô hứng
Lặng lẽ sông khơi mạch viễn sầu
Đoàn Thúc Luân:
- Thơ Tứ Tuyệt không cần đối. Vì sao Lão Vườn lại còn đối cho mất công?
- Mất công không phải ở việc đối mà ở chỗ làm cho người ta phải thắc mắc hỏi “vì sao”.
- Thì hãy cởi mở thắc mắc cho người ta. Đã mất công thì mất công luôn một thể cho tiện.
Lão nhìn Lý Thường Kiến. Thường Kiến cười:
- Giỏi Dịch không bói, giỏi thi không nói.
Lão bắt bí:
- Thúc Luân đã hỏi, nếu ông bạn không nói tất nhiên tự cho rằng mình giỏi thi.
Thường Kiến:
- Nay ngày mấy âm lịch?
Thúc Luân:
- Mười bốn.
Thường Kiến:
- Miệng đàn bà con trẻ nói vậy mà thiêng!
Lão hiểu ý ông bạn muốn nói “ngày nguyệt kỵ đi chơi cũng lỗ..” (1), bèn đáp:
- Chữ NHÂN là vị tha và vô ngã, sao còn nghĩ đến việc lỗ lời? Huống nữa nếu quả mình có lỗ đi nữa mà người khác lời thì cũng huề vốn kia mà.
- Sao lão vườn không nói?
- Đã già mà chưa chịu rụng răng thành ra lão khẩu! Còn lão già háp Thúc Luân kia, sách đưa cho không chịu đọc cứ bắt người ta nói cho nghe?
Thúc Luân: - Nếu tôi chịu học nữa thì trời sanh bác ra để làm gì?
Thường Kiến:
- Vậy hãy nghe đây: Thơ Tuyệt Cú cũng gọi là Triệt Cú hay Tiệt Cú. Triệt hay Tiệt là đứt ra chặt ra. Dứt, chặt Luật thơ ra làm hai để lấy một nửa. Trong một tuyệt, nếu câu 1 câu 2 đối nhau, đó là cắt bỏ bốn câu đầu của Luật mà lấy bốn câu sau. Như bài XUÂN QUẠNH thượng dẫn. Nếu toàn bài đối nhau, như bài ĐỒNG QUÊ và bài thơ cổ sau đây:
Gió đưa dương liễu cành cành nguyệt
Cụm tỏa ngô đồng lá lá sương
Thuyền mọn năm canh người Bích Hán (2)
Địch dài một tiếng khách Tầm Dương   (3)
Đó là cắt lấy 4 câu giữa của Luật. Nếu câu 3 và câu 4 đối nhau như bài DỆT CỬI của Lê Thánh Tông:
Thấy dân rét mướt nghĩ mà thương
Nên phải lên ngôi gỡ mối dường
Tay ngọc lần đưa thoi nhật nguyệt
Gót vàng khẽ đạp máy âm dương.
Đó là cắt lấy 4 câu đầu của Luật. Còn nếu toàn bài không có đối, đó là cắt lấy 2 câu đầu và 2 câu cuối của Luật. Như bài MỜI TRẦU của Hồ Xuân Hương:
Quả câu nho nhỏ miếng trầu ôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Ví phải duyên nhau thời thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi.
Đoàn Thúc Luân: - Vì Tuyệt Cú chỉ có nửa Luật Thơ, nên giá trị cũng chỉ phân nửa Bát Cú.
Thấy họ Đoàn không lấy phẩm mà lấy lượng để đánh giá thơ, Thường Kiến giải thích tiếp:
- Thơ Tuyệt Cú, bên ngoài trông nhỏ bé, song bên trong là một tiểu càn khôn. Bốn câu Tuyệt Cú phải gánh nhiệm vụ của tám câu Luật thi. Và tuy cách tiệt luật có khác, nhưng cách bố trí trong bài Bát Cú. Bài Tứ Tuyệt nào cũng phải bài bố KHAI THỪA CHUYỂN HIỆP cho thỏa đáng. Có đối hay không đối, mạch luôn luôn phải nối, khí luôn luôn phải liền, doanh lộn nhịp nhàng, câu tuyệt mà ý không tuyệt. Giá trị của Tuyệt Cú là ở chỗ lời giản ước mà ý hàm súc, mới ngó qua thì như cạn gần, song càng đọc càng thấy sâu xa cao rộng. Khó làm được hay, nhưng đã hay thì Bát Cú không theo kịp. Bởi vậy các cụ ngày xưa thường nói: “Thơ hay đến Tứ Tuyệt mới là tuyệt” và giải thích: “Tuyệt cú là Tuyệt diệu từ”.
Thúc Luân: - Vì có thành kiến nên lâu nay hễ thấy thơ Tứ Tuyệt là tránh. Do đó mà ngọn nguồn lạch sông không chút thông thạo! Nay ngày nguyệt kỵ trở thành Các Nhật, thì mong hai ông bạn đừng đợi ngày quy tiên để đem sở học của mình về trả lại cho Văn Xương thần nữ.
Thường Kiến ngó lão, cười ngất: - Bác đọc sách nào mà gọi Văn Xương Đế Quân là Thần Nữ?
Thúc Luân: - Chớ bác đã gặp Văn Xương lần nào chưa mà dám cãi rằng không phải Thần Nữ.
Lão can thiệp: - Thần Phật không có Nam Nữ. Như Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, khi thì giáng thế với hình tướng người đàn ông, khi thì hiện thân là người đàn bà. Đức Văn Xương cũng vậy. Ở Á Đông, Ngài là Đàn Ông, sang Âu Châu thì là Đàn Bà.
Thường Kiến: - Lão bất tử lão thành tặc! Lão tặc muốn xuống địa ngục phải chăng mà dám cả gan xúc phạm thần thánh?
- Đâu dám. Nghe truyền rằng thần Văn Xương ở Trung Hoa lâu ngày chán các văn nhân thi sĩ dùng bút lông, mới sang chơi Hy Lạp. Đương khoái văn hóa Hy Lạp thì gặp lúc thần Duy-Bi-Tê (Jupiter) ái ân cùng nàng Nễ Liêm Nữ  Polymnie) cùng tám chị em xinh đẹp ngự trị cõi Tinh Thần Âu Châu. Đó là Nàng Thơ. (4)
- Sách nào chép chuyện hoang đàng ấy?
- Xin hỏi ông bạn: Sách xem do ai làm? Và sau nghìn năm nữa chúng ta có trở thành cổ nhân chăng? Huống nữa cổ nhân đã dạy nên tin sách “vô thơ” kia mà (5)
Thúc Luân:
- Thời Tiền Chiến có Phan Khôi tiên sinh ưa lý luận kiểu phan ngang như vậy. Cho nên đương thời có câu “Lý Luận Phan Khôi”. Nay lão vườn kế túc Phan Tiên sinh, nên xin gọi lối lý luận kiểu vô thơ kia là “Lý Luận Lão Vườn” Những ngày xuân ngắn chẳng bằng gang, nên xin bớt giùm ba hoa để tiếp tục giảng cho nghe về thơ Tứ Tuyệt.
Thường Kiến:
-  Trong một bài thơ, Tuyệt Cú cũng như Bát Cú, phải có chủ khách thì ý thơ mới tròn. Và chủ khách phải tương kính tương liên, tương y tương phụ, song chủ khi nào cũng phải giữ vai chính. Một bài thơ dù văn hay đến đâu mà khách lấn chủ, cũng bị kẻ thức giả đánh rớt xuống ông tú Tôn Sơn. (6). Trong Vườn Hoa Thơ cũng vậy. Không muốn cổ nhân trong nơi u huyền cười rằng chưa đọc qua Thi pháp Nhập Môn mà cũng nói chuyện Thơ, nên tôi xin hoàn lại cho lão vườn nhiệm vụ tiếp khách. (7)
Không cần khách sáo, lão tiếp:
- Luật thơ đã được diễn chế nghiêm túc. Thơ tuyệt cú cũng như thơ Bát cú, Ngũ Ngôn không thể thêm, Thất Ngôn không thể bớt. Ví dụ như mỹ nhân của Tống Ngọc, bớt một ly thì quá thấp, thêm một ly thì quá cao…, áo xiêm son phấn cũng đều không thể thêm không thể bớt…
Thúc Luân ngắt lời:
-  Để câu chuyện bớt sa đà, xin nói thẳng vào thơ Tứ Tuyệt.
-  Thơ Tứ Tuyệt, lời thưa mà ý nhặt. Câu khai câu thừa miễn được trôi chảy, thong dong. Uyển chuyển, biến hóa, công phu toàn ở câu thứ ba. Câu thứ ba mà chuyển biến được hoàn hảo thì câu thứ tư chẳng khác thuyền thuận dòng xuôi gió. Cho nên câu thứ Ba tức là câu chuyển giữ vai cốt cán trong bài thơ. Nhiệm vụ phải thừa Thượng tiếp Hạ.
Lão ví câu thứ Ba như một cái thác đón nước nguồn cao trút xuống sông cái. Khách Thơ là người đưa bè gỗ xuống thác. Tay sào phải cứng cáp thành thạo thì bè gỗ mới khỏi bị sức nước nhận chìm xuống vực, hoặc xô vào đá bị tan vỡ hay bị mắc kẹt không thể gỡ ra.. Bởi vậy khách thơ lão luyện thường dùng sức bút vào câu Chuyển để rồi phát xuống câu Hiệp, còn đối với khai thừa thì chỉ cho khéo tay một chút, chú ý một chút để khỏi vấp phải những lỗi lầm trước mắt, như lúc bè gỗ đi trong khoảng thượng lưu phía trên thác, người chống bè lưu tâm đến những mỏm đá những khúc quanh..
Lão đem bài HOÀNG HẠC LẦU TỐNG MẠNH HẠO NHIÊN của Lý Thái Bạch ra làm chứng:
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
Yên ba tam nguyệt hạ Dương châu
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường giang thiên tế lưu
Tạm dịch:
Giã từ Hoàng Hạc lầu tây
Dương Châu bạn xuống xuân đầy khói hoa
Buồm côi bóng lẫn trời xa
Vơi vơi nước chảy xanh hòa sắc xanh.
Thường Kiến:
- Câu chuyển thừa thượng tiếp hạ thật thần tình! Khởi thừa ngó dường giản dị mà thật hàm súc! Tình cảnh gồm đủ mà lại ngậm chứa cả không gian (địa điểm) lẫn thời gian (thời điểm). Câu chuyển như một khúc phim màu chiếu trên màn bạc, chiếu một con thuyền từ nguồn xuống biển: Ban đầu thấy một cánh buồm rõ rệt chạy côi cút trên dòng sông (Cô Phàm). Bóng buồm mỗi lúc một xa dần (viễn ảnh) rồi khuất hẳn vào màu trời xanh biếc (Bích không tận), để lại trước mắt một giải sông cuồn cuộn chảy vào nơi thăm thẳm của không trung. Câu Hiệp chỉ nói đến cảnh mà tình tự nhiên cảm thấy dạt dào chẳng kém câu “Tâm tùy hồ thủy cọng du du” trong bài TỐNG LƯƠNG LỤC của Trương Thuyết.
Thúc Luân:
-  Xin cho nghe trọn bài của Trương Thuyết.
Thường Kiến đọc:
Ba Lăng nhất vọng Động Đình thu
Nhật kiến cô phong thủy thượng phù
Văn đạo thần tiên bất khả tiếp
Tâm tùy hồ thủy cọng du du
Lão dịch:
Ba Lăng thu nhuốm Động Đình
Ngày trông bóng đảo bập bềnh trên không
Gót phàm khôn thấu non Bồng
Nước hồ cuồn cuộn tấm lòng tuôn theo
Thúc Luân ngồi trầm ngâm hồi lâu rồi thở dài:
- Theo nghề thơ từ lúc mày xanh, mãi đến lúc tóc bạc mới đếm được ý vị của Tuyệt Cú! Thật chẳng khác bấy lâu chuyên uống Trà Biển Hồ, trà Bàu Cạn, trà Cầu Đất…, nay mới được nhắp chén trà Võ Di Sơn. Biết rằng hương vị quả thơm ngon hơn các giống trà uống bằng chén tách kia, song còn phải lâu ngày mới nhận thấy rõ được chân hương chân vị.
Thường Kiến:
-  Cần phải thể nghiệm thể chứng. Lời nói chúng tôi nãy giờ chỉ là ngón tay trỏ mặt trăng…
Thúc Luân nằm dài trên thảm cỏ dưới bóng mận buông xanh, đôi mắt lim dim. Hồi lâu ngồi dậy nói:
- Trong hai bài chữ Hán và bài Xuân Quạnh, tôi nhận thấy rõ vai trò của câu Chuyển. Trong bài của Hồ Xuân Hương cũng thế. Còn bài ĐỒNG QUÊ thì chỉ có khai thừa liên hệ mật thiết với nhau, chớ chuyển và hiệp trông chẳng khác đường Quốc lộ số 1 và đường xe lửa xuyên Việt, chỉ đi song song với nhau chớ không có chỗ tiếp nối.
Thường Kiến: - Ông bạn thật đáng thờ đức Khổng Tử là Thánh Tổ bởi theo đúng lời Ngài dạy, nên đã thận tự rồi đem ra thẩm vấn. Tôi cũng xin theo lời Ngài mà minh biện để ông bạn về lo đốc hành:
Thơ Tuyệt Cú có thực tiếp và hư tiếp. Nghĩa là thừa tiếp có lúc thật lúc hư. Thực dễ thấy, hư khó thấy. Bài ĐỒNG QUÊ thuộc về Hư. Hư tức là không thấy nói mà vẫn có nói, nói trong ý thơ nói sau nghĩa chữ. Để ông bạn khỏi ngờ rằng cưỡng giải, tôi xin diễn bài thơ ra văn xuôi. Những lời tôi thêm vào là những lời chỉ “hé môi” chớ không “lên tiếng”:
Nơi Đồng quê mây biếc đã đến cùng xuân rồi đó, mà người cùng mình du phương ngày trước không biết ở nơi đâu để mộng đưa lòng tìm gặp. Để cho cảnh cô đơn bớt phần lạnh lẽo trong lúc xuân về, hoa giúp hứng thơ cho mình sáng tác. Nhưng đó chỉ là thái độ đãi đưa của giống Đẹp, chớ đâu phải do thanh khí lẽ hằng. Cho nên sầu xuân cũng như sông xuân âm thầm khơi mạch và lặng lẽ chảy mãi về tận nơi biền biệt xa xăm.
Ý “Để cho cảnh cô đơn bớt phần lạnh lẽo trong lúc xuân về” nằm trong chữ CÔ HỨNG. Ý “Chớ đâu phải do thanh khí lẽ hằng” nằm trong chữ ĐÃI ĐƯA. Ý nằm sẵn đó để trong bóng tối thừa ý câu 2 chuyển xuống câu 4 bằng mấy chữ vô hình CHO NÊN.
Nhận thấy Thúc Luân chăm chú nghe với niềm hân hoan thích thú, lão cao hứng tiếp lời Thường Kiến:
- Khai, thừa, chuyển, hiệp, khi thì nhất khí quán hạ, như bìa của Hồ Xuân Hương và hai bài Đường Thi. Khi thì hư thực tương y, như bài Đồng Quê. Khi thì thuận nghịch tương ứng, như bài xuân quạnh...
Thúc Luân:
- Nhất khí quán hạ, dễ nhận thấy. Hư thiệt tương y, lãnh hội được rồi. Còn thuận nghịch tương ứng, chưa nhận thức thấu đáo.
Thường Kiến:
- Ông bạn không thấy trong bài Xuân Quạnh, của câu Hiệp sao? Đối với Xuân, vui đẹp là Thuận, mà buồn úa là nghịch. Nếu không có câu chuyển kéo trên níu dưới thì tránh sao khỏi cảnh Nguyễn Trịnh lập Nam, Bắc Triều, chớ dễ gì mà nương tựa nhau giúp đỡ nhau để cho trong ngoài đều nổi bật giữa cõi trời thanh sắc.
Lão nói thêm:
- Bằng vào phương pháp diễn ý khác nhau, cổ nhân chia thơ ra làm nhiều cách: Bài thơ của Hồ Xuân Hương và Lý Thái Bạch, ý tứ trong các câu liền lạc nhau từ trên xuống dưới, thuộc về LIÊN CHÂU CÁCH. Bài của Trương Thuyết tuy cũng nhất khí quán hạ như hai bài của họ Lý họ Hồ, song ý tứ của nửa dưới phân riêng ra để đáp ứng ý tứ  nửa trên, nên thuộc PHÂN ỨNG CÁCH. Bài Xuân Quạnh, ý tứ tuy nhất quán, nhưng không liên thuộc, nên thuộc TRIỆT YÊU CÁCH. Bài Đồng Quê, nửa trên nửa dưới dường như  không liên tiếp nhau mà thật ra lại lưu thông với nhau, nên thuộc TỤC YÊU CÁCH
Thúc Luân:
- Sau khi được hai ông bạn khai thị, tôi nhận thấy bài Dệt Cửi của Lê Thánh Tông và bài Cảm Tác của vị sứ giả Việt Nam tiền bối, chưa xứng là Tuyệt Cú, vì có thể thêm và cần phải thêm bốn câu nữa mới trọn tình trọn ý.
Thường Kiến:
- Bài Cảm Tác không thêm nữa cũng được. Chớ bài của Lê Thánh Tông, vua Tự Đức đã thêm bốn câu sau:
Chín trùng xiêm áo dầu phê phủ
Trăm họ câu đai mặc sửa sang
Trọn bức sau rồi thâu mối một
Công phu cầm bẵng giá ngàn vàng. (8)
Không hay bằng 4 câu của Tôn Thọ Tường thêm. Trong khi thêm 4 câu sau, họ Tôn có sửa đôi chữ ở 4 câu trước:
Thấy dân rét mướt chạnh lòng thương
Phải bước lên không sửa mối dường
Tay ngọc lần đưa thoi nhật nguyệt
Gót son dằn đạp máy âm dương
Xuân riêng hoa liễu tơ dồn kết
Duyên hiệp rồng mây chỉ vấn vương
Dâng gấm sân chầu mong có thuở
Sánh dường Tô Huệ bức văn chương. (9)
Lão tiếp:
- Bài Dệt Cửi của Lê Thánh Tông tuy ý tứ chưa được tròn, song không phải thất cách. Thơ Tuyệt Cú lấy hai ý làm kết, gọi là SONG VỸ CÁCH, cũng gọi là Song Hiệp Cách. Còn bài Cảm tác 2 câu trên tả cảnh 2 câu dưới tả tình, gọi là TIỀN THỰC HẬU HƯ CÁCH, (10), cũng gọi là Song Khai Song Hiệp cách, Bài thơ Xuân Quạnh, mặc dù khai thừa liên quan với nhau, đứng trên phương diện hình thức cũng có thể gọi là SONG KHAI cách.
Thúc Luân: - Chắc còn nhiều cách khác nữa?
Thường Kiến: - Còn nhiều. Nhưng ăn có tiêu mới bổ ích. Và học thơ cũng như học kiếm, chỉ vài ba phép mà luyện cho tinh cũng đủ dùng khi hữu sự.
Chú thích:
(1) Ca dao: Mồng năm mười bốn hăm ba/ Đi chơi cũng lỗ lựa là đi buôn.
(2) Bích Hán tức là sông Ngân Hán. Lấy tích một sứ giả đi lạc lên sông Ngân Hán. Bài này là lời một sứ giả. Các sách thường chép là của cụ Phan Thanh Giản làm lúc sang Pháp. Lão không tin , nên không ghi tên.
(3) Tầm Dương là bến sông Bạch Cư Dị gặp một lão kỹ rồi soạn ra Tỳ Bà Hành.
(4) Phỏng theo Thần Thoại Hy Lạp. Nàng Thơ: La Muse.
(5) Cổ nhân thường khuyên: Tập tín thơ bất như vô thơ. Ý nói đụng sách nào cũng tin thì tốt hơn là đừng đọc sách. Đây chỉ nói để mua vui.
(6) Tôn Sơn là một ông tú tài chót. Dưới ông tú chót tức là hỏng. Thay tiếng thi hỏng cổ nhân thường nói “ Lạc Tôn Sơn chi ngoại” hay “ Danh lạc Tôn Sơn”.
(7) Người học làm thơ Đường Luật biết rõ điều đó.
(8) Chỉ nghe truyền chớ không thấy sách
(9) Sách Văn Đàn Bảo Giám có chép, song có đôi chữ khác
(10) Những gì hiện ở trước mắt là Thực, những gì không hiển hiện trước mắt mà biết rằng có cảm thấy có là hữu tình cũng như cảnh đều có hư có thực. Song thường thường các học giả cho tình là hư, cảnh là thực.
Quách Tấn
Theo https://dinhquat.blogspot.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Những trường đại học của tôi 2XXX

Những trường đại học của tôi 2 Kèm theo lời nói, cánh tay trái lông lá của ông ta làm điệu bộ giống như chém vào không khí, còn tay phải t...