Kim Dung giữa đời tôi 3
Kim Dung và ngôn ngữ xã hội hóa
Người nhạc sĩ viết một ca khúc; ba bốn chục năm sau, một người thưởng thức nào
đó còn nhớ được một vài ca từ, nghêu ngao hát lên là số phận ca khúc đó sống được
trong lòng người. Một nhà thơ in cả trăm bài, chỉ cần có người yêu thơ thuộc được
một đoạn hay vài câu là thơ đã sống được. Văn học, nghệ thuật là những sản phẩm
tinh thần dành cho đám đông. Trong quá trình giao thoa giữa tác giả và người
thưởng thức, một số câu, chữ, từ ngữ đặc biệt của tác phẩm đi luôn vào lòng người.
Tác phẩm như vậy đã là thành công rồi. Còn ngôn ngữ văn chương tiểu thuyết võ
hiệp của Kim Dung đối với người Sài Gòn, người miền Nam thì sao?
Khi tác phẩm Ỷ thiên Đồ long ký được Tiền Phong Từ Khánh Phụng dịch với
tựa đề Cô gái Đồ long, Nhà xuất bản Trung Thành in và phát hành năm 1966
thì bốn chữ “Cô gái Đồ long” đã trở thành một câu hát: Có cô gái
Đồ long lắc bầu cua Lắc một cái ra hai con gà mái… Trẻ con khắp hang cùng
ngõ hẻm hát, người lớn cũng hát trong những dịp Tết chơi lắc bầu cua. Ngôn ngữ
văn học tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung đã được xã hội hóa một cách rộng rãi đến bất
ngờ. Tôi rất hiểu có nhiều người không biết “Đồ long” là gì nhưng họ
vẫn hát: “Có cô gái Đồ long lắc bầu cua…”. Mà cần gì phải biết, hễ cao hứng
thì cứ hát. Gần như từ giai đoạn đó trở đi, một số từ ngữ trong văn chương của
Kim Dung ngày càng được xã hội hóa tại Sài Gòn và miền Nam theo sự xuất hiện của
các bản dịch tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung trên báo chí.
Khái niệm “Tẩu hỏa nhập ma” được Kim Dung nhắc đến trong nhiều tác phẩm
để chỉ một trạng thái nguy kịch có thể dẫn đến cái chết, sự điên loạn hoặc sự
tê liệt hoàn toàn của một người luyện nội công sai đường. Như trong Hiệp
khách hành, Cẩu Tạp Chủng (Thạch Phá Thiên) vừa có nội công Hàn ý miên chưởng (công
phu chí âm của bà mẹ nuôi Mai Phương Cô truyền cho) vừa luyện Viêm viêm
công (công phu chí dương của Tạ Yên Khách chỉ điểm). Đến lúc tối hậu, hai
luồng chân khí âm dương đối địch nhau, mặt chàng lúc đỏ như say rượu, lúc xanh
như xác chết trôi. Chàng ngã lăn trên phiến đá, giãy đành đạch mấy cái rồi nằm
im, hơi thở mỏng như tơ… Đó là trạng thái tẩu hỏa nhập ma. Giới trí thức và giới
sinh viên thời ấy dùng phổ biến cụm từ này. Thí dụ “Thằng ấy đang tẩu hỏa
nhập ma” có nghĩa là thằng ấy đang… khùng.
Những tiếng chửi tục của bọn hào sĩ giang hồ trong Tiếu ngạo giang hồ được
dân sinh viên thời ấy “mượn” tối đa. Tác phẩm có thuật chuyện bọn môn đệ Tung
Sơn bị Lệnh Hồ Xung đâm mù mắt đã dụ quần hùng lọt vào hậu động Hoa Sơn, bít cửa
động lại rồi giết họ. Bọn chúng có câu ám ngữ “Cút con bà mày đi” để
nhận ra nhau là đồng bọn. Lệnh Hồ Xung cũng học được câu chửi ấy nên mới tự giữ
mình được. Dân sinh viên dùng câu ám ngữ này như một… lời chào. Hai anh bạn gặp
nhau, vừa mời nhau điếu thuốc, vừa “Cút con bà mày đi”.
Báo là nơi in tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung trước tiên cho nên giới nhà báo cũng
là những người được đọc Kim Dung kỹ và đầy đủ hơn mọi người. Từ say mê
feuilleton, họ say mê luôn các nhân vật và dùng luôn tên các nhân vật làm bút
danh cho mình. Ông Lê Tất Điều ký bút danh Kiều Phong, ông Nguyên Sa ký bút
danh Hư Trúc, ông Chu Tử ký bút danh Kha Trấn Ác. Những bút danh Tiểu Siêu, Du
Thản Chi… lần lượt xuất hiện trên báo chí. Một số những nhân vật khác của Kim
Dung cũng được “mượn” họ tên để biểu hiện cho tính cách con người. Kẻ đạo đức
giả, có thủ đoạn lừa mị thì bị gọi là “Nhạc Bất Quần”. Kẻ hay ton hót, nịnh
nọt thì bị gọi là “Vi Tiểu Bảo”. Những danh từ riêng ấy qua tác động xã hội
hóa, trở thành danh từ chung ám chỉ một loại người. Điều ngộ nghĩnh là các ông
nghị, bà nghị trong lưỡng viện Sai Gòn trước đây cũng hay sử dụng các “thuật ngữ”
này để thóa mạ nhau khi đấu khẩu trước diễn đàn hay phát biểu trước công luận.
Nhiều từ ngữ khác trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung thâm nhập đời sống một
cách tự nhiên. Những người ăn xin thì được gọi là “Cái bang”, nhà giáo
đánh học sinh một cái bạt tay được gọi là đánh một “chưởng”. Khái niệm “chưởng” được
mở rộng ra để chỉ tất cả các loại phim quyền cước do Hồng kông, Đài Loan sản xuất: Phim
chưởng. Chữ “chiêu” được sử dụng rộng rãi nhất: “ra phố dạo mấy
chiêu”, “cầm cơ bi da đánh một chiêu”, “anh đừng giở cái chiêu ấy ra
với tôi”… Ngữ nghĩa chữ “chiêu” càng ngày càng được mở rộng đến nỗi
nó… vượt xa tầm tay của Kim Dung. Người nhỏ tuổi gọi người lớn tuổi là “Sư
phụ”, sếp cơ quan được nhân viên gọi là “Trưởng lão”, từ chối một chức vụ
hay xin hưu thì gọi là “rửa tay gác kiếm”, cầm bút viết lại thì gọi
là “tái xuất giang hồ”. Nhưng chưa có chữ nào được xã hội hóa rộng nhất
như chữ “Ma giáo”. Trong tiểu thuyết của mình, Kim Dung hay nhắc đến Ma
giáo, phát xuất từ chữ Manichéisme (Bái hỏa giáo, Minh giáo). Người Trung Hoa
phiên âm là Ma Ni giáo, gọi mãi, người ta lượt bỏ chữ Ni để chỉ còn Ma giáo. Đi
vào xã hội Việt Nam, chữ “ma giáo” (không viết hoa) dùng để chỉ đặc
điểm của một người có hành vi lật lọng, phản bội, xấu xa: “Anh đừng có
chơi ma giáo với tôi”, “ông ấy làm ăn rất ma giáo”, “con người ma giáo ấy chẳng
được ai ưa”.
Có thể người ta quên mất nhiều câu chuyện được kể trong tiểu thuyết võ hiệp của
Kim Dung. Có thể người ta quên sạch các chương hồi, các tình huống, các nhân vật.
Thế nhưng, một số từ ngữ đặc biệt trong văn chương tiểu thuyết võ hiệp của ông
được xã hội hóa, đi vào cuộc sống thì vẫn còn mãi trong văn nói của người Sài
Gòn, người miền Nam. Tùy theo từng cách dùng, tùy theo từng thời điểm, ngữ
nghĩa của các từ, ngữ ấy có thể chuyển đổi một ít hoặc toàn bộ. Truyện Kiều của
Nguyễn Du để lại cho ngôn ngữ văn chương Việt Nam ta những tên Sở Khanh, mụ Tú
bà, máu Hoạn Thư… Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung cũng đem lại cho ngôn ngữ nói của
chúng ta một số từ, ngữ mới; làm phong phú thêm ngôn ngữ nói và mở rộng thêm được
một số khái niệm cần diễn đạt. Ở một chừng mực nào đó, ta có thể nói tác phẩm
tiểu thuyết võ hiệp của ông đã giao thoa đúng tần số với một bộ phận bạn đọc Việt
Nam. Đó cũng là một thành công lớn của người cầm bút về phương diện ngôn ngữ,
diễn đạt.
Kim Dung - Hồn tính lãng mạn phương Đông
Trong văn học Tây Phương, chủ nghĩa lãng mạn (Le romantisme) được hiểu nhưng một
trào lưu đến sau chủ nghĩa cổ điển (Le classisme). Nếu chủ nghĩa cổ điển mang
theo những quy ước có tính bó buộc thì chủ nghĩa lãng mạn được hiểu như là một
thái độ vượt qua các quy ước, phá vỡ sự bó buộc để vươn tới sáng tạo. Lãng mạn,
đúng như tên gọi của nó, là những cơn sóng vỗ tràn bờ - những bến bờ cổ điển gò
bó, chật hẹp. Phương Đông không có chủ nghĩa lãng mạn nhưng từ nghìn xưa, hồn
tính lãng mạn đã là bản chất của tình yêu, của sự sáng tạo triết học, văn học,
nghệ thuật Phương Đông. Nếu phương Tây lãng mạn trong hành động thì phương Đông
lãng mạn trong tư duy. Biểu hiện của hồn tính lãng mạn có khác nhau, tạo ra
phong cách khác nhau trong sáng tạo văn học. Ta thử đi tìm hồn tính lãng mạn ấy
trong tác phẩm văn học của Kim Dung.
Tác phẩm của Kim Dung là tác phẩm của tình yêu, của những bài tình ca nồng thắm.
Những lứa đôi trong tình yêu rất trẻ, thường là trên dưới đôi mươi, như Trương
Thúy Sơn với Hân Tố Tố; như Vô Kỵ với Triệu Minh (Ỷ thiên Đồ long ký); như Hồ
Phỉ với Miêu Nhược Lan (Tuyết Sơn Phi Hồ); như Lệnh Hồ Xung với Nhậm Doanh
Doanh (Tiếu ngạo giang hồ). Gần như những nhân vật nữ của ông yêu nhân vật nam
ngay từ cái nhìn đầu tiên, từ lần gặp gỡ đầu tiên. Kim Dung không hề nhắc đến
tiếng sét ái tình (coup de foudre). Nếu quan điểm tâm phân học của Sigmund
Freud cắt nghĩa tiếng sét ái tình không phải là một cảm xúc tình yêu đến bất chợt
mà là đã kinh qua một quá trình chiêm nghiệm, dung nạp và hồi ức những hình ảnh
tương tự thì có lẽ Kim Dung cũng để cho những nhân vật của mình kinh qua quá
trình tương tự như vậy. Hân Tố Tố yêu Trương Thúy Sơn ngay từ đầu vì cô từng
nghe Trương Thúy Sơn có ngoại hiệu là Ngân câu thiết hoạch, một nhà thư pháp
chính cống, mà cô lại yêu thư pháp. Doanh Doanh yêu Lệnh Hồ Xung ngay sau khi
nghe chàng trai thổ lộ nỗi đau tình trước sự phụ bạc của Nhạc Linh San vì cô
tin rằng kẻ nào không chung thủy với quá khứ thì không chung thủy với hiện tại
và tương lai. Những trải nghiệm tương tự như vậy trở thành một thứ vô thức tập
thể lắng đọng ngàn đời trong tâm hồn nhân loại và các nhân vật của Kim Dung
cũng không thể vượt qua ngoài vô thức tập thể đó. Bởi vì họ là một nhân loại
thu gọn. Vâng, những người tình trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung là những
con người lãng mạn. Họ lãng mạn đến nỗi họ vững tin rằng tình quân sẽ vượt ngàn
dặm quay về với họ như lời hứa trước khi ra đi. Thủy Sinh trong Tố tâm kiếm,
A Châu trong Thiên Long bát bộ phận gái dặm trường, bỏ Trung Nguyên
ra vùng băng tuyết Quan Ngoại hay Nhạn Môn quan để chờ người yêu trở lại. Và những
người anh hùng Địch Vân, Kiều Phong cũng là những người tình lãng mạn. Quả
nhiên họ tìm về nơi cũ, quả nhiên họ nhìn thấy người tình đứng trong tuyết trắng
chờ họ về. Hồn tính lãng mạn miên man tình ý nhưng hành động lãng mạn chấm dứt ở
đó. Không ai ôm nhau, hôn nhau, quấn quít lấy nhau. Đi tới một bước nữa, dù chỉ
một bước ngắn, cũng rất phàm tục. Mà tình yêu trong tác phẩm kiếm hiệp của Kim
Dung thì không phàm tục chút nào.
Ta hãy nói về một phạm vi khác, phạm vi võ thuật. Trên đỉnh Quang Minh giữa núi
Thiên Sơn, Trương Vô Kỵ dùng một cành mai xuân đấu với đao kiếm của Chính - Phản
Lưỡng nghi đao pháp, kiếm pháp. Giữa rừng đao núi kiếm tràn đầy sát khí hào
quang, cành mai chính là biểu tượng của sự sống, của cái đẹp, của lòng nhân ái.
Đấu với đao kiếm là mai không rụng một bông, cái hồn tính lãng mạn quả đã được
Kim Dung chắp cho đôi cánh bay bổng tuyệt vời. Ta hãy nói đến đường Độc cô cửu
kiếm của Lệnh Hồ Xung. Nguyên tắc cao nhất của võ thuật là tiên phát chế nhân
(phóng chiêu ra trước thì kiềm chế được người). Cả một đường Độc cô cửu kiếm chỉ
có công mà không có thủ, bởi vì người kiếm sĩ không sử chiêu thức mà sử kiếm ý;
ý muốn phóng kiếm đến đâu, kiếm theo đến đó, ung dung nhẹ nhàng như nước chảy
mây trôi. Đường kiếm đó chính là hồn tính lãng mạn trong triết học của Trang Tử;
nó phảng phất, mênh mông và bất khả tư nghị.
Những hào sĩ giang hồ của Kim Dung vốn là bọn ham vui. Họ sống thành băng,
nhóm, đảng, động; khi họ họp với nhau, Kim Dung gọi họ là quần hào, quần hùng.
Thế nhưng trong đám đông đảo đó, thỉnh thoảng vẫn có những người tự tách mình
ra sống ẩn dật như một nhà hiền triết. Phong Thanh Dương sống một mình trong hậu
động Hoa Sơn, Hoàng Dược Sư sống một mình trên đảo Đào Hoa, Trương Vô Kỵ sống một
mình trong hang núi, Tiểu Long Nữ sống một mình trong Cổ Mộ đài… là nhưng nhà
hiền triết như vậy. Họ chọn một thái độ sống rất lãng mạn: quay về với thiên
nhiên, sống giữa thiên nhiên, hái hoa quả trên rừng, bắt ếch cá bên suối làm thức
ăn. Hoàng Dung săn bắn nuôi Quách Tỉnh, Doanh Doanh bắt ếch nướng cho Lệnh Hồ
Xung ăn… đơn giản là thái độ trở về với thiên nhiên. Cái mà họ muốn vượt qua là
lễ giáo thế tục; cái mà họ muốn đạt được là tinh thần tự do tuyệt đối. Giữa rừng
xanh, họ đánh đàn, đánh cờ, nghe thác chảy, nhìn mây trôi, xa lánh chốn giang hồ
hiểm ác man trá. Còn lối sống nào hiền triết hơn và minh triết hơn? Lục hợp
chi nội, thánh nhân tồn nhi bất luận, Lục hợp chi ngoại, thánh nhân tồn nhi bất
nghị. Tiên vương chi chí, Xuân Thu kinh tế, thánh nhân tồn nhi bất biện. (Việc
trong trời đất, thánh nhân biết rồi nhưng không bàn đến, Việc ngoài trời đất,
thánh nhân biết rồi nhưng không nghĩ đến. Chí của các bậc tiên vương, cách kinh
bang tế thế thời Xuân Thu, bậc thánh nhân biết rồi nhưng không giải thích). Những
nhân vật minh triết của Kim Dung quả rất gần gũi với khái niệm “thánh nhân” mà
Khổng Tử ca ngợi.
Nhân vật của Kim Dung luôn hướng về tự do. Lệnh Hồ Xung học kiếm pháp Hoa Sơn với
Nhạc Bất Quần, một cái nhấc chân hay một cái cất tay đều đúng bộ vị, thước tấc.
Cho đến khi nhân vật này được học kiếm pháp với Phong Thanh Dương, lãnh hội ý
nghĩa sâu sắc trong lời dạy của lão: “Người sử kiếm chứ không phải kiếm sử người,
cứ như nước chảy mây trôi mà sử kiếm” thì hắn mừng như điên. Ấy bởi vì Lệnh
Hồ Xung biết mình đang tiếp cận với tự do, cái tự do mà một tên lãng tử vô hạnh
như hắn cần phải có. Khi hắn yêu Nhạc Linh San thì tình yêu đó nhắc hắn nghĩ tới
công danh, địa vị sau này. Nhạc Linh San là con một, Nhạc Bất Quần không có con
trai; sau này khi lão trăm tuổi, ngôi vị chưởng môn chắc chắn sẽ được trao lại
cho Lệnh Hồ Xung. Nhưng làm chưởng môn phái Hoa Sơn hay tự do ngao du, tiếu ngạo
giang hồ là khoái hoạt hơn? Lệnh Hồ Xung chọn cái thứ hai. Đến khi gặp Nhậm
Doanh Doanh, nhân ra ở cô gái này tinh thần yêu tự do tuyệt đối thì hắn mới thật
sự tìm ra nguồn hạnh phúc cho đời sống. Khúc Tiếu ngạo giang hồ là một
khúc hòa tấu tự do, trong tay Khúc Dương và Lưu Chính Phong nghe ra vẫn còn chất
binh đao sát phạt, buồn lo uất hận nhưng trong tay Doanh Doanh và Lệnh Hồ Xung
thì ấm áp xuân tình, hòa bình trung chính. Chính trạng thái tự do hay mất tự do
của tinh thần đã quyết định bản chất của điệu thức, của âm thanh. Kim Dung nói
về tự do một cách say mê, đặc biệt là phần hậu ký của bộ Tiếu ngạo giang hồ do
Minh Hà xã, Hồng kông in tháng 9 năm 1997. Ông dành hậu ký này bàn về nhân tính,
bàn về tự do. Cái tự do của ông quan niệm rất gần gũi với cái tự do của Trang Tử
trong Nam hoa kinh, lãng mạn và tuyệt đối. Cuối bộ Tiếu ngạo giang hồ, ông
để cho Lệnh Hồ Xung từ chức chưởng môn phái Hằng Sơn; Doanh Doanh không làm
giáo chủ Triệu Dương thần giáo; hai người dắt tay nhau tiếu ngạo giang hồ. Cuộc
sống tự do hấp dẫn họ hơn mọi quyền lực. Đúng ra, đứng trên đỉnh cao quyền lực,
họ cũng được tự do hành động nhưng bản chất hành động ấy luôn hướng về một mục
đích, nghĩa là họ không còn được hành động một cách tự do nữa. Tự do chính là
tâm thức lãng mạn cao nhất trong tư tưởng phương Đông. Đạo Không đưa con người
đi đến chỗ hiền triết thánh nhân, đạo Phật đưa con người đi đến chỗ giải thoát,
Lão Trang đưa con người đến chỗ vô vi. Hiền triết thánh nhân, giải thoát, vô vi
là những khát vọng lãng mạn và độc đáo, Chính những khát vọng ấy làm nên hồn
tính lãng mạn trong tác phẩm Kim Dung. Điều này rất rõ là khi cầm một tác phẩm
Kim Dung lên, đọc mấy chương đầu, ta bỗng nghe lòng thư thái, nhẹ tênh, không
còn những vương vất ưu tư từ cuộc sống tác động vào. Đó là gì? Đó chính là sự
giải thoát, là tâm trạng cảm thấy mình đang được tiếp cận với tự do dù trong
giây phút ngắn ngủi của đời người!
Kim Dung và những ông thần si tình
Tâm lý học hiện đại định nghĩa: “Đam mê là một tình cảm mãnh liệt, hướng
chủ thể tới một đối tượng duy nhất và làm khô héo những tình cảm khác”. Chắc hẳn
Kim Dung đã nghiên cứu, thẩm thấu, nhập tâm định nghĩa này. Và rõ ràng, trong
tác phẩm văn học của ông, tính cách đặc thù của những nhân vật đam mê tình yêu
hiện ra lồ lộ. Tôi gọi những nhân vật ấy là những ông thần si tình. Họ là những
“ông thần” bởi cách thể hiện trạng thái si tình của họ vượt xa các trạng thái
si tình của người thường, vượt xa những nhân vật trong tiểu thuyết tình cảm kim
cổ. Đối với họ, si tình trở thành một tôn giáo và đối tượng trở thành giáo chủ.
Có thể đề cập đến Đoàn Dự (Thiên Long bát bộ), vương tử nước Đại Lý, thấm nhuần
Nho học và Phật học, như là biểu tượng thượng thừa si tình. Rời Vân Nam, chàng
trai này phiêu bạt đến Cung Kiếm hồ, núi Vô Lượng. Tại đây, chàng gặp hoạn nạn,
phải trốn xuống hồ, lại bị thác nước cuốn vào trong một thạch thất (nhà đá).
Nhìn thất một pho tượng tạc hình một thiếu nữ, Đoàn Dự đã há miệng, líu lưỡi,
say mê ngay. Lạ lùng là những rung động đầu đời, tiếng sét ái tình đầu đời của
Đoàn Dự không dành cho một thiếu nữ bằng xương bằng thịt mà lại dành cho một
pho tượng. Đoàn Dự đã gọi pho tượng ngọc bằng “Thần tiên nương tử” (cô
gái thần tiên) và đối với pho tượng, anh chàng si tình này ngàn lần lễ phép,
kính ngưỡng. Chẳng vậy mà dù trong thạch thất có hàng chữ “giải y nải kiến” (cứ
cởi áo ra là thấy ngay), Đoàn Dự vẫn không dám cởi chiếc áo gấm của pho tượng.
Chàng trai chăm chỉ cúi đầu lạy pho tượng ngọc và càng lạy thì chiếc chiếu dưới
chân càng chuyển động, để lộ ra một “cơ quan”: 3 mũi tên đồng xanh. Ý nghĩa của
3 mũi tên này là nếu ai bộp chộp, sàm sỡ cởi áo pho tượng ngọc thì sẽ đạp trúng
cơ quan, 3 mũi tên đồng sẽ giết chết người ấy ngay trước khi người ấy kịp hiểu
ra những võ công bí ẩn trong thạch thất. Đoàn Dự không tiết mạn pho tượng,
không ham võ công, chỉ say mê nhan sắc của pho tượng nên đã vượt qua được cái bẫy
chết người ấy. Chàng trai chỉ học trong thạch thất một môn công phu để… chạy trốn
kẻ địch. Đó là môn Lăng Ba vi bộ, mô phỏng bước chân nhẹ nhàng, thanh thoát của
nàng tiên Lăng Ba trong thần thoại Trung Quốc. Quả nhiên về sau, nhờ có Lăng Ba
vi bộ, Đoàn Dự thoát được nhiều tình huống nguy hiểm đến tính mạng. Cho hay, si
tình cũng được việc.
Về sau này, Đoàn Dự say mê Vương Ngữ Yên vì tìm thấy ở Vương Ngữ Yên những đường
nét dịu dàng của “Thần tiên nương tử”. Tất nhiên Vương Ngữ Yên đánh giá
Đoàn Dự như một anh chàng si ngốc; cô chỉ yêu biểu ca Mộ Dung Phục của cô.
Nhưng cô đi đến đâu, Đoàn Dự vẫn lẽo đẽo đi theo. Thậm chí giữa rừng đao núi kiếm
của quân Tây Hạ, Đoàn Dự cũng mò đến để dặn cô: “Vương cô nương, nếu có việc
nguy nan, xin cho tiểu sinh cõng cô nương chạy trốn nhé”. Ấy là Đoàn Dự cậy vào
môn công phu Lăng Ba vi bộ ảo diệu của mình. Rồi cuối cùng tình cảm chân thành
của ông thần si tình Đoàn Dự cũng được Vương Ngữ Yên đền đáp. Chẳng những lấy
được Vương Ngữ Yên, Đoàn Dự còn lấy Mộc Uyển Thanh, Chung Linh. Ấy bởi vì Đoàn
Dự lên ngôi hoàng đế nước Đại Lý, mà hoàng đế thì có quyền có đến… tam cung lục
viện!
Thiên Long bát bộ cũng có một nhân vật si tình thượng thừa là Du Thản Chi.
Du Thản Chi là con trai của Du Ký, cháu của Du Câu ở Tụ Hiền trang, Giang Nam.
Sau khi cha và bác bị giết, Du Thản Chi phiêu bạt giang hồ, bị quân Khiết Đan bắt
được đưa qua biên giới làm “chiến lợi phẩm”. Du Thản Chi căm thù Kiều Phong đến
tận xương tủy vì Kiều Phong giết cha và bác của hắn nhưng hắn lại say mê A Tử,
em vợ Kiều Phong ngay từ cái nhìn đầu tiên. Tâm trạng của Du Thản Chi khi gặp A
Tử được miêu tả là “tim đập, chân run, nói không ra lời”. A Tử, cô gái mới
16 tuổi, đối xử với tù binh là Du Thản Chi 17 tuổi bằng những thủ đoạn cực kỳ
tàn độc. Ngay ngày đầu tiên mang Du Thản Chi về, cô đã cho gã đi “diều giấy”:
sai quân Khiết Đan cưỡi ngựa ném gã lên không gian rồi cứ vậy mà “phóng” gã,
không cho gã rơi xuống đất để làm vui cho cô. Cô lại cho quân dong gã vào dây rồi
phóng ngựa chạy cho thân thể gã bầm dập đau đớn như ngàn côn đánh đập, như muôn
trượng lửa hồng. Ấy vậy mà khi tỉnh lại, gã vẫn quỳ xuống hôn bàn chân của cô,
liếm láp từng ngón chân cô để bày tỏ lòng tôn kính. Nhìn một cách nào đó thì Du
Thản Chi là một biểu tượng của trạng thái khổ dâm.
Du Thản Chi không chết. Một ông thần si tình thì làm sao chết được? Kim Dung quả
thật bất công khi kéo dài những đau đớn trong đời Du Thản Chi. A Tử sai thợ rèn
khéo tay làm một mặt nạ sắt, nướng đỏ ráp lên đầu Du Thản Chi biến gã thành tên
Thiết Sửu (thằng hề bằng sắt). Để thử nghiệm “công trình” của mình, cô buộc gã
phải đút đầu vào miệng sư tử cho sư tử cắn xem chơi. Cũng nhờ cái mặt nạ sắt ấy
mà Tiêu Phong không nhìn ra được Du Thản Chi, còn Du Thản Chi thì thoải mái
nhìn Tiêu Phong với ánh mắt rực lửa căm hờn bởi Tiêu Phong đã từng là kẻ thù giết
cha, giết bác của gã và gã biết A Tử rất mê Tiêu Phong.
Du Thản Chi si tình A Tử đến nỗi gã sẵn sàng chết vì A Tử. Gã tình nguyện cho
con Hàn tầm trên núi Tuyết Sơn hút máu để A Tử luyện công. Gã xông pha cứu A Tử,
chống lại thầy mình là Đinh Xuân Thu để chịu làm kẻ bất trung, bất nghĩa. Khi A
Tử đui hai mắt, gã mượn được lưỡi thủy thủ chém sắt như chém bùn để tự tháo cái
lồng sắt trên đầu mình ra, trở thành một người mặt quỷ, xưng là Trang Tụ Hiền,
đi theo bao bọc A Tử. Gã tình nguyện hiến đôi mắt của mình cho “thầy thuốc” Hư
Trúc đem ráp vào hố mắt A Tử để A Tử sáng trở lại còn gã cam chịu phận đui mù.
Gã say mê A Tử chỉ để mà si mê, không vì một lý do nào khác, kể cả lý do tình dục.
Cuối cùng, khi Tiêu Phong chết, A Tử móc đôi mắt trả lại cho Du Thản Chi rồi bồng
Tiêu Phong rớt xuống thung lũng sâu ngoài Nhạn Môn Quan. Và gã cũng đi theo…
Cách si tình của Du Thản Chi ngu hơn Đoàn Dự rất nhiều. Chính Đoàn Dự cũng kính
“bậc thầy” Du Thản Chi khi Đinh Xuân Thu bắt được A Tử, buộc gã phải quay lại
khiêu chiến với quần hùng tụ tập trên núi Tung Sơn phái Thiếu Lâm thì lão mới
tha chết cho A Tử. Gã sẵn sàng làm mọi thứ: lừa thầy, phản bạn, giết bất cứ người
nào. Làm bất cứ việc gì thương luân bại lý vì A Tử. Cho nên nếu gọi Đoàn Dự là
phó tiến sĩ si tình thì phải phong cho Du Thản Chi là tiến sĩ si tình mặc dù
không có một đại học nào cấp bằng cho các tay si tình dại gái.
Tôi có thể kể ra hai viên cử nhân si tình khác trong Lộc Đỉnh ký. Nhân vật
đầu tiên là Vi Tiểu Bảo, khi mới gặp A Kha, hắn đã thề một câu rất kì quái rằng
nếu hắn không chiếm được cô thì mười tám đời tổ tiên nhà hắn là quân rùa đen hết
ráo. Chẳng những hắn si tình cô con gái mà hắn si tình luôn… bà mẹ vợ, danh kỹ
Trần Viên Viên, trên 40 tuổi, đã đi tu. Vi Tiểu Bảo được cái nói thẳng nói thật,
dẫu lời nói có sống sượng, thô lỗ, tục tằn. Ấy vậy mà đàn bà con gái Trung Quốc
(trong Lộc Đỉnh ký thôi nhé) mê hắn muốn chết. Thái độ si tình của hắn
khá thực tế: mê ai là để ngủ cho được với người ấy, không ngủ được thì dù là
Tây Thi tái thế, Bao Tự hồi sinh hắn cũng không thèm. Lại có một viên cử nhân
si tình khác là Mỹ đao vương Hồ Dật Chi. Lão này 60 tuổi, tướng mạo cực đẹp, si
tình Trần Viên Viên, vứt cây đao đi để tự nguyện làm đầy tớ bửa củi, xách nước
phục vụ cho Trần Viên Viên khi cô này đi tu. Lão rình nghe Viên Viên hát Viên
Viên khúc, mấy chục năm chỉ lọt tai được tám chín câu. Chỉ như vậy, lão đã cho
mình là người đại hạnh phúc. Khi kết bạn với Vi Tiểu Bảo, nghe họ Vi nói chuyện
si tình thực dụng, lão phê phán ngay. Chủ nghĩa si tình của lão là chủ nghĩa si
tình thánh hóa, lý tưởng hóa; si tình ai là phải mong người đó được hạnh phúc,
vui vẻ, kể cả giúp cho người mình si tình đi lấy chồng (không phải là mình).
Chính vì quan điểm si tình khác nhau mà một già một trẻ cãi nhau ỏm tỏi, càng
cãi càng đi vào chỗ mơ hồ, sai lạc. Nghe đồn Kim Dung cũng là một ông trùm si
tình trong cuộc sống và hình bóng ông tôn thờ là cô đào Hạ Mộng. Hạ Mộng còn sống
đến bây giờ e đã bảy mươi tuổi có dư. Nhưng tuổi tác có ra quái gì so với tiến
sĩ si tình Kim Dung. Có lẽ vì vậy mà ông đã xây dựng nên các “bậc thầy” Đoàn Dự,
Du Thản Chi, Vi Tiểu Bảo, Hồ Dật Chi. Những đau đớn của họ, nếu có cũng chỉ là
đau đớn tình thần nhiều hơn là thể xác. Và có lẽ Kim Dung thể hiện sự đau đớn ấy
trong văn chương cũng là cách tự giải tỏa cho mình. Nếu không giải tỏa được,
không chừng sẽ phát khùng phát điên lên mất.
Kim Dung và "Thiên ngoại hữu thiên"
"Thiên ngoại hữu thiên" (ngoài trời này có bầu trời khác) đơn giản
chỉ là một tư tưởng của Lão Tử trong Đạo Đức kinh. Câu nói này thể hiện vũ trụ
quan của Lão Tử, một vũ trụ quan cách chúng ta trên 2.500 năm, khi mà những tiến
bộ khoa học chưa ra đời và Lão Tử, như những nhà hiền triết phương Đông khác,
đã cố gắng cắt nghĩa vũ trụ thông qua những nhận thức thuần nghiêm. Khi phát biểu "thiên
ngoại hữu thiên", Lão Tử cho rằng ngoài thế giới hiện thực mà chúng ta
đang sống còn có một (hoặc nhiều) thế giới khác mà ông chưa biết đến. Nói cách
khác, vũ trụ bao la còn chưa đựng nhiều cuộc sống khác mà loài người đang cố gắng
khám phá, tìm hiểu, cắt nghĩa... Trong "thiên ngoại hữu thiên" thì
chữ "thiên" sau của Lão Tử vừa mang tính cách hiện thực vừa
mang tính cách siêu thực. Ở chừng mực nào đó, tư tưởng này thể hiện một cái
nhìn của siêu hình học cổ điền Trung Quốc. Thế nhưng những nhà văn Trung Quốc,
trên cơ sở phát biểu của Lảo Tử, đã muốn biến tư tưởng này thành một hiện thực
văn chương sinh động. Ví dụ Ngô Thừa Ân với tác phẩm Tây du ký đã xây
dựng một bầu trời khác; bầu trời của Phật, thần, ma quỷ; bầu trời của Tây
phương cực lạc. Hai ngàn năm trăm năm sau, một nhà văn khác của Trung Quốc đã
chứng minh mệnh đề "thiên ngoại hữu thiên". Đó là Kim Dung với
những tác phẩm võ hiệp tiểu thuyết của ông. Võ hiệp tiểu thuyết hư cấu ra một bầu
trời, một xã hội, một cuộc sống hoàn toàn khác hẳn với hiện thực. Đó là bầu trời,
xã hội, cuộc sống của bọn hào sĩ giang hồ chuyên sống trên lưỡi đao mũi kiếm,
đường quyền ngọn cước.
Trên nền tảng của các sinh hoạt tôn giáo, môn phái, bang hội có thật ở Trung Quốc
ngày xưa, Kim Dung xây dựng thành một thế giới võ hiệp; thoạt đọc qua cứ tưởng
là có thực nhưng đọc kỹ mới thấy đó là sản phẩm thuần túy của sự tưởng tượng, của
khả năng hư cấu văn học. Về mặt thủ pháp, Kim Dung áp dụng thủ pháp sáng tác
khá thú vị; ông gắn liền những tác phẩm của mình với hoàn cảnh, giai đoạn lịch
sử có thật của Trung Quốc. Thần điêu hiệp lữ, Xạ điêu anh hùng truyện, Ỷ
thiên Đồ long ký gắn liền với lịch sử xâm lược của quân Kim đối với nhà Bắc
Tống, sự hình thành của triều Nguyên trên đất Trung Quốc, những cuộc khởi nghĩa
chống quân Nguyên để khai sinh triều Minh. Thiên Long bát bộ gắn liền
với lịch sử Nam Tống khi nước Khất Đan chiếm được Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay)
và 18 châu Yên Vân ở bờ Bắc sông Hoàng Hà; gắn liền với sự tương tranh, tương
giao, tương đấu, tương hỗ của 6 thế lực quân chủ Nam Tống, Khất Đan, Kim, Đại
Lý, Thổ Lỗ Phồn, Tây Hạ. Lộc Đỉnh ký gắn liền với lịch sử triều Khang
Hy nhà Thanh, khi Khang Hy mới lên làm vua đất Trung Quốc, khi những lực lượng
phản Thanh phục Minh chưa bị dẹp tan, các lực lượng chư hầu (Tây Tạng, Mông Cổ)
chưa bình định. Tuyết Sơn phi hồ, Phi hồ ngoại truyện gắn liền với lịch
sử triều Càn Long, trong đó có những đoạn phục hiện, hồi ức về cuộc khởi nghĩa
của Sấm vương Lý Tự Thành. Những hoàn cảnh lịch sử, giai đoạn lịch sử có thật
như vậy lại được gắn liền với những thế lực thật sự có thật của các bang hội,
môn phái, tôn giáo. Về bang hội có Cái bang, Hải Sa bang, Thần Điểu bang, Cự
Kình bang, Thiên Địa hội, Hồng Hoa hội... Về môn phái, tôn giáo chính thống
(huyền môn) có Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, Bái hỏa giáo (Minh giáo), Côn Lôn,
Tuyết Sơn, Thái Sơn, Hằng Sơn, Hành Sơn... Về môn phái, tôn giáo nhiều màu sắc
tà đạo có Bạch Liên giáo, Tây Ba giáo, Ngũ Độc giáo, Bạch Mi giáo... những thế
lực có thật của các bang hội môn phái, tôn giáo này được trí tưởng tượng của
tác giả nâng lên thành những thế lực chính trị, lực lượng quân sự, căn cứ một
vùng hoặc có ảnh hưởng bao trùm ở nhiều khu vực rộng lớn.
Trên nền tảng cái có thực, Kim Dung phóng bút đưa vào những hoàn cảnh hư cấu,
con người hư cấu của mình. Khả năng hư cấu của ông rộng lớn tuyệt vời, cuốn hút
người đọc đi vào tác phẩm thuần túy tưởng tượng mà cứ ngỡ đang đi vào đời sống
thật. Về hình nhi hạ kinh tế, những nhân vật trong võ hiệp tiểu thuyết của Kim
Dung ít ai có nghề ngỗng rõ rệt. Trong mấy ngàn nhân vật của các bộ tiểu thuyết
của ông, họa hoằn lắm như trong Tiếu ngạo giang hồ Kim Dung mới cho
người ta thấy được Lưu Chính Phong, Vương Nguyên Bá là hai nhà giàu nức tiếng,
Hà Tam Thất bán hoành thánh, Du Tấn bán tin tức, Lâm Chấn Nam có hãng bảo tiêu.
Cơ bản bọn hào sĩ giang hồ trong tác phẩm của ông là đám vô công rỗi nghề nhưng
vàng bạc lúc nào cũng rủng rỉnh, chẳng những ăn xài thoải mái mà còn sẵn sàng tặng
người khác làm lộ phí. Ít khi họ ăn cơm nhà; ta chỉ thấy họ vào tửu lâu uống những
bát rượu ngon, ăn những miếng nhắm tốt rồi đem vàng bạc ra trả. Họ đi đến đâu
có lời chào mời, thiết đãi. Điều này thật lý tưởng khác xa với hiện thực xã hội
Trung Quốc quân chủ trong đó đám bình dân nghèo xơ xác, gặp năm thiên tai, mất
mùa, chiến chinh, có người chết đói, có người phải ăn cả thịt người.
Về hình nhi thượng võ công, những nhân vật trong các bộ võ hiệp Kim Dung là những
con người tuyệt vời, đạt đến mức lý tưởng nhất. Kim Dung gọi các nhân vật trung
tâm của mình là con thần long, con phượng hoàng trong loài người. Chỉ với trọng
lượng cơ thể trên dưới một trăm cân (khoảng 60kg), Trương Thúy Sơn đã có thể
dùng Thái Cực quyền đỡ hai tảng đá nặng ba, bốn ngàn cân (Ỷ thiên Đồ long ký). Những
loại võ công họ đắc thủ mạnh và tinh vi đến độ trí óc của con người không thể
tưởng tượng nổi: Kiều Phong trong Thiên Long bát bộ có nội lực sung
mãn như dời non lấp biển, Lệnh Hồ Xung trong Tiếu ngạo giang hồ có đường
Độc Cô cửu kiếm thắng tất cả các loại võ công trên đời, Quách Tĩnh trong Xạ
điêu anh hùng truyện có Hàng long thập bát chưởng mạnh đến tan bia vỡ đá.
Loại nhân vật trung tâm trong tác phẩm của ông chỉ cần xuất một chiêu quyền, cước,
chưởng, chỉ, cầm, nã, đao, kiếm, côn, bổng là địch thủ phải chào thua, thậm chí
phải táng mạng. Ấy vậy mà họ sống đẹp hết sức. Trai trung hậu, chất phác; gái
thông minh, tiết liệt. Họ sẵn sàng xả thân, hy sinh tính mạng vì người khác. Họ
yêu thương đằm thắm, chân thành, thủy chung. Trong mấy ngàn nhân vật, ta chỉ có
thể tìm thấy một nhân vật vì tham vọng mà phản bội trong Thiên Long bát bộ (Mộ
Dung Phục). Họ hành hiệp cứu đời, tế khốn phò nguy, sống trên và ngoài vòng ảnh
hưởng của cái gọi là vương pháp. Họ sống có thứ luật giang hồ riêng, chẳng hề
liên quan gì đến các thứ hình luật của các chế độ quân chủ. Cơ sở giải quyết,
hành xử mọi vấn đề của họ đặt trên đao kiếm, quyền cước và tất nhiên, có sự can
thiệp tích cực của lý trí và tình cảm của con người.
Trong Nam hoa kinh, Trang Tử đã từng mơ ước một con chim hồng "bay
cao chín ngàn dặm, nương mây cỡi gió mà đi". Tư tưởng của Lão Tử Trang Tử
hình thành học thuyết Lão Trang nền tảng tư duy của đạo gia. Tiểu thuyết võ hiệp
của Kim Dung xây dựng nên những môn phái tu theo đạo gia, lấy tư tưởng Lão
Trang làm nền tảng cho võ thuật. Đọc Kim Dung, ta thường gặp các đạo sĩ phái Võ
Đang, Thanh Thành, Tiêu Dao, Bồng Lai. Nơi họ tu học là các đạo quan (quán); võ
công mà họ đắc thủ là võ công âm nhu, nhẹ nhàng thanh thoát như hoa bay, gió
thoảng nhưng kình lực mạnh đến ta bia vỡ đá, dời non dốc biển. Nhân vật tiêu biểu
cho Đạo gia mà Kim Dung ca ngợi hết lời là một nhân vật có thực: Trương Tam
Phong (Trương Quân Bảo), đạo gia khai sáng phái Võ Đang, người sáng tác ra bộ
môn Thái Cực quyền pháp chậm rãi, nhẹ nhàng mà ngày nay còn truyền lại trong y
thuật dưỡng sinh. Kim Dung mô tả Thái Cực quyền pháp: dang đôi tay nhẹ nhàng ôm
lại như ôm cả vũ trụ vào lòng. Và chỉ với một thế Lãm tước vĩ (ôm đuôi chim), đạo
gia đã có thể xoay địch thủ của mình như xoay con vụ, dù địch mạnh đến đâu, nặng
đến đâu. Lãng mạn hơn, ông còn cho phép bốn lạng có thể chống lại được ngàn cân
(tứ lạng bát thiên cân) và có thể mượn (lợi dụng) chính sức của địch thủ để
đánh lại địch thủ (tá lực đả lực) Nếu lịch sử - hiểu như một khoa học - có một
cách cắt nghĩa nhằm đạt đến tính khách quan, tính hiện thực thì Kim Dung, trên
nền tảng lịch sử đó, thêu dệt thành những đoạn huyền sử, thoại lạ lùng. Đây
cũng chính là thủ pháp sáng tác chung của nhiều nhà văn học Minh-Thanh nhưng bậc
hậu bối Kim Dung lại phát huy thủ pháp đến mức lâm li tận chí, vượt xa các bậc
tiền bối. Ông đã thêu dệt cho ta một huyền thoại Sấm vương Lý Tự Thành
trong Tuyết Sơn phi hồ, Phi hồ ngoại truyện và Lộc Đỉnh ký. Ông
đã thêu dệt một huyền thoại Nhạn Môn Quan bi tráng, đầy rẫy tình yêu, nỗi đau,
chiến tranh và hòa bình trong Thiên Long bát bộ. Ông đã dựng nên một nhà
vua Khang Hy sáng suốt, dũng cảm, cơ trí, đại hiếu, có tầm cỡ của một bậc minh
quân bậc nhất nhì Trung Quốc. Và các kho báu lớn, nỗi ước mơ ngàn đời của dân tộc
Trung Quốc quân chủ nghèo nàn và lạc hậu xuất hiện trong tác phẩm của ông khá
nhiều. Có điều lạ là kho báu ở Quan Ngoại (Tuyết Sơn phi hồ), kho báu ở chùa
Thiên Ninh phủ Giang Lăng (Tố tâm kiếm) đều tẩm thuốc độc. Bọn giang hồ hào sĩ,
bọn quan lại tham tàn đã tìm được các kho báu đó. Tay họ đã chạm, túi họ đã đựng
đầy những vàng bạc, kim cương mã não nhưng họ đã trúng độc, chết ngay tại chỗ
trước khi trở thành những siêu tỷ phú. Nó là nguồn hạnh phúc thuần túy mang
tính ẩn dụ đối với người Trung Quốc chăng?
Tiểu thuyết, võ hiệp Kim Dung thường nhắc đến con rồng. Ta có thể dễ dàng bắt gặp
Hàng long thập bát chưởng với Hiện long tại điền, Tiềm long thăng thiên, Giao
long xuất hải, Thần long bái vĩ, Phi long tại thiên, Kháng long hữu hối... đây là tên các thế võ phỏng theo tên gọi các quẻ trong Kinh Dịch. Ngay móng vuốt
của rồng cũng hình thành môn võ công: Long trảo công, Long tượng chưởng, Cầm
long công... mà rồng là con vật chỉ có trong linh thoại, dứng đầu tứ linh:
long, lân, quy, phụng. Đưa con rồng vào trong tiểu thuyết võ hiệp, Kim Dung đã
đưa người đọc trở về với thế giới linh thoại, một thế giới vượt xa thế giới hiện
thực, ở ngoài thế giới hiện thực.
Ai cũng tự yêu mình, quý tính mạng của mình. Khuynh hướng ái ngã gần như là một
kinh nghiệm phổ quát và tuyệt đối của loài người từ Đông sang Tây. Trong tiểu
thuyết võ hiệp Kim Dung, những nhân vật trung tâm lại xả thân hành hiệp cứu đời,
cứu người; sẵn sàng hy sinh tính mạng của mình cho người khác được sống. Lệnh Hồ
Xung chiến đấu đến sức cùng lực kiệt với Điền Bá Quang để giải cứu cô nữ ni
xinh đẹp và trong trắng Nghi Lâm; Trương Vô Kỵ hiến thân để cứu quần hùng Minh
giáo; Địch Vân liều mình cứu Thủy Sinh; Kiều Phong dấn thân vào đầm rồng hang cọp
để chạy chữa cho A Châu; Hồ Phỉ nghe nơi đâu có cường hào ác bá bức hại dân đen
là tìm đến để lập lại công đạo... Đó là những tấm gương lớn xuất phát từ khái
niệm hành hiệp độ thế. Những nhân vật của Kim Dung trở thành những người hùng
lý tưởng. Từ người hùng lý tưởng trong cuộc sống, họ trở thành người tình lý tưởng
trong tình yêu. Họ thương yêu say đắm, thủy chung trong khuôn khổ cho phép của
lễ giáo Trung Quốc. Tình yêu đối với họ gần như tự nhiên, hoàn toàn không hàm ý
lợi dụng, cơ hội, cưỡng cầu. Gần như tình yêu trong võ hiệp Kim Dung là kết quả
của những cơ duyên hợp lý. Cơ duyên không hề mang tính chát tiền định như cơ
duyên trong tư tưởng phật giáo, nó chính là kết quả của những mối quan hệ xã hội
trong sáng và võ hiệp. Tình yêu trong truyện võ hiệp hình thành một thế giới
riêng của anh hùng và giai nhân. Cái thế giới giang hồ tên đường đao mũi kiếm,
cái thế giới của thoại sử, cái thế giới của võ cộng siêu việt, cái thế giới của
luật giang hồ, cái thế giới của những anh húng lý tưởng, những mối tình tuyệt vời
- tất cả kết hợp thành một bầu trời riêng, khác hẳn bầu trời hiện thực mà người
Trung Quốc đã sống. Đó là bầu trời ngoài một bầu trời - một "thiên
ngoại hữu thiên". Ai đau xót vì cuộc sống, mệt mỏi vì những oán thù, đau đớn
vì phải là người trong cuộc sống hiện thực hãy tìm đến "bầu trời" trong
tiểu thuyết võ hiệp.
Kim Dung và Vạn sự giai không
“Vạn sự giai không” là một trong những quan điểm lớn lao của đạo Phật. Hiểu
một cách chân phương, “Vạn sự giai không” là mọi thứ trên đời đều là
tạm bợ, hư ảo không có thật. “Vạn sự giai không” thể hiện nhân sinh
quan, vũ trụ quan căn bản nhất của tư tưởng đạo Phật: anh không có, tôi cũng
không có; nhan sắc cũng không, tình yêu cũng không; cả thế giới này là một chữ
KHÔNG to tướng. Kinh Bát nhã ba la mật chép: “Sắc tức thị không, không tức
thị sắc” (Sắc chính là không, không chính là sắc). Than ôi, đến cái đẹp của
phụ nữ - nguồn cảm hứng vô tận trong văn học nghệ thuật nhân loại - cũng không
có nữa thì thế giới này quả thật đáng buồn. Kim Dung có lẽ là một đệ tử thuần
thành của nhà Phật, thấm nhuần tư tưởng Phật giáo sâu sắc. Tư tưởng ấy hiện ra
trong các tác phẩm võ hiệp tiểu thuyết của ông một cách có hệ thống, trở thành
nguồn tư tưởng phương Đông chủ đạo, bao trùm khắp tác phẩm.
Trong những bộ tiểu thuyết của mình, Kim Dung thường nhắc đến sự tích Đức Bồ Đề
Đạt Ma từ Thiên Trúc qua Trung Quốc, diện bích trong 9 năm, hình thành hệ tư tưởng
Thiền tông Trung Hoa. Từ đó mới có chùa Thiền tông Thiếu Lâm ra đời, mới có các
kinh văn Phạn ngữ du nhập Trung Quốc được dịch ra Trung Văn và mới có các thứ
võ công danh tiếng mang dáng dấp Thiền tông: Niêm hoa chỉ, Bát Nhã chưởng, Thiếu
Lâm trường quyền, Dịch cân kinh, Thiên thủ Như Lai chưởng, Kim Cương chỉ, Đạt
Ma kiếm pháp… Một số vũ khí cổ điển mà các nhà sư Thiếu Lâm sử dụng cũng mang
dáng dấp Thiền tông: thiền trượng, phương tiện sản… Trong cách đặt tên nhân vật
cho các nhà sư Thiếu Lâm, Kim Dung cũng cố gắng thể hiện chữ Không trong “Vạn
sự giai không”: Vô Tướng, Vô Sắc, Huyền Khổ, Huyền Nạn, Huyền Từ, Huyền Thống,
Độ Ách, Độ Nạn, Độ Kiếp, Hư Trúc, Không Kiến, Không Văn, Không Trí, Không Tín…
Các nhà sư Thiếu Lâm xuất hiện trong tác phẩm Kim Dung rất gọn nhẹ, bên mình
không mang theo một thứ vật dụng, quần áo gì. Thỉnh thoảng có người cầm theo
cây gậy, đoản côn, sợi dây (khuyên) để làm vũ khí. Ra đi chiến đấu với địch thủ,
họ thường sử dụng đôi bàn tay thịt. Ở một góc độ nào đó, họ là những người “vô
sản” - một biểu hiện khá triệt để của chữ “không”.
Trong Thiên Long bát bộ, Kiều Phong đau xót tìm nguồn gốc của mình là người
Hán hay người Khất Đan. Hơn đâu hết, ở Trung Hoa ngày xưa, mặc cảm dân tộc và sắc
tộc rất lớn: người Hán mới là người; các dân tộc và sắc tộc khác chỉ là Tứ di
(bốn rợ). Kiều Phong là bậc anh hùng đạt đạo những vẫn không thoát ra được tư
tưởng dân tộc hẹp hòi, chỉ sợ bản thân mình thuộc dòng giống Khất Đan mọi rợ.
Ông tìm lên chùa Chỉ Quán, núi Thiên Thai xin gặp nhà sư Trí Quan để hỏi cho ra
nguồn gốc đó. Trí Quan chỉ đọc một bài kệ lửng lơ: Khất Đan với Hán nhân Bất
luận giả hay chân Ân oán cùng vinh nhục Không hơn đám bụi trần. Cả bài kệ là một
chữ “không”, kết thúc mọi vấn đề dân tộc, ân oán, vinh nhục trên đời. Tất cà chỉ
là bụi trần, hỏi mà làm chi, biết mà làm gì. Sức học của Kiều Phong không cho
phép ông hiểu ra ý nghĩa của bài kệ đó ngay thời điểm Trí Quan đọc. Nhưng khi
ông nhìn nụ cười hiền từ nở ra trên đôi môi nhà sư và cái chết đầy tính giải
thoát của nhà sư khi đọc xong bài kệ, có lẽ ông nhận ra chữ “không” trong tư tưởng
của Trí Quan, của nhà Phật.
Kim Dung đã thật sự thành công khi tạo cho độc giả nhận thức coi cái chết như một
sự giải thoát, sự trở về. Trong Tiếu ngạo giang hồ, nhà sư Phương Sinh đứng
trước xác bốn đệ tử bị Doanh Doanh giết chỉ đọc một bài kinh văn siêu độ. Ông
không trả thù Doanh Doanh, cũng không chôn cất các đệ tử bởi ông coi các xác chết
cũng như bốn cái túi da, chôn cũng vậy mà không chôn cũng vậy. Tất cả đều trở về
với cát bụi. Trong Thiên Long bát bộ, nhà sư Huyền Thống đang hăng hái
đánh nhau với bọn Hàm Cốc bát hữu, chỉ cần nghe nho sinh đọc câu: “Khổ hải
vô biên hồi đầu thị ngạn” (bể khổ mênh mông, quay đầu là bờ) đã chợt ngộ
ra chữ “không”, đứng tim mà chết, trên môi nở nụ cười mãn nguyện. Cũng trong
tác phẩm này, một nhà sư già trong Tàng kinh các chùa Thiếu Lâm đã hóa giải mối
thù sâu như biển giữa Tiêu Viễn Sơn (người Khất Đan) và Mộ Dung Bác (người Tiên
Ty). Bốn tay họ giao nhau, hai lòng cùng giác ngộ; họ chợt nhận ra những âm
mưu, thủ đoạn, khát vọng trả thù chỉ là hư ảo. Và nhà sư Ba La Tinh (người
Thiên Trúc) cũng nhận ra cái hư ảo trong giấc mộng ăn cắp kinh văn đem về Thiên
Trúc của mình. Ông chợt nhận ra Thiên Trúc hay Trung Hoa đều là thế gian, cũng
“không” tuốt, và việc trở về Thiên Trúc là không cần thiết nữa.
Chữ “không” can thiệp vào tình yêu một cách tích cực. Ai yêu nhà sư Huyền Từ bằng
Diệp Nhị Nương. Người phụ nữ này đã hiến thân cho Huyền Từ, sinh ra chàng Hư
Trúc. Nhưng Huyền Từ là Phương trượng của chùa Thiếu Lâm; Diệp Nhị Nương cam chịu
sống lẻ loi, không dám nhìn mặt người tình trong suốt 20 năm cũng chỉ là để cho
Huyền Từ khỏi bị tai tiếng vì chữ “dâm” trong Ngũ giới cấm của nhà Phật. Đến
phút cuối, trước quần hùng tại sân chùa Thiếu Lâm; Huyền Từ, Diệp Nhị Nương và
Hư Trúc mới đoàn tụ. Cha, mẹ và đứa con lưu lạc cùng gặp lại nhau, có hạnh phúc
nào lớn hơn điều ấy? Thế nhưng, ở đây chữ “không” lại xuất hiện, can thiệp, biến
tất cả niềm hạnh phúc thành khúc bi ca. Huyền Từ tự vẫn để tạ tội với chư tăng
chùa Thiếu Lâm; Diệp Nhị Nương tự vẫn theo người tình cho có đôi có bạn. Tình
yêu của họ cũng chỉ là hư không; chăn gối ngày xưa cũng chỉ là hư không.
Trên cơ sở chữ “không”, Kim Dung xây dựng những nhân vật rất lạ. Như Định Nhàn
sư thái, chưởng môn phái Hằng Sơn (Tiếu ngạo giang hồ); sau một trận chiến đấu
hung hiểm đầy máu và lửa, bà xuất hiện với chiếc áo không lấm một vết than tro,
khuôn mặt bình thản, tay lần chuỗi tràng hạt như không có chuyện gì xảy ra. Vị
nữ ni này đúng với ba chữ “vô ưu”, “vô úy”, “vô trần” của đạo Phật. Mà “vô”
cũng chính là “không”. Trước khi chết trên chùa Thiếu Lâm, vị nự ni này truyền
chức chưởng môn lại cho Lệnh Hồ Xung mà vẫn không chịu nói ra ai đã giết mình. Ấy
bởi vì kẻ giết bà chính là Nhạc Bất Quần, sư phụ của Lệnh Hồ Xung! Chữ “không”
đã giúp bà quên đi mối thù. Bà chết nhưng chữ “không” ấy vẫn long lanh trong
sáng. Tôi đã nói “không” cũng là “vô”. Kim Dung triệt để bàn đến chữ “không” của
đạo Phật qua tiểu thuyết của mình nhưng xin bạn đọc chớ ngại ông biến cả thế giới
tiểu thuyết thành ra hư ảo hết. “Không” cũng là “vô” nhưng đồng thời ông lại
đưa ra biện chứng “Vô trung sinh hữu” (trong cái “không” sinh cái
“có”). Và đó là vấn đề mà tôi sẽ bàn đến, nếu tôi còn sống, chưa trở về với chữ
“không”.
Kim Dung và chữ Xuân
Trong Trung văn, chữ Xuân (春, mùa xuân) được viết với 9 nét. Ở một
nghĩa rất tượng trưng, chữ Xuân được ví với bộ phận sinh dục nữ qua phép tượng
hình các nét viết của chữ này. Nếu người phụ nữ nằm, thì đó là chữ xuân; nếu
người phụ nữ ngồi thì có một kẽ hở, tạo ra một chữ 10 nét, gọi là Thung (舂). Nhà nho có câu ví von: Ngọa tắc Xuân mà tọa tắc Thung (Nằm
thì Xuân mà ngồi thì Thung).
Kim Dung viết tiểu thuyết võ hiệp bằng Trung văn. Chữ Xuân trong tác phẩm của
ông khá phong phú, biến ảo lạ lùng. Chữ Xuân nằm trong ngoại hiệu của đạo
gia. Xạ điêu anh hùng truyện có 7 đạo gia gọi là Toàn Chân thất tử,
trong đó có Trường Xuân tử Khưu Xử Cơ. Tính cách nhân vật này nóng nảy, nhưng
là một hán tử yêu nước. Là đạo gia, nhân vật này cũng tu học theo phong cách đạo
gia, nghĩa là cũng học cách bế khí để hưởng nhàn, hành lạc dài dài. Chẳng vậy
mà ngoại hiệu của lão là Trường Xuân tử? Trường Xuân tử có nghĩa là ông… ham
vui hoài hoài. Còn ổng vui được tới đâu thì thây kệ ổng. Chữ Xuân còn nằm trong
ngoại hiệu của thầy thuốc. Trong Hiệp khách hành có một nhân vật gọi
là Trước thủ thành xuân Bối Hải Thạch. Bối Hải Thạch võ công cao cường nhưng suốt
đời ốm yếu, ho hen hoài. Lão tự tìm thuốc men chữa bệnh cho mình, chữa riết nên
trình độ y lý cũng cao cường như một thầy thuốc (đại phu). Vì vậy, lão lên làm
trưởng lão bang Trường Lạc tại Giang Nam, được mọi người tôn xưng là Bối đại
phu. Bạn có để ý hai chữ Trường Lạc không? Hai chữ này có nghĩa là vui hoài,
vui miết. Người thầy thuốc luôn được Kim Dung ca ngợi là Diệu thủ hồi xuân. Tất
nhiên, làm thuốc là trị bách bệnh; trong đó có bệnh… lạc mất mùa xuân. Hồi xuân
là mục tiêu giúp con người tìm lại chất trẻ trung, tìm lại cảm hứng tình dục.
Trong phương thuốc hồi xuân luôn luôn có các vị Nhân sâm, Hà thủ ô, Sinh địa,
Linh Chi, Tuyết liên tử… Uống các món này, con người khỏe mạnh, trẻ trung trở lại.
Còn sau đó thì… hổng biết. Chữ Xuân còn để chỉ chỗ ăn chơi sa đọa. Người Trung
Hoa có câu “Hạ giới hữu Tô Hàng nhị châu”. Hàng Châu và Tô Châu là hai chỗ
ăn chơi đàng điếm nhất của miền Giang Nam. Xem như vậy thì người trung Quốc coi
trọng sự ăn chơi.
Lộc Đỉnh ký, thông qua cái miệng của Vi Tiểu Bảo, không ngớt ca ngợi thành
Dương Châu nhà hắn. Hắn xuất thân từ Lệ Xuân viện, nơi mẹ hắn làm Kỹ nữ và sinh
ra hắn. Hắn tự hào về Lệ Xuân viện, về bà mẹ làm kỹ nữ. Hắn đã từng có mong ước
kiếm được thật nhiều tiền để về Dương Châu mua đứt lại Lệ Xuân viện; lập thêm
ba tòa Lệ Hạ viện, Lệ Thu viện và Lệ Đông viện cho đủ 4 mùa, đặng quần hùng và
trọc phú bốn phương đến đó ăn chơi cho phỉ chí. Vi Tiểu Bảo cũng là tay khoái
món văn hóa đồi trụy. Rõ ràng là hắn có mấy bức thêu gọi là Xuân cung đồ (bức
họa về bộ phận sinh dục nữ). Hắn đã đem mấy bức thêu này “thuốc” Đa Long khi
tên này được vua Khang Hy giao nhiệm vụ chém Mao Thập Bát, khiến Đa Long mê mẩn,
mất cảnh giác. Vi Tiểu Bảo đã cứu mạng được Mao Thập Bát nhờ truyền bá văn hóa
đồi trụy!
Chữ Xuân đồng nghĩa với khái niệm bổ thận, cường dương. Những món thuốc giúp
đàn ông bổ thận, cường dương để chứng mình là nam nhi chính hiệu trong phòng
the được gọi là xuân dược. Mô phỏng xuân dược đó, Lệ Xuân viện thành Dương Châu
có bán loại xuân tửu. Thế nhưng, Vi Tiểu Bảo thì chỉ muốn những kẻ uống loại rượu
này vào phải ngủ li bì, ngủ mê mệt để hắn ra tay khống chế. Cho nên, hắn đã đổ
thêm thuốc mê vào rượu; khiến xuân tửu hóa thành mê xuân tửu. Tang Kết lạt ma,
Cát Nhĩ Đan vương tử, Trịnh Khắc Sản… cho đến các quý phu nhân, quý tiểu thư Tô
Thuyên, A Kha, Phương Di… uống loại rượu này, lòng xuân thì phơi phới nhưng trí
tuệ lại hồ đồ. Vi Tiểu Bảo tha hồ tác oai, tác quái. Không hiểu hắn có uống
xuân tửu không nhưng hôm ấy hắn giao cấu với 7 người phụ nữ. Tất nhiên, tác giả
có nói dóc nhưng nói dóc như vậy nghe cũng thú vị.
Việc nam nữ giao cấu với nhau được Kim Dung gọi là xuân sự hay hảo sự. Đó là
quan điểm của một dân tộc quý chuộng sức lao động bởi xã hội Trung Quốc ngày
xưa là xã hội nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Phải sinh con đẻ cái để có
người lao động, để nối dõi tông đường. Cho nên người ta coi đêm tân hôn là một
đêm thiêng liêng của đôi đôi lòng thanh xuân phơi phới. Hiệp khách hành có
mô tả đoạn Thạch Phá Thiên và Đinh Đang mới định động phòng thì bọn hảo hán
bang Trường Lạc đổ ra đi tìm Thạch Phá Thiên, đứng ngoài sân kêu la ơi ới. Đinh
Bất Tứ phải ngồi trên nóc nhà gác cho cháu mình hoàn thành xuân sự. Lão tuôn ra
một hơi vừa có vẻ văn hóa, vừa có vẻ tục tĩu, nào là “đêm xuân một khắc
ngàn vàng”, nào là “thời xuân qua rất mau”… Nhưng Thạch Phá Thiên đã bỏ cô
dâu, chạy mất.
Những nhân vật nữ trung tâm của Kim Dung được gọi là băng thanh ngọc khiết, là
hoàng hoa khuê nữ hoặc xuân nữ. Họ là những cô gái trong trắng, lãng mạn mười
phần nhưng không liều mạng chút nào. Họ đi đến đâu thì không khí đương xuân có ở
đó, rực rỡ, náo nhiệt. Có đôi khi họ buồn, họ khóc. Kim Dung mô tả những giọt
nước mắt đọng trên gò má xuân thì lóng lánh chẳng khác gì giọt sương trên đóa
mai côi (hoa hồng). Mùa xuân, bóng liễu xanh tươi. Kim Dung mô tả đôi mày các
cô đẹp như cặp lá liễu. Và khi cô nào… nổi nóng, đôi mày liễu khẽ nhướng lên
hay khẽ cau lại, thể hiện một tâm trạng bất bình thì khách mày râu hãy coi chừng.
Một chiêu Xuân phong dương liễu phóng ra, mùa xuân mất biến, chỉ còn cơn lôi
đình sục sôi như nắng hạ.
Kim Dung viết tiểu thuyết võ hiệp bằng Trung văn. Chữ Xuân trong tác phẩm của
ông khá phong phú, biến ảo lạ lùng. Chữ Xuân nằm trong ngoại hiệu của đạo
gia. Xạ điêu anh hùng truyện có 7 đạo gia gọi là Toàn Chân thất tử,
trong đó có Trường Xuân tử Khưu Xử Cơ. Tính cách nhân vật này nóng nảy, nhưng
là một hán tử yêu nước. Là đạo gia, nhân vật này cũng tu học theo phong cách đạo
gia, nghĩa là cũng học cách bế khí để hưởng nhàn, hành lạc dài dài. Chẳng vậy
mà ngoại hiệu của lão là Trường Xuân tử? Trường Xuân tử có nghĩa là ông… ham
vui hoài hoài. Còn ổng vui được tới đâu thì thây kệ ổng. Chữ Xuân còn nằm trong
ngoại hiệu của thầy thuốc. Trong Hiệp khách hành có một nhân vật gọi
là Trước thủ thành xuân Bối Hải Thạch. Bối Hải Thạch võ công cao cường nhưng suốt
đời ốm yếu, ho hen hoài. Lão tự tìm thuốc men chữa bệnh cho mình, chữa riết nên
trình độ y lý cũng cao cường như một thầy thuốc (đại phu). Vì vậy, lão lên làm
trưởng lão bang Trường Lạc tại Giang Nam, được mọi người tôn xưng là Bối đại
phu. Bạn có để ý hai chữ Trường Lạc không? Hai chữ này có nghĩa là vui hoài,
vui miết. Người thầy thuốc luôn được Kim Dung ca ngợi là Diệu thủ hồi xuân. Tất
nhiên, làm thuốc là trị bách bệnh; trong đó có bệnh… lạc mất mùa xuân. Hồi xuân
là mục tiêu giúp con người tìm lại chất trẻ trung, tìm lại cảm hứng tình dục.
Trong phương thuốc hồi xuân luôn luôn có các vị Nhân sâm, Hà thủ ô, Sinh địa,
Linh Chi, Tuyết liên tử… Uống các món này, con người khỏe mạnh, trẻ trung trở lại.
Còn sau đó thì… hổng biết. Chữ Xuân còn để chỉ chỗ ăn chơi sa đọa. Người Trung
Hoa có câu “Hạ giới hữu Tô Hàng nhị châu”. Hàng Châu và Tô Châu là hai chỗ
ăn chơi đàng điếm nhất của miền Giang Nam. Xem như vậy thì người trung Quốc coi
trọng sự ăn chơi.
Lộc Đỉnh ký, thông qua cái miệng của Vi Tiểu Bảo, không ngớt ca ngợi thành
Dương Châu nhà hắn. Hắn xuất thân từ Lệ Xuân viện, nơi mẹ hắn làm Kỹ nữ và sinh
ra hắn. Hắn tự hào về Lệ Xuân viện, về bà mẹ làm kỹ nữ. Hắn đã từng có mong ước
kiếm được thật nhiều tiền để về Dương Châu mua đứt lại Lệ Xuân viện; lập thêm
ba tòa Lệ Hạ viện, Lệ Thu viện và Lệ Đông viện cho đủ 4 mùa, đặng quần hùng và
trọc phú bốn phương đến đó ăn chơi cho phỉ chí. Vi Tiểu Bảo cũng là tay khoái
món văn hóa đồi trụy. Rõ ràng là hắn có mấy bức thêu gọi là Xuân cung đồ (bức
họa về bộ phận sinh dục nữ). Hắn đã đem mấy bức thêu này “thuốc” Đa Long khi
tên này được vua Khang Hy giao nhiệm vụ chém Mao Thập Bát, khiến Đa Long mê mẩn,
mất cảnh giác. Vi Tiểu Bảo đã cứu mạng được Mao Thập Bát nhờ truyền bá văn hóa
đồi trụy!
Chữ Xuân đồng nghĩa với khái niệm bổ thận, cường dương. Những món thuốc giúp
đàn ông bổ thận, cường dương để chứng mình là nam nhi chính hiệu trong phòng
the được gọi là xuân dược. Mô phỏng xuân dược đó, Lệ Xuân viện thành Dương Châu
có bán loại xuân tửu. Thế nhưng, Vi Tiểu Bảo thì chỉ muốn những kẻ uống loại rượu
này vào phải ngủ li bì, ngủ mê mệt để hắn ra tay khống chế. Cho nên, hắn đã đổ
thêm thuốc mê vào rượu; khiến xuân tửu hóa thành mê xuân tửu. Tang Kết lạt ma,
Cát Nhĩ Đan vương tử, Trịnh Khắc Sản… cho đến các quý phu nhân, quý tiểu thư Tô
Thuyên, A Kha, Phương Di… uống loại rượu này, lòng xuân thì phơi phới nhưng trí
tuệ lại hồ đồ. Vi Tiểu Bảo tha hồ tác oai, tác quái. Không hiểu hắn có uống
xuân tửu không nhưng hôm ấy hắn giao cấu với 7 người phụ nữ. Tất nhiên, tác giả
có nói dóc nhưng nói dóc như vậy nghe cũng thú vị.
Việc nam nữ giao cấu với nhau được Kim Dung gọi là xuân sự hay hảo sự. Đó là
quan điểm của một dân tộc quý chuộng sức lao động bởi xã hội Trung Quốc ngày
xưa là xã hội nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Phải sinh con đẻ cái để có
người lao động, để nối dõi tông đường. Cho nên người ta coi đêm tân hôn là một
đêm thiêng liêng của đôi đôi lòng thanh xuân phơi phới. Hiệp khách hành có
mô tả đoạn Thạch Phá Thiên và Đinh Đang mới định động phòng thì bọn hảo hán
bang Trường Lạc đổ ra đi tìm Thạch Phá Thiên, đứng ngoài sân kêu la ơi ới. Đinh
Bất Tứ phải ngồi trên nóc nhà gác cho cháu mình hoàn thành xuân sự. Lão tuôn ra
một hơi vừa có vẻ văn hóa, vừa có vẻ tục tĩu, nào là “đêm xuân một khắc
ngàn vàng”, nào là “thời xuân qua rất mau”… Nhưng Thạch Phá Thiên đã bỏ cô
dâu, chạy mất.
Những nhân vật nữ trung tâm của Kim Dung được gọi là băng thanh ngọc khiết, là
hoàng hoa khuê nữ hoặc xuân nữ. Họ là những cô gái trong trắng, lãng mạn mười
phần nhưng không liều mạng chút nào. Họ đi đến đâu thì không khí đương xuân có ở
đó, rực rỡ, náo nhiệt. Có đôi khi họ buồn, họ khóc. Kim Dung mô tả những giọt
nước mắt đọng trên gò má xuân thì lóng lánh chẳng khác gì giọt sương trên đóa
mai côi (hoa hồng). Mùa xuân, bóng liễu xanh tươi. Kim Dung mô tả đôi mày các
cô đẹp như cặp lá liễu. Và khi cô nào… nổi nóng, đôi mày liễu khẽ nhướng lên
hay khẽ cau lại, thể hiện một tâm trạng bất bình thì khách mày râu hãy coi chừng.
Một chiêu Xuân phong dương liễu phóng ra, mùa xuân mất biến, chỉ còn cơn lôi
đình sục sôi như nắng hạ.
Kiếm luận
Trong chiến tranh cổ điển, kiếm (gươm) là một vũ khí tiện lợi
nhất. Tuy không cùng học một loại binh thư nhưng các dân tộc đã biết chung một
kinh nghiệm chiến tranh: dùng kiếm để đánh gần và dùng cung để bắn xa. Lịch sử
chiến tranh của nhân loại cho biết kiếm được rèn ở thành Baghdad (lúc bấy giờ
thuộc Ba Tư - Perse) là loại kiếm danh tiếng nhất, có kỹ thuật rèn cao cường nhất.
Và đây là những lưỡi đà kiếm, có hình cong hình lưỡi liềm.
Kiếm trong truyện võ hiệp Kim Dung cũng không đi ra khỏi kinh nghiệm ấy. Kiếm
quan trọng đến nỗi nhiều khi, những tác phẩm võ hiệp của ông được người đời gọi
là truyện kiếm hiệp - truyện về những người hành hiệp cứu đời bằng lưỡi kiếm.
Có những tác phẩm của ông đã khắc họa vai trò cao cả của lưỡi kiếm. Đó là trường
hợp bộ Ỷ thiên Đồ long ký. Trong 5 chữ, thì đã có hai chữ Ỷ thiên là tên gọi
của một thanh kiếm báu mà theo tác giả, được đúc bằng thép nguyên chất pha lẫn
platin và trong thân kiếm có cất dấu một pho bảo lục: bộ Cửu âm chân
kinh. Tiếu ngạo giang hồ cũng là một tác phẩm đồ sộ nói về cây kiếm với
những phái sử dụng kiếm gọi là Ngũ nhạc kiếm phái: Thái Sơn, Hành Sơn, Hoa Sơn,
Tung Sơn, Hằng Sơn. Bộ Liên thành quyết là một bộ tiểu thuyết viết về
một pho kiếm pháp mà bài kiếm quyết là một bài thơ; thầy đã cố dạy sai cho học
trò để che dấu lời hướng dẫn đi tìm một kho báu lớn có giá trị liên thành.
Ngoài ra, trong 12 bộ tiểu thuyết, luôn luôn xuất hiện người sử kiếm (kiếm sĩ)
và kiếm sĩ luôn luôn nhiều hơn những bọn hào sĩ giang hồ sử dụng những loại vũ
khí khác.
Về mặt chất liệu làm kiếm, Kim Dung nói đến loại kiếm sắt, kiếm gỗ, kiếm vàng
và kiếm pha hợp kim. Kiếm thông thường là kiếm sắt nhưng Kim Dung lại thường đề
cập đến một loại sắt thép đặc biệt rất bén, chém sắt như chém bùn. Trương Tam
Phong, tức Trương Quân Bảo, dùng một cây kiếm gỗ hành hiệp gọi là Chân võ,
thành danh và trở thành tổ sư phái Võ Đang. Bọn thầy thuốc như Hồ Thanh Ngưu,
Bình Nhứt Chỉ có cây đoản kiếm bằng vàng, chắc là để dùng trong khi mổ xẻ. Đặc
biệt, kiếm Ỷ thiên như đã nói là một hợp kim gồm thép và platin và phải dùng đến
đao Đồ long chém thì cả đao với kiếm mới cùng gẫy. Bọn đệ tử Minh giáo kiếm được
thanh kiếm Ỷ thiên gãy, đã dùng kỹ thuật luyện kim đặc biệt của Ba Tư để ráp kiếm
lại và trong động tác ráp nối quyết định, còn thêm cả máu người vào. Chi tiết
này thật hoang đường nhưng cực kỳ thú vị, không khỏi khiến bạn đọc nghĩ đến huyền
thoại hai thanh kiếm thời Chiến quốc: Can tương và Mạc gia (còn gọi là Mạc tà).
Về tính chất, truyện võ hiệp Kim Dung đề cập đến hai loại kiếm: cương kiếm (kiếm
rắn) và nhu kiếm (kiếm mềm). Trong Tiếu ngạo giang hồ, Tiêu Tương dạ vũ Mạc
Đại tiên sinh, chưởng môn Hành Sơn, có cây kiếm mỏng như lá lúa, rút ra cầm tay
thì mềm oặt nhưng khi vận công vào thì lưỡi kiếm giương thẳng ra và khi chiến đấu
thì kiếm khí phát ra đầu mũi kiếm. Về hình thể, Kim Dung phân ra trường kiếm
(kiếm dài) và đoản kiếm (kiếm ngắn). Nhũng nhân vật sử dụng đoản kiếm trong tác
phẩm của ông thường là những người có gia số võ công đặc biệt, chuyên đánh cận
chiến; chân tay rất linh hoạt. Kiếm bình thường thì thân thẳng. Cá biệt,
trong Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung mô tả nhân vật Tái Bắc minh đà Mộc Cao
Phong, một người gù như lạc đà (minh đà) vì có bướu trên lưng; y sử một cây đà
kiếm cong cong hình lưỡi liềm. Đúng là đà nhân đà kiếm! Thanh kiếm đặc biệt của
Mộc Cao Phong nhắc chúng ta nhớ lại hình ảnh những lưỡi kiếm cong của các đội
quân Ả Rập trên sa mạc trong những phim nói về khu vực châu Phi.
Kiếm là một loại vũ khí cá nhân nên thường thường bọn hào sĩ sử đơn kiếm. Tuy
nhiên cũng có những người chuyên đánh song kiếm. Lại có những cặp anh em, vợ chồng,
bạn bè đồng môn sử đơn kiếm nhưng chuyên đánh đôi thành song kiếm hợp bích. Có
lối đánh tập thể kết làm kiếm trận. Triết học Đông phương đã đi vào bài bản kiếm
pháp với Lưỡng nghi kiếm pháp, trong đó hai người cùng đánh: một người theo
chính Lưỡng nghi, một người theo phản Lưỡng nghi. Có chính có phản mới thành hợp
bích chẳng khác nào có thèse, có antithèse mới ra được synthèse trong triết học
Hy Lạp.
Về nguyên tắc sử kiếm, Kim Dung đưa ra Kiếm tông và Khí tông. Kiếm tông chú trọng
kiếm chiêu, ra đòn liên miên bất tuyệt để thủ thắng. Khí tông chú trọng nội
công, cho rằng nội công cao cường là chỉ đánh một vài chiêu là có thể triệt hạ
địch thủ. Đây chính là sự mâu thuẫn trong nội bộ phái Hoa Sơn, khiến phái này
tương tranh đến nỗi gần tuyệt diệt. Để có thể sử kiếm, người ta phải học kiếm
pháp. Kiếm pháp được hiểu là nguyên tắc hướng dẫn sử một đường kiếm chuyên môn
của một phái hay một nhà (gia).
Kiếm pháp được cụ thể hóa thành một bài ca và người kiếm sĩ phải học thuộc lòng
từng câu, từng chữ. Những câu ca ấy được chép lại trên lụa, trên vải, trên giấy,
trên da dê thì được gọi là kiếm phổ. Kiếm phổ chia ra từng chiêu, từng thức; mỗi
chiêu thức có nhiều cách biến hóa linh động. Kim Dung đã thực sự đưa người đọc
đi vào một thế giới mộng mơ thú vị khi ông đề cập đến những Thái Sơn thập bát
bàn, Hành Sơn thập tam thức và lý giải Lưỡng nghi kiếm pháp có 64 thế. Tại sao
lại là 64 thế? Ấy là vì Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ
tượng sinh Bát quái (quẻ); trong mỗi quái có 8 lần biến hóa, 8 lần 8 thành 64
thế. Đó là chính Lưỡng. Thế còn phản Lưỡng nghi? Phản Lưỡng nghi là đánh ngược
lại những quy tắc của chính Lưỡng nghi, tạo ra một âm một dương, một trên một
dưới, một trái một phải, một trước một sau... Thử tưởng tượng một đối thủ phải
đấu với một cặp song kiếm Lưỡng nghi! Kim Dung chỉ đặt vấn đề và chúng ta tưởng
tượng.
Trong Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung nói đến một thứ kiếm pháp lãng mạn hơn:
Độc Cô cửu kiếm do Phong Thanh Dương truyền lại cho Lệnh Hồ Xung. Đây vốn là kiếm
pháp của Độc Cô Cầu Bại, chỉ gồm có 9 thức: Tổng quyết thức, Phá kiếm thức, Phá
khí thức, Phá thương thức, Phá chưởng thức, Phá tiên thức, Phá đao thức, Phá tiễn
thức và Phá côn thức. Với 9 thức đó, Độc Cô Cầu Bại đánh thắng tất cả các địch
thủ khiến cho không ai còn dám đến đánh kiếm với ông. Ông rơi vào cô đơn (Độc
Cô), chỉ mong được thua một lần (Cầu Bại) mà không ai có thể khiến ông thua được,
cuối cùng chết đi trong lặng lẽ! Phong Thanh Dương cắt nghĩa: Độc Cô cửu kiếm
đánh theo kiếm ý, nghĩ đến đâu là đánh đến đó, muốn đánh thế nào cũng được, chỉ
có công chứ không bao giờ quay về thủ. Hễ địch đánh 100 chiêu, ta đánh 101
chiêu; địch đánh 1000 chiêu, ta đánh 1001 chiêu; liên miên bất tuyệt như nước
chảy mây trôi. Lệnh Hồ Xung nghe được thứ kiếm pháp như vậy, anh ta mừng như
điên vì tâm tính anh ta vốn lãng mạn. Và trận ra oai đầu tiên của Độc Cô cửu kiếm
vừa khiến Lệnh Hồ Xung, vừa khiến chúng ta kinh hãi: Lệnh Hồ Xung mất hết công
lực, chỉ sử một chiêu Phá khí thức, đã đâm mù mắt 15 tên ác đồ của phái Tung
Sơn!
Kiếm nằm trong vỏ là biểu hiện của hòa bình; kiếm rút ra khỏi vỏ là biểu hiện của
đấu tranh. Thậm chí với Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga Mi trong Ỷ
thiên Đồ long ký, mỗi khi rút kiếm Ỷ thiên ra, kiếm không dính máu là chưa đút
vào vỏ. Rút kiếm ra khỏi vỏ, người ta thường bắt kiếm quyết: mũi kiếm hướng lên
trời, mũi kiếm chỉ xuống đất, mũi kiếm chỉ ra phía trước, thân kiếm hoành ngang
người... Chiêu đầu tiên của những người nhỏ tuổi khi đấu với người trưởng thượng
phải là chiêu thi lễ: hai tay đưa thẳng kiếm lên khỏi đầu là Vạn nhạc triều
tôn; hai tay nắm lấy đốc kiếm, cả người và kiếm cùng cúi tới trước là Đồng tử
bái Quan Âm. Sử kiếm là cả một nghệ thuật. Dương Qua và Tiểu Long Nữ
trong Xạ điêu anh hùng truyện sử Ngọc nữ kiếm pháp một cách uyển chuyển
mỹ lệ như một cặp múa đôi. Tả Tử Mục, chưởng môn phái Vô Lượng trong Thiên
Long bát bộ sử kiếm chém con rắn đang cuốn lấy người học trò, rắn đứt đôi
mà da học trò vẫn không xây xát. Ninh Trung Tắc của phái Hoa Sơn sử thế kiếm
quyết định đâm vào người học trò là Lệnh Hồ Xung, kiếm vừa chạm đến da, đã chuyển
kình lực đâm thẳng thành kình lực bẻ ngang, khiến thanh kiếm gẫy làm nhiều mảnh
rơi xuống choang choảng. Trong đường kiếm còn có cả tình yêu đôi lứa. Nhạc Linh
San cùng Lệnh Hồ Xung thầm yêu nhau, đã lén cha mẹ luyện môn Xung - Linh kiếm
pháp, khi múa lên đôi mắt mơ màng, đôi lòng ấm áp. Vì họ còn rất trẻ nên nghịch
ngợm, nghĩ ra ra chiêu Nhĩ tử ngã hoạt (người chết ta sống), tính toán kỹ luồng
lực đạo, bộ vị, phương hướng sao cho đâm một lần hai đầu mũi kiếm phải dính vào
nhau, hai thân kiếm nối thành một đường thẳng.
Những kiếm chiêu trong truyện võ hiệp Kim Dung được ông đặt tên rất hay: Thuận
thủy thôi chu (theo nước đẩy thuyền), Lãng tử hồi đầu (người trai ra đi đã quay
đầu lại), Thương tùng nghênh khách (tùng xanh đón khách), Trường Giang tam điệp
lãng (ba đợt sóng trên sông Trường Giang)... Đôi khi, có những chiêu kiếm phát
quá nhanh, máu không kịp chảy. Trong Lộc Đỉnh ký có nhân vật Phùng
Tích Phạm mang ngoại hiệu Nhất kiếm vô huyết (một đường kiếm không chảy máu).
Nói thì vậy nhưng khi Phùng Tích Phạm đánh Song Nhi, người hầu của Vi Tiểu Bảo,
đâm cô một kiếm, máu vẫn chảy ra như thường. Cho nên Vi Tiểu Bảo gọi giễu Phùng
Tích Phạm là Bán kiếm hữu huyết (nửa chiêu kiếm đã có máu). Có những chiêu phi
kiếm, phóng kiếm bay trong không gian để giết địch thủ. Có những chiêu hoán thủ
kiếm: kiếm đang cầm tay phải, đột ngột đổi qua cầm tay trái. Người ỷ có kiếm
trong tay chưa chắc đã thủ thắng. Tiểu anh hùng Hồ Phỉ trong Phi hồ ngoại
truyện học được phép Không thủ đoạt bạch nhận, chuyên dùng tay không đoạt
kiếm kẻ khác. Lệnh Hồ Xung có chiêu dùng ngón tay búng vào sống kiếm đối phương
cho kiếm văng đi. Nhậm Ngã Hành phát Phách không chưởng, chưởng lực đủ sức đánh
oằn thanh kiếm của địch thủ. Những kiểu mô tả vừa có cơ sở thực tế, vừa không
tưởng khiến chúng ta cảm thấy thú vị.
Nhưng thú vị nhất có lẽ vẫn là những trận đấu kiếm mà không có kiếm, không dùng
kiếm. Vương tử Đại Lý Đoàn Dự đã học được Lục mạch thần kiếm của chùa Thiên
Long, nước Đại Lý, dùng kình lực của nội công phát ra 6 ngón tay theo 6 đường
Thiếu dương, Thiếu âm, Thiếu xung, Trung xung, Thiếu trạch. Kiếm khí của anh ta
đánh cho Mộ Dung Phục tơi tả, hoảng hốt trước hàng vạn đôi mắt quần hùng tụ tập
tại chùa Thiếu Lâm. Hai trận đấu kiếm kỳ lạ nhất là hai trận đấu giữa Lệnh Hồ
Xung và Xung Hư đạo trưởng, chưởng môn phái Võ Đang. Lần thứ nhất, dưới chân
núi Võ Đang, Lệnh Hồ Xung và Xung Hư đứng cách nhau cả chục bước, chỉ lấy mắt
mà nhìn huyệt đạo của nhau. Ấy vậy mà Xung Hư chịu thua. Lần thứ hai, trong
chùa Thiếu Lâm, Lệnh Hồ Xung và Xung Hư đã rút kiếm ra nhưng Xung Hư chỉ đứng
xa Lệnh Hồ Xung và nghĩ ngợi, cuối cùng chịu thua. Ấy là vì cả hai chỉ đấu kiếm
ý chứ không đấu kiếm chiêu.
Kiếm là vũ khí nhưng những kiếm sĩ không lạm dụng kiếm chiêu để giết người. Đọc
văn Kim Dung, ta thường thấy những cụm từ "điểm tới là thôi", "đủ
phân thắng bại", “kiếm hạ lưu tình”. Người ta dùng kiếm để họp bạn và
những lần gặp gỡ như vậy được gọi là "luận kiếm". Người ta lỡ
tay dùng kiếm giết người không khỏi có điều hối hận, đau khổ. Cho nên, đã có những
kiếm sĩ của Kim Dung bẻ kiếm bên trời (thiên nhai triết kiếm), đã có
những người "rửa tay gác kiếm". Lại có những người treo kiếm lên
không dùng tới, dấu kiếm trong cây đàn, để kiếm hoài trong vỏ không rút ra được
nữa. Hà Túc Đạo trong Ỷ thiên Đồ long ký được xưng tụng là tam thánh:
Cầm thánh, Kỳ thánh, Kiếm thánh nhưng cuối cuộc đời, anh ta quay về đỉnh Kinh
Thần Phong ngoài núi Côn Lôn xa xôi vạn dặm, treo cây kiếm lên và lặng lẽ nhớ đến
cô bé Quách Tương 19 tuổi. Đã có một lần, Hà Túc Đạo vừa đấu kiếm chống 3 kẻ địch,
vừa phóng chỉ vào cây đàn để dưới đất, đàn cho Quách Tương nghe một cầm tấu
khúc mới nhất. Quách Tương nghe tiếng đàn và đỏ mặt lên, biết Hà Túc Đạo viết
khúc cầm phổ này để tặng cho mình. Họ chỉ gặp nhau một lần ngắn ngủi trong rừng
chùa Thiếu Lâm và xa nhau một đời. Làm sao mà cuộc đấu kiếm hung hiểm lại có thể
cùng diễn ra một lúc với cung đàn thanh thoát, trữ tình? Mặc kệ, Kim Dung cứ viết.
Ông đúng là nhà văn lãng mạn, lãng mạn ngay trong đường đao mũi kiếm. Và vì vậy
trong tác phẩm võ hiệp của ông, ngay những loại kiếm pháp, kiếm trận hung hãn
nhất vẫn luôn luôn lấp lánh những khúc tình ca.
Đao luận
Cũng như kiếm, đao là vũ khí chiến tranh cổ điển. Tuy nhiên,
đao đứng đầu trong 4 thứ vũ khí: đao, thương, kiếm, kích. Có trường hợp, đao
hình thành nên tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Trong ký ức của tôi, vẫn
còn in đậm nét người thiếu niên tiểu anh hùng Hồ Phỉ, cưỡi con ngựa trắng, cầm
cây đơn đao với sở học bài Hồ gia đao pháp từ đất Sơn Đông đi về Trung Nguyên
tìm cho ra kẻ thù đã giết cha mình. Đó là nội dung bộ Lãnh nguyệt bảo đao,
còn gọi là Thần đao Hồ đại đởm. Câu truyện về Hồ Phỉ như một huyền thoại
thật đẹp: tìm thấy kẻ thù rồi, Hồ Phỉ vẫn giơ cao lưỡi bảo đao lóng lánh dưới
bóng trăng lạnh, không nỡ chém xuống. Bởi anh nhận ra kẻ thù của mình là một
người chính nhân quân tử - Đả biến thiên hạ vô địch thủ kim diện Phật Miêu Nhân
Phượng. Bởi anh nhận ra kẻ thù của mình không cố tình giết cha mình ngày trước. Lãnh
nguyệt bảo đao kết thúc một cách đột ngột, lơ lửng; mênh mang tình nhân
ái, đức bao dung; trở thành bài ca thật đẹp của chủ nghĩa nhân đạo phương Đông.
Trong bộ Ỷ thiên Đồ long ký, hai chữ Đồ long là tên gọi của lưỡi bảo đao
mà mọi bang hội, võ phái giang hồ đời Nguyên thèm khát. Tại sao thế? Ngoài khả
năng chém sắt như chém bùn, bảo đao Đồ long còn mang trong thân nó một pho binh
thư tương truyền là của Nhạc Phi - danh tướng chống quân Kim đời Tống - để lại.
Đó là bộ Vũ Mục di thư. Chính quần hùng Minh giáo đã tìm thấy pho di thư
này, và với những bài bản chiến tranh của Nhạc Vũ Mục, họ đã tìm được lối thoát
khi quần hùng Trung Nguyên bị quân Mông Cổ vây hãm, tiến hành cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc Trung Hoa thoát khỏi ách thống trị tàn bạo của nhà Nguyên. Đồ
long (giết rồng) thực sự không nói về tính năng của lưỡi đao. Rồng đây chính là
Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt. Người làm ra cây đao Đồ long có khát vọng cao xa:
mong người yêu nước đời sau lấy được binh thư, đẩy được quân xâm lăng ra khỏi bờ
cõi, giết được vua nhà Nguyên để trả hờn cho trăm họ Hán tộc. lưỡi đao Đồ long
chính là biểu tượng của bài ca yêu nước mà mọi dân tộc bị áp bức, bóc lột đều
mong có được.
Lưỡi đao còn khá phổ biến trong 9 bộ tiểu thuyết võ hiệp khác của Kim Dung. Có
3 cách đánh đao: đơn đao, song đao và phi đao. Đơn đao là phép đánh đao của một
người. Song đao hay song đao hợp bích là phép đánh đao của hai người cùng học một
thầy, một sách liên kết để chống địch thủ. Phi đao là loại đao cực ngắn, không
dùng để đánh mà để phóng vào địch thủ. Để phóng được phi đao, khách giang hồ phải
đeo bao tay bằng sắt, gọi là thiết sam hay thiết bố sam. Những nhân vật sử đao
trong tác phẩm Kim Dung thường là nhân vật tay chân linh hoạt, cơ trí hơn người. Tiếu
ngạo giang hồ xây dựng nhân vật Điền Bá Quang, tay cầm ngọn đơn đao, ngày
chân đi ngàn dặm, nổi danh vạn lý độc hành với 13 đường khoái đao linh hoạt như
gió táp, mưa sa. Chính Lệnh Hồ Xung đã có dịp đánh và nhớ lại phương pháp khoái
đao của Điền Bá Quang. Chỉ trong một hơi thở, hắn đã đánh ra 13 thế khoái đao gồm
đông, tây, nam, bắc, tiền, hậu, tung, hoành rồi đà đao dừng lại, vững như núi
Thái Sơn. Hắn đánh nhanh đến nỗi Lệnh Hồ Xung nín thở và khi sư nương của Lệnh
Hồ Xung là Ninh Trung Tắc cố gắng biểu hiện lại đường khoái đao đó, Lệnh Hồ Xung
chỉ lắc đầu. Bà dùng kiếm, kiếm nhẹ hơn đao, đáng lẽ là đánh nhanh hơn đao.
Nhưng đường kiếm mô phỏng phép khoái đao của bà còn chậm nhiều so với đao pháp
của Điền Bá Quang. Về sau này, Lệnh Hồ Xung luyện được phép Độc Cô cửu kiếm do
Phong Thanh Dương truyền cho. Anh đem kiếm pháp này dùng vào phép đánh đao; cây
đao của anh là vũ khí đoạt được từ tay cẩu quan Ngô Thiên Đức. Anh đã cứu phái
Hằng Sơn bằng cây đao đánh theo kiếm pháp, nội công mạnh đến nỗi chưa kịp rút vỏ
đao ra khỏi lưỡi, phóng đao tới, đao khí đủ giết chết kẻ thù. Cây đao của Ngô
Thiên Đức là một cây đao cán dài (vì tướng quân thì phải đi ngựa). Lệnh Hồ Xung
kẹp đao trong nách, chìa cán ra phía sau, lấy cán đao làm vũ khí điểm huyệt. Trận
chiến cứu phái Hằng Sơn trong hang Long Tuyền chú kiếm cốc là trận chiến mà thắng
lợi thuộc về lưỡi đao rỉ sét của tham tướng Ngô Thiên Đức.
Cũng trong Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung giới thiệu cho độc giả một lưỡi
đao rởm đời. Đó là Kim đao Vương Nguyên Bá, ông ngoại của Lâm Bình Chi, một nhà
giàu bậc nhất thành Lạc Dương, lấy biểu trưng là lưỡi đao bằng vàng. Lệnh Hồ
Xung mất hết công lực, theo chân phái Hoa Sơn đến nhà này ăn báo cô mấy bữa.
Các con của Vương Nguyên Bá vu cáo Lệnh Hồ Xung ăn cắp Tịch tà kiếm phổ của
dòng họ Lâm, dùng cầm nã thủ bẻ trật hai khớp tay của Lệnh Hồ Xung, lục trong
người anh lấy ra bản cầm phổ Tiếu ngạo giang hồ mà chúng cho là kiếm pháp. Trước
nỗi oan của học trò, bà Ninh Trung Tắc đã đề nghị nhà họ Vương cùng đi đến ngõ
Lục Trúc, thành Lạc Dương nhờ Lục Trúc Ông xem thử đây là cầm phổ hay kiếm phổ.
Và cơ duyên này đã run rủi Lệnh Hồ Xung gặp được Thánh cô Nhậm Doanh Doanh.
Chính hôm tiễn Lệnh Hồ Xung ra đi, Lục Trúc Ông cũng ra một chiêu cầm nã thủ bẻ
trật 4 khớp xương tay của hai người con Kim đao Vương Nguyên Bá, trừng trị tội
hỗn láo với Lệnh Hồ Xung ngày trước.
Trong Hiệp khách hành, lưỡi đao lại nhuốm một màu hài hước thú vị và màu
hài hước đó được Kim Dung diễn đạt một cách điềm tĩnh lạ lùng. Đó là lưỡi đao của
Thạch Phá Thiên. Sử bà bà giận chồng là Bạch Tự Tại, chưởng môn phái Tuyết Sơn,
và cậu con trai Bạch Vạn Kiếm. Bà bỏ nhà ra đi, dẫn theo cô cháu nội A Tú mới
14 tuổi. A Tú gặp Thạch Phá Thiên, cả hai kết làm đôi bạn nhỏ. Để trừng trị chồng,
Sử bà bà lập ra một phái - phái Kim Ô; sáng tạo ra đường đao pháp mới: Kim Ô
đao pháp. Thử hỏi, phái Tuyết Sơn (núi tuyết) mà gặp phải Kim Ô (mặt trời) thì
số phận Tuyết Sơn sẽ ra sao? Trong khi con ruột của bà tên là Bạch Vạn Kiếm
(đánh ra 10.000 thế kiếm) thì bà nhận Thạch Phá Thiên làm đệ tử truyền nhân, đặt
tên là Sử Ức Đao (đánh ra 100.000 thế đao) và dạy cho Thạch Phá Thiên những
chiêu thức đao pháp hoàn toàn là khắc tinh của Tuyết Sơn kiếm pháp. Chàng thiếu
niên 15 tuổi chăm chỉ học hành, càng học càng giỏi nhưng chẳng hề hiểu rõ ý đồ
của sư phụ. Riêng Bạch A Tú thì hiểu tất cả. Cô biết bà nội mình đang muốn triệt
hạ ông nội và cha của mình. Thử hỏi, 10.000 thế kiếm mà phải chống đỡ với
100.000 thế đao thì số phận Bạch Vạn Kiếm sẽ ra sao? Cho nên, A Tú đã quỳ xuống
trước mặt Thạch Phá Thiên, xin chàng thiếu niên ngày sau nhiêu dung cho ông nội
và cha. Giữa cô bé và Thạch Phá Thiên đã có một chút tình cảm nhẹ nhàng vượt
qua tình bạn đơn thuần. Thạch Phá Thiên quí người bạn nhỏ, hứa với cô sẽ không
bao giờ sử ức đao của Kim Ô đao pháp để phá bạch vạn kiếm của Tuyết Sơn kiếm
pháp; rằng anh sẽ không bao giờ làm hại ông nội và ba cô. Và về sau, anh đã nối
kết được những tâm hồn lạc lõng của phái Tuyết Sơn, đem hạnh phúc đoàn tụ về
cho họ. Lưỡi đao của anh chẳng giết ai cả, chỉ nhằm cứu người, giúp đời. Đao gắn
liền với triết lý phương Đông.
Trong võ hiệp Kim Dung, có Lưỡng nghi đao pháp, Lục hợp đao pháp, Ngũ hổ đoạn
môn đao, Ngũ hành bát quái đao, Âm dương đao... những khái niệm triết học gắn
liền với đường đao cụ thể, buộc con người sử đao ít nhất cũng phải có một vũ trụ
quan, một nhân sinh quan để hiểu mình đang làm gì, phục vụ lợi ích nào. Đao gắn
liền với tình yêu đôi lứa. Hồ Phỉ cầm đơn đao đi từ đất Sơn Đông sang Trung
Nguyên, gặp gỡ Viên Tử Y. Cả hai đang tuổi vào đời, tình bạn cực kỳ thắm thiết,
tình yêu chỉ mới chớm nụ. Họ cùng đi, cùng ăn, cùng ở gần nhau trong ngôi cổ miếu,
trong quán lương đình nhưng vẫn giữ lòng trong sạch, không gợn chút bùn nhơ.
Trong Lộc Đỉnh ký, Mỹ đao vương Hồ Dật Chi là một nhân vật nức tiếng giang
hồ, đao pháp tinh kỳ, khuôn mặt đàn ông đẹp như ngọc. Hồ Dật Chi say mê một người
phụ nữ: Trần Viên Viên. Trần Viên Viên là hoa hậu trong làng kỹ nữ, từng là thứ
thiếp của vua Sùng Trinh cuối đời Minh mạt. Lý Sấm nổi loạn đánh Sùng Trinh, cướp
được Trần Viên Viên. Ngô Tam Quế phản Sùng Trinh, ép Sùng Trinh tự tử, đánh đuổi
được Lý Sấm, Trần Viên Viên thành vợ hờ của Ngô Tam Quế. Khi sang Vân Nam nhậm
chức Bình Tây vương của Khang Hy ban tặng, Ngô Tam Quế đã đưa Trần Viên Viên đi
theo, cho Viên Viên ở và tu hành trong một ngôi chùa nhỏ ngoại ô thành Côn Minh.
Viên Viên dốc hết cả lòng, hát Viên Viên khúc giãi bày tâm trạng hồng nhan trôi
nổi của mình. Mỹ đao vương Hồ Dật Chi say mê nhan sắc đó, tình nguyện bỏ lưỡi
đao giang hồ, trở về nơi Trần Viên Viên tu hành, làm một người quét rác trồng
hoa để được nghe Viên Viên hát. Trọn cuộc đời phục thị cho người đẹp, Mỹ đao
vương nghe được chừng ba bốn chục câu. Lòng say đắm nhan sắc cỡ Hồ Dật Chi đã mấy
ai trên đời có được.
Lưỡi đao gắn liền với tấm lòng nhân ái, tha thứ cho con người. Thiên Long
bát bộ thuật chuyện bang chúng Cái bang tụ tập chống lại bang chúa Kiều
Phong, phạm tội khi sư diệt tổ, phải lấy pháp đao ra hành hình. Nhưng bang qui
của Cái bang cũng có điều luật quy định bang chúa có quyền tự đổ máu mình để
chuộc tội cho thuộc hạ. Kiều Phong đã làm việc đó vì ông vốn thương yêu thuộc hạ.
Ông tự lấy dao đâm vào da thịt mình, xóa hết tội lỗi cho những kẻ đã mưu phản
ông. Câu chuyện làm ta nhớ đến tích Phật tổ tự cắt thịt mình cho chim ó ăn để cứu
lấy con thỏ vô tội.
Đao gắn liền với những cuộc chiến tranh giữ nước. Lộc Đỉnh ký thuật lại
chuyện quân dân đảo Đài Loan tiến hành cuộc chiến tranh chống sự xâm lược của
liên quân Hà Lan và Bồ Đào Nha - tiếng Trung Quốc gọi chung là Hồng mao quỷ.
Trước hỏa khí cực kỳ lợi hại của người Tây dương, người Trung Quốc đã tổ chức
những đội Đằng bài quân: toán trước dùng ván gỗ dầu quấn rơm che khít để chắn
súng đạn, toán sau chuyên sử đoản đao và đánh theo Địa đường đao pháp, chém vào
hạ bàn (chân cẳng) của địch. Kết quả là người Đài Loan đã đẩy lui được những đợt
tấn công của liên quân Tây dương. Học được kinh nghiệm đó, khi sang biên giới
Trung - Nga đánh nhau với quân Nga - mà người Trung Quốc gọi là quân La Sát -
tư lệnh Vi Tiểu Bảo đã tổ chức những toán Thanh binh chuyên đánh Địa đường đao,
tấn công chém chân ngựa của kỵ binh Kha Tát Khắc (Cosaque). Vi Tiểu Bảo báo
cáo: "Chém được mấy ngàn cặp chân lông lá" để ai hiểu sao thì hiểu
vì chân ngựa có lông mà chân của chiến sĩ kỵ binh Cosaque cũng có lông!
Đao là vũ khí để đấu tranh, để giết người. Nhưng trong truyện võ hiệp Kim Dung,
ít có ai bị giết, bị thương bằng đao. Kim Dung nhiều lần nhắc lại câu trong
kinh Phật: "Buông lưỡi đao đồ tể xuống sẽ thành Phật". Nhiều
nhân vật đã ngộ ra câu nói ấy, trong đó có cả Kim mao sư vương Tạ Tốn, một nhân
vật tàn độc trong bộ Ỷ thiên Đồ long ký. Trong tâm hồn tôi vẫn lấp lánh lưỡi
đao nhân ái của tiểu anh hùng Hồ Phỉ. Anh không nỡ chém lưỡi đao của mình xuống
thân thể kẻ thù Miêu Nhân Phượng. Dưới bóng trăng lạnh, lưỡi đao lấp lánh và dừng
lại ở khoảng không. Người đọc thở phào nhẹ nhõm, nhận ra được sự thắng lợi của
lòng nhân ái, của đức bao dung. Lãnh nguyệt bảo đao đúng là một tác
phẩm tiểu thuyết lạ lùng, khắc họa hình tượng lưỡi đao vừa đẹp, vừa thơ mộng. Hồ
Phỉ - con trai của Hồ Nhất Đao - đã làm một việc mà cha mình chưa làm được: tha
thứ cho kẻ thù và biểu dương chính nghĩa của đường đao hành hiệp, cứu người.
Cành mai trên Thiên Sơn
Thiên Sơn là tên một rặng núi hiểm trở thuộc khu vực ngoại Tân Cương, phía Tây
- Tây Bắc Trung Hoa, là biên giới thiên nhiên giữa Trung Hoa và Kirghizitan.
Không hiểu từ giấc mơ lãng mạn nào, nhà văn Kim Dung đã để cho chàng thiếu niên
Trương Vô Kỵ mới 15 tuổi dắt tay cô bé gái Dương Bất Hối 11 tuổi đi từ An Huy,
vượt qua khoảng 18.000 dặm lên tới đỉnh Côn Lôn trong rặng Thiên Sơn, giúp Bất
Hối tìm được người cha Dương Tiêu.
Cơ duyên đã đưa đẩy cậu bé gày gò Trương Vô Kỵ bò lọt qua một hang đá nhỏ, tìm
ra một thung lũng đẹp, học được thần công trong Cửu Dương kinh. Cơ duyên đã khiến
cậu bé ở đó năm làm bạn với cỏ cây, với khỉ vượn, rồi lên tới Quang Minh đỉnh
(đỉnh Pobedy cao nhất của Thiên Sơn - 7439 mét) nơi đặt tổng đàn của Bái hỏa
giáo (Minh Giáo) Trung Hoa, học được thần công Càn khôn đại nã di của Bái hỏa
giáo. Lại cũng chính cơ duyên đã đưa Trương Vô Kỵ - bấy giờ đã là chàng thanh
niên 20 tuổi - phải đối đầu với sáu đại môn phái Trung Hoa khi họ muốn tuyệt diệt
Bái hỏa giáo.
Kinh qua những đoạn đời đau khổ, chàng thanh niên đôi mươi đó đã đủ chín chắn để
biết tự dặn mình không được giết người, không được gây thù nhưng phải bảo vệ được
những tinh hoa của Bái hỏa giáo bởi vì họ là những người yêu nước, kháng
Nguyên.
Mùa xuân là mùa hoa mai nở. Hoa mai trên Thiên Sơn thích nghi với khí hậu giá lạnh
quanh năm, đến tháng 3, tháng 4 Dương lịch vẫn còn mãn khai. Trong tư duy lãng
mạn đậm màu sắc phương đông, tác giả Kim Dung đã để cho nhân vật của mình bẻ một
cành mai trên núi Thiên Sơn làm vũ khí chống lại song đao, song kiếm.
Vợ chồng Hà Thái Xung - Ban Thục Nhàn của phái Côn Lôn sử Chính Lưỡng nghi kiếm
pháp. Hai trưởng lão của phái Hoa Sơn sử Phản Lưỡng nghi đao pháp. Chính và phản
là hai mặt đối lập triệt để nhưng khi đã hợp bích thì oai lực mạnh vô song, bởi
nguyên tắc âm Dương tương điều, thủy hỏa tương chế. Chính biến của kiếm pháp có
64 thế, kỳ biến của đao pháp có 64 thế; 64 nhân cho 64 thành ra 4096 thế liên
miên bất tuyệt. Bốn địch thủ của Trương Vô Kỵ cụ thể hóa triết học phương Đông
thành bài bản chiến đấu: phía Nam quẻ Càn, phía Bắc quẻ Khôn, phía Đông quẻ Ly,
phía Tây quẻ Khảm. Ngoài bốn chính phương còn bốn bàng phương: Đông Bắc quẻ Chấn,
Đông Nam quẻ Đoài, Tây Nam quẻ Tốn, Tây Bắc quẻ Cấn. Chính lưỡng nghi kiếm pháp
của phái Côn Lôn đi từ Chấn vị tới Càn vị; phản Lưỡng nghi đao pháp của phái
Hoa Sơn đi từ Tốn vị tới Khôn vị. Chính đi thuận, phản đi nghịch; ai rơi vào thế
liên thủ giáp công của họ thì khó tránh được cái vòng biến ảo huyền diệu của
nguyên lý Âm Dương. Vô Kỵ biết rằng mình không đơn giản chỉ đấu với chính - phản
Lưỡng nghi mà đang đấu với một triết lý thực chứng của Đông phương. Anh đã nhớ
lại những lời đã học trong Cửu dương kinh: “Gió thổi qua mõm núi mặc cho nó
ngang tàng, ánh trăng vẫn chiếu trên sông lớn” và “Quý hồ ta vẫn giữ được một
hơi chân khí sung mãn”. Đó chính là nguyên lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong
tư duy Đông phương. Anh cũng nhận ra rằng chính - phản Lưỡng nghi thể hiện được
là do gốc ở bộ pháp. Bước chân của bốn đại cao thủ sẽ đi từ Qui Muội qua Vô Vọng,
Vô Vọng qua Đồng Nhân, Đồng Nhân qua Đại Hữu… Anh khéo léo sử phương pháp bốn lạng
chống ngàn cân, lấy cái nhẹ nhàng bay bướm để hóa giải cái cường mạnh, lấy chậm
để chế nhanh, lấy cái vụng về chế cái tinh xảo, lấy chiêu thức của người đẩy về
phá người. Trương Vô Kỵ sử dụng một cành mai tươi đẹp dịu dàng bay nhảy trong rừng
đao kiếm. Ấy thế mà cành mai không rụng lấy một bông! Vận dụng tư duy Đông phương
và tiểu thuyết một cách lãng mạn đến thế là cùng.
Trong văn chương và triết học Trung Hoa, mai được nâng lên bạn hữu của con người,
đứng đầu mai, lan, cúc, trúc. Chưa thấy tác phẩm nào nói chuyện con người sử
cành mai làm vũ khí để chiến đấu và chiến thắng, trừ bộ Ỷ thiên Đồ long ký của
Kim Dung. Tôi nghĩ tới một ý đồ khác của nhà văn. Ông cho cái đẹp chiến thắng
cái thô bạo; cái nhân tính tiềm ẩn trong cành mai chiến thắng cái tàn bạo tiềm ẩn
trong đao, kiếm; cái hồn hậu của tự nhiên chiến thắng cái cơ tâm của con người!
Quả thật lãng mạn khi nhà văn cho phép cành mai đấu với đao kiếm. Tôi cho rằng
tư duy lãng mạn đó chỉ có thể có trong tiểu thuyết phương Đông, trong triết học
phương Đông. Cả ba thứ cành mai, chính Lưỡng nghi kiếm pháp, phản Lưỡng nghi
đao pháp là những hình tượng mang nặng tính ẩn dụ.
Văn chương cho phép người ta bay bổng tuyệt vời mặc dù cả tác giả và độc giả đều
sống trên mặt đất. Tôi đọc hai thiên Tiêu dao du và Tề vật luận trong Nam hoa
kinh của Trang Tử rồi so sánh với cành mai dịu dàng thanh thoát trong Ỷ thiên Đồ
long ký và cảm thấy hạnh phúc vì cái đẹp còn tồn tại mãi bên đời chúng ta.
Thư pháp và Võ công
Hiểu một cách đơn giản, thư pháp là cách viết chữ của người Trung Quốc. Hiểu một
cách sâu hơn, thư pháp là những phép viết chữ để đạt đến một trình độ mỹ thuật
riêng của người Trung Quốc.
Không sử dụng tự dạng Latinh, Hán tự của người Trung Quốc có một lối cấu tạo chữ
viết đặc thù mà bản thân mỗi chữ có thể xem là một bức đồ họa riêng biệt bởi
các đường nét, độ đậm nhạt và phương pháp phóng bút của nó. Chính vì thế về tự
dạng đã là động lực cơ bản đưa những danh gia đến tham vọng hình thành một thư
pháp cho mình.
Theo sự phát triển của chữ viết Trung Quốc, thư pháp có 5 loại: Triện thư, Lệ
thư, Khải thư, Hành thư và Thảo thư. Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung thường nhắc đến
thư pháp của bốn nhà Tô, Huỳnh, Mễ, Xái. Nhưng điểm đặc biệt trong tiểu thuyết
võ hiệp Kim Dung là tác giả luôn luôn kết hợp với thư pháp với võ công và chính
sự kết hợp đó đã tạo ra một chiều sâu trí tuệ cho những tác phẩm, đem lại sự
thích thú cho người đọc.
Một trong những vũ khí chuyên sử dụng để điểm huyệt được nhắc đến thường xuyên
trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung là cây Phán quan bút (cây bút của viên quan
chấp pháp, xử kiện). Phán quan bút cũng có hình dạng như cây bút lông nhưng đầu
của nó bắng kim loại, nhọn, nhắm đánh vào các huyệt đạo trên người địch thủ.
Lãng mạn hơn, Kim Dung cho những nhân vật của mình sử dụng phán quang bút đánh
theo từng nét trong từng chữ của những bài thơ, bài từ trong khi lâm địch như một
đường kiếm pháp hay đao pháp.
Thư pháp gắn liền với võ công đến nỗi chúng tạo cho ta cái cảm giác không thể
phân biệt đâu là thư pháp, đâu là võ công. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, chưởng
môn phái Võ Đang Trương Tam Phong có kỹ thuật sử dụng ngón tay (chỉ) viết chữ
vào khoảng không. Trương Tam Phong mô phỏng thư pháp của Vương Hy Chi đời Đông
Tấn để viết Tán Loạn thiếp để giải tỏa toàn bộ mối lo lắng của mình
khi một người học trò cưng bị kẻ địch đánh gãy hết các khớp xương. Trương Tam
Phong viết vào khoảng không 24 chữ của bài ca Ỷ Thiên Đồ Long: Võ lâm
chí tôn Bảo Đao Đồ Long Hiệu lệnh thiên hạ Mạc cảm bất tòng Ỷ thiên bất xuất
Thùy dữ tranh phong. Người đệ tử thứ năm là Trương Thúy Sơn cố gắng học và ghi
nhớ thư pháp Tán loạn của thầy. Anh biết trong ngón tay biến hóa kỳ ảo
đó ẩn tàng một môn võ công vi diệu. Và anh gọi tên nó là Đồ Long công. Về
sau khi xuống núi Trương Thúy Sơn sử dụng Đồ Long công chuyển thành
quyền pháp đánh nhau với các vị sư chùa Thiếu Lâm tại phủ Lâm An, Giang Nam và
đã chiến thắng. Trương Thúy Sơn là một hào kiệt nho nhã, say mê thư pháp. Bên
sông trong cơn mưa, Trương Thúy Sơn đã gặp được Hân Tố Tố, con gái của giáo chủ
Bạch Mi giáo, được Tố Tố cho mượn chiếc dù che mưa. Trên chiếc dù ấy, Tố Tố đã
viết 7 chữ “Tà phong tế vũ bất tu quy” (gió nghiêng mưa nhẹ chẳng nên
về) và Tố Tố đề nghị Thúy Sơn nhận xét cho chữ “bất” vì theo cô chỉ có chữ này
là cô viết tệ nhất. Thúy Sơn khen chữ “Bất” ấy là dư vận bất tận, càng xem càng
quên cả mỏi mệt. Chính nhận xét ấy lại rất hợp ý Hân Tố Tố. Và họ thương yêu
nhau, đơn giản qua nét bút của thư pháp viết trên chiếc dù. Trên Vương Bàn Sơn
sông Tiền Đường. Trương Thúy Sơn phải đối đầu với một địch thủ hùng mạnh là Tạ
Tốn. Để tự cứu mình, Trương Thúy Sơn đề nghị Tạ Tốn thi... viết chữ. Dùng phán
quan bút, Thúy Sơn đã viết lên đá 24 chữ của Đồ Long công theo bút
pháp Tán loạn đã học được của thầy. Hai mươi bốn chữ ấy là một môn võ
công bao gồm âm dương, cương nhu, tinh thần, khí thế; hùng biện, sắc bén như
dao như kiếm. Thấy chàng thư sinh biểu diễn thư pháp Tán loạn, Tạ Tốn phải
gật đầu công nhận mình thua.
Tiếu ngạo giang hồ ký thuật lại câu chuyện thú vị của Hướng Vân Thiên,
Quang Minh tả sứ của Triệu Dương thần giáo, dẫn Lệnh Hồ Xung đến Cô Mai sơn
trang khiêu khích bọn Giang Nam tứ hữu. Hướng Vân Thiên đã khoe bức tranh “Bắc
Tống Phạm Trung Lập khê sơn hành lữ đồ" trong đó vẽ tòa núi cao ngất
trời, thanh thế mười phần hiểm tuấn; một bức thảo thư mà mỗi chữ một nét như rồng
bay phượng múa. Ở đây Phạm Trung Lập đã mô phỏng bút pháp của Trương Húc đời Đường.
Bức thảo thư có khí tượng của một môn khinh công của một võ lâm cao thủ. Trong
Giang Nam tứ hữu có nhân vật Ngốc Bút Ông là một danh gia sử phán quan bút.
Khác với những người sử phán quan bút bình thường, Ngốc Bút Ông dùng đầu bút là
loại lông dê mềm, tự hòa một loại mực rất lạ, hễ thấm vào da thịt ai là ăn
luôn, không tẩy rửa được. Công lực của lão thượng thừa nên khi lão phóng bút viết
vào khoảng không, kình lực tuôn ra đầu ngòi bút veo véo. Đấu với Độc cô cửu
kiếm của Lệnh Hồ Xung, Ngốc Bút Ông viết bài "Bùi tướng quân
thi" theo thư pháp Nhan Châu Khanh: Đại quân chế lực hợp Mãnh
tướng thanh cửu cai Chiến mã như long hổ Đằng lăng hà tráng tai. Lệnh Hồ Xung sử Độc
Cô cửu kiếm, kiếm ý đi trước bút pháp của Ngốc Bút Ông, phong tỏa toàn bộ bút
pháp đắc ý của lão khiến lão đâm ra bực bội. Mà đại phàm, khi cầm bút viết chữ
mà lòng bực bội thì chữ nghĩa chẳng ra làm sao cả. Ngốc Bút Ông chuyển sang thư
pháp Đại Thảo, một dạng thư pháp đặc biệt của Trương Phi (Trương Dực Đức)
đại tướng của Tây Thục. Lão viết liền 4 chữ Bát mông sơn minh, khí thế Đại
thảo liên hoàn như tuốt kiếm giương cung. Rồi lão lại chuyển sang Đại thảo theo
phong cách của Hoài Tố viết tự sự thiếp, bút pháp cực kỳ phức tạp. Mặc cho lão
biến bút pháp, Lệnh Hồ Xung cứ lựa chỗ sơ hở của lão mà phát chiêu, kiếm thế nhẹ
nhàng nhưng cực kỳ thần tốc. Ngốc Bút Ông bị phá sản bút pháp, sinh ra uất hận.
Lão đổ 1 hũ rượu Bồ đào xuống đất, chấm rượu viết lên tấm vách 23 chữ của
bài Bùi Tướng Quân thi (trong đó có 3 chữ tên tác giả). Kim Dung mô tả
23 chữ ấy đẹp và dũng mãnh như muốn xé tấm vách mà bay đi.
Nét chữ thể hiện tính cách riêng của từng con người, trở thành vốn liếng riêng,
đặc điểm riêng giúp ta xác định được chính người này chứ không phải người kia
viết. Từ sự xác định ấy, người ta khám phá ra những bí mật đằng sau cuộc sống,
đặc biệt là cuộc sống tâm linh. Đã có hai trường hợp như vậy được Kim Dung xây dựng
trong tác phẩm của mình. Trong Tiếu ngạo giang hồ ký, khi Nhạc Linh San đã
chết, Lệnh Hồ Xung trở lại Hoa Sơn, tìm vào thăm căn phòng xưa của Nhạc Linh
San. Anh chợt nhìn bức thiếp thư do chính Nhạc Linh San viết, nội dung là bài
thơ của Lý Thương Ẩn: ... Nhớ xưa luyến ái Hàn công tử Xương trắng thành
tro hận chửa tan. Và Lệnh Hồ Xung chợt hiểu ra rằng sau đám cưới với Lâm Bình
Chi, Nhạc Linh San vẫn yêu mình. “Hàn công tử” đây chính là Lệnh Hồ Xung! Và từ
đó, Lệnh Hồ Xung càng cảm thấy thương yêu người sư muội bạc phận hơn. Thư pháp
đã thể hiện tâm tình, trở thành một thứ giác thư của tình yêu đôi lứa mà người
nào không có tâm tình thì vĩnh viễn không nhận ra được.
Trường hợp thứ 2 được thuật lại trong Thiên Long bát bộ, khi Tiêu Phong về
ngồi trong căn phòng riêng của Nguyễn Tinh Trúc (mẹ của người tình A Châu) ở Tiểu
Kính hồ, Giang Nam. Ông đọc bức thiếp thư trên vách và khám phá ra thủ bút mềm
mại, uyển chuyển của Đoàn Chính Thuần, khác hẳn nét chữ của “thủ lĩnh đại
ca" viết thư gửi cho Uông Kiếm Thông bàn chuyện về cái chết của cha mẹ
Tiêu Phong và số phận Tiêu Phong. Lập tức Tiêu Phong hiểu ra mình bị Ôn Khang lừa,
Đoàn Chính Thuần không phải là “thủ lĩnh đại ca”; Tiêu Phong đã giết oan người
tình Đoàn A Châu rồi. Chính từ sự tỉnh ngộ này mà Tiêu Phong bỏ ý định tự vẫn,
quyết sống để tìm ra gã “thủ lĩnh đại ca” giấu mặt ấy, trả hờn cho cha mẹ và
cho cả A Châu. Bức thiếp thư trở thành một bằng chứng giúp Tiêu Phong phá án.
Và ông đã tìm ra kẻ đại cừu của mình.
Cũng trên cơ sở thư pháp, Kim Dung đã xây dựng hai nhân vật dốt nát chơi thư
pháp. Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh ký đã đọc văn bia viết bằng Giáp
cốt văn, thứ văn tự tối cổ của Trung Quốc để đánh lừa Lục Cao Hiên và Ủy tôn giả,
và qua hai nhân vật này lừa luôn giáo chủ Thần long giáo Hồng An Thông. Thật ra đến Khải
thư, tức chữ chân phương, Vi Tiểu Bảo còn đọc không ra, huống chi nói đến Giáp
cốt văn, Khoa đẩu văn tối cổ. Chẳng qua là khi bị bắt, Vi Tiểu Bảo phải
dùng đến thói lưu manh để đánh lừa Thần long giáo và những trò bịp bợm đó đã được
những kẻ nịnh bợ giáo chủ biết nhưng lỡ nịnh bợ rồi cứ phải gọi đó là chuyện có
thật. Đó là một thứ “thắng lợi tinh thần” hiện đại; phải lừa nhau như thế mới
giữ được ngôi vị, giữ được cái đầu trên cổ.
Thạch Phá Thiên trong Hiệp khách hành là một chàng trai thất học, không
biết một chữ nào. Ấy thế mà trên đảo Long Mộc, chàng trai phải đối diện với Khoa
đẩu văn. Không cần biết hàng chữ Khoa đẩu văn ấy viết nội dung gì,
chàng trai chỉ quan tâm đến tự dạng. Khoa đẩu văn tức chữ con nòng nọc,
rất gần gũi với tuổi thơ của Thạch Phá Thiên ở vùng hoang sơn dã lĩnh. Cứ xem tới
nét nào thì huyệt đạo của Thạch Phá Thiên tự vận động tới đó và chỉ cần làm như
thế, chàng trai dốt nát đã khám phá ra được toàn bộ bí quyết của võ công Hiệp
khách hành. Nếu Lý Bạch sống lại được, chắc hẳn ông phải khen hậu bối Kim Dung
lỗi lạc hơn ông rất nhiều: chẳng cần biết Hiệp khách hành viết cái
gì, chỉ cần biết Hiệp khách hành viết như thế nào, nghĩa là chỉ dừng
lại ở ngoại quan thư pháp mà không cần đi vào nội hàm tư tưởng, là đủ. Nhân loại
đã khổ quá nhiều vì những cái lưỡi dối trá, những suy diễn dài dòng văn tự.
Thế mạnh của văn tự Trung Quốc là đã hình thành được những trường phái thư pháp
đặc dị, mở ra một khuynh hướng mỹ thuật lạ lùng. Kim Dung đã lợi dụng thế mạnh ấy
và lãng mạn hơn, đem thế mạnh ấy kết hợp với võ công. Hai phạm trù, một võ, một
văn, tưởng như mâu thuẫn nhau tột cùng, lại được kết hợp một cách hài hòa, tài
hoa. Văn chương của các bậc tiền bối Trung Quốc chưa làm được điều ấy; chỉ đến
Kim Dung mới có thể làm được. Đó chính là sự sáng tạo độc đáo trong văn chương
tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung.
Suy niệm ký tiểu hữu
Tôi đang ngồi trên bãi biển Nha Trang. Mùa xuân, trời thật đẹp nhưng biển chiều
vẫn mang theo cái vẻ u uất, trầm tư ngàn đời của nó. Bỗng dưng, tôi chợt nhớ đến
đoạn Tiểu Siêu chia tay Trương Vô Kỵ trên biển, đoạn văn mà tôi cho là đẹp nhất,
xúc động nhất trong Ỷ thiên Đồ long ký. Mối tình thơ ngây ấy của Tiểu Siêu
đã bị ngăn trở bởi hàng rào tôn giáo, cô phải hy sinh để cứu mạng sống và chuộc
lại lỗi lầm cho mẹ mình. Ngôi vị dành cho cô tạ Ba Tư là giáo chủ Bái hỏa giáo,
biểu tượng của một thứ quyền lực và vinh quang tột đỉnh mà mọi cô gái đồng
trinh đều mơ ước. Nhưng thực chất, làm giáo chủ Bái hỏa giáo Ba Tư hạnh phúc
hơn hay làm người tình nhỏ của Trương Vô Kỵ ở Trung Hoa để suốt đời được cùng
nhau phiêu bạt giang hồ là hạnh phúc hơn? Tiểu Siêu thích cái thứ hai nhưng bắt
buộc phải chọn cái thứ nhất. Sự mâu thuẫn giữa tình yêu và tôn giáo, giữa tình
yêu và bổn phận làm con đã được đẩy lên đến đỉnh điểm. Điều đau xót nhất trong
mối tình đầu đã có thể làm Tiểu Siêu nổ tung ra được, chết đi tức khắc được. Có
hiểu được cái uyên nguyên sâu xa ấy chăng, hỡi biển của đời tôi?
Có một lần, tôi lên Gia Lai, dừng chân lại trên đỉnh đèo Krong Buk giữa biển
sương khói mênh mông, lạnh buốt của một sáng cuối đông. Tôi đứng dưới những cụm
sơn tùng và chợt nhớ đến nỗi cô đơn của Hà Túc Đạo, được Kim Dung viết trong đoạn
lung của Ỷ thiên Đồ long ký. Từ đỉnh Kinh Thần Phong trên Thiên Sơn, Hà Túc Đạo
với một cây đàn, một thanh kiếm lãng du về Trung Nguyên. Dừng chân giữa rừng
bách ở ngoại vi chùa Thiếu Lâm, tỉnh Hồ Nam, Hà đánh đàn một mình cho chim
nghe, chống kiếm than thở một mình về tình yêu, về cuộc sống. “Hỡi ơi, nước
xanh, đá trắng sao rời rạc nhau đến như vậy” - đó không chỉ là tiếu kêu
thương cô đơn của riêng Hà Túc Đạo, của riêng Kim Dung mà là của tất cả mọi con
người cô độc trên thế gian. Nước xanh chảy mãi, ra đi; đá cuội trắng vẫn còn ở
lại. Tình yêu là như thế, chỉ đơn giản là nguồn suối đem lại cho đời nỗi ngậm
ngùi vì rời rạc nhau.
Hà Túc Đạo đánh cờ một mình, bán cầu não bên trái đánh với bán cầu não bên phải.
Cho đến khi thế cờ ở vào chỗ bế tắc, tiến thoái lưỡng nan, Hà như rơi vào một
mê hồn trận. Mê hồn trận ấy chính là nghiệp chướng do Hà Túc Đạo tạo ra và bước
vào. Để cứu người anh hùng đơn độc, Quách Tương đã mách nước: “Sao tiên
sinh không bỏ Trung Nguyên mà quay về Tây Vực?”. Một lời chỉ điểm đơn giản đã
giúp Hà Túc Đạo nhận ra biện pháp giải tỏa bế tắc trong đại cục của đời mình, của
tư tưởng mình. Chàng trung niên khen hay và cám ơn người bạn mới nhỏ tuổi.
Năm ấy, Quách Tương mới 16 và Hà đã gần 40. Phiêu bạt một đời mới tìm ra bạn ngọc,
anh chàng sáng tác một bản đàn để đàn cho Quách Tương nghe lòng thương nhớ cảm
phục của mình. Bản đàn ấy vang lên trong một trận đấu tranh dữ dội; Quách Tương
nghe và đỏ mặt lên vì nhận ra tiếng nỉ non của tình yêu. Hà Túc Đạo nhớ thương
cô nhưng cô chỉ nhớ thương Dương Qua. Cuộc gặp gỡ giữa cô và Hà chỉ là cái
duyên không hẹn trước, chỉ như là nước xanh và đá trắng rời rạc nhau. Cô bỏ đi
tu, còn Hà quay về đỉnh Kinh Thần Phong, bỏ Trung Nguyên về Tây Vực đúng như thế
cờ dang dở.
Đêm ngồi ở Rạch Giá, Kiên Giang, trông ngàn sao lấp lánh trên biển, tôi chợt nhớ
đến Nghi Lâm cởi rồi thắt lại giải áo để cầu nguyện cho mình được sống bên cạnh
Lệnh Hồ Xung (Tiếu ngạo giang hồ). Nghi Lâm, cô sư nữ lỡ vướng vào ma chướng của
tình yêu nhưng vẫn một lòng thủy chung cùng Bồ Tát. Mâu thuẫn tình yêu và tôn
giáo đã xé nát lòng cô sư nữ ấy. Cho nên mới có một sự dung hòa hi hữu trên đời:
tiếng kinh tụng niệm Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn lại mang theo âm hưởng
dịu dàng, trữ tình, say đắm của tình yêu. Có một cái gì đó đã không thể gặp gỡ
và Nghi Lâm cố gắng biến nó thành ra cái có thể gặp gỡ được. Nội dung lời kinh
là tôn giáo mà âm hưởng tụng niệm, diễn đạt lại là tình ca.
Tôi yêu hệ thống tư tưởng của đạo Phật. Một lần lên Thiền Lâm, tôi ngồi với vị
sư già, ngỏ ý xin ngài chỉ cho tôi một con đường đi để được xa cuộc sống mà vẫn
rất gần với cuộc sống. Tôi nhớ đoạn Kiều Phong lên núi Thiên Thai, tìm nhà sư
Trí Quan để xin cho ông biết chân diện mục của mình. Trí Quan cho Kiều Phong biết
Kiều Phong là người Khất Đan, không phải họ Kiều mà là họ Tiêu - Tiêu Phong. Nhà
sư đọc: Khất Đan với Hán nhân Bất luận giả hay chân Ân oán cùng vinh nhục
Không hơn đám bụi trần. Rồi nhắm mắt nhập định và viên tịch. Tôi chọn hai
câu thơ sau trong bài thơ này để làm hướng xuất xử cho cuộc đời.
Thượng tọa dạy tôi: “Nghiệp duyên của đạo hữu với cuộc đời còn nặng lắm. Đạo
hữu cứ sống an nhiên, là, hết các công việc của mình, đem hết trí tuệ tuôn ra
ngòi bút để phục vụ cho cuộc sống. Đạo Phật chủ trương “Duy tuệ thị nghiệp”. Phật
tính nằm ngay trong công việc, trong lối sống chứ không hẳn là nằm trong Thiền
viện, trong cuộc thanh tu. Còn khi nào tâm hồn xót xa, trí lực mệt mỏi, đạo hữu
hãy tìm đến với thầy”. Khi tôi bạch Thượng tọa xin phép ra về, ngài còn dặn: “Ai
cũng có thể nói tu là cõi phúc, tình là dây oan. Nhưng tu sẽ không phải là cõi
phúc nếu người ta còn sân si trong đường tu, tình sẽ không là dây oan nếu người
ta không tạo ra những oan trái. Cả tu với tình đều có thể là cõi phúc, đều có
thể là dây oan. Thầy đã đọc gần như đầy đủ cả ngàn bài viết của đạo hữu và nhận
ra chất nhân hậu trong từng bài, từng câu. Hãy phát triển hơn nữa cái tâm từ bi
trong ngòi bút”. Lời dạy của vị Thượng tọa 87 tuổi quả thật là dòng nước
cam lồ tưới mát lòng tôi.
Một đêm tháng 7, tôi lên rừng Phước Sơn (Lâm Hà, Đà Lạt), đúng 12 giờ khuya.
Đêm nằm trong lán tranh nghe mưa rơi tầm tã ngoài trời, lạnh quá không ngủ được,
tôi chong đèn và đọc Kim Dung. Lần này tôi mang theo Liên thành quyết, giở
ra đúng đoạn Thủy Sinh một mình ra Quan ngoại, sống trong sơn cốc bốn bề mênh
mông tuyết phủ, chở Địch Vân trở lại. Những nhân vật nữ của Kim Dung thật thông
minh và cũng thật lãng mạn. Họ sẵn sàng đi mấy ngàn dặm ra ngoài quan ải - bây
giờ thuộc Đông bắc Trung Quốc, sống một mình trong hang đá lạnh lẽo đời tình
quân về từ sự suy đoán riêng của họ, Thủy Sinh trong Liên thành quyết, A
Châu trong Thiên Long bát bộ suy đoán thế nào chàng Địch Vân, chàng
Kiều Phong cũng sẽ trở lại. Và cám ơn trời, cái hạnh phúc ấy đã thực sự xảy ra.
Hay nói ngược lại, nếu Thủy Sinh, A Châu đi mấy ngàn dặm ra Quan ngoại chờ mà
tình quân không trở lại, chắc họ sẽ đau đớn, sẽ ngậm ngùi mà chết đi trong nỗi
tuyệt vọng. Tác giả đã để cho Địch Vân, Kiều Phong trở lại. Giữa tuyết trắng
mênh mông lạnh buốt của thảo nguyên, bóng người về trở thành ngọn lửa sưởi ấm
trái tim những người khao khát tình yêu.
Người về Quan ngoại chính là bản tình ca, là chủ nghĩa nhân đạo phương Đông. Có
lứa đôi đoàn viên hạnh phúc như Thủy Sinh - Địch Vân. Có lứa đôi tan nát, bất hạnh
như Kiều Phong - A Châu. Nhưng bản tình ca nào cũng sáng lên rực rỡ cái đẹp phẩm
giá con người, của sự thủy chung, của lòng chân thật. Đêm Đà Lạt lạnh buốt mà
lòng tôi vẫn cảm thấy ấm áp khi Thủy Sinh choàng tay ôm lấy Địch Vân.
“Huyền tẫn” là một khái niệm sâu xa trong triết lý của Lão giáo. “Huyền tẫn” có
nghĩa là nguyên lý mẹ, nguyên lý tìm về giống cái, cội nguồn của sự sinh nở, của
đời sống. Hãy nhìn lại mà xem, các dân tộc phương Đông tôn thờ và kính trọng
các nữ thần biết bao nhiêu: Tây Vương Mẫu, Nữ Oa ở Trung Hoa; Thái Dương thần nữ
ở Nhật Bản; Shiva ở Ấn Độ; mẹ Âu Cơ ở Việt Nam. Bởi vì họ là Mẹ của muôn loài,
là chất ngọc của giống cái, là biểu trưng của văn minh phồn thực. Yoni - hình ảnh
bộ phận sinh dục nữ, đã được tạc thành totem để thờ phượng, kính ngưỡng. Thông
qua các nhân vật nữ xinh đẹp, tài hoa và lãng mạn của Kim Dung, thông qua những
hình bóng phụ nữ cụ thể trên đời, tôi cũng cất công đi tìm chất ngọc, đi tìm
“Huyền tẫn” của chính mình. Mười hai năm trước, mẹ tôi qua đời, tôi cảm thấy bơ
vơ như đứa trẻ lên ba dù tuổi tôi đã 40. Cái quyết định tâm linh một người đàn
ông chính là người phụ nữ mà người đàn ông ấy tôn thờ, thương yêu, kính trọng
nhất. Mẹ tôi chính là người phụ nữ như thế. Và tôi đọc Kim Dung, bàn về những
khía cạnh khác nhau trong tiểu thuyết của nhà văn phương Đông tầm cỡ này cũng
là đi tìm “Huyền tẫn” của mình.
Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn cùng vào một tiệm cơm nhỏ, lựa một chiếc bàn khiêm tốn
và gọi mấy món thức ăn với một bình rượu đối ẩm. Sau đó, Trương Vô Kỵ đưa quần
hùng Minh giáo đến tấn công chùa Vạn Pháp do Triệu Mẫn chỉ huy để cứu các hào
kiệt Trung Nguyên đang bị Triệu Mẫn giam giữ. Cuộc chiến đấu thành công, Triệu
Mẫn phải gánh chịu sự thảm bại lớn nhất trong đời cô. Đêm ấy, Triệu Mẫn tìm vào
quán cơm xưa, chọn đúng chiếc bàn cũ, cũng kêu đúng các món ăn cũ, bình rượu,
hai cái cốc, hai cái chén và hai đôi đũa. Cô rót rượu ra hai cốc thì bỗng dưng…
Trương Vô Kỵ xuất hiện. Họ lặng lẽ đối ẩm như ngày nào mà không hề nói đến cuộc
chiến một mất một còn ở chùa Vạn Pháp. Tôi cũng mong những lứa đôi trên đời này
có được những bữa ăn ấm cúng tình yêu như vậy.
Tiếu ngạo giang hồ
Cách đây trên 30 năm, Tiếu ngạo giang hồ đã đến với bạn đọc miền Nam
(1967). Nhưng đó là một Kim Dung feuilleton, một Kim Dung tác chiến mỗi ngày
khoảng 1.500 chữ để đăng trên Minh báo, một Kim Dung đi máy bay từ Hồng kông qua
Việt Nam mỗi ngày, được dịch ra Việt ngữ đăng đại trà trên những nhật báo Sài
Gòn. Luật sư Nguyễn Văn Tầm, Đoàn Luật sư tỉnh An Giang, nhớ lại: ngày ấy, ông
còn học ở đại học Luật khoa và chính ông là thư ký giúp dịch giả Hàn Giang Nhạn
dịch những tác phẩm của Kim Dung. Trong căn gác nghèo trên đường Vườn Chuối, dịch
giả Hàn Giang Nhạn đọc tờ báo đến đâu, dịch ra đến đó. Chàng sinh viên Nguyễn
Văn Tầm lót 10 tờ pelure và 9 tờ giấy than, viết lời dịch của Hàn tiên sinh bằng
một cây bút bic. Ở phía dưới căn gác, hàng chục ông tùy phái của hàng chục tờ
báo ngồi đợi… Tiếu ngạo giang hồ. Viết xong bản dịch, chàng sinh viên Nguyễn
Văn Tầm đem xuống phân phát cho từng người. Ai may mắn lấy được những bản phía
trên còn đọc ra chữ, ai lãnh những bản phía sau chỉ còn cách xem chữ đoán ý.
Trên cơ sở tập đại thành những hồi, những đoạn đã được đăng báo, Tiếu ngạo
giang hồ được in lại thành sách - một Kim Dung feuilleton. Nguyên
tác Tiếu ngạo giang hồ của Kim Dung do Minh Hà xã in năm 1997 hoàn
toàn mới lạ, khác hẳn Tiếu ngạo giang hồ đã từng có trên báo chí Sài
Gòn trước đây. Kim Dung đã mạnh dạn cắt bỏ một số đoạn mà ông xét thấy là không
cần thiết. Thí dụ như ông đã cắt bỏ khoảng 3.000 từ ngay trong hồi đầu có nội
dung giới thiệu về quan hệ gia tộc, võ công, sự nghiệp kinh doanh và oai lực của
Phước Oai tiêu cục thành Phúc Châu. Ông cũng bỏ hẳn đoạn Nhạc Linh San trong
vai cô gái bán rượu xấu xí cứu Lâm Bình Chi bằng cách cho chàng uống rượu pha
thuốc có dược tính thật mạnh mà thay vào bằng một đoạn mới với những tình tiết
hợp lý hơn, hấp dẫn hơn. Ngày trước, ông đã để cho Đại tung dương thủ Phí Bân
phái Tung Sơn chết đi rồi sống lại, bây giờ tình huống đáng tiếc đó không còn nữa.
Ông thận trọng ra từ câu, chỉnh từng ý, xem lại từng tình huống tiểu thuyết.
Cho nên, bản dịch mới trên nền tảng bản chỉnh lý năm 1997 là một bản dịch mới lạ.
Chúng tôi xin dịch lại Tiếu ngạo giang hồ với tham vọng giới thiệu
cùng bạn đọc Việt Nam yêu tài năng Kim Dung, một Kim Dung văn học. Khái niệm
văn học ở đây gói gọn trong ngữ nghĩa văn học tiểu thuyết võ hiệp. Trong sự
nghiệp trước tác đồ sộ của Kim Dung, chúng tôi gọi Tiếu ngạo giang hồ là
một siêu phẩm. Toàn bộ tác phẩm gồm 40 chương hồi. Tuy nhiên, tác phẩm lớn
không phải ở chỗ dài hơi đó. Nó lớn vì chiều sâu kiến thức hàm chứa ngay trong
tác phẩm. Hai trong ba nguồn tư tưởng lớn của triết học phương Đông - Phật giáo
và Lão giáo - đã được Kim Dung hình tượng hóa và cụ thể hóa qua những hình tượng
văn học. Phương Chứng đại sư chùa Thiếu Lâm là con người tiêu biểu của tư duy
Thiền tông Phật giáo. Với một căn bản võ công trác tuyệt, một tâm địa từ bi,
nhà sư gần như đã góp phần hóa giải những hận thù, chia rẻ, sân si. Định Nhàn,
Định Dật phái Hằng Sơn là một dạng Phật giáo khác, một Phật giáo nhập thể và nhập
thế. Họ hàng phục yêu ma bằng chính cái tâm hòa bình trung chính của người đi
tu. Họ áp dụng nguyên tắc Miên lý tàng châm (Trong cái gối bông mềm có chứa cây
kim). Họ không đánh ai nhưng ai đánh họ thì bị kim đâm, càng đánh mạnh thì vết
thương càng nặng. Họ lập ra kiếm trận là để tự giữ mình, chống cự ngoại địch chứ
chẳng để bao vây ai, tiêu diệt ai.
Nhưng điểm đặc sắc nhất vẫn là tư duy Lão - Trang qua đường Độc Cô cửu kiếm.
Phong Thanh Dương đã dạy Lệnh Hồ Xung “Dĩ vô chiêu thắng hữu chiêu”. Trong
thế kiếm hữu chiêu, vì có chiêu thức cho nên để phát ra được chiêu thức ấy, con
người phải có bộ vị, có ni tấc. Và quan điểm của Phong Thanh Dương là nên đánh
ngay vào thời điểm chuẩn bị bộ vị, ni tấc đó. Kiếm phải phát theo ý và kiếm sĩ
phát triển kiếm ý chứ không sử dụng kiếm chiêu. Nói cách khác, người sử kiếm chứ
không phải kiếm sử người và cần đến một phong thái ung dung, liên tục như nước
chảy mây trôi trong khi giao đấu với địch thủ. Cách dạy của Phong Thanh Dương lại
vô cùng phù hợp với tâm tính lãng mạn của Lệnh Hồ Xung. Điều này làm ta nhớ đền
chương “Thuyết kiếm” của Trang Tử. Lão - Trang chủ trương Vô vi
(không làm). Không làm nhưng không có gì là không làm (Vô vi nhi vô bất vi).
Chính trên nền tảng đó, đạo trưởng Xung Hư, chưởng môn phái Võ Đang, nhân vật đại
biểu của tư tưởng Lão - Trang, đã gắn bó cuộc đời mình với sự thịnh suy, hưng
vong của võ lâm Trung Hoa. Cũng chính trên nền tảng đó đã có một cuộc đấu kiếm
kỳ lạ xảy ra: Lệnh Hồ Xung và Xung Hư đấu kiếm mà không dùng đến kiếm, chỉ lấy
mắt ngó nhau, cuối cùng, Xung Hư đành nhượng bộ.
Tiếu ngạo giang hồ lặng lẽ đưa người đọc đi vào cuộc hành trình tìm về những
suối nguồn tư tưởng phương Đông, một phương Đông lãng mạn bay bổng “khi
lên cao chín ngàn dặm, nương mây cưỡi gió mà bay” như Trang Tử đã viết
trong Nam hoa kinh. Tiếu ngạo giang hồ có cái u uẩn trầm mặc đầy
suy niệm của những ngôi chùa, những đạo quan, những rừng tùng bách, bóng trăng
sáng trên Trường Giang, cơn mưa tuyết mùa đông trên Ngọc Nữ phong. Xuyên suốt
tác phẩm là tiếng đàn, tiếng sao của khúc Tiếu ngạo giang hồ, tiếng ca buồn
của Mạc Đại tiên sinh trong khúc Tiêu Tương dạ vũ. Tác phẩm còn là sự tập
hợp của nhiều kiến thức về y học, dược học, địa lý học, tửu học, giải phẫu học,
võ học, xã hội học… Chính nhờ tác phẩm này, tôi mới biết người Tứ Xuyên luôn
luôn bịt khăn trắng trên đầu - tục lệ có từ 2.000 năm trước khi để tang con người
huyền thoại Khổng Minh.
Trong kỹ thuật kết cấu tiểu thuyết, có thể coi Tiếu ngạo giang hồ như
một kịch bản phim với những đoạn chuyển cảnh rất nhanh và rất hợp lý. Những mâu
thuẫn chiều sâu trong nội tâm của các nhân vật kết hợp với những mâu thuẫn chiều
dài trong sự đấu tranh, trong âm mưu, trong thủ đoạn của các môn phái tạo cho cốt
truyện những tình huống nghẹt thở, khiến cho người đọc càng đọc càng cảm thấy
cuốn hút, say sưa. Kim Dung đã giải quyết hợp ký các mâu thuẫn đó khiến cho người
đọc thở phào, nhẹ nhõm và cảm thấy hạnh phúc. Có những điều mà ta nghĩ rằng
không bao giờ có thật trên đời lại xảy ra trong tác phẩm của Kim Dung một cách hợp
lý và tràn đầy đạo lý. Cơ duyên nào đã đưa một cô nữ ni thánh thiện, trong như
ngọc mới 16 tuổi, dấn thân vào nơi ô uế, phức tạp nhất là động điếm Quần Ngọc
dưới chân núi Hằng Sơn để cứu mạng Lệnh Hồ Xung? Cô đã bồng chàng lãng tử thanh
danh tàn tạ ấy ra vùng hoang sơn dã lĩnh, chấp nhân phạm giới cấm khi ăn trộm
dưa hầu có thức ăn cho chàng, tụng kinh Cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát cầu
xin cho chàng tai qua nạn khỏi. Lạ thay, lời kinh trang nghiêm của Phật giáo lại
được đọc với hơi thở từ một trái tim tràn đầy tình yêu và đức hy sinh. Cơ duyên
nào đã đưa đẩy một nàng Nhạc Linh San mới 16 tuổi, say mê cái mã đẹp trai của
Lâm Bình Chi và dễ dàng phụ rẫy mối thâm tình ban đầu mà cô đã dành cho Lệnh Hồ
Xung? Cho đến khi lấy Lâm Bình Chi, nhận ra bản chất tàn bạo của gã, cô mới hối
hận vì đã đánh mất một báu vật trên đời: “Nhớ xưa luyến ái Hàn công tử.
Xương trắng thành tro hận chửa tan”. Cơ duyên nào đã đến với thánh cô Nhậm
Doanh Doanh, ở ẩn trong ngũ Lục Trúc thành Lạc Dương mà “nhặt” được một chàng Lệnh
Hồ Xung ốm o bệnh hoạn và khám phá ra được đó là người đàn ông anh hùng, trung
thực, có bản sắc nhất giữa cuộc đời này? Từ bỏ ngôi vị cao quý, cô gái tươi đẹp,
thông minh 17 tuổi ấy đi theo chàng trai, bắt ếch nuôi chàng, đánh đàn ru cho
chàng ngủ và khi chàng kiệt sức thì cõng chàng lên chùa Thiếu Lâm, chấp nhận
cho phái Thiếu Lâm cầm tù để đổi lấy sự sống cho người yêu dấu. Đó là 3 dạng
tình yêu trên đời: một tình yêu không nói thành lới do sự mâu thuẫn giữa tôn
giáo và thế tục, một tình yêu thực dụng vì say mê hào nhoáng bên ngoài mà không
thấy được rõ phẩm chất bên trong, một tình yêu chân chính vì khám phá được chất
ngọc bên trong mà không cần chú ý đến vẻ bên ngoài của một con người ốm o tàn tạ.
Kim Dung không lên gân bình luận, phê phán; ông chỉ tường thuật và chúng ta hiểu.
Thế thôi!
Những suy niệm siêu hình học
Lai như lưu thủy hề, thệ như phong Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung. Từ khi
con người xuất hiện trên trái đất, đã có những suy niệm về số phận con người. Lịch
sử triết học, văn chương quan nhiều thời đại đã trăn trở đi tìm lời giải cho những
vấn nạn: con người là ai, con người từ đầu đến và con người sẽ về đâu. Một tác
phẩm văn chương, triết học nhằm cắt nghĩa một trong các vấn nạn ấy được gọi là
tác phẩm có giá trị nhân bản, nhân văn.
Ba mươi mấy năm đọc tác phẩm Kim Dung, càng lúc tôi càng nhận ra sự trăn trở của
ông trong quá trình tìm cách cắt nghĩa số phận con người. Thời còn đi học, tôi
đọc Kim Dung như một cách giải trí, một cách lãng quên cuộc sống thực tại để đi
tìm một cuộc sống viễn mộng lý tưởng. Đến tuổi chững chạc, tôi đọc Kim Dung như
một cách học tập: học cách viết văn, học phương pháp tiểu thuyết, học những kiến
thức Trung Quốc học, học làm người. Thuở đó, tính tôi rất nóng nảy, tâm hồn đầy
sự hoài nghi, trí óc đầy niềm căm giận. Gần như, tôi nghi ngờ tất cả mội giá trị
trên đời, tôi sẵn sàng căm hận những ngày tháng cũ đau thương và những ngày
đang sống đầy trắc trở. Ai gây cho tôi một sự đau khổ, nói với tôi một lời thiếu
thiện cảm, thể hiện trước tôi một hành động xúc phạm; tôi đã nghĩ đến chuyện mắt
đổi mắt, răng đổi răng. May mắn thay, đọc Kim Dung và các loại sách kinh điển của
Nho, Phật, Lão; tôi biết đến sự kìm giữ trái tim và khối óc của mình, tôi biết đến
sự tha thứ, vì rằng tha thứ cho người khác chính là tha thứ cho mình, tôi biết
quên những đau thương của chính mình để có thế làm một điều có lợi cho người
khác hoặc không làm một điều có thể tổn thương cho người khác. Còn bây giờ,
hoàng hôn của thế kỷ 20, mùa thu bắt đầu về trên đời, tôi đọc Kim Dung như một
cách chiêm nghiệm, suy tưởng. Lai như lưu thủy hề... (Chợt đến như dòng nước
chảy) Phải đợi đến tuổi 50, câu hát Tiểu Siêu thường hát cho Vô Kỵ nghe rút từ
kinh điển Bái hỏa giáo mới cho tôi nhận ra được là câu hát góp phần cắt nghĩa
nguồn gốc con người!
Darwin nói con người đã đi qua một quá trình tiến hóa, phát triển từ khỉ vượn
thành người. Thánh Kinh Thiên chúa giáo nói con người là do Thượng đế sinh ra.
Nhà Nho điềm nhiên phát biểu mà như không hề phát biểu điều gì: "Chuyện
ngoài trời đất, bực thánh nhân biết đấy nhưng không nghĩ đến" (Lục hợp
chi ngoại, thánh nhân tồn nhi bất nghị). Lão - Trang hiền triết một cách khôn
khéo: "Trong cái không đẻ ra cái có" (Vô trung sinh hữu).
Chỉ có Tiểu Siêu hát: "Chợt đến như dòng nước chảy" (Lai
như lưu thủy...)
Lai như lưu thủy hề... không trực tiếp trả lời cho hai câu hỏi con người là ai
và con người là từ đâu đến. Đúng hơn, nó trực tiếp trả lời cách thế có mặt của
con người trước cuộc sống: "Chợt đến như dòng nước chảy". Dòng
nước luôn luôn có một khởi nguyên ban sơ, thí dụ như một cơn mưa, một núi băng
tan, một hồ chứa, một đập tràn. "Chợt đến như dòng nước chảy" không
cắt nghĩa cái khởi nguyên ban sơ đó; nó chỉ nói đến cách thế có mặt; "chợt
đến" không cắt nghĩa khởi nguyên, cũng không phủ nhận khởi nguyên. Nguồn gốc
và đời sống con người đơn giản chỉ là sự chợt đến; có nguồn có cội đấy nhưng
nguồn cội là gì, ở đâu thì đó là chuyện để mỗi con người tự chiêm nghiệm. Bản
thân "chợt đến" đã có một quá trình chuẩn bị, không hề tình cờ, không
hề tự nhiên mà có. Thệ như phong (Và tàn như gió qua mau)
Con người sống ở trên đời bao nhiêu năm? Không ai trả lời được câu hỏi đó.
Phương Đông thường đưa ra khái niệm "trăm năm": "Trăm năm
nào có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì". Bản thân chữ "Trăm
năm" đó hoàn toàn mang tính chất tượng trưng, để chỉ số nhiều. Anh may mắn
sinh ra trong một gia đình giàu sang, lớn lên khỏe mạnh, nhiều hạnh phúc... có
thể sống được 98 tuổi. Cô gái nghèo kia bỏ ruộng đồng đi bán bia ôm, đem tấm
thân trinh trắng cho đám đàn ông thành phố bỡn cợt, đêm trở về căn phòng trọ bị
cướp của, hãm hiếp rồi bị giết, chỉ hưởng dương được 23 tuổi. Tôi một đời ưu tư
sầu khổ, năm mươi năm chưa thực sự có được một ngày là hạnh phúc, những nếp gấp
trên vừng trán càng lúc càng đậm, giọt lệ vĩnh viễn ở cuối mi mắt trái không
bao giờ tan được trong cuộc đời làm sao sống được 60 tuổi? Nhưng dù có sống được
bao lâu, 23 hay 60, 98 hay 100 tuổi thì thời gian ấy có là gì so với thời gian
miên viễn là trường tồn hằng nhiên? Tất cả chỉ là một cái chớp mắt của tạo hóa.
Tôi không ngờ từ một thằng bé nghèo sinh ra trong bom đạn chiến tranh giữa núi
rừng Quảng Nam đã trở thành một anh trung niên đang lắng nghe mùa thu về, trí
tuệ luôn luôn bị cưỡng bách, không một đêm nào ngủ được quá bảy tiếng, thân xác
đau rã rời bởi chứng thoát vị đĩa đệm cột sống và đầu óc luôn bị choáng váng với
chứng thiểu năng tuần hoàn não. Ai nói sống trên đời là hạnh phúc? Tôi sống
trên năm mươi năm, mong được hưởng một ngày gọi là hạnh phúc để nếm xem mùi vị
hạnh phúc là thế nào nhưng vẫn chưa có hân hạnh được nếm thử. Thì thôi, thà mua
một đôi giày chật mang dính vào chân suốt ngày, buổi chiều cởi được nó ra lắng
nghe hai bàn chân không còn cảm giác đau đớn để cứ gọi đó là hạnh phúc. Vâng, hạnh
phúc là sự cởi bỏ được đôi giày quá chật ra khỏi hai bàn chân của bạn.
Thệ như phong Cuộc sống con người ngắn ngủi lắm, tàn mau như gió. Nào có
ai thấy được gió, chỉ thấy lá cây rung động, cỏ dợn thành sóng, ta mới biết có
gió thổi qua. Gió thổi qua là có thật đấy, ta biết nhưng không thể biết được nó
đến khi nào và đi khi nào. Rồi tàn như gió qua mau - danh sĩ hay kẻ ngu đần, mỹ
nhân hay ác quỷ, cao quý hay đê hèn, hiền thục hay điêu ngoa - tất cả đều tàn
như gió qua mau.
Đây không phải đường về của chủ nghĩa hư vô. Ở cuối đời sống chúng ta là cái chết,
là sự suy tàn lụn bại tất yếu của cuộc sống. Sống một ngày là gần gũi với cái
chết một ngày, bên nhau một ngày là gần gũi với lâm biệt một ngày - quy luật ấy
nhân loại đều đã ý thức rõ rệt. Có hiểu chăng, hỡi bạn đời của tôi?
Bất tri hà xứ lai hề (Chẳng biết từ đâu mà tới) Bây giờ câu hát mới đi thẳng
vào vấn nạn từ đâu tới. Ta biết ta có nguồn gốc nhưng nguồn gốc đó ở đâu thì đó
là cái mà ta không thể biết được. Ta biết con chim thì nó bay, con cá thì nó lội,
nhưng khởi nguyên của khả năng bay, của khả năng lội thì đó là cái mà ta không
thể biết được. Ngay cả đến lý do tại sao không biết ta cũng đã không biết rồi.
Ta chỉ biết rằng ta không biết và tại sao ta không biết thì đó là điều ta không
biết vậy. Giữa cái biết và cái không biết có một biên giới tuyệt đối về mặt ý
thức. Biết là ban ngày, không biết là ban đêm; biết là ý thức, không biết là
chiều sâu trong vô thức. Phương Đông nói một cách triết lý: Tri chi vi tri
chi Bất tri vi bất tri Thị tri giả (Biết cái gì thì làm cái đó Không biết
thì làm cái không biết Ấy là biết vậy) Ta biết cái ta không biết - khởi nguyên
của loài người - đó là biết vậy chăng? Ngay khi cả ta biết rằng ta không hề biết
gì cả cũng là biết vậy chăng? Triết học quả là rất nhân hậu và nhân bản, sẵn
sàng tha thứ cho thái độ ngu muội của con người, vẫn cho đó là một thái độ hiểu
biết.
Hà sở chung (Và chẳng biết về nơi đâu) Cái gì cũng có một chung cuộc.
Nhưng chung cuộc của con người ở đâu thì con người không biết được. Đạo Thiên
Chúa nói con người công chính được về với cõi vĩnh hằng, về với nước Chúa, với
Thiên đàng, Đạo Phật nghĩ đến một quá trình luôn hồi, trong đó sự đầu thai là một
quy luật sẽ diễn ra ở kiếp sau. Đạo Phật dẫn những con người đạo hạnh từ bi đi
về miền Cực lạc. Cực lạc ở đâu? - Cõi Tây Phương. Tây phương là Tây phương nào?
- Không biết. Hà sở chung - nước chảy về đâu, gió tàn về đâu? Cuộc sống
hữu hạn ngắn ngủi của con người như nước chảy, như gió thổi. Nước chảy về đâu
là chung cuộc, gió thổi về đâu là chung cuộc - đó là điều ta không biết.
Lai như lưu thủy hề, thệ như phong Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung. Câu hát
nói về số phận con người sao mà buồn lắm vậy. Trong số phận của con người, có số
phận tình yêu. Tình yêu của con người sao mà buồn lắm vậy. Đạo Phật tôn trọng
chữ duyên, mọi việc diễn ra hôm nay đều bắt nguồn từ cơ duyên đã được định trước
của ngày hôm qua. Nhưng tìm đâu cho ra cơ duyên ấy thì đó là điều mà ta không
thể biết được. Thế giới có đến sáu tỉ người, tại sao em chỉ yêu mình ta? Đã bao
lần qua núi đồi thanh xuân, cúi xuống, kính cẩn hôn ngọn Ngọc Nữ phong bát ngát
tình yêu và hạnh phúc, uống dòng nước ngọt ngào từ nguyên khê đổ lại. Ta như
không còn có mặt trên đời, ta tan biến vào người, người tan biến vào ta. Bản
ngã (Moi) không còn nữa, chỉ còn Đại ngã (Grand Moi). Khi ta cao tới mây xanh,
vươn tay ra là chạm tới hạnh phúc, Đại Ngã không còn nữa; ta đang vươn tới Siêu
ngã (Sur-Moi). Nhưng siêu ngã chỉ là giây phút thoáng qua. Rồi ta trở lại cuộc
đời trần tục, xót xa, đau đớn nhìn nước trôi, ngậm ngùi nghe gió tàn. Lai như
lưu thủy hề, thệ như phong Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung. Một thoáng hạnh
phúc chợt đến rồi chợt tan biến khỏi đời sống con người. Và chỉ còn ta ở lại, đối
diện với hư vô.
Sự suy tàn của chủ nghĩa bạo lực
Bao giờ cũng như bao giờ, bạo lực luôn luôn có giữa cuộc sống loài người. Có thứ
bạo lực chân chính nhằm duy trì trật tự xã hội, bảo vệ công lý, bảo vệ mạng sống
và quyền lợi chính đáng của những con người lương thiện. Có thứ bạo lực phản động
nhằm làm náo loạn cuộc sống, gây cảnh can qua cho trăm họ lầm than để thừa cơ
hưởng lợi hoặc để cai trị, nô dịch người khác. Loại bạo lực phản động ấy không
thiếu trong tác phẩm võ hiệp tiểu thuyết Kim Dung.
Khi xử lý tác phẩm, tác giả thường để cho chủ nghĩa bạo lực tự nó suy tàn đúng
như định đề "Gieo nhân nào, hưởng quả ấy" của phương Đông
hay "Ai gieo gió phải gặt bão" của phương Tây.
Đoạn lung mở đầu cho Lộc Đỉnh ký có lẽ là đoạn triết luận hay nhất,
tài hoa nhất trong sự nghiệp trước tác của Kim Dung. Ông luận về chủ nghĩa duy
bạo lực của các thế lực quân chủ mấy ngàn năm ở Trung Quốc qua hai từ "Trục
lộc" (đuổi hươu). Mượn lời nhà văn Lữ Lưu Lương dạy con trai, Kim
Dung nhắc lại câu nói của Khương Thái Công với Chu Văn Vương: "Lấy
thiên hạ như đuổi bắt con hươu để làm thịt chia nhau mà ăn. Con hươu dù có trốn
chui trốn nhủi nhưng rốt cuộc vẫn bị bắt. Có khi nó bị nhiều người ăn thịt, có
khi một người giành ăn hết".
Con hươu (lộc) ở đây có nghĩa là thiên hạ, mà thiên hạ có nghĩa là đất Trung
Hoa. Hán thư có câu: "Nhà Tần để sổng con hươu, thiên hạ tranh nhau
đuổi bắt". Hán vương Lưu Bang và Tây Sở Bá vương Hạng Võ cùng đánh nhà Tần,
sau cùng Hán vương diệt được Tây Sở Bá vương, chiếm được thiên hạ, bắt được cả
con hươu béo mập.
Để có thể nấu thịt hươu lên ăn, người ta phải dùng đến cái vạc to, có ba chân,
đốt lửa ở dưới. Cái vạc ấy đồng thời cũng là hình cụ tàn khốc để đốt, để nấu những
người phạm trọng tội. Chữ "đỉnh" trong Hán văn tức là cái vạc
lớn. Lộc đỉnh có nghĩa là cái vạc lớn để nấu thịt hươu. Tranh nhau "lộc
đỉnh" có nghĩa là tranh nhau giành lấy thiên hạ. Các thế lực quân chủ
là dao là thớt, muôn triệu dân lành trở thành cá thành thịt.
Để có thể giành lấy thiên hạ, đạt được quyền lực, người ta phải dùng đến bạo lực
phi nhân tính nhất. Các thế lực quân chủ dùng bạo lực phi nhân để trục lợi còn
các thế lực giang hồ trong các tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung cũng
dùng bạo lực phi nhân để đô hộ, chế ngự, nô dịch người khác.
Trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, chủ nghĩa duy bạo lực luôn luôn gắn liền
với các bọn tặc đạo muôi tham vọng thống nhất giang hồ, đè đầu cưỡi cổ thiên hạ.
Trong Lộc Đỉnh ký, tà đạo Thần Long giáo ở biển Liêu Đông do Hồng An Thông
làm giáo chủ nuôi một thứ tham vọng như vậy. Tà giáo này chủ trương xây dựng
các hầm rắn để trừng trị những kẻ không trung thành, buộc bọn thuộc hạ uống loại
độc dược Độc long dịch cân hoàn để họ phải trung thành với giáo chủ. Họ gọi con
rắn (xà) là thần long. Họ cũng có một thứ "kinh điển" nhằm đầu độc
trí óc bọn giáo chúng thanh niên, sùng bái cá nhân giáo chủ: Hồng giáo chủ
ra oai sấm sét Chúng đồ nhi sức mạnh phi thường... Hồng giáo chủ thần kinh
như điện Chiếu nhãn quan ra khắp muôn phương...
Tà giáo này có tham vọng tranh đoạt tấm bản đồ chỉ dẫn đi tìm kho báu được giấu
trong bộ Tứ thập nhị chương kinh của nhà Thanh. Họ cấy người vào nội
cung triều Khang Hy nằm vùng, khuynh loát chính trị và dọ dẫm tìm bảo vật. Thực
hiện không được âm mưu ấy, họ định liên minh với các thế lực biên phòng của Sa
hoang Nga La Tư để chống lại Trung Quốc. Điều buồn cười là giáo chủ Hồng An
Thông tuy danh vọng to lớn, võ công cao cường nhưng chỉ là một lão liệt dương.
Khang Hy đã ra lệnh cho hải quân nhà Thanh bắn phá tan tành đảo Thần Long, cuối
cùng bọn thuộc hạ quần công Hồng An Thông, giết giáo chủ. Thần Long giáo tự diệt,
đơn giản chỉ vì nó là một tà đạo duy bạo lực.
Trong Thiên Long bát bộ lại có một tà phái khác là phái Tinh Tú, do
Tinh Tú hải lão ma Đinh Xuân Thu làm chưởng môn. Đinh Xuân Thu là kẻ lừa thầy
phản bạn, từng đánh lại thầy mình là Vô Nhai Tử rồi tự mình tách ra khỏi phái
Tiêu Dao để lập thành phái Tinh Tú. Vì đã từng lừa thầy nên bản tâm vẫn sợ bọn
đồ đệ đánh nổi lên làm loạn chống mình, Đinh Xuân Thu chủ trương dùng thuốc độc
và đạn lân tinh để trừng phạt đệ tử. Lão cho phép các đệ tử đánh nhau thoải mái
để giành chức đại đệ tử. Lão chiêu nạp một đám bàng môn tả đạo làm đệ tử và đặt
ra những ca quyết để đệ tử tâng bốc mình: Tinh Tú lão tiên Danh lừng Trung
thổ Đức sánh cửu thiên Đánh đâu thắng đó. Ngày Đinh Xuân Thu trở lại Trung
Nguyên, gần như lão khống chế được toàn bộ phái Tiêu Dao. Thế nhưng, như một kịch
bản hoàn hảo nhất của công lý trên đời, Đinh Xuân Thu đã bị Hư Trúc, Cung chủ
cung Linh Thứu, trừng phạt. Bằng nội công Bắc minh chân khí chính tông, mượn
giọt rượu của đệ tử tung lên không gian, Hư Trúc biến các giọt rượu trở thành
băng và cấy vào trong các huyệt đạo trọng yếu của Đinh Xuân Thu. Miếng băng lạnh
tiếp xúc với da thịt nóng, tan ngay vào các huyệt đạo, hóa thành một thứ bùa gọi
là Sinh tử phù. Sinh tử phù chạy vào người Đinh Xuân Thu, trở
thành một chất kháng nguyên, khiến lão có cảm giác ngứa ngáy như bị hàng vạn
con kiến đốt. Đinh Xuân Thu phải chịu thua, đầu hàng, bị phái Thiếu Lâm nhốt lại.
Toàn bộ phái Tinh Tú bị giải tán, bạo lực của Tinh Tú hải lão ma tự diệt vong.
Chủ nghĩa duy bạo lực nhìn vấn đề dưới một nhãn quan đơn giản: có sức mạnh là
có thể cai trị, khống chế được người khác. Và để có một sức mạnh thì phải leo
lên được đỉnh cao của quyền lực, phải nắm quyền lực trong tay. Khát vọng quyền
lực khiến các loại nhân vật giang hồ rình mò nhau, ngấm ngầm hại nhau. Điều
đáng xấu hổ là những âm mưu đó lại được nấp sau bộ mặt của người quân tử, kẻ
chính nhân - tất nhiên là quân tử, chính nhân giả hiệu. Tiếu ngạo giang hồ xây
dựng một bộ ba chưởng môn khả kính: Dư Thương Hải - chưởng môn phái Thanh
Thành; Tả Lãnh Thiền - chưởng môn phái Tung Sơn; Nhạc Bất Quần - chưởng môn
phái Hoa Sơn. Dư Thương Hải đánh Phước Oai tiêu cực để tìm lấy kiếm pháp Tịch
tà; Tả Lãnh Thiền định triệt hạ bốn phái để leo lên chức chưởng môn Ngũ Nhạc
Phái; Nhạc Bất Quần vừa rình mò Dư Thương Hải để chiếm kiếm pháp Tịch tà, vừa
tháu cáy Tả Lãnh Thiền để tranh đoạt chức chưởng môn Ngũ Nhạc phái. Họ là những
người quân tử chính nhân giả hiệu, mở miệng ra là nói đạo đức, lòng nhân, sự
khiêm ái... Cuối cùng Dư Thương Hải bị giết; Tả Lãnh Thiền bị đui mắt; Nhạc Bất
Quần cũng bị giết, duy bạo lực bị đền tội bởi chính những mưu đồ và hành vi độc
ác của họ đã gây ra.
Sự trừng phạt của cuộc sống khá nghiêm minh: gieo nhân nào hưởng quả ấy, mức độ
trừng phạt tương ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi.
Tất nhiên, để có thể tiêu diệt chủ nghĩa duy bạo lực này, phải có một thứ bạo lực
chính nghĩa đi tiên phong. Đó là bạo lực của những người anh hùng chân chính,
trung thực.
Tác phẩm của Kim Dung cũng đi theo con đường "có hậu" của
nhiều tác phẩm văn học trên thế giới đã đi: chính nghĩa thắng gian tà.
Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Xạ điêu anh hùng truyện, Thần điêu hiệp
lữ, bạo lực nhân nghĩa của người Trung Quốc yêu nước đã chiến thắng bạo lực phi
nhân nghĩa của các thứ giặc xâm lược Kim Quốc và Mông Cổ. Chủ nghĩa yêu nước lấp
lánh phía sau những tình huống tiểu thuyết vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính
thoại sử đem lại cho người đọc sự thú vị tuyệt vời. Bạo lực phi nghĩa nào cũng
có ngày tàn lụi; nếu người ta không sử dụng bạo lực chính nghĩa để tiêu diệt nó
thì tự nó cũng có ngày tàn lụi. Đưa ra cái trắng, cái đen, cái thiện và cái ác,
cái đúng là cái sai, cái tốt và cái xấu là Kim Dung đã khẳng định quy luật
trên. Cho nên, đọc tiểu thuyết của ông, người ta có cảm giác thỏa mãn khi thấy
công lý thắng lợi, cái ác bị trừng phạt nặng nề. Điều này cũng chính là khát vọng
ngàn đời của loài người!
Ngay đến những âm mưu sử dụng bạo lực để khuấy đảo thiên hạ, âm mưu "Tọa sơn quan hổ đấu" cũng tàn lụi từ trong trứng nước. Trong Thiên
Long bát bộ, cha con Mộ Dung Bác - Mộ Dung Phục âm mưu phục hồi đế hiệu nước Đại
Yên. Để có thể làm việc đó, Mộ Dung Bác phao ngôn rằng quân Khiết Đan sắp tấn
công qua Nhạn Môn Quan. Bọn quần hùng Trung Quốc nóng lòng bảo vệ đất nước, ra ải
Nhạn Môn Quan đánh giết lầm gia đình Tiêu Viễn Sơn. Không khuấy đảo được cho
hai nước Tông - Liêu đánh nhau, Mộ Dung Bác khích cho quốc sư Cưu Ma Trí nước
Thổ Phồn nhập Trung Nguyên - Trung Quốc. Làm xong mấy việc đó, Mộ Dung Bác giả
chết, vào nằm cùng trong Tàng kinh các chùa Thiếu Lâm, học lén võ công Thiếu
Lâm mơ làm anh hùng thiên hạ.
Mộ Dung Phục lại là một tay cơ hội chủ nghĩa ghê gớm. Tưởng cha chết thật, Mộ
Dung Phục vẫn âm thầm nuôi giấc mộng Đại Yên. Gã hóa thân thành một cao thủ nước
Tây Hạ có cái tên lạ hoắc là Lý Diên Tông, đầu quân vào dưới trướng Hách Liên
Thiết Thụ sang đánh Trung Quốc. Việc đánh đấm không thành sự, gã phụ rẫy mối
tình của biểu muội Vương Ngữ Yên, sang Tây Hạ dự lễ tuyển phu với một hy vọng hết
sức bệnh hoạn: được cưới công chúa Tây Hạ làm vợ, trở thành phò mã Tây Hạ, đem
binh lực Tây Hạ về đánh Trung Quốc. Việc lại không thành, gã trở về Trung Quốc,
lạy tôn thế tử Đoàn Diên Khánh của nước Đại Lý để hoàng gia nước Đại Lý không
còn ai, Đoàn Diên Khánh sẽ lên ngôi, gã là Thái tử. Rồi gã sẽ phế người cha
nuôi để lên làm vua nước Đại Lý, đem quân về đánh Trung Quốc.
Cha con Mộ Dung Bác - Mộ Dung Phục, mỗi người một âm mưu, muốn quậy cho Trung
Quốc đại loạn để phục hưng nước Đại Yên. Mộ Dung Bác còn khích Kiều Phong - Nam
viện đại vương nắm giữ binh quyền nước Khiết Đan - rằng lão sẵn sàng tự tử để tạ
tội phao ngôn, chỉ mong Kiều Phong đưa quân Khiết Đan qua Nhạn Môn Quan đánh Tống
triều! Hai cha con này ăn chén cơm Trung Quốc mà kịch liệt chống đối lại trăm họ
Trung Quốc. Kim Dung giải quyết khá công bằng: ông để cho Mộ Dung Bác tự ngộ ra
rằng âm mưu phục hồi nước Đại Yên chỉ là mây trắng, rằng không thể lấy thiên hạ
để phục hồi đế vị cho một dòng tộc. Mộ Dung Bác xin ở lại chùa Thiếu Lâm đi tu.
Mộ Dung Phục giết hết những bằng hữu trung thành của mình, bị Lục mạch thần
kiếm của Đoàn Dự đánh cho tơi tả. Gã phát bệnh tâm thần, đi chằm mũ lá đội,
mua kẹo bánh bỏ sẵn trong túi để... làm vua với các trẻ em chăn trâu. Giấc mơ bạo
lực tự nó suy tàn mà không cần đến một tác động ngoại lai.
Thanh kiếm và Cây đàn
Thanh kiếm và cây đàn là hai hình ảnh mà ta thường gặp trong thế giới tiểu thuyết
võ hiệp Kim Dung. Từ Ỷ thiên Đồ long ký, Thiên Long bát bộ đến Tiếu
ngạo giang hồ. Trong những giai đoạn lịch sử mà các chế độ phong kiến cầm quyền
nhân danh một thứ “vương pháp” tràn đầy bất công và bạo lực áp dụng để cai trị
hàng triệu triệu con người, những kẻ có tiền, có quyền, có thế lực ra sức hà hiếp,
hãm hại dân đen thì thanh kiếm của người hiệp sĩ trở thành biểu tượng của công
lý, một thứ công lý của nhân dân. Thanh kiếm là một vũ khí trừ gian, diệt bạo,
tế khổn, phò ngụy. Ngược lại cây đàn là một dụng cụ nhằm thể hiện tình cảm, cảm
xúc, thể hiện những khát vọng hòa bình, trung chính trước cuộc sống… Nhìn một
cách nào đó thì thanh kiếm và cây đàn khó có thể gặp gỡ nhau, khó có thể dung
hòa với nhau. Nhưng trong các tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung đã tạo ra sự gặp gỡ
dung hòa và tương tác giữa hai hình ảnh đó một cách kỳ thú lạ lùng. Trong Ỷ
thiên Đồ long ký, Côn Lôn Tam Thánh Hà Túc Đạo từ dãy Thiên Sơn đi về tỉnh Hồ
Nam, đem theo một cây thất huyền cầm và một thanh trường kiếm. “Hỡi ơi, nước
xanh và đá trắng sao rời rạc nhau đến như vậy” - lời than thở của Hà Túc Đạo
giữa rừng sâu là lời than chưa tìm được một người tri kỷ hồng nhan, như nước
xanh cứ mãi trôi mà đá trắng vẫn trơ vơ đứng lại bên đời. Cho đến khi gặp được
cô gái Quách Tương, Hà Túc Đạo đã cảm hứng sáng tác ra được một nhạc khúc để chờ
có dịp là đàn cho cô nghe. Và trong một trận chiến với 3 cao thủ Thiếu Lâm Tây
Vực, Hà Túc Đạo đã ngồi tại chỗ, sử dụng một tay kiếm đánh với đối thủ, tay kia
vẫn tiếp tục đánh đàn. Nghe tiếng đàn phơi phới xuân tình, tràn đầy niềm nhớ
thương u ẩn, Quách Tương đỏ mặt lên, biết Hà Túc Đạo muốn tỏ tình với mình. Năm
ấy cô mới 16 tuổi. Tiếc thay tuy thắng trong trận này nhưng sau đó Hà Túc Đạo
đánh thua sư Giác Viễn và Trương Quân Bảo (chính là Trương Tam Phong sau này) ở
chùa Thiếu Lâm nên lặng lẽ bỏ Trung Nguyên trở về Thiên Sơn, khiến khát vọng phối
hợp thanh kiếm và cây đàn của chàng không thực hiện được. Kim Dung đã để cho Cầm
điên Khang Quảng Lăng, nhân vật trong Thiên Long bát bộ thực hiện khát vọng ấy.
Khang Quảng Lăng có ngoại hiệu là Cầm điên, một nhân vật chơi hồ cầm rất tài
hoa. Lão dùng tiếng đàn làm vũ khí, đấu nhau với kiếm kích đao thương của người
khác. Nghe tiếng đàn của lão, trái tim người ta dội ngược, kinh mạch loạn lên,
người không có nội công thâm hậu khó chống chọi được điệu đàn của lão, tiếng
đàn thoạt đông thoạt tây, thoạt trên thoạt dưới, thoạt gần thoạt xa. Khang Quảng
Lăng thuộc phái Tiêu Dao tức là tu theo Lão Trang. Thế nhưng lão vẫn chưa
thoát tục được, giai điệu vẫn chưa đạt đến mức thượng thừa của âm nhạc hòa bình
trung chính. Có lẽ điều chưa đạt được đó đã được tác giả Kim Dung thử nghiệm lại
trong Tiếu ngạo giang hồ. Trong tác phẩm này, tác giả xây dựng một nhân vật
cổ quái là Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh, chưởng môn phái Hành Sơn. Mạc Đại
tiên sinh cất một thanh kiếm ngắn, lưỡi mềm và mỏng như lá lúa trong đáy cây hồ
cầm. Tiên sinh được ca ngợi với 8 chữ “cầm trung tàng kiếm, kiếm phát cầm
âm” (trong đàn giấu kiếm, kiếm phát tiếng đàn). Kiếm pháp “Bách biến
thiên ảo, Hành Sơn vân vụ thập tam thức“ của lão nhằm cứu người trong cơn
hoạn nạn, tế khốn phò ngụy. Nhưng tiếng hồ cầm của lão chưa thoát tục, cứ đi
mãi trên con đường bi ai sầu thảm; lại thêm lời ca của bài Tiêu Tương dạ
vũ (mưa đêm trên sông Tiêu Tương) nghe ra đau xót như những giọt mưa rơi
xuống lá cây. Mạc Đại tiên sinh là hình ảnh của một trích tiên bị đọa. Một nhân
vật khác của Tiếu ngạo giang hồ là Khúc Dương đã nhận ra chỗ thiếu
sót đó của Mạc Đại. Khúc Dương là trưởng lão của Triệu Dương thần giáo (Ma
giáo). Khúc Dương là một nhạc sĩ tài ba, do không phục một câu nói của Kê Khang,
một nhạc sĩ đời Tây Tấn đã đàn khúc Quảng lăng tán trước khi bị Tư Mã Chiêu giết,
rằng: “ta chết đi từ nay trên đời không còn khúc Quảng lăng tán nữa”. Khúc
Dương đã bỏ công ra đi đào 29 ngôi mộ của các vua chúa và đại thần thời Đông
Hán và Tây Hán và đến ngôi mộ thứ 29 ở đất Thái Ung thì lão tìm ra khúc phổ Quảng
lăng tán, Khúc Dương đã cải biên thành nhạc khúc dành cho đàn thất huyền cầm và
gọi tên khúc đó là Tiếu ngạo giang hồ. Lão chơi thân với Lưu Chính Phong,
nhạc sĩ thổi sáo của phái Hành Sơn. Lưu Chính Phong dựa vào cung đàn của Khúc
Dương để viết một phần tiêu phổ cho ống sáo. Cầm tiêu song tấu, họ có được nhạc
khúc Tiếu ngạo giang hồ hòa bình, trung chính; thể hiện được khát vọng
được sống tự tại tiêu dao của một kiếp người. Nhưng cả Lưu Chính Phong và Khúc
Dương đều bị lên án bởi phái Tung Sơn. Với tham vọng lên ngôi minh chủ Ngũ Nhạc
kiếm phái, chưởng môn phái Tung Sơn là Tả Lãnh Thiền đã sai thủ hạ sát hại Lưu
Chính Phong, định tiêu diệt phái Hành Sơn trước. Thế nhưng trên cả âm mưu của
phái Tung Sơn, Nhạc Bất Quần, chưởng môn đã nuôi mộng lên ngôi Ngũ Nhạc phái (bỏ
chữ kiếm) bằng chính một đường kiếm tàn ác - Tịch tà kiếm pháp - mà
lão ăn cắp được. Cũng với thanh kiếm, Lệnh Hồ Xung đã học được Độc Cô cửu
kiếm để trị Tịch tà. Tác giả Kim Dung đã để cho Độc Cô thắng Tịch
tà, lấy cái ngay thẳng để chế ngự cái tà ma, lấy cái chính nhân để trị cái ngụy quân tử. Và khi thanh kiếm chính nghĩa đã toàn thắng thì khúc hợp tấu cầm
tiêu Tiếu ngạo giang hồ lại ung dung trổi lên, hòa bình trung chính
làm say đắm lòng người nghe. Lưỡi kiếm là bạo lực, có cái bạo lực phản động, có
cái bạo lực để chống bạo lực phản động. Tiếng đàn là tiếng lòng, là âm điệu của
hòa bình nhân ái. Lưỡi kiếm ngay thẳng chống bạo lực phản động, lập lại công lý
cho cuộc sống để tiếng đàn hòa bình, nhân ái được cất lên. Toàn bộ khát vọng của
Kim Dung được thể hiện qua Ỷ thiên Đồ long ký, Thiên Long bát bộ giữa
sự giao thoa của kiếm và đàn chưa hoàn thành. Và ông viết tiếp Tiếu ngạo
giang hồ để hoàn thành ước mơ đó. Chàng kiếm sĩ Lệnh Hồ Xung với đường Độc
Cô cửu kiếm cuối cùng cũng buông lưỡi kiếm xuống, cầm lấy cây đàn cùng người
yêu thổi tiêu hợp tấu Tiếu ngạo giang hồ. Vì vậy mà trên cuộc sống này vẫn tồn
tại câu nói “Hòa bình là hiệu quả của chân lý”. Ở một chừng mực nào đó Kim
Dung đã thể hiện tư tưởng có trước đây hơn 2000 năm của Socrate “Hòa bình
chỉ thực sự có khi công lý được xác lập”.
Huyền thoại Thủ cung sa
Thủ cung sa (守宮沙) có lẽ là một khái niệm khá mới
trong hệ thống từ Hán - Việt của ngôn ngữ Việt Nam. Tôi đã tra 6 cuốn từ điển
Hán - Việt hoặc Việt - Hán mà không tìm ra được từ ghép này, có lẽ vì nó cổ quá
và có lẽ đến bây giờ, người phụ nữ Trung Quốc không cần đến nó nữa. Cuộc sống
văn minh với làn sóng “cách mạng tình dục”, tư tưởng tự do luyến ái và một
chút thực dụng của chủ nghĩa hiện sinh Tây phương đã ảnh hưởng đến phương Đông.
Người phương Đông, kể cả người phương Đông Trung Quốc, vốn là con cháu Đức Khổng
Phu tử, đã có một quan điểm rất thoáng về chữ trinh nơi người phụ nữ. Tôi nhấn
mạnh chữ Trinh.
Người phương Đông, kể cả người phương Đông Trung Quốc, vốn là con cháu Đức Khổng
Phu tử, đã có một quan điểm rất thoáng về chữ trinh nơi người phụ nữ. Tôi nhấn
mạnh chữ Trinh (貞) chứ không phải chữ Tiết (節). Trinh là một cái gì đó hoàn toàn nguyên vẹn, ban sơ mà đạo
Khổng vốn coi là biểu tượng của sự trong trắng, đạo đức, của tất cả các hành vi
giữ mình như ngọc của một cô gái mới lớn lên.
Trong y học, trinh mang ý nghĩa cụ thể hơn: đó là một cái màng mỏng nằm trong nội
cung người phụ nữ. Ai còn trinh thì được gọi là xử nữ. Và do vậy, màng trinh được
gọi là xử nữ mạc. Thủ cung sa là một dấu vết nhỏ có màu đỏ sậm của thần sa, được
điểm lên cánh tay của một cô gái mới lớn (thường là cánh tay trái, cách vai khoảng
một tấc, ngang với chỗ mà ngày nay người ta chủng ngừa đậu mùa) để chứng minh
cô gái ấy còn trinh bạch. Các thầy thuốc ngày xưa khó lòng quan sát xử nữ mạc,
mà dẫu muốn quan sát cũng chưa chắc được ai cho! Cho nên, người Trung Quốc cổ mới
nghĩ đến một tiêu ký nhằm hình tượng hóa chữ trinh ra ngoài cấm địa của người
phụ nữ - ấy là vế thủ cung sa trên cánh tay. Muốn biết cô gái nào còn là xử nữ
hay không, chỉ chỉ cần vén tay áo lên xem xét thủ cung sa còn hay mất. Nếu thủ
cung sa mất đi thì ô hô, ai tai; dẫu có mười miệng cũng không biện giải, cãi
chày cãi cối nữa với mọi người vốn thuộc lòng câu “Nam nữ thọ thọ bất
thân”.
Làm sao lưu được tiêu ký của thủ cung sa? Hán thư, cách chúng ta trên 2.000
năm, ghi chú rõ: bắt một con tắc kè con, nuôi nó cho thật tử tế, cho nó ăn hết
bảy cân thần sa. Đập nát con tắc kè, vắt xác của nó lấy một loại nước có màu đỏ
sậm. Đem nước ấy chấm lên cơ bắp cánh tay trái của cô gái mới lớn. Dấu chấm
ngoài da sẽ ăn sâu vào lớp ngoại biểu bì, để lại một vết tròn màu đỏ sậm trên
làn da trắng nõn. Vết tròn màu đỏ sậm ấy chính là biểu tượng uy nghi, hùng hồn
nhất của sự trinh bạch. Nếu cô gái tự mình gần gũi với người đàn ông hoặc bị cưỡng
hiếp, vết thủ cung sa sẽ mất đi ngay.
Lý luận thì chặt chẽ như vậy nhưng Hán thư của học giả Ban Cố vẫn không cắt
nghĩa được mối tương quan hữu cơ giữa thủ cung sa trên cánh tay và xử nữ mạc
trong nội cung của người phụ nữ. Nói cách khác, lời bí chú của Hán thư không giải
thích được tại sao khi xử nữ mạc bị rách thì vế thủ cung sa lại biến mất đi và
giả thiết một cô gái bị mất thủ cung sa rồi thì họ có thể… làm lại cái mới
không. Và bởi thủ cung sa có được từ nước cốt của con tắc kè ăn đủ 7 cân thần
sa, nghĩa là chuyện mà tất cả mọi nhà ở Trung Quốc đời Hán đều làm được, và bởi
thịt da ai cũng như ai nên tôi đồ chừng tất cả mọi phụ nữ Trung Quốc (thời Hán
thôi nhé) từ cô gái 16 tuổi thơm như đóa ngọc lạn đến người thiếu phụ 50 tuổi
có mấy mặt con, tả tơi như tàu lá chuối sau trận bão, đều có thể tự làm tiêu ký
thủ cung sa được. Đến lúc đó, dẫu sư phụ của các danh y Hoa Đà, Biển Thước nhìn
được vết thủ cung sa cũng khó lòng nhận ra chân giả, thực hư. Không chừng rút
kinh nghiệm đó mà ngày nay, các tú bà thường cho bác sĩ “tân trang” xử nữ mạc
các cô để gạt mấy tay Hồng kông, Taiwan giàu sụ.
Đó là chuyện 2.000 năm trước. Hai ngàn năm sau, nhà văn Kim Dung đã đưa huyền
thoại thủ cung sa của dân tộc mình vào trong các tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp của
ông, vẫn với mục đích chứng minh cho sự trinh bạch của người phụ nữ mới lớn.
Các nhân vật nữ của ông như Chu Chỉ Nhược (Ỷ thiên Đồ long ký), Lý Mạc Sầu (Thần
điêu hiệp lữ), Mai Phương Cô (Hiệp khách hành) đều giữ được những vết đỏ thắm của
thủ cung sa trên cánh tay trắng nõn nà. Nghĩa là họ không hề mất trinh, chưa từng
chăn gối với đàn ông, chưa thất thân vì người khác giới như họ tự nhận hoặc do
người khác vu vạ. Lứa đôi Chu Chỉ Nhược và Trương Vô Kỵ thương yêu nhau. Diệt
Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga My lại buộc học trò Chu Chỉ Nhược của mình
phải thề độc, không được thương yêu Trương Vô Kỵ. Chu Chỉ Nhược phải dựng lên
câu chuyện Tống Thanh Thư là chồng của cô để đánh lừa mọi người, chủ yếu là
đánh lừa chàng Trương. Khi Tống Thanh Thư bị đánh trọng thương, mọi người vẫn
đinh ninh rằng Chu Chỉ Nhược đã là đàn bà. Đến lúc đó, Chu Chỉ Nhược mới vén
cánh tay áo lên cho mọi người biết cô vẫn còn vết thủ cung sa tươi thắm. Vết thủ
cung sa đó đủ sức cải chính tất cả mọi lời đồn đại, mọi điều mà cô đã tự nhận về
mình. Mai Phương Cô thương yêu Thạch Thanh nhưng Thạch Thanh đã có vợ, có hai
con trai. Trong một cơn ghen tuông làm mất lý trí, cô đã bắt một đứa con mới 3
tháng tuổi của Thạch Thanh đem đi, nuôi nấng hài nhi thành người, đặt tên là Cẩu
Tạp Chủng (chó lộn giống). Đứa bé lớn lên, vẫn đinh ninh Mai Phương Cô là mẹ ruột
của mình. Cho đến một ngày vợ chồng Thạch Thanh lên núi Hùng Nhĩ tìm Mai Phương
Cô, có cả cậu trai Cẩu Tạp Chủng đi theo, Mai Phương Cô vẫn vì cơn ghen, không
tiết lộ thân thế Cẩu Tạp Chủng. Ai cũng yên chí Phương Cô chửa hoang, sinh ra
thẳng bé không cha, riêng vợ Thạch Thanh thì cho rằng chồng mình đã chăn gối với
Mai Phương Cô sinh ra cậu Cẩu Tạp Chủng. Kim Dung đã xử lý tình huống tiểu thuyết
hết sức bi kịch nhưng cũng hết sức cao thượng: ông để cho Mai Phương Cô tự vận,
một bên áo rách hiện rõ vết thủ cung sa trên làn da trắng. Nghĩa là Mai Phương
Cô vẫn còn trinh bạch. Còn Cẩu Tạp Chủng là ai, tại sao khuôn mặt chàng giống hệt
Thạch Thanh, tại sao chàng gọi Mai Phương Cô là má má thì tự độc giả tìm hiểu.
Trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, huyền thoại thủ cung sa được nâng lên
thành hiện thực mang dấu ấn của triết lý, dấu ấn của tư tưởng nhân văn và nhân
đạo. Nếu cứ lý luận theo kiểu nhà nho thì ai còn trinh mới là đạo đức; ai mất
trinh là kẻ hư thân. Nhưng Kim Dung không nhìn người phụ nữ Trung Quốc theo
nhãn quan đó. Trong Thần điêu hiệp lữ, ông xây dựng nhân vật Tiểu Long Nữ,
chưởng môn phái Cổ Mộ Đài. Tiểu Long Nữ mới 18 tuổi, thương yêu người học trò
nhỏ hơn cô 2 tuổi là Dương Qua. Một hôm, khi cô đang thoát y để luyện Ngọc
nữ tâm kinh trong bụi rậm thì bị một tên đệ tử phái Toàn Chân là Doãn Chí
Bình điểm huyệt, che mặt rồi đưa vào chỗ kín đáo cưỡng hiếp. Cô gái đau khổ khi
mất đi vết thủ cung sa và cảm thấy không còn xứng đáng với chàng học trò nhỏ
Dương Qua nữa. Cô đau xót bỏ Dương Qua ra đi. Nhưng trong con mắt Dương Qua, một
Tiểu Long Nữ mất trinh còn hơn hàng vạn cô gái trinh bạch khác trên đời. Dương
Qua ra đi tìm cô khắp bốn phương trời.
Không có nhà văn nào can đảm như Kim Dung khi đưa ra một người thầy mất trinh,
một mối tình thầy trò trong một bối cảnh xã hội mà Khổng giáo vẫn chiếm tư thế
độc tôn như xã hội Trung Quốc thế kỷ XI. Ở đây, ông muốn chứng minh một điều:
chữ trinh qua dấu vết thủ cung sa không là cái gì cả. Một tai nạn thông thường
hoặc nghiêm trọng có thể làm mất đi sự trinh bạch của người phụ nữ nhưng phẩm
giá và tình yêu của người phụ nữ đó vẫn còn nguyên vẹn. Chất nhân bản, nhân văn
đó dễ có mấy ai đã thể hiện được trong tiểu thuyết. Một Lý Mạc Sầu trinh bạch
nhưng tàn ác vẫn thua xa một Tiểu Long Nữ bị mất trinh nhưng tấm lòng quảng đại
bao dung. Nếu với đàn ông, Kim Dung thường đưa câu “Đừng đem thành bại luận
anh hùng” thì với phụ nữ, chúng ta cũng có thể nghĩ đến câu “Chớ đem
trinh tiết khoe thục nữ”. Thủ cung sa, rốt cuộc lại, chỉ là quan điểm của Kim
Dung về chữ trinh, một quan điểm mới mẻ, vượt xa công thức sơ lược của cổ nhân.
Trước Kim Dung trong hơn 200 tác phẩm tiểu thuyết Minh - Thanh, chữ trinh đã từng
là vấn đề trong Tây sương ký, Liêu trai chí dị, Tam quốc chí, Hồng
lâu mộng. Thế nhưng, chữ trinh đó đôi khi rất cực đoan, đôi khi lại bị xem quá
nhẹ. Chữ trinh trong tác phẩm tiểu thuyết Kim Dung không nhẹ, cũng chẳng cực
đoan. Nó phụ thuộc vào hoàn cảnh, thời điểm, số phận của từng nhân vật cụ thể.
Kim Dung không lấy chữ trinh làm thước đo phẩm giá người phụ nữ. Những nhân vật
nữ thất trinh của ông như Tiểu Long Nữ, Kỷ Hiểu Phù… khiến người đọc thông cảm,
xót xa, kính trọng. Văn chương của Kim Dung đúng là một thứ văn chương nhân bản,
nhân văn.
Bọn hào sĩ giang hồ ăn Tết
Khái niệm "hào sĩ giang hồ" là một khái niệm khá đặc biệt
mà người ta chỉ tìm thấy trong những tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung.
Hán - Việt từ điển của Đào Duy Anh định nghĩa hào sĩ là "những người
có thế mạnh hơn người". Trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, từ "giang
hồ" (sông hồ) mang một ý nghĩa hết sức tượng trưng để chỉ những cuộc
đời lênh đênh, trôi giạt; những con người chuyên sống bằng đường đao mũi kiếm,
đứng trên và đứng ngoài những quy định vương pháp của các triều đại phong kiến
Trung Quốc. Họ hình thành một giới: giới võ lâm. Tính theo âm lịch, người Trung
Quốc ăn 12 cái tết (tiết) trong năm: Nguyên đán (1 tháng giêng), Khai hạ (7
tháng giêng), Nguyên tiêu (15 tháng giêng), Hàn thực (3 tháng ba), Thanh minh
(tháng ba), Đoan ngũ (5 tháng năm), Trung nguyên (15 tháng bảy), Trung thu (15
tháng tám), Trùng cửu (Trùng dương - 9 tháng chín), Trùng thập (10 tháng mười),
Hạ nguyên (15 tháng mười), Táo quân (23 tháng chạp). Bọn hào sĩ giang hồ vốn là
những hán tử thô hào, bồng bột, lãng mạn - nói theo ngôn ngữ Kim Dung, cũng
"ăn tết" quanh năm.
"Gió xuân đầm ấm
Ngàn liễu xanh tươi
Hoa phô sắc thắm
Hương nức lòng người"
"Tiết trời vào buổi dương xuân, ánh dương quang sáng lạn khắp miền
nam".
Đoạn văn ngắn trên đây của Kim Dung, mở đầu cho tác phẩm Tiếu ngạo giang hồ với
những nét phác rất đơn giản, giới thiệu cho chúng ta thấy khung cảnh mùa xuân ở
Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến, miền nam Trung Quốc. Trong khung cảnh đó, chàng trai
Lâm Bình Chi của Phước Oai tiêu cục cao hứng dẫn bọn tiêu sư đi săn rồi vào
quán bên đường uống rượu, gây ra cuộc ẩu đả với bọn phái Thanh Thành để rồi vướng
vào những cuộc đấu tranh đẫm máu trong suốt chiều dài cuốn truyện.
Ăn tết không gì vui bằng rượu. Rượu của Trung Quốc vốn rất phong phú về nguyên
liệu, về cách chưng và về tên gọi: Thiệu Hưng trạng nguyên hồng, Thiệu Hưng nữ
nhi hồng, Trúc diệp thanh, Mai quế lộ, Bách thảo mĩ tửu, Hầu nhi tửu, Bồ Đào tửu,
Cao lương tửu, Ngũ tiên tửu, Phần Dương tửu... kể cả Phục đặc gia tửu (rượu
Vodka). Bọn hào sĩ giang hồ cứ thế mà uống, uống xong rồi tuốt kiếm giương đao
nói chuyện phải quấy với nhau. Lệnh Hồ Xung và Điền Bá Quang trong Tiếu ngạo
giang hồ đấu với nhau trí mạng trên Túy tiên lâu ngoại thành Hành Sơn để rồi
trở thành bạn của nhau cũng qua chén rượu.
Biết Lệnh Hồ Xung quý rượu hơn tính mạng, bọn hào sĩ giang hồ các bang, các đảo,
các động tổ chức cuộc họp mặt ăn tết trên gò Ngũ Bá Cương để lấy lòng chàng và
lấy lòng Nhậm Doanh Doanh, ý trung nhân của chàng. Ngũ Bá Cương thuộc về hạ lưu
sông Hoàng Hà, giáp giới Hạ Trạch, Định Đào, phía Tây địa giới tỉnh Hà Nam, là
nơi thuận tiện cho quần hùng bốn châu Tề, Lễ, Dự, Ngạc tụ hội. Bọn hào sĩ giang
hồ bốn châu đã ăn cắp thuốc và bắt thầy thuốc về chữa bệnh cho Lệnh Hồ Xung;
mang theo những bò khô, bò quay (?), đùi gà và cả chục loại rượu đủ cho 3000
người ăn để tiếp đãi chàng. Tất cả chỉ vì một mục đích: được bái yết tôn dung Lệnh
Hồ Xung. Họ "ăn mặc kỳ dị, mặt mày dữ tợn", chuyên ăn những miếng
thịt to, uống những bát rượu lớn, tưởng đâu chẳng biết sợ trời sợ đất là gì. Thế
nhưng, nghe tiếng đàn tình tang của thánh cô Nhậm Doanh Doanh nổi lên, cả 3000
con người vứt chén bỏ tô hè nhau trốn sạch!
Gần như cuộc sống của giới võ lâm trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung chẳng thấy
ai làm nghề nghiệp gì, nhưng họ lại có vàng, có bạc, quanh năm ăn uống no say.
Khi Doanh Doanh ban lệnh buộc bọn hào sĩ giang hồ phải tìm cách giết Lệnh Hồ
Xung thì bọn Lão Đầu Tử, Tổ Thiên Thu và Kế Vô Khả Thi vẫn tuân lệnh. Nhưng vốn
đấu kiếm không lại Lệnh Hồ Xung, cả bọn 40 người nguyện dùng rượu ngon đổ cho Lệnh
Hồ Xung say đến chết! Họ lý luận: "Cái đó kêu bằng dùng sức không được
thì dùng trí" (?). Rồi từ 40 người, họ về kết bè phái lên tới 2000
người, bầu Lệnh Hồ Xung làm minh chủ, trống rong cờ mở tiến lên chùa Thiếu Lâm
vào rằm tháng chạp để giải cứu Nhậm Doanh Doanh. Đi đến bất kì nơi đâu, bọn hào
sĩ giang hồ cũng "ăn tết" thủng nồi trôi rế tới đó.
Có lẽ căn bệnh ăn nhiều uống lắm là căn bệnh phổ quát của con người. Biết làm
sao được? Cuộc sống ngắn ngủi có 100 năm, lại sẵn rượu ngon nhắm tốt, không uống
không ăn hóa ra cô phụ tấm lòng của cuộc đời dành cho mình lắm sao? Bọn hào sĩ
giang hồ của Kim Dung lại là những nhân vật tự nhiên chủ nghĩa, hễ có là ăn uống
ì xèo như ngày tết, không cần biết thức đó do ai làm và làm cho ai. Trong Thiên
Long bát bộ, có một đoạn tao ngộ khá vui: bọn Tần gia trại ở Hà Sóc vô tình chạm
mặt bọn phái Thanh Thành ở Tứ Xuyên trong Tính hương tịnh xá của Đoàn A Châu tại
Giang Nam. Mục đích chung của họ là tìm Mộ Dung Phục để trả thù. Trong khi bọn
đệ tử Thanh Thành ăn chay, ngồi trơ như gỗ đá thì bọn Tần gia trại lại nhậu nhẹt
tưng bừng. Chúng lấy hết những rượu hoa nhài, Mai Quế lộ, Mai hoa lộ do A Châu
chưng cất ra uống, lại buộc lão Cố - đầu bếp của A Châu, phải xào nấu thức nhắm
cho chúng thưởng thức. Để trả thù, lão Cố vừa nấu nướng vừa xỉ mũi, khạc nhổ đờm
rãi vào thức ăn, "phục vụ" cho chúng anh hùng Tần gia trại!
Nếu hình thái ăn tết tập thể có vẻ lúi xùi, lộn xộn thì hình thái ăn tết cá
nhân lại có vẻ đàng hoàng, trật tự hơn. Chúng ta có thể tìm gặp trong Thiên
Long bát bộ hình ảnh của một người ngồi nhậu trên Tùng hạc lâu, thành Vô
Tích, đất Giang Nam: "Một đại hán ngồi đầu mé tây, hai mắt sáng như
điện, thân thể cao lớn, trạc ngoài 30 tuổi, phục sức có vẻ sơ sài mộc mạc, mặt
vuông chữ điền, tướng mạo không tuấn tú nhưng oai phong lẫm liệt". Đó là
Kiều Phong, bang chủ Cái bang Trung Quốc. Anh ta mời Đoàn Dự, vương tử nước Đại
Lý đối ẩm với một mâm thịt bò chín, một bát canh lớn và ba hồ rượu to, mỗi hồ
mười cân, mỗi cân tương đương 600 gram, vị chi khoảng 18 lít. Cả hai cưa đôi số
rượu đó, tính ra mỗi người uống được 40 bát, tương đương chín lít. Chắc chắn là
tác giả có thổi phồng con số này để khắc họa đậm nét thêm hai hình tượng anh
hùng của giới võ lâm thời nhà Tống.
Ở chừng mực nào đó, việc đối ẩm của giới võ lâm thể hiện những nét văn hóa nhất
định, không phi văn hóa và tự nhiên chủ nghĩa như việc loạn ẩm của quần hào. Ta
có thể tìm ra được những biểu hiện văn hóa như vậy trong cuộc gặp gỡ giữa Kiều
Phong và Công Dã Can, trang chủ Huyền Sương trang trên Vọng giang lâu ở thành
Giang Âm, thượng lưu sông Trường Giang. Kiều Phong và Công Dã Can, mỗi người
bưng một bát rượu đầy, thách đấu với nhau ba chưởng. Qua hai chưởng đầu, Công
Dã Can còn giữ được bát rượu trong tay. Qua chưởng thứ ba, anh ta không chịu nổi
được sức mạnh của Kiều Phong, Công Dã Can chỉ than: "Tiếc quá, thực uổng
bát rượu ngon". Qua câu nói đó, Kiều Phong đánh giá Công Dã Can là một anh
hùng chân chính, một hảo hán tử.
Trong năm cách uống rượu (ẩm): độc ẩm, đối ẩm, cộng ẩm, quần ẩm và loạn ẩm thì
cách loạn ẩm là lộn xộn nhất, lăng nhăng nhất. Bọn hào sĩ giang hồ vốn là những
người ít học, lại văn vô đệ nhất, võ vô đệ nhị, ai cũng tự cảm thấy mình là bậc
anh hùng, là con người siêu việt. Khi cả bọn họp mặt nhau lại, khó khăn lắm mới
bầu ra được người thống lĩnh. Khổ thay, người thống lĩnh đó tài trí và võ công
chưa chắc đà hơn ai, lại không qua một trường huấn luyện chỉ huy nào nên đội
ngũ được thống lĩnh vốn đã ô hợp lại càng thêm xộc xệch. Trường hợp của Ô Lão Đại
thống lĩnh bọn quần tiên 36 động, 72 đảo gồm mấy ngàn người, tấn công lên núi
Phiêu Miễu, cung Linh Thứu chống Thiên Sơn Đồng Mỗ trong Thiên Long bát bộ là
như vậy. Bọn hào sĩ giang hồ này tự xưng là "tiên" nhưng thực ra chỉ
là một đám ăn hại, võ nghệ tào lao mà đầu óc lại nông choèn. "Quần
tiên" lên được tới cung Linh Thứu không thu được thắng lợi gì ngoài
việc ăn uống thả dàn và phóng uế bừa bãi. Vụ "ăn tết" đó
khiến cho cung Linh Thứu xú khí ngất trời xanh.
Gần như ai cũng công nhận rằng người Trung Quốc có kỹ thuật chế biến món ăn
tinh vi, khoa học, xảo diệu và cầu kỳ nhất. Đọc Lộc Đỉnh ký, chúng ta biết
được có trên 100 món hạt dưa, trên 100 món bánh mứt ăn chơi và cả ngàn món thức
ăn mặn. Nhân vật được quyền ăn ngon nhất trong Lộc Đỉnh ký là nhà vua
Khang Hy. Tuy nhiên, đúng như định đề Kim Dung đã rút ra: "Ở trên đời,
hoàng cung và kĩ viện là hai nơi trá ngụy nhất" cho nên trong cái ăn
vẫn có những điều trá ngụy buồn cười. Trên nguyên tắc, đồ ăn thức uống nào ngon
nhất, bổ nhất thì được dâng lên vua. Bọn trù phòng (đầu bếp) và bọn thái giám
thường hợp đồng mua thực phẩm từ nhà thầu bên ngoài đưa vào hoàng cung để chế
biến. Tuy nhiên, cũng như muôn đời, cuộc sống vốn tồn tại cái gọi là tham nhũng
mà trong kỹ thuật tham nhũng, bọn thái giám chính là tổ sư bồ đề. Cho nên, bất
kỳ món thực phẩm nào đưa vào hoàng cung dẫu có ươn thúi đi nữa mà kèm theo được
chút tiền lót tay thì món ấy mới xứng để dâng lên nhà vua và các hậu phi; món
nào dù có tươi ngon đến mấy mà thiếu tiền lót tay cũng trở thành ươn thối. Con
heo được nuôi bằng những vật trân quý như Đậu hoàng Nhân sâm, Hoa điêu, Phục
linh, có tên là Đậu hoàng nhân sâm trư, Hoa điêu phục linh trư được bọn quần
hùng Thiên Địa hội làm sẵn, nhét người vào trong đó để đưa đến tổng quản thái
giám Vi Tiểu Bảo (người của Thiên Địa hội làm nội tuyến trong hoàng cung). Bọn
chúng giả vờ quên đưa tiền lót tay để Vi Tiểu Bảo chửi toáng lên, buộc đưa heo
về phòng mình khám nghiệm và cứu người ra. Những món thịt heo trân quý như vậy
ít khi đến miệng vua Khang Hy. Nó dùng làm thức đưa cay cho quí vị thái giám
trù phòng và thị vệ dưới quyền Vi Tiểu Bảo. Ngay cả quần hùng Thiên Địa hội
cũng được “ăn theo” nhiều món khoái khẩu mà chỉ có trong hoàng cung mới
nấu nướng được. Cho nên, quanh năm suốt tháng, những ai đi theo Vi Tiểu Bảo đều
được ăn tết. Họ "ăn tết" từ hoàng cung ra đến quanh thành Bắc
Kinh, từ Bắc Kinh đến Vân Nam, từ Vân Nam đến Dương Châu, từ Dương Châu đến
biên giới Trung - Nga ở vùng Hắc Long Giang. Kiến thức về văn hóa thì Vi Tiểu Bảo
khống có lấy một xu nhưng kiến thức về đánh bạc bịp, làm tiền và nhất là ăn uống
thì Vi Tiểu Bảo là nhân vật siêu hạng.
Trong 12 bộ tiểu thuyết võ hiệp của mình, Kim Dung đã dành nhiều trang nói về
các đồ ăn thức uống, cách chế biến, cách dùng. Có lẽ chủ nghĩa dân tộc cũng hằn
sâu vào những trang sách này của ông: ông không che giấu được niềm tự hào khi
nói về nghệ thuật ăn uống của người Trung Quốc, và đối với những đồ ăn thức uống
của dân tộc khác, ông thường chê là hủ lậu. Và cũng có lẽ do âm vang lịch sử về
nỗi thống khổ của dân tộc trong những năm Bát quốc liên quân tấn công triều
Thanh, cuộc xâm lược của phát xít Nhật vào vùng Đông Bắc, những tao loạn trong
quá trình đấu tranh Quốc - Cộng đã khiến cho hàng triệu người Trung Quốc đói
rét lầm than nên Kim Dung đã hào phóng để cho bọn hào sĩ giang hồ trong tác phẩm
võ hiệp của mình ăn tết thoải mái, không nhằm ngày tết cũng tiểu yến, đại yến
như thường. Họ đi đến đâu là được ăn nhậu no say đến đấy mặc dầu thấy họ hiếm
có nghề nghiệp, tiền bạc. Bọn hào sĩ giang hồ chỉ có được cái miệng rộng và cái
dạ dày to. Hoặc giả đó cũng có thể là một mơ ước nhân bản của Kim Dung: mơ ước
về một nền văn minh phồn thực tự nhiên. Ông mong đồng bào mình suốt đời được ăn
ngon, mặc đẹp. Mà suy cho cùng, nếu được thảnh thơi ăn tết quanh năm thì loài
người quả thật hạnh phúc.
Bọn hào sĩ giang hồ tiếp thị
Tiếp thị là một khái niệm hoàn toàn mới mẻ trong thời đại chúng ta. Cổ văn
Trung Quốc không có hai từ tiếp thị. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là
những hành động tiếp thị quảng cáo hoàn toàn không có trong các xã hội cổ đại
Trung Quốc.
Bọn hào sĩ giang hồ trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung là những nhân vật được
hư cấu từ thế kỷ thứ 10 (nhà Nam Tống) đến thế kỷ thứ 18 (triều Càn Long, nhà
Thanh) ở Trung Quốc. Hoạt động chủ yếu của họ là sống trên đường đao mũi kiếm,
hành hiệp cứu đời. Thế nhưng, điều đặc biệt là họ cũng biết “tiếp thị”, hiểu
theo cái nghĩa là biết giới thiệu mặt hàng đến người mua và mua bán khá sòng phẳng.
Mở đầu bộ Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung để cho nhị đệ tử phái Hoa Sơn là
Lao Đức Nặc dẫn con gái của sư phụ là Nhạc Linh San hóa trang và mạo danh là
ông cháu, tìm xuống ngoại thành Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến sang lại tiệm bán rượu
để theo dõi hành tung bọn phái Thanh Thành tiến đánh Phước Oai tiêu cục. Họ
treo biển mới, gọi quán rượu của mình là Đại Bảo; Lao Đức Nặc xưng là lão Tát;
Nhạc Linh San xưng là Uyển Nhi. Chính Lâm Bình Chi, người của Phước Oai tiêu cục,
sau khi đi săn đã ghé quán Đại Bảo uống rượu sinh sự và giết con trai của chưởng
môn phái Thanh Thành Dư Thương Hải tên là Dư Nhân Ngạn. Tiệm của Lão Tát luôn
luôn có loại rượu Trúc diệp thanh danh tiếng. Thực ra, mua bán là chuyện phụ,
chuyện chính của hai sư huynh muội là dòm ngó bộ kiếm phổ của nhà Lâm Bình Chi
có bị phái Thanh Thành đoạt mất hay không.
Tiếu ngạo giang hồ cũng có một đoạn tiếp thị khá tức cười. Lão ăn xin
thành Hành Dương quảng cáo với Lệnh Hồ Xung rằng lão có loại rượu tên gọi Hầu
nhi tửu do “Khỉ ở trong rừng Tương Tây biết hái trái cây làm rượu”. Vì khỉ
hái quả rất tươi, rất ngọt nên chúng nấu rượu cực ngon. Lão ăn xin thừa lúc khỉ
đi vắng, lén vào động khỉ ăn cắp ba hũ Hầu nhi tửu, lại bắt thêm một con khỉ nhỏ
để về… nấu rượu. Lệnh Hồ Xung nghe lão quảng cáo, trả lão ba lạng bạc để xin một
hớp Hầu nhi tửu. Nhưng hắn vận Hỗn nguyên khí công, một hớp của hắn uống cạn sạch
nửa bầu Hầu nhi tửu của lão ăn xin khiến lão lăn ra kêu khóc, bắt đền.
Thỉnh thoảng, bọn hào sĩ giang hồ cũng có nghề nghiệp rõ rệt. Hà Tam Thất, cao
thủ núi Nhạn Đãng tỉnh Triết Giang, chuyên nghề bán hoành thánh. Kim Dung giới
thiệu: “Khắp hang cùng ngõ hẻm có hàng vạn người bán hoành thánh nhưng bán
hoành thánh mà thân ở trong võ lâm giang hồ chỉ có một mình Hà Tam Thất”. Lên
Hành Sơn dự lễ rửa tay gác kiếm của Lưu Chính Phong với tư cách một thượng
khách, Hà Tam Thất vẫn gánh gánh hoành thánh theo. Đệ tử phái Hoa Sơn ăn của
lão bảy bát, phải trả cho lão bảy mươi quan tiền. Định Dật sư thái của phải Hằng
Sơn nổi nóng đập bể của lão hai cái bát, hai chiếc muỗng phải đền cho lão mười
bốn quan tiền. Hà Tam Thất đến nơi nào là nơi đó có tiếng gõ lốc cốc của hai
thanh tre.
Tiếu ngạo giang hồ còn một nhân vật tiếp thị khá đặc biết: Hoạt bất lưu thủ
Du Tấn, chuyên bán nguồn tin. Lão này võ công cao cường, tướng tá phì mị,
chuyên đi nghe lén nguồn tin mật trong giang hồ rồi bán cho người khác để kiếm
tiền. Lão ăn nói rất khiêm tốn: “Một sợi lông của các vị còn lớn hơn bắp
đùi của tiểu đệ”. Nguồn tin mà ai nấy đều quan tâm là bộ Tịch tà kiếm phổ của
Lâm Bình Cho lọt vào tay ai. Du Tấn đòi tám người mua trả giá nguồn tin này tám
trăm lạng bạc nhưng chỉ có một người chịu đưa cho gã một trăm lạng. Cầm tiền
xong, lão giả bộ ngó ra đường, la lớn: “Chao ôi, Đông Phương giáo chủ bao
giờ người mới đến”. Ai nấy tranh nhau nhìn ra đường thì Du Tấn vận khinh công tột
đỉnh, chạy trốn biệt. Hóa ra, lão là kẻ lừa đảo. Cho nên bọn hào sĩ giang hồ gọi
lão là Du tẩm nê thu (con lươn tẩm trong dầu). Con lươn đã trơn, lại tẩm dầu
còn trơn tuột hơn nữa; thật khó mà bắt được Du Tấn để lấy lại tiền. Mà có lấy
được tiền thì đồng tiền ấy cũng sứt mẻ, trăm lạng chưa chắc còn được vài lạng bởi
ngoại hiệu của lão là Hoạt bất lưu thủ (tiền không còn dính lại trong tay).
Cá biệt, hào sĩ giang hồ tiếp thị để tránh cho mình một nguy cơ, che giấu một
bí mật. Hiệp khách hành có nhân vật Ngô Đạo Nhất võ công cao cường,
sau khi ăn cắp được Huyền thiết lệnh, đã trốn về Hầu Giám tập tại phủ Khai
Phong giả làm một bà già lưng gù bán bánh tiêu. Bọn Kim Đao trại nắm được tin ấy,
đưa đầu lãnh Chu Mục xuống đánh Ngô Đạo Nhất. Trong lúc nguy cấp, Ngô Đạo Nhất
nhét Huyền thiết lệnh vào trong chiếc bánh tiêu nóng hổi, mời kẻ đến đánh mình:
“Đại gia ăn bánh ư? Một đồng một cái”. Gã hán tử giang hồ hất tay, chiếc bánh
văng ra rảnh nước và được một chú bé ăn xin nhặt được. Bộ Hiệp Khách hành mở
đầu với một màn tiếp thị oái oăm và bất ngờ như vậy.
Hoạt động tiếp thị được bọn hào sĩ giang hồ thực hiện đôi khi còn nhằm mục đích
tìm ra kẻ thù để báo thù. Đó là chuyện được Kim Dung thuật lại trong Tố tâm
kiếm tức Liên thành quyết. Địch Vân muốn tìm ra Vạn Khuê, kẻ đã giết
sư muội của mình. Chàng quay về Giang Lăng, thấy bọn hào sĩ giang hồ đổ xô vào
các hiệu sách tìm mua Đường thi tuyển tập đến nỗi không còn một bộ Đường
thi tuyển tập nào. Biết họ mua tuyển tập này đề tìm ra câu mật ngữ chỉ đường đi
tìm kho báu giá trị Liên thành và Vạn Khuê giết vợ cũng chỉ vì người vợ không
chịu tiết lộ cho Vạn Khuê câu mật ngữ đó. Địch Vân nghĩ đến chuyện tiết lộ câu
mật ngữ để tìm Vạn Khuê. Chàng mua vải trắng, mực tàu viết một đoạn mật ngữ: “Giang
Lăng thành Nam, Tây Thiên Ninh tự, hoàng kim Phật tượng, hướng chi mô bái kiến
thành chúc cáo…” (Phía Nam thành Giang Lăng, hướng Tây chùa Thiên Ninh, có
pho tượng phật bằng vàng, hướng về phía đó mà thành tâm vái lạy và chúc cáo…).
Rồi chàng đem tấm vải đó treo ở cổng chính chợ Giang Lăng (như ta căng biểu ngữ
quảng cáo bây giờ vậy). Quả nhiên, bọn hào sĩ giang hồ hay tin, tìm đến ghi lại
dòng chữ đó. Vạn Khuê cũng đến, cải trang thành một gã nông dân nhưng Địch Vân
vẫn nhận ra hắn. Kiểu “tiếp thị” như vậy thật mới mẻ; rất gần với hiện
tượng “báo chữ to” trong lịch sử Trung Quốc hiện đại.
Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Kim Dung kể chuyện đệ tử thứ ba của phái Võ Đang
là Dư Đại Nham theo dõi bọn diêm tiêu (bán muối) của Hải Sa bang. Mỗi gã diêm
tiêu gánh một đôi thùng đựng muối trắng xóa và qua chiếc đòn gánh bằng sắt, Dư
Đại Nham mới biết được bọn này có võ công cao cường. Họ gánh muối đi từ Phúc Kiến
qua Triết Giang, không hề bán cho ai. Nên nhớ vào thời Nam Tống, hạt muối rất quý
với người Trung Quốc và thuế muối là một trong những loại thuế cao nhất. Ban đầu,
Dư Đại Nham cho rằng đây là một tập đoàn buôn muối lậu nhưng khi họ bao vây một
tòa miếu cũ, hốt muối ném khắp sân và ném vào tòa miếu thì Dư Đại Nham hiểu rằng
loại muối của họ là muối độc. Và từ màn “tiếp thị biếu không” muối độc
đó, Dư Đại Nham khám phá ra bí mật Hải Sa bang đang theo dõi để đánh lấy bảo
đao Đồ long.
Nhiều nhân vật của Kim Dung đã “tiếp thị” cuộc đời mình trước đường
đao mũi kiếm, coi cái chết nhẹ tợ lông hồng. Họ xả thân hành hiệp cứu đời, giúp
người yếu đuối, trị kẻ gian tham, lập lại “công đạo”. Cái sinh tử, tồn
vong với họ chỉ là một món đồ chơi trong cuộc chơi lớn. Kiều Phong, Lệnh Hồ
Xung, Hư Trúc, Hồ Phỉ, Thạch Phá Thiên, Trương Thúy Sơn, Trương Vô Kỵ, Địch
Vân, Quách Tĩnh, Dương Qua… là những con người như vậy. Và họ đã nhận lại được
những “món lợi” lớn lao: danh dự và phẩm giá của người anh hùng
phương Đông chân chính.
Hàng giả tống Vân Nam
Nhìn trên bản đồ Trung Hoa ngày nay, Vân Nam là một tỉnh phía Tây Trung Quốc,
Nam giáp Việt Nam và Lào, Tây giáp Miến Điện (Myanmar). Dưới triều vua Khang Hy
nhà Thanh, nhân vật đứng đầu cai trị vùng đất Vân Nam - Tứ Xuyên là Ngô Tam Quế,
tước hiệu Bình Tây vương.
Nguyên khi mới chiếm được đất nước Trung Quốc rộng lớn, người Mãn Châu gồm tám
bộ tộc, mỗi bộ tộc có một màu cờ gọi là Bát kỳ, thống nhất tôn tộc Ái Tân Giác
La (Aisin Gioro) làm lãnh tụ. Miền đất khởi nghiệp của họ chỉ gồm ba tỉnh Cát
Lâm, Cáp Nhĩ Tân, Liêu Ninh (gọi là Đông tam tỉnh) với vài triệu người thì làm
sao có thể cai trị được đất nước Trung Hoa với hàng trăm triệu người Hán tộc.
Chính vì vậy mà thời Thuận Trị và sau này là thời Khang Hy, các hoàng đế Mãn
Châu tích cực sử dụng những Hán gian, những tay sai đắc lực đã giúp người Mãn
Châu tiến công vào Trung Quốc, bổ dụng họ thành những phiên vương (vua nước
phên giậu) giúp nhà vua cai trị các vùng đất xa xôi (so với kinh đô Bắc Kinh).
Thời Khang Hy có tam phiên: Bình Tây vương Ngô Tam Quế cai trị Vân Nam - Tứ
Xuyên; Bình Nam vương Thượng Khả Hỷ cai trị Phúc Kiến; Tĩnh Nam vương Cảnh Tinh
Trung cai trị Quảng Đông. Ngô Tam Quế là phiên vương lớn nhất, binh lực gần bằng
binh lực hoàng đế.
Vua Khang Hy sinh năm 1654, lên ngôi năm 1662 (8 tuổi), thực sự cai trị năm
1667 (13 tuổi). Ông vua con này thực sự là một minh quân, biết nhìn xa trông rộng.
Học theo phong cách cai trị của nhà Minh, Khang Hy muốn thực hiện một chế độ
quân chủ trung ương tập quyền và muốn như thế thì truyện đầu tiên là phải triệt
hạ tam phiên. Trong tam phiên, Khang Hy chỉ e dè có Bình Tây vương Ngô Tam Quế.
Đó là những nét cơ bản trong canh bạc chính trị đầu đời Mãn Thanh trên đất
Trung Quốc.
Lộc Đỉnh ký của nhà văn Kim Dung được xây dựng trên bối cảnh lịch sử thực
tế đó. Khi nhà vua mới 15 tuổi, có một viên thái giám giả mạo đã lọt được vào
hoàng cung ở Bắc Kinh, trở thành bạn nhỏ của nhà vua. Anh ta là Vi Tiểu Bảo, 13
tuổi, con một kỹ nữ thành Dương Châu. Vua Khang Hy có một cô em gái (trong truyện
xây dựng là kết quả của mối tình thầm lén giữa một thứ phi của Thuận Trị hoàng
đế với một nhân vật trong đạo Thần long ở Liêu Đông) tên là Kiến Ninh công
chúa. Năm 15 tuổi, Vi Tiểu Bảo biết công chúa Kiến Ninh, bị cô tra tấn, đánh đập,
hành hạ rất khổ sở.
Kiến Ninh chỉ thua Vi Tiểu Bảo một tuổi nhưng cô rất hung ác, bạo ngược. Để tự
cứu mình, Vi Tiểu Bảo đã bẻ trật khớp tay, đánh đập, thậm chí lấy đèn đốt cháy
da ngực công chúa.
Kim Dung xây dựng nhân vật Kiến Ninh là một người mắc chứng khổ dâm
(Masochisme-perversion dans laquelle le sujet recherche le plaisir sexuel dans
la douleur: trạng thái bệnh lý mà trong đó chủ thể chỉ tìm thấy được khoái lạc
tình dục trong sự đau đớn thân xác). Cho nên khi Vi Tiểu Bảo đốt cháy ngực Kiến
Ninh, lấy roi đánh cô thì cô lại: "miệng cười chúm chím" lại
còn động viên: "Xin tướng công đánh mạnh vào" miễn là đừng
gây thương tích trên mặt cho cô. Và đôi thiếu niên đó đã sớm quan hệ tình dục với
nhau ngay trong hoàng cung có tiếng là thâm sâu nghiêm cẩn nhất của các triều đại
quân chủ Trung Quốc! Cô công chúa 14 tuổi sống cạnh gã thái giám giả, không còn
là một cô gái trong trắng nữa.
Tất nhiên vua Khang Hy không biết được điều đó. Tham vọng của nhà vua là làm
sao triệt hạ được tam phiên và đặc biệt đối với Ngô Tam Quế - đại phiên vương,
phải được thực hiện cho được một giải pháp chính trị an toàn. Nhà vua đánh một
nước cờ theo cách các vua Trung Quốc ngày xưa: dùng nữ sắc. Khang Hy tuyên bố gả
ngự muội là Kiến Ninh công chúa cho Ngô Ứng Hùng, con trai của Bình Tây vương
Ngô Tam Quế để đôi bên kết thông gia cùng chia nhau hưởng phú quý. Nước cờ đó của
vua Khang Hy thật cao cường: vừa loại được cô em gái bạo ngược ra khỏi hoàng
cung, xóa lấp được điều xấu xa khỏi dư luận cung cấm; vừa đánh lạc hướng Ngô
Tam Quế để củng cố binh lực Thanh triều, đủ sức đối phó nếu Ngô Tam Quế làm phản.
Vi Tiểu Bảo được nhà vua tin yêu, phong làm Tứ hôn sứ, có nhiệm vụ đưa Kiến
Ninh công chúa vượt mấy chục ngàn dặm từ Bắc Kinh đến Vân Nam để gả cho Ngô Ứng
Hùng. Theo pháp luật và đạo đức các triều đại quân chủ ở Trung Hoa, trinh tiết
của người phụ nữ được coi là tiêu chuẩn hàng đầu, tiêu chuẩn quyết định đời sống
lứa đôi. Một cô gái bình thường thất trinh đã là một trọng tội huống chi một cô
công chúa vị thành niên là ngọc cành vàng, lại là dâu tương lai của một phiên
vương đứng đầu các phiên vương? Vua Khang Hy, Ngô Tam Quế, Ngô Ứng Hùng và nhân
dân Trung Hoa thời ấy đâu biết được truyện động trời ấy của Kiến Ninh công
chúa. Chỉ có Vi Tiểu Bảo và Kiến Ninh công chúa biết chuyện. Vậy là món hàng giả
Kiến Ninh công chúa, cô gái lá ngọc cành vàng được hoàng thượng và thái hậu rất
cưng chiều, được tống tiễn về Vân Nam. Đoàn người đưa công chúa đi đều cho Vi
Tiểu Bảo là thái giám thứ thiệt. Thế nhưng hắn chưa bao giờ "tĩnh
thân" thì làm sao gọi là thái giám. Vi Tiểu Bảo là một thứ thái giám giả mạo.
Cả hai thứ hàng giả mạo gặp nhau, cùng đi hết tháng này qua tháng nọ, biến hành
cung của công chúa điện hạ thành chỗ ái ân đầm đìa ngay trước mũi của thiên hạ.
Nghệ thuật hài hước của Kim Dung trong văn chương đã được phát triển đến tột độ,
khó tìm thấy được trong bất kỳ một tác phẩm văn học hài hước nào từ trước đến
nay! Tác giả cũng chua chát nhận xét: "Con người thiếu niên vừa biết
mùi nam nữ chung chạ mà nàng công chúa kiều mi kia lại dùng thiên binh vạn trạng
để quấn quít lấy gã thì còn dứt tình sao được". Cho nên, quân sĩ tiền
hô hậu ủng đi về Vân Nam thì cứ đi, riêng Đô thống, Tứ hôn sứ suốt ngày cứ nằm
lỳ trong phòng công chúa.
Làm sao để giải quyết hậu quả không lường khi Ngô Tam Quế phát hiện ra sự thật
kinh thiên động địa là Kiến Ninh công chúa không còn gái trinh? Phản ứng của
chàng phò mã Ngô Ứng Hùng sẽ như thế nào nếu biết được thái giám giả Vi Tiểu Bảo
đã biến vợ mình thành hàng giả?
Người Trung Quốc đã có những thứ mà Nguyễn Du từng đề cập trong Truyện Kiều: "Nước
vỏ lựu, máu mào gà" nhưng cả Vi Tiểu Bảo và Kiến Ninh đều còn trẻ
con, không thể biết được hai món chết người đó. Tác giả Kim Dung giải quyết một
cách khác, kinh khủng hơn. Đưa Kiến Ninh tới Vân Nam, Vi Tiểu Bảo bàn với Bình
Tây vương Ngô Tam Quế coi ngày tốt, giờ tốt để tổ chức lễ cưới cho vừa long trọng,
vừa rạng danh Bình Tây vương lại vừa đẹp lòng Khang Hy, vừa vinh dự cho Ngô Ứng
Hùng lại vừa xứng đáng với địa vị cao cả của Kiến Ninh. Vi Tiểu Bảo cứ kéo dài
thời giờ ra để còn tiếp tục đêm đêm còn vào phòng Kiến Ninh nữa chứ. Bản thân
Kiến Ninh thì chỉ muốn sống với Vi Tiểu Bảo và ra lệnh cho Vi Tiểu Bảo tìm mọi
cách để hạ sát gã tiểu tử Ngô Ứng Hùng. Nếu Ngô Ứng Hùng mà cưới cô, cô sẽ khai
ra với nhà vua huỵch toẹt mọi chuyện!
Mâu thuẫn được đẩy lên đến đỉnh điểm, có nguy cơ làm bùng nổ sớm cuộc tạo phản
của Ngô Tam Quế. Thế nhưng... Vi Tiểu Bảo đến thăm Ngô Tam Quế, được họ Ngô tặng
cho hai khẩu súng lục của người Nga (Kim Dung gọi là La Sát Hỏa khí; người Hán
thời ấy gọi là Tây dương hỏa khí). Vi Tiểu Bảo đưa tặng Kiến Ninh một cây, dạy
cô cách dùng súng. Trong một đêm Ngô Ứng Hùng tuần phòng chữa cháy, Kiến Ninh
đã cho gọi Ứng Hùng vào phòng riêng, dùng súng uy hiếp hắn phải đứng yên rồi bắn
vào bộ phận sinh dục của hắn. Cô tự xé áo mình để vu cáo cho Ngô Ứng Hùng đã muốn
cưỡng bức tình dục đối với cô. Sự kiện động trời đó xảy ra khiến Ngô Tam Quế sợ
vỡ mật, vừa đau đớn vì con, vừa sợ mang tiếng với dư luận hai tỉnh Vân Nam - Tứ
Xuyên. Lão phải đem bạc đút lót cho bọn thân binh từ Bắc Kinh đưa công chúa tới
để mọi người khỏi tâu lên Khang Hy hành vi càn rỡ, đại nghịch khi quân của Ngô Ứng
Hùng. Và lão tổ chức gấp đám cưới; pháo nổ khét lẹt cả thành Côn Minh để dàn cảnh
cho cuộc "trăm năm hạnh phúc" của lứa đôi Kiến Ninh - Ứng Hùng. Hơn
ai hết; Ngô Tam Quế, Ngô Ứng Hùng, Kiến Ninh, Vi Tiểu Bảo đều biết đám cưới kia
là hàng giả.
Luật của Trung Quốc buộc cưới xong, đôi vợ chồng mới phải hoàn hôn. Ngô Ứng
Hùng và Kiến Ninh phải quay về Bắc Kinh để lạy tạ vua Khang Hy và thái hậu. Đây
là một nước cờ khác của Khang Hy nhưng nhà vua không bàn cho Vi Tiểu Bảo biết;
ông muốn bắt giữ Ngô Ứng Hùng làm con tin để đủ thời giờ nhờ các tu sĩ dòng Tên
phương Tây chế tạo súng đại bác, đối phó với cuộc tạo phản của Ngô Tam Quế. Ngô
Ứng Hùng về Bắc Kinh được phong phò mã, được cấp phủ đệ xinh đẹp. Hắn có tất cả,
trừ một thứ: được chung chăn gối với Kiến Ninh. Khổ thay, chuyện ấy đã có bá tước
Vi Tiểu Bảo làm thay.
Viết bộ Lộc Đỉnh ký, Kim Dung muốn viết về những món hàng giả của Trung Quốc:
những con người giả mạo. Vi Tiểu Bảo là thái giám giả, công chúa Kiến Ninh là
cô gái lá ngọc cành vàng giả, Ngô Ứng Hùng là phò mã giả mà Ngô Tam Quế cũng là
bậc "trung thần" giả. Bản thân hoàng đế Khang Hy cũng là một vị vua
nhân từ giả mạo. Mạt cưa, mướp đắng gặp nhau: Lộc Đỉnh ký quả là một
siêu phẩm về sự giả mạo. Nhưng nó có một chất rất thật, rất đời mà không một
tác phẩm nào có được, kể cả những tác phẩm khác của Kim Dung: mặt sau của tấm
huy chương đạo đức Trung Hoa trong thế kỷ 17.
Lịch sử Thanh triều ghi rõ: năm 1677, Ngô Tam Quế nổi loạn ở khu vực Động Đình
hồ, chiếm Tứ Xuyên và Vân Nam, xưng là Ngô quốc công. Tay đại Hán gian này dựng
cờ, truyền hịch "Hưng Minh thảo Lỗ" (khôi phục lại nhà Minh
và bài trừ rợ Mãn Châu). Nhưng chính sách cai trị nhân từ, sáng suốt của Khang
Hy đã thu phục được lòng dân Trung Quốc; không có ai ủng hộ Ngô Tam Quế. Ngô
Tam Quế lên làm vua ba tháng thì mất; Khang Hy chặt đầu Ứng Hùng, bình định được
miền Tứ Xuyên - Vân Nam. Triều Khang Hy được coi là triều đại cực thịnh của nhà
Thanh trên đất Trung Quốc.
Bức giác thư giã từ thế kỷ
Cuộc tình anh với em Chỉ còn giây phút thôi Thì tình xin sáng tươi Tựa ngàn tia
nắng rọi (Lời một bài hát) Lần đầu tiên, lần thứ hai, lần thứ ba… tôi cứ
ngỡ đọc tác phẩm của Kim Dung là đi tìm một thế giới khác ngoài thế giới thực tại
- một “thiên ngoại hữu thiên”, - để trốn vào trong đó. Tôi cứ cho rằng thế
giới của tiểu thuyết võ hiệp là một thế giới viễn mộng và nó trở thành tháp ngà
cho chính mình, giúp mình lãng quên thực tại.
Trong tâm phân học, Sigmund Freud đã nói cảm xúc (émotion) như một trò ảo thuật
nhằm hư vô hóa hoàn cảnh, giúp cá nhân từ chối hoàn cảnh. Thí dụ như trước một
con cọp dữ, tôi không làm gì được nó, vậy tôi ngất xỉu để quên nó đi, để coi nó
như không có trên đời. Tôi cũng đã một thời coi chuyện đọc tác phẩm tiểu thuyết
võ hiệp Kim Dung là một màn ảo thuật giúp tôi hư vô hoá hoàn cảnh, giúp tôi
lãng quên đời.
Thế nhưng, đến tuổi tri thiên mệnh, tôi mới nhận ra được rằng ý nghĩ đó là sai
lầm. Phải, Kim Dung sáng tạo ra một thế giới mới - thế giới võ hiệp - nhưng
phiêu lưu vào thế giới đó, tôi hoàn toàn không hề lãng quên đời mà ngược lại,
tôi càng thấy cuộc đời hiện thực gần gũi hơn, thân thiết hơn. Đọc những tác phẩm
tiểu thuyết hiện thực ngày nay, tôi bỗng cảm thấy cuộc đời xa cách quá. Ngược lại
đọc tiểu thuyết của Kim Dung, tôi thấy võ lâm sao mà quen thuộc quá, quen thuộc
như chính tôi đang sống, đang góp mặt trong đó. Hóa ra, có hai thứ hiện thực; một
hiện thực được hư cấu bay bổng tuyệt vời rất gần gũi với từng số phận con người;
một hiện thực bị bóp méo qua cái nhìn hạn hẹp và sự gia công chưa tới của nhà
văn khiến nó trở thành ốc đảo, lẻ loi, hoàn toàn xa lạ với đám đông, trong đó
có tôi.
Võ lâm là gì? Đó là một xã hội có những von người công chính, ngay thẳng, khao
khát lập lại sự công bằng, trừ khử cái ác, kêu gọi lòng thương yêu quý trọng phẩm
giá con người, làm sáng lên phẩm giá con người. Đó cũng là một xã hội mà cái
ác, cái xấu còn đang ngự trị; những ngụy quân tử đang đóng vai những người quân
tử để lừa bịp thiên hạ mưu cầu hạnh phúc và quyền lực cho bản thân. Đó là một
xã hội mà sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác khá rõ, nhưng đôi khi do định
kiến sai lầm, người ta lẫn lộn cái thiện là cái ác, cái ác là cái thiện, làm nảy
sinh sự mâu thuẫn trong chính nhận thức của từng người qua từng thời điểm khác
nhau. Tất nhiên cái thiện sẽ thắng cái ác, cuộc sống sẽ vươn tới cái tốt đẹp
nhưng để có được tương lai đó, người ta phải trải qua thiên ma bách chiết,
trong đó có sự tự chiến thắng chính cái xấu của mình.
Võ lâm là gì? Đó là một xã hội sống để yêu thương nhau, để bày tỏ tấm lòng với
nhau, để cho nhau, riêng cho nhau một đời một kiếp. Đó là một xã hội mà càng
thâm nhập ta càng cảm thấy gần gũi hơn. Có một lần, tôi đứng trước hiên nhà và
quan sát đóa phù dung. Buổi bình minh hoa trắng mịn màng như làn da của một em
bé đẹp. Buổi trưa hoa chuyển màu hồng. Buổi chiều hoa có màu tím bầm rồi sau đó
hoa tàn đi. Ai cũng bảo đời hoa phù dung ngắn ngủi, bất hạnh. Nhưng hãy nói ngược
lại, bản thân đời sống ngắn ngủi bất hạnh đó vẫn đem lại cho cuộc sống một vẻ đẹp
độc đáo mà ngàn hoa khác không thể mang lại được. Đặng Thế Phong chỉ sống có
ngoài ba mươi tuổi, để lại cho đời ít nhất hai ca khúc bất hủ. Có người sống
năm sáu chục năm tuổi, viết hàng trăm ca khúc mà vẫn nhàn nhạt lửng lơ. Có người
sống đến bách niên mà chẳng để gì lại cho đời ngoài hai từ trường thọ. Ta chọn
ai, người làm đẹp cho cuộc đời mà yểu mệnh hay người chẳng làm cho đời đẹp mà sống
lâu? Ta chọn hai ca khúc bất hủ hay một trăm ca khúc nhàn nhạt?
Chưa bao giờ tôi nghĩ người cầm bút viết văn là người giáo dục cho đời. Hễ khi
người ta dùng văn chương lên gân dạy đời thì người ta chẳng dạy được ai cả (và
cũng chẳng ai muốn đọc cả). Văn chương chỉ đơn giản là một thứ trò chơi, trò
vui. Ông Hàn Dũ nói “Văn dùng để chở đạo” (Văn dĩ tải đạo) là một
cách nhắc nhở cho người cầm bút phải viết văn đứng đắn, có ích cho đời chứ
không phải dạy đời.
Văn chương đơn giản chỉ là thứ bông hoa chưng cho đẹp. Trong quan niệm đó, tôi
chỉ viết văn để cho đời giải trí, kể cả toàn bộ tập Kim Dung giữa đời tôi cũng
chỉ để cho bạn đọc giải trí. Thảng hoặc, trong hàng ngàn trang sách kia, bạn bắt
gặp được đôi ba cụm từ đắc ý hoặc may mắn tìm thấy vài kiến thức nho nhỏ thì
tôi cũng đã lấy làm hạnh phúc lắm rồi. Tôi chỉ mong đem lại những giây phút giải
trí cho bạn đọc. Một ngày đầy những lo âu, căng thẳng, buồn bã; cầm quyển sách
lên đọc trăm trang, liên tưởng đến một thế giới khác, sống với một tâm trạng
khác, như vậy quyển sách đã có ích cho đời. Tôi vẫn sợ mình sông thừa sống uổng.
Ngay trong những giây phút đau đớn nhất của đời mình, tôi vẫn muốn làm thêm một
cái gì cho đời, cho người. Cái lưng đau kinh khủng, phải chích Dectancyl vào tủy sống; các bác sĩ dặn bớt ngồi, phải nằm nghỉ nhiều. Nhưng tôi nằm nghỉ sao được.
Tôi đóng chặt cửa phòng bệnh, viết một ngày mười hai tiếng đồng hồ. Viết cái
gì? Viết Kim Dung giữa đời tôi.
Điều đáng sợ nhất đối với con người là sự cô đơn. Một số nhân vật của Kim Dung
tàn tạ, chìm khuất trong nỗi cô đơn. Đó là Hà Túc Đạo, Tiểu Long Nữ, Dương Qua,
Lâm Triều Anh, Vương Trùng Dương, Kiều Phong, Đinh Điển… Vốn xưa họ có một tình
yêu, một người yêu nhưng rồi cuộc sống chia xa đôi lứa. Và rồi, họ mất đi một nửa
của chính mình, cô đơn suốt quãng đời còn lại.
Thật hạnh phúc cho những lứa đôi được sống bên nhau: Hư Trúc và Ngân Xuyên, Lệnh
Hồ Xung và Nhậm Doanh Doanh, Địch Vân và Thủy Sinh, Hồ Phỉ và Miêu Nhược Lan…
Thật hạnh phúc cho những lứa đôi được chết bên nhau: Thúy Sơn và Hân Tố Tố.
Tình yêu cứu vãn thế giới chứ không phải là một thứ gì khác.
Có bao giờ người nhìn thấy chân mây trắng vương vấn trên đỉnh núi kia? Nó có đấy
nhưng cũng không có đấy. Nó vương trên đỉnh núi rồi sẽ bay đi, sẽ tan đi nếu có
một tác động ngoại lai của gió của nắng. Người có bao giờ soi bóng trên nguồn
suối giữa rừng đại ngàn? Nó có đấy, cái bóng dáng tươi đẹp kia mà cũng chẳng có
đấy. Cuộc sống của con người cũng vậy, có đấy mà cũng chẳng có đấy. Nó ngắn ngủi
vô cùng, hữu hạn vô cùng. Tại sao không nhìn nhau bằng một ánh mắt dịu dàng,
không nói với nhau một lời đằm thắm. Ngày mai, khi giã từ cuộc sống nào ai có
mang được gì theo đâu.
Triệu Mẫn thương yêu Trương Vô Kỵ. Cô đã đột ngột cầm tay Trương Vô Kỵ cắn một
cái, hy vọng dấu răng sẽ gây thành vết thương, vết thương sẽ mãi mãi còn trên
da thịt để một ngày mai, lỡ có xa nhau, Vô Kỵ nhìn thấy dấu vết trên tay mình
là vẫn nhớ đến Triệu Mẫn. Sự tỏ tình của cô gái Mông Cổ quả thật độc đáo, đầy
sáng tạo, rất phàm tục nhưng cũng rất thi vị. Từ đó suy ra, ai gây cho ta một
chấn thương tâm hồn hay thể xác, ta sẽ nhớ mãi người ấy suốt đời. Vâng suốt đời,
hỡi cỏ thơm của đời tôi.
Bồng Sơn là một thị trấn nhỏ của tỉnh Bình Định, nằm trên Quốc lộ 1A. Từ đây,
nhìn về phía Tây là núi An Lão, chìm trong mây mù, sương phủ. Tôi qua Bồng Sơn
một chiều mùa đông lặnh căm căm, trong căn phòng trọ uống ly rượu chát đỏ và
nghĩ đến đoạn Tiểu Siêu chia tay Trương Vô Kỵ. Và tôi làm thơ: Gần cuối năm 49
Rằng:
Nguyên tiêu, trăng đã sáng trên đồi
Chờ với nhé, người ơi chờ ta nhé
Như thuở ấy đôi lòng còn rất trẻ
Nhìn hoàng hôn mà cứ ngỡ bình minh
Khi heo may phong kín cuộc hành trình
Ta ghé lại bên đời phơi chiếc áo
Và chợt thấy một ngàn hoa thạch thảo
Nở một lần để tàn lụi một ngày
Biển ở bên kia, sóng vỗ bên này
Bởi trái đất vẫn xoay cơn mộng mị
Ta gọi lại cuối nóc lòng thế kỉ
Mà trọn đời không thấy một âm vang
Con ngựa già lên đỉnh dốc lầm than
Gặm cọng cỏ thơm mùa xuân bát ngát
Để đủ sức mà cất cao tiếng hát
Rằng: chờ ta về hỡi Nguyên tiêu
Trời xa xanh lồng lộng bóng mây chiều
Ai bay được như ánh hồng Trang Tử
Sau bài thơ là những chuỗi ngày tháng u buồn. Trong nỗi cô đơn tuyệt vời, tôi
tìm đến với tác phẩm Kim Dung nhiều hơn, chia sẻ với các nhân vật, các số phận
trong tác phẩm của ông sâu sắc hơn. Rồi sẽ có một ngày, tôi như cánh chim bay
khỏi bầu trời này. Thế kỉ đang ở trong chiều tàn, trong hoàng hôn, trong chạng
vạng tối. Người ta cho rằng nói đến cái chết là bi quan, tiêu cực. Không phải vậy
đâu. Tôi nghĩ rằng ai dám nhìn vào số phận con người, số phận của chính mình,
làm hết trách nhiệm của một con người với cuộc sống rồi thu xếp hành trang, chờ
đến lúc cánh cửa hư vô mở ra, lên đường trở về với hư vô là người can đảm.
Trương Thúy Sơn, Hân Tố Tố, Huyền Nhạn, Huyền Khổ, Kiều Phong, A Tử đã lên đường.
họ ung dung ra đi như đã tình cờ đến với cuộc đời này, mến trải đủ bao nhiêu buồn
vui sướng khổ. Sinh, Lão, Bệnh, Tử là một vòng tuần hoàn đương nhiên mà loài
người phải kinh qua, nào có chi để đáng ta phê phán tích cực hay tiêu cực, bi
quan hay lạc quan. Thế kỉ này đang tung nắng ban chiều Cho lòng người bâng
khuâng nhớ nhau Trước cửa trăm năm rất mơ hồ Còn một ngày vui bao nỗi vui. Có một
chiều, tôi trở về căn nhà lạnh giá, bên ngoài mưa rơi. Loài người đâu rồi? Sao
tôi ở lại một mình giữa gối chăn lạc lõng? Tôi đi tìm sự cứu rỗi, sao chỉ gặp nỗi
cô đơn? Cuộc tình anh với em Chỉ còn giây phút thôi Thì tình xin sáng tươi Tựa
ngàn tia nắng rọi. Tôi không không có ngàn tia nắng. Tôi chỉ mong có một
tia nắng rọi. Cuối thế kỷ rồi, đêm tối đang đến để ngày mai có một bình minh
khác lên. Tôi mơ một tiếng hát, một cung đàn hòa bình trung chính như
khúc Tiếu ngạo giang hồ vang lên trong cuộc sống. Ngày mai, thế kỷ 21
sẽ tới, thiên niên kỷ thứ ba của loài người sẽ tới. Tôi đứng ở chiều vàng cuối
thế kỷ, nhìn lên đỉnh thiên thu và tự hỏi tôi là ai, từ đâu tới, ngày mai sẽ về
nơi đâu.
25/10/2020Vũ Đức Sao Biển
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét