Kim Dung giữa đời tôi 2
Chất hài trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung
Tuy nhiên, nói đến tiếng cười trong Tiếu ngạo giang hồ, người đọc vẫn nhớ đến
Đào cốc lục tiên nhiều nhất. Đó là 6 anh em, tên là Đào Hoa Tiên, Đào Chi Tiên,
Đào Điệp Tiên, Đào Thực Tiên, Đào Cán Tiên, Đào Căn Tiên. Họ gồm đủ hoa, nhánh,
lá, cành, gốc, rễ nhưng bị cái tội hồ đồ, không phân biệt được ai là lão tam;
ai là lão tứ! Võ công cao cường, tâm ý tương thông, họ không sợ bất kỳ địch thủ
nào trên đời. Suốt ngày họ đánh nhau, văng tục, cãi lộn.. Mà cái kiếu cãi lộn của
anh em nhà họ Đào cũng rất hoạt kê, càng cãi câu truyện càng rối rắm. Nhìn dưới
khía cạnh triết lý, Đào Cốc lục tiên chính là những nhà luận lý học hình thức
(logique formelle) của phương Đông. Đào Cốc lục tiên mồm năm miệng mười, suốt
ngày chỉ nói, nói và nói; đến vua nhà Tống cũng không cấm họ im miệng được.
Nhưng có một người duy nhất có thể buộc họ câm miệng. Đó là Sát nhân danh y
Bình Nhứt Chỉ. Bình Nhứt Chỉ có lệ cứu được một người là ra lệnh cho người đó
hoặc anh em người đó đi giết một người khác. Trong một lần Đào Thực Tiên bị trọng
thương, bọn ngũ tiên bèn khiêng đến cho Bình Nhứt Chỉ chữa nhưng miệng vẫn nói
thiên hô bách sát. Bình Nhứt Chỉ quát một tiếng im là năm lão im ngay bởi vì nếu
không im, Bình Nhứt Chỉ sẽ buộc bọn tiên giết tên Đào Thực Tiên! Khi Lệnh Hồ
Xung được đưa lên gò Ngũ Bá Cương, Bình Nhứt Chỉ thú nhận rằng không thể chữa
thương cho chàng được. Bọn Đào Cốc lục tiên bèn trả thù, đặt ra câu hỏi:
"Cứu một người thì giết một người. Nay không cứu được người thì giết
ai?" Chính cái luận lý học hình thức của bọn lục tiên đã khiến Bình Nhứt
Chỉ tự suy nghĩ và cuối cùng, tự vận kinh mạch cho đứt, chết đi để xứng với ngoại
hiệu Sát nhân danh y!
Lệnh Hồ Xung, Bất Giới hòa thượng, Bất Khả Bất Giới Điền Bá Quang, Đào cốc lục
tiên là cái trục hài hước của Tiếu ngạo giang hồ. Chung quanh cái trục đó còn
có nhiều nhân vật hài hước khác như Hướng Vân Thiên, Quang minh tả sứ của Triệu
Dương thần giáo; Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh, chưởng môn phái Hành Sơn;
bọn quần ni phái Hằng Sơn; bọn giang hồ thảo khấu 36 động 72 đảo... góp thêm tiếng
cười cho tác phẩm. Vì thế, Tiếu ngạo giang hồ tràn đầy tiếng cười lạc quan,
ngay trong những tình huống bi thương nhất. Chất hài hước trong kiếm hiệp Kim
Dung thường xuất hiện trong những tình huống nghịch lý, thoạt tiên thì có vẻ kỳ
quái nhưng đọc kỹ thấy thú vị vô cùng. Ta có thể tìm ra một hồi như vậy trong bộ
Hiệp khách hành. Phái Tuyết Sơn có nội biến, bọn Tiêu Tự Lệ, Thành Tự Học, Tề Tự
Miễn, Lương Tự Tiến bắt giam chưởng môn rồi quay ra đánh nhau để dành chức chưởng
môn. Ai cũng tự khoe khoang võ công mình cao cường và họ đánh nhau với những
chiêu thức độc ác nhất, tinh vi nhất. Giữa khung cảnh như vậy thì Trương Tam và
Lý Tứ, hai sứ giả của đảo Mộc Long đến phát thiếp mời chưởng môn phái Tuyết Sơn
đi ăn Lạp bát cúc ngoài biển Đông. Mà "ăn lạp bát cúc" có nghĩa là ra
đi không có ngày về. Cả bọn Tề Tự Miễn, Lương Tự Tiến, Tiêu Tự Lệ, Thành Tự Học
sợ quá, chẳng ai muốn tranh cái chức chưởng môn nữa. Trương Tam và Lý Tứ bó buộc
bọn họ phải đấu võ cho phân thắng bại để xác định chưởng môn. Thế là anh nào
anh nấy chỉ đấu cầu thua, thậm chí còn đưa tay chân của mình vào đao kiếm địch
thủ để được bị thương và dĩ nhiên, càng bị thương nặng càng tốt. Trận đấu có kiếm
bay, có máu chảy nhưng chất hài hước của bốn nhân vật cầu thua lại hóa giải được
chất sắt máu kia và làm cho chương tiểu thuyết cực kỳ sống động, thú vị.
Trong truyện võ hiệp của Kim Dung, có những nụ cười rất nóng và có những nụ cười
rất lạnh. Cười nóng là cười ha hả, cười đau cả ruột, mọi người cùng cười kể cả
độc giả. Trong Thiên Long bát bộ, mỗi khi Tinh Tú hải lão ma Đinh Xuân Thu và bọn
đệ tử của lão xuất hiện thì tiếng cười nóng lại rộ lên. Ấy bởi vì với phái Tinh
Tú, thói nịnh là một thứ võ công hàng đầu so với những thứ võ công khác trên đời.
Đã có những tên đệ tử phái Tinh Tú đem sư phụ Đinh Xuân Thu của mình so sánh với
Đức Khổng Tử và kết luận Đức Khổng Tử thua Đinh Xuân Thu vì Khổng Tử không có
võ công. Giá mà Đức Khổng Tử sống dậy, đọc được những dòng này, chắc hẳn ngài
cũng phải bật cười khoan khoái. Ngược lại với cười nóng là cười lạnh, buồn mà
cười, thương mà cười. Đó là mối tình của Du Thản Chi với A Tử. Đoàn A Tử là cô
bé ác độc, đệ tử của Đinh Xuân Thu, bắt được Du Thản Chi để hành hạ cho thỏa tính tàn bạo. Cô đã ra lệnh đánh Du Thản Chi thừa sống thiếu chết rồi nướng cái
lồng sắt đỏ chụp vào đầu y, biến y thành tên Thiết sửu giải trí cho cô. Nhưng
oái ăm thay, ngay từ cái nhìn đầu tiên, Du Thản Chi đã say mê tấm dung nhan mỹ
miều của A Tử. Hắn có thể hứng chịu cả trăm ngàn đau khổ để được nhìn thấy A Tử
nở một nụ cười. Đôi mắt hắn long lên căm hờn khi có ai hướng về phía A Tử một
cái nhìn thiện cảm. Hắn có một pho võ công rất kỳ bí là hàn khí của Kim tầm
trùng độc làm nội công và đồ hình của Dịch Cân Kinh làm chiêu thức. Hắn đánh ai
một chưởng thì người đó hóa thành băng tuyết ngay. A Tử đui hai mắt, không còn
nhìn thấy gì trên đời. Thế là Du Thản Chi đi nhờ người ta tháo cái lồng sắt ra
khỏi đầu mình và khuôn mặt của hắn trở thành khuôn mặt dị dạng của quỷ sứ. Hắn
kiếm một cái khăn trùm đầu, tìm về với A Tử và tự đổi giọng nói, xưng mình là
Trang Tụ Hiền; dẫn cô bé chu du giang hồ, khoe với cô rằng mình là kỳ nam tử, đẹp
như Phan An, Tống Ngọc! Rõ ràng là khi có mặt A Tử, hắn đã đánh cho nhiều người
thất điên bát đảo nên A Tử hết lòng tin cậy. Chính vì để bảo vệ bí mật cho những
lời khoe khoang khoác lác đó, hắn đã phải năn nỉ nhiều người khen hộ hắn anh tuấn,
đẹp trai để vừa lòng A Tử. Cái hài hước khi xây dựng cặp nhân vật A Tử - Du Thản
Chi của Kim Dung tràn đầy nước mắt, bảo cười cũng được mà bảo khóc cũng không
sai. Đó cũng là chất hài hước của Lỗ Tấn trong A.Q Chính Truyện khi A.Q được
đưa ra pháp trường!.
Được cười với những nhân vật của Kim Dung thật là một điều sảng khoái. Cái sảng
khoái đó nằm trong những diễn tiến ngộ nghĩnh của câu chuyện, khiến người ta
không tin cũng phải tin. Một thí dụ sinh động nhất là chuyện tuyển phu của công
chúa Văn Nghi nước Tây Hạ. Công chúa Văn Nghi đã từng bị Thiên Sơn Đồng Mỗ bắt,
cởi trần truồng và đem vào hầm nước đá tối thui cho nằm cạnh nhà sư Hư Trúc. Mục
đích của Đồng Mỗ là phá giới Hư Trúc và quả nhiên, nhà sư trẻ đã không thoát
qua khỏi vòng trần lụy. Lòng anh vừa đau khổ nhưng cũng vừa cảm thấy hạnh phúc.
Và suốt đời anh vẫn nhớ người trong mộng nhưng không biết nàng tên là gì, ở
đâu. Đùng một cái, nước Tây Hạ ra bảng chiêu phu cho công chúa Văn Nghi. Những
thế lực chính trị cảm thấy đây là thời cơ để phục hưng nền quân sự của quốc gia
vì kẻ nào làm phò mã nước Tây Hạ là kẻ đó có thể nắm thực quyền về quân đội.
Đoàn Chính Thuần nước Đại Lý buộc con là thế tử Đoàn Dự phải đi. Cô Tô Mộ Dung
Phục cũng đi đến cầu hôn với hy vọng phục hưng binh lực nước Đại Yên. Hoắc Đô
Vương tử nước Thổ Lỗ Phồn cũng đến tranh thủ. Chỉ có chàng Hư Trúc là đi chơi,
hoàn toàn không nghĩ đến chuyện tuyển phu. Tất cả chương trình tuyển phu chỉ gồm
có 3 câu: "Trên đời, người thích ai nhất? Người ấy tên gì, ở
đâu?". Các Vương tử, thế tử đều đáp xong. Đến lượt, người ta đùa cợt, đẩy
Hư Trúc vào. Đáp câu thứ nhất, Hư Trúc bảo: "Trên đời ta chỉ thích
nàng nhất". Câu thứ hai: "Tối quá, ta không biết tên". Câu
thứ 3: "Trong hầm nước đá" Và chỉ 3 câu đó, Hư Trúc tìm ra người
tình nhân - Mộng Cô - của mình, trở thành phò mã nước Tây Hạ giữa sự ngạc nhiên
của mọi người. Hóa ra, trò tuyển phu đó không phải là một đòn phép chính trị nhằm
đối địch với ai cả. Đó chỉ là một cách để tìm ra người đàn ông mà công chúa đã
từng yêu dấu và trao thân gửi phận.
Thế nhưng, không có tác phẩm nào tập trung cao độ tính hài hước bằng bộ Lộc Đỉnh
ký. Từ cách xây dựng nhân vật trung tâm đến tình huống diễn tiến câu chuyện, đến
ngôn ngữ nhân vật, Lộc Đỉnh ký là một bộ hài kịch lớn. Không chương nào của tác
phẩm thiếu tiếng cười. Chuyện bắt đầu khi Vi Tiểu Bảo, một tiểu lưu manh trong
động điếm Lệ Xuân viện thành Dương Châu được Mao Thập Bát, một hào khách giang
hồ đem lên Bắc Kinh. Bằng thủ đoạn ma mãnh, Vi Tiểu Bảo đã giết được Tiểu Quế Tử
thái giám, hóa thân làm Tiểu Quế Tử. Từ đó, hắn thân cận được với vua Khang Hy,
trở thành bạn nhỏ của nhà vua, giúp vua giết được loạn thần Ngao Bái, gia nhập
Thiên địa hội và hoạt động gián điệp. Hắn trở thành Chánh đô thống hoàng kỳ,
phong tặng tước hiệu Ba Đồ Lỗ; Khâm sai đại thần đi công cán Vân Nam; Tứ hôn sứ;
Bá tước; Nguyên soái cầm quân chinh phạt quân La Sát! Công lao hắn lớn hơn bất
kỳ một vị cố mệnh đại thần nào của triều Khang Hy. Để đạt được tột đỉnh vinh
quang đó, hắn chỉ áp dụng hai thứ kinh nghiệm: một là kinh nghiệm sống trong động
điếm và hai là những câu chuyện truyền kỳ trong bộ Anh Liệt Truyện mà hắn nghe
được thủa còn ở Dương Châu. Thông qua nhân vật Vi Tiểu Bảo, người ta nhận ra một
định đề bất ngờ: "Trên đời này, kỹ viện và hoàng cung là hai nơi trá
ngụy nhất". Đắc thủ kinh nghiệm từ kỹ viện đến hoàng cung, Vi Tiểu Bảo trở
thành nhân vật đệ nhất trá ngụy. Nhân vật trá ngụy ấy đã trở thành Hối minh hòa thượng, sư đệ của Hối Thông, phương trượng chùa Thiếu Lâm; rồi sau đó lại trở
thành trụ trì chùa Thanh Lương trên Ngũ Đài Sơn! Nhân vật ấy đủ sức "trị"
tên đại Hán gian Ngô Tam Quế; trở thành cố vấn đặc biệt cho Sa hoàng Nga La Tư;
thay mặt Khang Hy Hoàng đế quan hệ giao hảo với Mông Cổ và Tây Tạng. Thế nhưng,
nhân vật quan trọng ấy không biết chữ. Trong 3 chữ họ tên của mình, Vi Tiểu Bảo
chỉ đọc được chữ Tiểu vì chữ này dễ nhận ra với 3 nét. Ấy thế mà bọn nhà văn có
tên tuổi trong lịch sử văn học triều Thanh như Cố Viêm Võ, Tra Y Hoàng phục lăn
phục lóc, hết lời ca ngợi. Nhân vật ấy đưa vào trong văn chương một mớ ngôn ngữ
thóa mạ bình dân, tục tĩu như "con mẹ nó", "tổ bà quân
rùa đen", "phường chó đẻ"... Vi Tiểu Bảo "sáng tạo"
ra những thuật ngữ mà chưa một thời đại nào người ta dám đem gán ghép cho những
nhân vật cao quý trong xã hội phong kiến: công chúa Kiến Ninh được coi là con
đượi non, thái hậu được gọi là mụ điếm già. Mớ ngôn ngữ ấy đã được "truyền
bá". Trần Cận Nam, thầy của Vi Tiểu Bảo, cũng biết gọi thái hậu là "mụ
điếm già". Vua Khang Hy cũng học thứ ngôn ngữ bình dân của Vi Tiểu Bảo mà
mở miệng thóa mạ "con mẹ nó". Chẳng những thế, nhà vua cũng sẵn
sàng làm những việc làm hết sức "bình dân", chẳng ra thể thống một Đại
Thanh Hoàng đế chút nào.
Tôi cho rằng đoạn trích sau đây có thể nói lên chất hài hước cao đó của Lộc Đỉnh
ký: "Sách thánh hiền đọc nhiều quá, toàn những đoạn khô khan. Đột
nhiên, nhà vua được nghe những câu "Tổ bà nó", "Té đái vãi
phân", tuy thô tục nhưng cũng thấy vui vui liền bắt chước nhưng chỉ khi
nói với Vi Tiểu Bảo mới đưa ra. Hôm nay, nhà vua gặp phụ hoàng, vừa hoan hỉ vừa
bi thương, nhưng thân cận cha được nửa giờ đã bị đẩy ra ngoài cửa chẳng biết từ
nay còn có dịp nào gặp lại, trong lòng rất là khó chịu. May có Vi Tiểu Bảo nói
năng thú vị làm vơi nỗi uất ức đi nhiều. Khi bàn tới đại sự trừ phản dẹp loạn,
ngài lại nổi hùng tâm. Nhà vua đứng dậy đi ra ngoài sân mấy bước, hai tay bê mấy
hòn đá bày ra dưới đất, miệng nói: - Hán quân có tứ vương, nào Đông Vương, nào
Tây phiên, nào Bắc biên, phải phân chia ra không thể để chúng liên hiệp với
nhau được. Lại còn Định Nam Vương Khổng Hữu Đức nhưng may thằng cha này chết rồi,
chỉ để lại một đứa con gái thì cách đối phó chẳng khó khăn gì. Nhà vua dứt lời,
vung chân đá một hòn đá ra ngoài rồi nói tiếp: - Cảnh Tinh Trung thần dũng hơn
đời nhưng lại là kẻ vô mưu nên chẳng có chi đáng ngại. Chỉ cần làm cho hắn không
liên minh được với họ Trịnh ở Đài Loan là xong. Nhà vua lại đá một hòn đá nữa
đi rồi nói tiếp: - Thượng Khả Hỷ thì phụ tử bất hòa. Giữa hai cha con hắn cũng
thành thế nước lửa nhằm khuynh loát nhau, chắc chẳng làm nên trò trống gì. Khối
đá thứ ba bị hất tung đi. Chỉ còn một khối đá lớn nhất. Nhà vua nhìn chằm chặp
vào khối đá này, ngơ ngẩn xuất thần. Vi Tiểu Bảo cất tiếng hỏi: - Tâu Hoàng thượng
! Phải chăng đây là Ngô Tam Quế ? Vua Khang Hy gật đầu. Vi Tiểu Bảo mắng liền:
- Thằng giặc thối tha này. Sao mi không chết đi khiến cho Đức Hoàng Đế phải vì
mi mà tổn thương cân não. Tâu Hoàng thượng! Xin Hoàng thượng đái vào người hắn.
Vua Khang Hy cười ha hả, nổi dạ trẻ thơ, vạch quần đái vào phiến đá. Ngài cười
nói: - Ngươi cũng đái vào đi. Vi Tiểu Bảo cười rộ. Gã vừa đái vừa nói: - Hồi
sách này kêu bằng Vạn tuế gia cao sơn lưu thủy. Tiểu Quế Tử... Tiểu Quế Tử...
Gã chợt nhớ thầy đồ nói chuyện Tam Quốc có một hồi kêu bằng "Quan Vân Trường
thủy yếm thất quân" liền nói tiếp: - "Tiểu Quế Tử thủy yếm thất quân".
Vua Khang Hy không nín được, lại cười ha hả. Ngài vừa thắt quần lại vừa nói: -
Sau này mà ta bắt được tên giặc thối tha kia thật sự thì sẽ đái hẳn vào người hắn.
Vi Tiểu Bảo thấy Tiểu Hoàng Đế ra chiều căm hận Ngô Tam Quế thì trong bụng mừng
thầm tự nhủ: - Ta cùng bọn Mộc Vương phủ đánh cuộc về vụ này. Thế là phe mình
ăn chắc đến quá nửa rồi."
Và gần như không có nhân vật nào trong Lộc Đỉnh ký không có tính hài hước. Công
chúa Kiến Ninh cũng biết chửi tục "Con mẹ nó, té đái vãi phân" và
gây ra một hành động kinh thiên động địa mà không phải người phụ nữ nào cũng
dám làm: lấy súng bắn nát bộ phận sinh dục của chồng chưa cưới. Hối Thông đại
sư, trụ trì chùa Thiếu Lâm, ca ngợi sư đệ của mình là Hối Minh (tức Vi Tiểu Bảo)
định lực cao cường khi đối đầu với bọn Cát Nhĩ Đan Vương tử mà chẳng biết Vi Tiểu
Bảo sợ quá, thở cũng không nổi và đã “đi” ra đầy cả quần. Trừng Quang đại sư cầm
đầu Thập bát La hán chùa Thiếu Lâm ngây thơ đến nỗi nghe Vi Tiểu Bảo đi chơi kỹ
viện (động điếm) cũng cho rằng kỹ viện là một "viện" tương đương với
Đạt Ma viện của chùa Thiếu Lâm. Thậm chí khi Trừng Quang đại sư nghiên cứu võ
công cũng phải nhờ Vi Tiểu Bảo chỉ điểm, hướng dẫn! Có người cho rằng Lộc Đỉnh
ký là tác phẩm của thời đại chúng ta, Vi Tiểu Bảo là con người sống trong thời đại
chúng ta. Tôi nghĩ là nhận định đó hết sức nghiêm túc và hợp lý. Với chất hài
hước của Lộc Đỉnh ký, thế kỷ 20 hiện thân rành rành trong tiểu thuyết võ hiệp,
với những con người, những tình huống, những suy nghĩ của nó. Không dễ đưa chất
hài hước vào văn chương như đưa vào sân khấu hay thơ ca. Tôi đã đọc Kim Dung
nhiều lần trong đời. Với Du Thản Chi trong Thiên Long bát bộ, tôi nhỏ nước mắt.
Với Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh ký, tôi cười ha hả. Nhiều đêm, chợt tỉnh giấc ngủ,
nhớ đến Vi Tiểu Bảo, tôi bật cười một mình. Con người ngộ nghĩnh, thú vị, sống
rất chân thật đó đã trở thành một biểu tượng hài hước của thế kỷ thứ 20 chứ
không riêng gì trong tác phẩm võ hiệp của Kim Dung. Trong hoàn cảnh đất nước
chưa hòa bình, chiến tranh vẫn còn tiếp diễn nhiều nơi, lòng người hoang mang
ly tán như xã hội miền Nam trước năm 1975, tác phẩm võ hiệp Kim Dung với những
màn hài hước đặc sắc vụt trở nên phương tiện giải trí đắt giá. Tâm trạng chung
của bạn đọc lúc đó là tìm ra một cái gì vui trong một đời sống có nhiều bế tắc
và niềm bi thảm. Ta không thấy làm lạ khi người đọc đón nhận từng chương, từng
hồi của tác phẩm Kim Dung đăng trên báo dưới dạng feuilleton. Tôi chưa nói đến
giá trị văn học, giá trị tư tưởng, giáo dục. Chỉ một chức năng giải trí, văn
chương Kim Dung đã đáp ứng đầy đủ cho người đọc. Hài hước trở thành một thang
thuốc bổ, đem lại cho đời nụ cười ý vị.
GHEN TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG
Ghen (jalousie) là một tình cảm tự nhiên của con người, đặc biệt là ở phụ nữ.
Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, tuy trọng tâm phản ánh về những sinh hoạt võ lâm,
cũng đã có những nhân vật ghen tuông, tình huống ghen tuông thú vị. Nhận định về
tình yêu trong tiểu thuyết võ hiệp của ông mà không nhận định về cái ghen quả
thật là một thiếu sót. Một cách khái quát, Kim Dung dùng khái niệm rất cụ thể để
nói về cái ghen. Ghen được gọi là “bình giấm chua” hoặc “ghè
tương”. Còn cái bình giấm chua và ghè tương đó đổ bể trong
tình huống nào, đổ bể ở đâu thì lại là chuyện khác.
Ở mức độ sơ cấp, người phụ nữ bày tỏ lòng ghen tuông một cách nhẹ nhàng, đôi
khi không khỏi khiến độc giả buồn cười, thương hại. Đó là trường hợp Á bà bà
(bà già câm) (Tiếu ngạo giang hồ). Ở tuổi đôi mươi, bà đã xuất gia đi tu và là
một nữ ni xinh đẹp. Có một chàng đồ tể cảm mến sắc đẹp đó, cứ theo tán tỉnh
hoài. Và hắn cũng cạo đầu đi tu, tự đặt pháp hiệu cho mình là Bất Giới hòa thượng.
Hắn cho rằng “chỉ có ông sư mới có thể yêu bà vãi” (?) Họ thành vợ chồng
và sinh ra cô con gái xinh đẹp là Nghi Lâm. Một lần, Bất Giới nhìn thấy Ninh
Trung Tắc, vợ Nhạc Bất Quần. Ông ta lỡ miệng khen Ninh Trung Tắc đẹp, thế là Á
bà bà nổi cơn ghen vì “đã có vợ rồi, sao lại còn khen kẻ khác đẹp?”. Bà ta
bỏ luôn Bất Giới, vào phái Hằng Sơn giả làm mụ già câm điếc, chuyên việc quét
chùa, lau tượng trong 18 năm, báo hại Bất Giới đi tìm muốn chết!
Ở mức độ trung cấp, cái ghen bắt đầu có “bài bản” hơn. Đó là trường hợp ghen của
Mai Phương Cô (Hiệp khách hành). Mai Phương Cô thầm yêu trộm nhớ Thạch Thanh
nhưng Thạch Thanh chỉ yêu và cưới Mẫn Nhu. Họ sinh được hai đứa con trai song
sinh: Thạch Trung Ngọc và Thạch Phá Thiên. Thạch Phá Thiên mới 6 tháng tuổi
thì... mất tích. Ai bắt? Chính là Mai Phương Cô. Nàng đem cậu bé về hoang sơn
dã lĩnh ở Triết Giang nuôi nấng, đặt tên cho bé là Cẩu Tạp Chủng (chó lộn giống)
để mỗi khi lòng ghen tuông với hạnh phúc của Mẫn Nhu nổi lên, nàng kêu mấy tiếng
“cẩu tạp chủng” cho đỡ buồn! Cẩu Tạp Chủng lớn lên, thành một chàng trai tuấn
tú, hiền lành nhưng hoàn toàn dốt nát. Nhưng chính nhờ đó mà chàng trở thành một
con người đệ nhất võ công đắc thủ được trong bài thơ Hiệp khách hành, khác
xa người anh ruột dâm ác và tàn bạo Thạch Trung Ngọc. Hiệp khách hành -
một bài thơ danh tiếng của Lý Bạch, đi vào tiểu thuyết Kim Dung, trở thành một
tác phẩm tiểu thuyết ca ngợi lòng dũng cảm, đức hy sinh và tâm hồn trung hậu của
chàng trai Cẩu Tạp Chủng Thạch Phá Thiên.
Ở mức độ cao cấp, cái ghen được Kim Dung nâng lên thành những âm mưu, thủ đoạn
cao cường. Đó là cái ghen của Chu Chỉ Nhược, chưởng môn phái Nga Mi (Ỷ thiên Đồ
long ký). Ở trên đảo hoang, để độc chiếm kiếm Ỷ thiên và đao Đồ long, cô đánh
thuốc mê cho mọi người, lấy kiếm rạch mặt và giết Hân Ly, trói Triệu Minh và bỏ
lên một con thuyền thả lênh đênh, mưu đồ để Triệu Minh chết đói vừa đổ vạ cho
nàng. Trở về Trung Nguyên, Chu Chỉ Nhược lập tức tiến hành hôn lễ với Trương Vô
Kỵ nhưng lại bị Triệu Minh phá ngang, làm Trương Vô Kỵ bỏ hôn lễ và chạy theo
Triệu Minh để tìm nghĩa phụ Tạ Tốn. Chu Chỉ Nhược vừa thẹn, vừa sợ bại lộ âm
mưu, đã sử dụng một chiêu ác độc nhất trong Cửu âm bạch cốt trảo, định đánh vỡ
sọ Triệu Minh để bịt đầu mối. Tuy nhiên Triệu Minh chỉ bị thương, và nhờ vết
thương đó, Trương Vô Kỵ mới dần hiểu được rằng Chu Chỉ Nhược là người đánh cắp
kiếm Ỷ thiên và đao Đồ long, luyện thành Cửu âm bạch cốt trảo giấu trong thân
kiếm, bắt cóc cha nuôi của mình là Tạ Tốn và là người giết Hân Ly.
Cái ghen tuông không chỉ có trong những bậc nữ lưu bình thường. Cái ghen trong
bậc nữ lưu quý tộc còn ghê gớm hơn. Đó là trường hợp của Đao Bạch Phụng, người
tộc Bãi Di, vợ Đoàn Chính Thuần. Thân là Vương phi nước Đại Lý, giận chồng lăng
nhăng, đã đem tấm thân ngàn vàng cho gã ăn mày dơ dái ân ái... “Mối tình” chớp
nhoáng đó đã sinh ra vương tử Đoàn Dự, danh nghĩa là con Đoàn Chính Thuần nhưng
huyết thống là con Đoàn Diên Khánh. Vương phu nhân, gốc người tộc Đảng Hạng
(Tiên Ty), còn ghen ghê gớm hơn. Giận Đoàn Chính Thuần, hễ ai họ Đoàn nước Đại
Lý lọt vào sơn trang của bà là bà ra lệnh giết để làm phân bón hoa.
Tuy nhiên, cái hay của Kim Dung là không biến những tình huống ghen tuông trong
tác phẩm của mình trở thành những vụ án hình sự có nhà tan, người chết. Những
nhân vật của ông chỉ ghen như một cách bày tỏ thái độ, chẳng có ai chết cả. Hân
Ly vẫn không chết do nhát kiếm của Chu Chỉ Nhược, thậm chí, nhờ đó mà độc tính
của Thiên châu tuyệt hộ thủ theo máu thoát ra ngoài và cô... sống lại. Đứng
trên quan điểm hôn nhân của chế độ phong kiến, Kim Dung cho phép những nhân vật
nam của mình có nhiều vợ, nhiều tình nhân. Đoàn Chính Thuần có một vợ và... 5
tình nhân (có kể lại!); Vi Tiểu Bảo có... 7 vợ và một tình nhân.
Tuy nhiên, Kim Dung cũng đã để cho những nhân vật nữ của mình đấu tranh chống lại
quan điểm đa thê sai trái đó. Một cách tích cực, ghen tuông được coi là một
cách thể hiện phản ứng chế độ đa thê. Những Á bà bà, Đao Bạch Phụng... là những
con người đã phản ứng như vậy. Quả thật đáng buồn nếu có những nhân vật (và
ngay cả những người thật) không biết yêu và cũng chẳng biết ghen. Trong tiểu
thuyết võ hiệp Kim Dung, người ta yêu tha thiết nhưng ghen tuông cũng cháy chòi
lá! Rõ ràng, tuy lấy bối cảnh là xã hội phong kiến Trung Quốc nhưng tiểu thuyết
võ hiệp Kim Dung lại đi sát cuộc đời bởi vì tâm tình trong đó là tâm tình của
xã hội phương Đông thời hiện đại.
CHẤT THƠ TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG
Đưa thơ vào trong tiểu thuyết, cho tiểu thuyết có chất lãng mạn nhằm tạo thi hứng
cho cả người viết lẫn người đọc là đặc điểm cố hữu của 300 tiểu thuyết chương hồi
thời Minh - Thanh. Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần có trên vài trăm bài thơ và
khi thực hiện phim Hồng Lâu Mộng, các nghệ sĩ Bắc Kinh đã biến những bài thơ
này thành nhạc từ - một dạng nhạc phủ - được hát lên, làm giàu thêm chất liệu
nghệ thuật cho tác phẩm điện ảnh. Nhà văn Kim Dung đã kế thừa phong cách đưa
thơ vào tác phẩm tiểu thuyết như các nhà văn tiền bối mặc dù tiểu thuyết chương
hồi của ông là tân văn tiểu thuyết. Ở chừng mực nào đó, Kim Dung là một nhà thơ
thực sự; ông đã viết cả vài trăm bài thơ, đặc biệt là thơ Thiền tông. Những bài
thơ này chưa được in ra; người đời chỉ biết ông là nhà văn chứ chưa hề hiểu được
ông còn là một nhà thơ. Chúng ta cũng lưu ý rằng ông nội Kim Dung đã từng làm
tri huyện huyện Đơn Dương, Triết Giang và là một nhà thơ khá nổi tiếng cuối đời
Thanh với thi tập Hải Ninh Sát Thị Sao Thi. Có lẽ âm vang của truyền thống tiểu
thuyết Minh - Thanh, âm vang của truyền thống gia đình đã khiến Kim Dung mạnh dạn
đưa thơ vào tiểu thuyết võ hiệp, làm cho những tác phẩm văn xuôi của ông mênh
mang một màu thi ca lãng mạn, trữ tình. Có những tác phẩm của Kim Dung lấy thơ
làm nguồn cảm hứng chủ yếu. Đó là trường hợp bộ Hiệp khách hành, gồm 14
quyển. Hiệp khách hành là tựa đề một bài thơ dài của nhà thơ Lý Bạch,
một trong Đường - Tống bát đại gia mà lịch sử văn học Trung Quốc rất đỗi tự
hào. Thơ Lý Bạch có nhiều thể tài: Diễm ca (ca ngợi cái đẹp), Túy ca (viết
trong lúc say), Biệt ca (viết lúc chia tay nhau), Biên tái ca (viết về cuộc đời
chinh chiến), Tình ca (ca ngợi tình yêu), Hành ca (ca ngợi chuyện giang hồ mạo
hiểm),... Hiệp khách hành là một bài thơ ngũ ngôn, thuộc thể Hành ca,
ca ngợi Ngụy Vô Kỵ, tức Tín Lăng Quân, công tử nước Ngụy và 2 hiệp khách - Hầu
Doanh, người giữ cửa Di Môn cùng Chu Hợi, anh hàng thịt. Hai người đã có công
giúp Tín Lăng Quân đưa quân sang cứu nước Triệu, bảo vệ Hàm Đan, chống lại quân
Tần thời Chiến quốc. "Triệu khách mạn hồ anh Ngô câu sương tuyết minh
Ngân yên chiếu bạch mã Táp nạp như lưu tinh..." Đi vào trong tiểu
thuyết Kim Dung, cả bài thơ Hiệp khách hành vẫn được giữ nguyên nhưng
nó không còn là một bài thơ nữa. Nó chính là một pho võ công mà ai có tấm lòng
chân chất nhất, ít cơ tâm nhất mới nhận ra được. Con người đó là một chàng trai
không hề biết chữ: Thạch Phá Thiên tức Cẩu Tạp Chủng. Anh cóc cần bài thơ nói
lên ý nghĩa gì, câu thơ biểu đạt điều gì. Anh chỉ nhìn nét chữ. Ví dụ chữ Hành
gồm 6 nét thì anh khám phá ra sáu thế võ tương ứng với 6 nét đó chứ không cần
biết Hành là đi hay chạy. Anh cứ lẳng lặng khám phá tự dạng như thế cho đến chữ
cuối cùng và đắc thủ một môn thần công, điều mà có những người bỏ ra mấy chục
năm vẫn không khám phá được. Kim Dung gọi đó là lối trước ý. Thiên Long
bát bộ mênh mang một không khí lãng mạn, trữ tình của thơ. Đó là những câu
thơ của Kim Dung làm ra để ca ngợi hoa trà, một quốc hoa của nước Đại Lý: Thanh
quần ngọc diện như tương thức Cửu nguyệt trà hoa mãn lộ khai (Quần xanh,
vóc ngọc tuồng quen mặt Tháng chín, hoa trà rợp lối đi) Hoặc: Xuân câu thủy động trà hoa bạch Hạ cốc vân sinh lệ tử hồng (Dòng xuân nước gợn hoa trà
trắng Non hạ mây trôi trái vải hồng). Đó là những câu thơ do chính Kim Dung làm
ra nhưng được gắn vào cho những nhân vật của mình, để các nhân vật tỏ tình trước
tình nhân. Thí dụ Trấn Nam vương gia Đoàn Chính Thuần, một con người phong tình
rất mực, thường "nói" với các tình nhân Vương phu nhân và Tu la đao Tần
Hồng Miên. Với Vương phu nhân, một người rất yêu hoa, Đoàn Chính Thuần đọc: Dưới
khóm mẫu đơn đành bỏ mạng Chết làm quỷ sứ cũng oai phong. Với Tần Hồng Miên, một
người chuyên phóng Tu la đao, Đoàn Chính Thuần chỉ "biên tập" hai chữ
mẫu đơn: Dưới lưỡi Tu la đành bỏ mạng Chết làm quỷ sứ cũng oai phong. Thi
ca, từ phú không thể tách rời với thi pháp. Trong những ngày sống chung với
Nguyễn Tinh Trúc, Đoàn Chính Thuần đã chép tặng bà này bài Sầm viên xuân,
một bài từ danh tiếng: Sóng thu dường điểm mực Tóc phượng rủ bên tai Dung
nhan tuấn nhã Vẻ thiên nhiên càng ngắm càng tươi Cách hoa nhìn bóng dáng Vằng vặc
ánh sao thưa Ngồi tựa lan can ngắm Mặt hồ gươm phẳng lặng như tờ... Bao giờ
quên được Hình ảnh lúc chia phôi Khăn là ướt đẫm Ly biệt đôi đàng dòng lệ rơi.
Đoàn Chính Thuần là một vương gia phong nhã, có riêng một thư pháp. Chính nhờ
đó, Tiêu Phong đã đối chiếu nét chữ trên bài từ với nét chữ của một nhân vật ẩn
danh được gọi là "Thủ lĩnh đại ca" trong lá thư viết về
truyện giết cha ông ngoài Nhạn Môn Quan và biết Đoàn Chính Thuần không phải là
người chủ mưu vụ giết cha mình. Thơ luôn gắn liền với tình yêu, đặc biệt là những
mối tình dang dở. Gần như Kim Dung tôn trọng triệt để mô thức đó... Trong Tiếu
ngạo giang hồ, Lệnh Hồ Xung và Nhạc Linh San thương yêu nhau. Rồi một người thứ
ba - Lâm Bình Chi - hiện ra và Nhạc Linh San say mê Lâm Bình Chi, phụ rẫy mối
tình của Lệnh Hồ Xung. Nàng lấy Lâm Bình Chi khi Lâm Bình Chi đã tự thiến (dẫn
đao tự cung) để luyện Tịch tà kiếm phổ. Biết chồng mình không còn là đàn ông nữa,
Nhạc Linh San đau đớn nhớ thương chàng Lệnh Hồ Xung. Cô đã đề lên trên tấm vải
một bài thơ của danh sĩ Lý Thương Ẩn, mượn thơ người để biểu đạt tâm trạng của
mình: Nhớ xưa luyến ái Hàn công tử Xương trắng thành tro hận chửa tan.
Ngày Nhạc Linh San chết đi, Lệnh Hồ Xung trở về núi Hoa Sơn. Anh vào căn phòng
riêng của Nhạc Linh San và đọc được hai câu thơ ấy, biết được tâm trạng Nhạc
Linh San và cảm thấy thương yêu cô gái bất hạnh hơn bao giờ hết. Cũng
trong Tiếu ngạo giang hồ, ta đọc được những câu thơ bình dân khá nổi tiếng
của người Trung Hoa. Gần như bọn giang hồ hào sĩ thường lấy những câu thơ này
làm câu cửa miệng, đọc lên trong những tình huống thích hợp. Thí dụ khi chia
tay nhau họ đọc: Thanh sơn bích thủy Hậu hội hữu kỳ (Non xanh trơ đó
Nước biếc vẫn đây Còn ngày gặp gỡ) Hay khi khuyên ai xuống tay giết một người,
họ thường đọc hai câu thơ: Tiểu lượng phi quân tử Vô độc bất trượng phu (Lượng
nhỏ chẳng thành người quân tử Không độc sao nên đấng trượng phu) Những câu thơ
thông tục, đặt đúng vào vị trí trong văn cảnh, đã làm tác phẩm tăng thêm chất
văn học. Thơ luôn gắn liền với kinh điển của các tôn giáo, bang hội. Trong kinh
của Bái hỏa giáo Ba Tư, có đến trên 100 bài thơ của Nga Mạc, đã được nhà thơ
Quách Mạt Nhược dịch ra bản Quan thoại. Kim Dung đã khéo léo sử dụng một bài
thơ ngắn nói về số phận con người, gắn bài thơ đó vào thân phận Tiểu Siêu, cô
gái lai Ba Tư - Trung Hoa trong Ỷ thiên Đồ long ký. Tiểu Siêu thương yêu
Trương Vô Kỵ nhưng không hề nói lên lòng thương yêu đó. Cô chỉ vẫn thường hát
cho anh nghe: Lai như lưu thủy hề, thệ như phong Bất tri hà xứ lại hề, hà
sở chung. Chỉ có 17 chữ nhưng bài thơ cực kỳ hàm súc. Tôi xin tạm dịch: Chợt
đến như dòng nước chảy Rồi tàn như gió thoảng mau Chẳng biết từ nơi nào đến Và
chẳng biết tàn nơi đâu. Cho đến khi Tiểu Siêu hôn Trương Vô Kỵ, từ biệt anh để
trở về Ba Tư, Trương Vô Kỵ mới khám phá ra ý nghĩa của tình yêu nằm trong lời
kinh Bái hỏa giáo. Cuộc đời con người ngắn ngủi thì tình yêu cũng thế;
cũng Lai như lưu thủy hề, thệ như phong và bất tri hà xứ lai hề, hà sở
chung. Tôi cho đoạn Tiểu Siêu chia tay Trương Vô Kỵ trên biển là đoạn hay nhất,
giàu chất thơ nhất trong cả 12 pho tiểu thuyết đồ sộ của Kim Dung. Thơ chính là
Đạo. Kim Dung muốn bạn đọc của mình nhận ra điều ấy. Ông đã để cho những nhân vật
của mình xuất khẩu thành thơ, ngôn từ đơn giản nhưng ý tứ - cái Đạo bên trong -
lại rất bao la, thâm diệu. Thí dụ như bài thơ của nhà sư Trí Quan đọc cho Kiều
Phong khi nghe Kiều Phong lên núi thiên thai, chùa Chỉ Quán, yết kiến ông và hỏi
thăm gốc gác của mình. Tự thâm tâm, Kiều Phong rất xấu hổ, rất đau đớn vì mình
là người Khiết Đan; mình không thuộc dân tộc Hán. Nhà sư Trí Quan đã giải quyết
mối ưu tư nội tại của Kiều Phong bằng một bài thơ mang chất thiền mênh
mông: Khiết Đan với Hán nhân Bất luận giả hay chân Ân oán cùng vinh nhục
Không hơn đám bụi trần Kim Dung đã đẩy tiểu thuyết của mình đi đến bờ cõi
bao la của triết học. Và tuỳ trình độ nhận thức, cảm thụ; các nhân vật của ông
ngộ hay không ngộ vấn đề. Tất nhiên, bài thơ như thế này rất gần gũi với con
người, không đến nỗi bí hiểm như những công án của Thiền tông. Trong 12 pho tiểu
thuyết võ hiệp của Kim Dung, thơ Trung Hoa và thơ của Kim Dung xuất hiện đều đặn.
Nó trung hòa với tính chất sắt máu của cuộc đấu tranh chánh - tà, thể hiện cái
hồn của văn học tiểu thuyết chương hồi truyền thống. Nó kết hợp với thư pháp
(phép viết chữ), hình thành nên những pho võ công cho phán quan bút, kiếm pháp,
chưởng pháp. Nó làm nên tố chất lãng mạn cho tình yêu, chất triết lý cho tôn
giáo, chất trí tuệ cho đời sống. Đưa thơ vào truyện kiếm hiệp như ông quả là thủ
pháp của một nhà văn cao cường. Có thể nói, Kim Dung đã vượt xa những bậc tiền
bối của mình trong hệ tiểu thuyết chương hồi Minh Thanh. Điều này cũng rất dễ
hiểu bởi Kim Dung là một nhà thơ có tài và tài năng của ông thực sự phát triển
rực rỡ khi người tình Hạ Mộng ra đi khỏi vòng tay ông.
NGÔN NGỮ BÌNH DÂN TRONG VĂN CHƯƠNG KIM DUNG
Trước hết, ngôn ngữ văn chương là ngôn ngữ nghệ thuật. Tuy nhiên, không ai cấm
nhà văn đưa vào hệ thống ngôn ngữ bình dân, đặc biệt là ngôn ngữ thóa mạ, vào
trong tác phẩm của mình. Có nhiều khi, một từ thóa mạ thô thiển, thậm chí tục
tĩu, nằm đúng vào ngữ cảnh của câu văn hoặc tình huống của chương hồi lại tạo
ra được yếu tố nghệ thuật bất ngờ, thú vị cho văn chương.
Đọc văn chương Trung Hoa, chúng ta bắt gặp ngôn ngữ thóa mạ gần như là yếu tố
khá phổ biến, bàng bạc trong tác phẩm. Bộ tiểu thuyết sử thi Tây Hán chí (Hán
Sở tranh hùng) có nhiều đoạn mô tả phương pháp thóa mạ mà các tường lĩnh của
Hán vương Lưu Bang và Tây Sở bá vương Hạng Vũ dùng để chửi bới lẫn nhau với mục
đích chọc giận kẻ thù, buộc kẻ thù không chịu nhục được, phải mở cửa thành ra
đánh. Gặp kẻ thù ngoan cố, chịu nhục giỏi, các tướng lĩnh còn ra lệnh cho bọn mạ
thủ (chuyên chửi) cởi truồng ra mà thóa mạ. Trong AQ chính truyện, Lỗ Tấn
đã cho phép nhân vật AQ của mình thực hiện phép “thắng lợi tinh thần”, thỉnh
thoảng cũng thóa mạ cụ Triệu, Vương râu xồm, Đôn oắt tỳ và Tây giả cầy: “Mày
là cái thứ đồ gì? Con ông về sau còn hơn gấp mười lần mày” hoặc “Nó
đánh mình như đánh bố nó”.
Văn chương của Kim Dung là thế giới của bọn hào sĩ giang hồ; trong đó một nửa
là bàng môn tả đạo, bắt gà, trộm chó, cướp của, giết người, lại bất học vô thuật
nữa cho nên chuyện thóa mạ đối với họ như cơm bữa. Bộ Hiệp khách hành là
bộ tiểu thuyết có lối thóa mạ kỳ lạ nhất. Mỗi khi nghĩ đến tình địch, Mai
Phương Cô thóa mạ con của Thạch Thanh và Mẫn Nhu là Cẩu Tạp Chủng, kêu tên Cẩu
Tạp Chủng chửi mấy tiếng cho đỡ buồn. Đối với người đàn bà ghen tuông ghê gớm
này, một nửa Thạch Phá Thiên có chất người của Thạch Thanh, một nửa còn lại có
chất “chó má” của Mẫn Nhu! Cậu bé phải mang cái tên Cẩu Tạp Chủng cho đến năm
20 tuổi mới biết được tên mình là Thạch Phá Thiên (*). Thiên Long bát bộ cũng
có một hệ thống ngôn ngữ thóa mạ phong phú. Một nhà sư trẻ Phật lực cao cường,
kinh điển tinh thông, lòng dạ đoan chính như Hư Trúc cũng bị Thiên Sơn Đồng Mỗ
cung Linh Thứu núi Phiêu Diễu thóa mạ là “xú hòa thượng, sư chết chém, thầy
chùa chết đâm”. Bọn “quần tiên” 36 động 72 đảo là một phường bàng môn tả đạo ô
hợp; đàn ông thì tự xưng là “lão gia, lão tử”, đàn bà thì tự xưng là “lão
nương”. Bọn đệ tử của Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu thì tán tụng thầy: “Tinh
Tú lão tiên thần thông quảng đại thiên hạ vô song. Lão gia đá một phát như trời
long đất lở, vẫy tay một cái nhật nguyệt lu mờ” và đối với các phái khác,
bọn họ coi chẳng ra gì. Thế nhưng khi Đinh Xuân Thu bị Hư Trúc đánh ngã, cả bọn
lại nịnh Hư Trúc và quay ngược thóa mạ Đinh Xuân Thu: “Ánh lửa đom đóm mà
dám tranh sáng với mặt trời mặt trăng. Ngươi là kẻ tiểu nhân gian tà, độc ác”.
Kiểu thóa mạ như vậy gây cho người đọc những nụ cười thú vị về thói nịnh, thói
xu viêm phụ nhiệt.
Mà không chỉ có bọn đàn ông mới thóa mạ. Trong Thiên Long bát bộ, Kim Dung
còn xây dựng một hình tượng phụ nữ khá độc đáo: nàng hoa khôi Ôn Khang, vợ Mã Đại
Nguyên. Người đàn bà đẹp này bình thường khép nép, nghiêm cẩn, rõ ra khí tượng
của một thiếu phụ khả kính. Nhưng trước khi nàng ta chết, người đọc mới hiểu ra
rằng nàng là kẻ dâm loạn với Đoàn Chính Thuần, Bạch Thế Kính. Trước khi chết,
Ôn Khang còn ráng thu hết tàn lực thóa mạ Kiều Phong một hồi với mới ngôn ngữ vừa
tục tĩu vừa độc ác. Và càng thóa mạ, đôi mắt nàng càng sáng lên, gương mặt lại
có vẻ cao hứng, phấn khởi!
Bọn quần hào bốn châu Tề, Lỗ, Dự, Ngạc trong Tiếu ngạo giang hồ có trình độ
thóa mạ cũng thuộc hạng thượng thừa. Chúng kết hợp với Đào Cốc lục tiên cùng một
giuộc, hễ mở miệng ra là “con mẹ nó, 18 đời tổ tôn quân rùa đen, phường đê
tiện”. Đặc biệt ngôn ngữ thóa mạ còn được dùng như mộ thứ mật khẩu để nhận ra
nhau. Lệnh Hồ Xung, chưởng môn Hằng Sơn, bị bọn đệ tử Tung Sơn từng bị chàng
đâm mù mắt vây hãm trong hang động tối đen núi Hoa Sơn, tìm mọi cách để giết
chàng. Khi phóng kiếm ra trong bóng tối, họ thường chửi: “Cút con bà mày
đi!”. Hóa ra, đó là mật khẩu để nhận ra nhau. Lệnh Hồ Xung thoát chết nhờ biết học
và dùng câu “Cút con bà mày đi!”. Những kẻ khiếm thị kia cứ ngỡ chàng là đồng
bọn! (Tiếu ngạo giang hồ).
Nhưng không ở tác phẩm nào, ngôn ngữ thóa mạ được hệ thống hóa một cách tinh xảo
và nâng cao thành ngôn ngữ văn học lạ lùng như trong Lộc Đỉnh ký. Vi Tiểu
Bảo Xuất thân từ Lệ Xuân viện thành Dương Châu, 13 tuổi đã lĩnh hội trọn vẹn mớ
ngôn ngữ tục tĩu của khách làng chơi và đám kỹ nữ. Khi được vào trong cung nhà
Thanh, hắn lại được tu nghiệp thêm với bọn thái giám và thị vệ, trở thành một
chuyên gia thóa mạ hạng nhất. Hắn gọi Tổng quản thái giám là “Hải lão con
rùa”, gọi thái hậu là “mụ điếm già”, gọi công chúa Kiến Ninh là “con đượi non”,
gọi Ngô Tam Quế là “đại Hán gian”, gọi Ngô Ứng Hùng là “tiểu Hán
gian”. Tiến quân ra biên giới Đông Bắc đánh nhau với nước Nga, hắn gọi quân Sa
hoàng là “bọn quỷ Hồng mao”. Bắt được một số hàng binh Nga, hắn buộc những
người này phải ra trận làm mạ thủ, chửi bới viên tư lệnh quân Nga là Á Nhĩ
Thanh Tư Cơ, chọc giận cho quân Nga khai thành tiếp chiến. Tuy nhiên, hắn cực kỳ
thất vọng khi hàng binh Nga chỉ biết chửi “người là đồ heo, đồ chó”. Hắn vỡ
lẽ ra rằng về phương pháp và nội dung thóa mạ, người Trung Quốc cao cường hơn
người Nga; câu văn phong phú hơn mà tiết tấu cũng nhịp nhàng hơn. Nghệ thuật chửi
bới của Vi Tiểu Bảo xuất thần nhập hóa đến nỗi hai ông thầy của hắn cũng theo học
mớ ngôn ngữ tào lao đó. Vua Khang Hy và Trần Cận Nam cũng theo cách chửi của Vi
Tiểu Bảo, chửi tục. Chửi cho vui!
Văn chương là sự phản ánh cuộc sống xã hội nhất định trong một giai đoạn nhất
định. Tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung nói về bọn hào sĩ giang hồ thời phong kiến.
Mà cái mặt bằng văn hóa thời phong kiến của xã hội Trung Hoa quá thấp, là sản
phẩm của một nền kinh tế nhỏ và lạc hậu. Chính trong một xã hội như vậy, việc
đưa ngôn ngữ thóa mạ vào miệng những nhân vật của mình là một cái gì hết sức tự
nhiên. Vấn đề còn lại là ngôn ngữ thóa mạ ấy hiện ra trong ngữ cảnh nào, trong
trường hợp nào. Kim Dung đã làm một chuyện hết sức tài hoa: viết được những bộ
tiểu thuyết trường thiên, giàu tính nghệ thuật bằng sự pha trộn ngôn ngữ bác học
và ngôn ngữ bình dân, trong đó có ngôn ngữ thóa mạ. Ông sáng tác tiểu thuyết tại
Hồng kông, nhưng văn chương Quan thoại trong tác phẩm của ông cực kỳ trong sáng
và nghệ thuật: rất gần gũi với Quan thoại Trung Quốc. Tháng 1/1995, ông về Bắc
Kinh diễn thuyết và nhận hàm giáo sư danh dự Đại học Bắc Kinh; các học giả
Trung Hoa đã ca ngợi cách thể hiện của Kim Dung, coi ông là nhà văn lớn của nền
văn chương Quan thoại hiện đại. Kim Dung đã biết dung nạp cái nhã và cái tục, sử
dụng cái tục để tạo ra cái nhã. Thủ pháp diễn đạt của ông là thủ pháp của nhà
văn thượng thừa. Có lẽ vì thế mà hôm nay, 12 bộ tiểu thuyết của ông đã được các
nhà xuất bản Trung Quốc in lại và được bày bán, trân trọng đón nhận trên toàn
cõi Trung Hoa. Kim Dung có thêm cả tỷ độc giả chính thức.
Chú thích:
(*) Tác giả nhầm lẫn: Cẩu Tạp Chủng tên thật là Thạch Trung Kiên, còn Thạch Phá
Thiên là tên giả của Thạch Trung Ngọc lúc làm bang chủ Trường Lạc Bang.
SỐ PHẬN NHỮNG BỘ SÁCH TRONG TÁC PHẨM VÕ HIỆP KIM DUNG
Trước khi là một nhà văn viết tiểu thuyết võ hiệp, Kim Dung đã là nhà văn hóa.
Và là một nhà văn hóa cho nên ông rất chú trọng đến các vấn đề văn hóa, đặc biệt
là các vấn đề về thế giới sách. Ông đã dành cho sách một vị trí khá quan trọng,
không phải chỉ trong những bài viết trên tờ Minh báo mà còn ngay trong tác phẩm
tiểu thuyết võ hiệp vốn đầy tính đấu tranh của giới võ lâm. Ta có thể tìm trong
thế giới võ hiệp của ông một thế giới về sách và số phận của những bộ sách đó
cũng đầy sóng gió như số phận những nhân vật chính trong tác phẩm của ông.
Một cách khái quát, Kim Dung có cách gọi tên sách rất phong phú. Sách được gọi
là Thư; như bộ Võ Mục di thư của Nhạc Phi (tức Nhạc Võ Mục) giấu
trong bảo đao Đồ Long (Ỷ thiên Đồ long ký), bộ Minh thư tập lược của
Cố Viêm Võ và Tra Y Hoàng (Lộc Đỉnh ký). Sách được gọi là Phổ; như Tịch tà
kiếm phổ của nhà họ Lâm ở Phúc Châu (Tiếu ngạo giang hồ), Cầm phổ và Tiêu
phổ của khúc hợp tấu Tiếu ngạo giang hồ. Sách được gọi là Kinh;
như Thần chiếu kinh của Đinh Điển (Liên thành quyết), Lục mạch
thần kiếm kinh của chùa Thiên Long và Dịch cân kinh của chùa Thiếu
Lâm (Thiên Long bát bộ), Tứ thập nhị chương kinh của Bát kỳ triều
Thanh (Lộc Đỉnh ký), Dược vương kinh (Phi hồ ngoại truyện). Sách được gọi là Điển,
như Quỳ hoa bảo điển (Tiếu ngạo giang hồ). Sách được gọi là Lục, như
bộ Tử hà bí lục của phái Hoa Sơn (Tiếu ngạo giang hồ). Sách được gọi
là Tâm pháp, như bộ Càn khôn đại nã di tâm pháp (Ỷ thiên Đồ Long ký).
Sách được gọi là Ký, như Minh giáo lưu truyền Trung thổ ký của Dương
Tiêu viết về quá trình hình thành Bái hỏa giáo (Minh giáo) ở đất Trung Hoa (Ỷ
thiên Đồ Long ký).
Những bộ sách mà Kim Dung đề cập đến được ghi chép với nhiều dạng văn tự khác
nhau trên những phương tiện khác nhau. Vũ Mục di thư, Cửu âm chân
kinh chép bằng chữ Hán (khải thư) trên những tờ giấy (hay lụa ???) mỏng
vàng khè. Lục mạch thần kiếm kinh chép bằng chữ Hán, có đồ hình hướng
dẫn chép trên lụa quý. Tịch tà kiếm phổ lại chép trên áo cà sa. Dịch
cân kinh chép bằng tiếng Phạn (Sanskrit) trên giấy. Hấp tinh đại pháp của
Nhậm Ngã Hành mà Lệnh Hồ Xung học được được khắc trên tảng sắt nằm trong nhà ngục
ở Thái Hồ. Võ công phái Tiêu Dao (Thiên Long bát bộ) hay công phu Hiệp
khách hành (Hiệp khách hành) được khắc trên đá. Càn khôn đại nã di
tâm pháp được chép trên tấm da dê. Võ công Minh giáo Ba Tư được khắc bằng
tiếng Ba Tư (Presian) trên 6 tấm Thánh hỏa lệnh dài ngắn khác nhau, xương không
ra xương, ngà không ra ngà. Nói cách khác, những bộ sách mà Kim Dung đề cập đến
khá phong phú về văn tự, đa dạng về vật liệu làm sách. Ngay cả cách chép sách
cũng lạ: phải vận chỉ công để khắc chữ trên sắt (Hấp tinh đại pháp trong Tiếu
ngạo giang hồ); phải đem Thánh hỏa lệnh nhúng vào một lớp sáp rồi viết chữ lên
lớp sáp và dùng cường toan (acide) đồ theo những chữ đã viết mới ra tự dạng
trên Thánh hỏa lệnh.
Sách đã lạ, cách đọc sách càng lạ hơn. Lệnh Hồ Xung sẽ không đọc được Hấp
tinh đại pháp nếu không cởi trần truồng nằm trên tấm sắt cho những chữ khắc
đó hằn lên da thịt. Trương Vô Kỵ sẽ không hiểu được võ công Ba Tư nếu như Bảo
Thụ vương của Ba Tư không bị đánh Thánh hỏa lệnh trúng vào má cho chữ bị hằn
lên để Tiểu Siêu đọc và dịch ra tiếng Hán. Vô Kỵ cũng không biết tấm da dê
là Càn khôn đại nã di tâm pháp nếu Tiểu Siêu không trích máu ngón tay
nhỏ vào cho chữ hiện ra. Du Thản Chi chỉ có thể lãnh hội được Dịch cân
kinh khi cúi đầu xuống đất, chổng chân lên trời.
Tựu trung, những bộ sách trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung mang theo nhiều điều
bí ẩn khó tả, có người cầm nó trong tay nhưng chẳng biết được giá trị liên
thành - chiều sâu chứa đựng trong bộ sách. Số phận của những bộ sách được Kim
Dung hư cấu trong tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp của ông đã thực sự cuốn hút người
đọc, đưa người đọc đi vào một thế giới tiểu thuyết vừa siêu thực nhưng cũng rất
hiện thực. Có những bộ sách trở thành tựa đề luôn cho tác phẩm. Đó là trường hợp
của khúc hợp tấu cầm – tiêu Tiếu ngạo giang hồ, khúc hợp soạn của hai con
người thanh nhã: Lưu Chính Phong, cao thủ Hành Sơn (bạch đạo) và Khúc Dương,
trưởng lão Triệu Dương thần giáo (hắc đạo). Xưa nay, người ta vẫn sống theo
công thức "hắc bạch không thể hòa, chính tà không thể gặp”. Cả Lưu Chính
Phong và Khúc Dương đều muốn chứng minh rằng khúc Tiếu ngạo giang hồ của
họ có thể hóa giải những biên giới của sự chia rẽ và hận thù. Kết quả là cả
Phong lẫn Khúc đều bị hại bởi những con người tự xưng là danh môn chính phái. Bộ
sách đó được truyền lại cho Lệnh Hồ Xung phái Hoa Sơn; mang nó trong người,
chàng gặp phải không biết bao nhiêu điều đau khổ. Nhưng cũng chính Tiếu ngạo
giang hồ đã đưa chàng lãng tử vô hạnh này gặp được một ngọc nữ: Nhậm Doanh
Doanh, ái nữ của Giáo chủ Triệu Dương thần giáo Nhậm Ngã Hành. Họ yêu thương
nhau, đến với nhau, hóa giải được biên giới chính tà, hợp tấu cầm tiêu Tiếu
ngạo giang hồ đi đến chỗ tâm linh tương thức - điều mà hai vị tiền bối Lưu
- Khúc không thể làm được.
Một bộ sách khác được nhắc đến trong Tiếu ngạo giang hồ là Tịch
tà kiếm phổ (sách về những đường kiếm chuyên trừ bọn tà đạo), lưu truyền một
lộ kiếm pháp vô địch, tương truyền của dòng họ Lâm. Tổ họ Lâm, Lâm Viễn Đồ, xuất
thân là tiêu sư, có được kiếm phổ phải “dẫn đao tự cung” (tự thiến)
luyện thành. Kiếm pháp Tịch tà quá đỗi độc ác, ông ta chép lại vào áo cà sa, đi
tu và dặn con cháu không được dở ra coi. Con ông là Lâm Chấn Nam võ công tầm
thường, bị phái Thanh Thành của Dư Thương Hải tấn công nhằm đoạt Tịch tà
kiếm phổ mà không đánh trả được. Cuối cùng, kiếm phổ bị chưởng môn phái
Hoa Sơn Nhạc Bất Quần đoạt được. Một mặt, Nhạc liền “dẫn đao tự cung” để
luyện, mặt khác lão vu cáo cho học trò là Lệnh Hồ Xung ăn cắp Tịch tà kiếm
phổ. Khi Nhạc luyện xong, vứt áo cà sa đi thì Lâm Bình Chi, con trai Lâm Chấn
Nam, lấy được và cũng ngay lập tức… “phăng teo” để luyện. Nhạc nghi ngờ, gả con
gái là Nhạc Linh San cho Lâm và thường xuyên theo dõi xem con gái mình có được
“hạnh phúc” hay không. Lâm Bình Chi đã “tự cung” thì làm sao có thể chăn gối được.
Nhưng Nhạc Linh San đã cứu mạng Lâm Bình Chi: cô trả lời rằng Lâm đối với cô rất
tốt. Nhạc Bất Quần tin lời đó mới tha mạng cho Lâm Bình Chi. Nhưng cuối cùng, Lệnh
Hồ Xung với Độc Cô cửu kiếm vẫn đánh bại Tịch tà kiếm pháp “vô địch”. Bộ Tịch
tà kiếm phổ đó đã khiến ba con người thân bại danh liệt: Nhạc Bất Quần,
Lâm Bình Chi và Tả Lãnh Thiền, chưởng môn phái Tung Sơn. Đúng ra, phải gọi nó
là Tà môn kiếm phổ.
Những pho sách mà Kim Dung đề cập đến trong tác phẩm của ông có khi là sản phẩm
tưởng tượng, cũng có khi là sản phẩm thực tế được lồng vào cốt truyện. Vũ
Mục di thư (trong Ỷ thiên Đồ Long ký), Dịch cân kinh (trong Thiên
Long bát bộ), Tứ thập nhị chương kinh và Minh thư tập lược (trong Lộc
Đỉnh ký)… là những tác phẩm có thực trong lịch sử văn hóa Trung Hoa. Dù là sản
phẩm hư cấu hay sản phẩm thực tế, Kim Dung đã khoác cho những bộ sách của mình
một hành tung kỳ bí, một số phận oái oăm, khiến người đọc càng cảm thấy thú vị.
Thí dụ như trường hợp bộ Tứ thập nhị chương kinh, một bộ kinh Phật thông
thường mà mọi người Trung Hoa đều có thể biết, trong Lộc Đỉnh ký. Bát kỳ
Mãn Châu tấn công Trung Nguyên, tiêu diệt nhà Minh. Hoàng đế Thanh triều Thuận
Trị đã giao cho các thủ lĩnh Bát kỳ tám quyển Tứ thập nhị chương kinh, mỗi
quyển có bìa sách đúng như màu cờ của Bát kỳ: Bạch kỳ bìa trắng, Hắc kỳ bìa
đen, Hồng kỳ bìa đỏ, Thanh kỳ bìa xanh… Tám quyển kinh đó có gì đặc biệt? Có!
Thuận Trị đã cắt nhỏ một bản đồ khu vực Oa Tập Sơn (tiếng Mãn; tiếng Hán là Lộc
Đỉnh Sơn) rồi chia các miếng vải đã cắt vào trong bìa sách, chia cho Bát kỳ.
Thuận Trị dặn con cháu: “Nếu không giữ được thiên hạ (tức đất Trung
Nguyên) thì ta ở đâu hãy trở về nơi đó”. Có ít nhất năm thế lực tìm mọi cách để
cướp cho được bí mật trong tám quyển Tứ thập nhị chương kinh. Đó là hoàng
đế Khang Hy, con Thuận Trị. Đó là Cửu Nạn sư thái, nguyên là công chúa Hồng
Anh, con vua Sùng Trinh triều Minh. Đó là bọn Thần long giáo, một giáo phái bí
mật thông đồng với người La Sát (tức Nga Ta Lư). Đó là Thiên Địa hội, một tổ chức
phản Thanh phục Minh do Trần Vĩnh Hoa (Trần Cận Nam) là Tổng đàn chủ. Và đó là
Ngô Tam Quế, phản thần triều Minh, được nhà Thanh phong tước Bình Tây vương, trấn
vùng Vân Nam. Mỗi thế lực đều tin rằng tấm bản đồ giấu trong tám bìa sách có bí
mật riêng. Khang Hy muốn có để đốt đi, bảo vệ long mạch của tổ tiên tại Hắc
Long Giang, Lộc Đỉnh Sơn miền Đông bắc Trung Quốc. Bọn Cửu Nạn sư thái và Thiên
Địa hội thì muốn phá long mạch của nhà Thanh để đuổi người Mãn ra khỏi Trung
Nguyên, trả thù cho vua Sùng Trinh và khôi phục nhà Minh. Thần long giáo thì lại
tin rằng bản đồ vẽ sơ đồ kho báu… Cuối cùng cả tám quyển Tứ thập nhị
chương kinh lọt hết vào tay Vi Tiểu Bảo. Hắn lấy hết các mảnh vải nhỏ sai
nữ tì Song Nhi kết lại thành một bản đồ hoàn chỉnh. Hắn giữ lại bản đồ cho mình
còn các pho Tứ thập nhị chương kinh thì được may bìa lại để biếu cho
Khang Hy, Trần Cận Nam (thầy của Vi Tiểu Bảo) và Cửu Nạn sư thái (cũng là thầy
của Vi Tiểu Bảo!).
Một số nhân vật của Kim Dung là văn gia nên đi đâu họ cũng mang sách theo. Sách
trở thành vũ khí trong chiến đấu chống kẻ thù, tranh biện với kẻ khác. Nhân vật
Chu Đan Thần, một trong Tứ Đại Vệ Hộ nước Đại Lý, có nhiệm vụ bảo vệ Trấn Nam
vương Đoàn Chính Thuần, đi đâu cũng cầm theo các tập thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ.
Trước khi chiến đấu, Chu hay ngâm thơ! Trong Thiên Long bát bộ, Chu thường
cùng bàn luận thi ca với Đoàn Dự, con Đoàn Chính Thuần. Nhân vật Thư ngai Cẩu Độc
(Đồ gàn đọc sách lung tung) trong nhóm Hàm Cốc bát hữu ra trận thường… lục túi,
đem sách ra… đấu võ miệng. Trong trận đụng độ với nhà sư Huyền Thống chùa Thiếu
Lâm, Cẩu Độc đã đem đủ các sách Luận ngữ, Mạnh Tử ra chất vấn Huyền Thống. Huyền
Thống vẫn mặc kệ, đánh tràn. Sực nhớ nhà sư không đọc sách đạo Nho, Cẩu Độc đổi
sang trích dẫn kinh điền đạo Phật: “Bể khổ mênh mông, quay đầu là bờ”, khiến
Huyền Thống chợt ngừng trận đấu. Nhà sư chợt ngộ Thiền cơ trong câu nói đó và
viên tịch ngay tại chỗ với nụ cười thư thái giải thoát trên môi.
Sách của Kim Dung đã đề cập đến trong truyện võ hiệp đương nhiên là sách quý,
giá trị không biết bao nhiêu mà lường. Trong Ỷ thiên Đồ Long ký, nhà sư
Giác Viễn trước khi chết, đọc một vài đoạn thuộc lòng trong bộ Cửu dương
chân kinh. Quách Tương học lóm vài đoạn mà đã có thể dựng nên phái Nga Mi;
Trương Quân Bảo cũng chỉ thuộc vài đoạn mà dựng nên phái Võ Đang. Bọn Doãn Khắc
Tây, Tiêu Tương Tử ăn cắp từ chùa Thiếu Lâm bộ sách này, rạch bụng con vượn mà
nhét vào. Trước khi chết, chúng di ngôn lại cho Hà Túc Đạo núi Côn Lôn là “kinh
để trong hầu”. Hà Túc Đạo nghe gà hóa cuốc, nói lại với phái Thiếu Lâm là “kinh
để trong dầu”! Chỉ sau này, khi Trương Vô Kỵ giải phẫu cho con vượn già mới tìm
lại được bộ sách trân quý của chùa Thiếu Lâm.
Sách quý nên việc bảo quản cũng rất công phu. Những nơi chứa sách được gọi là
tàng kinh lâu, tàng kinh các, có quy định rất nghiêm ngặt, cấm người lạ lai
vãng. Càng cấm nên sách càng gợi trí tò mò. Từ đó xuất hiện những kẻ ăn cắp
sách. Trong Thiên Long bát bộ, nhà sư Ba La Tinh từ Thiên Trúc đến chùa
Thiếu Lâm ăn cắp sách, bị phát hiện và bị giam lỏng tại chùa Thiếu Lâm. Tiêu Viễn
Sơn, dòng quốc thích Khất Đan, đột nhập vào Tàng kinh các Thiếu Lâm đọc lén võ
kinh và học võ công Trung Quốc để trả thù cho vợ. Mộ Dung Bác, tộc Tiên Ty, hậu
duệ hoàng tộc Đại Yên thời Thập lục quốc cũng từng đột nhập Thiếu Lâm học lén
72 tuyệt kỹ Thiếu Lâm, trá tử, ẩn nhẫn nuôi mộng trung hưng nước Đại Yên.
Những nhân vật của Kim Dung thường có trí nhớ rất tuyệt vời. Vương Ngữ Yên thuộc
làu các sách võ trong thiên hạ, trở thành nhân vật ai cũng hâm mộ. Đoàn Dự chỉ
xem qua Lục mạch thần kiếm kinh một lần tại chùa Thiên Long mà tâm đã
lãnh hội trọn vẹn.
Trong 12 bộ tiểu thuyết của Kim Dung, chỉ có một nhân vật ghét sách thậm tệ, thấy
sách và chữ nghĩa là mắt hoa đầu váng. Đó là Vi Tiểu Bảo, Lộc Đỉnh công triều
Khang Hy. Vốn hắn dốt đặc cán mai, chỉ thích chơi gái, đánh bạc, uống rượu, nói
tục. Ấy thế mà trời lại trao cho hắn tám quyển Tứ thập nhị chương kinh!
Sách chiếm một vai trò rất lớn trong các bộ tiểu thuyết võ hiệp. Kim Dung đưa
các bộ sách vào, tạo cho tác phẩm của mình những tình tiết hấp dẫn, những mâu
thuẫn lạ lùng. Ở chừng mực nào đó, sách làm nên chất văn hóa cho tác phẩm tiểu
thuyết võ hiệp vốn nặng về âm mưu, thủ đoạn, sự tranh đấu, sự giết chóc. Chỉ
ngay trong khía cạnh đưa sách vào tiểu thuyết võ hiệp, Kim Dung đã là một bậc
thầy trong văn chương tiểu thuyết hiện đại.
"THỜI TRANG" TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG
Thời trang là khái niệm xuất hiện trong thời đại của chúng ta. Trong xã hội
phong kiến Trung Quốc ngày xưa không thể có khái niệm thời trang, đơn giản là
vì thời ấy chưa hề có người mẫu với những kiểu quần áo mẫu được đưa lên sân khấu
biểu diễn cho đông đảo quần chúng mô phỏng theo đó mà may mặc. Tuy nhiên, “ăn
theo thuở, ở theo thời”, từ ngàn xưa, nhân loại đã biết cách ăn mặc để thích
nghi với môi trường sống; việc ăn mặc trở thành một nhu cầu phổ quát ở mọi nơi
và vào mọi thời đối với mọi dân tộc. Tác phẩm tiểu thuyết Kim Dung cũng không
thoát ra khỏi quy luật phổ quát đó. Căn cứ vào cách ông miêu tả cách ăn mặc của
những nhân vật trong 12 bộ tiểu thuyết võ hiệp, ta có thể nhận định về khái niệm
“thời trang” như là một thực tế có thật trong các tác phẩm đó.
Có những hình thái thời trang tập thể được nhà văn Kim Dung miêu tả sát với thực
tế vì nó bắt nguồn từ những quy luật của các bang hội, tôn giáo của võ lâm
Trung Quốc. Đó là những hình thái thời trang mang tính bó buộc và tuyệt đối.
Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Kim Dung miêu tả giáo chúng Minh giáo (Manichéisme)
luôn luôn mặc bộ áo choàng dài màu trắng, ngực áo trái và tà áo bên phải có
thêu một ngọn lửa đỏ. Ngọn lửa đó chính là Thánh hỏa, biểu tượng có từ Bái hỏa
giáo Ba Tư. Khi đem đạo truyền sang Trung Quốc, Hốt Đa Đán đã đổi tên Bái hỏa
giáo thành Minh giáo, gọi tên các chùa là Đại Vân Quang Minh tự. Trong Hán tự,
chữ Minh, gồm chữ Nhật kết hợp với chữ Nguyệt. Minh có nghĩa là sáng như mặt trời,
mặt trăng và sáng là yếu tính của ngọn lửa.
Trong 12 bộ tiểu thuyết của Kim Dung thì đã có 10 bộ ông nhắc đến các vị sư
chùa Thiếu Lâm, thuộc ngọn Tung Sơn, tỉnh Hồ Nam. “Thời trang” của các nhà sư rất
dễ nhận ra: ngày lễ các vị đại sư tiền bối mặc tăng y đại hồng, ngày thường mặc
cà sa màu vàng; những lớp đệ tử nhỏ hơn mặc tăng y màu xám hoặc nâu. Trong Tiếu
ngạo giang hồ có những đoạn Kim Dung đề cập đến phái Thanh Thành ở vùng Tứ
Xuyên xuống Phúc Châu hoạt động. Họ mặc một màu áo xanh, và đặc biệt nhất là
luôn luôn đội khăn trắng trên đầu. Kim Dung thật tinh tế khi đưa ra chiếc khăn
trắng ở đây! Đất Tứ Xuyên nguyên thuộc về đất Ba Thục của Lưu Bị thời Tam Quốc.
Khổng Minh là quân sư của Lưu Bị, được nhân dân Ba Thục kính trọng như thần
minh. Khi ông chết đi, cả một dải Ba Thục đều để tang. Tục lệ ấy kéo dài qua 17
thế kỷ và cho đến nay, người Tứ Xuyên ra đường vẫn còn quấn khăn trắng! Trong
Thiên Long bát bộ, Kim Dung có nhắc tới quần nữ cung Linh Thứu, núi Phiêu Miễu.
Đây là vùng giáp giới sa mạc Qua Bích (Gobi). Họ mặc áo trường bào màu xanh lục,
cưỡi lạc đà. Lối trang phục đó giúp họ dễ nhận ra nhau trên sa mạc chỉ có một
màu cát vàng mênh mông. Trong Lộc Đỉnh ký, Thần long giáo chia làm Ngũ kỳ (5 sắc
cờ); mỗi kỳ có một màu áo riêng: Thanh long mặc áo xanh, Hắc long áo đen, Xích
long áo đỏ, Bạch long áo trắng và Hoàng long áo vàng.
Nếu thời trang tập thể mang tính bó buộc, quy luật thì thời trang cá nhân lại hết
sức linh hoạt, tự do, đặc biệt là ở những nhân vật nữ. Nhân vật nữ trung hào kiệt
của Kim Dung luôn luôn có nhu cầu làm đẹp và thậm chí, nhu cầu đó rất cao. Có
những nhân vật nữ chỉ thích một màu áo quần và màu sắc ấy làm nên tính cách độc
đáo của từng người, khiến ta không thể lầm người này với người khác. Trong Thần
điêu hiệp lữ, Tiểu Long Nữ chỉ mặc toàn một màu trắng. Võ công cô học từ phái Cổ
Mộ là Ngọc nữ kiếm pháp, thuần về âm nhu. Cô lâm trận, đối địch với những kẻ
thù hung bạo mà người ta cứ ngỡ cô đang múa bởi màu áo trắng và những tư thức
võ công nhuần nhuyễn, dịu dàng, mỹ lệ. Ngược lại, Mộc Uyển Thanh (trong Thiên
Long bát bộ) lại chỉ mặc tuyền một màu đen và bịt mặt cũng bằng khăn màu đen.
Người cô tiết ra một mùi hương tự nhiên man mác như hương hoa mai côi (hoa hồng)
nên giang hồ thường gọi cô là Hương dược xoa. Tuy gọi “dược xoa” (xấu như quỷ sứ)
nhưng thực sự, Mộc Uyển Thanh là một người đẹp trong những người đẹp nhất trong
Thiên Long bát bộ. Khá nhiều trường hợp, màu áo quần của các nhân vật nữ làm
thành tên gọi của nhân vật ấy. Trong Thiên Long bát bộ, Đoàn A Châu chỉ mặc một
màu đỏ, Đoàn A Tử chỉ mặc một màu tía, A Bích thì màu xanh biếc, màu xanh của
vùng sông nước Giang Nam. Trong Phi hồ ngoại truyện, tiểu anh hùng Hồ Phỉ có một
cô bạn 16 tuổi cực kỳ thông minh. Cô mặc áo màu tía, tự xưng họ Viên và Hồ Phỉ
cứ gọi cô là Viên Tử Y (cô Viên áo tía). A Châu, A Tử, A Bích, Viên Tử Y từ màu
sắc trang phục đã trở thành tên nhân vật.
Thời trang còn làm nên chức vụ, vai vế của nhân vật. Trong Ỷ thiên Đồ long ký,
có nhân vật Đại Ỷ Ty, một cô gái lai Ba Tư xinh đẹp, gia nhập Minh giáo Trung
Quốc, lập được công lớn, đứng đầu tứ đại hộ pháp giáo vương của Minh giáo. Cô mặc
áo tía nên được tôn xưng là Tử sam long vương (vua rồng áo tía), đứng trên Bạch
mi ưng vương (vua ó mày bạc), Kim mao sư vương (vua sư tử lông vàng) và Thanh dực
bức vương (vua dơi cánh xanh). Chiếc áo tím của nàng Đại Ỷ Ty đã làm nên chức vụ
(thứ tự Tử, Bạch Kim, Thanh).
Các nhân vật nữ của Kim Dung rất chú trọng việc chăm chút vẻ đẹp. Mẫn Mẫn Đặc Mục
Nhĩ, cô gái Mông Cổ, Hán danh là Triệu Mẫn, luôn luôn xuất hiện trước người
tình Trương Vô Kỵ với áo khoác ngoài cổ da điêu, phía trong là trường bào bằng
gấm. Triệu Mẫn là một kiểu mẫu phụ nữ lý tưởng với nhan sắc đẹp như hoa nở, trí
thông minh mẫn tuệ cực kỳ và ứng xử mọi tình huống một cách nhanh nhạy. Đọc Ỷ
thiên Đồ long ký, không một độc giả nào có thể chê trách được Triệu Mẫn. Trong
Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung xây dựng một nhân vật nữ cực kỳ “hiện đại” so với
cả ngàn nhân vật nữ khác. Đó là Lam Phượng Hoàng, người dân tộc Miêu Cương vùng
Vân Nam, giáo chủ Ngũ độc giáo. Nghe tiếng chàng Lệnh Hồ Xung là chàng trai
phong lưu, cô đã vượt mấy ngàn dặm từ Vân Nam về Hoàng Hà để tương kiến. Lam
Phương Hoàng mặc chiếc áo lam in hoa trắng sặc sỡ, mùi hương sực nức, dám ôm cổ
Lệnh Hồ Xung hôn lên má trước mặt mọi người, dám vén váy mình lên đặt con đỉa
vào hút máu để truyền máu cho Lệnh Hồ Xung. Hành động tự nhiên đó đã làm cho kiếm
khách Giang Phi Hồng buồn tình mà tự vận.
Những người đẹp trong truyện võ hiệp Kim Dung không hề muốn lên sân khấu, chưa
hề biết đến biểu diễn thời trang. Cá biệt, có một người muốn biểu diễn thời
trang mà người đi dự không thèm để mắt đến, giận đời nên đã gây thành một vụ
huyết án động trời. Đó là nàng Ôn Khang (Thiên Long bát bộ), vợ của Mã Đại
Nguyên. Mã Đại Nguyên là một anh hùng hảo hán, phó bang chủ Cái bang của Kiều
Phong. Trong dịp Bách hoa đại hội, Ôn Khang mặc bộ đồ lụa đẹp nhất, đứng bên cạnh
chậu thược dược. Già trẻ đi ngang đó đều nhìn nàng, tim đập rộn ràng vì không
ngờ có một phụ nữ đẹp như thế. Duy chỉ có một người không nhìn đến nàng. Đó là
Kiều Phong. Giận vì nhan sắc của mình không được hâm mộ, Ôn Khang xúi chồng tố
cáo Kiều Phong là người Khất Đan. Mã Đại Nguyên không nghe lời, Ôn Khang âm mưu
cùng Bạch Thế Kinh giết chồng bằng một thế Tỏa hầu cầm nã thủ rồi vu cáo cho Kiều
Phong đã giết chồng mình để bịt miệng. Quả nhiên, Kiều Phong mất ngôi Bang chủ
Cái bang Trung Quốc. Sự trả thù của siêu người mẫu Ôn Khang quả thật siêu việt!
May mắn thay, đó chỉ là một trường hợp cá biệt. Nhan sắc của người đẹp trong
truyện võ hiệp Kim Dung không bị đem ra bán đứng, tên tuổi của họ không bị đem
ra kinh doanh, nhân phẩm của họ được tác giả bảo về cẩn mật. Trí thông minh,
lòng tự trọng và nhan sắc trời ban cho đã giúp họ gặp được những chàng trai như
ý, những mối tình tươi đẹp, trong sáng và chung thủy. Viện Tử Y với Hồ Phỉ, Hân
Tố Tố với Trương Thúy Sơn, Trương Vô Kỵ với Triệu Mẫn, Lệnh Hồ Xung với Doanh
Doanh, Tiểu Long Nữ với Dương Qua, Vương Ngữ Yên với Đoàn Dự… là những lứa đôi
thật đẹp. Ở một nghĩa hết sức biểu tượng, Những lứa đôi đó góp phần làm nên
khái niệm anh hùng và giai nhân, giấc mơ lý tưởng của văn học nghệ thuật ngày
xưa và hôm nay.
NHỮNG NHÂN VẬT QUÁI DỊ TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG
Khái niệm nhân vật quái dị không phải là khái niệm do chúng tôi tạo ra mà là một
khái niệm nằm trong văn chương tiểu thuyết của Kim Dung tiên sinh. Văn chương của
ông thường có các cụm từ "trông lão thật là quái dị" hoặc "khuôn
mặt của gã thật là quái dị". Tuy viết như thế nhưng khái niệm quái dị
không ngừng lại ở chỗ mô tả ngoại hình, động tác. Khái niệm quái dị đi vào chiều
sâu nhân cách của các nhân vật, chủ yếu đưa ra những cách sống, cách tư duy
khác đời và lắm khi, đi ngược lại cái lẽ thường của cuộc sống. Trong Tiếu
ngạo giang hồ, ta bắt gặp nhân vật quái dị tiêu biểu là Tiêu tương dạ vũ Mạc Đại
tiên sinh. Thân danh là chưởng môn của phái Hành Sơn, Mạc Đại luôn luôn ăn mặc
rách rưới như một gã Cái bang, chơi một cây dao cầm (hồ cầm) cũ kỹ và miệng luôn
hát bài Tiêu Tương dạ vũ (mưa đêm trên bến Tiêu Tương). Thế nhưng, trong đáy
cây dao cầm của tiên sinh có dấu một cây kiếm lưỡi mỏng như lá lúa, rất lợi hại.
Mạc Đại được xưng tụng là "cầm trung tàng kiếm, kiếm phát cầm
âm" (trong đàn có dấu một cây kiếm, và khi múa kiếm thì lại phát ra
tiếng đàn). Khi tiên sinh rút kiếm ra khỏi cây đàn, vận công vào thân cây kiếm
khiến kiếm khí phóng ra veo véo nơi đầu mũi. Với "Hành Sơn vân tụ thập
tam thức", chưa có một đối thủ nào thoát khỏi tay Mạc Đại tiên sinh.
Trong Tiếu ngạo giang hồ, Mạc Đại chỉ xuất hiện ra ba đoạn, cộng lại không
quá mười trang sách nhưng đã gây được ấn tượng mạnh mẽ và chiếm được cảm tình nồng
thắm nơi người đọc. Đoạn thứ nhất, tiên sinh bất ngờ xuất hiện trong tửu quán
dưới chân núi Hành Sơn, bất ngờ rút kiếm chém đứt tiện 7 chiếc trà trên bàn mà
những giang hồ hảo thủ ngồi quanh không thể hiểu được tiên sinh đã rút kiếm ra
và thu kiếm về lúc nào. Đoạn thứ hai, Mạc Đại hiện ra đúng lúc, múa kiếm giết
chết Đại tung dương thủ Phí Bân của phái Thái Sơn để cứu sư đệ của mình là Lưu
Chính Phong cùng Khúc Dương (trưởng lão Ma giáo), Khúc Phi Yến (con gái của
Khúc Dương), Lệnh Hồ Xung (đệ tử Hoa Sơn) và Nghi Lâm (đệ tử Hằng Sơn). Giết
xong Phí Bân, tiên sinh đút kiếm vào đàn, ung dung ra đi, giọng đàn dao cầm lại
ngân lên khúc tình tang Tiêu Tương dạ vũ. Đoạn thứ ba, Mạc Đại hiện ra giữa đêm
khuya bên bến sông Trường Giang, trách cứ Lệnh Hồ Xung là gã vong tình, không
lo đi lên chùa Thiếu Lâm cứu người yêu mình là Nhậm Doanh Doanh mà cứ bo bo đi
theo bầy nữ đệ tử của phái Hằng Sơn. Lời trách cứ của tiên sinh làm Lệnh Hồ
Xung toát mồ hôi. Mạc Đại khoát tay hối Lệnh Hồ Xung ra đi và chính tiên sinh
nhận nhiệm vụ bảo toàn cho bọn nữ ni Hằng Sơn về núi. Con người quái dị ấy thoạt
ẩn thoạt hiện, mang phong cách của một đạo gia Lão Trang, ung dung tiêu sái giữa
cuộc đời. Duy có tiếng đàn và điệu ca Tiêu Tương dạ vũ của tiên sinh luôn luôn
trĩu nặng nỗi u buồn, chưa thoát khỏi vòng hệ lụy của cuộc sống, như dòng nước
có đi mà không bao giờ có lại. Mạc Đại là hình ảnh tiêu biểu của một thứ trích
tiên bị đọa. Tuy nhiên, trong Tiếu ngạo giang hồ, không phải chỉ có duy nhất
nhân vật Mạc Đại là quái dị. Người ta còn tìm thấy một gã Tổ Thiên Thu, con người
đầy mình mưu kế, văn võ song toàn nhưng lại ăn mặc như một anh đồ nghèo kiết
xác, đã ăn cắp Tục mệnh bát hoàn của một người bạn thân là Lão Đầu Tử nhằm pha
rượu cứu mạng Lệnh Hồ Xung. Người ta còn tìm thấy một gã Lão Đầu Tử lùn tịt như
trái dưa, võ công cao cường, khi cười khi khóc, hợp cùng Tổ Thiên Thu thành ra
cặp nhân vật Hoàng Hà Lão Tổ. Chính Lão Đầu Tử rất căm hận Lệnh Hồ Xung đã
"nuốt" mất 8 viên thuốc bửu bối nhằm cứu mạng con gái mình nhưng khi
biết được Lệnh Hồ Xung là người tình của Thánh cô Nhậm Doanh Doanh, lão đã tự vả
má mình cho vọt máu vỡ da. Trong Tiếu ngạo giang hồ, một nhân vật quái dị
khác cũng gây ấn tượng không kém là Bình Nhứt Chỉ đại phu, nổi danh Sát nhân
danh y, chuyên chẩn bệnh bằng một ngón tay (nhứt chỉ) và hễ cứu một người là giết
một người. Không cứu được Lệnh Hồ Xung, lão đã tự vận Kinh mạch cho đứt tuyệt để
bảo vệ ngoại hiệu Sát nhân danh y. Nghe đến bốn chữ Đông Phương Bất Bại (không
bao giờ thua), người đọc cứ ngỡ đây là một vị anh hùng hảo hán. Không, gã giáo
chủ này chỉ là một người lại cái, đã tự thiến bộ phận sinh dục của mình để luyện
Quỳ hoa bảo điển, đã quan hệ đồng tính luyến ái với một thủ hạ lân cận là Dương
Liên Đình. Tuy nhiên, võ công của Đông Phương Bất Bại cực kỳ cao cường. Gã đã
chống trả lại 4 kẻ đại địch là Nhậm Ngã Hành, Nhậm Doanh Doanh, Lệnh Hồ Xung và
Hướng Vấn Thiên chỉ với một mũi kim thêu! Nhậm Doanh Doanh đã dùng đến một đòn
phép tệ hại nhất: hành hạ "người tình" Dương Liên Đình để phân tâm
Đông Phương Bất Bại, giúp cha mình giết chết Đông Phương Bất Bại. Nhưng nhân vật
quái dị được người đọc yêu mến nhất trong Tiếu ngạo giang hồ vẫn là
Phong Thanh Dương, sư thúc của Nhạc Bất Quần, phái Hoa Sơn. Phong Thanh Dương
là đại biếu của phe Kiếm tông (lấy kiếm làm chủ) trong khi Nhạc Bất Quần là đại
biểu của phe Khí tông (lấy nội công làm chủ). Chính Phong Thanh Dương đã mắng
Nhạc Bất Quần là kẻ xuẩn tài (có tài mà ngu), biến những kẻ tài năng như đệ tử
Lệnh Hồ Xung thành ra ngựa gỗ, trâu đá. Phong Thanh Dương truyền thụ cho Lệnh Hồ
Xung 9 thế kiếm của Độc Cô Cầu Bại với một câu quyết duy nhất "sử kiếm
liên miên bất tuyệt như nước chảy mây trôi, nghĩ đến đâu là kiếm tới đó để chiếm
tiên cơ, đẩy kẻ địch vào thế phải thủ". Toàn bộ lý thuyết của Phong Thanh
Dương là "lấy vô chiêu thắng hữu chiêu và lấy công làm thủ". Lệnh
Hồ Xung đã học được bài học quý giá đó từ thái sư thúc tổ, trở thành kẻ đối nghịch
với sư phụ Nhạc Bất Quần, hạ Nhạc Bất Quần và môn Tịch tà kiếm phổ của họ Nhạc,
trở thành kiếm sĩ đệ nhất giang hồ. Phong Thanh Dương mình gầy như con hạc, sắc
mặt điêu linh tiều tụy, chỉ xuất hiện một lần mà danh tiếng của Phong đã làm quần
hùng chấn động. Nhân vật quái dị đến đâu cũng là con người nên vẫn mang theo những
đặc điểm, yếu tính của con người. Thế nhưng, khác hơn con người nói chung, nhân
vật quái dị suy nghĩ, sống và hành động theo ý mình và thông thường sự suy
nghĩ, sống và hành động đó lại vượt ra những khuôn sáo bó buộc của lương tâm,
luật pháp, đạo đức. Nó gây một sự kinh ngạc và thậm chí, là sự kinh sợ cho người
đọc. Một hình tượng tiêu biểu cho motif này là nàng Ôn thị, vợ của Phó bang
chúa Cái bang Mã Đại Nguyên trong Thiên Long bát bộ. Tác giả Kim Dung chỉ
để cho Ôn thị xuất hiện hai lần trong Thiên Long bát bộ. Lần thứ nhất với
vẻ nhu mì và đau thương của một vị vong nhân (đàn bà mới góa chồng), lần thứ
hai với toàn bộ phong cách dâm đãng và man rợ của một người mắc chứng cuồng
dâm. Hai hình tượng đối lập trong một con người có nhan sắc tuyệt vời thật khiến
cho người ta kinh sợ đến dựng cả tóc gáy. Mọi chuyện bắt đầu từ Bách hoa đại hội,
Ôn thị theo chồng là Mã Đại Nguyên, Phó bang chúa Cái bang, đi dự hội hoa xuân
này. Nhan sắc tươi đẹp của người phụ nữ này đã làm cho hàng ngàn anh hùng hảo
hán kinh ngạc, thán phục. Nhưng có một người không để ý tới tấm nhan sắc đó.
Người đó là Bang chúa Cái bang Kiều Phong. Thật ra, Kiều Phong không hề coi thường
vẻ đẹp phụ nữ; ông chỉ nghĩ rằng Ôn thị là vợ của thuộc hạ mình, cần phải giữ
đúng lễ. Thế nhưng điều đó đã làm Ôn thị căm thù và lập tâm sẽ hại Kiều Phong để
ông thân bại danh liệt. Nàng ta dựng lên một nghi án, cáo giác rằng chồng nàng
biết Kiều Phong là dòng giống man rợ Khất Đan nên Kiều Phong đã giết chồng
nàng để bịt miệng. Trong rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, Ôn thị đã xuất hiện
trong tư thế một người đàn bà đang chịu tang chồng, tiết lộ thân thế Khất Đan của
Kiều Phong đã làm quần hùng Cái bang kinh tâm. Họ trở mặt khinh miệt ông, coi
ông là kẻ thù. Kiều Phong phải đau đớn rời bỏ chức vụ, ra đi. Kiều Phong sẽ
không bao giờ hiểu được động cơ nào đã đưa Ôn thị đến việc vu cáo mình đã giết
Mã Đại Nguyên, người bạn mà ông rất yêu mến, nếu không có một đêm ông rượt theo
dấu vết Đoàn Chính Thuần và tận mắt chứng kiến tấn kịch man rợ tại nhà Ôn thị.
Hóa ra, Ôn thị là người tình cũ của Đoàn Chính Thuần; họ đã quan hệ thân xác với
nhau và trong cơn say đắm Đoàn Chính Thuần đã thề rằng nếu ông phụ Ôn thị, thân
thể sẽ bị lóc thành từng miếng thịt. Gặp lại Đoàn Chính Thuần, Ôn thị vui vẻ mở
tiệc rượu cùng Đoàn Chính Thuần ăn uống đùa giỡn rồi bỏ thuốc mê vào rượu đầu độc
Đoàn Chính Thuần. Ôn thị trói Đoàn Chính Thuần lại, nhắc lại lời thề xưa và há
miệng cắn từng miếng thịt của tình lang! Chính trong dịp này, Ôn thị đã tiết lộ
cho Đoàn Chính Thuần biết rằng mụ đã hãm hại Kiều Phong; rằng người giết Mã Đại
Nguyên - chồng mụ - không ai khác hơn là Bạch Thế Kính, chấp pháp trưởng lão
Cái bang và là một tình lang khác của mụ; và rằng Bạch Thế Kính đã nhại theo
chiêu thức Tỏa hầu cầm nã thủ của Kiều Phong để bóp nát yết hầu Mã Đại Nguyên,
dễ dàng thực hiện âm mưu vu cáo! Ôn thị là một nhân vật nữ vô cùng quái dị
trong suốt 12 bộ kiếm hiệp tiểu thuyết Kim Dung. Trong văn học thế giới, chưa
thấy có một nhân vật nữ nào đáng nể như nàng Ôn thị. Phải chăng, đó chỉ là sản
phẩm thuần túy hư cấu của trí tưởng tượng, trên đời này không hề có một phụ nữ
như vậy? Nhưng Thiên Long bát bộ không chỉ có Ôn thị mà còn có Trấn
Nam vương phi Đao Bạch Phụng, vợ chánh thất của Đoàn Chính Thuần, cũng quái dị
không kém. Thân danh là Vương phi của nước Đại Lý, Đao Bạch Phụng đã khám phá
ra chồng mình ngoại tình với nhiều phụ nữ khác. Vậy là bà ta trả thù và cách trả
thù cũng khá độc đáo: cho một gã ăn xin rách rưới hôi hám ăn nằm với mình. Lần
ăn nằm đó đã sinh ra một anh thế tử bảnh trai, một nhà nho trẻ lãng mạn, si
tình. Đó là Đoàn Dự. Gã ăn mày dơ bẩn đó là ai? Chính là Đoàn Diên Khánh, nhân
vật đại biểu của hoàng gia nước Đại Lý, tranh chấp ngai vàng không được, đã để
quyền lực cầm đầu nước Đại Lý lọt vào tay Đoàn Chính Minh, anh ruột của Đoàn
Chính Thuần. Kim Dung để cho Đoàn Dự lưu lạc giang hồ, yêu một lúc ba cô gái Mộc
Uyển Thanh, Chung Linh, Vương Ngữ Yên; toàn là những người con tư sinh của Đoàn
Chính Thuần. Cho đến khi chàng trai tuyệt vọng vì khám phá ra rằng mình đang
yêu những cô em cùng cha khác mẹ thì Trấn Nam Vương phi mới kề tai con mà tiết
lộ rằng chàng không phải là con của Đoàn Chính Thuần mà là con của Đoàn Diên
Khánh! Một bà vương phi có ngoại hiệu là Ngọc diện Quan Âm mà lãng mạn và liều
mạng đến thế thì thôi! Nhân vật quái dị tuy sống rất khác đời nhưng lại sống rất
người. Đối với họ, cái vỏ luân lý, đạo đức của đạo Nho không cứng lắm, có thể
phá vỡ để thoát ra được để sống đúng như lòng mình muốn sống. Trong Xạ
điêu anh hùng truyện, bất kỳ người anh hùng hào kiệt nào cũng lên án mối tình
Tiểu Long Nữ - Dương Qua vì nàng Tiểu Long Nữ là sư phụ mà chàng Dương Qua là đồ
đệ. Nho học và cả võ học Trung Quốc chưa hề cho phép một đứa học trò trai được
yêu và lấy cô giáo của mình. Kim Dung lãng mạn và cách mạng hơn: ông cho phép họ
thương yêu nhau và vượt xa hơn một chút, ông cứ để cho Tiểu Long Nữ mất trinh
vì một gã đệ tử hạng bét của phái Toàn Chân. Mất trinh thì mất, Dương Qua chỉ
biết yêu cô giáo của mình là Tiểu Long Nữ và ngược lại, trong đôi mắt của Tiểu
Long Nữ chỉ có chàng Dương Qua mà thôi. Họ dắt tay nhau đi đâu khi thành Tương
Dương bị quân Mông Cổ bao vây? Chính tác giả cũng không biết điều đó. Tình yêu
đã đưa họ đi thật xa, xa loài người, xa cuộc đời. Tiểu Long Nữ bỏ đi và Dương
Qua tìm kiếm. Và rồi cô bé Quách Tương cũng bỏ đi tìm Dương Qua. Có thể kể ra
hàng trăm nhân vật quái dị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Họ tạo ra đặc điểm
riêng cho tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, tạo nên "phong cách quái dị"
độc đáo đến nỗi, khi cầm lên một tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp in bằng tiếng
Quan thoại cũng ký tên tác giả Kim Dung mà chẳng có "phong cách quái dị"
này, ta có thể nói ngay đó là tác phẩm ngụy tạo (ngụy tác). Văn là người. Tư Mã
Thiên đau niềm đau của kẻ sĩ bị cung hình, ráng sống để viết nên bộ Sử ký đồ
sộ, trở thành viên pháp quan toàn quyền phê phán lịch sử một cách nghiêm khắc
và nghiêm túc. Khuất Bình đau niềm đau của kẻ cô trung bị phụ bạc mà viết
lên Ly tao rồi tìm cái chết trên dòng sông Mịch La, để lại cho đời những
câu phú ngậm ngùi khôn tả. Lỗ Tấn sinh ra và lớn lên trong giai đoạn lịch sử
đau thương nhất của Trung Quốc, không thể khóc nổi nữa đành phải đi tìm nụ cười
ra nước mắt trong A.Q chính truyện. Kim Dung xuất thân từ một gia đình có
ông nội làm quan dưới triều vua Quang Tự, đã lớn lên và từ bỏ Hoa lục ra đảo
Đài Loan, đã chứng kiến được những tác hại của tư duy giáo điều và chủ nghĩa
công thức sơ lược nên ông đã làm người lội ngược dòng nước. Phương pháp luận của
triết học là đưa ra một chính đề, phản biện lại thành một phản đề để đi đến một
hợp đề khả dĩ chấp nhận. Qua những nhân vật quái dị, Kim Dung đã đưa ra những
phản đề và phần hợp đề được ông giao lại cho người đọc, để người đọc tự nhận
ra. Rõ ràng là anh hùng - tiểu nhân, chính phái - tà phái, trinh tiết - bất
trinh, Kiếm tông - Khí tông, vương đạo - bá đạo, cao quý - đê tiện, ôn nhu - dâm
đãng... là những mặt đối lập khốc liệt. Nào ai đúng, nào ai sai? Người đọc hãy
tự lý giải. Kim Dung chỉ dặn dò chúng ta: thấy như vậy nhưng không hẳn là như vậy.
Thế thôi.
NGHỀ KỸ NỮ TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG
Khái niệm "nghề", theo nhà kinh tế học người Anh Thomas Robert
Malthus, là một cái gì có lợi cho bản thân, vừa có ích cho xã hội. Và nếu hiểu
theo cái nghĩa nghiêm túc đó thì kỹ nữ không thể là một nghề. Kỹ nữ, người con
gái làm nghề bán phấn buôn hương, còn có nghĩa là ả đào, con hát. Nếu người ta
có thể chấp nhận ả đào, con hát là một nghề thì người ta khó có thể chấp nhận
được chữ nghề trong cái người ta gọi là bán phấn buôn hương. Trong thơ của Đỗ Mục,
kỹ nữ còn được gọi là "thương nữ": Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu đình hoa (Con hát biết chi hờn mất nước Cách sông
còn hát Hậu đình hoa (Đỗ Mục - Bạc Tần Hoài)
Nói thì nói thế nhưng trong xã hội Trung Hoa ngày xưa, một xã hội vốn trọng nam
khinh nữ, coi người phụ nữ là đồ chơi của đàn ông, có thể dễ dàng mua, bán, bắt
cóc, sang nhượng hoặc đem làm quà tặng giữa những người đàn ông với nhau thì xuất
hiện của nghề kỹ nữ cũng là điều rất bình thường, thậm chí được coi là hợp lý.
Nghề kỹ nữ có từ thời nào? Người ta khó mà xác định được thời điểm xuất hiện của
nghề này, tuy nhiên cũng có thể khẳng định được nghề này gắn liền với chén rượu
câu khách, mời khách, đàn ca làm vui và bán dâm cho khách. Theo tư liệu của ông
Nguyễn Tôn Nhan đăng trên tạp chí Kiến thức ngày nay, ông tổ của nghề kỹ nữ là
Bạch mi thần. Thần mày trắng có thể là Hồng Nhai tiên sinh, tên gọi Linh Luân,
bầy tôi dưới thời vua Hoàng Đế, người làm ra âm luật đã được ghi trong Lã Thị
xuân thu của Lã Bất Vi thời Tần. Thần mày trắng cũng có thể là Liễu Đạo Chích,
thời Xuân Thu; Quản Trọng (Quản Di Ngô), thời Xuân Thu, người có công lập ra
700 nhà chứa gái để đàn ông đến mua vui, thu tiền lời để lo tiền quân quốc cho
Tề Hoàn Công; cũng có thể là Lã Động Tân trong nhóm Bát tiên, nhân vật chuyên dạy
hát kiêm trị bệnh hoa liễu cho phụ nữ làng chơi. Trong bất kỳ thời đại vua chúa
nào ở Trung Hoa, nghề kỹ nữ cũng vẫn được hoạt động, các "viện" chứa
gái vẫn mọc lên ở khắp nơi. Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung trở thành một bản điều
tra xã hội khá ngoạn mục khi ông phản ánh cho độc giả thấy thêm được một nghề:
nghề kỹ nữ.
Trong tác phẩm Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung có nhắc tới viện Quần Ngọc dưới
núi Hành Sơn. Đây là nơi mà Lệnh Hồ Xung khuyên Điền Bá Quang nên tìm tới để giải
trí, buông tha cho ni cô Nghi Lâm bé bỏng tội nghiệp. Cũng chính nơi này, Lệnh
Hồ Xung đã tìm tới để dưỡng thương; Nghi Lâm được cô bé Khúc Phi Yến dẫn đến
tìm anh để đưa anh đến vùng hoang sơn dã lĩnh, tránh sự truy đuổi của những kẻ
thù. Cũng chính nơi này, Dư Thương Hải của phái Thanh Thành tưởng đã có cơ hội
làm nhục hai phái Hoa Sơn và Hằng Sơn nếu bắt được Lệnh Hồ Xung và Nghi Lâm ở
chung một phòng, nhưng cuối cùng lão đã phải chạm mặt Điền Bá Quang và đánh
nhau, bị Điền Bá Quang xuyên tạc là "đánh nhau để giành một cô gái
làng chơi tên là Ngọc Bảo".
Nhưng nghề kỹ nữ được mô tả đậm nét nhất vẫn là trong bộ Lộc Đỉnh ký, Vi
Tiểu Bảo xuất thân từ kỹ viện Lệ Xuân ở thành Dương Châu. Mẹ của Vi Tiểu Bảo
- Vi Xuân Phương - bang giao rộng rãi với các anh em Hán, Mông, Tạng, Hồi Mãn;
không khẳng định được cha của Vi Tiểu Bảo là ai. Chính Vi Tiểu Bảo cũng trải
qua tâm trạng buồn bực, ghen tị khi má mình đã già (trên 30 tuổi), không có được
khách sang, khách sộp của các kỹ nữ trẻ tuổi khác. Kim Dung cũng cho biết các cấp
bậc trong các kỹ viện ở Dương Châu. Má má là chủ viện, người bỏ tiền ra mua gái
về, có toàn quyền sinh sát đối với các cô gái. Mụ dầu là những người đàn bà lớn
tuổi, chuyên môi giới giới thiệu, làm môi giới mại dâm. Kỹ nữ là người trực tiếp
bán dâm trong các kỹ viện, lại kiêm nhiệm vụ mời khách uống rượu và kêu đồ nhậu.
Nội dung công việc của họ là khuyến khích bọn khách chơi xài tiền nhiều càng tốt.
Quy nô là những chàng trai cô gái có nhiệm vụ phục vụ các công việc vặt trong kỹ
viện: nấu nướng thức ăn, pha rượu, dọn bàn ghế, mua đồ ăn cho kỹ nữ và... đánh
đập những cô gái nhà lành, dằn mặt họ nếu họ không chịu bán trinh, không chịu
tiếp khách. Chính Vi Tiểu Bảo đã từng mơ ước một ngày có số tiền lớn, tìm đến một
viện nào đó ăn xài phung phí cho sướng tay ba ngày ba đêm. Về sau, làm đại thần
trong triều Khang Hy rồi, Vi Tiểu Bảo mang số tiền lớn về cho mẹ để mẹ có thể mở
một Lệ Thu viện, Lệ Đông viện, Lệ Hạ viện; cạnh tranh cho cái Lệ Xuân viện mà
hắn đã từng lớn lên và chịu nhục phải sụp tiệm, rồi đời. Ngay bà Vi Xuân
Phương, khi nhìn thấy đàn con dâu tươi đẹp của mình, trong đó có đủ tất công
chúa, phu nhân, tiểu thư quyền quý; đã khen con mình có con mắt tinh đời. Trong
tư tưởng khinh doanh kỹ viện của bà già chồng này thì cứ cái đàn gái đó mà lập
thành một viện thì ắt thành Dương Châu sẽ không có viện nào còn bóng đàn ông nữa.
Trong Lộc Đỉnh ký, Kim Dung xây dựng một tình huống xảy ra tại Lệ Xuân viện
khá buồn cười. Trịnh Khắc Sản dẫn A Kha (cô gái mà Vi Tiểu Bảo đang say đắm)
hóa trang thành một vị công tử, xuống Lệ Xuân viện ở Dương Châu để đón bắt Vi
Tiểu Bảo. Bà Vi Xuân Phương cứ tưởng đây là hai khách sộp, cố gắng rót rượu mời
chào, ôm Trịnh Khắc Sản và A Kha hôn hít hoài. Vi Tiểu Bảo thấy cảnh đó vừa bực
tức vừa sợ Trịnh Khắc Sản, tình địch của mình sẽ trở thành cha hờ của hắn đêm ấy;
vừa buồn cười vì mẹ ruột của mình cứ hôn hít bồ của mình, tưởng A Kha là đàn
ông phong lưu. Thành đô nhộn nhịp có kỹ viện không lạ. Lạ nhất là những nơi tôn
nghiêm như chân núi Thiếu Thất dưới chùa Thiếu Lâm, Hồ Nam cũng có kỹ viện.
Chính Vi Tiểu Bảo trong lớp áo của Hối Minh thiền sư, phó trụ trì chùa Thiếu
Lâm, chịu không nổi cảnh chay tịnh của nhà chùa, đã thay áo đội khăn lén khỏi
chùa đến kỹ viện chơi. Lúc hắn đang say sưa cho tiền bọn kỹ nữ, gác tay gác
chân lộn xộn thì A Kha và A Kỳ đến tìm hắn để tấn công. Hắn nhanh trí nói dối A
Kỳ là vợ lớn, A Kha là vợ nhỏ, nghe hắn đi chơi kỹ viện nổi ghen đến quậy. Để
tránh sự truy bắt của A Kỳ, A Kha, hắn dùng kế “kim thiền thoát xác”, mượn áo bọn
kỹ nữ mặc vào, cho tiền đậm bọn kỹ nữ nhờ chúng chửi bới A Kha, A Kỳ rồi chia
hai tốp kéo ra cổng trước và cổng sau. Thấy bọn kỹ nữ kéo ra, A Kỳ và A Kha
không dám chém. Vi Tiểu Bảo nhờ thế mà thoát nạn, chỉ thương bọn kỹ nữ vì ăn tiền
chửi mắng hăng quá, bị A Kỳ và A Kha đánh cho sứt đầu mẻ trán, kêu khóc om sòm.
Sau này A Kỳ và A Kha đem chuyện hắn đi chơi kỹ viện thưa với phương trượng
chùa Thiếu Lâm là Hối Thông thiền sư. Vi Tiểu Bảo tưởng đã chết đến nơi, ai ngờ
có một nhân vật là Dương Dật Chi đứng ra đỡ đòn cho hắn. Dương Dật Chi cho biết
hắn là thái giám được hoàng thượng tin tưởng. Mà thái giám thì còn đi kỹ viện
sao được. Cho nên mọi vị sư tăng trong chùa Thiếu Lâm đều kính ngưỡng hắn và
cho rằng câu chuyện của A Kỳ và A Kha là chuyện bịa đặt, vu cáo một nhà tu hành
đạo đức sáng rỡ!
Nhưng thật ra, kỹ viện không chỉ là nơi mại dâm. Nếu trong tiểu thuyết võ hiệp
Kim Dung, bọn hào sĩ giang hồ bị bọn quan binh truy nã; người bị thương thì
lánh vào kỹ viện trị thương, thì trong thực tế, các danh sĩ thường tìm đến kỹ
viện để nghe hát làm thơ, rồi dạy các kỹ nữ hát những bài thơ của mình thành nhạc
phổ. Kỹ viện trở thành nơi nương náu của những tâm hồn cô độc, của những người
bị vua chúa lưu đày. Trong những trường hợp đó thì kỹ nữ trở thành người bạn
tri âm. Chúng ta đã từng biết Bạch Cư Dị bị giáng làm Tư mã Cửu Giang, đã từng
làm bài Tỳ bà hành ca ngợi tiếng đàn của một kỹ nữ dài 622 câu. Trong
phần đề tựa, Bạch Cư Dị đã viết: "Năm Nguyên Hòa thứ mười (816), ta bị
giáng làm Tư mã huyện Cửu Giang... tiễn khách ở bến Bồn, giữa đêm nghe tiếng tỳ
bà ở trên thuyền... hỏi ra thì đó là ca nữ ở Trường An". Tác giả ngồi
nghe tâm sự của người ca nữ đó. Bản thân người ca nữ đó là một nhân vật có học,
có lòng tự trọng, không phải khách nào mời cũng ra: Di thuyền tương cận
yêu tương kiến Thiên tửu hồi đăng trùng khai yến Thiên hô vạn hoán thỉ xuất lai
Do bão tỳ bà bán già diện (Ghé thuyền đến cạnh chào mời Khêu đèn thêm rượu
lại bày tiệc hoa Nằn nì mời mãi mới ra Ôm đàn che nửa mặt hoa thẫn thờ) (Trần
Trọng Kim dịch) Lý Bạch cũng từng tìm thấy nguồn cảm hứng trong những chén rượu
mà các nàng Ngô cơ chào mời ông trong bài Kim Lăng tửu tứ lưu biệt: Phong
xuy liễu hoa mãn điếm hương Ngô cơ áp tửu khuyến khách thường (Gió đưa
hương liễu đầy nhà Gái Ngô chuốc rượu thiết tha ép nài) Nhưng có lẽ Đỗ Mục với
10 năm lưu lạc ở Giang Nam mới hiểu được tấm lòng của người hồng nhan tri kỷ xuất
thân từ giới kỹ nữ: Lạc phách giang hồ tái tửu hành Sở yêu tương tế chưởng
trung khinh Thập niên nhất giác Dương Châu mộng Dinh đắc thanh lâu bạc hạnh
danh (Lưu lạc giang hồ đã bấy lâu Cùng người nhỏ bé ở bên nhau Mười năm sực
tỉnh Dương Châu mộng Mang tiếng trăng hoa nghĩ lại sầu) (Hàn Giang Nhạn dịch)
Và đúng như truyền thống các bậc nhà văn tiền bối, Kim Dung cũng không hề xây dựng
những nhân vật thuần túy là những cô gái làng chơi trong tiểu thuyết võ hiệp của
mình. Tôi có dịp khắc họa nhân vật Trần Viên Viên như một thiên hạ đệ nhất mỹ
nhân, một danh kỹ, tuy xuất thân từ chốn phong trần nhưng đẹp tuyệt vời và
thông minh vô hạn, có một quan hệ lạ lùng đến lịch sử Trung Hoa thời Minh mạt -
Thanh sơ. Nhân vật có thật này trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo cho danh sĩ Ngô
Mai Thôn đời Thanh viết thành Viên Viên khúc. Và cũng ngay trong Lộc
Đỉnh ký, Kim Dung cũng xây dựng nên những đoạn kể chuyện các quan ở Dương Châu
chiêu đãi khâm sai đại thần Vi Tiểu Bảo bằng cách mời ba kỹ nữ tài năng. Người
thứ nhất là Lương Ngọc Kiều, tuổi ngoài 30, ăn mặc hoa lệ nhưng nhan sắc cũng tầm
thường. Người thứ hai lối ba mươi bốn, ba mươi lăm nhưng "cử chỉ thuần
nhã, giọng ca thánh thót; gặp những câu khúc chiết vi diệu tiếng hát càng thanh
thoát lên bổng xuống trầm, biến hóa vô cùng". Cô hát bài Vọng Hải Triều,
thơ của Tần Quan đời Tống, ca ngợi đất Dương Châu. Người thứ ba là một kỹ nữ tuổi
ngoài bốn mươi, trán nhiều vết nhăn, mắt nhỏ ti hí nhưng được đánh giá là đệ nhất
danh kỹ Dương Châu. Cô ôm tỳ bà hát một bài mới của Tra Thận Thành (viễn tổ của
Kim Dung); các quan ở Dương Châu ngồi nghe tâm hồn bay bổng. Chỉ có Vi Tiểu Bảo
là chán nản bởi vì gã chỉ thích gái trẻ, mà có hát thì phải hát những bài dâm
đãng như Thập bát mô. Cho nên khi gã đòi cô danh kỹ này hát Thập bát
mô, cô đã liệng đàn, ôm mặt khóc bỏ chạy khỏi bữa tiệc. Với tiểu thuyết võ hiệp
Kim Dung đã hé mở cho ta thấy sự tồn tại của giới kỹ nữ và các kỹ viện trong những
chế độ quân chủ Trung Hoa. Biết sao được, pháp luật ấy công nhận kỹ nữ là một
nghề thực thụ. Điều đáng quý ở nơi ông là ông đã nhìn những kỹ nữ dưới con mắt
của nhà văn nhân bản và nhân đạo: không lên án cái nghề ti tiện của họ, mà thậm
chí còn có khuynh hướng ca ngợi, biểu dương các danh kỹ như các nhà văn tiền bối
đã làm. Nhưng tôi cho rằng cái can đảm nhất ở ông là đã để cho một thằng nhóc
con của một kỹ nữ, lớn lên trong kỹ viện trở thành công tước của triều Thanh,
đè đầu cưỡi cổ thiên hạ, kể cả những bậc vương công đại thần, Đó là Vi Tiểu Bảo.
Kim Dung muốn chứng minh một định đề: trước những ba động của lịch sử thì một
gã lưu manh, một con gái điếm, cũng có thể trở thành người "cao quý "
nhất thiên hạ. Định đề đó quả thật buồn và thật đắng cay!.
CON TRÂU TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG
Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung không phản ánh về hoạt động nông nghiệp của nông
dân Trung Quốc mà chỉ phản ánh thế giới võ hiệp - một thế giới hoàn toàn hư cấu
do trí tưởng tượng phong phú của tác giả. Tuy nhiên, xuất thân từ một đất nước
rộng lớn trong một giai đoạn mà nền nông nghiệp còn sản xuất nhỏ và lạc hậu,
Kim Dung đã đưa vào trong tiểu thuyết của mình hình ảnh nông thôn Trung Quốc,
những nông dân và sinh hoạt nông nghiệp Trung Quốc. Ta thử bàn về con trâu
trong tác phẩm của ông.
Trong ngôn ngữ Trung Quốc, trâu là ngưu hoặc hắc ngưu để phân biệt với con bò
là hoàng ngưu. Ở chừng mực nào đó, Kim Dung cũng đã thể hiện tình cảm của mình
đối với con trâu, sức kéo tiêu biểu trong nông nghiệp truyền thống Trung Quốc.
Trong tác phẩm Thần điêu hiệp lữ, trí tưởng tượng của tác giả đã phát huy
đến cao độ khi ông để cho chàng trai Dương Qua “mượn” tạm một con trâu của người
nông dân, mặc bộ quần áo của trẻ chăn trâu, đốt đuốc phía sau đít trâu để trâu
phóng thục mạng vào vòng vây của quân Mông Cổ xâm lược. Con trâu của Dương Qua xông
trận còn hữu hiệu hơn cả con ngựa chiến Mông Cổ. Phải chăng đó là hình ảnh tiêu
biểu của cuộc khởi nghĩa nông dân tại thành Tương Dương?. Cuộc khởi nghĩa Tương
Dương đã bị quân Nguyên tắm máu, giang sơn Trung Hoa chìm trong ách Di Địch
nhưng hình tượng Dương Qua cỡi trâu xông trận vẫn còn mãi với Thần điêu hiệp
lữ và được hiện thực hóa bằng điện ảnh. Chàng trai Quách Tĩnh trong Xạ
điêu anh hùng truyện được thầy mình là Hồng Thất Công đặt tên cho là Thủy Ngưu (trâu nước), còn có biệt hiệu là Ngưu Canh Điền (trâu cày ruộng). Ấy bởi
vì tướng mạo Quách Tĩnh mộc mạc quê mùa, nước da ngăm ngăm đen, ít miệng lưỡi,
chậm hiểu, tướng phục phịch như con trâu. Con trâu có mặt khắp mọi nơi trong tiểu
thuyết Kim Dung. Trâu chết đi để lại cho người thịt và da. Bọn quần tiên 36 động
72 đảo trong Thiên Long bát bộ chuyên ăn thịt trâu khi tấn công lên cung Linh
Thứu, núi Phiêu Diễu. Và bọn họ ăn như ngựa, uống như trâu (mã thực, ngưu ẩm).
Bọn quần hào Trung Nguyên, từ đám bàng môn tả đạo ủng hộ Lệnh Hồ Xung tấn công
lên chùa Thiếu Lâm núi Thiếu Thất trong Tiếu ngạo giang hồ đến bọn
lên ủng hộ Thiếu Lâm anh hùng đại hội trong Thiên Long bát bộ đều
đánh trống bằng da trâu. Có lẽ da trâu dày hơn da bò mới chịu được công lực của
các vị đại gia ấy chăng? Cái tiết tấu ồn ào, phức tạp của họ làm cho ma quỷ,
thánh thần cùng kinh hãi.
Da trâu được dùng làm vũ khí và đôi khi là công cụ để thi hành hình luật. Đó là
roi da trâu, tức ngưu bì tiên, đánh đến đâu nghe đến đó! Sừng trâu được cưa làm
chung đựng rượu. Trong Tiếu ngạo giang hồ, Tổ Thiên Thu đã thuyết Lệnh Hồ
Xung rằng rượu trắng ngoài quan ngoại đựng trong sừng trâu. Sở dĩ dùng sừng
trâu làm chung uống rượu vì chất sừng tanh tanh, có như thế mới chế ngự được
mùi vị cay nồng của rượu trắng.
Tên tuổi của con trâu cũng được nhà tiểu thuyết mượn tạm để chế ra môn phái, ám
khí và võ công. Các vị đạo sĩ tu theo pheo phái Võ Đang như Xung Hư trong Tiếu
ngạo giang hồ, Trương Tam Phong trong Ỷ thiên Đồ long ký được gọi là
các lão “lỗ mũi trâu”. Mô phỏng theo hình dáng sợi lông trâu, bọn bàng môn tả đạo
chế ra thứ ám khí gọi là Ngưu mao châm. Trong Thiên Long bát bộ, Tang
Thổ Công, động chủ động Bích Lân, đã bắn thứ này vào bọn Mộ Dung Phục khiến phe
Cô Tô Mộ Dung ngứa ngáy vô kể. Tuy nhiên điểm sáng nhất của Kim Dung lại nằm
trong môn Cách sơn đả ngưu thần công. Như tên gọi, loại công phu này có điểm
cách biệt là đánh được con trâu mà giữa con trâu và người đánh có một vật cản
là hòn núi. Tất nhiên cả hai khái niệm trâu và núi đều mang tính ẩn dụ cao độ.
Trong Thiên Long bát bộ, Kim Dung đã để cho quốc sư nước Thổ Phồn là Cưu
Ma Trí biểu diễn công phu này. Cưu Ma Trí vận chưởng của phái Thiếu Lâm, đứng từ
xa vung tay đánh cách không vào chiếc lư hương bằng đồng. Phía bên này lư hương
vẫn bình thường nhưng ở phía bên kia, phần đồng bị cắt ra một miếng đúng như
bàn tay của Cưu Ma Trí. Trong Lộc Đỉnh ký, Kim Dung cũng để cho Vi Tiểu Bảo
biểu diễn Cách sơn đả ngưu thần công. Hắn vận “công lực” và đấm vào các vị
Lạt ma Tây Tạng những thế võ nhẹ hều. Nhưng các nhà sư Tây Tạng lại lăn ra chết.
Tại sao vậy? Trong tay áo thùng thình, hắn đang cầm một lưỡi trũy thủ bén ngọt.
Hắn vung tay lên không phải để đánh quyền mà là dùng trũy thủ đâm lén. Da thịt
nào chịu nổi loại thần công gớm ghiếc như vậy?
Người đời thường bảo ngu như trâu, dở như trâu. Nhưng trong tác phẩm võ hiệp
Kim Dung, con trâu đã chẳng ngu mà lại chẳng dở chút nào. Cuốn Ỷ thiên Đồ
long ký xây dựng một nhân vật thầy thuốc mà y thuật cao đến độ thần thông,
mang tên trâu xanh: Hồ Thanh Ngưu. Ngoại hiệu của Hồ Thanh Ngưu là Điệp Cốc y
tiên và chỗ ở của ông là Hồ Điệp Cốc. Cả ngoại hiệu và chỗ ở của Hồ Thanh Ngưu
cho thấy được chất lãng mạn mênh mông của nhân vật này.
Có một con trâu khác trở thành đối tượng được các cô thiếu nữ nhan sắc kiện tướng
công huân say mê như điếu đổ. Đó là chàng Trương Vô Kỵ, khi trốn vào hang núi mới
có 15 tuổi. Trong 5 năm học võ, chàng trở thành bậc thượng thừa. Trượt tuyết rớt
xuống chân núi gãy cả hai chân, chàng tự xưng là Tăng A Ngưu (Tăng Văn Trâu).
Lên đến Quang Minh đỉnh giải vây cho quần hùng Minh giáo, chàng vẫn là Tăng A
Ngưu. Tăng A Ngưu có đến bốn cô bạn sắc nước hương trời, một “tài sản” mà không
một hoàng đế Trung Hoa nào có được: Triệu Mẫn, quận chúa hoa hậu Mông Cổ; Tiểu
Siêu, hoa khôi thánh nữ sứ Minh giáo Ba Tư; Chu Chỉ Nhược, chưởng môn phái Nga
Mi; Hân Ly, tức Châu Nhi, em cô cậu. Cuối cùng Tăng Văn Trâu chọn Triệu Mẫn vui
chơi bốn biển năm hồ mặc dù anh có đủ tài năng và tư cách lên nắm ghế lãnh đạo
cao nhất trong lực lượng khởi nghĩa kháng Nguyên ở Hoài Tứ. Thuộc hạ của anh là
Chu Nguyên Chương đã nắm quyền khởi nghĩa thành công, xưng đế hiệu là Minh Thái
Tổ, mở ra nhà Minh (1368-1643), truyền được 13 đời. Tăng A Ngưu Trung Quốc đi
theo đóa hoa lài Mông Cổ nhưng trong trường hợp này chẳng ai dám chế giễu nhà
văn Kim Dung đem bông hoa lài cắm bãi cứt trâu!
NGƯỜI TÂY DƯƠNG TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG
Người Trung Quốc vẫn gọi người châu Âu là Tây dương quỷ (bọn quỷ ở bờ biển phía
Tây) hoặc Hồng mao quỷ (bọn quỷ lông tay đỏ). Khi dùng cách gọi như thế, người Trung
Quốc đã tự cho họ cái quyền được mạt sát người châu Âu, coi dân châu Âu không
phải là người.
Trong Lộc Đỉnh ký, Kim Dung đã có những đoạn, những chương thuật lại các
quan hệ với người Tây dương. Đầu tiên là người Nga. Cuộc chiến tranh Trung -
Nga dưới triều Khang Hy đã diễn ra tại thành Ni Bố Sở (Nertohinsk) năm 1669. Vi
Tiểu Bảo làm nguyên soái, tư lệnh các lộ quân Thanh triều, đi đánh quân Nga. Tư
lệnh Nga là Á Nhĩ Thanh Tư Cơ (Alsinsky) bị bắt. Hầu tước Nga là Phí Diêu Đa La
(Feodore) phải xin cầu hòa. Trong giai đoạn này, Vi Tiểu Bảo thu nhận hai tay đội
trưởng Nga để làm người đưa tin về cho công chúa Tô Phi Á (Sophia). Một người
tên là Hoa Bá Tư Cơ (Vabasky) và một người tên là Tề Lạc Nặc Phu (Delanov). Hai
người này đã giúp chuyển thư từ, quà cáp của Vi Tiểu Bảo về cho Tô Phi Á và đồng
thời cũng đem tin tức, quà cáp của Tô Phi Á lại cho Vi Tiểu Bảo. Do trình độ chữ
Hán mập mờ, chữ Nga lại ấm ớ, Vi Tiểu Bảo đọc tên hai người này là Vương Bát Tử
Kê (gà chết khốn nạn) và Trư La Nọa Phu (con heo hèn hạ).
Lộc Đỉnh ký cũng nhắc đến đại sứ Nga Tư Ba Tháp Lôi (Spartinary) và đoàn
quân Nga bị bắt về Bắc Kinh, được vua Khang Hy trọng dụng, kêu bằng Nga La Tư
tá lĩnh. Ngay trong triều đình Khang Hy, nhà vua cũng đã trọng dụng hai nhân
tài Tây Dương. Người thứ nhất là Thang Nhược Vọng (Adam Schall), quốc tịch Đức,
giám đốc đài Thiên văn Bắc Kinh. Cuộc đời của Thang Nhược Vọng rất may mắn khi
gặp được vua Khang Hy. Thời Thuận Trị, Thang Nhược Vọng đã được tin tưởng, cho
làm công việc tính thiên văn, lịch pháp. Năm Khang Hy thứ ba (1665), Tòa Khâm
thiên giám tính lộn ngày nhật thực; Thang Nhược Vọng khám phá ra sơ suất ấy,
trình Khang Hy. Dương Quang Tiến, viên quan tính lộn nhật thực, đâm ra thù
Thang Nhược Vọng, muốn trả oán. Tiến bèn lấy cuốn Đại Thanh thời hiến lịch do
Thang Nhược Vọng viết ra dưới thời Thuận Trị, tiên đoán nhà Thanh chỉ ở ngôi
200 năm, làm một bản tâu lên Khang Hy rằng nhà Đại Thanh có thượng đế phù hộ, sẽ
trường tồn vạn năm. Chuyện Thang Nhược Vọng cho rằng Đại Thanh chỉ bền vững 200
năm là nguyền rủa Đại Thanh. Lúc đó, Khang Hy mới 11 tuổi, quyền hành đang ở
trong tay cố mệnh đại thần Ngao Bái. Ngao Bái nghe tâu, bèn bắt Thang Nhược Vọng,
định xử lăng trì. Nhưng Khang Hy phát giác được chỗ để cứu Thang Nhược Vọng.
Nhà vua nhỏ tuổi bàn: cuốn Đại Thanh thời hiến lịch làm ra năm Thuận Trị thứ 10
(1653) chẳng ai nói gì; thậm chí vua còn ban cho Thang Nhược Vọng tước vị Thông
Huyền giáo sư. Nay đem Thang Nhược Vọng ra giết đi thì chẳng khác nào mạt sát
tiên hoàng Thuận Trị là u mê, tối tăm. Nhà vua bàn nên giam Thang Nhược Vọng lại.
Khi Ngao Bái bị giết, nhà vua cho thả Thang Nhược Vọng ra, làm giám đốc Thiên
văn đài như cũ, phong tước Thông Minh giáo sư (vì tên của Khang Hy là Huyền
Hoa, phải kỵ húy nên bỏ tước Thông Huyền giáo sư).
Người thứ hai là Nam Hoài Nhân (Ferdinard Verbiest) gốc Bỉ Lợi Thì (Belgique).
Người này rất trung thành với Khang Hy chuẩn bị đánh Ngô Tam Quế, nhà vua đã nhờ
đến cả Nam Hoài Nhân và Thang Nhược Vọng giám đốc toàn bộ công trình đúc đại
bác cho mình, Cả hai đều là giáo sĩ dòng Tên (Jésuite) làm quan dưới triều
Khang Hy và đã có nhiều đóng góp lớn lao giúp Khang Hy bình định Trung Quốc.
Chính Vi Tiểu Bảo cũng mến mộ hai người Tây dương này. Y gọi họ là "ngoại
quốc lão huynh". Vi Tiểu Bảo rất kinh phục kỹ thuật đúc trọng pháo của
hai "ngoại quốc lão huynh". Sau đó, đi đánh người Nga La Tư ở Ni
Bố Sở, Vi Tiểu Bảo cũng mời các "ngoại quốc lão huynh" cùng
đi trong quân để làm người phiên dịch trong đàm phán phân chia ranh giới và viết
hòa ước bằng tiếng La tinh cho mình.
Lộc Đỉnh ký cũng có những đoạn thuật lại cuộc chiến đấu của quân dân đảo
Đài Loan chống lại người Hà Lan. Kim Dung gọi viên tư lệnh Hà Lan là Quỷ Nhất
(?). Tra cứu trong chính sử Trung Quốc, chúng tôi chưa tìm được đích xác tên gốc
của viên tư lệnh này. Tất nhiên, đối với những kẻ đến xâm lược đất nước mình.
Kim Dung dùng từ "Quỷ" cũng chẳng có gì là quá đáng. Chính trong tác
phẩm của mình, Kim Dung cũng thừa nhận rằng sức mạnh hỏa khí của người Tây
dương là ghê gớm, không có một thứ "thân công" nào của giới võ lâm
Trung Quốc có thể địch nổi. Ngô Tam Quế tặng cho Vi Tiểu Bảo một cặp súng lục của
Nga, hắn bắn thử một phát, sạt nửa hòn giả sơn, khiến cho gã sợ hãi muốn... ra
quần. Cũng vậy, ra diễn võ trường Bắc Kinh xem thử súng đại bác của Nam Hoài
Nhân và Thang Nhược Vọng chế ra, gã kinh hoàng nghe trọng pháo nổ hai lần. Cho
nên, nói chuyện võ công là nói chơi, chuyện chiến đấu bằng súng đạn trên chiến
trường mới là chuyện thật. Những chiến thắng của quân dân Đài Loan trước quân
Hà Lan, của quân Thanh trước quân Nga chẳng qua cũng chỉ là kinh nghiệm dùng
cái thô sơ để chống chọi với cái tiên tiến. Người Trung Quốc đã biết đưa quân
dùng ván ghép lại để che đạn, cho quân đi sau dùng đoản đao xung phong chặt
chân người Tây dương. Lịch sử Trung Quốc gọi đó là Đằng bài quân. Điều may mắn
cho họ là ở thế kỷ 17, súng đạn chưa có được sức mạnh sát thương ghê gớm như
ngày nay. Cho nên họ đã chiến thắng được Tây dương quỷ.
CÁC KỸ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG
Khái niệm khoa học - kỹ thuật là khái niệm khá mới mẻ, khái quát những phát
minh sáng chế sử dụng phục vụ cho con người. Từ ngàn xưa, dân tộc Trung Hoa
cũng có những phát kiến khoa học - kỹ thuật riêng của họ. Và thật thú vị khi ta
gặp lại một số kỹ thuật sơ đẳng đó trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung.
Kim Dung cho ta biết người Trung Hoa đã biết sử dụng chất cường toan (acid) vào
nhiều lĩnh vực khác nhau. Đầu tiên, chất acid dùng để viết chữ. Bộ Ỷ thiên
Đồ long ký có nhắc đến sáu thanh Thánh hỏa lệnh của Bái hỏa giáo Ba Tư do
3 sứ giả của tôn giáo này đem vào Trung Quốc, dùng như một loại vũ khí, trên đó
có khắc pho võ công quái dị của người Ba Tư. Trương Vô Kỵ, giáo chủ Bái hỏa
giáo Trung Quốc (Kim Dung dùng từ Minh giáo – Manichéisme) sử dụng võ công tuyệt
thế đoạt lấy được các thẻ Thánh hỏa lệnh. Điều đặc biệt là các Thánh hỏa lệnh
không phải bằng xương, bằng ngà, bằng thép mà bằng một loại hợp kim rất lạ. Để
viết được tâm pháp võ công trên Thánh hỏa lệnh, người Ba Tư phải nhúng thánh hỏa
lệnh vào sáp, lấy cọ cứng viết chữ trên mặt sáp rồi dùng chất cường toan đồ
theo nét chữ nhiều lần mới in sâu được chữ vào Thánh hỏa lệnh. Bọn hào sĩ giang
hồ của Kim Dung đã biết dùng cường toan làm vũ khí chiến đấu. Trong Ngũ kỳ của
Minh giáo Trung Quốc, có đội Hồng thủy kỳ chuyên dùng ống phun cường toan vào kẻ
địch. Trên sân chùa Thiếu Lâm, họ đã biểu diễn màn đánh cường toan vào bầy chó
sói cho quần hùng mục kích. Bộ Tiếu ngạo giang hồ cũng nói đến kỹ thuật
đánh cường toan này. Bọn giáo chúng Nhật Nguyệt giáo ngụy trang lên Hằng Sơn
chúc mừng lễ nhậm chức chưởng môn của Lệnh Hồ Xung đã đem theo ống phun nước cường
toan, vây hãm Lệnh Hồ Xung, Phương Chứng - trụ trì chùa Thiếu Lâm và Xung Hư -
chưởng môn phái Võ Đang….
Kim Dung còn đề cập đến kỹ thuật dùng thuốc nổ. Đầu tiên thuốc nổ được dùng như
một loại pháo thăng thiên, nổ trên không trung cho ra những hình ảnh đặc biệt.
Đây là cách triệu tập đồng môn, đệ tử của từng môn phái. Từ thuốc nổ làm pháo,
Kim Dung bàn đến kỹ thuật chôn thuốc nổ để đánh mìn. Phái Tiêu Dao trong bộ Thiên
Long bát bộ có kỹ thuật đánh mìn cực giỏi. Bọn Hàm Cốc bát hữu của phái
Tiêu Dao dùng thuốc nổ làm mìn chống lại Đinh Xuân Thu. Trong Tiếu ngạo
giang hồ, phái Võ Đang chôn thuốc nổ ở núi Hằng Sơn định tiêu diệt Nhật Nguyệt
giáo. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Viên Chân (tức Thành Khôn) chôn thuốc nổ
hòng tiêu diệt Minh Giáo. Họ đều biết cách chuyền dây dẫn, kích hỏa, tạo phản ứng
nổ… Lịch sử cho ta biết người Trung Hoa là dân tộc đầu tiên tìm ra thuốc nổ phục
vụ nghề làm pháo. Điều thú vị là trong tiểu thuyết Kim Dung không có vụ nổ nào
thành công bởi vì cuối cùng chẳng có ai kích hỏa. Tất cả đều kết thúc tốt đẹp,
nhân vật giang hồ không ai chết tập thể vì thuốc nổ, dù đã được chôn theo đúng
dự kiến. Bộ Thiên Long bát bộ cho chúng ta biết kỹ thuật sử dụng chất
lân (phosphore) làm vũ khí. Phái Tinh Tú của Đinh Xuân Thu lấy chất lân chế ra
những viên đạn dùng để bắn vào thân thể người khác. Ngọn lửa xanh biếc của chất
lân bám vào quần áo da thịt người bị bắn, bốc cháy khiến cho nạn nhân đau đớn
kêu gào rất thảm thiết trước khi chết. Phái Tinh Tú sử dụng loại đạn này để trừng
phạt các giáo đồ có âm mưu phản thầy, dối bạn đồng môn.
Sự thật của sức mạnh trong việc đánh nhau chủ yếu vẫn là vũ khí. Vũ khí càng mới
mẻ, việc đánh nhau càng dễ đưa đến thành công. Trong Lộc Đỉnh ký nói
đến kỹ thuật đúc súng đại bác: vua Khang hy lặng lẽ giao cho hai giáo sĩ người
Tây Dương là Nam Hoài Nhân và Thang Nhược Vọng luyện kim đúc súng đại bác. Nhà
vua chuẩn bị việc đánh nhau với Bình Tây vương Ngô Tam Quế ở Vân Nam và với
quân Nga ở biên giới Đông Bắc. Súng đại bác thời đó chưa có bộ phận kích hỏa,
phải đốt mồi lửa sau đuôi trái đạn để tạo phản ứng nổ đẩy trái đạn bay đi. Đây
là 1 dạng sử dụng thuốc bồi trong pháo binh hiện đại. Để buổi thao diễn kích
thích tinh thần sĩ tốt, Nam Hoài Nhân và Thang Nhược Vọng cho xây sẵn những gò
nổng làm mục tiêu, bên trong gò nổng chứa đầy diêm sinh, lưu huỳnh. Quả đạn rơi
trúng mục tiêu nổ bùng khiến các chất trên bốc cháy rực trời. Bọn sĩ tốt phấn
khởi, hoan hô vạn tuế muốn bể cả võ trường.
Kỹ thuật luyện kim được Kim Dung nhắc đến nhiều nhất trong các bộ tiểu thuyết
võ hiệp của ông. Bọn hào sĩ giang hồ đánh nhau thường sử dụng đến 2 thứ vũ khí
cổ điển là đao và kiếm. Kim Dung đề cập đến loại bảo đao, bảo kiếm như Đồ long
đao và Ỷ thiên kiếm (Ỷ thiên Đồ long ký) chém sắt như chém bùn. Ông cũng đề cập
đến các loại trũy thủ (dao găm) chế bằng hợp kim đặc biệt như lưỡi trũy thủ của
Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh ký. Loại trũy thủ này bén ngọt đến nổi Vi Tiểu
Bảo đâm xuyên qua vách ván giết chết mấy Lạt ma Tây Tạng cứu thầy mình là Cửu Nạn
sư thái mà người ở hiện trường chẳng biết tại sao các Lạt ma chết đi.
Trong Hiệp khách hành, ông đề cập đến một thứ lệnh bài làm bằng huyền thiết
(thép đen) của Tạ Yên Khách. Tạ Yên Khách lấy kiếm chém vào Huyền thiết lệnh,
kiếm gãy mà lệnh bài vẫn không suy suyển chút nào.
Nhắc đến thuật luyện kim, Kim Dung không quên khoác vào cho thuật này chất huyền
bí. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, ông kể lại chuyện quần hùng Minh giáo nối lại
cây đao Đồ long đã gãy. Trên ngọn lửa đỏ phừng phừng, tất cả các loại kềm gắp bảo
đao nóng quá, chảy ra thành chất lỏng mà bảo đao vẫn chưa nối lại được. Trương
Vô Kỵ phải cho bọn giáo chúng mượn bốn thanh Thánh hỏa lệnh kẹp bảo đao. Ngọn lửa
cháy cao, một thuộc hạ của Vô Kỵ phải múa kiếm đâm bạn mình cho máu phun vào chỗ
đương ráp nối, bảo đao mới lành lặn lại được. Câu chuyện nhắc ta nhớ lại huyền
thoại luyện hai thanh kiếm Can tương và Mạc gia (Mạc tà) thời Chiến quốc.
Ỷ thiên Đồ long ký cũng đề cập đến việc sử dụng dầu đá (thạch du – dầu thô
lấy từ mỏ ra, chưa được chế biến) của người Trung Quốc cuối đời Nguyên. Trong đội
ngũ kháng chiến của Minh giáo có đội Liệt hỏa kỳ chuyên lấy dầu thô phun qua ống
thụt để đánh hỏa công. Nói đến việc lấy dầu thô là nói đến kỹ thuật khai thác
quặng mỏ. Minh giáo bắt nguồn từ Ba Tư nên rất rành kỹ thuật khai thác loại dầu
này.
Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng kỹ thuật lạ nhất được Kim Dung đề cập đến là kỹ thuật
chưng cất rượu. Kỹ thuật này được đề cập trong Tiếu ngạo giang hồ. Đan
Thanh tiên sinh ở Giang Nam đem 3 chiêu kiếm truyền cho kiếm khách Mạc Hoa Nhĩ
người Thổ Lỗ Phồn (Thổ Phồn - Tourfan) để đổi được 4 thùng rượu Bồ đào đã cất
được 120 năm. Vận chuyển loại danh tửu này từ Thổ Lỗ Phồn về đến Giang Nam phải
mất bốn tháng, đường đi lại khó khăn nên đến Giang Nam chất rượu lại chua, không
được thuần mỹ. Đan Thanh vào hoàng cung, bắt cóc một chuyên gia của ngự trù
phòng chuyên chưng cất rượu cho vua uống đem về Giang Nam buộc gã phải chưng lại
mấy thùng Bồ đào tửu cho mình. Rượu được chưng lại đúng 13 tháng thì Đan Thanh
gặp được “ông trùm” uống rượu Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung mới uống một hớp Bồ
đào tửu đã lấy làm lạ, nhận xét trong cái mới có cái cũ, trong cái cũ có cái mới,
dường như đã 120 năm mà cũng dường như mới 12 tháng. Đan Thanh hân hoan cho biết
thứ Bồ đào tửu này đã được Mạc Hoa Nhĩ 3 lần cất, 3 lần chưng, về đến Giang Nam
lại chưng cất thêm một lần nữa. Cho nên vị rượu vừa 120 tuổi mà cũng vừa 13
tháng là như vậy.
Kỹ thuật sau cùng đáng quan tâm là kỹ thuật dệt kim. Kim Dung giới thiệu một loại
bảo y hộ thân rất hiệu nghiệm, được dệt bằng sợi kim ty (tơ kim khí) phối hợp với
tơ tằm ngàn năm trên đỉnh Tuyết Sơn. Loại áo này là nội y, mặc lót bên trong,
đao kiếm đâm không lủng, quyền chưởng đánh không bị chấn động. Trong Lộc Đỉnh
ký, Khang Hy mặc 1 chiếc, Vi Tiểu Bảo mặc 1 chiếc. Quả nhiên không ai chơi nổi
cả vua tôi nhà này.
Nhân loại càng tiến bộ, kỹ thuật càng phát triển. Tiểu thuyết võ hiệp của Kim
Dung đơn thuần là tiểu thuyết, hoàn toàn không có ý định giới thiệu sự tiến bộ
trong khoa học- kỹ thuật của người Trung Quốc. Ông cứ viết vậy, chúng ta đọc và
tưởng tượng. Còn tưởng tượng đến đâu là quyền chúng ta.
THỨC ĂN TRUNG HOA TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG
Miếng ăn bao giờ cũng quý giá đối với con người. Đặc biết đối với dân tộc Trung
Hoa ngày trước, một dân tộc sống nhờ vào sản xuất nông hiệp lạc hậu, lại phải
luôn đối đầu với những thiên tai khủng khiếp hàng năm thì miếng ăn quả thật rất
cần thiết và rất rất quý. Từ điển tiếng Hoa gọi chung các loại thức ăn là ngọc
thực (món ăn vàng ngọc). Làm ra miếng ăn để có ăn đã quý. Thức ăn được chế biến
tinh xảo, nhìn sướng mắt, ngửi thơm mũi, chạm vào thấy nóng, ăn vào miệng thấy
ngon lại còn quý hơn. Mà trên thế giới, dân tộc Trung Hoa là dân tộc nồi tiếng
biết chế biến nhiều món ăn ngon nhất và thậm chí, cầu kỳ nhất. Chính vì vậy, thức
ăn trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung - có lẽ là một người Trung Hoa sành
ăn - cực kỳ phong phú. Trình độ hiểu biết về các món ăn khắp các miền, hiểu biết
cách chế biến thức ăn từ thô sơ đến tinh xảo của tác giả không khỏi khiến chúng
ta ngạc nhiên thú vị. Triều Tống, từ bờ Bắc sông Hoàng Hà ra đến biên giới Ngoại
Mông được gọi là miến Bắc. Khí hậu quanh năm tương đối lạnh, Kim Dung cho biết
họ thường ăn các loại bánh bao không nhân với các loại thịt cừu, thịt trâu, thịt
bò kho. Đọc Thiên Long bát bộ, ta biết các bộ tộc Khất Đan và Nữ Chân nuôi nhiều
loại gia súc này dưới dạng chăn thả; thịt để làm thức ăn, da để làm áo quần, lều
trại, túi đựng rượu. Thiên nhiên hào phóng và hoang sơ cũng đem lại cho người
phương Bắc nhiều thức ăn mang tính bổ dưỡng cao. Thiên Long bát bộ có đoạn kể
chuyện Tiêu Phong bồng A Tử ra Nhạn Môn quan chữa thương, chuyên đánh giết gấu
để lấy bàn tay gấu (hùng chưởng) và mật gấu cho A Tử uống. Nơi đây gần núi Trường
Bạch, Tiêu Phong cũng dễ kiếm ra củ nhân sâm có giá trị cải tử hoàn sinh cho A
Tử dùng. Ông nuôi cô em vợ bằng những thức ăn là dược vật trân quý dẫu có ngàn
vàng cũng khó tìm mua. Từ bờ Nam sông Hoàng Hà đổ về hết phương Nam Trung Quốc,
cách chế biến đồ ăn có vẻ ngon lành hơn, tinh vi hơn. Tất nhiên, nơi ăn ngon nhất
thiên hạ Trung Quốc vẫn là Bắc Kinh, đặc biệt là trong hoàng cung nội viện. Lộc
Đỉnh ký cho biết dưới triều Khang Hy, để phục vụ chuyện ăn uống cho hoàng gia,
có cả một ngự trù phòng, đứng đầu là một tay thượng thiện thái giám, phía dưới
có hàng trăm thái giám chuyên mua sắm, chế biến thức ăn. Thức ăn chơi gồm bánh
mứt - Kim Dung gọi là đồ điểm tâm, khác hẳn khái niệm điểm tâm của chúng ta là
ăn sáng - đã gồm cả trăm thứ. Chế biến xong, bọn thái giám đặt lên đầy cả bàn để
dâng vua Khang Hy. Nhưng Khang Hy chán lối ngồi ăn trên bàn; nhà vua muốn… ăn vụng.
Và nhờ đi ăn vụng bánh nướng, bánh da lợn, nhà vua đã gặp anh bạn trẻ Vi Tiểu Bảo
(cũng là trùm ăn vụng!). Cho hay, ăn vụng luôn luôn hấp dẫn đối với con người,
cái gì ngay ngắn quá, chính quy quá cũng trở nên phiền toái. Vâng, đồ ăn trong
hoàng cung là ngon nhất và đa dạng nhất bởi hoàng cung quy tụ đủ các anh tài nấu
ăn trên toàn cõi Trung Hoa. Sau khi biết Mộc Kiếm Bình là cô gái người Vân Nam,
Vi Tiểu Bảo đã ra lệnh cho ngự trù phòng nấu món Tuyên oai hỏa thoái - một món
canh giò heo thơm ngon nhiều nước mỡ - để đãi cô gái nhỏ này khiến cô vô cùng
ngạc nhiên. Trên nguyên tắc, thứ gì ngon thì đổ vào hoàng cung nhưng trên thực
tế, định đề ấy hơi bị sai. Kim Dung chua chát nhận ra rằng bao giờ cũng có nạn
tham nhũng, nhà thầu nào đưa đồ ăn ươn thối cho ngự trù phòng mà có món tiền
lót tay kha khá thì thức ấy vẫn đáng dâng lên cho vua và thái hậu dùng; nhà thầu
nào quên tiền lót tay thì dẫu cá tươi, thịt sống cũng trở thành đồ ươn thối...
Chính nhờ nạn tham nhũng đó mà bọn Tiền Lão Bản trong Thiên Địa hội đưa hai con
heo Hoa điêu phục linh trư và Đậu hoàng nhân sâm trư mổ sẵn vào hoàng cung,
trong bụng heo nhét được cả... một cô gái (Mộc Kiếm Bình) đưa vào để Vi Tiểu Bảo
trao đổi “tù binh” sau này. Lại cũng từ chuyện hoàng cung là nơi có thức ăn
ngon nhất Trung Hoa làm nảy sinh những tay… ăn trộm đồ ăn. Một tay ăn trộm thuộc
loại thượng thừa là Cửu chỉ thần cái Hồng Thất Công (Xạ điêu anh hùng truyện)
chuyên vào ngự trù phòng, đánh cắp thức ăn đã chế biến sẵn. Lão này ăn cũng dữ
mà uống cũng vô địch, suốt đời lấy ăn làm lẽ sống. Một tay trùm ăn mày như vậy
cũng đáng để chúng ta học tập làm… ăn mày! Bọn hào sĩ giang hồ của Kim Dung là
phường ăn mạnh, uống đậm. Họ hội họp ở đâu là nơi đó có mùi rượu thịt xông lên
nhức mũi. Khi đám bàng môn tả đạo về đầu nhập phái Hằng Sơn, tình nguyện làm đệ
tử Lệnh Hồ Xung để cho Lệnh Hồ Xung khỏi mang tiếng cầm đầu một đám nữ ni; Lệnh
Hồ Xung đã cấm họ không được đặt chân lên ngọn Kiến Tính (núi chính của Hằng
Sơn). Họ giữ lời hứa không lên nhưng vẫn xào heo, nấu bò bày tiệc nhậu; trong
chốn cửa Phật thanh tịnh, bỗng vang mùi hành tiêu, mỡ thịt. Cho hay, cái ăn
nuôi sống con người; miếng ăn ngon cũng góp phần làm cho phẩm giá con người rực
rỡ. Tội gì không ăn! Có lẽ đất Trung Quốc có nhiều quán cơm (phạn điếm) và tiệm
rượu (tửu lâu) nhất thiên hạ. Chẳng vậy mà cô bé A Tử trên đường trốn thầy
mình, sẵn sàng kêu rượu và các món nhậu để… thuốc đồng môn. Cô này ăn xài rất
phí: gọi đĩa thịt bò ra, ngang nhiên cầm miếng thịt… lau giày, con cá chép còn
sống mới chiên xong lại gọi là cá ươn. Đoạn buồn cười nhất của Thiên Long bát bộ
là đoạn nhà sư Hư Trúc gặp A Tử trong quán cơm. Nhà sư ăn chay từ nhỏ, chỉ dám
gọi độc món mì chay. A Từ đánh lừa cho nhà sư nhìn đi nơi khác rồi lén đổ vào
vài muỗng nước mỡ. Hôm ấy Hư Trúc ăn tô mì chay cảm thấy hết sức thơm ngon,
không ngờ món này khác món chay ở chùa Thiếu Lâm một trời một vực. Thức ăn chay
của Trung Hoa cũng rất phong phú. Đọc Thiên Long bát bộ, ta biết chùa Thiếu Lâm
có khu vườn rộng hàng trăm mẫu trồng rau dưa; các nhà sư bị kỷ luật phải gánh
nước, gánh phân tưới bón hàng ngày. Quần hùng lên chùa Thiếu Lâm là được thiết
đãi cơm chay. Quần hùng Ma Ni giao (Ma giáo, tiếng chỉ chung Manichéisme - Bái
hỏa giáo Trung Hoa) cũng ăn chay. Hễ thấy đám nào mặc áo trắng, vào tiệm cơm
không gọi thịt cá mà chỉ gọi rau dưa, đậu hũ thì đó là bọn giáo chúng
Manichéisme. Có những tập thể không ăn chay nhưng khi đi ra ngoài hành sự, họ
thường mang thức ăn khô đi theo để dễ chế biến. Hai loại thức ăn dễ mang theo
nhất là bánh bao chay và mì. Trong Hiệp khách hành, bọn Kim Đao trại tấn công
Ngô Đạo Nhất ở thành Biện Lương xong, rút ra ngoài đồng hoang nấu mì lên húp
xoàn soạt. Loại thức ăn này toàn tinh bột, không có thịt, cũng là món chay.
Trên đây, tôi chỉ mới bàn với các bạn những món ăn chính quy, bài bản, có kẻ nấu
bán, có người mua ăn. Đọc Kim Dung ta còn thấy thú vị với những món ăn và cách
chế biến thức ăn cực kỳ hoang dã. Trong Thần điêu hiệp lữ, Kim Dung kể chuyện Dương
Qua và Hồng Thất Công bắt được một loại rít lớn trên núi tuyết, nướng lên, lột
bỏ lớp vỏ kitin đi, còn lại một loại thịt thơm ngon như thịt tôm. Món nướng
trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung rất phong phú. Trong Tiếu ngạo giang hồ,
Doanh Doanh đã bắt ếch nướng lên nuôi chàng Lệnh Hồ Xung. Kim Dung mô tả món ếch
nướng rất thơm ngon, kể cả những miếng Doanh Doanh lỡ để quên đến nỗi cháy
khét! Con người càng đói lại càng cần ăn. Nhu cầu ham sống quả thật khốc liệt đến
nỗi thấy miếng ăn là người ta lao tới, đôi khi không cần đến sự chế biến và đôi
khi người ta ăn cả thịt người! Trong Tiếu ngạo giang hồ, có đoạn thuật chuyện
Hướng Vân Thiên đã dùng chỉ công đâm vào tĩnh mạch trên cổ ngựa và kê miệng vào
uống máu sống. Uống no xong, lão bảo Lệnh Hồ Xung kê miệng vào uống tiếp. Kim
Dung cho biết máu ngựa rất tanh nhưng trong hoàn cảnh của hai người, máu ngựa vẫn
là một loại thực phẩm cứu đói kịp thời. Khi đã xuống tới thung lũng sâu, Hướng
Vân Thiên lại đói bụng, thầm tiếc không tìm ra xác chết nào của bọn thù địch rớt
xuống để lão dùng cho đỡ đói! Như chúng ta đã nói, Trung Quốc xưa là một đất nước
có nền nông nghiệp lạc hậu, thường gặp thiên tai, địch họa. Cái đói thường
xuyên đe dọa người Trung Quốc suốt cả chiều dài lịch sử. Cho nên thật dễ hiểu
khi dân tộc này chọn nền kinh tế trọng nông. Một khi cái đói đến thì con người
mất hết tính người, sẵn sàng ăn thịt đồng loại. Trong Ỷ thiên Đồ long ký kể
chuyện Trương Vô Kỵ 15 tuổi dẫn em bé Dương Bất Hối 6, 7 tuổi tìm lên Thiên
Sơn. Đi ngang qua tỉnh Sơn Tây, Vô Kỵ và Bất Hối bị một nhóm thổ phỉ bắt, định
làm thịt nấu ăn. Vô Kỵ nhanh trí hái một mớ nấm độc bỏ vào nồi nước sôi, đầu độc
những kẻ muốn hại mình và Bất Hối. Sau đó, cậu bé mới được Chu Nguyên Chương,
cũng là thổ phỉ, đi tu ở chùa Hoàng Giác, cho ăn thịt bò kho. Điều thú vị trong
tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung là nhiều khi một món ăn tào lao lại trở thành
một món thuốc làm tăng trưởng công lực cấp kỳ. Thiên Long bát bộ kể chuyện Đoàn
Dự ngẫu nhiên nuốt trúng con Mãng cổ chu cáp (con ếch có tiếng kêu như con bò),
là một loại độc vật hạng nhất, tưởng rằng chắc chắn sẽ chết. Oái oăm thay, đó lại
là một món thần vật đại bổ, ăn vào phát huy khả năng thần kỳ đến nỗi chàng ta
không còn bị nhiễm bất cứ loại độc dược nào. Đoàn Dự trở thành một kẻ “bách độc
bất xâm” (trăm thứ độc không thể thâm nhập được), Kim Dung gọi đó là Mãng cổ
chu cáp thần công!
Có những thức ăn đối với người này là độc hại, đối với người kia là đại bổ. Ta
có thể tìm thấy một thí dụ như vậy trong Tiếu ngạo giang hồ. Trên sông Trường
Giang, Lam Phượng Hoàng - giáo chủ Ngũ Độc giáo Vân Nam - tìm đến thăm và chữa
bệnh cho Lệnh Hồ Xung. Cô cho chàng trai uống Ngũ Độc tửu. Thế nào là Ngũ Độc tửu?
Đó là loại rượu ngâm 5 loại trùng độc hạng nhất của Ngũ Độc giáo: một con rắn,
một con rít, một con bò cạp, một con cóc và một con nhện cực độc. Uống xong hũ
rượu, Lệnh Hồ Xung còn phải nuốt 5 con trùng độc kia vào bụng. Ngũ Độc giáo gọi
đó là Ngũ tiên. Món “Ngũ tiên” kia đối với người Trung Nguyên là độc vật nhưng
đối với Lam Phượng Hoàng người Vân Nam là thứ đại bổ, không dễ tìm ra được. Ăn
uống là một dạng nạp năng lượng; có năng lượng mới có sự sống đúng nghĩa. Mà
suy cho cùng, quyền gần gũi nhất đối với con người là được ăn, được ăn no đủ,
được ăn ngon. Tác phẩm võ hiệp của Kim Dung phản ảnh về cái ăn, thức uống, về
cách ăn Trung Hoa khá phong phú. Phải nói đọc tác phẩm của ông, ta có thể hình
dung ra một phong cách văn hóa ẩm thực Trung Quốc lẫn khuất sau những bữa ăn, đồ
ăn, nơi ăn, trạng thái ăn. Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn đánh nhau tơi bời rồi sau
đó, lặng lẽ tìm về một quán cóc nhỏ, ngồi bên nhau ăn những thức ăn nhẹ và đối ẩm
mấy chung. Hay như chiếc bánh chưng Hồ Châu (Giang Nam) được xếp loại Hồ Châu
tam bảo (sau bút lông và gấm đoạn) dù nó chỉ được gói bằng là chuối, nếp, nhân
đậu xanh, nấm, thịt… Trong những bữa ăn của tiểu thuyết võ hiệp, lấp lánh thứ
ánh sáng hạnh phúc ngọt ngào của tình yêu đôi lứa. Doanh Doanh nướng ếch nuôi Lệnh
Hồ Xung; Hoàng Dung săn bắn nuôi Quách Tĩnh; Triệu Mẫn gọi thức ăn chờ Vô Kỵ đến
cộng ẩm… Tất cả là vì tình yêu đôi lứa. Chính vì có tình yêu làm tố chất nên
không cần đến bàn ghế, chén đĩa mà bữa ăn vẫn vang lên tiếng cười hạnh phúc.
TINH THẦN PHẬT GIÁO TRONG TÁC PHẨM TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG
Đọc quyển lịch sử Phật giáo Trung Quốc của Thượng tọa Thích Thanh Kiểm (NXB Vạn
Hạnh 1963), tôi thấy ngài đưa ra hai thuyết rất đáng tin cậy để cắt nghĩa sự du
nhập của Phật giáo vào Trung Quốc. Thượng tọa cho biết thời Hán Ai đế (- 6Tr. CN),
một sứ giả nước Đại Nhục Chi (Indo-Scythe) đưa kinh điển của Phù đồ giáo
(Bouddho, tức Phật giáo) truyền miệng cho Trần Cảnh Hiến, một viên quan của Hán
Ai đế. Sau đó, vua Hán Minh đế (67) phái 18 người sang Tây Vực để thỉnh tượng
và kinh điển Phật giáo về. Giữa đường, gặp hai cao tăng nước Thiên Trúc là Ca
Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đang đưa kinh tượng xuống Trung thổ, họ mừng rỡ
rước hai cao tăng về Trung Quốc. Hán Minh đế cho dựng Bạch Mã tự để xiễn dương
Phật giáo, làm nơi dịch kinh cho các cao tăng. Bộ kinh Phật đầu tiên được dịch
ra Hán văn là Tức thập nhị chương kinh. Đến cuối đời Hậu Hán, Phật giáo gần như
đã lan truyền khắp xã hội Trung Quốc.
Có lẽ trong những nhà văn Trung Quốc, Kim Dung là nhà văn thể hiện một cách đều
khắp và sâu sắc nhất tinh thần Phật giáo qua các tác phẩm tiểu thuyết của mình.
Trong 12 bộ tiểu thuyết, Kim Dung luôn nhắc đến sự tích Đạt Ma sư tổ từ Thiên
Trúc sang Đông thổ, lên ngọn Thiếu Thất tỉnh Hồ Nam, diện bích (nhìn vách) chín
năm, sáng lập ra phái Thiếu Lâm. Phái Thiếu Lâm được ông gọi là Thái Sơn Bắc Đẩu
trong võ lâm Trung Quốc. Hình tượng các nhà sư Thiếu Lâm với tấm tăng bào rộng
thùng thình, xuất hiện đúng tình huống tiểu thuyết, Phật lực cao cường, võ công
siêu việt, sẵn sàng xả thân tế khổn phò nguy, hàng yêu diệt ma đã quá quen thuộc
với bạn đọc tiểu thuyết võ hiệp.
Một số nhân vật tiểu thuyết là tăng sĩ đã trở thành hình tượng văn học, được
tác giả khắc họa một cách tinh tế: Huyền Từ - phương trượng chùa Thiếu Lâm, Trí
Quan - trụ trì chùa Chỉ Quán núi Thiên Thai, Hư Trúc - tiểu tăng chùa Thiếu Lâm
(Thiên Long bát bộ); Vô Sắc - cao tăng Thiếu Lâm (Ỷ thiên Đồ long ký); Phương
Chứng - cao tăng Thiếu Lâm (Tiếu ngạo giang hồ)… Phật giáo du nhập vào Trung Quốc
đủ cả mười tông phái; tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung dành niềm ưu ái lớn
cho Thiến tông. Tuy nhiên, Thiền tông trong tiểu thuyết Kim Dung không dừng lại
ở chỗ những công án, không nặng nề về chủ trương “dĩ tâm truyền tâm, dĩ ý
truyền ý”. Thiền tông trong tiểu thuyết Kim Dung là một thứ Thiền tông nhập thể
và nhập thế: tu học để tinh tường Phật pháp, thấu hiểu cái lẽ huyền vi của cuộc
sống; rèn luyện võ công để hành hiệp cứu đời. Phật pháp càng cao, võ công càng
siêu việt; võ công càng cao, Phật pháp càng tinh tấn. Những nhà sư trong tác phẩm
của ông là những nhân vật lý tưởng. Họ là những hiệp khách đích thực trong cuộc
chiến đấu chống cái ác và khi cuộc chiến đấu chấm dứt, họ là những triết gia với
các triết lý rất gần gũi với cuộc sống. Ta hãy nghe một bài kệ của nhà sư Trí
Quan ứng tác trước khi qua đời, đọc cho Kiều Phong nghe khi Kiều Phong vất vả
đi tìm nguồn gốc của mình là người Hán hay người Khất Đan (Thiên Long bát bộ): Khất
Đan với Hán nhân Bất luận giả hay chân Ân oán cùng vinh nhục Không hơn đám bụi
trần.
Phật giáo trong tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung là một tôn giáo yêu nước,
luôn luôn trung thành với sự nghiệp bảo vệ đất nước và giải phóng dân tộc.
Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Xạ điêu anh hùng truyện, Thần điêu hiệp lữ, các
tăng lữ đã xông trận cùng quần hùng Trung nguyên đánh đuổi quân Mông Cổ. Những
cuộc hội họp của hào sĩ giang hồ Trung Quốc bàn kế chống giặc giữ nước, dựng cờ
khởi nghĩa thường diễn ra trong khuôn viên chùa Thiếu Lâm. Đoạn tiểu thuyết mà
tôi cho giàu tính anh hùng ca nhất là đoạn toàn thể nhà sư chùa Thiếu Lâm sát
cánh cùng quần hùng Minh giáo, phá vòng vây quân Mông Cổ định san bằng chùa Thiếu
Lâm (Ỷ thiên Đồ long ký). Mỗi khi đất nước đối đầu với nguy cơ bị ngoại xâm thì
Phật giáo là một chỗ dựa vững chắc nhất cho chính quyền quân chủ và nhà sư là
những chiến sĩ đi đầu trong việc phá vỡ âm mưu ngoại xâm đó. Trong Thiên
Long bát bộ, Khô Vinh đại sư phải hủy bộ Lục mạch thần kiếm kinh là để người Thổ
Phồn không thể chiếm được võ công trấn quốc của nước Đại Lý; quần hùng cùng
phái Thiếu Lâm xông pha vào phủ Nam viện của Khất Đan ở Yên Kinh cứu Kiều
Phong, đưa quần hùng ra Nhạn Môn quan tập kích người Khất Đan để phá vỡ mầm mống
xâm lược Trung Quốc có thể xảy ra. Trong Lộc Đỉnh ký, vua Khang Hy đã dựa
vào lực lượng tăng lữ chùa Thiếu Lâm để bảo vệ phụ hoàng Thuận Trị, phá vỡ âm
mưu chính trị của liên quân Mông Cổ - Tây Tạng.
Có lẽ Kim Dung là một Phật tử thuần thành, am hiểu Phật giáo một cách sâu sắc.
Tiểu thuyết là sản phẩm của sự hư cấu, Kim Dung đã hư cấu cho phái Thiếu Lâm có
đến 72 môn công phu huyền diệu gọi là Thất thập nhị huyền công. Mỗi môn công
phu đều sử dụng kình lực dương cương, có sức mạnh tan bia vỡ đá. Các môn công
phu đều có tên gọi xuất phát từ kinh điển Phật giáo: Niêm hoa chỉ, Bát Nhã chưởng,
Vi Đà chưởng, Vô tướng kiếp chỉ, Đa la diệp chỉ, Đạt Ma kiếm pháp, Sư tử hống,
Đồ đề chưởng, Phục ma trượng pháp… Trong cuộc đấu tranh, chính pháp huyền môn
luôn luôn thắng ta môn ma đạo. Cái thắng ấy nằm trong ước lệ chính đạo thắng
bàng môn.
Có khi Kim Dung sử dụng kinh điển Phật giáo là cái hồn cho toàn bộ tác phẩm. Thiên
Long bát bộ là một thí dụ cho nhận định này. Thiên Long là tên một ngôi
chùa ở Vân Nam, nước Đại Lý (thời Bắc Tống). Thế nhưng trong Pháp hoa kinh,
Thiên Long bát bộ “bao gồm tám loại quỷ thần hay quái vật”. Thiên Long bát
bộ gồm: Thiên thần, Long thần, Dạ xoa, Kiền Đạt Bà, A Tu La, Già Lâu La, Khán
La Na và Ma Hô La Gia. Trong Thiên Long bát bộ, Kim Dung xây dựng tám nhân
vật lớn, tám sự tích; mỗi nhân vật và sự tích ấy tương ứng với một “bộ” của bát
bộ. Trong Tiếu ngạo giang hồ, tác giả trích luôn Bảo tích kinh và Diệu
pháp liên hoa kinh để xây dựng mối tình Nghi Lâm - Lệnh Hồ Xung. Lời kinh cầu
cho Lệnh Hồ Xung tai qua nạn khỏi được Nghi Lâm niệm với cả niềm tin, một lòng
thành tuyệt vời khiến Lệnh Hồ Xung trong cơn đau đớn vẫn nhận ra nơi người bạn
nhỏ hào quang của sự thánh thiện.
Đưa tinh thần Phật giáo vào trong tác phẩm văn học là điều không mới lạ trong lịch
sử văn học Trung Quốc. Cái mới lạ là Kim Dung đưa tinh thần ấy vào tác phẩm tiểu
thuyết võ hiệp và ông chuyên canh một cách sâu sắc. Chất Từ, Bi, Hỷ, Xả, nhân bản,
nhân văn trong tinh thần Phật giáo biến những tác phẩm nặng tính tranh đấu, sát
phạt trở thành những bài tình ca ca ngợi phẩm giá con người, ca ngợi cuộc sống
hòa bình trung chính.
THỬ NHÌN LIBIDO QUA TÁC PHẨM KIM DUNG
Tôi không có tham vọng đem khái niệm Libido của triết học Tây phương để mổ xẻ
các vấn đề thuộc phạm trù tâm lý, tình cảm trong tác phẩm văn học Đông phương.
Tuy nhiên con người khắp nơi trên thế giới đều có những mẫu số chung trong hoạt
động tâm lý, tình cảm, bởi họ đều là con người. Và tôi đã thận trọng giới hạn vấn
đề mình sắp bàn đến trong hai chữ “thử nhìn”.
Tâm phân học (Psychanalyse) là một trường phái triết học Tây phương mà ông tổ sản
sinh ra nó là Sigmund Freud. Tâm phân học đạt được một số thành tựu nhất định
trong việc góp phần cắt nghĩa các hoạt động của năng lực tình dục; cắt nghĩa
Ngã (Moi), Đại Ngã (Grand Moi) và Siêu Ngã (Sur-Moi); thế giới của ý thức, vô
thức và tiềm thức…
Tôi nhìn thấy trong các tác phẩm võ hiệp Kim Dung một số vấn đề khá gần gũi với
cách cắt nghĩa của tâm phân học. Khi sáng tạo và giải thích tâm phân học,
Sigmund Freud cùng các đồ đệ của ông như Alfred Adler, Karl Gustav Jung có tham
vọng phân tích trạng thái tâm lý con người như là 1 thực thể, được chia cắt ra
thành nhiều phần khác nhau. Thế giới tâm lý không còn là thế giới trừu tượng nữa;
nó có hình thù hẳn hoi: có đáy, có đỉnh, có miền, có khu vực…
Libido là một thuật ngữ khá đặc biệt của tâm phân học, được hiểu như là năng lực
tình dục (énergie de la pulsion sexuelle). Libido được coi như nền tảng của hoạt
động tâm lý, giữ vai trò hình nhi hạ trong khi tình yêu giữ vai trò hình nhi
thượng. Nếu hoạt động tâm lý được coi như một tam giác cân thì Libido là cái đáy
mà tình yêu là cái đỉnh. Libido là năng lực bẩm sinh trong từng con người, năng
lực ấy được thể hiện một cách khác nhau trong từng thời kỳ trưởng thành của cá
nhân. Thí dụ: ở trẻ sơ sinh là thời kỳ bú mút, ở tuổi dậy thì là thời kỳ thủ
dâm, và sau đó là thời kỳ tình dục… Khi Libido được thỏa mãn, cá nhân mới giữ
được trạng thái thăng bằng. Nếu Libido bị ngăn trở, cá nhân bị ẩn ức. Ẩn ức là
trạng thái các khuynh hướng bị ngăn trở, không thực hiện được, trở thành một thứ
xung động nội tâm, được gọi là refoulement. Hãy hình dung ẩn ức như một quả
bong bóng bơm căng, không có chỗ để thoát hơi ra, tức là không có chỗ để thỏa
mãn được theo sự đòi hỏi của tự nhiên của năng lực tình dục. Trong trường hợp
này, cá nhân tự đi tìm một trong hai cách thế để phát tiết. Một - Libido bị sa
đọa, cá nhân trở thành đồng tính luyến ái, ghê sợ tình dục, điên loạn, tâm thần
phân liệt, trầm cảm… Hai - Libido được thăng hoa trở thành những tình cảm, khát
vọng cao thượng: say mê tôn giáo, khoa học, đam mê sáng tạo văn học, nghệ thuật,
âm nhạc…
Hiểu theo quan điểm của tâm phân học thì những người trong các nhà thương tâm
thần là những người bị sa đọa Libido; thành quả âm nhạc rực rỡ của Beethoven,
Mozart, Tchaikovsky là sự thăng hoa của Libido. Tác phẩm võ hiệp của Kim Dung
đã chứng minh được một số trường hợp năng lực Libido sa đọa. Tiếu ngạo
giang hồ xây dựng nhân vật Đông Phương Bất Bại của Triệu Dương thần giáo
ham luyện Quỳ hoa bảo điển, đã tự “phăng teo” cái “xíu xiu” nam giới của
mình, trở thành kẻ đồng tính luyến ái. Ấy, bởi vì câu mở đầu của Quỳ hoa bảo điển
ghi: “Võ lâm xưng hùng, dẫn đao tự cung” (Muốn xưng hùng võ lâm, phải
dùng dao tự thiến). “Tự cung” tức là triệt tiêu hẳn năng lực tình dục. Hắn đâm
ra mê lú, “yêu” tên đệ tử to con tốt tướng Dương Liên Đình, đánh nhau với người
khác bằng một mũi kim thêu và với tư chức mỹ lệ của một phụ nữ! Tiếu ngạo
giang hồ cũng xây dựng hai trường hợp “tự cung” khác - Nhạc Bất Quần và Lâm
Bình Chi. Cả hai đều mất giới tính và sau đó, mất cả nhân tính. Nhạc Bất Quần bức
tử vợ là Ninh Trung Tắc; Lâm Bình Chi giết vợ là Nhạc Linh San. Đau đớn thay,
khi Nhạc Linh San chết đi, cô hãy còn là trinh nữ.
Hiệp khách hành xây dựng một trường hợp Libido sa đọa khác. Đó là nàng Mai
Phương Cô yêu Thạch Thanh mà không được chung sống cùng chàng. Mai Phương Cô đã
bắt cóc đứa con nhỏ của vợ chồng Thạch Thanh - Mẫn Nhu đưa về hoang sơn nuôi, gọi
tên thằng bé là Cẩu Tạp Chủng (chó lộn giống). Nói theo Alfred Adler, Mai
Phương Cô đã làm một động tác bù trừ: trả thù tình nhân, tình địch không được,
Mai Phương Cô thóa mạ con của tình nhân, tình địch cho bõ ghét. Người phụ nữ ấy
sống trong trạng thái trầm cảm, tự rạch bộ mặt mỹ miều của mình cho xấu xí và
suốt đời không xuất hiện trước một ai. Khi Thạch Thanh lên núi tìm ra tông tích
con trai, Mai Phương Cô tự vẫn.
Trong Thiên Long bát bộ, Mộ Dung Phục là hậu duệ của dòng giống Tiên Ty nước
Đại Yên, suốt đời đam mê khát vọng phục quốc. Từ chối mối tình đằm thắm của
nàng thiếu nữ xinh đẹp Vương Ngữ Yên, Mộ Dung Phục sang Tây Hạ hy vọng được tuyển
làm chồng của công chúa Ngân Xuyên, trở thành phò mã Tây Hạ, đem quân Tây Hạ về
đánh Trung Quốc để phục hưng Đại Yên. Nỗi đam mê ấy biến Mộ Dung Phục trở thành
kẻ bạc nghĩa, vô tình, giết luôn đám thủ hạ thân tín của mình, sẵn sàng làm con
nuôi Đoàn Diên Khánh, nghĩa là từ chối họ Mộ Dung. Cuối cùng Mộ Dung Phục đã
phát điên, ngồi trên gò mả, đội mũ lá làm vua, gọi các trẻ em chăn bò đến làm
quan và đem kẹo phân phát cho chúng.
Ở trạng thái thứ 2, năng lực Libido được thăng hoa trở thành những khát vọng,
tình cảm cao thượng. Kim Dung cũng đã khắc họa cho người đọc một số hình ảnh cụ
thể. Đó là Nhất Đăng đại sư, vốn là vua nước Đại Lý, được thuật trong Xạ
điêu anh hùng truyện. Nhà vua đặc biệt sủng ái nàng thứ phi Anh Cô. Thế nhưng,
Châu Bá Thông của phái Toàn Chân đến chơi Đại Lý, quan hệ tình dục với nàng Anh
Cô khiến nàng sinh ra một đứa con không được thừa nhận. Hiểu ra điều ấy, nhà
vua đau đớn bỏ hoàng gia đi tu, trở thành một nhà sư Phật lực cao cường, từ bi
đạo hạnh. Và trong Thần điêu hiệp lữ thuật lại, đôi bạn Vương Trùng
Dương và Lâm Triều Anh yêu thương nhau. Đáng lẽ, họ đã sống đời sống lứa đôi,
nhưng tình yêu lại trắc trở. Vương Trùng Dương suốt đời sống trong Trùng Dương
cung; Lâm Triều Anh suốt đời sống trong ngôi cổ mộ dưới núi Chung Nam, tự xem
mình là một người Sống đã chết (Hoạt tử nhân). Chung Nam sơn hạ Hữu Hoạt tử
nhân (Dưới Chân núi Chung Nam Có người sống đã chết). Họ thăng hoa mối tình tuyệt
vọng kia thành niềm say mê sáng tạo và nghiên cứu võ học. Vương Trùng Dương lập
nên Toàn Chân phái; Lâm Triều Anh lập ra Cổ Mộ phái, trong đó có môn võ danh tiếng
Ngọc Nữ kiếm pháp (kiếm pháp của gái đồng trinh). Khát vọng thăng hoa của Cổ Mộ
phái truyền qua những đời sau trở thành một thứ quy luật: chỉ thu nhận gái đồng
trinh và chỉ có gái đồng trinh mới làm được chưởng môn Cổ Mộ phái. Làm thế nào
xác định được một cô gái đồng trinh? Một cách lãng mạn, Kim Dung đã đặt vào trong
cánh tay của các nữ nhân vật của mình một dấu đỏ được cấy bằng chu sa, gọi là
Thủ cung sa. Khi cô gái mất trinh, dấu Thủ cung sa ấy sẽ biến mất và những đồng
môn sẽ xác định được dấu hiệu phạm tội. Những nhân vật kế tục Lâm Triều Anh như
Lý Mạc Sầu, Hồng Lăng Ba đều giữ được dấu Thủ cung sa ấy. Họ tự ép mình phải xa
lánh tình dục như sư tổ nên tính tình biến đổi, trở thành những kẻ khắc bạc, độc
ác. Riêng Tiểu Long Nữ, cô gái trong sáng, dịu dàng nhất của phái Cổ Mộ lại yêu
thương người học trò Dương Qua (còn đọc là Quá – lỗi lầm). Thế nhưng, cô không
giữ được sự trinh trắng vì bị một đệ tử phái Toàn Chân hiếp dâm. Vết Thủ cung
sa mất đi, Dương Qua đau đớn bỏ ra đi, Tiểu Long Nữ cũng một đời đi tìm Dương
Qua…
Đạo gia Trung Quốc quan niệm có ba yếu tố cấu tạo thành hồn sống của một đời
người: Tinh, Khí, Thần. Khí (hơi thở) có biểu hiện trong hơi nói (trung khí).
Thần (sắc diện) có thể biểu hiện nơi khuôn mặt, ánh mắt, các động tác của chân
tay. Còn Tinh (trong khái niệm tinh dịch, tinh khí) là cái gì quý giá nhất, tiềm
ẩn bên trong con người. Đạo gia đưa ra chủ trương “bế tinh” (không cho xuất
tinh) để con người có thể sống thọ. Mà “bế tinh” có nghĩa là kìm hãm sự hoạt động
thực tế của năng lực Libido. Người đàn ông nào giữ được năng lực tình dục,
không giao cấu với phụ nữ được gọi là Thuần dương… Ỷ thiên Đồ long ký,
Trương Tam Phong, tổ sư sang lập phái Võ Đang, sống trên trăm tuổi, vẫn chưa gần
nữ sắc, có môn Thuần dương vô cực công rất vi diệu. Cũng trong Ỷ
thiên Đồ long ký, chàng Vô Kỵ tuổi ngoài 20, có 4 cô bạn gái xinh đẹp nhưng vẫn
không gần gũi nữ sắc, vẫn giữ được chất thuần dương. Chất thuần dương ấy là một trong nhiều điều kiện đưa Vô Kỵ trở thành người anh hùng vô địch của võ lâm
Trung Quốc. Nói cách khác theo Kim Dung, phải kìm hãm năng lực Libido để hướng
nó tới mục tiêu đạt tuyệt đỉnh tối cao trong võ học. Lộc Đỉnh ký xây
dựng nhân vật giáo chủ Hồng An Thông. Hồng giáo chủ của Thần Long giáo này có
tham vọng “thiên thu trường trị, nhất thống giang hồ”, có một cô vợ trẻ măng
là Tô Thuyên nhưng không bao giờ chung chăn gối. Lý do: nếu mất tinh khí thì võ
công cái thế của Hồng giáo chủ sẽ trôi theo mây nước. Vì vậy Vi Tiểu Bảo đã “cuỗm”
Tô Thuyên của Hồng giáo chủ làm người vợ lớn tuổi nhất của hắn. Cuối cùng những
tham vọng của Hồng giáo chủ cũng tan thành mây khói, lão bị thuộc hạ giết chết.
Cá biệt có những nhân vật giải phóng hết năng lực tình dục của họ, trở thành những
tên giặc dâm chuyên cưỡng gian phụ nữ. Kim Dung gọi họ là “Thái hoa dâm tặc”.
Thí dụ như Điền Bá Quang trong Tiếu ngạo giang hồ, Âu Dương công tử
trong Xạ điêu anh hùng truyện. Những người này hoạt động tình dục đến nỗi
khô kiệt cả tinh khí. Kim Dung bàn đế một thủ pháp gọi là Thái âm bổ dương (lấy
cái tinh túy nhất của phụ nữ để bồi bổ cho người đàn ông). Trong các loại tình
dục kinh của Trung quốc cũng có nhắc đến thuật này, tỷ như Tố nữ kinh hay Phòng
trung thuật. Cái tinh túy nhất của phụ nữ là gì nếu không là tinh? Còn biện
pháp “Thái âm” ấy thế nào thì quả là một điều nhiêu khê rắc rối. Nói cách khác,
Kim Dung vẫn đồng ý với Đạo gia rằng có thể phục hồi năng lực Libido trong trường
hợp năng lực ấy bị sử dụng đến mức gần như cạn kiệt. Việc phục hồi ấy như thế
nào không được tác giả bàn tới. Dẫu sao, truyện võ hiệp không phải là sách thuốc
mà Kim Dung cũng không phải là nhà nghiên cứu về nghệ thuật phòng the…
Nghệ thuật tiểu thuyết của Kim Dung
Mỗi một nhà văn viết tiểu thuyết đều có một nghệ thuật riêng. Nghệ thuật tiểu
thuyết của Kim Dung là nghệ thuật tiểu thuyết võ hiệp, viết về bọn hào sĩ giang
hồ chuyên sống trên đường đao, mũi kiếm. Nghệ thuật ấy vừa kế thừa thủ pháp
truyền thống của các nhà văn tiền bối, vừa cách tân theo phong cách hiện đại.
Bàn về tiểu thuyết võ hiệp của ông là bàn về sự kế thừa và sự cách tân.
Trước hết, tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung là tiểu thuyết chương hồi, kế thừa
thủ pháp căn bản, truyền thống của tiểu thuyết Minh - Thanh. Ta lấy ví dụ bộ Tiếu
ngạo giang hồ dày 1692 trang (chân thư do Minh Hà xã, Hồng kông xuất bản lần
thứ 18 với chữ dấu mộc thự tên tác giả) gồm 40 chương. Trước mỗi chương hồi có
một bức vẽ minh họa, lấy ý chính của chương hồi làm chú thích.
Trong văn xuôi của tiểu thuyết, tác giả Kim Dung thường đưa vào những đoạn
trích dẫn thi ca, từ phú và đôi khi là các văn kiện lịch sử mà ông sưu tầm được.
Thơ ca trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung có thể là thơ ca do chính ông
sáng tác. Bản thân Kim Dung là một nhà thơ và cái ý vị Đường thi trong thơ mới
của ông đậm đà, lãng mạn một cách bát ngát. Thí dụ bàn về hoa trà trong Thiên
Long bát bộ, tác giả viết: Thanh quần ngọc diện như tương thức Cửu nguyệt
hoa trà mãn lộ khai (Quần xanh mặt ngọc từng quen biết Tháng chín, hoa trà
rợp lối đi) Hoặc: Thanh câu thủy động trà hoa bạch Hạ cốc vân sinh lệ tử hồng (Dòng
xanh nước gợn hoa trà trắng Non hạ mây vươn trái vải hồng). Đó cũng có thể là
thơ của những nhà thơ tiền bối được Kim Dung trích dẫn để làm rõ ý trong những
văn cảnh, những tình huống cụ thể. Trong Tiếu ngạo giang hồ, Tổ Thiên Thi
giảng giải cho Lệnh Hồ Xung nghe loại rượu nào phải uống với loại chén nào. Nói
tới rượu Bồ đào phải uống với chén Dạ quang, Tổ Thiên Thu đọc hai câu trong bài
Lương Châu từ của Vương Hàn: Bồ đào mỹ tửu Dạ quang bôi Dục ẩm tỳ bà mã
thượng thôi (Bồ đào rót chén Dạ quang Muốn say, trên ngựa tiếng đàn giục
đi) Trong cung cách này, toàn bộ nội dung bộ Hiệp khách hành đều trích dẫn từ
54 câu thơ bài Hiệp khách hành của Lý Bạch; toàn bộ nội dung của bộ Tố tâm kiếm
(Liên thành quyết) đều trích dẫn thơ của hàng trăm nhà thơ trong Đường thi tuyển
tập.
Đưa thi ca, từ phú vào văn xuôi là chuyện không lạ. Đọc Tam quốc diễn
nghĩa, Tây du ký, Hồng lâu mộng, Thủy hử, ta bắt gặp hàng trăm bài thơ. Nhưng
thơ trong những tác phẩm ấy đơn thuần chỉ là thơ chứng minh, thơ ca nghĩ ngợi,
thơ bày tỏ niềm thán phục của người đời sau. Thơ trong tiểu thuyết võ hiệp Kim
Dung vượt xa hơn, mang một ý nghĩa, một mục tiêu khác. Trong Tiếu ngạo
giang hồ, Kim Dung nhắc đến một chiêu kiếm của phái Hoa Sơn tên là Vô biên
lạc mộc. Bốn từ này lấy từ ý bài thơ Đăng cao của Đỗ Phủ: Vô
biên lạc mộc tiêu tiêu há Bất tận trường giang cổn cổn lai. Nhà nghiên cứu Trần
Trọng Kim dịch: Miên man lá rụng điêu linh Nước sông cuồn cuộn mông mênh
chảy dào.
Ngoài trích dẫn thơ, tác giả còn trích dẫn các văn kiện lịch sử, tư liệu lịch sử
có thật trong sử Trung Quốc. Trong Thiên Long bát bộ, khi ca ngợi bà thái
hậu sáng suốt của triều Tống (bà nội Tống Triết tôn), tác giả đưa luôn nhận xét
trong bản tấu chương của nội viện nước Khất Đan khen ngợi tài đức của bà này và
lời bàn rằng bà đang buông rèm nhiếp chính, chớ động binh gây hấn với triều Tống.
Đoạn tư liệu này chép trong Tống sử. Viết Lộc Đỉnh ký, khi bàn về
quan hệ Trung - Nga, tác giả đưa luôn một đoạn trong bức thư của Sa hoàng gởi
cho vua Khang Hy. Những hàng binh Nga trong cuộc chiến tranh biên giới được đưa
về Bắc Kinh. Vua Khang Hy trọng dụng họ, phiên chế thành một lực lượng quân sự
đặc biệt trong Thanh binh, gọi là Nga La Tư tá lĩnh. Khi viết về đoạn này, Kim
Dung theo sát tư liệu trong Thanh sử cảo của Lang Viên.
Nhà nghiên cứu Nghiêm Gia Viêm của Đại học Bắc Kinh ca ngợi văn phong của Kim
Dung, cho rằng Kim Dung đã nâng văn chương thông tục lên thành thứ văn chương
thanh nhã. Tại sao vậy? Kim Dung viết về bọn hào sĩ giang hồ, về những người
bình thường Trung Quốc cho nên văn chương luôn luôn có tiếng chửi. Những tiếng "tổ
mẹ nó, quân rùa đen đê tiện, phường chó đẻ, con bà ngươi..." luôn
luôn hiện diện trong các bộ tiểu thuyết võ hiệp nhưng không làm cho văn chương
dơ đi vì nó được đặt vào rất đúng văn cảnh. Văn chương của ông cũng phong phú
các thành ngữ, tục ngữ Trung Quốc: "Lá rụng về cội", "Hạ
đao đồ tể xuống là thành Phật", "Biển khổ không bờ, quay đầu thấy bến",
"Non xanh còn đó, nước biếc vẫn đây, hẹn ngày gặp gỡ"... Những thành
ngữ, tục ngữ thông dụng ấy được đặt vào đúng văn cảnh, vào từng tình huống một,
tạo ra một giá trị nghệ thuật vừa rộng lại vừa sâu. Người học ít đọc Kim Dung
cũng thấy thích mà người học cao đọc Kim Dung cũng thấy thích. Tác phẩm của ông
vừa mang tính quần chúng rộng rãi vừa mang tính bác học cao nhã.
Nhưng thủ pháp cao cường nhất của Kim Dung vẫn là kỹ thuật xây dựng cốt truyện.
Những bộ tiểu thuyết của ông thường liên quan tới các vấn đề lịch sử, các quốc
gia (cũ) trong cộng đồng Trung Quốc, nghĩa là rất rộng lớn nên việc xử lý, kết
cấu các tình huống tiểu thuyết phải làm sao cho hợp lý để cuốn hút người đọc
ngay từ ban đầu. Ông đã tạo trong tác phẩm những mâu thuẫn chiều dọc giữa nhân
vật này và nhân vật khác, giữa tình huống này và tình huống khác. Ông đã tạo
trong tác phẩm những mâu thuẫn chiều ngang, hiểu như là sự diễn biến tâm lý phức
tạp trong nội tâm từng nhân vật. Ông đã xây dựng những tình huống lạ lùng, tưởng
đâu không thể có trong đời, mà rất thật. Tôi xin giới thiệu mấy tình huống để bạn
đọc tham cứu. Một đoạn trong Thiên Long bát bộ gồm các tình huống thế
này: Kiều Phong cùng A Châu đến thăm Ôn Khang, được Ôn Khang tiết lộ rằng nhân
vật thủ lĩnh đại ca đã đưa người ra Nhạn Môn Quan giết cha mẹ Kiều Phong là
Đoàn Chính Thuần. Cả hai quay về vùng Thái Hồ, Giang Nam tìm Đoàn Chính Thuần rửa
hận. Khi đến nơi, Kiều Phong chứng kiến cảnh Đoàn Chính Thuần lâm nguy; ông ra
tay cứu giúp và ước hẹn cùng Đoàn Chính Thuần canh ba đêm ấy ra chỗ cầu đá để
bàn chuyện Nhạn Môn Quan. Đêm ấy, Kiều Phong ngồi cạnh A Châu, hẹn ngày mai trả
xong mối thù sẽ cùng nhau về bên kia biên giới, qua thảo nguyên săn chồn đuổi
thỏ. Ông ẵm A Châu vào phòng nghỉ trước rồi tọa công và đúng canh ba, ra đi gặp
Đoàn Chính Thuần. Đến nơi hẹn, ông đánh Đoàn Chính Thuần một chưởng và Đoàn
Chính Thuần ngã quỵ. Ông lấy làm lạ, nắm Đoàn Chính Thuần đưa lên thì thấy người
y nhẹ hều. Hóa ra, đó không phải là Đoàn Chính Thuần; đó chính là A Châu, tình
yêu của ông, trái tim của ông. A Châu thuật lại cho ông biết khi mới về Thái Hồ,
cô tình cờ hiểu ra Đoàn Chính Thuần là cha ruột của cô nhờ nhìn thấy miếng ngọc
bội đeo trên cổ cô em gái là A Tử giống như miếng ngọc bội cô đang có. Nhưng
khát vọng trả thù của Kiều Phong cao quá, cô không thể ngăn cản, cũng không thể
nói ra sự thật rằng mình là con của Đoàn Chính Thuần. Đêm ấy, cô giả bộ ngủ sớm
rồi lén ra đi, gặp Đoàn Chính Thuần hủy lời ước hẹn. Rồi cô hóa trang - mà kỹ
thuật hóa trang của cô rất cao cường - làm Đoàn Chính Thuần, đến cầu đá để chịu
một chưởng của Kiều Phong. Kiều Phong nghe người yêu thuật lại chuyện, đứt từng
khúc ruột. Ông bế xác của A Châu kên chạy loạn cả vùng Thái Hồ. Chôn cất A Châu
xong, Kiều Phong định tự tử vì không còn muốn sống trên đời nữa. Nhưng chợt
nhìn lên bài từ của Đoàn Chính Thuần đề trên lụa treo trên vách, Kiều Phong chợt
nhận ra nét chữ của Đoàn Chính Thuần khác hẳn nét chữ của thủ lĩnh đại ca mà
ông đã được nhìn thấy. Nghĩa là Đoàn Chính Thuần không phải là thủ lĩnh đại ca.
Hóa ra Ôn Khang đã đánh lừa ông; ông đã giết oan A Châu. Nghĩ đến đó, Kiều
Phong lại chợt ham sống, sống để tìm ra sự thật, sống để tạ tội giết oan người
tình mà ông trọn đời yêu dấu. Đây là khúc bi ca kinh hoàng nhất, đau thương nhất
của Thiên Long bát bộ. Đọc đoạn tiểu thuyết này, người ta có thể đổ nước mắt vì
mối thâm tình của A Châu đối với Kiều Phong, vì niềm đau đớn của Kiều Phong
không có gì có thể so sánh nổi. Có thể coi Thiên Long bát bộ là một bộ
tiểu thuyết tiêu biểu cho phong cách kết cấu câu chuyện của Kim Dung. Những
tình huống đan xen, những ngã rẽ bất ngờ dẫn câu chuyện đến những chân trời mới
lạ. Đọc hồi này, người ta khó có thể đoán được hồi sau và các hồi kế tiếp.
Kim Dung có khả năng hư cấu tuyệt vời, đẩy những mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm
khiến người đọc có cảm giác nhân vật khó thoát khỏi tình huống bi kịch nhất.
Nhưng rồi ông giải quyết vấn đề một cách hết sức khoa học, gọn nhẹ, hợp lý.
Tình huống kết thúc một cách tốt đẹp, vượt qua khỏi sự tưởng tượng của bao
nhiêu bạn đọc. Ta hãy lấy một ví dụ trong Thiên Long bát bộ. Trên bước đường
giang hồ, Đoàn Dự đã gặp và yêu thương Chung Linh là con của A Bảo, Mộc Uyển
Thanh là con của Tần Hồng Miên, Vương Ngữ Yên là con của Vương phu nhân. Mà những
nhân vật A Bảo, Tần Hồng Miên, Vương phu nhân đều là người tình của Đoàn Chính
Thuần (cha Đoàn Dự). Nói cách khác, các cô gái mà Đoàn Dự đem lòng thương yêu đều
là em cùng cha khác mẹ của Đoàn Dự; những mối tình của Đoàn Dự với các cô gái
là mối tình loạn luân. Làm sao giải được những mâu thuẫn kinh khủng đó để cứu
những mối tình trong trắng? Kim Dung giải quyết khá tài tình. Trong phút cuối của
đời mình, khi Đao Bạch Phụng, mẹ của Đoàn Dự sắp qua đời, bà mới tiết lộ một điều
kinh khủng: Đoàn Dự không phải là con của Đoàn Chính Thuần mà là con của gã ăn
mày Đoàn Diên Khánh. Bởi căm giận thói trăng hoa lơi lả của Đoàn Chính Thuần,
Đao Bạch Phụng đã đem tấm thân vương phi cao quý của mình cho gã ăn mày Đoàn
Diên Khánh giao hoan. Cuộc giao hợp chớp nhoáng kỳ lạ đó đã đẻ ra chàng trai
Đoàn Dự. Đoàn Chính Thuần không có cái gien sinh con trai; con tư sinh của Đoàn
Chính Thuần toàn là con gái. Và chỉ là đồng tông (cùng họ) nên theo luật hôn
nhân của nước Đại Lý, Đoàn Dự có thể lấy tất cả các cô Chung Linh, Mộc Uyển
Thanh, Vương Ngữ Yên... mà không cần phải thắc mắc về quan hệ huyết thống, dòng
tộc, luân lý đạo đức.
Bản chất của tiểu thuyết là hư cấu. Kim Dung dựa trên nền tảng những sự kiện lịch
sử có thật của đất nước Trung Hoa, đẩy khả năng hư cấu bay bổng tuyệt vời. Thí
dụ trong Ỷ thiên Đồ long ký, ông cắt nghĩa sự ra đời của nhà Minh là cuộc
kháng chiến do quần hùng Minh giáo Trung Hoa thực hiện. Thí dụ trong Thiên
Long bát bộ, ông giới thiệu sự tương tranh, tương giao của các thế hệ quân chủ
nhà Tống, nhà Liêu, nước Đại Lý, nước Thổ Phồn, nước Tây Hạ và tộc Nữ Chân. Tiểu
thuyết võ hiệp Kim Dung có một trình độ hư cấu rất cao cường, nối kết hàng trăm
nhân vật lại với nhau trong mối tương giao thật lạ lùng nhưng cũng thật hợp
logic. Kế thừa thủ pháp của các bậc tiền bối, tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung vẫn
đưa ra những chi tiết có vẻ hoang đường nhưng tính hoang đường ấy được đặt trên
nền tảng cái có thật. Ta lấy thí dụ nội công là khả năng có thật của người học
võ. Nội công ấy được rèn luyện nhiều năm, trở thành công lực riêng của từng người.
Trên cơ sở đó, Kim Dung hư cấu ra tình huống người này có thể dốc hết công lực
để dồn vào cho công lực của người khác; người khác có thể sư dụng môn hấp công
để thu hút hết công lực của địch thủ... Nếu các nhân vật Tây du ký đánh
bằng phép thì nhân vật của Kim Dung đánh bằng công lực. Một phát chưởng đánh ra
giữa không gian, phát thành chưởng phong bao lấy địch thủ, khiến địch thủ phải
ngã quỵ, phải chịu thua. Đó là khả năng hư cấu trong kiếm hiệp Kim Dung. Nếu
phương Tây lãng mạn trong hành động thì phương Đông lãng mạn trong tư duy. Tư
duy trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung quả thật lãng mạn bay bổng: hái một chiếc
lá, ném một cành hoa cũng có thể giết chết địch thủ; phóng một ngón tay ra
không trung (cách không chỉ pháp) cũng có thể phong tỏa đúng huyệt đạo của người
cần phong tỏa.
Như tôi đã giới thiệu, tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung được gọi là truyện, ký
hoặc lục (Xạ điêu anh hùng truyện, Ỷ thiên Đồ long ký, Thư kiếm ân cừu lục).
Văn thể cơ bản của tiểu thuyết Kim Dung là kể chuyện. Thế nhưng, cách kể chuyện
của ông cũng rất lạ, rất hấp dẫn bởi trong diễn biến của một câu chuyện đang được
ông kể, ông đưa vào đó một nhân vật mới và nhân vật này đã kể lại một câu chuyện
đã xảy ra. Câu chuyện ấy có giá trị như một đoạn phục hiện trong điện ảnh (hay
trong kịch nói), nghĩa là nó đi ngược thời gian và thay đổi không gian, hấp dẫn
người đọc bước vào một thế giới khác với những tình huống khác mới lạ hơn, lý
thú hơn. Thí dụ trong Tiếu ngạo giang hồ, bọn hào sĩ đang bàn về sự giao
du giữa Lệnh Hồ Xung đệ tử Hoa Sơn và tên thái hoa dâm tặc Điền Ba Quang. Ai nấy
đang tức giận, nguyền rủa hai gã này thì ni cô Nghi Lâm của phái Hằng Sơn xuất
hiện. Cô kể lại câu chuyện mình bị Điền Bá Quang bắt cóc định làm nhục, được Lệnh
Hồ Xung ra tay cứu viện thế nào; La Nhân Kiệt của phái Thanh Thành nhân cơ hội
Lệnh Hồ Xung bị thương nặng đã giết chàng thế nào. Chuyện kể của Nghi Lâm hấp dẫn
đến nỗi dù các nhân vật không xuất hiện, người đọc vẫn thấy được đặc điểm, cá
tính của từng nhân vật, nhận ra ai là anh hùng, ai là tiểu nhân. Đọc Kim Dung,
người ta sảng khoái vì lối hành văn lạ lùng ấy. Điều lạ là khi cầm đến một tác
phẩm của Kim Dung; đọc chương đầu ta không thể bỏ được chương hai, đọc chương
hai ta không thể bỏ được chương ba. những tình huống tiểu thuyết của ông uyển
chuyển, phản trác, những loại nhân vật của ông không sống theo công thức bình
thường của đời người. Tiếu ngạo giang hồ là một tác phẩm tiêu biểu
cho nhận định này. Đọc chương một, chương hai, chương ba của tác phẩm này, ta
thương cảm chàng thiếu niên Lâm Bình Chi của Phước Oai tiêu cục lâm vào cảnh
nhà tan, cửa nát, cha mẹ bị bắt; phải tìm lên Hành Sơn để cứu song thân, cứu
không được cha mẹ, chàng trở thành đệ tử phái Hoa Sơn. Hết quyển thứ nhất, ta vẫn
tưởng Lâm Bình Chi là nhân vật trung tâm. Nhưng rồi Lệnh Hồ Xung dần dần hiện
ta như một tên lãng tử vô hạnh, một người có tấm lòng nghĩa hiệp cao cả, và người
đọc bắt đầu có cảm tình, bắt đầu yêu mến chàng trai đó. Hóa ra đó mới là nhân vật
trung tâm của tác phẩm, còn gã Lâm Bình Chi chỉ là một thứ ngụy quân tử, một
anh lại cái. Có thể coi đó là hai khuôn mặt đại biểu cho cách xây dựng nhân vật
của Kim Dung.
Trong lối văn chương kể chuyện, thi thoảng Kim Dung cũng dừng lại tả cảnh, tả
tình. Cách tả tình của ông đặc biệt cô đọng, chủ yếu là đưa ra những nét chấm
phá để người đọc tự suy luận. Khi yêu Lệnh Hồ Xung, ngày nào Nhạc Linh San cũng
giành đem cơm lên núi sám hối cho chàng. Nhưng khi gần gũi Lâm Bình Chi, Nhạc
Linh San quên mất đại sư ca, say mê thằng mặt trắng này. Nhạc Linh San là người
phương Bắc, Lâm Bình Chi là người phương Nam. Lâm Bình Chi đã dạy cho Nhạc Linh
San hát khúc sơn ca Phúc Kiến. Mô tả tâm tình của Lệnh Hồ Xung, Kim Dung viết: "Nhạc
Linh San quay mình đi xuống núi, không nói một lời. Bỗng nhiên, giọng sơn ca
Phúc Kiến "chị em lên núi hái chè" vang lên. Lệnh Hồ Xung nghe khúc
sơn ca mà nát ngọc tan hồn, tưởng bị ai đánh mạnh một chùy vào ngực". Tác
giả dừng lại ở đó để bạn đọc hiểu thế nào thì hiểu. Cũng như tả tình, Kim Dung
tả cảnh với những nét chấm phá. Thí dụ mùa xuân: "Làn gió mát ru êm
cành liễu. Hương hoa thơm say đắm lòng người. Trời đang vào mùa xuân, ánh dương
quang chói lọi khắp miền Nam". Đây là cảnh xuân ở thành Phúc Châu, tỉnh
Phúc Kiến trong Tiếu ngạo giang hồ. Còn đây là cảnh Cung kiếm hồ ở núi Vô
Lượng, Vân Nam: "Bên trái sườn núi là giải thác lớn trắng phau trông
như một con rồng treo lơ lửng trên không cuồn cuộn đổ xuống một cái hồ trong vắt,
rộng mênh mông không thấy bờ bên kia... Trên mặt hồ, chỉ có chỗ thác đổ vào là
nước chảy quanh co, sóng vỗ bì bõm, còn xa hơn từ mười trượng trở đi lại phẳng
phiu giống như một tầm gương khổng lồ". Đọc Kim Dung, ta thấy phong cảnh
thiên nhiên, bao la, hùng vĩ, lãng mạn, tươi đẹp hiện ra bốn mùa: tuyết trắng
phủ Thiên Sơn, đàn hồng nhạn bay qua Nhạn Môn Quan, sông Tiền Đường sóng vỗ ầm ỳ,
chùa Thiếu Lâm ngàn năm nấp sau rừng tung cách sum sê, hoa hồng lăng nở rộ mặt
Thái Hồ mùa thu nước biếc... Có lẽ ông đi nhiều, thấy nhiều, biết nhiều nên kiến
thức về địa lý học, hoa học, phong tục học rất uyên bác. Ông viết về một thứ
văn chương giàu tính nghệ thuật, lôi cuốn, hấp dẫn khiến người ta đọc mà không
thể chán.
Các học giả Trung Quốc đã tặng cho Kim Dung một huy chương tinh thần về cách sử
dụng kim văn để viết tiểu thuyết. Sự thành công của Kim Dung chính là sự thành
công của văn học Trung Quốc hiện đại. Ông được xếp vào một trong 10 nhà văn lớn
của dân tộc Trung Hoa và hai tác phẩm của ông được chọn là hai tác phẩm để đời
cho văn học Trung Quốc. Phải nhìn nhận một điều: tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung
là một loại hình tiểu thuyết khác hẳn với những tiểu thuyết viết về anh hùng
hào kiệt thời Minh - Thanh, khác hẳn với các loại tiểu thuyết võ hiệp của các
tác giả khác cùng thời, lại khác xa với Les trois mousquetaires (Ba
chàng Ngự lâm pháo thủ) của Alexandre Dumas (cha); càng khác xa với những kịch
bản phim cao bồi của Viễn Tây Hoa Kỳ. Nó là tiểu thuyết võ hiệp kim văn mới lạ.
làm say mê hàng tỷ độc giả trên thế giới, trong đó có độc giả Việt Nam. Sự đóng
góp của Kim Dung cho văn học Trung Quốc và thế giới như vậy là khá lớn lao. Ông
xứng đáng là minh chủ của nền văn học võ hiệp.
Kim Dung đặt lại mấy vấn đề lịch sử
Một tác phẩm văn học không bao giờ là một tác phẩm sử học. Tác phẩm văn học được
viết bởi nhà văn; tác phẩm sử học được viết bởi những sử quan mà đời Hán gọi là
Thái sử lệnh. Tác phẩm văn học được xây dựng từ những khả năng hư cấu lãng mạn;
tác phẩm sử học dựa trên những sự kiện lịch sử cụ thể. Tuy nhiên, nếu biết vận
dụng khéo léo, đưa những yếu tố lích sử vào tác phẩm văn học thì tác phẩm văn học
hấp dẫn hơn, hoành tráng hơn và hiện thực hơn. Đó là đặc điểm của một số bộ tiểu
thuyết võ hiệp Kim Dung. Ông đã đưa yếu tố lịch sử vào văn học và vượt xa hơn,
ông dùng tác phẩm văn học để đặt lại một số vấn đề lịch sử. Ai cũng hết lời ca
ngợi Chu Nguyên Chương. Chu Nguyên Chương, tức Minh Thái tổ, làm vua Trung Hoa
từ năm 1368 đến năm 1398, được coi là người anh hùng của phong trào kháng
Nguyên, người có công bậc nhất thiên hạ giành lại đất nước Trung Hoa từ tay Di
Dịch. Thế nhưng, qua Ỷ thiên Đồ long ký, Kim Dung đã buộc người đọc phải
nhìn lại đúng bản chất của Chu Nguyên Chương. Xuất thân từ nông dân, Chu Nguyên
Chương đã nhân lúc An Huy đói kém, nổi lên làm giặc cướp rồi đi tu ở chùa Hoàng
Giác. Ăn cướp một con bò của một nhà giàu làm thịt nấu ăn, bị người nhà giàu
sai hai gia nhân đi bắt, Chu Nguyên Chương đã dùng vũ lực bóp miệng hai gia
nhân buộc họ phải ăn lông bò. Thủ đoạn vu oan giá họa như vậy không phải ai
cũng có thể làm được. Chu Nguyên Chương gia nhập Minh giáo (Manichéisme) Trung
Hoa, lãnh đạo đội quân Hoài Tứ. Trước khi cuộc khởi nghĩa Minh giáo thành công,
Chu Nguyên Chương giết thủ lĩnh của mình là Hàn Sơn Đồng, trấn nước con trai là
Hàn Lâm Nhi để nắm quyền lãnh tụ. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Kim Dung đã mô
tả đoạn nghĩa quân Minh giáo đón Trương Vô Kỵ giáo chủ, đoạn Chu Nguyên Chương
tạ ơn giáo chủ đã khen ngợi mình. Thế nhưng, chính thuộc hạ Chu Nguyên Chương
đã bỏ thuốc độc vào bình rượu cho Vô Kỵ và Triệu Mẫn uống rồi xiềng khóa hai
người, giam vào đại lao. May còn được thanh Ỷ thiên gãy, Vô Kỵ đã chặt xiềng, dẫn
Triệu Mẫn lặng lẽ ra đi... Con người thủ đoạn, phản bạn, bất trung với cấp trên
như vậy đã lên làm vua khai sáng triều Minh ở Trung Hoa. Về sau, để bảo vệ cho
quyền lực họ Chu, Nguyên Chương đã tận sát hết các chiến hữu từng cùng ông ta
vào sinh ra tử. Ông ghét văn chương đến nỗi chỉ cần đọc một chữ nghi ngờ có ý
giễu mình là ông giết ngay người viết.
Trong Thiên Long bát bộ, Kim Dung lại cho ta thấy được tư cách của một ông
vua Trung Hoa khác - Tống Triết tôn Triệu Hú. Để làm nổi bật tính cách lấc cấc,
huênh hoang của Triệu Hú, Kim Dung đã xây dựng một nhân vật Hoàn Nhan A Cốt Đả,
thủ lĩnh kiêu dũng của bộ lạc Nữ Chân ở miền Đông Bắc; một Đại Liêu hoàng đế
Gia Luật Hồng Cơ thâm trầm, sắc sảo bên kia Nhạn Môn quan, một nước Tây Hạ thịnh
vượng ở phía Tây, một nước Đại Lý quân thần như huynh đệ ở phía Nam. Triệu Hú
lên ngôi năm 8 tuổi, được bà thái hậu họ Cao nhiếp chính. Vào khoảng năm 1090 đến
năm 1093, những biến pháp của Vương An Thạch (phe Tân đảng) đã gần như phá sản,
Cao Thái hậu áp dụng tư tưởng cai trị mềm dẻo của phe Cựu đảng gồm Tư Mã Quang,
Tô Thức, Tô Triệt. Cách trị nước của Cao Thái hậu vững vàng, ôn hòa khiến quân
Liêu không dám đưa binh qua biên giới gây hấn với nhà Tống. Tể tướng nước Liêu
dâng sớ lên Gia Luật Hồng Cơ, ca ngợi: "Từ khi thái hậu Đại Tống
buông rèm nghe chính sự, chiêu nạp trung thần, bài trừ chính trị hà khắc, trong
chín năm trời thiên hạ yên vui, triều đình hưng thịnh". Trong khi đó, Triệu
Hú chỉ muốn áp dụng biện pháp của phe Tân đảng Vương An Thạch để gây chiến
tranh với nước Liêu. Kim Dung thuật lại đoạn thái hậu bệnh nặng, nằm trong điện
Sùng Khánh thành Biện Lương, kêu Tống Triết Tôn Triệu Hú đến dặn dò. Gã vua con
nít này chỉ muốn kích động cho bà nội chết sớm; hắn bảo sẽ đem quân Bắc phạt, sẽ
trừng trị bon "hủ nho" Tư Mã Quang, Tô Thức, Tô Triệt. Hắn
rút kiếm chém chiếc ghế đứt làm hai đoạn trước mắt bà nội. Khi bà già tắt thở,
hắn reo lên: "Ta đã được làm vua rồi". Theo chính sử Trung Hoa
thì đó là năm 1093, khi Triệu Hú 18 tuổi. Quả nhiên, Triệu Hú giáng Tô Thức từ
Lễ bộ thượng thư xuống làm tri phủ Định Châu, giáng Tể tướng Tô Triệt xuống làm
tri phủ Nhữ Châu; mắng Hàn lâm học sĩ Phạm Tô Vũ khi người này dâng bản tấu can
gián. Một thứ hôn quân như Tống Triết Tôn mà có thể cai trị được đất nước Trung
Hoa quả là một chuyện lạ. Triệu Hú chết năm 1099, em ruột lên ngôi xưng là Huy
Tôn. Cái lẽ bại vong của nhà Tống không phải đợi đến sau này mà nó nằm ngay
trong đời Triệu Hú, trong Thiên Long bát bộ của Kim Dung. Đoạn văn
Triệu Hú chọc cho bà nội chết sớm thật lâm ly biến ảo, không thể tìm thấy
trong Tống sử hay lịch sử Trung Hoa. Kim Dung không bình luận, nhưng
bản chất Tống Triết Tôn Triệu Hú như thế nào thì mọi người đọc văn ông đều rõ.
Kim Dung viết Lộc Đỉnh ký là một cách đối chiếu lịch sử, giúp cho
hàng tỷ đồng bào của ông có cơ hội nhìn lại các ông vua của triều Minh - dòng
dõi Hán tộc và các ông vua triều Thanh - dòng dõi Di Địch trong bốn rợ (Tứ di).
Hình ảnh của vua Minh Sùng Trinh không hiện ra; hình ảnh của những ông vua hậu
duệ nhà Minh như Phúc vương, Quế vương, Đường vương, Lỗ vương cũng không hiện
ra. Nhưng cảm giác mà Kim Dung tạo ra được cho người đọc là sự nhận chân ra bản
chất triều Minh: những ông vua u tối, nhu nhược, không được người Trung Hoa ủng
hộ. Đúng ra, có một số ít người theo họ nhân danh chữ trung của nhà nho. Nhưng
bản thân chữ trung đó cũng ngu xuẩn nốt: phe thì ủng hộ Đường, phe thì ủng hộ
Quế, phe nào cũng chỉ nhận mình mới là chính thống. Điều đó nói lên được thực
chất của các phong trào phản Thanh phục Minh cuối thế kỷ 17 ở Trung Hoa: những
lực lượng ô hợp, không nêu lên được một khẩu hiệu rõ ràng, một ngọn cờ chính thống.
Đối lập với họ là một ông vua con Khang Hy thông minh, tài trí, đức độ. Con người
xuất thân từ dòng dõi Di Địch đó đã biết chia rẽ các lực lượng chống đối, áp dụng
thủ pháp có nhu có cương để cai trị thiên hạ, thể hiện lòng nhân từ và tư tưởng
đại đoàn kết để thu phục nhân tâm. Nhà vua thiếu niên đọc thật kỹ sử sách Trung
Hoa, rút ra những bài học lâm sàng từ những ông vua hôn ám để tránh, đi theo
cái vương đạo mà bậc đại học đã đi. Đối với quân Mông Cổ, Tây Tạng, Nga La Tư,
nhà vua có đối sách ngoại giao rõ ràng. Chính vì vậy khi Ngô Tam Quế dựng lên
chiêu bài "hưng Minh thảo Lỗ" ở Vân Nam, phát hịch kể tội
nhà Thanh và Khang Hy thì không có lực lượng nào của người Trung Quốc ủng hộ
Ngô Tam Quế cả.
Kim Dung là một nhà văn chứ không phải là một nhà sử học. Cách đặt lại vấn đề lịch
sử trong tác phẩm của ông cũng rất văn học: không cay cú kết án, không hồ hởi
ca ngợi. Ông chỉ nhẹ nhàng trình bày sự kiện người đọc nhân ra quan điểm cá
nhân của ông. Nhiều khi, tôi kinh ngạc khi đọc đến những kiến giải uyên bác của
Kim Dung về sử học. Thí dụ như đoạn lung trong Lộc Đỉnh ký, khi Kim Dung
mượn lời của Lữ Lưu Lương giải thích cho con trai nghe về hai từ "trục
lộc" (đuổi hươu). Con hươu ví với thiên hạ, gồm có đất đai và dân
chúng. Khương Thái Công tâu với Văn Vương: "Lấy thiên hạ như đuổi bắt
con hươu làm thịt chia nhau mà ăn. Có khi nhiều người cùng ăn, có khi một người
ăn hết". Ông dẫn lời trong Hán thư: "Nhà Tần để sổng con hươu,
thiên hạ tranh nhau bắt". Từ khái niệm "hươu" (lộc),
Kim Dung đưa ta qua khái niệm "vạc" (đỉnh). Đỉnh là cái vạc
cao, có ba chân, dùng để nấu thịt (hươu) mà ăn. Sau đó, người ta dùng đỉnh để
làm một hình cụ. Lịch Sinh bị Tề vương Điền Quảng bỏ vào vạc dầu luộc chín khi
Hàn Tín đánh vào Lâm Tri. Nối "lộc" và "đỉnh" lại có khái
niệm lộc đỉnh. Trong địa danh Trung Quốc, có núi Lộc Đỉnh ở miền bắc sông Hắc
Long, đọc theo âm Mãn Châu là Hô Mã Nhĩ Oa Tập Sơn. Kim Dung đã nắm tay độc giả
dẫn vào thế giới Lộc Đỉnh ký, bộ tiểu thuyết ông viết ra trong khoảng 1969
- 1972 tự nhiên như thế. Cách dẫn nhập từ khái niệm lịch sử vào thế giới tiểu
thuyết của Kim Dung không phải ai cũng làm được!.
25/10/2020Vũ Đức Sao Biển
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét