Kim Dung giữa đời tôi 4
Hành trình qua thống khổ
Mỗi người đều có một đời sống riêng, đi trên một con đường. Nếu đời sống là một
cuộc hành trình thì mỗi cuộc hành trình đều có bản sắc của nó, không ai giống
ai, không kinh nghiệm nào trùng lắp kinh nghiệm nào.Khi xây dựng những nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết của mình, Kim Dung đã
khắc họa cuộc hành trình riêng của từng nhân vật. Hồ Phỉ (Tuyết Sơn phi hồ), Lệnh
Hồ Xung (Tiếu ngạo giang hồ), Dương Qua (Thần điêu hiệp lữ) Trương Vô Kỵ (Ỷ
thiên Đồ long ký), Kiều Phong (Thiên Long bát bộ), Thạch Phá Thiên (Hiệp khách
hành)… không nhân vật nào giống nhân vật nào. Thế nhưng, qua những kiếp người đặc
thù ấy, người đọc lại nhận ra một mẫu số chung: mỗi nhân vật trung tâm trong tiểu
thuyết Kim Dung đều có chỗ giống nhau bởi họ đã hành trình qua thống khổ, đã từng
đi qua những con đường đau khổ.Hồ Phỉ mới được sinh ra 3 ngày thì cha mẹ chết hết, may mắn nhờ một gã tiểu nhị
trong quán cơm bồng chạy trốn kẻ muốn giết hại. Chàng trai côi cút lớn lên, học
được đường Hồ gia đao pháp của cha truyền lại, cưỡi con ngựa đi từ Sơn Đông vào
Trung Nguyên tìm kẻ thù giết cha. Oái oăm làm sao, khi tìm ra kẻ cần tìm thì Hồ
Phỉ mới hiểu được người ấy không phải là kẻ đã giết cha mình. Lưỡi đao đưa lên,
lấp lánh dưới bóng trăng lạnh nhưng Hồ Phỉ không nỡ xuống tay. Tư tưởng của Hồ
Phỉ có sự đấu tranh mãnh liệt; lưỡi đao cứ lơ lửng như vậy. Vì vậy, tác phẩm
còn có một cái tên rất ấn tượng: Lãnh nguyệt bảo đao.Lệnh Hồ Xung lại là một trường hợp khác. Hắn là một cô nhi, được đưa về Hoa
Sơn, trở thành đại đệ tử của Nhạc Bất Quần. Hắn tôn Nhạc Bất Quần như cha, Ninh
Trung Tắc như mẹ và coi Nhạc Linh San như cô em gái thân yêu. Lớn lên, hắn yêu
Nhạc Linh San và càng thêm kinh trọng sư phụ, sư mẫu. Thế nhưng, Nhạc Linh San
đã phụ tình hắn, chạy theo gã tốt mã nhà giàu Lâm Bình Chi; sư phụ hắn lại vu
cáo hắn ăn cáp Tịch tà kiếm phổ của họ Lâm, đuổi hắn ra khỏi sư môn,
lại rao khắp võ lâm nhờ mọi người tru diệt hắn. Trời đất bao la mà hắn không
tìm ra một chỗ để nương thân. Nỗi đau thương trong suốt cuộc hành trình làm người
của hắn đạt đến độ cùng cực của kiếp người. Nếu không có tình yêu vĩ đại của
thánh cô Nhậm Doanh Doanh, chắc hắn đã chết đi tầm thường và bình thường như
cây như cỏ. Cuối cùng, hắn rủ bỏ tất cả để được cùng Doanh Doanh song tấu
khúc Tiếu ngạo giang hồ, sống ung dung tự tại để được làm con người tự do.Trương Vô Kỵ lại đi qua một con đường thống khổ khác. Mới 10 tuổi, hắn đã phải
chứng kiến một cảnh cực kỳ đau đớn: cả cha mẹ đều tự tử trên núi Võ Đang. Bản
thân hắn bị trúng một chưởng âm hàn, tưởng đã chết nếu không được thần y Hồ
Thanh Ngưu chữa trị. Rồi hắn làm một cuộc phiêu lưu vạn dặm lên tận Quang Minh
Đỉnh trên dãy Thiên Sơn, trở thành giáo chủ Minh giáo Trung Quốc. Lòng hắn
trong sáng như gương; hành vi hắn anh hùng hơn bất cứ một anh hùng nào nhưng hắn
vẫn bị đời nguyền rủa là dâm tặc, ác nhân, tà ma ngoại đạo. Hắn dành cả đời
mình cho sự nghiệp chống quân Mông Cổ xâm lăng, giành lại đất nước cho Hán tộc.
Nhưng rồi hắn đau đớn khám phá ra sự bất trung, bất nghĩa của Chu Nguyên
Chương, một thuộc hạ cùng hắn mưu đồ sự nghiệp lớn. Hắn lặng lẽ rời hàng ngũ khởi
nghĩa, dắt tay Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ, cô quận chúa Mông Cổ xinh đẹp, ra đi. Cuối
cùng, hắn làm một công việc thú vị và rất đàn ông: kẻ lông mày cho người tình Mẫn
Mẫn Đặc Mục Nhĩ.Nhưng bi kịch nhất trong những số phận bi kịch phải nói đến Kiều Phong (Thiên
Long bát bộ). Kiều Phong tên thật là Tiêu Phong, người Khất Đan; cha mẹ bị người
Hán giết hại ngoài Nhạn Môn Quan. Ấy vậy mà Kiều Phong được người Hán đưa về
nuôi dưỡng, Hán hóa, đổi lại họ Kiều, đưa lên làm Bang chủ Cái bang Trung Quốc,
nhận sứ mệnh chiến đấu chống lại người Khất Đan. Niềm đau đớn của Kiều Phong là
khi ông bị thuộc hạ tố cáo là quân Khất Đan mọi rợ và nhận ra mình chính là người
Khất Đan. Hóa ra, ông đã từng đánh giết và chủ trương đánh giết những người
cùng dân tộc với mình. Niềm đau thứ hai là ông đã xuống tay giết lầm người tình
Đoàn A Châu, người đã nguyện cùng công về bên kia Nhạn Môn Quan săn chồn đuổi
thỏ. Cơ duyên lạ lùng đã đưa ông về Khất Đan (Liêu quốc), được phong làm Nam viện
đại vương, thống lĩnh binh quyền nước Liêu, đóng tại Yên Kinh (Bắc Kinh ngày
nay). Vua Liêu ra lệnh cho ông đánh Trung Quốc; nghĩ đến trăm họ lầm than, triệu
dân đau khổ, Tiêu Phong (tức Kiều Phong) đã chống lệnh hành quân. Vua Liêu xem
ông là kẻ phản nghịch. Ở Trung Quốc, ông là tên chó Liêu mọi rợ. Về nước Liêu,
ông là kẻ phản vua, phạm thượng. Hành trình thống khổ của Tiêu Phong đã đạt đến
đỉnh điểm, cần đến sự giải thoát phi tự nhiên. Ông phải sử dụng đến cái tự do
cuối cùng của kiếp người để tự xử lấy mình trước Nhạn Môn Quan.Kim Dung đã để cho những nhân vật trung tâm của mình kinh qua những đau đớn về
thể chất và tinh thần của kiếp người. Gần như ông muốn chứng minh một định đề
cơ bản của Phật giáo: đời là bể khổ. Có những nhân vật kết thúc hành trình thống
khổ bằng cách tự xử lấy cuộc đời mình như Kiều Phong, Trương Thúy Sơn. Kim Dung
viết đến những đoạn mà các nhân vật của ông tự chọn lấy cái chết khiến người đọc
đau đớn, bùi ngùi, khóc ngay trên trang tiểu thuyết. Tôi cho rằng một thứ văn
chương như vậy là sòng phẳng và công bằng.Tiểu thuyết của Kim Dung nói đến cuộc sống, tình yêu, sự thống khổ và cái chết
đều đáng để người ta quan tâm đọc và suy ngẫm. Kim Dung đã vượt qua chủ nghĩa
công thức sơ lược khi xử lý kết thúc tác phẩm mà hàng trăm nhà văn Minh – Thanh
đã thực hiện. Tôi nhận ra ở tiểu thuyết Kim Dung tính chất nhân bản, nhân văn rất
gần gũi với cuộc sống của mỗi kiếp người. Một điều cần nhớ là Kim Dung xuất
thân từ một gia đình quan lại ở Hải Ninh, Triết Giang. Tổ phụ ông từng làm quan
triều Thanh; họ Tra của ông có nhiều nhân vật được ghi tên trong lịch sử Trung
Quốc. Thế nhưng, văn chương của ông dành rất nhiều tình thương cho người nghèo,
người cùng khổ; các nhân vật trung tâm thường là trẻ mồ côi, bơ vơ lưu lạc, có
kẻ đi ăn xin. Cái đó là gì nếu không phải là tình thương yêu, quý trọng phẩm
giá con người? Tôi nói văn chương Kim Dung là thứ văn chương đáng để chúng ta đọc
và suy ngẫm là vậy.Đêm phương Nam đọc lại Ỷ thiên Đồ long kýTôi đang ở trong phòng 301, nhà khách Đoàn T.30 của Quân khu 9.Tháng 11, đêm Cần Thơ mưa nặng hạt. Qua cửa kính, tôi có thể nhìn thấy màn mưa
trắng xóa trên rạch Cái Khế, những ánh điện vàng vọt hắt xuống từ những khung cửa
của các ngôi nhà ven bờ rạch bên kia. Mưa rơi thường gọi nhớ cho lòng người.
Đây là một đêm phương Nam như bao đêm phương Nam khác, nhưng trời mưa khiến
lòng thao thức, không ngủ được.Không ngủ được vốn là thuộc tính của tôi. Lòng tôi như một sợi dây đàn, chỉ cần
một cơn gió nhẹ thổi qua là có thể rung lên thành tiếng; huống chi cuộc sống đầy
những ba động, sướng khổ, vui buồn. Bức thư kêu oan của một bà mẹ trong một xã
vùng sâu huyện Châu Thành A, kể chuyện cô con gái 16 tuổi của mình bị hiếp dâm
mà vụ án vẫn không bị khởi tố, bị can vẫn không bị truy cứu trách nhiệm hình sự
làm lòng tôi đau nhói. Cô gái đã kể lại cho tôi nghe những giây phút kinh
hoàng, đau đớn nhất đời cô. Kẻ gây án là một người có chức quyền, thuộc một tập
thể sắp được lãnh huân chương. Trong trường hợp này, danh dự của tập thể quan
trọng hơn phẩm giá một người phụ nữ. Người ta đã mời cô đến, đưa một triệu đồng
hỗ trợ, đưa cho mẹ cô ba triệu đồng gọi là giúp vốn về quê làm ăn. Khi cô đi khỏi
miền đất tai họa của đời mình, có kẻ tự xưng là “nhà báo” viết một bài khá dài,
ca ngợi kẻ hiếp dâm cô là một cán bộ năng nổ đầy tinh thần trách nhiệm; lên án
cô là một thứ gái chuyên trộm cắp, đã được cho tiền mà còn lật lọng tố cáo vu
vơ. Lẽ phải đã bị xâm phạm thô bạo, sự thật đã bị bẻ cong. Tôi có đủ cơ sở để
chứng minh cô gái bị hiếp dâm và chứng minh kẻ có chức quyền kia đã phạm tội hiếp
dâm. Nhưng tôi viết lên thì ai sẽ nghe tôi và liệu tiếng nói của tôi có đủ sức
lay động tấm lòng của những người là công tác tố tụng để bắt giữ, điều tra,
truy tố và xét xử kẻ phạm tội ấy? Tôi cảm thấy nhục nhã vì chưa làm hết chức
năng của một nhà báo đối với bạn đọc, với một bà mẹ nghèo và một cô gái bất hạnh
đã tin tưởng gởi đơn kêu cứu đến cho tôi. Tôi cảm thấy nhục nhã bởi giữa cuộc sống
mình bạch mà còn có “nhà báo” vô lương tâm, tự nguyện làm một thứ bồi bút cho đồng
tiền để quay lại phóng uế vào sự thật. Tôi cảm thấy nhục nhã khi nhiều bạn đồng
nghiệp ngay thẳng của tôi và cả tôi cùng đánh đồng với một thứ “nhà báo” như vậy.
Thôi thì tôi trở lại với tư thế của nhà văn, đọc một cái gì đó mà mình yêu
thích và viết một cái gì đó mà mình cần viết.Có lẽ trong suốt bộ tiểu thuyết Ỷ thiên Đồ long ký, không có âm thanh nào
ám ảnh tôi như tiếng gầm rú của Tạ Tốn. Kim Dung gọi đó là thần công Sư tử hống
- tiếng gầm của sư tử. Tiếng gầm ấy là một vũ khí lợi hại; nó vang rền, kéo dài
đập vào mang nhĩ của người nghe. Kẻ nào công lực yếu sẽ bị tiếng gầm làm cho
hôn mê và chết luôn; kẻ có công lực khá hơn thì không chết nhưng mất hết trí nhớ,
trở thành cuồng loạn. Trong toàn bộ tác phẩm, Tạ Tốn chỉ gầm lên một lần trên đảo
Vương Bàn Sơn. Tiếng gầm của lão đã giết chết quần hùng; chỉ còn hai người sống
sót nhưng cuồng loạn là Tưởng Đào và Cao Tắc Thành phái Côn Lôn; hai người sống
sót trọn vẹn nhưng bị lão bắt đi làm “tù binh” là Trương Thúy Sơn phái Võ Đang
và Hân Tố Tố của Bạch mi giáo. Tại sao Trương Thúy Sơn và Hân Tố Tố sống? Ấy là
vì tác giả không muốn một thư sinh tài hoa, có nghệ thuật thư pháp tuyệt vời và
một cô gái trong trắng, tươi đẹp, thông minh phải chết. Cái tài hoa, cái đẹp của
họ là vốn quý của cuộc sống. Nhưng vốn quý ấy đồng thời cũng là mầm của tai họa,
của đau đớn, của lầm than. Kim Dung gọi họ là một đôi người ngọc (ngọc nhân).
Đôi người ngọc ấy phải sống, phải lưu lạc lên Băng Hỏa đảo, phải kết đôi với
nhau, rồi phải trở lại Trung Nguyên để gánh chịu sự đau đớn của cái nhìn phân
biệt chính tà, phải chết đi trên núi Võ Đang để giữ bí mật cho bảo đao Đồ long.
Nghĩa là họ phải trả giá cho chính tài hoa và nhan sắc mà trời ban cho họ. Tiếng
rú của Tạ Tốn bao hàm đủ cả đau thương, uất hận. Một con người văn nhã, có kiến
thức văn học uyên bác, có tài biện luận trôi chảy mà vợ con lại bị chính gã “sư
phụ” mất dạy là Thành Khôn giết chết. Tạ Tốn coi người thầy của mình là cừu
nhân, mà oái oăm thay, gã cừu nhân ấy lại có vai trò lớn hơn cả người cha
(trong chế độ quân chủ theo Nho giáo). Tạ Tốn đi tìm cừu nhân, lại đánh chết một
vị thần tăng mà lão thường kính trọng. Cũng như Chí Phèo của Nam Cao, Tạ Tốn của
Kim Dung mong muốn được làm một con người lương thiện nhưng con đường trở về với
bến lương thiện của lão đã bị chặt đứt bởi sự phân biệt ân oán, chính tà, thiện
ác. Tôi cho rằng Tạ Tốn cất tiếng rú là một cách phát tiết tâm tình. Tạ Tốn rú
cũng như Bạch Cư Dị làm thơ, cũng như cô kỹ nữ trên bến Tầm Dương cất tiếng
hát. Tất cả chỉ là sự phát tiết.Hân Ly, em cô cậu của Trương Vộ Kỵ, lại thương yêu Trương Vô Kỵ. Trong quan điểm
của hôn nhân gia đình Trung Hoa ngày xưa, anh chị em cô cậu ruột, anh chị em bạn
dì ruột được phép lấy nhau. Ở đây, người ta bỏ qua mối dây quan hệ huyết thống,
chỉ chú trọng đến yếu tố bàng hệ. Vâng, Hân Ly thương yêu Trương Vô Kỵ. Nhưng
khác với những thiếu nữ xuân thì, cô không muốn giữ lại tấm nhan sắc xinh đẹp của
mình. Cô luyện một môn võ công độc ác với ước mong môn này sẽ giúp cô trả thù lớn
cho mẹ mình. Cô dùng đôi tay hút hết chất độc của những con nhện độc vào thân
thể mình và cô biết khi luyện đến một ngàn con nhện độc, chất độc sẽ tích tụ
trong cơ thể, dung mạo biến đổi trở nên xấu xí vô cùng. Môn võ công của cô được
gọi là Thiên châu vạn độc thủ. Châu đây là con nhện. Đời cô chuyên chơi với những
con nhện nên Kim Dung còn gọi cô là Châu Nhi (bé Nhện). Chất độc của nhện đã
làm cho khuôn mặt cô ngày càng xấu đi; chỉ còn nụ cười với hàm răng trắng là vẫn
rực rỡ. Về sau, cô bị rạch bốn nhát kiếm vào mặt; chất độc chảy ra khiến da thịt
trắng trẻo lại. Nhưng một thiếu nữ bị bốn vết kiếm trên mặt thì dù trắng trẻo đến
đâu cũng không thể gọi là cô gái đẹp được. Cái hạnh phúc muốn được làm duyên
làm dáng trước tình quân muôn đời cô không thực hiện được.Ỷ thiên Đồ long ký có một cái bóng thấp thoáng rất lạ. Đó là Thành Khôn,
gã sư phụ mất dạy của Tạ Tốn. Gần như Thành Khôn gây nên các oán thù, xung đột
trong tác phẩm nhưng người đọc không thấy rõ ràng chân tướng lão qua tác phẩm đồ
sộ này. Đầu tiên, khi Trương Vô Kỵ cứu các cao thủ Minh giáo trong Tổng đàn
trên Quang Minh Đính, đã giao đấu với lão, biết lão chính là kẻ cừu nhân của
nghĩa phụ Tạ Tốn, đã trốn vào phái Thiếu Lâm dưới pháp danh Viên Chân nhưng
chàng chỉ nghe được tiếng nói và tiếp xúc với hai bàn tay lão xuyên qua cái bao
vải. Mọi người tưởng lão chết trong đám loạn quân nhưng khi kiểm tra lại các
xác chết thì lão đã trốn mất. Rồi khi Trương Vô Kỵ cùng Tiểu Siêu đi vào đường
hầm bí mật dưới Quang Minh Đính, bị Thành Khôn lấp tảng đá để bít kín miệng hầm,
Vô Kỵ vẫn không thấy được mặt lão. Lần cuối cùng, khi âm mưu bại lộ, lão mới xuất
hiện và giao đấu với Tạ Tốn tại hậu sơn chùa Thiếu Lâm. Tạ Tốn bị mù, bị lão
đánh cho tả tơi. Thế nhưng, Tạ Tốn đã cố ôm lão cùng rơi xuống hầm giam tối
đen. Ở đấy, người mắt sáng cũng như kẻ đui mù. Tạ Tốn cuối cùng cũng trả được mối
đại thù: đâm mù hai mắt Thành Khôn, phế hết võ công của lão. Kể cả lần cuối
cùng này, Thành Khôn cũng xuất hiện dưới lớp hóa trang làm cho cả quần hùng
không ai nhận ra. Chỉ có Tạ Tốn, nhờ bị mù mà nhận được tiếng nói. Rốt cuộc, chẳng
ai thấy rõ Thành Khôn ra làm sao.Có lẽ bạn đọc ngạc nhiên, tự hỏi tại sao tôi đọc lại Ỷ thiên Đồ long ký mà
chỉ điểm có ba nhân vật Tạ Tốn, Hân Ly, Thành Khôn; ba nhân vật phụ. Vâng, giữa
đêm Cần Thơ mưa rơi tầm tã, đêm phương Nam lặng lẽ, tôi cứ suy nghĩ mải về Tốn,
Ly và Khôn. Bạn để ý ba cái tên ấy chứ? Đó là ba quẻ trong tám quẻ của kinh Dịch:
Càn Khảm, Chấn, Tốn, Cấn, Ly, Khôn, Đoài. Vâng, Ỷ thiên Đồ long ký lấy ba quẻ đặt
tên nhân vật. Ở một tác phẩm khác, Kim Dung lại sử dụng hai quẻ Càn và Cấn để đặt
tên cho hai nhân vật phụ là Công Dã Càn và Hoa Hách Cấn. Kim Dung có ngụ ý gì
khi đưa các quẻ của kinh Dịch đặt tên cho nhân vật mình? Tôi cứ suy nghĩ mãi điều
đó nhưng chưa tìm ra được chìa khóa giải mã. Cho nên, giữa đêm mưa phương Nam,
tôi cứ đọc lại Ỷ thiên Đồ long ký và đi tìm. Còn các bạn, các bạn đã
tìm ra chưa?.Sử kiếm ý, bất sử kiếm chiêuHôm nay là mồng Một tết Nhâm Ngọ (2002), rơi đúng vào ngày sinh của tôi. Nhà
nho nói: “Đa thọ đa nhục”. Tôi đã “thọ” thêm được một tuổi nữa,
lòng thực sự không cảm thấy hạnh phúc chút nào. Ấy bởi vì trong cuộc sống và
sáng tạo của một người cầm bút, tuổi già thường được đồng hóa với sự trì trệ, sự
mệt mỏi, sự thiếu lửa. Mà đã trì trệ, mệt mỏi, thiếu lửa thì e rằng cái mà ta
viết ra được sẽ không còn cuốn hút bạn đọc như xưa.Văn chương, âm nhạc tối kỵ nhất là lối mòn, là rơi vào chủ nghĩa công thức. Có
người nghĩ mình là tài hoa, viết ra những câu lạ, sử dụng một tập hợp những
ngôn ngữ khó hiểu để lừa mị quần chúng, mong tự chứng tỏ tác phẩm mình mang trí
tuệ. Không đâu! Đó là sự trí trá của hoa giả, loại hoa làm bằng nhựa hoặc giấy.
Thoạt nhìn, ta nghĩ đó là hoa, thậm chí còn là hoa đẹp nữa bởi màu sắc rực rỡ,
tươi tốt quanh năm. Nhưng không, nó chỉ là hoa giả, còn thua xa cả một bông hoa
dại mọc lẻ loi ở bên đường. Văn chương cũng vậy, âm nhạc cũng vậy, phụ nữ cũng
vậy luôn.Mười hai giờ kém hai mươi đêm mùng một, có chàng thanh niên lang thang chết bên
vệ đường, trước cư xá tôi ở. Đêm nghe tiếng tụng kinh phát ra từ băng cassette,
trông bóng đèn sáng một góc hè phố, tôi biết anh đã chết. Xác anh được đặt trên
chiếc ghế bố, một tấm chăn mỏng trùm từ đầu đến chân. Ngày tết, chẳng có ai bán
buôn, không tìm ra được nải chuối giằng bụng; một ai đó đã nảy ra sáng kiến giằng
bụng bằng một con dao nhỏ. Phía trên đầu anh, có một chén cơm trắng, một chiếc
hột vịt luộc. Nghĩa tử là nghĩa tận, chết là hết, không ai trách được anh điều
gì nữa. Hàng xóm nói anh nghiện ma túy, đã đau phổi lại thêm chứng đau gan. Chiều
30, trong khi mọi người tất bật chuẩn bị mua sắm, trang trí nhà cửa để đón tết
thì một mình anh vật vã với cơn đau trên cái nền xi măng lề đường. Anh đã sinh
ra, đã lớn lên, đã từng mơ ước và chắc chắn đã từng yêu. Nhưng rồi, một cú sốc
nào đó trong đời đã đưa anh tìm đến với ma túy và trượt dài trên con đường sầu
thảm ấy. Cuối cùng, anh ra đi.Người đi trên dương gian Thở hơi ấm (ư) từ ngàn năm. Đó là ca từ trong một
bài hát mà tôi đã thuộc từ mấy mươi năm trước. Bây giờ thì hơi ấm từ ngàn năm
đã thoát khỏi cái thân xác gầy guộc kia. Tôi cứ nhìn mãi hai ngón chân cái nhô
lên sau làn chăn mỏng, hai ngón chân tiêu biểu của hai bàn chân, cứ muốn bước tới,
bước tới. Cầu cho anh được tha thứ mọi lỗi lầm, được sống bình an trong cõi
phúc. Tôi cho rằng anh cũng như bao nhiêu con người khác qua đời đều xứng đáng
để được cầu chúc như vậy. Anh đã từng bị dè bỉu, khinh miệt, xa lánh. Nay anh
qua đời, đúng là một sự giải thoát, một hạnh phúc cuối cùng. Cuộc sống buồn và
đau quá. Ra đi là hơn, ra đi là hơn.Đệ tử lâu đời lâu kiếpNghiệp chướng nặng nềTham giận kiêu căngSi mê lầm lạcNgày nay nhờ PhậtBiết sự lỗi lầmThành tâm sám hối…Tiếng kinh cầu dịu dàng, tiếng chuông, tiếng mõ đưa hồn anh đi.Biên giới giữa sự sống và cái chết là hết sức mong manh, mong manh như sợi tơ
nhện, mong manh như làn khói. Những nhân vật trong các bộ tiểu thuyết võ hiệp của
Kim Dung đã chứng minh cho chúng ta thấy điều đó một cách cụ thể y như rằng họ
đang sống và đã chết giữa cuộc đời chúng ta vậy. Trương Thúy Sơn và Hân Tố Tố (Ỷ
thiên Đồ long ký) được gọi là một đôi ngọc nhân. Họ thương yêu nhau, sống thành
lứa đôi ở Băng Hỏa đảo mà không hề bị ràng buộc bởi các giáo điều của hệ tư tưởng
phong kiến. Họ tươi đẹp, thông mình, tài hoa, trinh bạch; hai con người như vậy
quả là thế gian hãn hữu. Họ có một người con trai, mới mười tuổi cũng đã rất
thông mình, tài hoa. Phía sau lưng Trương Thúy Sơn là phái Võ Đang; phía sau
Hân Tố Tố là Bạch Mi giáo. Đó là hai thế lực cực thịnh trong võ lâm Trung Quốc
thời Nguyên mạt. Một lứa đôi như vậy đáng lẽ phải được hưởng hạnh phúc lâu dài
đến đầu bạc răng long. Ấy vậy mà khi trở về núi Trung Nguyên, sum họp gia đình
chưa được một ngày, họ đã phải đối phó với những kẻ thù. Trương Thúy Sơn và Hân
Tố Tố đã tự chọn cái chết, tự xử lấy mình như một thứ tự do cuối cùng mà con
người có thể làm được.Trong tác phẩm Hiện sinh là một thuyết nhân bản (L‟Existentianisme
est un humanisme), tác giả Jean Paul Sartre đã từng đề cập tới một điều mà ông
gọi là trò ma thuật thể hiện ý chí, khát vọng về tự do cuối cùng của con người.
Ông định nghĩa trò ma thuật ấy là một giải pháp giúp con người hư vô hóa hoàn cảnh
khi con người không còn cách để chống chọi hoặc thoát ra khỏi hoàn cảnh ấy. Thí
dụ khi đứng trước một con cọp, người ta không thể đánh thắng con cọp hoặc bỏ chạy
khỏi móng vuốt của nó thì tốt hơn hết người ta nên ngất xỉu. Trò ma thuật ngất
xỉu giúp người ta quên đi hoàn cảnh đang đối mặt với con cọp. Ông gọi đó là tự
do cuối cùng của con người. Chúng ta đều hiểu trạng thái ngất xỉu có thể hư vô
hóa được hoàn cảnh đang đối mặt với con cọp nhưng hoàn toàn không giúp gì được
cho con người giải quyết được hoàn cảnh ấy. Nhưng dầu sao, ngất xỉu vẫn là một
giải pháp, giải pháp tình thế. Có còn hơn không!Trở lại với Hân Tố Tố. Khi thấy chồng đã tự sát, Hân Tố Tố vẫn rất bình tĩnh, nắm
tay con trai Trương Vô Kỵ, chỉ vào đám quần hùng ngồi quanh đó và dặn dò
con: “Hài tử, ngươi hãy nhớ rằng tất cả những kẻ có mặt ở đây là kẻ thù của
ngươi”. Đôi mắt trẻ thơ của Trương Vô Kỵ long lên, đầy vẻ oán độc. Dặn con
xong, Tố Tố mới tự sát, chết theo chồng. Có điều Tố Tố không ngờ là 10 năm sau,
Vô Kỵ lớn lên, chẳng những không trả thù như lời mẹ dặn mà còn rộng lòng tha thứ
cho tất cả những kẻ bức tử cha mẹ mình. Tự do cuối cùng của Trương Thúy Sơn và
Hân Tố Tố là tự sát; tự do cuối cùng cùng của Trương Vô Kỵ là tha thứ.Biên giới giữa sự sống và cái chết quả thật mong manh. Biên giới giữa quyền lực
và sự sụp đổ cũng mong manh không kém. Trong Tiếu ngạo giang hồ, thật khó
có một nhân vật thứ hai mà quyền lực có thể vượt qua nhân vật Nhạc Bất Quần. Nhạc
Bất Quần là chưởng môn phái Hoa Sơn, một trong Ngũ Nhạc kiếm phái. Bản thân
nhân vật này đã tinh thông kiếm pháp phái Hoa Sơn; lại học được kiếm pháp của bốn phái còn lại là Hằng Sơn, Hành Sơn, Thái Sơn và Tung Sơn; đoạt luôn cả Tịch
tà kiếm phổ của nhà họ Lâm ở Phúc Châu và luyện thành thứ kiếm pháp quỷ mị
này. Lão vươn lên làm chưởng môn của Ngũ Nhạc phái (bỏ chữ kiếm), võ công kiêm
toàn cả chính lẫn tà, có tham vọng cùng hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang chia ba
chân vạc. Quyền lực của lão cao đến vậy là cùng. Để an tâm khẳng định quyền lực,
lão phải tìm cách giết cho được đại đệ tử của mình là Lệnh Hồ Xung và người
tình của chàng trai này là Nhậm Doanh Doanh. Lão chụp được cả đôi tình nhân
vào trong lưới cá và chuẩn bị thực hiện động tác sau cùng: rút kiếm ra, phóng
vào mỗi người một kiếm là xong. Đúng lúc đó thì tiểu ni cô Nghi Lâm phái Hằng
Sơn xuất hiện. Cô gái này có tâm địa từ bi, suốt đời chưa biết làm đau một cành
cây, một cọng cỏ. Đối với cô, Lệnh Hồ Xung là bảo vật trên đời, bởi chàng trai
này đã xả thân cứu cô, bảo vệ sự trong trắng của cô. Cho nên, hễ ai đụng đến Lệnh
Hồ Xung là cô xả thân để cứu chàng. Như một quán tính, khi thấy Nhạc Bất Quần
phóng kiếm vào Lệnh Hồ Xung, tiểu ni cô từ bi Nghi Lâm cũng phóng kiếm vào người
Nhạc Bất Quần. Cô đã cứu được Lệnh Hồ Xung và Doanh Doanh. Nhạc Bất Quần chết,
giấc mộng quyền lực mà lão đeo đuổi trên 50 năm cũng sụp đổ hoàn toàn.Từ nhỏ tới lớn, tôi chỉ bị mẹ tôi đánh có một lần. Đó là lần tôi không bảo vệ
được em tôi, để em tôi bị một kẻ lớn hơn tát vào má một cái. Nhìn thấy dấu tay
trên má của em tôi, mẹ giận tôi quá, sẵn cái sàng gạo trên tay, mẹ cạch xuống đầu
tôi. Tôi bị đòn, khóc không phải vì đau mà vì xấu hổ đã không đủ sức để bảo vệ
em ruột của mình. Chuyện ấy xảy ra cách đây đã 38 năm nhưng mỗi khi nghĩ lại,
tôi vẫn cảm thấy có tội với mẹ tôi, có lỗi với em trai tôi. Sau này, đi làm
báo, tôi lại gặp thêm nhiều lần sống trong trạng thái đau đớn, xấu hổ nữa. Bạn
đọc ở xa, đọc trên mặt báo hoặc sách, thấy tôi viết được một số bài đấu tranh
cho công bằng xã hội, dám đụng đến một số người có quyền lực, dám bảo vệ cho
người nghèo, đã viết thư, gọi điện khen tôi là người dũng cảm. Một số anh em
trong giới cầm bút biết tôi đang dạy môn công tác phóng viên ở một trường chính
quy tại thành phố và một số khóa giảng ngắn ngày tại các tỉnh miền Tây, đã có
nhã ý xem tôi như là nhà báo có kinh nghiệm. Đông đảo bạn đọc yêu nhạc trên cả
nước thấy tôi xuất hiện trên đài VTV (Hà Nội), HTV (TP.HCM), CTTV (Cần Thơ),
BLTV (Bạc Liêu)… và các đài khác trên cả nước qua những chương trình riêng cứ
nghĩ rằng tôi là hạnh phúc lắm. Không phải vậy đâu! Tôi phải thường xuyên đối mặt
với những đau đớn, xấu hổ.Bạn không thể hình dung được tôi đã cảm thấy xấu hổ cực kỳ khi hứa với lòng
mình về chuyện một cháu gái mới 16 tuổi ở miền Tây rằng sẽ đưa vụ án cháu bị hiếp
dâm ra ánh sáng, rằng sẽ tố cáo đích danh kẻ đã hiếp cháu và những kẻ bao che,
ém nhẹm việc này nhưng cuối cùng đã không làm được. Bạn không thể hình dung được
đã nhiều lần tôi ngồi trước những viên chức từng ăn tiền để làm án oan cho những
người vô tội lương thiện, nói một cách hết sức nhã nhặn với họ để kiếm một số
thông tin mà tôi biết chắc rằng một nửa thông tin là điều dối trá. Bạn không
hình dung được rằng một thời tôi đã đứng lớp dạy văn, biết rằng tác phẩm đang dạy
dở ẹc mà miệng vẫn cứ phải bô bô khen hay. Những điều tôi không viết ra được
cũng nhiều như số tóc có trên đầu tôi. Mà một người cầm bút đang biết mình
đúng, mình trúng nhưng không viết ra được thì có gì đau đớn, xấu hổ bằng.Bạn thân mến! Xin bạn chớ nản lòng khi tôi đưa bạn đi từ cái chết của một thanh
niên lang thang đến số phận của Trương Thúy Sơn, Hân Tố Tố, Nhạc Bất Quần rồi
nói đến tâm trạng xấu hổ của mình khi chưa làm tròn chức năng của một nhà báo
trước bạn đọc. Bình chuyện nhân vật Kim Dung cái gì mà lạ vậy? Tôi mong được nhắc
lại câu chuyện Phong Thanh Dương dạy Lệnh Hồ Xung học kiếm (Tiếu ngạo giang hồ): “Người
đời thường sử dụng kiếm chiêu tức là thường quan tâm đến thước tấc, bộ vị, tư
thế khi phóng kiếm. Mà hễ có kiếm chiêu, tất có chỗ sơ hở, tức là có chỗ để cho
người khác phá chiêu. Như vật, để có thể khắc địch chế thắng, người sử kiếm
không sử kiếm chiêu mà chỉ nên sử dụng kiếm ý”. Lệnh Hồ Xung đã học kiếm pháp
các phái Hoa Sơn, Hằng Sơn, Tung Sơn, Thái Sơn, Hành Sơn; lại nhập tâm đao pháp
của Điền Bá Quang và các thủ pháp phá giải kiếm pháp Ngũ Nhạc kiếm phái của Ma
giáo. Phong Thanh Dương dạy Lệnh Hồ Xung đem tất cả các thứ chiêu thức tạp nhạp
đó nối liền thành một dây, chỗ nào miễn cưỡng quá không nối được thì vứt bỏ.
Sau khi nối thành một dây, Lệnh Hồ Xung phải quên sạch mọi thứ đã học. Đến bấy
giờ mới sử kiếm ý, ý niệm đi tới đâu, thế kiếm đi tới đó, liên miên bất tuyệt
như nước chảy mây trôi. Đó là một thứ kiếm pháp hoàn toàn đi ngược lại kiếm lý
phổ thông: có khi phóng vào khoảng không, có khi mềm oặt như mất hết khí lực,
có khi hung hiểm như con trường xà đột ngột chờ sẵn… Lệnh Hồ Xung sử kiếm ý đó
mà lòng sung sướng như điên. Hai chữ phá chiêu trở thành vô nghĩa. Tôi cũng học
cách của Lệnh Hồ Xung, ý nghĩ đi tới đâu, phóng ngòi bút tới đó. Vâng, tôi đang
sử bút ý.Kiều Phong - Khát vọng của tự doTrong 12 bộ võ hiệp tiểu thuyết của Kim Dung, tôi yêu nhất bộ Thiên Long
bát bộ. Trong những nhân vật của Thiên Long bát bộ, tôi yêu nhất nhân vật Tiêu
Phong (tức Kiều Phong), người anh hùng Khất Đan. Và trong cả chục ngàn nhân vật
do Kim Dung dựng lên, tôi chọn Kiều Phong như một biểu tượng của chủ nghĩa anh
hùng.Văn chương tiểu thuyết không phải là văn chương báo chí. Một tác phẩm tiểu thuyết
ra đời là nhằm gởi đến người đọc một thông điệp. Các thông điệp ấy đôi khi ẩn
tàng đâu đó trong tác phẩm đến nỗi một người đọc với thái độ lơ là của khách
qua đường không thể nhận ra nó. "Ý tại ngôn ngoại" luôn
luôn là một thực tế trong sáng tạo văn học. Tôi yêu tác phẩm Kim Dung vì yếu tố "ý
tại ngôn ngoại" phong phú. Tất cả tư duy của những nhân vật lớn trong
tác phẩm Kim Dung đều tập trung vào ba định đề: cuộc sống, tình yêu và cái chết.
Kiều Phong là một nhân vật lớn như vậy.Tác giả Kim Dung không vội vàng đẩy Kiều Phong ra đầu truyện. Không. Trong 13
chương đầu của Thiên Long bát bộ, ta chỉ gặp hình ảnh của một anh nho sinh trẻ
Đoàn Dự, vương tử nước Đại Lý, một tay dại gái si tình bị bắt cóc đưa từ Đại Lý
xuống Giang Nam. Phải đợi đến khi theo gót chân du tử của Đoàn Dự, ta mới bắt gặp
một "Hán tử thô hào, mặt vuông tai lớn", tuổi trạc 30, đôi mắt sắc
như dao, ngồi uống rượu chịu trên tửu lâu bên thành Vô Tích. Thoáng nhìn nhân vật
đó, Đoàn Dự đã nhận định: "Hán tử này nhất định là tráng sĩ của đất
Yên, Triệu. Miệt Giang Nam quyết không thể có được nhân vật như thế này".
Nhận định ban đầu của nho sinh trẻ thật chuẩn xác. Con người thô hào ấy chính
là Kiều Phong, bang chúa Cái bang.Kiều Phong đang độ tuổi 30, cái tuổi phát triển rực rỡ nhất của đời người; lại
làm Bang chúa cái bang, một bang hội lớn nhất võ lâm Trung Quốc. Với cương vị
đó, gã hán tử mặt vuông tai lớn phải hành động rất cẩn trọng, rất chín chắn vì
một quyết định, nhận định vội vàng của ông sẽ dẫn đến sai lầm, liên hệ đến mối
nguy vong của hàng triệu hào khách võ lâm Trung Nguyên. Ngay đến khi ra đòn
đánh nhau với kẻ địch, Kiều Phong cũng tính toán sao cho chỉ đánh một đòn mà khống
chế được ngay đối thủ. Phía trong con người thô hào ấy ẩn tàng một bộ óc thông
minh và những tính toán chuẩn xác.Người anh hùng Kiều Phong luôn luôn tự hào mình thuộc dòng dõi Hán tộc. Làm
bang chúa Cái bang, ông chỉ có một mơ ước: tiêu diệt quân xâm lăng Khất Đan mà
ông thường gọi bằng cái tên khinh bỉ "bọn Liêu cẩu", chống lại
quân Tây Hạ, giữ gìn hòa bình cho người Hán, bảo vệ sự trọn vẹn của võ lâm
Trung Hoa. Và chính niềm mơ ước đó đã trở thành bi kịch trong đời Kiều Phong. Một
nhóm đệ tử Cái bang, dưới sự chỉ huy của Thập phương tú tài Toàn Quan Thanh và
Ôn thị, vợ của phó bang chúa Mã Đại Nguyên (đã chết), nổi lên chống lại Kiều
Phong. Toàn Quan Thanh chống Kiều Phong chỉ để leo lên cái ghế quyền lực. Ôn thị
lại chống Kiều Phong chỉ để trả thù. Vốn mụ là phụ nữ lẳng lơ, lại bị chứng bạo
dâm. Mụ đã có chồng nhưng vẫn quan hệ tình dục với Đoàn Chính Thuần, em ruột
vua Đại Lý rồi với Bạch Thế Kính, Chấp pháp trưởng lão Cái bang. Trong một lần
đi dự Bách hoa đại hội, ai cũng dòm ngó đến tấm nhan sắc tuyệt đẹp của Ôn thị.
Duy chỉ có Kiều Phong nghĩ rằng Ôn thị là vợ của thuộc hạ mình, phải giữ lễ
nghi. Ông chỉ ngó sơ Ôn thị một cái rồi thôi. Thái độ hững hờ đó làm cho Ôn thị
nổi giận và thề sẽ trả thù. Mụ mượn tay tình nhân Bạch Thế Kính xuống tay giết
chồng mình, vu cáo Kiều Phong giết Mã Đại Nguyên vì Mã Đại Nguyên biết rõ Kiều
Phong không thuộc Hán tộc mà chính là người Khất Đan. Sự thật, Kiều Phong đúng
là người Khất Đan, nhưng câu chuyện ấy đã trôi qua 30 năm, chẳng ai muốn nhắc đến
nữa, bởi Kiều Phong đã được Hán hóa từ thể chất đến tinh thần. Ban đầu thì Kiều
Phong cho rằng đó chỉ là lời vu cáo thiếu bằng chứng. Nhưng khi nhân chứng
chính, nhà sư Trí Quan, xuất hiện và xác nhận, ông đành phải rời bỏ chức vụ
Bang chúa Cái bang ra đi và cảm thấy nhục nhã vì mình mang dòng máu Khất Đan.Cuộc sống đưa đẩy khiến ông làm quen và kết bạn với A Châu, một cô gái Hán nhân
dịu dàng. A Châu trở thành tình yêu, lẽ sống, người bạn tri âm của Kiều Phong.
Khi ra Nhạn Môn Quan xác định lại lai lịch của mình, Kiều Phong mới biết được
mình vốn họ Tiêu - Tiêu Phong, rằng mình đã từng chống lại tổ tiên, dân tộc
mình. Tuy nhiên, cái mặc cảm dòng máu Khất Đan thấp hèn và gian ác chưa phai
trong con người ông. A Châu đã khuyên ông: "Làm người Khất Đan thì có
gì là xấu xa? Làm người Hán thì có gì là cao quý? Người Khất Đan hay người Hán
thì vẫn có kẻ tốt, người xấu, đại gia buồn phiền làm chi". Chính lời nói
đó đã giúp Tiêu Phong nhận ra quan điểm dân tộc hẹp hòi của mình bấy lâu nay.
Và sự tiến bộ trong quan điểm dân tộc của Tiêu Phong chính là sự tiến bộ trong
quan điểm dân tộc của Kim Dung. Như ta biết, người Trung Hoa xưa vốn coi các
dân tộc khác là bốn rợ (tứ di). Cái nhìn của họ đối với các dân tộc Mông, Tạng,
Hồi, Khất Đan, Tây Hạ... rất khinh bỉ. Ngay chính trong Liên thành quyết,
Kim Dung cũng không giấu được cái nhìn khinh bỉ đó. Chỉ đến Thiên Long bát
bộ, ông mới xác nhận rằng người Khất Đan, Nữ Chân, Tây Hạ là những giống loài
bình đẳng như bao giống loài khác.Khát vọng tự do của Kiều Phong thể hiện rất rõ khi ông bàn với A Châu rằng làm
xong vài việc ở Trung Quốc, ông sẽ đưa nàng về Nhạn Môn Quan săn chồn đuổi thỏ,
sống đời ung dung khoái hoạt. Thế nhưng, một bi kịch khác xảy ra với đời ông
làm tiêu tan khát vọng ấy: ông lỡ xuống tay đánh chết A Châu, đánh chết tình
yêu và nguồn sống của chính mình.A Châu có một cô em cực kỳ gian ngoan ác độc là A Tử, đệ tử Tinh Tú lão quái
Đinh Xuân Thu. Trước khi nhắm mắt, A Châu đã nhờ ông chăm sóc, bảo vệ cho A Tử.
Thế là từ đó bên cạnh một Tiêu Phong thẳng thắn, anh hùng lại có thêm một A Tử
lưu manh, giảo hoạt; cả hai đi kèm nhau như bóng với hình. Cuộc đời thật lắm nỗi
hoạt kê! Đúng là Kiều Phong đã đưa A Tử về bên kia Nhạn Môn Quan săn chồn đuổi
thỏ và chữa bệnh cho cô. Ông kết bạn với Hoàn Nhan A Cốt Đả (sau này trở thành
Hoàng đế Đại Kim), trở thành người bạn của bộ lạc người Nữ Chân. Nhờ vào một sự
tình cờ, ông cứu được Gia Luật Hồng Cơ, hoàng đế Đại Liêu. Hồng Cơ thật sự hạnh
phúc khi khám phá được con người Khất Đan anh hùng lẫm liệt như Tiêu Phong. Ông
nhận Tiêu Phong làm em kết nghĩa và phong cho Tiêu Phong làm Nam viện đại
vương, cai quản toàn bộ binh lực Đại Liêu. Thế là từ một Hán tử thô hào, một
tên Liêu cẩu man rợ, Tiêu Phong thoắt trở thành nguyên soái, nắm trong tay sức
mạnh quân sự của một vương quốc khả dĩ đối địch với triều Tống. Hơn ai hết, A Tử
là người đầu tiên khuyên Tiêu Phong đưa quân qua Nhạn Môn Quan, làm cỏ hết bọn
Cái bang cùng bọn quần hào Trung Quốc. Tiêu Phong đã cảnh cáo A Tử về ý nghĩ
tàn bạo đó. Ông vẫn nhớ ơn người Trung Quốc, nơi ông đã lớn lên, được học hành,
trở thành con người. Và ông chủ trương không gây hấn với Trung Quốc, sống hòa bình cho trăm họ an cư lạc nghiệp. Ông nghiêm cấm thuộc hạ không được cướp bóc
tài vật, bắt người từ đất Trung Quốc đưa về.Nhưng Gia Luật Hồng Cơ thì không nghĩ vậy. Gia Luật Hồng Cơ tin rằng binh lực nước
Liêu đủ sức vượt qua Nhạn Môn Quan, đánh vào Lạc Dương để bắt sống tên hôn quân
Triệu Hú (Tống Triết Tông). Với ý nghĩ đó, Gia Luật Hồng Cơ ra lệnh cho Tiêu
Phong tiến đánh Trung Quốc. Nhận lệnh hành quân, Tiêu Phong quyết đoán thật
nhanh: không thể lấy nỗi đau của hai nước Tống - Liêu, không thể lấy sinh mạng
của hàng triệu quân sĩ để làm nấc thang hạnh phúc cho mình và thỏa mãn khát vọng
trả thù của Gia Luật Hồng Cơ. Vả chăng, ông là người khát vọng tự do, không hề
thiết tha tới quyền lực. Cách từ chối hay nhất là của Kiều Phong là treo ấn trả
lại cho Đại Liêu hoàng đế và cùng A Tử trốn đi. Mưu kế ấy bị Hồng Cơ khám phá
được và gài bẫy để bắt giam giữ Tiêu Phong. Nguồn tin Tiêu Phong bị bắt giữ vì
chống lệnh hành quân, mưu cầu hòa bình cho trăm họ khiến quần hùng Trung Quốc
nhận ra được bản chất thật thà, trung hậu, tốt đẹp của Tiêu Phong. Họ huy động
lực lượng Cái bang, cung Linh Thứu và nước Đại Lý vượt qua Nhạn Môn Quan để giải
thoát cho Tiêu Phong. Họ đưa ông về đến Nhạn Môn Quan thì cửa thành không mở vì
truy binh Khất Đan đã áp sát chân thành. Hư Trúc và Đoàn Dự bắt sống Gia Luật Hồng
Cơ trước trận và buộc Hồng Cơ chuộc mạng bằng một lời hứa vĩnh viễn không bao
giờ đưa quân Liêu xâm lăng Trung Quốc. Hồng Cơ đã long trọng hứa lời hứa danh dự
và nhận được lời hứa đó, Kiều Phong coi là một hạnh phúc. Ông sử dụng quyền tự
do cuối cùng của mình: tự tử trước Nhạn Môn Quan để tạ tội với Gia Luật Hồng
Cơ. Bầu trời bao la, đất đai vạn dặm nhưng Tiêu Phong không tìm ra được chỗ để
quay về. Về với Trung Quốc ư? Ông chỉ là một tên chó Liêu mọi rợ. Về với Liêu
Quốc ư? Ông chỉ là bề tôi bất trung, đã chống lệnh vua lại làm cho nhà vua mất
mặt trước ba quân. Về mặt tinh thần, A Châu chết rồi, tâm hồn ông không còn nơi
nương tựa nữa. Đoàn Dự có thể yêu một lúc năm, sáu người thiếu nữ nhưng Kiều
Phong chỉ yêu có mỗi một A Châu. Còn quyền lực, chức vụ, danh vọng không phải
là nơi nương tựa. Kiều Phong đi tìm tự do. Ông đành chọn giải pháp cuối cùng -
tự tử - để hoàn thành khát vọng tự do của chính mình. Ở chừng mực nào đó, cái
chết của Kiều Phong là biểu hiện chủ nghĩa hư vô cực đoan nhưng nếu ta đi cùng
với ông trong suốt Thiên Long bát bộ của Kim Dung thì ta mới thấy được
giải pháp đó là con đường tất yếu.A Tử đui mù đã giành bồng lấy Kiều Phong và cùng với ông rớt xuống vực sâu muôn
trượng. Mấy mươi năm trước, cha ông đã bồng mẹ ông nhảy xuống nơi ấy. Mấy mươi
năm sau, một cô bé gọi ông là tỷ phu (anh rể) bồng ông nhảy xuống. Sự trùng hợp
của lịch sử sao mà bi thương đến vậy! Tiêu Phong tức Kiều Phong là một nhân vật
sống nhất trong những nhân vật sống, là một nhân vật có vấn đề nhất trong những
nhân vật có vấn đề của Kim Dung. Có thể nói Kim Dung rất thành công khi xây dựng
nhân vật Tiêu Phong - người anh hùng Khất Đan trong sáng, tiêu biểu cho những
cái đẹp của con người. Và rõ ràng, Kim Dung nói với chúng ta rằng cái đẹp nhất
khó có thể tồn tại giữa đời lăng xăng bát nháo này. Cái đẹp nhất phải chết. Chỉ
còn lại trên đời cái tầm thường vớ vẩn, những loài cỏ đuôi chó, những điều
không đẹp mấy. Hoặc giả, giải quyết cho cái đẹp nhất chết đi cũng là một cách
hướng con người luôn nuôi khát vọng đi tìm cái đẹp?Khóc lên hỡi Nghi Lâm!Nghi Lâm là pháp danh một nhân vật nữ, một nữ ni cô nhỏ tuổi thuộc phái Hằng
Sơn trong tác phẩm Tiếu ngạo giang hồ của Kim Dung. Nhân vật ấy là biểu
tượng của những bi kịch cuộc đời và bởi vì cô quá trẻ, quá trong sáng cho nên
bi kịch ngày càng tăng thêm chất ngậm ngùi, đau đớn.Cho đến năm 18 tuổi, Nghi Lâm trở thành một nữ ni xinh đẹp nhất của phái Hằng
Sơn. Trong lớp áo nâu sồng của đời nữ ni, cô vẫn có một khuôn mặt trái xoan
sáng như trăng rằm, một đôi mắt xanh như nước hồ thu. Nghi Lâm chỉ biết cha
mình là một hòa thượng - Bất Giới đại sư; còn mẹ mình là ai thì điều đó cô
không hề biết. Thật sự, mẹ cô vẫn hằng ngày sống bên cạnh cô. Giận cha cô khen
một người khác xinh đẹp, mẹ cô lặng lẽ bỏ đi, vào chùa Hằng Sơn làm một Á bà bà
(bà già câm điếc), chuyên lau tượng quét chùa. Bà vẫn theo dõi những bước tiến
của Nghi Lâm trên con đường phật học cũng như đời sống nhưng bà không hề mở miệng
nói với Nghi Lâm một lời.Nghi Lâm lớn lên trong chùa Hằng Sơn, thuộc làu kinh điển, học được một chút kiếm
pháp. Trong lòng cô chỉ biết có Đức Bồ Tát và các thanh quy giới luật nhà Phật.
Lớn lên đến 18 tuổi, cô chưa hề gặp một người đàn ông ngoài cha cô; chưa biết
mùi phấn son, chưa nhìn thấy màu áo đẹp; chưa có một nụ cười... Cả tai họa và hạnh
phúc đến với cô nữ ni xinh đẹp ấy trong một lần cô xuống núi Hằng Sơn, cùng sư
phụ và các bạn đồng môn đi dự lễ rửa tay gác kiếm của Lưu Chính Phong phái Hành
Sơn. Sau một lần trượt chân vì đường trơn, Nghi Lâm dừng lại bên suối rửa tay.
Cô đã bị tên dâm tặc Điền Bá Quang bắt giữ và đưa vào hang động định giở trò cưỡng
bức. Không nỡ để cho một nữ ni trong sáng như ngọc bị phá hoại danh tiết, tác
giả Kim Dung đã để cho Lệnh Hồ Xung, đại sư huynh của phái Hoa Sơn, xuất hiện cứu
Nghi Lâm.Kiếm pháp của Lệnh Hồ Xung hoàn toàn không địch nổi phép khoái đao của Điền Bá
Quang. Lệnh Hồ Xung bị đâm cả một chục vết thương, người không còn một chút huyết
sắc. Nhưng vốn là người mau chân lẹ miệng, hắn đã đánh võ miệng với Điền Bá
Quang và cuối cùng đạt được chiến thắng, buộc Điền Bá Quang nhục nhã bỏ đi; Lệnh
Hồ Xung bị bọn La Nhân Kiệt phái Thanh Thành đâm một nhát kiếm chí mạng. Nghi
Lâm lạc mất Lệnh Hồ Xung từ đó. Để cứu Nghi Lâm, Lệnh Hồ Xung đã đặt chuyện nói
những điều vu khoát: gặp ni cô là xúi quẩy, đánh bạc tất phải thua, uống rượu
cũng chẳng thú vị gì. Cô bé nhẹ dạ vốn tin những điều vớ vẩn đó nhưng tự thâm
tâm, cô đã mơ hồ nhân ra một điều: trên đời này người mà cô mong gặp nhất vẫn
là gã lãng tử Lệnh Hồ Xung của phái Hoa Sơn. Cô mắc nợ anh một món ơn cứu tử và
giá như cô có thể chết đi để Lệnh Hồ Xung sống sót trở về, cô cũng sẵn sàng xả
thân. Cho nên khi Khúc Phi Yên báo tin Lệnh Hồ Xung còn sống và đưa Nghi Lâm
vào động điếm dưới núi Hành Sơn thì cô nữ ni trong như ngọc đã sẵn sàng vứt bỏ
mọi thứ môn quy, cùng đi với Khúc Phi Yên. Cuộc sống oái oăm đã đưa cô nữ ni dấn
thân vào động điếm, nằm trên chiếc giường xa hoa tráng lệ mà khách làng chơi vẫn
hay đến nằm với các cô kỹ nữ. Nhưng cũng chính vì vậy mà Nghi Lâm đã cứu được
ân nhân Lệnh Hồ Xung, cõng anh ra giữa vùng hoang sơn dã lĩnh không có một vết
chân người, chăm sóc cho anh chữa lành vết thương.Qua câu chuyện Lệnh Hồ Xung, Nghi Lâm biết rằng anh đang quyến luyến cô tiểu sư
muội Nhạc Linh San. Thế nhưng, trong tâm hồn cô nữ ni 18 tuổi này đã nảy sinh một
rình cảm mới lạ, vừa có vẻ tội lỗi với Đức Bồ Tát, lại vừa gây cho cô những xúc
cảm dịu dàng. Nghi Lâm hoảng sợ trước tình cảm mới lạ ấy. Trong đêm sao sáng,
nhìn những ánh sao băng, cô cởi dải áo ra và cột lại dải áo để mong hoàn thành
ước nguyện để rồi sợ hãi ngay chính lời ước nguyện của mình. Trọn đời Nghi Lâm
chưa hề ăn cắp của ai một vật gì. Thế nhưng, vì tính mạng của Lệnh Hồ Xung, cô
đã hai lần đi ăn cắp dưa và mỗi lần như vậy, trong cô lại nổi lên trận bão lòng
dữ dội. Cô biết rằng vì Lệnh Hồ Xung, cô có thể làm tất cả mọi sự trên đời.
Vâng, cô đã yêu chàng Lệnh Hồ Xung, một tình yêu ban đầu nồng nàn đau đớn, một
tình yêu không nói được lên lời vì lời khấn trọn đời hiến dâng cho đường tu, một
tình yêu vô vọng vì Lệnh Hồ Xung đã có Nhạc Linh San. Họ đã xa nhau từ đó, Nghi
Lâm trở về Hằng Sơn, ngày đêm tụng kinh niệm Phật, mong sao Phật pháp có thể
hóa giải được ma chướng trong lòng mình. Nhưng càng tu niệm, thể xác cô càng võ
vàng.Bất Giới hòa thượng nhận ra tấm lòng đau khổ của con gái. Ông buộc Điền Bá
Quang bằng mọi cách phải lên núi Hoa Sơn bắt cho được Lệnh Hồ Xung về thành hôn
với Nghi Lâm. Điền Bá Quang không làm được điều ấy, ông đích thân ra đi, cũng
không được nốt.Lệnh Hồ Xung bị Nhạc Linh San phụ bạc, bỏ đi lưu lạc giang hồ. Trong ngõ Lục
Trúc thành Lạc Dương, anh tình cờ kể cho Nhậm Doanh Doanh nghe về mối tình si của
mình và những đau thương oan ức mà anh phải gánh chịu vì những hẹp hòi, ích kỷ.
Nhậm Doanh Doanh chính là Thánh cô của Triệu dương thần giáo. Cô nhận ra nơi
chàng trai một tình yêu mãnh liệt. Và cô si tình chàng trai Lệnh Hồ Xung dưới mắt
cô, một chàng trai không chung tình với quá khứ thì cũng chẳng có thể chung
tình với tương lai. Họ trở thành đôi bạn bôn tẩu giang hồ, thương yêu say đắm
và trao cho nhau những lời hẹn thề kết tóc se tơ.Ở một nơi lặng lẽ trong chùa Hằng Sơn, Nghi Lâm nhận được những thông tin đó.
Nàng thường dắt tay Á bà bà dẫn ra chỗ kín đáo của Hằng Sơn biệt viện tâm sự;
và, mỗi lần như thế, nàng thường gọi khẽ tên Lệnh Hồ Xung. Nàng chẳng hay đâu Á
bà bà là mẹ ruột của mình. Lệnh Hồ Xung trở về Hằng Sơn và nhận trách nhiệm làm
chưởng môn phái Hằng Sơn. Nghi Lâm trở thành đệ tử của anh. Anh lấy làm lạ vì
cô thường ít nhìn mặt anh, thường tỏ ra lạnh nhạt khi anh hỏi han đến. Anh có
biết đâu trong cái vỏ lạnh lùng kia là cả một trời yêu say đắm; mà tiếng kinh cầu
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn cho anh ngày xưa do Nghi Lâm niệm lên cầu
nguyện cho anh thoát qua những cơn nguy hiểm chính là biểu hiện của tình yêu ấy.
Anh nhận ra vẻ tiều tụy võ vàng của tiểu sư muội Nghi Lâm. Nhưng trước Nghi Lâm
anh có Nhạc Linh San; sau Nhạc Linh San anh có Nhậm Doanh Doanh. Anh chỉ xem
Nghi Lâm như người bạn, người em nhỏ bé mà anh phải có bổn phận bảo vệ, che chở,
dạy dỗ. Nhưng chẳng có nghĩa gì khi tình yêu không nói được thành lời.Tác giả Kim Dung đã tạo cơ hội cho Lệnh Hồ Xung nghe được tiếng lòng trung thực
của Nghi Lâm. Một lần, anh hóa trang thành Á bà bà và Nghi Lâm đến nắm tay anh,
kéo anh đi lên Hằng Sơn biệt viện. Nơi đây, cô nhắc lại những hình bóng cũ, những
kỉ niệm xưa giữa cô và Lệnh Hồ Xung cho "Á bà bà" nghe và cuối cùng,
cô gọi khẽ tên anh. Mối tình câm của cô tiểu sư muội khiến Lệnh Hồ Xung choáng
váng, vừa thương cảm, vừa hổ thẹn. Trong đêm thanh vắng, anh nhận ra tất cả sự
thật; lòng đau thương vì thấy Nghi Lâm võ vàng, tiều tụy trong mối tình si hoàn
toàn không có đoạn kết. Nghi Lâm đi đâu, về đâu?Trong khúc cuối của Tiếu ngạo giang hồ, chính tác giả Kim Dung cũng chẳng
dám nói đến kết thúc của mối tình si ấy. Ông bỏ lửng số phận của Nghi Lâm, giả
vờ như không biết đến nữa khi để cho Lệnh Hồ Xung và Nhậm Doanh Doanh cưới
nhau, cùng hợp tấu cầm - tiêu khúc nhạc Tiếu ngạo giang hồ. Tiểu sư muội
Nghi Lâm với mối tình đơn phương rạt rào như sóng Trường Giang chẳng được ai nhắc
đến nữa. Nhưng tôi biết những giọt nước mắt lặng lẽ ấy của người ni cô thánh
thiện đêm đêm vẫn rơi trên gối trong căn phòng nhỏ của chùa Hằng Sơn. Ôi, giá
như Nghi Lâm bé bỏng được nắm tay Lệnh Hồ Xung một lần để bày tỏ tình yêu của
mình vì lòng kính sợ Đức Bồ Tát đã không cho phép cô được nói gì với anh; giá
như cô được nói với anh một lời chia tay, một câu chúc hạnh phúc thì tâm hồn cô
đã khá hơn một chút. Đằng này, suốt đời cô mang nặng mối tình câm và tàn úa
dung nhan xuân thì lặng lẽ trong chùa Hằng Sơn!Khi xây dựng nhân vật Nghi Lâm, Kim Dung đã xây dựng một nhân vật bi kịch ấy nằm
ngay trong tuổi trẻ, tuổi mới biết yêu. Ông có bất công khi đem toàn bộ bi kịch
trút lên đôi vai bé nhỏ và tâm hồn trong sáng của Nghi Lâm tiểu sư muội? Có đấy.
Có người cho Nghi Lâm là vang bóng của Hạ Mộng, một mối tình u uẩn trong đời
Kim Dung. Điều đó chỉ đơn giản là một suy luận. Tôi chỉ mong một điều: nếu có
những Nghi Lâm đích thực trên đời thì hãy đẻ cho họ được khóc lên, khóc to một
lần. Hạnh phúc ở một chừng mực nào đó, nằm trong tiếng khóc, trong giọt nước mắt
tuôn rơi.VI Tiểu Bảo Ở Đâu?“Cắn nhầm lưỡi” là chuyên mục tương đối mới trên tờ Tuổi trẻ Cười. Mấy
anh nghịch ngợm trong tòa soạn thấy tôi ham giỡn, giao chuyên mục này cho tôi,
rồi buộc tôi “cắn” lung tung mặc dù tôi chưa hề được cắn lưỡi ai. Cái đó kêu rằng
vì nhân dân mà cắn (?). Nay tôi xin “cắn” anh chàng Vi Tiểu Bảo, một nhân vật
hài hước, ngộ nghĩnh, dễ thương trong Lộc Đỉnh ký của Kim Dung. Cái
này kêu rằng “cắn” đỡ buồn, mua vui cho bạn đọc, như mình cắn hạt dưa vậy.Vi Tiểu Bảo sinh ra trong viện Lệ Xuân, một động điếm ở thành Dương Châu, Trung
Hoa, vào cuối đời Thuận Trị, đầu đời Khang Hy nhà Thanh. Mẹ của Vi Tiểu Bảo -
Bà Vi Xuân Phương - bang giao rộng rãi trên mức tình cảm với anh em Hán, Mông,
Mãn, Tạng, Hồi; chẳng thèm nhớ rõ bố thằng bé là ai, đành lấy họ mẹ làm họ cho
con. Vi Tiểu Bảo không học nên không biết chữ. Khả năng văn hóa của ngài là nhận
ra chữ nhất (一, 1 nét), chữ nhị (二, 2 nét), chữ tam (三, 3 nét), chữ tứ (四) và chữ thập (十, 1 nét ngang, 1 nét sổ). Ngài có các
sở trường: Chửi tục lưu loát, hát thuộc lòng bài Thập bát mô “Một ta sờ…
Hai ta sờ… Ba ta sờ… Sờ đúng cái đùi của nàng” và nhớ được một mớ tuồng
tích, cố sự trong Anh liệt truyện.
Cuộc sống chộn rộn, ngài theo tráng sĩ Mao Thập Bát trốn lên
Bắc Kinh, lọt được vào cung nhà Thanh. Nơi đây, ngài giết thái giám Tiểu Quế Tử,
hóa thành tên thái giám giả hiệu. Ngài trốn vào trù phòng ăn vụng, tình cờ làm
quen và kết bạn với Khang Hy (hơn ngài 2 tuổi). Lúc lên 15 tuổi, ngài tằng tịu
với em gái nhà vua là công chúa Kiến Ninh, dám chửi nàng là "con đượi
non”, chửi thái hậu (giả) là “mụ điếm già”. Trên cơ sở những kiến thức lưu
manh đắc thủ tại thành Dương Châu cộng với những kiến thức tu nghiệp được về
ngành trá học trong hoàng cung, ngài xứng đáng là nhân vật đệ nhất trá ngụy. Nhờ
ném tàn hương, giết được quyền thần Ngao Bái, Ngài được nhà vua phong phó đô thống
hoàng kỳ, tước hiệu Ba Đồ Lỗ (Baturu, Dũng sĩ!). Cơ duyên đưa đẩy, ngài may mắn
gặp tổng đà chủ Thiên Địa hội Trần Cận Nam, được ông thu nhận làm đệ tử và
phong chức hương chủ Thanh Mộc Đường. Đây là một tổ chức chống nhà Thanh, khôi
phục nhà Minh. Vi Tiểu Bảo trở thành gián điệp hai mang hết sức suất sắc, phục
vụ cho cả Thanh triều và Thiên Địa hội.
Vua Khang Hy đã nhìn thấy chiều sâu văn hóa của Vi Tiểu Bảo:
không bao giờ nói đúng bốn chữ Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang; không bao giờ nhớ được
câu thành ngữ “thủ khẩu như bình”. Tuy nhiên, vừa ghét bọn quan lại cầu an
xôi thịt, vừa mến thằng bé ngộ nghĩnh, miệng trơn như bôi mỡ; nhà vua lần lượt
phong cho ngài các chức chánh đô thống hoàng kỳ, tổng quản thái giám, Khâm sai
đại thần công cán Vân Nam, Tứ hôn sứ, Phó trụ trì chùa Thiếu Lâm (tỉnh Hồ Nam),
Chánh trụ trì chùa Thanh Lương (Ngũ Đài Sơn), Khâm sai xây dựng Trung liệt từ
Dương Châu, Tư lệnh mặt trận thủy chiến đánh Thần Long giáo, Lộc Đỉnh công, Tư
lệnh mặt trận đánh quân La Sát (người Nga) ở biên giới Trung - Nga, Đại sứ đặc
nhiệm toàn quyền đàm phán Trung - Nga. Đảm nhiệm những chức vụ cao cả đó, ngài
hoàn thành một số công việc, có khi nghiêm chỉnh, có khi tào lao: ép buộc Ngô
Tam Quế tạo phản, cứu mạng được nhiều anh hùng Thiên Địa hội, bắt phò mã Ngô Ứng
Hùng, gia nhập Thần Long giáo, ngủ được với bảy phụ nữ Trung Hoa và một phụ nữ Nga,
bảo vệ sinh mạng cựu hoàng Thuận Trị, khám phá âm mưu nằm vùng của thái hậu giả
thuộc Thần Long giáo, bình trị những âm mưu tạo phản của Mông Cổ và Tây Tạng, bắt
được cẩu quan Ngô Chi Vinh, hòa giải mối xung đột Trung - Nga, đánh Trịnh Khắc
Sảng - lãnh đạo của thầy mình… Công lao của Vi Tiểu Bảo lớn hơn công lao của bất
cứ vị cố mệnh đại thần Mãn Châu.
Nghệ thuật làm quan của Vi Tiểu Bảo rất đơn giản: chửi tục
luôn mồm, dùng tiền mua chuộc lòng trung thành của kẻ dưới, tặng quà hậu hỷ cho
đồng liêu và sẵn sàng đòi kẻ khác đưa tiền. Qua thăm Ngô Tam Quế, ngài nói một
câu kiếm được ba trăm lạng vàng. Trịnh Khắc Sảng dám yêu A Kha của ngài; ngài bắt
đánh cho một trận, bắt lấy máu viết lên vải văn tự thiếu một trăm vạn lạng
vàng. Ngài là nhân vật đầu tiên dùng nữ vệ sĩ; là nhà sư (giả) làm phó trụ trì
một chùa danh tiếng mà dám đánh bạc, chọc gái; là viên tướng duy nhất đi tiểu
và bảo quân thụt nước đó vào thành trì của người Nga.
Tuy ngài không biết chữ nhưng vẫn nói khoác đọc được văn tự cổ
nòng nọc, ấm ớ một vài từ tiếng Nga như “Tử man cơ” là giết chết
đi, “Phục đặc gia tửu” là rượu Vodka, “Hà thư nhi khắc” là
món thịt nướng, nhưng vẫn tự hào là mình tinh thông tiếng Nga (?). Khi đại sứ
Nga sang Bắc Kinh trình quốc thư, ngài nhận nhiệm vụ phiên dịch. Đại sứ đọc,
ngài dịch lưu loát: “Văn thành võ đức, nhân nghĩa anh minh, thương sinh trạch
bị, thọ dữ thiên tề…”. Hóa ra đó là những câu nịnh bợ của Thần Long giáo mà
ngài lỡ thuộc, không dính dáng gì tới quốc thư của Sa Hoàng. Thế nhưng vua
Khang Hy vẫn mặt rồng hớn hở, cười nói mê ly! Bọn quan lại triều Thanh bái phục
Vi đại soái không biết đâu mà kể!
Cuối cùng, dù có đùa giỡn đến mấy, Kim Dung cũng phải cho
nhân vật Vi Tiểu Bảo của mình trốn ra đi cùng bảy mụ vợ hương trời sắc nước Tô
Thuyên, A Kha, Mộc Kiếm Bình, Phương Di, Tăng Nhu, Song Nhi và Kiến Ninh công
chúa. Trước đây, họ đã về Dương Châu, bà Vi Xuân Phương nhìn đàn dâu tươi tốt,
thầm khen con tinh đời; nếu gã lập nên một viện thì toàn thể các viện ở Dương
Châu sẽ sụp tiệm. Nay, chắc Vi Tiểu Bảo không dám về Dương Châu vì sợ vua Khang
Hy truy nã. Ngay đến trùm cười Kim Dung cũng chẳng biết nhân vật của mình trốn
đi đâu. Viết truyện cười như vậy quả thế gian đệ nhất, bọn hậu sinh ở Tuổi trẻ
Cười xin ngả nón kính chào cụ. Ba trăm năm đã trôi qua, tất nhiên cũng chẳng nắm
rõ hậu duệ của Vi Tiểu Bảo. Thế nhưng, ở đâu có bia ôm, động điếm; ở đâu có
tham nhũng, có dùng tiền để mua chuộc kẻ dưới; ở đâu có chửi tục “con mẹ
nó, tổ bà mười tám đời quân rùa đen, phường chó đẻ”; ở đâu có nịnh bợ; ở đâu có
kẻ thú nhận “chữ nghĩa biết ta nhưng ta chẳng biết nó” thì ở đó có
tinh thần Vi Tiểu Bảo được lưu truyền.
Cuộc sống chộn rộn, ngài theo tráng sĩ Mao Thập Bát trốn lên Bắc Kinh, lọt được
vào cung nhà Thanh. Nơi đây, ngài giết thái giám Tiểu Quế Tử, hóa thành tên
thái giám giả hiệu. Ngài trốn vào trù phòng ăn vụng, tình cờ làm quen và kết bạn
với Khang Hy (hơn ngài 2 tuổi). Lúc lên 15 tuổi, ngài tằng tịu với em gái nhà
vua là công chúa Kiến Ninh, dám chửi nàng là "con đượi non”, chửi
thái hậu (giả) là “mụ điếm già”. Trên cơ sở những kiến thức lưu manh đắc
thủ tại thành Dương Châu cộng với những kiến thức tu nghiệp được về ngành trá học
trong hoàng cung, ngài xứng đáng là nhân vật đệ nhất trá ngụy. Nhờ ném tàn
hương, giết được quyền thần Ngao Bái, Ngài được nhà vua phong phó đô thống
hoàng kỳ, tước hiệu Ba Đồ Lỗ (Baturu, Dũng sĩ!). Cơ duyên đưa đẩy, ngài may mắn
gặp tổng đà chủ Thiên Địa hội Trần Cận Nam, được ông thu nhận làm đệ tử và
phong chức hương chủ Thanh Mộc Đường. Đây là một tổ chức chống nhà Thanh, khôi
phục nhà Minh. Vi Tiểu Bảo trở thành gián điệp hai mang hết sức suất sắc, phục
vụ cho cả Thanh triều và Thiên Địa hội.Vua Khang Hy đã nhìn thấy chiều sâu văn hóa của Vi Tiểu Bảo: không bao giờ nói
đúng bốn chữ Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang; không bao giờ nhớ được câu thành ngữ “thủ
khẩu như bình”. Tuy nhiên, vừa ghét bọn quan lại cầu an xôi thịt, vừa mến thằng
bé ngộ nghĩnh, miệng trơn như bôi mỡ; nhà vua lần lượt phong cho ngài các chức
chánh đô thống hoàng kỳ, tổng quản thái giám, Khâm sai đại thần công cán Vân
Nam, Tứ hôn sứ, Phó trụ trì chùa Thiếu Lâm (tỉnh Hồ Nam), Chánh trụ trì chùa
Thanh Lương (Ngũ Đài Sơn), Khâm sai xây dựng Trung liệt từ Dương Châu, Tư lệnh
mặt trận thủy chiến đánh Thần Long giáo, Lộc Đỉnh công, Tư lệnh mặt trận đánh
quân La Sát (người Nga) ở biên giới Trung - Nga, Đại sứ đặc nhiệm toàn quyền
đàm phán Trung - Nga. Đảm nhiệm những chức vụ cao cả đó, ngài hoàn thành một số
công việc, có khi nghiêm chỉnh, có khi tào lao: ép buộc Ngô Tam Quế tạo phản, cứu
mạng được nhiều anh hùng Thiên Địa hội, bắt phò mã Ngô Ứng Hùng, gia nhập Thần
Long giáo, ngủ được với bảy phụ nữ Trung Hoa và một phụ nữ Nga, bảo vệ sinh mạng
cựu hoàng Thuận Trị, khám phá âm mưu nằm vùng của thái hậu giả thuộc Thần Long
giáo, bình trị những âm mưu tạo phản của Mông Cổ và Tây Tạng, bắt được cẩu quan
Ngô Chi Vinh, hòa giải mối xung đột Trung - Nga, đánh Trịnh Khắc Sảng - lãnh đạo
của thầy mình… Công lao của Vi Tiểu Bảo lớn hơn công lao của bất cứ vị cố mệnh
đại thần Mãn Châu.Nghệ thuật làm quan của Vi Tiểu Bảo rất đơn giản: chửi tục luôn mồm, dùng tiền
mua chuộc lòng trung thành của kẻ dưới, tặng quà hậu hỷ cho đồng liêu và sẵn
sàng đòi kẻ khác đưa tiền. Qua thăm Ngô Tam Quế, ngài nói một câu kiếm được ba
trăm lạng vàng. Trịnh Khắc Sảng dám yêu A Kha của ngài; ngài bắt đánh cho một
trận, bắt lấy máu viết lên vải văn tự thiếu một trăm vạn lạng vàng. Ngài là
nhân vật đầu tiên dùng nữ vệ sĩ; là nhà sư (giả) làm phó trụ trì một chùa danh
tiếng mà dám đánh bạc, chọc gái; là viên tướng duy nhất đi tiểu và bảo quân thụt
nước đó vào thành trì của người Nga.Tuy ngài không biết chữ nhưng vẫn nói khoác đọc được văn tự cổ nòng nọc, ấm ớ một
vài từ tiếng Nga như “Tử man cơ” là giết chết đi, “Phục đặc gia
tửu” là rượu Vodka, “Hà thư nhi khắc” là món thịt nướng, nhưng vẫn
tự hào là mình tinh thông tiếng Nga (?). Khi đại sứ Nga sang Bắc Kinh trình quốc
thư, ngài nhận nhiệm vụ phiên dịch. Đại sứ đọc, ngài dịch lưu loát: “Văn
thành võ đức, nhân nghĩa anh minh, thương sinh trạch bị, thọ dữ thiên tề…”. Hóa ra đó là những câu nịnh bợ của Thần Long giáo mà ngài lỡ thuộc, không dính dáng
gì tới quốc thư của Sa Hoàng. Thế nhưng vua Khang Hy vẫn mặt rồng hớn hở, cười
nói mê ly! Bọn quan lại triều Thanh bái phục Vi đại soái không biết đâu mà kể!Cuối cùng, dù có đùa giỡn đến mấy, Kim Dung cũng phải cho nhân vật Vi Tiểu Bảo
của mình trốn ra đi cùng bảy mụ vợ hương trời sắc nước Tô Thuyên, A Kha, Mộc Kiếm
Bình, Phương Di, Tăng Nhu, Song Nhi và Kiến Ninh công chúa. Trước đây, họ đã về
Dương Châu, bà Vi Xuân Phương nhìn đàn dâu tươi tốt, thầm khen con tinh đời; nếu
gã lập nên một viện thì toàn thể các viện ở Dương Châu sẽ sụp tiệm. Nay, chắc
Vi Tiểu Bảo không dám về Dương Châu vì sợ vua Khang Hy truy nã. Ngay đến trùm
cười Kim Dung cũng chẳng biết nhân vật của mình trốn đi đâu. Viết truyện cười
như vậy quả thế gian đệ nhất, bọn hậu sinh ở Tuổi trẻ Cười xin ngả nón kính
chào cụ. Ba trăm năm đã trôi qua, tất nhiên cũng chẳng nắm rõ hậu duệ của Vi Tiểu
Bảo. Thế nhưng, ở đâu có bia ôm, động điếm; ở đâu có tham nhũng, có dùng tiền để
mua chuộc kẻ dưới; ở đâu có chửi tục “con mẹ nó, tổ bà mười tám đời quân
rùa đen, phường chó đẻ”; ở đâu có nịnh bợ; ở đâu có kẻ thú nhận “chữ nghĩa
biết ta nhưng ta chẳng biết nó” thì ở đó có tinh thần Vi Tiểu Bảo được lưu
truyền.Cuộc sống chộn rộn, ngài theo tráng sĩ Mao Thập Bát trốn lên Bắc Kinh, lọt được
vào cung nhà Thanh. Nơi đây, ngài giết thái giám Tiểu Quế Tử, hóa thành tên
thái giám giả hiệu. Ngài trốn vào trù phòng ăn vụng, tình cờ làm quen và kết bạn
với Khang Hy (hơn ngài 2 tuổi). Lúc lên 15 tuổi, ngài tằng tịu với em gái nhà
vua là công chúa Kiến Ninh, dám chửi nàng là "con đượi non”, chửi
thái hậu (giả) là “mụ điếm già”. Trên cơ sở những kiến thức lưu manh đắc
thủ tại thành Dương Châu cộng với những kiến thức tu nghiệp được về ngành trá học
trong hoàng cung, ngài xứng đáng là nhân vật đệ nhất trá ngụy. Nhờ ném tàn
hương, giết được quyền thần Ngao Bái, Ngài được nhà vua phong phó đô thống
hoàng kỳ, tước hiệu Ba Đồ Lỗ (Baturu, Dũng sĩ!). Cơ duyên đưa đẩy, ngài may mắn
gặp tổng đà chủ Thiên Địa hội Trần Cận Nam, được ông thu nhận làm đệ tử và
phong chức hương chủ Thanh Mộc Đường. Đây là một tổ chức chống nhà Thanh, khôi
phục nhà Minh. Vi Tiểu Bảo trở thành gián điệp hai mang hết sức suất sắc, phục
vụ cho cả Thanh triều và Thiên Địa hội.Vua Khang Hy đã nhìn thấy chiều sâu văn hóa của Vi Tiểu Bảo: không bao giờ nói
đúng bốn chữ Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang; không bao giờ nhớ được câu thành ngữ “thủ
khẩu như bình”. Tuy nhiên, vừa ghét bọn quan lại cầu an xôi thịt, vừa mến thằng
bé ngộ nghĩnh, miệng trơn như bôi mỡ; nhà vua lần lượt phong cho ngài các chức
chánh đô thống hoàng kỳ, tổng quản thái giám, Khâm sai đại thần công cán Vân
Nam, Tứ hôn sứ, Phó trụ trì chùa Thiếu Lâm (tỉnh Hồ Nam), Chánh trụ trì chùa
Thanh Lương (Ngũ Đài Sơn), Khâm sai xây dựng Trung liệt từ Dương Châu, Tư lệnh
mặt trận thủy chiến đánh Thần Long giáo, Lộc Đỉnh công, Tư lệnh mặt trận đánh
quân La Sát (người Nga) ở biên giới Trung - Nga, Đại sứ đặc nhiệm toàn quyền
đàm phán Trung - Nga. Đảm nhiệm những chức vụ cao cả đó, ngài hoàn thành một số
công việc, có khi nghiêm chỉnh, có khi tào lao: ép buộc Ngô Tam Quế tạo phản, cứu
mạng được nhiều anh hùng Thiên Địa hội, bắt phò mã Ngô Ứng Hùng, gia nhập Thần
Long giáo, ngủ được với bảy phụ nữ Trung Hoa và một phụ nữ Nga, bảo vệ sinh mạng
cựu hoàng Thuận Trị, khám phá âm mưu nằm vùng của thái hậu giả thuộc Thần Long
giáo, bình trị những âm mưu tạo phản của Mông Cổ và Tây Tạng, bắt được cẩu quan
Ngô Chi Vinh, hòa giải mối xung đột Trung - Nga, đánh Trịnh Khắc Sảng - lãnh đạo
của thầy mình… Công lao của Vi Tiểu Bảo lớn hơn công lao của bất cứ vị cố mệnh
đại thần Mãn Châu.Nghệ thuật làm quan của Vi Tiểu Bảo rất đơn giản: chửi tục luôn mồm, dùng tiền
mua chuộc lòng trung thành của kẻ dưới, tặng quà hậu hỷ cho đồng liêu và sẵn
sàng đòi kẻ khác đưa tiền. Qua thăm Ngô Tam Quế, ngài nói một câu kiếm được ba
trăm lạng vàng. Trịnh Khắc Sảng dám yêu A Kha của ngài; ngài bắt đánh cho một
trận, bắt lấy máu viết lên vải văn tự thiếu một trăm vạn lạng vàng. Ngài là
nhân vật đầu tiên dùng nữ vệ sĩ; là nhà sư (giả) làm phó trụ trì một chùa danh
tiếng mà dám đánh bạc, chọc gái; là viên tướng duy nhất đi tiểu và bảo quân thụt
nước đó vào thành trì của người Nga.Tuy ngài không biết chữ nhưng vẫn nói khoác đọc được văn tự cổ nòng nọc, ấm ớ một
vài từ tiếng Nga như “Tử man cơ” là giết chết đi, “Phục đặc gia
tửu” là rượu Vodka, “Hà thư nhi khắc” là món thịt nướng, nhưng vẫn
tự hào là mình tinh thông tiếng Nga (?). Khi đại sứ Nga sang Bắc Kinh trình quốc
thư, ngài nhận nhiệm vụ phiên dịch. Đại sứ đọc, ngài dịch lưu loát: “Văn
thành võ đức, nhân nghĩa anh minh, thương sinh trạch bị, thọ dữ thiên tề…”. Hóa ra đó là những câu nịnh bợ của Thần Long giáo mà ngài lỡ thuộc, không dính dáng
gì tới quốc thư của Sa Hoàng. Thế nhưng vua Khang Hy vẫn mặt rồng hớn hở, cười
nói mê ly! Bọn quan lại triều Thanh bái phục Vi đại soái không biết đâu mà kể!Cuối cùng, dù có đùa giỡn đến mấy, Kim Dung cũng phải cho nhân vật Vi Tiểu Bảo
của mình trốn ra đi cùng bảy mụ vợ hương trời sắc nước Tô Thuyên, A Kha, Mộc Kiếm
Bình, Phương Di, Tăng Nhu, Song Nhi và Kiến Ninh công chúa. Trước đây, họ đã về
Dương Châu, bà Vi Xuân Phương nhìn đàn dâu tươi tốt, thầm khen con tinh đời; nếu
gã lập nên một viện thì toàn thể các viện ở Dương Châu sẽ sụp tiệm. Nay, chắc
Vi Tiểu Bảo không dám về Dương Châu vì sợ vua Khang Hy truy nã. Ngay đến trùm
cười Kim Dung cũng chẳng biết nhân vật của mình trốn đi đâu. Viết truyện cười
như vậy quả thế gian đệ nhất, bọn hậu sinh ở Tuổi trẻ Cười xin ngả nón kính
chào cụ. Ba trăm năm đã trôi qua, tất nhiên cũng chẳng nắm rõ hậu duệ của Vi Tiểu
Bảo. Thế nhưng, ở đâu có bia ôm, động điếm; ở đâu có tham nhũng, có dùng tiền để
mua chuộc kẻ dưới; ở đâu có chửi tục “con mẹ nó, tổ bà mười tám đời quân
rùa đen, phường chó đẻ”; ở đâu có nịnh bợ; ở đâu có kẻ thú nhận “chữ nghĩa
biết ta nhưng ta chẳng biết nó” thì ở đó có tinh thần Vi Tiểu Bảo được lưu
truyền.Con Trâu Thông TháiCon trâu thông thái mà tôi đề cập tới đây là Hồ Thanh Ngưu, một nhân vật thầy
thuốc được xây dựng trong tác phẩm võ hiệp Ỷ thiên Đồ long ký của Kim
Dung.Hồ Thanh Ngưu là giáo đồ của Minh giáo, cư ngụ trong Hồ Điệp cốc, một thung
lũng cạnh hồ Nữ Sơn thuộc tỉnh An Huy. Y thuật của Hồ Thanh Ngưu thông thần nên
được xưng tụng là y tiên. Kết hợp cả ngoại hiệu và tên họ, Kim Dung gọi nhân vật
của mình là Điệp cốc y tiên Hồ Thanh Ngưu.Hồ Thanh Ngưu có cái phong cách của một đạo gia Lão Trang. Chẳng thế mà nhân vật
này chọn chỗ ẩn thân trong một vùng hang động có nhiều bướm (điệp cốc). Ngoại
hiệu của tiên sinh khiến người đọc nhớ tới hai câu thơ danh tiếng của nhà thơ
Lý Thương Ẩn trong bài Cẩm sắt:Trang Chu hiểu mộng mê hồ điệpThục đế xuân tâm thác đỗ quyên.(Mộng sớm, Trang Chu thành bướm lượnLòng xuân, Thục đế gởi hồn quyên)Kim Dung mô tả Hồ Thanh Ngưu là một người trung niên mặt mũi thanh tú. Về trình
độ y thuật, nhân vật này thông thái đến mức khi mới xem mạch cho Thường Ngộ
Xuân, một đệ tử Minh giáo có thật trong lịch sử Trung Quốc, viên thầy thuốc đã
biết ngay giáo hữu của mình bị Triệt tâm chưởng của Phiên tăng đánh và bị điểm
huyệt theo phương pháp phái Võ Đang, trong khoảng giữa giờ Tý và giờ Sửu. Mới cầm
đến mạch Trương Vô Kỵ, viên thầy thuốc này đã biết ngay bệnh nhân của mình
trúng Huyền Minh thần chưởng, tràn đầy khí âm hàn trong tạng phủ, khiến nội
thương sang tim! Tuy nhiên tiên sinh là một nhân vật kì quái, đã lập lời thề:
Chỉ chữa thương cho người Minh giáo và từ chối chữa thương cho những người thuộc
bang phái, môn phái khác. Thế nhưng Thường Ngộ Xuân mang nợ của phái Võ Đang, đặt
điều kiện nhờ Hồ Thanh Ngưu cứu Vô Kỵ mà khỏi phải cứu mình. Hồ Thanh Ngưu chữa
cho Trương Vô Kỵ nhưng trong thâm tâm, tiên sinh chỉ định chữa cho Vô Kỵ lành mạnh
để khỏi làm mất uy tín hai chữ “y tiên” của mình rồi sau đó, sẽ giết đi.Hồ Thanh Ngưu là một nhà y học có hai công trình nghiên cứu có giá trị: bộ Đới
mạch luận và Tý Ngọ châm cứu kinh. Trong thời gian được Hồ Thanh Ngưu chữa trị,
chàng Vô Kỵ 15 tuổi cực kỳ thông minh đã học cách châm cứu, cách ra toa thuốc,
học thuộc lòng hai bộ sách của Hồ Thanh Ngưu trước tác và khám phá ra phương
pháp trị Triệt tâm chưởng. Thế là cậu bé vót tăm tre làm kim châm, kê toa hốt
thuốc, sắc thuốc cho Thường Ngộ Xuân. Hồ Thanh Ngưu nhìn toa thuốc Vô Kỵ ra, cực
kỳ kinh ngạc về sự thông minh của cậu bé nhưng cũng mỉm cười vì phân lạng của
toa thuốc quá cao so với sức chịu đựng của Thường Ngộ Xuân. Đoán ra nụ cười ruồi
đó, Vô Kỵ đã giảm tối đa phân lạng. Khi Vô Kỵ bưng bát thuốc đã sắc đến cho Thường
Ngộ Xuân uống xong, Hồ Thanh Ngưu mới cho biết rằng toa thuốc ấy đã làm giảm thọ
bệnh nhân 40 năm!Hồ Thanh Ngưu bị kẻ thù tìm đến tận nơi ẩn cư của mình. Biết mình trốn tránh
không được, y tiên bèn ra cho Vô Kỵ một toa thuốc sau cùng: Đương quy, Viễn
chí, Sinh địa, Đốc hoạt, Phòng phong, dùng Xuyên sơn giác để dẫn và phải uống
cho đúng vào canh ba. Đọc toa thuốc, Vô Kỵ hiểu ra ngay được tấm lòng của y
tiên: phải quay về (Đương qui), chạy cho xa (Viễn chí), sống một mình (Độc hoạt),
phải biết đề phòng (Phòng phong) và nhớ canh ba đi xuyên qua núi để thoát hiểm
(Xuyên sơn giác).Cuối cùng Điệp cốc y tiên Hồ Thanh Ngưu uống độc dược quyên sinh. Vô Kỵ học được
y thuật của ông rồi về sau, đắc thủ võ công trong Cửu dương kinh, y thuật càng
thêm thâm hậu. Anh đã ra tay cứu nhiều người thoát qua khỏi căn bệnh hoặc vết
thương hiểm nghèo, trở thành một bậc danh y mà chuyên môn còn hơn cả Hồ Thanh
Ngưu.Thiên hạ đệ nhất đại mỹ nhânĐọc qua 12 bộ võ hiệp tiểu thuyết của nhà văn Kim Dung, tôi chọn Trần Viên Viên
trong Lộc Đỉnh ký và bầu nhân vật này là đệ nhất đại mỹ nhân.Trần Viên Viên là một nhân vật có thật trong lịch sử Minh mạt - Thanh sơ. Cuộc
đời gian nan chìm nổi và nhan sắc tuyệt thế của nhân vật này trước những biến động
của lịch sử trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo cho một nhà thơ đương đại là Ngô
Mai Thôn viết thành Viên Viên khúc, một bài thơ dài được phổ nhạc truyền tụng
trong suốt lịch sử của triều Thanh (1642 - 1911). Đi vào trong tiểu thuyết của
Kim Dung, Trần Viên Viên trở thành nhân vật tiểu thuyết trong ba chương, 48
trang nhưng đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.Đời vua Minh Sùng Trinh (1628 - 1643), lầu hồng kỹ viện mọc lên ở khắp nơi, đặc
biệt là ở Tô Châu và Dương Châu. Trần Viên Viên là danh kỹ đệ nhất thành Tô
Châu. Cuộc đời của nhân vật này quan hệ một cách đặc biệt tới Sùng Trinh hoàng
đế, Lý Tự Thành hoàng đế và Bình Tây Vương Ngô Tam Quế - ba thế lực phong kiến
biểu trưng của thời Minh mạt - Thanh sơ.Trong Lộc Đỉnh ký của Kim Dung, nhân vật Vi Tiểu Bảo 16 tuổi, làm Tứ hôn sứ cho
vua Khang Hy, đi công cán tại Vân Nam và gặp Trần Viên Viên trong một ngôi chùa
nhỏ ở ngoại thành Côn Minh. Khi ấy, Trần Viên Viên 40 tuổi, đã đi tu, lấy pháp
danh là Tịch Tĩnh. Thế nhưng, "giọng nói ôn hòa trong trẻo" đúng khẩu
âm Tô Châu, "cặp lông mày xinh như vẽ, nét mặt thanh tú không bút mực nào
tả xiết" và "màu da trắng hồng khác nào bạch ngọc điểm phấn son"
của người phụ nữ ấy đã làm cho gã thiếu niên 16 tuổi phải sững sờ đến nỗi
"tay cầm chung trà, miệng há hốc ra không ngậm lại được, chân tay bủn rủn".
Kim Dung gọi đó là "tấm dung quang tuyệt thế". Ấy là Trần Viên Viên năm
40 tuổi trong lớp áo đạo cô. Nếu là một Trần Viên Viên 20 tuổi với xiêm áo và
phấn son của kỹ nữ thì sắc đẹp kia đã được nâng lên mấy bậc nữa. Bạn đọc và
khán giả đã xem Lộc Đỉnh ký hẳn nhớ rằng Vi Tiểu Bảo đang say mê A Kha, con gái
của Trần Viên Viên, một người mà dẫu đánh đổi cả ngôi hoàng đế gã cũng chẳng
thèm đổi. Ấy vậy mà Vi Tiểu Bảo phải công nhận A Kha chưa đẹp bằng một nửa Trần
Viên Viên!Người tài năng đàn giỏi, múa đẹp, hát hay, Trần Viên Viên càng là người phụ nữ
có văn hóa. Những lời tự nhận định của nhân vật này thể hiện một chiều sâu về
trí tuệ, khác hẳn những đại mỹ nhân có thật trong lịch sử Trung Hoa: "Mỹ
sắc làm hư việc nước, xưa đã thế mà nay cũng thế. Con người bất tường được trời
ban cho tấm dung nhan khuynh quốc khuynh thành chỉ làm đau khổ lê dân trong
thiên hạ. Tiện thiếp dù khua chuông gõ mõ, niệm nát chân kinh cũng không đủ đền
tội trong muôn một". Tư duy ấy quả là tư duy của một tri thức, một nhà tu
đắc đạo, không thể nào là tư duy của một kỹ nữ về hưu!Nguyên khi còn là kỹ nữ tại Tô Châu, không biết bao nhiêu tài tử thời Sùng
Trinh đã hâm mộ tài năng và nhan sắc của Trần Viên Viên. Vua Sùng Trinh sủng ái
Điền Quý Phi; Chu hoàng hậu bèn nổi lòng ghen tức. Cha ruột của Chu hoàng hậu đến
kỹ viện bỏ tiền mua Trần Viên Viên, đưa vào cung phục vụ vua Sùng Trinh. Gặp
Viên Viên, Sùng Trinh như bị hớp hồn, ở luôn ba ngày trong cung không thiết triều,
còn hứa phong cho Viên Viên làm quý phi. Cũng trong ba ngày ấy, một tay đại khấu
là Lý Tự Thành tức Lý Sấm đánh lấy ba thành trì lớn của Sùng Trinh. Các quan
đưa lời can gián, Sùng Trinh bừng tỉnh giấc mộng nịch ái nữ nhân, bèn gửi Viên
Viên ra ở trong phủ Chu Quốc trượng.Trong một bữa tiệc của các quan lại, Chu quốc trượng cho Trần Viên Viên ra múa
hát. Nhan sắc Trần Viên Viên lọt vào mắt xanh của một viên tướng võ biền Ngô
Tam Quế. Vua Sùng Trinh xuống lệnh bổ nhiệm Ngô Tam Quế ra trấn thủ Sơn Hải
Quan để ngăn chặn quân Mãn Châu và ban Trần Viên Viên cho Ngô Tam Quế. Trần
Viên Viên trở thành vợ hờ của viên tướng này, vẫn ở lại Bắc Kinh trong phủ Chu
Quốc trượng.Tại Sơn Hải Quan, Ngô Tam Quế đầu hàng lực lượng của Lý Tự Thành. Lý Tự Thành
đánh vào Bắc Kinh; Sùng Trinh bỏ chạy rồi tự vận ở Môi Sơn. Bộ thuộc của Lý Tự
Thành bắt được Trần Viên Viên, đem nạp cho Lý Tự Thành. Thế là đêm đêm sau những
cơn chém giết đẫm máu, Lý Tự Thành lại quay trở về cung, ăn ở với Trần Viên
Viên. Lý Tự Thành lên ngôi, xưng là Đại Thuận hoàng đế.Được tin Lý Tự Thành chiếm đoạt Trần Viên Viên, Ngô Tam Quế làm cuộc binh biến,
mở cửa Sơn Hải Quan đầu hàng quân Mãn Châu rồi trở thành mũi tiên phong của
quân Mãn Châu kéo vào Bắc Kinh. Lý Tự Thành phải bỏ chạy vào Vân Nam. Hậu duệ của
Sùng Trinh lên ngôi, xưng là Minh Vĩnh Lịch, đóng tại Côn Minh, Vân Nam. Thuận
Trị hoàng đế lên ngôi tại Bắc Kinh, mở ra nhà Thanh, ra lệnh cho Ngô Tam Quế tiến
đánh Vĩnh Lịch. Ngô Tam Quế đuổi Vĩnh Lịch chạy đến biên giới nước Miến Điện,
giết Vĩnh Lịch, được nhà Thanh phong tước Bình Tây Vương, trấn thủ Vân Nam và
Quý Châu. Trần Viên Viên trở thành vợ của Ngô Tam Quế. Nhưng khi nghe tin sắp
được phong vương, Ngô Tam Quế không dám dưa tên Trần Viên Viên ra trình Thuận
Trị hoàng đế và nguồn gốc xuất thân của nàng rất ty tiện và làm như vậy là tiết
mạn hoàng đế. Y phải cưới vợ khác và bố trí Viên Viên ra đi tu tại một ngôi
chùa nhỏ ở ngoại ô thành Côn Minh. Ngô Tam Quế yên chí đứa con gái lớn của Trần
Viên Viên tên A Kha là con mình. Sự thật, đó chính là đứa con của Sấm vương Lý
Tự Thành.Cuộc đời của Trần Viên Viên đúng là bi kịch của nhan sắc: hết làm trò chơi cho
các danh sĩ và nhà hào phú đất Tô Châu; nàng lần lượt trở thành trò chơi cho
Sùng Trinh hoàng đế, Sấm vương Lý Tự Thành rồi Bình Tây vương Ngô Tam Quế. Cuộc
chiến giữa Ngô Tam Quế và Lý Tự Thành tại Nhất Phiến Thạch làm chết cả vạn người,
bị dư luận lịch sử Trung Quốc trút lên đầu của Trần Viên Viên. Chỉ có một người
thông cảm với kiếp hồng nhan, đã làm một bài thơ để giãi bày hộ Trần Viên Viên.
Đó là danh sĩ Ngô Mai Thôn với Viên Viên khúc. Chúng ta biết rằng cuối triều
Đường Minh Hoàng, chính sự đổ nát; lịch sử cũng từng kết tội đại mỹ nhân Dương
Ngọc Hoàn (Dương Quý Phi). Nhà thơ Bạch Cư Dị đã viết Trường Hận Ca thanh
minh cho Dương Ngọc Hoàn và bài thơ đã được coi là danh tác trong thi ca đời Đường.
Ngô Mai Thôn thời Thanh sơ cũng làm cái công việc mà bậc tiền bối Bạch Cư Dị đã
làm. Cả hai bài thơ đều có mẫu số chung là bày tỏ niềm thương hương tiếc ngọc của
danh sĩ đối với giai nhân. Kim Dung đã trích một số đoạn trong Viên Viên
khúc và mượn tiếng đàn của chính Trần Viên Viên cất lên hòa trong tiếng tỳ
bà cho Vi Tiểu Bảo nghe.Trong thời gian vua Thuận Trị, các hậu duệ nhà Minh nổi lên dưới chiêu
bài "phản Thanh phục Minh", tự xưng là Đường Vương, Quế Vương,
Phúc Vương, Lỗ Vương. Nhưng rồi họ cũng bị nhà Thanh tiêu diệt. Cho đến khi
Khang Hy lên ngôi và ở ngôi đúng 60 năm, mở ra một triều đại cực kì thái bình
thịnh trị cho lịch sử Trung Hoa (1662 - 1722) thì không còn ai có thể hoài nghi
về hùng tâm tráng chí của nhân vật này nữa. Chính vì vậy, khi Ngô Tam Quế nổi
loạn ở Vân Nam, lên ngôi hoàng đế đã không được người Trung Quốc ủng hộ. Vua
Khang Hy bình định được cuộc nổi dậy của Ngô Tam Quế; không còn ai nghe nhắc tới
Trần Viên Viên.Với 48 trang giấy đầy ấn tượng Kim Dung đã nêu ra trong tiểu thuyết của mình một
phản đề: sự sụp đổ của các triều đại phong kiến Trung Hoa không phải do nhan sắc
phụ nữ làm ra như dư luận lịch sử đã kết án. Bản thân nhan sắc không có tội.
Cái tội đó là tội của những hôn quân vô đạo nịch ái nữ sắc, lãng quên số phận của
trăm họ. Qua Lộc Đỉnh ký, Kim Dung cũng đã công nhận một ông Khang Hy người
Mãn Châu làm vua còn tốt đẹp hơn một ông vua Sùng Trinh người Hán gấp ngàn lần.
Vậy thì đừng nên đem những cái thất bại lịch sử của đàn ông để trút lên đôi vai
của những người phụ nữ. Với một bút pháp kể chuyện có xen mô tả khá tinh tế,
Kim Dung đã xây dựng một Trần Viên Viên trở thành đệ nhất đại mỹ nhân trong
hàng ngàn nhân vật nữ trong tiểu thuyết của mình. Những Tiểu Long Nữ, Nhậm
Doanh Doanh, Triệu Mẫn, Tiểu Siêu, Hân Tố Tố, Viên Tử Y, Vương Ngữ Yên... cũng
là những đại mỹ nhân nhưng là đại mỹ nhân ở tuổi 18-20. Họ không thể sánh bằng
Trần Viên Viên ở tuổi 40 tươi đẹp, chân tình, trí tuệ, tài hoa và đau khổ!Thử bình bầu thập đại mỹ nhânMỹ nhân thì bao giờ chẳng có. Ngay trong cuộc sống của chúng ta, hàng năm vẫn
có những cuộc thi bình chọn hoa hậu, người đẹp thời trang, diễn viên điện ảnh...;
đã có những ban giám khảo nghiêm túc và nghiêm khắc nhất thay mặt cuộc đời phán
xét, cân đong đo đếm các thứ kích cỡ cà trao vương miện cho các mỹ nhân, đâu chờ
đến thứ như tôi bình bầu. Cũng có những ý kiến nghi ngờ các mỹ nhân sống giữa
cuộc sống chúng ta: kiến thức nghèo nàn lạc hậu khiến các bạn có những câu trả
lời vớ vẫn; cái đẹp nội tâm không đạt; tư duy sống không đẹp đưa đến tình trạng
kinh doanh nhan sắc, dùng nhan sắc như một thứ mồi câu phú quí. Đại để, các hoa
hậu và á hậu đã để lại một cái hậu không lấy chi làm ngọt ngào cho cuộc sống
khiến đời buồn vô hậu. Tôi không dám bàn về những mỹ nhân đó chứ đừng nói đến
bình bầu. Cho nên trong phạm vi chương này, tôi chỉ dám bình bầu Thập đại Mỹ
nhân trong... truyện võ hiệp Kim Dung; những người chưa hề dự thi một cuộc thi
hoa hậu, người mẫu, diễn viên nào; những người chưa từng tuyên bố huênh hoang
rồi sau đó đi lấy người... ngoại quốc. Thế giới các mỹ nhân mà tôi đề cập đến
thế giới của truyện võ hiệp và sự “bình bầu” này đương nhiên là cách đánh giá rất
chủ quan căn cứ vào ba tiêu chuẩn nhan sắc, tài năng, tâm hồn. Tôi chỉ dám chọn
10 người bởi vì đưa ra nhiều quá, e rằng có lỗi với cái đẹp, một vốn trời ban
cho con người muôn nơi, muôn thủa. Danh sách tôi “bình bầu” như sau:1. Triệu MẫnĐây nguyên là Hán danh của một cô gái Mông Cổ. Tên thật của cô là Mẫn Mẫn Đặc Mục
Nhĩ, con gái của Nhữ Nam vương, người chỉ đứng sau vua nhà Nguyên, nắm hết quyền
bính chính trị và quân sự cai trị toàn Trung Quốc. Cô là nhân vật nữ chính
trong Ỷ thiên Đồ long ký, một cô gái đẹp như hoa nở, không một cô gái Trung Hoa
nào có thể sánh kịp. Tham vọng của Triệu Mẫn rất lớn: muốn tụ họp bọn giang hồ,
đặc biệt là phiên tăng Tây Vực, triệt hạ sáu đại môn phái của Trung Hoa đang
nuôi mộng chống đối nhà Nguyên là Thiếu Lâm, Võ Đang, Cái bang, Hoa Sơn, Không
Động và Côn Lôn.Lần đầu tiên cô đã bao vây được các thủ lĩnh của Minh giáo và đã nhốt được
Trương Vô Kỵ dưới hầm sâu. Nhưng Vô Kỵ vốn là thầy thuốc, võ công lại cao cường,
đã khống chế cô và "tra tấn" cô bằng cách dồn Cửu Dương công vào gang
bàn chân khiến cô ngứa ngáy, khó chịu phải đầu hàng, thả chàng ra. Chính việc
“cù chân” đó đã làm nảy sinh trong lòng cô mối tình ôn nhu với chàng Trương Vô
Kỵ. Cô đã đem Hắc ngọc đoạn tục cao tặng cho chàng để chàng chữa trị vết thương
cho tam sư bá, chuộc lại lỗi lầm cho cha mẹ mình ngày xưa. Thông minh, lém lỉnh,
chân tình, Triệu Mẫn trước sau vẫn giữ cốt cách của một phụ nữ giàu tình cảm
hơn là một quận chúa Mông Cổ. Cô đánh nhau với Trương Vô Kỵ để rồi đêm đêm, lại
ra quán rượu ngồi đợi chàng trai, mong cùng đối ẩm với nhau mấy chung và quên hết
những chuyện đốt chùa, giết người Mông Cổ, cứu quần hùng Trung Hoa của tập thể
Minh giáo.Cuộc đời của cô là một chuỗi tháng ngày rong ruổi theo tình yêu. Vô Kỵ đi đâu,
cô mong được đi theo anh đến nơi đó, dù chân trời hay góc bể. Cách tỏ tình của
cô cũng rất rõ ràng, giản dị không e dè khép nép như những cô gái Trung Hoa. Cô
đã cầm Ỷ thiên kiếm, lăn xả vào đám sứ giả Ba Tư và đánh những chiêu cận chiến
có thể khiến mình và kẻ thù cùng chết để cứu chàng Trương Vô Kỵ. Khi Vô Kỵ hỏi
tại sao cô liều mạng như vậy, cô đã trả lời thẳng thắn: vì Trương Vô Kỵ ôm lấy
Hân Ly trước mặt cô. Thời thơ ấu, Vô Kỵ đã cắn vào bàn tay Hân Ly một cái đến
chảy cả máu, khiến Hân Ly nhớ hoài hình bóng Trương Vô Kỵ. Triệu Mẫn cũng làm
như thế: cô cắn vào tay Trương Vô Kỵ một nhát để Trương Vô Kỵ nhớ cô trọn đời.
Thực ra cô không làm như vậy thì cũng đủ để chàng Vô Kỵ chọn cô làm người bạn
gái tâm đầu ý hợp. Thậm chí khi Vô Kỵ đã bị vây, sắp bị quân Nguyên bắt, cô đã
nói dối cha và anh rằng nếu họ giết Vô Kỵ thì cô cũng tự tử theo chàng cho trọn
mối tình. Đoạn tiểu thuyết thuật lại chuyện Triệu Mẫn xin cha và anh tha cho
Trương Vô Kỵ thật đầy kịch tính. Tôi kính phục người phụ nữ có một tình yêu tha
thiết và trái tim dũng cảm như Triệu Mẫn. Tình yêu bao la đó đã được chàng
Trương Vô Kỵ đền đáp một cách xứng đáng: anh đã nhường ngôi giáo chủ Minh giáo
lại cho Dương Tiêu, cùng Triệu Mẫn dắt tay rong chơi bốn biển năm hồ. Và mỗi
khi lông mày Triệu Mẫn đã nhạt thì theo ba điều ước hẹn với cô, anh lại làm
công việc hợp với lương tâm, không đi ngược lại với quyền lợi võ lâm Trung Hoa
và cũng chẳng ảnh hưởng gì đến việc chống quân Nguyên giành lại đất Trung Quốc
cho người Hán tộc: cầm cây bút và vẽ lại lông mày cho Triệu Mẫn.Tôi chọn Triệu Mẫn vào ngôi vị đệ nhất đại mỹ nhân, một cô gái Mông Cổ vượt xa
ngàn hoa Hán tộc hẳn là điều dễ khiến chúng ta nghi ngờ. Nhưng rõ ràng tác giả
Kim Dung muốn vậy. Và có lẽ điều này phản ánh chủ nghĩa dân tộc tiến bộ của
chính ông. Hóa ra người Mông Cổ - dân tộc sống trên đất nước phiên bang, dân tộc
mà người Hán thường khinh bỉ xếp vào loại Di Địch vẫn sáng lung linh một đóa hoa hương sắc, tài năng, thông minh, chung tình: Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ.2. Tiểu SiêuNgười thứ hai tôi chọn làm đệ nhị mỹ nhân là cô gái chỉ có một nửa huyết thống
Hán tộc; nửa còn lại thuộc huyết thống Ba Tư, nghĩa là cũng thuộc loại Di Địch
dưới mắt nhìn của Hán tộc. Cha cô là Hàn Thiên Diệp, người Hán; mẹ cô là Đại Ỷ
Ty, thánh sứ nữ của Bái hỏa giáo Ba Tư. Tiểu Siêu thâm nhập Trung Hoa qua con
đường tơ lụa lúc cô mới 15 tuổi. Mẹ cô nguyên là thánh sứ nữ, đáng lẽ phải giữ
mình trong trắng để về Ba Tư lên ngôi giáo chủ. Nhưng bà đã yêu chàng trai Hàn
Thiên Diệp, phản lại giáo quy của Bái hỏa giáo, đáng lẽ phải lên giàn hỏa thiêu. Bà hóa trang thành một người đàn bà xấu xí tên là Kim Hoa bà bà. Tiểu
Siêu phải làm một việc khó khăn để chuộc lỗi cho mẹ: tìm mọi cách thâm nhập
Quang Minh Đính của Bái hỏa giáo Trung Hoa và lấy cho được bộ Đại nã di tâm
pháp của Bái hỏa giáo - nhiệm vụ mà mẹ cô không hoàn thành.Giống lai bao giờ cũng được thừa hưởng những nét ưu tú rực rỡ của cả cha và mẹ,
nên Tiểu Siêu đẹp cái đẹp rực rỡ ngay từ khi 15 tuổi. Nhưng Dương Tiêu, Tả sứ của
Minh giáo Trung Hoa, là một tay cơ trí, khó mà qua mắt được y. Cho nên, để đóng
trọn vai trò con hầu của Dương Bất Hối, con gái Dương Tiêu, Tiểu Siêu đã phải
làm một việc rất khó khăn: giả vờ méo miệng trong suốt thời gian ở cạnh Bất Hối.
Cô học thuộc hết lý thuyết về âm dương, bát quái trận đồ, biết nhiều võ công
nhưng chẳng bao giờ hé lộ. Cha con Dương Tiêu nghi ngờ cô, đã đem dây xiềng quấn
chân cô; cô đi đâu tiếng dây xiềng leng keng đến đó. Điệp vụ của Tiểu Siêu là một
điệp vụ cực kỳ gian nan và cô đã tìm ra được đường hầm trên Quang Minh Đính.Khi Vô Kỵ lên làm giáo chủ Minh giáo, việc đầu tiên của anh là hứa sẽ tháo xiềng
khóa cho Tiểu Siêu. Nhờ Tiểu Siêu chỉ dẫn, Trương Vô Kỵ tìm ra đường hầm, tìm
được Càn khôn đại nã di tâm pháp và đại triển thần lực đẩy được hai cánh cửa đá
để bảo toàn lực lượng Minh giáo của Trung Hoa. Tiểu Siêu trở thành con hầu của
Trương Vô Kỵ, lặng lẽ thương yêu Trương Vô Kỵ. Cũng như Triệu Mẫn, Vô Kỵ đi đến
đâu, Tiểu Siêu đi đến đó, và cô đã chứng tỏ được bản lĩnh của mình: cầm cờ Minh
giáo để chỉ huy năm đội Ngũ hành kỳ chống đỡ không cho quân Nguyên xông vào bắt
giết những thủ lĩnh của Minh giáo. Tiểu Siêu sẽ không bao giờ nói rõ thân phận
của mình cho Vô Kỵ biết nếu không có ngày tình cờ gặp lại mẹ mình đang bị đưa
lên giàn hỏa thiêu của Bái hỏa giáo Ba Tư. Để cứu mẹ, cô phải nói rõ với các Bảo
thụ vương Ba Tư rằng cô là trinh nữ, sẵn sàng thay mẹ về Ba Tư lên ngôi giáo chủ
Bái hỏa giáo. Cô nói tiếng Ba Tư lưu loát cho đến khi những người Ba Tư quỳ xuống
tung hô thì Vô Kỵ mới biết rằng con hầu của mình chính là thánh sứ nữ của Bái
hỏa giáo Ba Tư.Lần cuối cùng được phục vụ thay áo, dóc tóc cho Trương Vô Kỵ, Tiểu Siêu mới nói
thật tình yêu của mình dành cho Vô Kỵ và điệp vụ của mình trên Quang Minh Đỉnh.
Họ ôm nhau, hôn nhau, nước mắt chảy dài ướt đẫm vạt áo chàng Trương. Năm đó, có
lẽ Tiểu Siêu 18 và Vô Kỵ mới 22. Tôi chưa bao giờ đọc một đoạn văn nào tràn đầy
xúc động như đoạn văn Tiểu Siêu chia tay với Trương Vô Kỵ trên biển. Tình yêu của
hai người sao mà đẹp đến thế; đẹp đến nỗi Vô Kỵ không cần lau nước mắt trước mặt
Triệu Mẫn, người tình của mình đang đứng đấy. Tiểu Siêu về Ba Tư, đi theo con
đường tơ lụa. Trương Vô Kỵ chỉ còn biết trông theo, tưởng như tiếng khóc của cô
còn vọng đâu đây trong tiếng gió, tiếng sóng.Trong văn chương Trung Hoa, tiếng "tướng công" được hiểu theo hai
nghĩa: (1) Tiếng của người hầu gọi ông chủ và (2) Tiếng của người vợ gọi chồng.
Tôi nghĩ Kim Dung dùng chữ tướng công cho Tiểu Siêu gọi Vô Kỵ với cả hai nghĩa
trên. Cái đẹp của mối tình Tiểu Siêu - Vô Kỵ là họ gần nhau suốt mấy năm vẫn giữ
được sự trong trắng. Tiểu Siêu nhờ vẫn còn là trinh nữ nên mới cứu được mẹ khỏi
tội hỏa thiêu. Chữ tình, chữ hiếu ở cô gái lai này rất rõ ràng, khiến tôi càng
kính phục cô hơn và bình bầu cô làm đệ nhị đại mỹ nhân.3. Hân Tố TốHân Tố Tố là con gái của Hân Thiên Chính, giáo chủ Bạch mi giáo, một tà giáo hoạt
động trên sông Trường Giang. Bản thân cô cũng là một đường chủ - Tử vi đường đường
chủ. Hân Tố Tố là một cô gái giết người không gớm tay: chính cô đã giết chết 72
người trong Long Môn tiêu cục, bởi tiêu cục này không hoàn thành hợp đồng đưa
Dư Đại Nham (đang bị thương) về trao trả cho phái Võ Đang. Nữ ma đầu này có nụ
cười rất lãng mạn, say đắm lòng người. Kim Dung không trực tiếp mô tả nhan sắc
của cô, mà chỉ thuật rằng khi mới gặp cô, hai kiếm khách của phái Côn Lôn là
Tương Đào và Cao Tắc Thành đã gần như đứng tim, líu lưỡi. Rồi họ sinh ra đánh
nhau, đâm chém thật tình như hai kẻ thù không đội trời chung.Hân Tố Tố và Trương Thúy Sơn, đệ tử thứ năm của phái Võ Đang, gặp nhau trong
tình huống khá lạ lùng: Trương Thúy Sơn vâng lệnh thầy xuống bảo vệ cho gia
đình của Đỗ Đại Cẩm, tổng tiêu đầu của Long Môn tiêu cục trong khi Hân Tố Tố lại
hóa trang như Trương Thúy Sơn để giết chết 72 mạng của tiêu cục này và một số đệ
tử khác phái Thiếu Lâm. Cho nên món nợ của vụ huyết án đó đều trút lên đầu của
Trương Thúy Sơn. Trương Thúy Sơn gặp cô lần đầu tiên dưới tháp Lục Hòa, bên
sông Tiền Đường. Lối bày tỏ tình yêu của Hân Tố Tố rất lạ: cô đập mạnh cho ba
mũi Mai hoa châm đâm sâu vào cánh tay trắng như tuyết của mình để được Trương
Thúy Sơn dùng nội công tâm pháp của phái Võ Đang chữa trị. Trương Thúy Sơn là đệ
tử danh môn chính phái, rất căm thù Bạch mi giáo nên không muốn gần gũi Hân Tố
Tố. Nhưng hoàn cảnh đã nối kết họ lại với nhau: hai người đi Vương Bàn Sơn để dự
lễ dương đao Đồ Long lập oai của Bạch mi giáo; Tạ Tốn đã đến cướp đao và thấy họ
là một đôi nam thanh nữ tú không nỡ giết đi nên đã bắt cóc họ, buộc họ đến Băng
Hỏa đảo với lão để giữ bí mật về Đồ Long đao. Chính Hân Tố Tố vì cứu Trương
Thúy Sơn nên đã dùng kim châm bắn mù đôi mắt của Tạ Tốn. Họ trốn lên Băng Hỏa đảo,
ăn ở với nhau và sinh ra chàng Trương Vô Kỵ.Hân Tố Tố là một nữ ma đầu cực kỳ thông minh, thuộc hết sách của Trang Tử.
Trang Tử là một triết gia mà tất cả các đạo gia Trung Hoa như phái Võ Đang đều
tu dưỡng và học tập theo. Cô đọc cho Trương Thúy Sơn bài Thu thủy của Trang Tử: "Nước
của thiên hạ không đâu lớn bằng biển, muôn vạn sông ngòi đều đổ về biển, không
biết bao giờ nước những sông ngòi đó mới ngừng chảy và biển mới không đầy như
thế này". Khi nghe Thúy Sơn trả lời: "Dù ngàn dặm xa xôi cũng
không thể sánh với sự rộng lớn của biển cả, dù nghìn trượng sâu cũng không đo
được độ sâu của lòng biển", Hân Tố Tố biết ngay Trương Thúy Sơn đang nhớ tới
sư phụ của mình là Trương Tam Phong. Cô dẫn đoạn thầy Nhan Hồi ca ngợi Khổng Tử
trong cuốn Trang Tử ra: "Tiên sinh bước ta cũng bước, tiên sinh đi ta
cũng đi, tiên sinh chạy ta cũng chạy. Nhưng tiên sinh giở hết lực ra chạy như
bay, ta mới hay còn kém tiên sinh rất nhiều". Chính câu nói đó đã hình tượng
hóa được tài đức và võ công của Trương Tam Phong trong lòng Trương Thúy Sơn nên
Trương Thúy Sơn càng yêu thương, mến mộ Hân Tố Tố hơn.Khi họ sống thành lứa đôi, Hân Tố Tố đã tỏ ra là một hiền phụ biết vâng lời dạy
bảo của chồng, bỏ hết những ác nghiệp ngày trước. Lòng hy sinh của cô thật vô hạn,
chưa có một nhân vật nào của Kim Dung sánh kịp. Cho nên, khi sáu đại môn phái
lên núi Võ Đang ép buộc vợ chồng cô phải nói ra chỗ ẩn nấp của Tạ Tốn để bọn họ
đi tìm đao Đồ Long; Trương Thúy Sơn đã tự tử và Hân Tố Tố cũng chết theo chồng.
Đoạn văn mô tả cái chết của vợ chồng Trương Thúy Sơn - Hân Tố Tố là một khúc ca
bi tráng, thể hiện một cách tuyệt vời với tài năng hư cấu của tiểu thuyết Kim
Dung. Năm ấy, Hân Tố Tố mới ngoài 30; con trai của cô -Trương Vô Kỵ - mới lên
10.Hân Tố Tố xứng đáng được chọn làm đệ tam đại mỹ nhân. Cái chết
của cô mở ra một thế giới mới: thế giới của tình yêu Trương Vô Kỵ - Triệu Mẫn.4. Nhậm Doanh DoanhNgôi vị đệ tứ đại mỹ nhân tôi xin dành cho Nhậm Doanh Doanh, cô gái 17 tuổi đẹp
như ngọc, con gái của giáo chủ Triệu Dương thần giáo Nhậm Ngã Hành, một thứ tà
ma ngoại đạo trong Tiếu ngạo giang hồ.Có lẽ Kim Dung đã đem hết tâm lực của mình ra để xây dựng nhân vật Nhậm Doanh
Doanh: một nhân vật nữ tươi đẹp trong sang, giỏi âm nhạc, võ công cao cường,
mưu trí sâu sắc, cai trị bọn bàng môn tả đạo bằng trái tim thép nhưng rất mẫn cảm
với tình yêu và sống với tình yêu bằng trái tim dịu dàng vô kể. Cô gặp Lệnh Hồ
Xung trong khi chàng trai lãng mạn này mất hết công lực, bị sư phụ và các đông
môn đạp xuống hố sâu của của sự nghi ngờ khinh bỉ. Trong ngõ Lục Trúc thành Lạc
Dương, cô tiếp Lệnh Hồ Xung qua tấm rèm không cho chàng thấy mặt; nhận tặng vật
của chàng trai là bộ nhạc phổ Tiếu ngạo giang hồ và lắng nghe chàng trai kể lại
nỗi đau tình khi bị Nhạc Linh San phụ bạc đi theo "gã mặt trắng" Lâm
Bình Chi. Vì không thấy mặt cô nên Lệnh Hồ Xung cứ gọi cô là "bà bà".Doanh Doanh có một nhận định khá lạ lùng về tình yêu: hễ ai không chung tình với
quá khứ thì sẽ không chung tình với hiện tại và tương lai. Cho nên, cô gái 17
tuổi này đã rời bỏ ngõ Lục Trúc, ra đi để bảo vệ Lệnh Hồ Xung, đàn khúc Thanh
tâm phổ thiện trú để xoa dịu những vết thương về thể xác và tâm hồn của chàng
trai mà cô mới gặp đã cảm thấy yêu mến. Giữa vùng hoang sơn dã lĩnh, cô bắt ếch
nướng cho Lệnh Hồ Xung ăn. Cho đến khi Lệnh Hồ Xung kiệt sức, cô đành cõng
chàng lên chùa Thiếu Lâm nhờ Phương Chứng đại sư chữa trị và tự đem thân mình
cho phái Thiếu Lâm cầm tù để đổi lấy sinh mạng của Lệnh Hồ Xung. Khi lành bệnh,
hiếu ra được lòng thương yêu và đức hy sinh vô hạn ấy của Doanh Doanh, Lệnh Hồ
Xung đã thống lĩnh hết bọn hào sĩ bàng môn tả đạo, trống rong cờ mở, lên chùa
Thiếu Lâm đòi thả Doanh Doanh ra. Chính hành động vô pháp vô thiên ấy của Lệnh
Hồ Xung khiến Doanh Doanh cảm thấy được an ủi rất nhiều và thấy được sự hy sinh
của mình là không uổng phí. Họ yêu nhau nhưng trong lòng Nhậm Doanh Doanh biết
chàng trai chưa phai mờ hình ảnh của Nhạc Linh San. Cô không hề ghen tức, ngược
lại đối xử với Nhạc Linh San như người bạn tốt. Chính cô đã cứu Nhạc Linh San,
chính cô đã động viên Lệnh Hồ Xung nghe tâm trạng sư muội trước khi chết. Trong
con người Doanh Doanh nhỏ bé có trái tim nhân hậu vĩ đại của một phụ nữ công bằng.Nhậm Doanh Doanh thật thông minh, bén nhạy. Nghe Lệnh Hồ Xung kể chuyện, cô biết
ngay là chàng không phải là thủ phạm giết bạn đồng môn của mình, biết ngay là
chàng bị sư phụ lừa dối. Chính cô đã khám phá ra chiêu số võ công của Nhạc Bất
Quần giống như chiêu số võ công của gã lại cái Đông Phương Bất Bại; từ đó phán
đoán ra Tịch Tà kiếm phổ còn có nghĩa là Quỳ hoa bảo điển, và biết Nhạc Bất Quần
đã "Dẫn đao tự cung" (tự thiến bộ phận sinh dục). Cũng chính cô chứ
không ai khác đã nhắc bảo cho Lệnh Hồ Xung biết rằng Nhạc Bật Quần là một gã
ngụy quân tử. Và cũng chỉ có cô mới kiềm chế nổi Nhạc Bất Quần, bảo vệ mạng sống
cho mình và tình lang: bóp mũi Nhạc Bất Quần cho lão uống Tam thi não thần đan,
một loại độc dược mà ngoài cô ra, không ai ở trên đời có thuốc giải được.Kết thúc Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung để cho Doanh Doanh nhường ngôi giáo
chủ lại cho Hướng Vân Thiên, làm đám cưới với Lệnh Hồ Xung và hai vợ chồng song
tấu khúc Tiếu ngạo giang hồ. Họ đã hoàn thành tâm nguyện mà Lưu Chính Phong và
Khúc Dương ngày xưa chưa làm được: hắc đạo và bạch đạo vẫn có thể sống với nhau
trong một không khí hòa bình hạnh phúc thật sự, xóa đi biên giới của hận thù và
nghi kỵ. Tiếu ngạo giang hồ chính là khát vọng của tác giả Kim Dung đối
với đất nước và đồng bào Trung Hoa của ông. Và Doanh Doanh chình là biểu tượng
của cái đẹp Trung Hoa, một cái đẹp đi vào phạm trù tinh thần chứ không còn ở phạm
trù vật chất nữa.Doanh Doanh hoàn mỹ quá khiến tôi đâm ra nghi ngờ, không hiểu khi xây dựng nhân
vật này, Kim Dung có đặt cái mà tôi gọi là “chủ nghĩa Đại Hán” của ông
vào chăng? Tôi định chọn Nhậm Doanh Doanh ở ngôi vị số một, trên cả Triệu Mẫn,
nhưng vì sự nghi ngờ đó đã khiến tôi xếp cô vào vị trí số bốn. Đã bảo tôi là một
người đầy cảm tính, không thể có sự khách quan, trung thực và khoa học của các
vị giám khảo chấm thi hoa hậu nghiêm khắc và đầy kinh nghiệm ngày nay cơ mà.
Cho nên tôi cứ liều mạng đưa cô gái Mông Cổ lên ngôi vị số một và đặt cô Doanh
Doanh Hán tộc xuống vị trí số bốn. Mà số bốn thì cũng cực kì quan trọng rồi.5. A ChâuCó lẽ số phận đau thương nhất, bi kịch nhất trong hàng trăm nhân vật nữ của tiểu
thuyết võ hiệp Kim Dung chỉ dành cho một nhân vật A Châu. Tên thật của cô là
Đoàn A Châu, con của Trấn Nam Vương Đoàn Chính Thuần nước Đại Lý và bà Nguyễn
Tinh Trúc, người nước Tống. Mối tình ngoại hôn giữa hai người đã sinh ra hai cô
gái xinh đẹp: Đoàn A Châu và Đoàn A Tử.Cũng có lẽ trong thế giới tiểu thuyết võ hiệp, ta chưa bắt gặp nhân vật đàn
ông, một người cha nào vô trách nhiệm như Đoàn Chính Thuần. Ngay đến hai đứa
con gái của mình, ông cũng chẳng biết chúng được đặt tên gì. Nguyễn Tinh Trúc
thấy đứa lớn thích mặc áo dỏ, đặt tên là A Châu; thấy con gái nhỏ thích mặc áo
tía, đặt tên là A Tử. Cùng sinh ra một gốc nhưng A Châu và A Tử là hai tính
cách khác biệt: A Châu dịu dàng, nhân hậu, chung tình bao nhiêu thì A Tử lại
tàn bạo, ngang ngược, thủ đoạn bấy nhiêu. Do phải tránh né sự truy bức, Nguyễn
Tinh Trúc phải đưa hai đứa con gái ra Nhạn Môn Quan tị nạn. Cho nên ba chữ
"Nhạn Môn Quan" trở thành nỗi đau, sự lỗi lầm lớn trong tâm hồn Đoàn
Chính Thuần, khiến Đoàn Chính Thuần phải chịu sự oan khuất lớn sau này dẫn đến
cái chết của A Châu.A Châu gặp Kiều Phong tức Tiêu Phong, người nước Khất Đan, nguyên bang chúa Cái
bang Trung Hoa, trong một hoàn cảnh khá đặc biệt trên chùa Thiếu Lâm. Kiều
Phong lên chùa Thiếu Lâm thăm lại người thầy yêu của mình là Huyền Khổ đại sư,
để xác nhận lại quá khứ của mình; A Châu lên chùa Thiếu Lâm là để đánh cắp bộ Dịch
Cân kinh về tặng cho chủ nhân của cô là Cô Tô Mộ Dung Phục. A Châu có thuật cải
trang thần tình, đã cải trang thành nhà sư Trí Thanh, lấy được bộ Dịch Cân kinh
nhưng lại bị trúng một chưởng của các nhà sư Thiếu Lâm. Một chưởng đó có thể
làm tan bia vỡ đá huống chi một thân thể mảnh khảnh của một cô gái mới 18 tuổi
cỡ A Châu. Kiều Phong đã nhanh trí ném ra một tấm gương đồng làm tấm đệm cản bớt
kình lực của phát chưởng nhưng A Chấu vẫn bị thương nặng. Ông cứu A Châu, rời
khỏi chùa Thiếu Lâm. Năm ấy ông 30 và A Châu chỉ mới 18.Không gặp nhau thì thôi, gặp nhau là đã có duyên phận; Kiều Phong nhất quyết phải
cứu A Châu. Nhưng sức ông có hạn, lại không hiểu y lí, ông đành đưa A Châu về Tụ
Hiền trang, nơi mà quần hùng Trung Nguyên đang hội họp bàn kế hoạch giết ông, một
tên Khất Đan mọi rợ, để cầu cứu Thần y Tiết Mộ Hoa chữa thương cho A Châu. Khi
hiểu được tấm lòng Kiều Phong không ngại sinh tử, đưa mình vào đầm rồng hang hổ
để cầu mong cái sống cho cô, A Châu mới nhận ra được rằng trên đời này chưa có
người đàn ông nào nặng tình nặng nghĩa như vậy. Sau khi gửi gắm A Châu, Kiều
Phong cùng quần hùng Trung Nguyên ác đấu một trận. Ông bị thương và may mắn được
một người bịt mặt cứu ra khỏi Tụ Hiền Trang, đưa về một sơn cốc...A Châu được Tiết thần y chữa lành vết thương. Cô bé mảnh khảnh vượt mấy ngàn dặm
tìm về Nhạn Môn Quan giữa mùa tuyết phủ, chờ gặp Kiều Phong. Cô biết thế nào Kiều
Phong cũng trở lại, đến bên phiến đá xưa nơi cha ông Tiêu Viễn Sơn trước khi chết
đã dùng chỉ công ghi lại văn tự trên đó. Quả nhiên, Kiều Phong trở lại Nhạn Môn
Quan đúng như trong một kịch bản đầy khát vọng mà mọi độc giả của Thiên Long
bát bộ đều mong ước được nhìn thấy. A Châu nhào vào lòng Kiều Phong và khóc
rưng rức vì hạnh phúc, vì hổ thẹn, vì tủi thân. Nhưng cho đến lúc ấy, Kiều
Phong vẫn chưa biết được đó là sự biểu lộ tình yêu đầu đời thầm kín. Trọn cuộc
đời ông ngoài chuyện chiến đấu, ông chỉ biết có bát rượu, không hề nghĩ đến nữ sắc.
Ông lại mang mặc cảm mình là người Khất Đan - dân tộc hạ đẳng, trong khi Đoàn A
Châu lại là người Trung Hoa - dân tộc thượng đẳng, nên ông không hề để ý đến tấm
chân tình của A Châu. Tuy nhiên, giữa trời đất Nhạn Môn Quan đầy tuyết phủ, được
làm bạn với một cô gái xinh đẹp dịu dàng và nhất là được nghe cô thỏ thẻ: "Sẽ
cùng đại gia qua bên kia Nhạn Môn Quan săn chồn đuổi thỏ" thì ông mới
hiểu rằng A Châu thương mình. Họ yêu nhau nhưng miệng chưa bao giờ nói ra chữ
"yêu", vượt qua mấy ngàn dặm trở lại thành Biện Lương, trai vẫn giữ
được lễ, gái vẫn giữ được băng thanh ngọc khiết.Do một lời vu cáo để trả thù riêng của Ôn Khang, Kiều Phong và Đoàn A Châu nhận
lầm rằng Đoàn Chính Thuần chính là người chỉ huy đánh giết Tiêu Viễn Sơn - cha
của Kiều Phong ngày trước tại Nhạn Môn Quan. Họ trở lại rừng Phương Trúc giữa
lòng Thái Hồ, Giang Nam để Kiều Phong ước hẹn cuộc chiến đấu rửa thù với Đoàn
Chính Thuần. Cả Kiều Phong và A Châu đều nguyện rằng sau cuộc trả thù này, họ sẽ
sang bên kia Nhạn Môn Quan sống với nhau cuộc đời bình yên trên thảo nguyên Khất
Đan, không chen chân vào cõi giang hồ nữa. Cho đến khi nhìn thấy A Tử có một miếng
ngọc bội giống như miếng ngọc bội của chính cô, cô mới đau xót nhận ra rằng
Đoàn Chính Thuần là cha; Nguyễn Tinh Trúc là mẹ và A Tử là em ruột cô.Nhưng khát vọng trả thù của người tình Kiều Phong thì nặng như núi Thái Sơn, cô
biết xử lí làm sao giữa hiếu và tình. Kim Dung đẩy nhân vật đáng thương của ông
vào bi kịch: cho A Châu hóa trang thành Đoàn Chính Thuần, đến bên cầu giữa đêm
mưa gió, chấp nhận cuộc chiến đấu rửa hờn của Kiều Phong. Kiều Phong chỉ đánh một
chưởng và ông khám phá ngay ra điều khác lạ. Ông ôm địch thủ lên, gỡ bỏ hết những
vật hóa trang và dưới ánh chớp của sét, ông nhận ra đó là A Châu, tình yêu của
ông, cứu cánh hạnh phúc của ông. Cô thỏ thẻ tóm tắt lại cho ông hiểu mọi sự. Lần
đầu tiên trong, Kim Dung mới để cho Kiều Phong khóc. Nước mắt ông hòa lẫn nước
mưa, đẫm ướt người A Châu. Ông như điên như khùng, bồng cô gái thân yêu chạy suốt
rừng Phương Trúc, gọi tên từng người, gọi Đoàn Chính Thuần ra giết mình để trả
thù cho con gái. Nhưng chẳng ai đáp lại lời ông.Chương Kim Dung viết về chuyện đánh lầm vào A Châu giữa đêm mưa tầm tã và sấm
chớp liên hồi có cái mức độ đau thương của lớp cuối cùng khi nhân vật Phượng và
Xung vướng phải dây điện, cùng chết bên nhau trong hồi cuối vở kịch Lôi vũ của
Tào Ngu. Tác giả Kim Dung đẩy Kiều Phong đến độ chót của bi kịch, tước mất của
ông nguồn sống, tình yêu và khát vọng về một đời du mục tầm thường trên thảo
nguyên Khất Đan.A Châu không đẹp rực rỡ, võ công cao cường, mưu trí chẳng bằng ai, lại chỉ là một
con hầu trong nhà Mộ Dung Phục. Nhưng cái đạo hiếu của cô, mối tình trong sáng
của cô dành cho Kiều Phong, tâm hồn ôn nhu phương đông của cô thì không người
phụ nữ nào sánh kịp. Để làm nổi bật A Châu, Kim Dung xây dựng nhân vật A Tử
điêu ngoa, xảo quyệt, tàn bạo; chẳng khác nào trong kỹ thuật chụp ảnh ta chú trọng
đến chất contrast (tương phản). Chính vì thế mà A Châu rực rỡ; Kiều Phong một đời
chỉ có A Châu, chỉ yêu A Châu và không thể yêu bất kì cô gái thứ hai nào trên
thế gian, không muốn ôm bất cứ một người phụ nữ nào trên thế giới.Xưa nay, bi kịch tình - hiếu vẫn là một chủ đề thường gặp trong tiểu thuyết Việt
Nam và Trung Hoa. Thúy Kiều yêu Kim Trọng nhưng phải bán mình 300 lạng để chuộc
tội cho cha, để rồi phải sống 15 năm trong lầu xanh. Nhưng Thúy Kiều còn có
Thúy Vân để thay thế đền đáp cho Kim Trọng, còn A Châu thì chẳng có ai. A Tử
không có cái nhu mì của Thúy Vân và Kiều Phong cũng chẳng có cái tình cảm văn
nhân ấm ớ của Kim Trọng. Bi kịch tình hiếu A Châu - Kiều Phong trong Thiên Long
bát bộ là vô điều kiện và tuyệt đối. A Châu trở thành nhân vật mẫu mực, tượng
trưng cho lòng hy sinh cao cả của người phụ nữ phương Đông. Chính vì cái vẻ đẹp
nhân bản đó trong tâm hồn cô gái 18 tuổi này mà tôi mạnh dạn bầu cô làm đệ ngũ
đại mỹ nhân.6. Tiểu Long NữKhông một ai, kể cả tác giả Kim Dung, hiểu rõ được họ tên cô gái này. Tác giả
chỉ cho ta được biết rằng, ngay từ thủa nhỏ, Tiểu Long Nữ đã được nuôi nấng, học
võ công và trưởng thành trong ngôi cổ mộ của phái Cổ Mộ sau núi Chung Nam, kế tục
sự nghiệp của Lâm Triều Anh để trở thành một trong những nhân vật nữ chính của
Thần điêu hiệp lữ.Những người sống trong ngôi cổ mộ thường vẫn mang theo một huyền thoại, một vẻ
thần bí ly kỳ: họ sống cũng như chết, rất xa cách với thế giới bên ngoài. Kim
Dung tự giới thiệu Tiểu Long Nữ hay Long cô nương của mình cũng tương tự như thế:Chung Nam sơn hậuHữu hoạt tử nhân(Sau núi Chung NamCó người sống chết)Tiểu Long Nữ là một cô gái trong sáng từ thân xác đến tâm hồn; đối với cô hoàn
toàn không có biên giới giữa sự việc nên làm và không nên làm, nên tránh và
không nên tránh. Đắc thủ toàn bộ võ công của phái Cổ Mộ được ghi lại trong Ngọc
Nữ tâm kinh, Tiểu Long Nữ trưởng thành hồn nhiên như một viên ngọc không tỳ vết.
Cô trở thành người hàng xóm vừa dịu dàng vừa khó chịu của phái Toàn Chân (cũng ở
núi Chung Nam). Cô thương yêu một người đồ đệ kém mình hai tuổi và trọn đời chỉ
có mối tình ấy, không có một mối tình, một hình bóng nào khác.Đối với xã hội phong kiến Trung Hoa, mối tình ấy là cả một sự thách thức, thậm
chí là sự phỉ báng các nguyên tắc của đạo đức luân lý. Mọi người đều cho phép
mình khinh bỉ, lên án cặp thầy trò Tiểu Long Nữ - Dương Qua, kể cả Quách Tĩnh
và Hoàng Dung là hai người chịu ơn cặp thầy trò này. Người ta lấy cái đạo đức
luân lý cứng nhắc ngàn năm để đo một mối tính trong sáng của đôi trai gái trong
sáng, cho rằng mối tình đó đã xâm phạm nền đạo đức Trung Hoa, tư duy đạo đức
Trung Hoa. Người ta đã làm mọi chuyện, kể cả vu cáo và bôi nhọ, cho lứa đôi phải
xa nhau, phải rời bỏ nhau.Kim Dung, trong Thần điêu hiệp lữ, đã nhấn thêm một bước nữa: ông cho cô
gái trong trắng như ngọc của mình thất trinh. Tiểu Long Nữ luyện Ngọc nữ tâm
kinh và gã đồ đệ phái Toàn Chân tình cờ đi ngang qua đó, đã bế cô đưa vào bụi rậm...
Chỉ tội nghiệp cho Tiểu Long Nữ: cô cứ nghĩ người đó là Dương Qua, trong sự bẽ
bàng đau đớn còn có niềm hạnh phúc được dâng hiến. Cũng tội nghiệp cho Dương
Qua: anh phải chịu một cái án oan, một vụ án tình dục mà anh không phải là thủ
phạm. Cho đến khi Tiểu Long Nữ biết được rằng kẻ phá hoại đời mình là Doãn Chí
Bình, rằng Dương Qua đồ đệ của mình vẫn trước sau là một người trong sáng, thì
cô thật sự tuyệt vọng. Cô lẳng lặng từ bỏ mối tính lớn trong đời, ra đi...
Dương Qua cũng từ bỏ tất cả ra đi để tìm sư phụ. Cuộc rượt đuổi đi tìm hạnh
phúc, tình yêu đó thật não nùng. Luân lý, đạo đức Trung Hoa đã không cấm cản được
trái tim họ, tình yêu của họ. Chỉ có niềm đau khổ của tuổi đầu đời đã chia sẻ họ.Tiểu Long Nữ chuyên mặc một màu áo trắng, ăn nói đơn giản, cốt cách như thần
tiên. Cô gái ấy say mê học trò, vi phạm đạo đức, lại bị cưỡng hiếp, không còn
là người trinh bạch nữa. Thế nhưng dưới mắt bạn đọc Thần điêu hiệp lữ, Tiểu
Long Nữ vẫn là một con rồng nhỏ, trong sáng như gương, dịu dàng như ngọc. Tôi bầu
cô làm đại mỹ nhân thứ sáu và vẫn mạnh dạn coi cô là con người trinh bạch. Đúng
ra cô trinh bạch rất nhiều so với hàng triệu con người trinh bạch (hoặc tự coi
mình là trinh bạch) hiện nay.7. Song NhiSong Nhi chỉ là con hầu của người vợ thứ ba của Trang Kiến Long, một nhà nho
Trung Hoa đã có công tụ họp người trí thức triều Khang Hy soạn bộ Minh thư tập
lược, bị Ngao Bái nhà Thanh giết. Song Nhi người gốc Hàng Châu, ngay từ thơ ấu,
đã chịu chung cái số phận đau thương của bà chủ mình: bị đày lên khu vực ngoại
thành Bắc Kinh. Trong Lộc Đỉnh ký, Kim Dung để cho Vi Tiểu Bảo 16 tuổi, gặp
Song Nhi và nhận cô làm người hầu lúc cô 14 tuổi. Quan hệ giữa hai người vừa là
chủ tớ, vừa là bạn bè. Song Nhi mở miệng ra gọi luôn Vi Tiểu Bảo là "tướng
công"; Vi Tiểu Bảo mở miệng ra gọi Song Nhi luôn luôn là "Hảo
Song Nhi". Cô gái nhỏ này võ công cao cường, nhân phẩm đoan chính, có học
vấn và có tấm lòng trung thành vô hạn đối với chủ, nên xin đề nghị xép cô vào
hàng đại mỹ nhân thứ bảy dù nhan sắc hãy còn thua xa Phương Di, người mà Vi Tiểu
Bảo nhận làm vợ lớn.Gần như Song Nhi là cái bóng của Vi Tiểu Bảo. Vi Tiểu Bảo đi đến đâu, cô đi
theo anh chàng này đến đó, phục vụ cơm nước, áo quần, bàn chuyện tính mưu định
kế. Cô đã đánh cho bọn Lạt Ma Tây Tạng chổng càng chổng gọng để cứu Vi Tiểu Bảo,
cùng Vi Tiểu Bảo tham gia cứu mạng Thuận Trị hoàng đế, ra trận đánh bọn Hỏa thương thủ và các tay hảo thủ khác của quân Sa hoàng Nga, hóa trang khi làm sư,
khi làm ngự lâm quân Thanh triều để bảo vệ Vi Tiểu Bảo. Gần như Song Nhi không
biết sợ một ai, kể cả danh thủ kiếm pháp Phùng Tích Phạm của đảo Đài Loan. Hắn
có ngoại hiệu Nhất kiếm vô huyết, ấy vậy mà khi hắn muốn giết Vi Tiểu Bảo; Song
Nhi đứng ra liều mình cứu chủ; mũi kiếm của hắn không giết nổi Song Nhi, chỉ
làm cô bị thương, chảy máu chút đỉnh. Từ chiến công của Song Nhi, bọn giang hồ
gọi giễu Phùng Tích Phạm là Bán kiếm hữu huyết (nửa chiêu kiếm đã có máu đổ ra
rồi).Song Nhi đi theo Vi Tiểu Bảo ăn tuyết nằm sương nhưng không bán mình cho họ Vi.
Cô bỏ công ra cả tháng, thức đêm để khâu lại những mảnh nhỏ lấy được trong tám
bộ Tứ Thập nhị chương kinh thành một bản đồ lớn mô tả kho báu ở Lộc Đỉnh Sơn mà
không hé miệng than thở một lời. Vi Tiểu Bảo hay chớt nhả, luôn miệng nói với
cô câu: "Đại công cáo thành, phải hôn một cái" nhưng thực sự
hắn chưa bao giờ ôm hôn được cô, vì cô cũng chẳng bao giờ dễ dãi để hắn ôm hôn.
Ngay đến khi cô ngủ gục vì mệt mỏi, Vi Tiểu Bảo bồng cô vào giường cũng chẳng
dám hé môi hôn cô một cái, vì hắn biết làm như vậy là tiết mạn phẩm giá con hầu
của mình. Trong khi đó, với Kiến Ninh công chúa, em vua Khang Hy; với A Kha,
con gái của Trần Viên Viên; với Phương Di, tiểu thư của một dòng tộc danh giá ở
Vân Nam; với công chúa Sophia của nước Nga, Vi Tiểu Bảo muốn hôn là hôn, muốn sờ
ngực là sờ ngực, thậm chí muốn chăn gối là chăn gối.Điều gì đã khiến nhà văn Kim Dung tôn trọng nhân phẩm của một con hầu, nâng cô
lên trên cả hai vị công chúa, hai vị tiểu thư thiên kim? Đó chính là cái nhìn của
ông về bản chất của cái gọi là tầng lớp quý tộc trong chế độ quân chủ Trung
Hoa. Những huyền thoại cao quí về tầng lớp đó đã băng hoại, còn lại những sự thật
phũ phàng: Kiến Ninh công chúa chỉ mong được ngủ với Vi Tiểu Bảo; Phương Di
danh giá lại có những hành động lừa dối; A Kha cao quí ngu muội đi theo hào
quang của gã bạch vệ Trịnh Khắc Sảng, trở thành cô gái bất trinh; thậm chí hiền
lành ngây thơ như Mộc Kiếm Bình, tiểu thư của Mộc vương phủ Vân Nam, cũng bị
tác giả cho vẽ lên má một con rùa. Qua nhân vật Song Nhi, tôi thấy tác giả Kim
Dung có một tình cảm sâu nặng đối với những người bình dân Trung Quốc, đặc biệt
là đối với những phụ nữ suốt đời chỉ biết làm con hầu, kẻ ở. Vi Tiểu Bảo có thể
mở miệng chửi tất cả những phụ nữ cao quý là con điếm, con đượi non, mụ điếm
nhưng không bao giờ trong lòng hắn dám gợi lên một tư tưởng bất kính với con hầu
Song Nhi.Song Nhi trở thành một trong bảy người vợ của Vi Tiểu Bảo nhưng cô vẫn giữ được
phẩm giá chân chính của một người phụ nữ: không hề cạnh tranh, so bì, tỵ nạnh.
Các đứa con khác của Tiểu Bảo do Tô Thuyên, A Kha, Kiến Ninh công chúa sinh ra
đều được cô nuôi nấng, chăm sóc dịu dàng như con của chính mình. Thậm chí, cô cảm
thấy hạnh phúc khi có một đức trẻ được đặt tên là Song Song bởi vì trong cái
tên này, có chữ Song trong tên của cô. Chính từ cái đẹp nội tâm trong cô gái bé
nhỏ này, tôi mạnh dạn bầu cô làm đệ thất đại mỹ nhân mà tôi mạo muội bình chọn.8. Vương Ngữ YênLà một cô gái đẹp tuyệt trần, nhân vật mà Kim Dung thường gọi là "thần
tiên nương tử", hình ảnh hóa thân của pho tượng ngọc dưới đáy Cung Kiếm hồ
mà Đoàn Dự đã từng gặp. Vương Ngữ Yên là con gái ngoại hôn của Đoàn Chính Thuần,
người nước Đại Lý, với Vương phu nhân, người Tiên Ty.Vương Ngữ Yên là cô gái thông minh, đọc thuộc lầu những quyển kinh võ học trong
thiên hạ, đến nỗi ai đánh một chiêu một thức cô đều gọi đúng tên chiêu thức đó,
đồng thời biết luôn cả cách phá giải. Cô trở thành quyển từ điển sống võ học,
và do cô không hề biết võ công, nên nhiều thế lực thèm khát bắt cóc được cô để
làm áp lực với họ Mộ Dung, và để cô dạy cho mình những đòn thế võ công thất
truyền.Một đời Vương Ngữ Yên chỉ biết say mê Mộ Dung Phục, người anh em cô cậu của
mình (người Trung Hoa cho phép anh chị em con cô con cậu, anh chị em bạn dì lấy
nhau). Thế nhưng Mộ Dung Phục là một gã huênh hoang, khoác lác, hắn chỉ say sưa
giấc mộng phục hồi nước Đại Yên, sẵn sàng đạp đổ tất cả tình yêu, tình bạn bè,
tôn kẻ thù làm cha, miễn là có thể lợi dụng được những hoàn cảnh để phục hưng Đại
Yên. Ngược lại với Mộ Dung Phục, Đoàn Dự nước Đại Lý sẵn sàng đánh đổi tất cả
các thứ trên đời, kể cả ngôi vị hoàng đế Đại Lý, để được kề cận bên Vương Ngữ
Yên. Tình yêu xảy ra giữa ba nhân vật này là một quá trình rượt đuổi buồn cười.Khi Mộ Dung Phục sang nước Tây Hạ để sự lễ tuyển phu của Ngân Xuyên công chúa
nước này, Vương Ngữ Yên chỉ sợ võ công của biểu ca mình cao cường, có thể làm rể
Tây Hạ và phụ rẫy mối tình của mình. Cô đã nhờ Đoàn Dự ra tay viện trợ: dùng Lục
mạch thần kiếm danh tiếng của họ Đoàn đánh thắng Mộ Dung Phục, phá vỡ âm mưu
làm rể Tây Hạ của Mộ Dung Phục. Nhưng rồi Mộ Dung Phục đánh cho Đoàn Dự lọt xuống
đáy giếng và nói rõ tham vọng của mình cho Vương Ngữ Yên nghe rằng hắn chưa bao
giờ thương yêu Vương Ngữ Yên cả. Cô gái tuyệt vọng, gieo mình xuống đáy giếng
sâu. Và lạ thay, ở trên mặt đất thơm tho, dưới ánh sáng chói chang của mặt trời
bao nhiêu năm mà Vương Ngữ Yên không nhìn ra tấm chân tình của chàng Đoàn Dự,
thì chỉ trong chốc lát dưới đáy giếng sâu hôi hám tối tăm, Vương Ngữ Yên đã chấp
nhận mối tình ấy. Và họ nguyện sống đời lứa đôi bên nhau.Nhưng ta đã biết, Đoàn Chính Thuần là cha của Đoàn Dự. Lẽ nào ông anh Đoàn Dự
có thể cưới hỏi cô em cùng cha khác mẹ là Vương Ngữ Yên? Cái mâu thuẫn ấy đã được
đẩy lên đỉnh điểm của của Thiên Long bát bộ khi độc giả kinh hoàng nhận
ra mối quan hệ huyết thống giữa hai nhân vật trai gái trung tâm này. Ta có thể
tưởng tượng ra cái thảm kịch để giúp họ hóa giải mối tình loạn luân, cũng như
Romeo và Juliette trong bi kịch của Shakespeare tìm cái chểt để họ chuộc lỗi với
đời và để cho đôi lứa có thể chia lìa nhau vĩnh viễn. Nhưng Kim Dung đã có một
lối giải quyết khá thần kì, xứng đáng là bậc thầy trong nghệ thuật hư cấu tiểu
thuyết: ông lật ngược lại dĩ vãng của Đoàn Chính Thuần và Đao Bạch Phụng. Giận
Đoàn Chính Thuần say mê nhan sắc của người phụ nữ khác, Đao Bạch Phụng đã làm một
hành động cực kỳ thương luân bại lý: đem tấm thân cao quý của mình hiến dâng
cho một gã ăn mày hôi hám, trôi sông dạt chợ. Gã ăn mày đó chính là Đoàn Diên
Khánh, người trong hoàng tộc nước Đại Lý, kẻ xứng đáng lên ngôi vua Đại Lý nhất
nhưng không được lên ngôi. Đoàn Dự chính là con của Đao Bạch Phụng và Đoàn Diên
Khánh; Đoàn Chính Thuần chỉ là ông cha hờ. Mà trong qui định hôn nhân của nước
Đại Lý, anh em cùng tông tộc có thể cưới hỏi lẫn nhau (chính nhà Trần ở Việt
Nam cũng áp dụng qui định này để ngai vàng khó lọt vào tay kẻ khác). Cho nên
Đoàn Dự vẫn có quyền cưới hỏi và ăn ở với Vương Ngữ Yên, và chẳng riêng gì
Vương Ngữ Yên, cả đến Mộc Uyển Thanh (con gái Tần Hồng Miên), Chung Linh (con
gái Cam Ngọc Bảo) đều là con ngoại hôn của Đoàn Chính Thuần; Đoàn Dự say mê ai
có quyền cưới người ấy. Câu chuyện của Đoàn Dự có đến năm người biết: mẹ Đoàn Dự,
Đoàn Dự, Đoàn Diên Khánh, Đoàn Chính Minh (vua nước Đại Lý) và... chúng ta, những
người đọc Kim Dung. Đoàn Dự lên ngôi hoàng đế nước Đại Lý; Vương Ngữ Yên trở
thành chánh cung hoàng hậu. Đáng lẽ với tài sắc ấy, tôi định bầu cô vào ngôi vị
đệ nhất, đệ nhị đại mỹ nhân, nhưng vì cô quá say mê "thằng mặt trắng"
Mộ Dung Phục cho nên "trong lý lịch có vấn đề", tôi chỉ dám xếp
cô vào hàng thứ tám.9. Viên Tử YViên Tử Y là cô bạn nhỏ mới 16 tuổi của tiểu anh hùng Hồ Phỉ (Lãnh nguyệt bảo
đao). Cô gái này có lý lịch rất hồ đồ, luôn luôn hiện diện cạnh Hồ Phỉ trong suốt
con đường hai người hành hiệp cứu đời, thông minh và giàu tri thức. Ngay cái
tên của cô cũng rất mơ hồ: cô xưng họ Viên, chuyên mặc áo tía nên tác giả gọi
luôn tên cô là Viên Tử Y.Thực sự, Viên Tử Y là cô gái bất hạnh. Mẹ cô là người phụ nữ trong trắng, đã bị
một gã đạo đức giả trong giới giang hồ cưỡng hiếp rồi bỏ trốn. Gã giang hồ đó
đã khéo léo che dấu lý lịch, trở thành con người khả kính, một biểu tượng của đạo
đức võ lâm Trung Hoa. Hồ Phỉ và Viên Tử Y cung chung mục đích: muốn lột mặt nạ
con người đạo đức giả ấy. Hồ Phỉ muốn giết hắn nhưng Viên Tử Y lại cứu hắn. Chẳng
lẽ cô lại dễ dàng chấp nhận cho bạn mình giết cha mình mặc dầu người ấy chẳng
ra gì?Bi kịch trong đời Viên Tử Y vẫn là bi kịch tình - hiếu nhưng xét ra một góc độ cấu
trúc tiểu thuyết, bi kịch này được xây dựng khác hẳn với những tình huống của
Triệu Mẫn và Tiểu Siêu với chàng Trương Vô Kỵ. Cuối tác phẩm Lãnh nguyệt bảo
đao, Viên Tử Y chia tay Hồ Phỉ ra đi. Tôi bầu cô làm đại mỹ nhân thứ chín nhưng
chẳng biết cô đi về đâu giữa mênh mông năm tỷ con người.10. Bạch A TúTôi dành ngôi vị đệ thập đại mỹ nhân cho cô gái mới 15 tuổi này, một cô gái chẳng
lấy gì làm xinh đẹp cũng chưa biết nói một lời yêu thương nào đối với anh chàng
bạn trai thân yêu Thạch Phá Thiên. Người đời có thể cho tôi là dốt nát, đặc biệt
đối với các vị giám khảo giàu kinh nghiệm có thể gọi tôi là đồ đui, là không hiểu
gì hết về số đo ba vòng của các hoa hậu, để nhắm mắt bầu một cô bé mông lép, ngực
lép vào hàng ngũ các Top Model, tôi cũng vẫn cứ bảo lưu ý kiến của mình.Bạch A Tú là con gái của Bạch Vạn Kiếm, cháu nội của Bạch Tự Tại, chưởng môn
phái Tuyết Sơn. Năm 12 tuổi, cô bị một thằng mặt trắng là Thạch Trung Ngọc cởi
hết áo quần, cột tay chân toan dở trò đồi bại nhưng rồi được tác giả Kim Dung cứu
vớt, cho người đuổi đánh kẻ đồi bại chạy trốn. Ấy thế mà A Tú giàu lòng tự trọng
đã gieo mình xuống vực sâu của núi Tuyết Sơn để rửa nhục cho mình. Nội một hành
động đó cũng đủ chứng tỏ cô cương liệt và vượt xa những người phụ nữ khác.Khi mọi người bắt được Thạch Phá Thiên mà cứ yên chí đấy là tên phản đồ, tên
dâm tặc Thạch Trung Ngọc thì chỉ có đôi mắt thơ ngây của Bạch A Tú mới nhìn ra
được: "Vị đại ca này không phải là tên dâm tặc ấy". A Tú đã có
cái nhìn thơ ngây, đạt đến tận cùng bản chất của sự vật, cái trực giác tuyệt đối
đúng mà những người lớn, đến cả Mẫn Nhu - mẹ đẻ Thạch Phá Thiên - cũng không có
được.Tuy chỉ 15, 16 tuổi nhưng cô đã tự khẳng định mình là một nhân vật trí tuệ tuyệt
vời, biết nhìn xa trông rộng. Thấy bà nội mình dạy cho Sử Ức Đao (tên mới đặt của
Thạch Phá Thiên) học Kim Ô đao pháp, Bạch A Tú đã trầm ngâm suy nghĩ. Thử hỏi
cha cô là Bạch Vạn Kiếm (đánh ra chục ngàn thế kiếm) làm sao chống chọi nổi với
anh bạn Sử Ức Đao (sử dụng một trăm nghìn thế đao). Phái của nhà cô là phái Tuyết
Sơn (núi tuyết) mà đánh nhau với phái Kim Ô (mặt trời) thì chỉ có tan tành vì mặt
trời lên tỏa sức nóng thì núi tuyết phải chảy tan thành nước. Hơn nữa, đao pháp
của anh bạn nhỏ Thạch Phá Thiên toàn là những chiêu thức khắc tinh của kiếm
pháp phái Tuyết Sơn của cha và ông cô. Chính vì nhìn ra những điều ấy mà Bạch A
Tú đã xin anh bạn nhỏ ngày sau dung tha cho ông nội và cha của mình và dạy cho
anh bạn nhỏ chiêu Bàng xao trắc kích: chém bên trái một đao, bên phải một đao,
trên một đao, dưới một đao rồi ghìm đao đứng lại khen ngợi địch thủ một câu rồi
đề nghị địch thủ bãi chiến để bảo toàn danh dự cho địch thủ. Thạch Phá Thiên
làm đúng như "giáo khoa" của cô bạn gái; anh thắng tất cả mọi người
nhưng những địch thủ của anh vẫn mang ơn anh về thái độ rộng lượng, tâm hồn
nhân ái.Mười sáu tuổi, A Tú tiễn Thạch Phá Thiên và ông mình ra biển để nghiên cứu pho
võ công Hiệp khách hành. Cô ước hẹn với chàng trai: nếu anh không trở lại, cô sẽ
gieo mình xuống biển sâu. Và như trong một kịch bản hoàn chỉnh nhất của tiểu
thuyết phương Đông, Thạch Phá Thiên đã trở lại, kịp thời cứu cô bạn của mình từ
trên cao rơi xuống lòng biển cả. Tình yêu của họ đi về đâu tác giả không nói đến
nữa. Ông để cho chúng ta tưởng tượng...Tôi tưởng tượng ra chuyện họ cưới nhau;
Kim Ô cùng Tuyết Sơn vẫn tồn tại, chẳng ai phải sử ức đao và cũng chẳng ai phải
bạch vạn kiếm. Chính A Tú là biểu tượng của khát vọng hóa giải hận thù, nghi kị,
phân biệt. Cô xứng đáng được ngồi vào hàng ghế danh dự của đệ thập đại mỹ nhân.Bạn đọc có thể bất bình với tôi, có thể nghi ngờ tôi ăn hối lộ của mười nhân vật
trên đây, gạt những cô gái thông minh lanh lẹn sắc nước hương trời khác như
Hoàng Dung, Mục Niệm Từ (Xạ điêu anh hùng truyện); Mộc Uyển Thanh (Thiên Long
bát bộ); Đinh Đang (Hiệp khách hành); Chu Chỉ Nhược (Ỷ thiên Đồ long ký) hoặc
Nhạc Linh San (Tiếu ngạo giang hồ) ra khỏi danh sách Top Ten võ hiệp Kim Dung.
Tôi xin nói rõ: tôi rất ghét sự ma lanh, ghét cái cơ tâm, ghét sự thay đổi và
ghét những ai thiếu niềm tin, dù họ thông minh, tài giỏi, tươi đẹp.Trong mười đại mỹ nhân của tôi bình bầu, có một trường hợp bị cưỡng hiếp đến nỗi
mất trinh, một người bị cưỡng hiếp không thành có thể khiến cho các nhà đạo đức
chau mày khi nghĩ đến câu: "Trinh tiết là tiêu chuẩn đầu tiên của cái đẹp".
Tám người còn lại, ai cũng từng bị thương chút ít, thân thể có chỗ tì vết, thậm
chí có người bị sẹo to, da dẻ không được mịn màng như các đại mỹ nhân ngày nay.
Họ cũng chẳng phải là những người ngực cao, mông tròn, biết dùng son phấn, nước
hoa để làm siêu lòng khách mày râu ham của lạ. Trong mười đại mỹ nhân, tôi chưa
được nắm tay, ôm eo cô nào theo cái kiểu mà ban giám khảo ngày nay vẫn làm. Nói
chung, tôi bình bầu khá mạnh dạn, khách quan, không ăn hối lộ để đưa ai lên, đẩy
ai xuống. Có hai trường hợp là Di Địch: một chánh cống Mông Cổ; một lai Ba Tư.
Có một trường hợp là Tiên Ty, nhưng xét ra Tiên Ty cũng thuộc giống nòi Trung
Hoa nên tôi xếp vào vùng sâu, vùng xa để gọi là chiếu cố. Họ là những Top Ten sống
giữa một đời bình dị, không bao giờ biết đến chuyện kinh doanh nhan sắc. Ấy những
mỹ nhân đích thực trên đời như thế đó.Chân dung nhạc bất quầnNhạc Bất Quần là một nhân vật lớn trong bộ tiểu thuyết Tiếu ngạo giang hồ của
nhà văn Kim Dung. Nguyên Trung Hoa có năm ngọn núi (ngũ nhạc) nổi tiếng: Tung
Sơn, Thái Sơn, Hằng Sơn, Hành Sơn và Hoa Sơn, mỗi ngọn núi có một kiếm phái. Nhạc
Bất Quần là chưởng môn nhân phái Hoa Sơn, có ngoại hiệu là Quân tử kiếm.Về ngoại hình, Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần là một "thư sinh có năm
chòm râu dài, mặt đẹp như mặt ngọc, chính khí hiên ngang khiến người phải đem
lòng ngưỡng mộ". Con người ấy đã trên sáu mươi tuổi nhưng nhờ tu luyện nội
công nên nhìn qua, chỉ mới như cỡ bốn mươi. Ngoại hiệu của y là Quân tử kiếm cho
nên không bao giờ đánh lén, đánh sau lưng người khác, ăn nói mực thước, không
bao giờ lên tiếng tranh biện với ai. Ngược với cái tên Nhạc Bất Quần (không
chơi với ai), y kết giao với rất nhiều bạn hào sĩ giang hồ chính phái.Về tài năng, con người ấy là sư tôn một danh môn, có môn Tử hà công thâm hậu,
sáng lập ra một Hoa Sơn kiếm pháp lấy nội công làm căn cơ, học và thấm nhuần những
tư tưởng của người quân tử trong triết học đạo Nho, trở thành biểu tượng đẹp đẽ
của chính phái, ghét tà phái và bọn tàn ác như kẻ cừu thù. Mỗi khi Nhạc Bất Quần
xuất hiện trong phần đầu của Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung thường dùng hai
chữ "tiên sinh" để ca ngợi Nhạc Bất Quần.Thế nhưng, toàn bộ những hào quang trên đây chỉ là những điều trá ngụy, giả tạo.
Từng bước, từng bước một, Kim Dung đã lột mặt nạ của Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần,
chỉ ra cho chúng ta thấy tính cách tàn bạo, thủ đoạn độc ác, âm mưu thâm hiểm của
nhân vật này. Kim Dung xây dựng y như một hình mẫu "ngụy quân tử",
loại người nguy hiểm và khó đối phó hơn cả "chân tiểu nhân". Tôi
đã đọc 12 bộ tiểu thuyết của Kim Dung và thật sự kinh sợ nhân vậy ngụy - Quân tử
kiếm Nhạc Bất Quần. Những âm mưu, thủ đoạn của Nhạc Bất Quần vượt xa những tư
duy thông minh của những cái đầu thông tuệ nhất.Nắm được nguồn tin phái Thanh Thành của Dư Thương Hải sắp tấn công Phước Oai
tiêu cục ở Phúc Châu, Nhạc Bất Quần lẳng lặng cho nhị đệ tử Lao Đức Nặc dẫn con
gái mình là Nhạc Linh San xuống Phúc Châu mở một quán rượu để theo dõi tình
hình. Biết nhị đệ tử Lao Đức Nặc là đệ tử của Tả Lãnh Thiền chưởng môn phái
Tung Sơn, vào "nằm vùng" trong nội bộ phái Hoa Sơn của mình, Nhạc Bất
Quần vẫn làm ngơ như chẳng biết, lại còn giả vờ tin tưởng Lao Đức Nặc, giao cho
hắn những nhiệm vụ khác. Đợi cho phái Thanh Thành tàn sát hết Phước Oai tiêu cục,
bắt ông bà Lâm Chấn Nam đưa về núi Hành Sơn để tra hỏi cho ra bộ Tịch tà kiếm
phổ của dòng họ Lâm, Nhạc Bất Quần âm thầm theo dõi. Nguyên Nhạc Bất Quần có một
đại đệ tử tính tình rất phóng khoáng tên là Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung vì cứu
nàng Nghi Lâm - một nữ ni cô thuộc phái Hằng Sơn nên phải kết giao với một tay
thanh danh tàn tạ là Điền Bá Quang. Trong một dịp tình cờ, Lệnh Hồ Xung được
nghe hai vị Lưu Chính Phong của phái Hành Sơn (chính phái) tấu nhạc cùng một
người bạn là Khúc Dương trưởng lão của Ma giáo. Trước khi họ chết, họ đã tặng
cho Lệnh Hồ Xung bộ cầm phổ và tiêu phổ Tiếu ngạo giang hồ. Lệnh Hồ Xung lại
gặp và nhận lời di chúc của ông bà Lâm Chấn Nam trước khi chết: "Xin
Lệnh Hồ Xung hiền điệt báo cho con ta hay dưới hầm một căn nhà cũ trong ngõ Hướng
Dương có vật gì thì đó là vật tổ truyền của nhà họ Lâm, cần phải giữ gìn cho cẩn
thận. Tằng tổ y là Viễn Đồ Công có để lại lời giáo huấn hết thảy con cháu bất
luận là ai cũng không được mở coi mà sinh tai họa ghê gớm". Vật đó chính
là Tịch tà kiếm phổ, một kiếm phổ ác độc của dòng họ Lâm!Lâm Bình Chi, con trai của ông bà Lâm Chấn Nam, đi từ Phúc Châu lên Hành Sơn
tìm kiếm cha mẹ. Đợi cho Lâm Bình Chi lâm nguy, Nhạc Bất Quần mới ra tay giải cứu,
và nhận gã làm đệ tử của phái Hoa Sơn. Nhân danh luật lệ của phái Hoa Sơn, Nhạc
Bất Quần còn ra lệnh biệt giam đại đệ tử Lệnh Hồ Xung trên ngọn Ngọc Nữ phong. Ở
đó, Lệnh Hồ Xung học được Hoa Sơn kiếm pháp với thái sư thúc tổ Phong Thanh
Dương và học được đường Độc Cô cửu kiếm oai trấn giang hồ. Loại kiếm
pháp này đi ngược lại kiếm pháp của Nhạc Bất Quần: lấy kiếm thế như nước chảy
mây trôi làm căn cơ (kiếm tông) trong khi Nhạc Bất Quần lấy nội công làm căn cơ
(khí tông).Biết được điều ấy, Nhạc Bất Quần vu cáo Lệnh Hồ Xung đã lấy được Tịch tà kiếm
phổ, sai Lao Đức Nặc giám sát gã và sau đó ra thông báo đuổi gã ra khỏi phái
Hoa Sơn vì tội "kết giao với Ma giáo" (Điền Bá Quang). Sự
thật là Nhạc Bất Quần đã cướp đoạt tấm cà sa có chép Tịch tà kiếm phổ của
họ Lâm. Lão nuôi tham vọng lên ngôi Minh chủ Ngũ Nhạc kiếm phái để từ đó lập ra
Ngũ Nhạc phái (bỏ chữ kiếm) và sử dụng Lệnh Hồ Xung như một con cờ thí để đánh
lạc hướng của các địch thủ khác. Biết Tả Lãnh Thiền, chưởng môn phái Tung Sơn,
cũng có tham vọng như mình, đưa Lao Đức Nặc vào nằm vùng trong phái Hoa Sơn,
nên lão đã chép bản kiếm phổ giả, tạo điều kiện cho Lao Đức Nặc đánh cắp về cho
Tả Lãnh Thiền luyện chơi.Kiếm phổ giả và kiếm phổ thật khác nhau ở chỗ nào? Đó là một câu ghi trên kiếm
phổ: "Võ lâm xưng hùng. Dẫn đao tự cung" (Muốn xưng hùng võ
lâm, phải biết lấy đao tự thiến). Đúng như lời Lâm Chấn Nam di chúc: "Bất
luận là ai cũng không được cởi mở ra coi mà sinh tai họa ghê gớm". Lâm Viễn
Đồ (tức Viễn Đồ Công) ông nội của Lâm Chấn Nam, có con rồi mới luyện Tịch
tà kiếm phổ. Khi dặn Lệnh Hồ Xung nói lại với Lâm Bình Chi câu ấy, ông Lâm Chấn
Nam chỉ lo con trai mình nóng lòng trả thù cho cha mẹ, phải "dẫn đao
tự cung" thì dòng họ Lâm phải tuyệt tự. Nhạc Bất Quần chép "tặng" Tả
Lãnh Thiền cả bộ kiếm phổ, chỉ không chép câu "Dẫn đao tự
cung" cho nên kiếm phổ của Tả Lãnh Thiền luyện là giả! Riêng Nhạc Bất
Quần có kiếm phổ là lão "dẫn dao tự cung" mặc dù lão chỉ có
Nhạc Linh San là con gái duy nhất. Mà với nhà nho ngày trước "Bất hiếu
hữu tam, vô hậu vi đại" (bất hiếu có ba điều, trong đó không có con
trai nối dõi là điều bất hiếu lớn nhất). Biết là như thế nhưng tham vọng của Nhạc
Bất Quần lớn quá, lão quyết tự làm cho mình tuyệt tự.Lệnh Hồ Xung lưu lạc giang hồ, kết bạn với một cô gái cực kỳ xinh đẹp. Cô gái ấy
là Nhậm Doanh Doanh, con gái của Nhậm Ngã Hành, giáo chủ Triệu dương thần giáo
(tức Ma giáo). Anh bị trọng thương mất hết công lực; Doanh Doanh phải cõng anh
lên chùa Thiếu Lâm chịu để cho các nhà sư cầm tù mình để các nhà sư cứu mạng Lệnh
Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung được khỏi bệnh. Khi hiểu ra mối thâm tình của Doanh
Doanh, anh quyết cùng bọn hào sĩ giang hồ tiến lên chùa Thiếu Lâm đòi thả Doanh
Doanh ra.Trong buổi gặp gỡ tại chùa Thiếu Lâm, lần đầu tiên trong đời, Lệnh Hồ Xung rút
kiếm ra đấu với sư phụ. Độc Cô cửu kiếm của anh hơn hẳn Hoa Sơn
kiếm pháp của Nhạc Bất Quần. Nhạc Bất Quần sử đi sử lại ba chiêu Lãng tử hồi
đầu (chàng lãng tử quay đầu lại), Thương tùng nghênh khách (những cây tùng xanh
đón khách) và Tiêu Sử thừa long (Tiêu Sử cưỡi rồng mà bay). Ý của Nhạc Bất Quần
đã rõ: lão khuyên Lệnh Hồ Xung nên trở về phái Hoa Sơn và lão sẽ gả Nhạc Linh
San cho Lệnh Hồ Xung để Lệnh Hồ Xung có thể ung dung khoái hoạt như Tiêu Sử cưỡi
rồng mà bay. Lệnh Hồ Xung nào không hiểu ý sư phụ. Nhưng anh dứt khoát phải cứu
mạng Nhậm Doanh Doanh. Và đây cũng là lần đẩu tiên trong đời, kiếm pháp do
Phong Thanh Dương phe Kiếm tông truyền thụ thắng lợi trước kiếm pháp phe Khí
tông của Nhạc Bất Quần. Nhạc Bất Quần giận lắm, lão đá Lệnh Hồ Xung một cước và
cái đá khiến lão gãy xương cẳng chân.Thực ra, chuyện gãy chân chỉ là một màn kịch tuyệt khéo mà chỉ có Nhạc Bất Quần
mới nghĩ ra được. Lúc bấy giờ, lão đang đấu trước mặt Tả Lãnh Thiền, kẻ thù
chính sau này của lão. Lão chưa tiện giở Tịch tà kiếm pháp ăn cắp của
họ Lâm ra mà chỉ dùng Hoa Sơn kiếm pháp. Khi Hoa Sơn kiếm pháp bị Lệnh Hồ Xung
đánh bại, lão nổi nóng đá Lệnh Hồ Xung nhưng công lực của Lệnh Hồ Xung chưa đủ để
khiến chân lão phải gãy. Chuyện gãy chân đó là do lão tự vận công mà làm gãy để
cho Tả Lãnh Thiền phải mất cảnh giác, cho rằng công lực của lão không đáng kể.
Quả nhiên, Tả Lãnh Thiền đã rơi vào bẫy khổ nhục kế của Nhạc Bất Quần.Vâng, mọi âm mưu thủ đoạn của Nhạc Bất Quần đều được tiến hành rất khéo, dưới một
bộ mặt nhân danh người quân tử, khiến mọi người hiểu lầm. Nhưng duy nhất có một
người hiểu rõ mưu đồ của lão. Người đó là bà Ninh Trung Tắc, vợ của Nhạc Bất Quần.
Hơn ai hết, bà biết chồng đã "dẫn đao tự cung" để luyện Tịch
tà kiếm phổ vì từ khi luyện kiếm phổ, lão không hề chăn gối với bà! Nguy
hiểm hơn, bà khám phá ra tâm tình lão đang biến đổi, trở thành người ái nam ái
nữ, độc ác, thủ đoạn. Sáng nào, khi rũ chăn, bà cũng thấy những sợi râu của chồng
rụng, và tiếng nói của lão ngày càng trở nên eo éo, do sự biến đổi phái tính.
Bà khuyên lão đừng vu cáo Lệnh Hồ Xung nữa, từ bỏ giấc mộng làm minh chủ Ngũ nhạc
phái và vứt bỏ tấm áo cà sa có chép Tịch tà kiếm phổ của dòng họ Lâm.
Giả vờ nghe lời vợ, Nhạc Bất Quần vứt tấm áo cà sa xuống thung lũng núi Hoa
Sơn.Nhưng tấm áo cà sa đó đã không mất. Có một người đã nhặt được tấm áo đó sau nhiều
năm rình rập ở căn phòng của Nhạc Bất Quần. Người đó là Lâm Bình Chi, con của
ông bà Lâm Chấn Nam. Bình Chi đã nghi sư phụ đoạt được tấm áo cà sa của nhà
mình và đã luyện được Tịch tà kiếm pháp của nhà mình. Hắn âm thầm
theo dõi thầy và chụp được tấm áo cà sa bị vứt bỏ. Thế là quên mất lời dặn dò của
cha, hắn vội vã "dẫn đao tự cung" ngay khi mới mười chín tuổi
để luyện Tịch tà kiếm phổ!Một ngày nhìn ra hẻm núi, Nhạc Bất Quần không còn thấy tấm áo cà sa nữa. Lão biết
có một ai đó đã lấy được kiếm phổ và "ai đó" chính là Lâm
Bình Chi. Lão đánh tiếp một bước cờ thật cao: gả Nhạc Linh San, con gái yêu của
lão cho Lâm Bình Chi. Vài đêm sau, lão dò hỏi Nhạc Linh San, hỏi con gái có "hạnh
phúc" không. Nhạc Linh San nói dối lão rằng cô rất hạnh phúc. Thực ra
từ khi "dẫn đao tự cung", Lâm Bình Chi đã trở thành một tay thái
giám thì còn làm ăn gì được. Đêm nào hắn cũng ngủ riêng và thù ghét Nhạc Linh
San ra mặt. Chính câu nói dối của Nhạc Linh San đã cứu mạng gã Lâm Bình Chi. Nếu
cô nói rằng sau sau ngày cưới, Lâm Bình Chi chưa hề làm chồng cô đêm nào thì Nhạc
Bất Quần sẽ biết ngay là Lâm Bình Chi đã luyện Tịch tà kiếm phổ và đã
giết Lâm Bình Chi rồi.Bộ mặt thật của Nhạc Bất Quần chỉ hiện ra trong lần đại hội Ngũ nhạc kiếm phái
trên ngọn Tung Sơn. Lão đã sử dụng Tịch tà kiếm pháp thứ thiệt đánh với Tịch
tà kiếm pháp giả mạo của Tả Lãnh Thiền, đâm mù được đôi mắt Tả Lãnh Thiền
bằng những ngón tay dịu dàng như thủ pháp một cô gái đang dùng kim thêu. Lão
lên ngôi minh chủ Ngũ nhạc phái, đúng như dự kiến ban đầu. Bấy giờ, Lệnh Hồ
Xung đã trở thành chưởng môn phái Hằng Sơn; lại được lão o bế, vỗ về khác xa với
ngày đuổi Lệnh Hồ Xung ra khỏi môn phái. Bằng cái nhãn giới của người nhạy cảm,
Doanh Doanh đã nói nhỏ vào tai tình lang Lệnh Hồ Xung ba tiếng nhận xét về Nhạc
Bất Quần: "Ngụy quân tử". Và chỉ đến lúc ấy Lệnh Hồ Xung mới cảm
thấy cụm từ trên thật phù hợp với con người mà anh đã từng yêu mến, kính ngưỡng
bấy lâu nay.Mọi chuyện về cuộc đời Nhạc Bất Quần kết thúc đúng như tinh thần chung của tiểu
thuyết phương Đông: kẻ gieo gió phải gặt bão. Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần trở
thành một kẻ mất hết nhân tính, bỏ vợ, bỏ con, xa lánh học trò, rượt đuổi theo
giấc mơ trở thành minh chủ võ lâm Trung Hoa. Nhưng than ôi, Tịch tà kiếm
pháp của hắn không thể thắng được Độc Cô cửu kiếm mà Phong Thanh
Dương đã truyền thụ cho Lệnh Hồ Xung. Để trừ hậu họa cho tình lang, Nhậm Doanh
Doanh bóp mũi Nhạc Bất Quần, buộc lão phải há miệng uống một viên Tam thi
não thần đan, thứ thuốc độc dùng để khống chế kẻ khác của Triệu Dương thần
giáo. Cuối cùng lão bị tiểu ni cô Nghi Lâm đâm một kiếm qua đời. Còn Lâm Bình
Chi, một kẻ tiểu ngụy quân tử, phong cách ung dung nho nhã đúng y khuôn Nhạc Bất
Quần sư phụ? Hắn cũng nổi điên, giết vợ là Nhạc Linh San. Đôi mắt bị đui mù, hắn
theo Lao Đức Nặc về với Tả Lãnh Thiền. Giấc mơ Tịch tà kiếm phổ tàn lụi
và thay vào đó là tiếng đàn sáo hài hòa trung chính của bộ cầm phổ-tiêu phổ Tiếu
nhạo giang hồ trỗi lên.Năm 1996, trả lời câu hỏi của nhà báo Lê Văn Nghĩa trên tạp chí Kiến thức
ngày nay, nhà báo Trần Bạch Đằng phát biểu, đại ý: nếu trên một hòn đảo cô độc,
ông sẽ đem theo bộ Tiếu ngạo giang hồ để làm bạn vì ông rất ghét Nhạc
Bất Quần và yêu Lệnh Hồ Xung. Suy nghĩ của ông Trần Bạch Đằng cũng là suy nghĩ
của thế hệ độc giả đọc Tiếu ngạo giang hồ. Nhưng than ôi, giữa cuộc sống của
chúng ta, những tay "Quân tử kiếm" cỡ Nhạc Bất Quần còn khá
bộn!Lam Phượng HoàngLam Phượng Hoàng là một “nữ bác sĩ” được xây dựng trong Tiếu ngạo giang hồ của
nhà văn Kim Dung. Cô vốn là người thuộc dân tộc vùng Miêu Cương, vùng Vân Nam
lãnh thổ Trung Quốc, giáo chủ của Ngũ độc giáo. Nghe tiếng chàng trai Lệnh Hồ
Xung đã trở thành tình nhân của Thánh cô Nhậm Doanh Doanh, Lam Phượng Hoàng dẫn
một bọn nữ đệ tử, vượt dòng Hoàng Hà tìm Lệnh Hồ Xung.Gặp nhau trên Hoàng Hà, Lam Phượng Hoàng chẩn bệnh cho Hồ Xung ngay và biết
chàng này mất rất nhiều máu, lại bị mất hết công lực do bị nội thương trầm trọng.
Viên “nữ bác sĩ” hoang dã này đã thực hiện phép truyền máu cho Lệnh Hồ Xung:
kêu bọn nữ đệ tử đến, vén váy đặt đỉa vào cho đỉa hút máu rồi lấy dụng cụ gắp từng
con đỉa ấy vào tĩnh mạch Lệnh Hồ Xung, thoa một chút thuốc vàng vàng vào thân đỉa
để đỉa nhả máu ra. Quả nhiên sau khi được tiếp máu, sắc mặt Lệnh Hồ Xung hồng
hào hẳn lên.Tác giả Kim Dung đã mô tả hình dạng viên “nữ bác sĩ” này khá đẹp, mặc chiếc áo
màu lam có in hoa hồng trắng sặc sỡ, nụ cười quyến rũ và tiếng nói thanh thót
khiến ai nghe qua cũng phải rung động. Cô gọi Lệnh Hồ Xung mà những nam đệ tử
khác của phái Hoa Sơn cứ ngỡ cô gọi mình; tim họ đập thình thịch trong lồng ngực!
Cho đến khi nhìn thấy mấy cặp đùi trắng đẹp của bầy tiên nữ Ngũ độc giáo thì cả
bọn hả họng, líu lưỡi.Tác giả cũng nhấn mạnh người Miêu Cương không như Trung Nguyên, muốn làm gì thì
làm, muốn nói gì thì nói, không phải e dè, che dấu. Sau khi truyền máu, Lam Phượng
Hoàng mời Lệnh Hồ Xung uống rượu Ngũ tiên đại bổ. Ngũ tiên là năm loài trùng độc.
Tất cả đều tự tay Lam Phượng Hoàng ngâm rượu, lại ướp bỏ vào đấy nhiều loại dược
thảo nên rượu khá thơm tho. Lam Phượng Hoàng đem Ngũ tiên đại bổ mời Lệnh Hồ
Xung uống trong khi cả phái Hoa Sơn đều từ chối. Và do vậy, dưới con mắt của
Lam Phượng Hoàng, chỉ có chàng trai Lệnh Hồ Xung mới đáng là nam tử hán, là người
bạn tốt.Tuy không nói rõ ý định, nhưng tự thâm tâm, Lam Phượng Hoàng chỉ mong Lệnh Hồ
Xung gọi mình là “hảo muội tử”. Lệnh Hồ Xung đã đọc trong đôi mắt cô niềm ao ước
đó. Anh cất tiếng gọi cô là “hảo muội tử” làm cô sướng mê đi bởi với người
Trung Nguyên, “hảo muội tử” chỉ là em gái, nhưng đối với người Miêu Cương thì
đó là tiếng gọi tình nhân!Lam Phượng Hoàng ra đi, cả phái Hoa Sơn nôn mửa thốc tháo, trừ chàng Lệnh Hồ
Xung. Lênh Hồ Xung đã uống Ngũ tiên đại bổ của cô, không trúng độc, còn những
người không uống thì bị trúng độc. Chẳng hiểu cô đã phóng độc trong trường hợp
nào. Thật chẳng hổ danh Ngũ độc giáo!Sau này khi lên gò Ngũ Bá Cương bắt mạch cho Lệnh Hồ Xung, đại phu Bình Nhứt Chỉ
khám phá ra trong người của chàng lại dư khí âm hàn do được truyền máu và uống
rượu của Ngũ độc giáo. Bình Nhứt Chỉ đã mạt sát Lam Phượng Hoàng, gọi Lam Phượng
Hoàng là lang băm và cho rằng trên đời này, người ta chết vì lang băm nhiều hơn
là chết vì bệnh tật. Quan điểm của Bình Nhứt Chỉ thật ra cũng chính là quan điểm
của tác giả Kim Dung. Ông quan niệm y học, y thuật và y đạo là những cái mà
không phải ai cũng làm được Những người coi thường tính mạng con người chữa bệnh
theo kiểu thầy bói mù sờ voi thì chỉ có thể là những kẻ hại người, không thể
khoác tấm áo cao quý của người thầy thuốc chân chính. Lời cảnh giác đó rất cần
thiết cho mọi xã hội, mọi thời đại, kể cả xã hội và thời đại chúng ta đang sống.“Nữ bác sĩ” Lam Phượng Hoàng thật ra chỉ chữa bệnh cho Lệnh Hồ Xung theo phương
pháp ngẫu hứng. Trong lòng cô mong được giáp mặt chàng trai đa tình ấy, được
chàng gọi ba tiếng “hảo muội tử”, được hôn chàng một lần trước mặt Nhạc Bất Quần
và bọn đệ tử phái Hoa Sơn trên con thuyền giữa Hoàng Hà đã đủ để nổi tiếng với
đời. Cô vốn là cô gái Miêu Cương tò mò. Thế thôi. Cô biết Lệnh Hồ Xung đâu đến
được với cô, bởi chàng là người tình của Doanh Doanh, mà Doanh Doanh lại là
Thánh cô của cô. Trong cách dùng thuốc của Lam Phượng Hoàng lấp lánh một chút
tình yêu đầu đời lãng mạn. Tiếp theo, rượu bổ chỉ là cái cớ. Cái chính là được
gặp, được nhìn, được nói chuyện, được hôn Lệnh Hồ Xung. Ai nói thầy thuốc trên
đời này không biết yêu và không biết vượt qua ngàn trùng đến hội ngộ với người
mình thầm yêu trộm nhớ? Lam Phượng Hoàng là một “nữ bác sĩ” sống rất tình người,
rất chân thật, xứng đáng là một thầy thuốc có được hai trái tim(?)Đại Phu Bình Nhứt ChỉBình Nhứt Chỉ là một nhân vật quái dị, xuất hiện ba lần, cộng khoảng 15 trang
trong bộ Tiếu ngạo giang hồ của nhà văn Kim Dung, nhưng người thầy
thuốc này lại để lại trong tôi những ấn tượng sâu đậm.Kim Dung ca ngợi nhân vật của mình là Đại phu - tước hiệu một chức quan có từ
thời Xuân thu - Chiến quốc. Tên của nhân vật này là Bình Nhứt Chỉ, ngoại hiệu của
nhân vật là Sát nhân danh y. Tuy gọi là Nhứt Chỉ (một ngón tay) nhưng sát nhân
danh y Bình Nhứt Chỉ vẫn đầy đủ cả mười ngón tay. Cả cái tên và ngoại hiệu có ý
phô trương tài nghệ của nhân vật: Bình Nhứt Chỉ cứu người hay giết người chỉ cần
dùng đến một ngón tay là đủ. Nói cách khác, võ công và y thuật của người này đã
đạt tới trình độ thông thần.Bình Nhứt Chỉ là người thuộc phủ Khai Phong, lưu vực sông Hoàng Hà. Tướng mạo vị
danh y thật cổ quái: “Người lùn mập cao không tới bốn thước mà lưng lại rộng
tới gần bốn thước. Cái đầu cực lớn, dưới hàm lại có túm râu như râu chuột”. Ngược
lại với Bình Nhứt Chỉ, vợ của nhà danh y lại cao lêu nghêu, mặt dài như tấm thớt
và trắng bệch, lông mày thưa rỉnh. Vợ của nhà danh y chính là y tá chuyên bưng
mâm đựng dụng cụ mổ phục vụ cho nhà danh y trong các ca đại phẫu.Đúng như ngoại hiệu của mình, Bình Nhứt Chỉ cứu một người nào thì ông đồng thời
ra lệnh cho người đó giết một người khác. Bình Nhứt Chỉ quan niệm rằng Diêm
vương là một nhân vật sáng suốt, nếu cứ cứu cho người sống hết mà không để cho
ai chết đi thì Diêm vương ắt phải rất bực mình vì không đủ “chỉ tiêu“. Cho nên
Bình Nhứt Chỉ ra lệnh cho bệnh nhân của mình đi giết một người khác - thường là
kẻ tàn ác - là một cách đảm bảo túc số cho Diêm vương. Nói như vậy nhưng trong
suốt tác phẩm Tiếu ngạo giang hồ, Bình Nhứt Chỉ vẫn là một ông thầy thuốc
hiền lành, chẳng ra lệnh cho ai giết ai cả.Ca phẫu thuật mà ta bắt gặp trong tác phẩm là ca Bình Nhứt Chỉ mổ và nối lại
tâm mạch cho Đào Thực Tiên trong nhóm Đào Cốc lục tiên. Đào Thực tiên bị Ninh
Trung Tắc, vợ Nhạc Bất Quần, đâm cho một kiếm trí mạng, đứt cả tam âm lục mạch.
Bình Nhứt Chỉ đã mổ ruột Đào Thực tiên, nối lại tâm mạch, chẳng những làm cho y
khỏe lại hoàn toàn mà còn đảm bảo cho y vẫn giữ được võ công và nội công như
lúc chưa bị thương. Với sự trợ giúp của bà vợ, viên thầy thuốc có những ngón
tay to như trái chuối này khâu vết thương cho bệnh nhân thuần thục như một cô
gái sử kim thêu. Y thuật của Bình Nhứt Chỉ cao cường đến nỗi khâu xong vết
thương, bệnh nhân đã có thể ngoác mồm ra mà cãi lộn được rồi.Thế nhưng có một ca mà Bình Nhứt Chỉ không thể chữa được. Đó là ca bệnh của Lệnh
Hồ Xung. Biết Lệnh Hồ Xung là người tình của Thánh cô Nhậm Doanh Doanh, bọn hào
sĩ hắc đạo hiếu sự mời Bình Nhứt Chỉ đến thăm mạch cho chàng. Trên con thuyền đậu
ở bến Khai Phong, Bình Nhứt Chỉ dùng đủ mười ngón tay để thăm mạch cho Lệnh Hồ
Xung, nói trúng phóc trong con người chàng có bảy luồng chân khí dị chủng đang
tranh đấu nhau và tâm hồn thì rất bạc nhược vì thất tình. Bình Nhứt Chỉ khuyên
bệnh nhân mình cữ bốn món: không nghĩ đến gái, không đánh lộn, không cãi vã,
không uống rượu. Theo Bình Nhứt Chỉ, đàn bà là một thứ gì đó vô vị nhất trên đời!
Có lẽ khi lão phát biểu điều ấy, lão nghĩ đến vợ mình!Bình Nhứt Chỉ tạm xa Lệnh Hồ Xung để mời bảy tay đại cao thủ tham gia hóa giải
bảy luồng chân khí, kết hợp với y thuật của Bình Nhứt Chỉ, khả dĩ làm Lệnh Hồ
Xung lành mạnh như xưa. Thế nhưng Lệnh Hồ Xung bị Nhạc Linh San phụ bạc, hàng
ngày phải chứng kiến cái cảnh Nhạc Linh San âu yếm với Lâm Bình Chi; lại bị Tổ
Thiên Thu dẫn dụ uống tám viên Tục mệnh bát hoàn gồm những dược liệu linh chi,
nhân sâm, hà thủ ô… chỉ dành cho con gái uống; lại được Lam Phượng Hoàng mời uống
rượu Ngũ tiên đại bổ của Ngũ độc giáo Vân Nam…Gặp nhau lần thứ hai trên gò Ngũ Bá Cương, Bình Nhứt Chỉ đã phóng cước đá bay
những tên lang băm được mời về thăm bệnh cho Lệnh Hồ Xung. Bắt mạch Lệnh Hồ
Xung, Bình Nhứt Chỉ khám phá ra tâm thần bệnh nhân hoàn toàn bạc nhược, lại dư
khí âm hàn do uống lộn thuốc của phụ nữ, chẳng khác nào sông Dương Tử, sông
Hoàng Hà đã đầy nước, lại khơi thêm cho nước hồ Động Đình, hồ Bàn Dương chảy
vào để biến thành ngập lụt. Bình Nhứt Chỉ cũng báo tin cho Giang Phi Hồng, một
cao thủ được mời chữa bệnh nội thương cho Lệnh Hồ Xung đã vung kiếm tự tử vì
nghe tin Lam Phượng Hoàng - người mà y theo đuổi bấy lâu nay - đã mời rượu và
ôm hôn Lệnh Hồ Xung. Viên thầy thuốc này thú nhận là không thể chữa trị cho
Lênh Hồ Xung được nữa. Ứng dụng nguyên tắc cứu một người thì phải giết một người,
nay cứu Lệnh Hồ Xung không được, Bình Nhứt Chỉ phải tự giết mình. Viên thầy thuốc
này đã vận đứt kinh mạch mà chết.Bình Nhứt Chỉ là con người huyền thoại trong những con người huyền thoại được
xây dựng trong truyện võ hiệp của Kim Dung. Tác giả làm cho ta ngạc nhiên về y
thuật, y đạo và lương tâm thầy thuốc của nhân vật này. Chỉ trong một khắc suy
nghĩ về bệnh tình của Lệnh Hồ Xung mà mái tóc của Đại phu đã bạc màu, da mặt
nhăn nheo như già đi mấy chục tuổi. Cái chết của Bình Nhứt Chỉ thật sự là một
cách nhận lấy trách nhiệm của người thầy thuốc có tấm lòng đối với cuộc sống,
thể hiện phong cách của nhà nho, của kẻ sĩ trong triết lý Trung Hoa.Từ AQ Tới Vi Tiểu BảoAQ xuất hiện tháng 12.1921 trong truyện ngắn AQ chính truyện của Lỗ Tấn. Tác giả
Lỗ Tấn không nói rõ AQ sinh ngày nào nhưng dường như khi chết đi, AQ đã là một
người thành niên ở độ tuổi trên 30. Họa sĩ Nhật Bản Khuất Vĩ Vi vẽ lại di tượng
AQ, minh họa cho tác phẩm của Lỗ Tấn, rất ngộ nghĩnh: trán hói, đầu lơ thơ mấy sợi
tóc, miệng rộng, khuôn mặt hơi xương xương, mặc chiếc áo có hai mảnh và vụng về,
ngang bụng thắt một sợi dây lưng lớn.Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh ký của Kim Dung sinh ra dưới triều vua Thuận Trị,
nhà Thanh. Khi vua Khang Hy khoảng 14, 15 tuổi thì Vi Tiểu Bảo khoảng 12, 13.
Như vậy có khả năng là Vi Tiểu Bảo sinh khoảng năm 1655, 1656 gì đó tại thành
Dương Châu, dù tác giả Kim Dung, vốn cũng như nhà văn tiền bối Lỗ Tấn, không muốn
nói rõ "hành trạng" nhân vật của mình. Cả hai có một lí lịch lờ mờ,
không rõ ràng lắm.Về mặt chủng tộc, AQ dứt khoát là người Trung Quốc. Cái tên của AQ viết ấm ớ vì
hắn cũng không rõ hắn tên gì. Nếu hắn có được một người em hay một người anh
thì hắn đã có thể là A Quý, nếu hắn sinh vào tháng 8 âm lịch thì có thể hắn là
A Quế (cành quế trên cung trăng). Nhưng hắn không có em, chẳng có anh, không biết
sinh vào ngày tháng năm nào cho nên Lỗ Tấn thận trọng không dùng tên A Quý hay
A Quế, hoặc mô phỏng theo kiểu viết tiếng Anh, phiên âm thành A Quei đặt cho
nhân vật mình mà chỉ gọi ấm ớ là AQ. Chữ A "phi thường" đứng trước
tên hắn xác định hắn là người Trung Quốc thứ thiệt vì tất cả các dân tộc khác
trên thế giới đều không dùng chữ A đửng trước tên người đàn ông phổ biến như ở
Trung Quốc. Ngược lại, ta khó mà xác định nguồn gốc chủng tộc của Vi Tiểu Bảo.
Bà Vi Xuân Phương, mẹ của Vi Tiểu Bảo, là gái làng chơi ở Dương Châu, năm 20 tuổi,
tiếp khách đủ cả Hán, Mãn, Mông, Tạng, Hồi. Thuật chuyện cho con nghe, bà Vi
Xuân Phương cũng không biết được cha thằng bé là ai, chỉ nhớ có một Đạt Ma Tây
Tạng rất say mê bà, thường đến ăn nằm với bà. Bà cho rằng Vi Tiểu Bảo là một
tác phẩm phối hợp của cả năm chủng tộc. Cái tên của Vi Tiểu Bảo cũng rất hay.
Vi là cực nhỏ; Tiểu là nhỏ; Bảo là cái tốt đẹp. Cả họ và tên của Vi Tiểu Bảo có
thể hiểu là cái tốt đẹp nhỏ xíu xìu xiu... Tiểu Bảo hơn AQ ở chỗ có một bà mẹ;
ngoài ra cả hai chẳng có anh em, không bà con thân thích. Thôi thì dẫu là gốc
Tây Tạng, Vi Tiểu Bảo cũng thuộc cộng đồng Trung Hoa, Cả AQ và Vi Tiểu Bảo là
hai nhân vật ưu tú Trung Hoa trong văn học Trung Hoa vậy.Điều ngộ nghĩnh nhất của hai nhân vật này là họ không biết chữ. Họ không được học
hành bởi học trở thành một món xa xỉ phẩm đối với họ. Khá hơn AQ, Vi Tiểu Bảo
nhận biết được chữ Tiểu trong tên của mình vì nó chỉ có ba nét nhưng bảo Vi Tiểu
Bảo viết ra chữ ấy thì hắn chịu thua. Hắn cũng có thiện chí muốn học mấy chục
chữ để làm quan nhưng nhìn đến chữ là đầu nhức mắt hoa, tinh thần lộn xộn. Khi
ký vào bản cung nhận tội, AQ chỉ có thể khoanh một khoanh tròn và dù hắn có đem
hết tâm lực ra, cái khoanh hắn vẽ vẫn méo xẹo. Lộc Đỉnh công Vi Tiểu Bảo ký hòa ước Hắc Long Giang với người Nga cũng thế. Hắn đã ráng hết sức để vẽ một cộng ở
giữa, hai chấm tròn hai bên để gọi là chữ Tiểu nhưng chữ Tiểu ấy xem ra lại giống
bộ phận sinh dục của đàn ông làm các quan nhà Thanh cười ồ, cho là chữ ký cổ
quái. AQ thất học, mấy ngàn năm sống trong sự tăm tối, mê muội; Vi Tiểu Bảo thất
học nhưng may mắn hơn, hắn đắc thủ được hai kinh nghiệm bằng vàng là thói lưu
manh và tinh thần bợ đít từ kỹ viện và hoàng cung. Kết luận của nhà văn Kim
Dung làm cho người đọc kinh ngạc: chỗ cao quý nhất là hoàng cung và chỗ đồi bại
nhất là kỹ viện đều là hai nơi trá ngụy bậc nhất, hai nơi đào tạo ra những nhà
lưu manh học và "bợ đít đại vương" hạng siêu phàm. Khi viết
ra được diều này, Kim Dung xứng đáng được phong danh hiệu trào phúng thượng hạng.Cả AQ của Lỗ Tấn và Vi Tiểu Bảo của Kim Dung đều có chung một phép thắng lợi
tinh thần vĩ đại. AQ từng quắc mắt mắng đối thủ: "Ông cha nhà tao bề
thế hơn nhà mày nhiều. Mày thì ra cái đồ gì". AQ cười, chê cả xóm Vị Trang
đều là thứ ngu vì chẳng ai được lên tỉnh như hắn dù lên tỉnh chỉ để trộm cắp.
Có khi hắn tự tát mình để được nghĩ rằng mình đang tát một người khác. Có khi hắn
tự phong mình là bố của kẻ khác và kẻ đánh hắn là đồ ngu, đồ tồi vì là con đánh
bố. Về hình thức, hắn đánh lộn luôn luôn thua người ta, bị nắm đuôi sam, bị đập
đầu sưng trán nhưng về tinh thần thì hắn thắng lợi to vì là con đánh bố. Hắn tự
nhận mình là sâu, là giun gián để kẻ đánh hắn chỉ đánh được con sâu, con giun.
Hắn tự hào vì mình là kẻ biết khinh mình hạng nhất mà "hạng nhất" là
đã hơn người rồi. Vi Tiểu Bảo cũng thế. Hắn cho trên đời này nghề làm điếm như
má hắn ở thành Dương Châu là một nghề lương thiện. Hắn muốn điếm hóa luôn những
người hắn gặp: "Ta là tổ tiên nhà ngươi". Trên đời này, hắn là
người duy nhất dám chửi Ngọc Lâm đại sư (nhà chân tu ở chùa Thanh Lương), Hối
Thông phương trượng (trụ trì chùa Thiếu Lâm), Thuận Trị hoàng đế, thái hậu,
công chúa. Hắn là người duy nhất dám đánh lộn với nhà vua, công chúa. Cao hứng,
hắn nặn ra một lý lịch rất trâm anh thế phiệt: "Tổ phụ làm quan, bị
quân Thanh kéo qua tàn sát, gia mẫu được một nhà quan ở Dương Châu nuôi dưỡng;
hắn thuộc dòng dõi danh gia vọng tộc ở Dương Châu". Mười hai tuổi, hắn đã
tự xưng là "lão gia", một từ mà người già đứng đắn nhất cũng chẳng
dám tự xưng. Ai mạnh hắn sợ vãi… ra quần, ai yếu hắn khinh, đánh ai không lại
hắn đem tiền nhờ kẻ khác đánh, ai mất cảnh giác hắn lợi dụng, hành hạ được ai đến
nhà tan người chết hắn mới khoan khoái. Chủ nghĩa thắng lợi tinh thần của Vi Tiểu
Bảo hơn AQ một bực, rộng hơn của AQ về phương pháp lập ngôn.AQ và Vi Tiểu Bảo cùng có thói ham đánh bạc. AQ càng đánh càng thua, thậm chí
có khi hắn thắng lớn nhưng bị trấn lột, mất cả vốn lẫn lời. Vi Tiểu Bảo ngược lại,
đánh bạc là phải thắng vì hắn có nghề chơi... bạc lận. Thủ kình của hắn vi diệu
đến nỗi muốn gieo con xúc xắc ngửa mặt nào là có ngay mặt đấy, tất nhiên với điều
kiện con xúc xắc phải được đổ thủy ngân hay đổ chì. Cũng nhờ đánh bạc gài anh
em thái giám Ôn Hữu Phương, Ôn Hữu Đạo mà hắn được gặp mặt vua Khang Hy, đâm giết
được Ngao Bái để trở thành bậc "thiếu niên anh hùng" vang danh Trung
Quốc! Mà hắn cho tất cả cuộc đời đều là canh bạc: từ sinh mạng của các dũng sĩ
núi Vương Ốc đến chuyện đặt tên con là Hổ Đầu, Song Song; tất thảy đều được giải
quyết với con xúc xắc.AQ có một bài hát ruột: Tiểu cô nương thượng phần (Người thiếu nữ trẻ
đi thăm mộ). Ngoài ra, hắn chỉ biết được vài câu hát vặt từ tuồng hát: "Tay
ta cầm con roi sắt, ta đánh nhà ngươi" với một mong ước rất lãng mạn,
rất mơ hồ là được "làm giặc". Vi Tiểu Bảo cũng chỉ có một bài hát ruột
- bài Thập bát mô, một bài hát dâm đãng ở miệt Dương Châu diễn tả 18 chỗ lồi
lõm của thân thể người phụ nữ. Hắn thuộc Thập bát mô từ nhỏ, đến năm
17 tuổi trở lại kỹ viện Dương Châu, hắn tóm được bảy người phụ nữ lên một cái
giường rộng, buông mùng xuống và hát thoải mái: "Một ta sờ, hai ta sờ,
ba ta sờ, sờ trúng cái đùi của thư thư"... Tất nhiên, về văn hóa, hắn cao
hơn AQ rất nhiều: biết nghe kể chuyện sách trong Anh liệt truyện, thích
coi hát các tuồng vui nhộn, thích nghe các thiên cố sự. Nhưng tựu trung, tuồng
tích hay đờn ca, chuyện kể hay cố sự, cái gì có tính chất tục tĩu hắn mới khoan
khoái.Về tình yêu và tình dục, AQ của Lỗ Tấn cực kì nghèo nàn, lạc hậu. Có hai lần
trong đời, AQ tiếp xúc với da thịt phụ nữ: một lần coi hát, hắn véo đùi được một
người đàn bà, một lần bẹo má sư cô am Tĩnh Tu. Lần sau đem lại cho AQ một cảm
giác nôn nao khó chịu đến nỗi tâm trí hắn vốn trong sáng như nước hồ thu, giờ
cũng rộn rã hai tiếng "đàn bà", đưa hắn đến hành vi quỳ xuống trước mặt
vú Ngô và nói: "Tôi muốn ngủ với mình". Chỉ một câu nói như thế
mà hắn bị lão Triệu Bạch Nhãn cho gia đinh dần một trận, lại còn bị phạt vạ đến
mấy trăm quan. Lỗ Tấn khám phá ra nụ cười mà rằng đàn ông Trung Quốc vốn là ông
thánh ông hiền nhưng họ bị đàn bà làm cho hư việc hết ráo. Khác với AQ, Vi Tiểu
Bảo "yêu" sớm, quyết liệt và lai láng. Mười ba tuổi, hắn đã nắm bóp
thân thể quận chúa Mộc Kiếm Bình, 15 tuổi, hắn đã ăn trái cấm với công chúa Kiến
Ninh. Hắn chẳng biết tình yêu là gì; hắn chỉ có tình dục: có đến bảy bà vợ từ
trinh nữ tới gái nạ dòng và một cô bồ người Nga, công chúa Tô Phi Á (Sophia). Hắn
"làm việc" khá đến nỗi hai hỏa thương thủ người Nga báo cáo lại là
công chúa Tô Phi Á ngày đêm chỉ mong nhớ "Trung Quốc tiểu hài đại
nhân" mà lãnh đạm với tất cả các vương tôn, công tử ở Mạc Tư Khoa. Có
thể ở Lộc Đỉnh ký, Kim Dung đã thể hiện phép "thắng lợi tinh thần" của
Hán tộc trên mặt trận tình dục. Vốn xưa, đời nhà Tần đã có một chàng Lao Ái,
thái giám giả hiệu vang danh đến nỗi được Thái hậu Triệu Cơ cưng chiều thì nay
Vi Tiểu Bảo - cũng là một thái giám giả hiệu được Tô Phi Á nhớ nhung, không chừng
cũng là chuyện có thật.Chủ nghĩa khinh khi phụ nữ mới chỉ thấp thoáng trong tư tưởng của AQ thì thật sự
bộc phát trong con người Vi Tiểu Bảo. Từ quận chúa đến công chúa, hắn muốn đánh
thì đánh, muốn mắng thì mắng. AQ chỉ mới dám khinh khi vợ của Tây giả cầy chứ
Vi Tiểu Bảo đã từng thóa mạ công chúa là "con đượi non", từng lột
trần truồng công chúa ra đánh đập nhừ tử rồi mới bảo: "Thế này thì
lão gia muốn... bắt người làm vợ". Với Vi Tiểu Bảo, bất cứ một phụ nữ nào
cũng chỉ ngang hàng với gái làng chơi trong Lệ Xuân viện thành Dương Châu.Cả hai con người ấy đều là hai kẻ trộm cắp. AQ làm lụng không đủ ăn, phải bỏ
xóm Vị Trang lên tỉnh tham gia một đường dây ăn trộm. Vi Tiểu Bảo thì trộm cắp,
thậm chí là cướp giật ngay giữa ban ngày ban mặt. Hắn học được một bài giáo
khoa về nghệ thuật làm quan do Sách Ngạch Đồ dạy: "Đừng nói nặng lắm,
cũng đừng nói nhẹ lắm". Hắn đem bài giáo khoa ấy áp dụng với Ngô Tam Quế,
Ngô Ứng Hùng, Thi Lang và kiếm được mấy trăm vạn lạng. Hắn được chia của khi kiểm
kê tài sản trời cho khiến cho của kếch xù ấy vãi ra tứ phương, mỗi người một
ít, khiến ai cũng ca ngợi hắn là bậc hào phóng đệ nhất triều Thanh!AQ xuất hiện ở đầu thế kỷ 20 trong tác phẩm của Lỗ Tấn nhưng lại là hình ảnh cực
kỳ cổ điển của người Trung Quốc qua mấy ngàn năm. AQ là biểu tượng sinh động của
một chủ nghĩa Hán tộc đầy bi kịch trước thảm họa ngoại xâm do Bát quốc liên
quân gây nên. Cái buổi tranh tối tranh sáng giữa quân chủ và cộng hòa đã biến một
AQ trở nên lạc lõng, xa lạ, đơn độc ngay chính trên quê hương của mình. Vi Tiểu
Bảo tuy là công tước của triều Thanh nhưng lại là con người cực kì hiện đại. Hắn
chính là hình ảnh biểu tượng của một con người Trung Quốc bá nạp các khuynh hướng
hiện đại: vừa trung thành với triều Thanh, vừa phản triều Thanh, khi gia nhập
Thiên Địa Hội, vừa làm trụ trì chùa Thanh Lương, phó trụ trì chùa Thiếu Lâm, vừa
đĩ bợm, cờ gian bạc lận; vừa làm tôi triều Thanh vừa gia nhập Thần long giáo chống
triều Thanh, vừa cao quý vừa đồi bại.Đọc AQ chính truyện, người ta cười ruồi rồi sau đó, người ta xót thương
cho số phận con người Trung Quốc. Lỗ Tấn mổ xẻ thật mạnh, mũi đao của ông chọc
vào các vết thương Trung Quốc mưng mủ không thương tiếc. AQ chết trên pháp trường
một cách hồ đồ. Đọc Lộc Đỉnh ký, người ta cười ha hả. Kim Dung mổ xẻ cuộc
phẫu thuật của ông dài hơi và thật ly kỳ. Vi Tiểu Bảo sống nhăn răng với bảy mụ
vợ xinh đẹp và một gia tài kếch xù. Thế nhưng, người ta không biết hắn ở đâu
trên đất nước Trung Hoa to lớn bậc nhất nhì trên thế giới; không tìm ra được
hành tung của hắn dù nơi đâu hắn cũng có mặt.Kim Dung đã nối tiếp công việc của Lỗ Tấn khi xây dựng một kiểu mẫu người Trung
Quốc trong văn học hài hước. Lạ một điều là văn chương hài hước của Kim Dung lại
là tiểu thuyết võ hiệp, lôi cuốn, hấp dẫn người đọc từ trang đầu tới trang cuối.
Từ AQ đến Vi Tiểu Bảo là một bước tiến lớn trong cái nhìn của hai thế hệ nhà
văn Trung Quốc về hình tượng con người Trung Quốc, là một bước tiến lớn trong kỹ
thuật tiểu thuyết và nghệ thuật hài hước Trung Quốc. Kim Dung và Lỗ Tấn quả xứng
đáng được xếp vào đội ngũ 10 nhà văn kỳ tài của văn học Trung Quốc.25/10/2020Vũ Đức Sao Biển
Cuộc sống chộn rộn, ngài theo tráng sĩ Mao Thập Bát trốn lên Bắc Kinh, lọt được vào cung nhà Thanh. Nơi đây, ngài giết thái giám Tiểu Quế Tử, hóa thành tên thái giám giả hiệu. Ngài trốn vào trù phòng ăn vụng, tình cờ làm quen và kết bạn với Khang Hy (hơn ngài 2 tuổi). Lúc lên 15 tuổi, ngài tằng tịu với em gái nhà vua là công chúa Kiến Ninh, dám chửi nàng là "con đượi non”, chửi thái hậu (giả) là “mụ điếm già”. Trên cơ sở những kiến thức lưu manh đắc thủ tại thành Dương Châu cộng với những kiến thức tu nghiệp được về ngành trá học trong hoàng cung, ngài xứng đáng là nhân vật đệ nhất trá ngụy. Nhờ ném tàn hương, giết được quyền thần Ngao Bái, Ngài được nhà vua phong phó đô thống hoàng kỳ, tước hiệu Ba Đồ Lỗ (Baturu, Dũng sĩ!). Cơ duyên đưa đẩy, ngài may mắn gặp tổng đà chủ Thiên Địa hội Trần Cận Nam, được ông thu nhận làm đệ tử và phong chức hương chủ Thanh Mộc Đường. Đây là một tổ chức chống nhà Thanh, khôi phục nhà Minh. Vi Tiểu Bảo trở thành gián điệp hai mang hết sức suất sắc, phục vụ cho cả Thanh triều và Thiên Địa hội.
Vua Khang Hy đã nhìn thấy chiều sâu văn hóa của Vi Tiểu Bảo: không bao giờ nói đúng bốn chữ Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang; không bao giờ nhớ được câu thành ngữ “thủ khẩu như bình”. Tuy nhiên, vừa ghét bọn quan lại cầu an xôi thịt, vừa mến thằng bé ngộ nghĩnh, miệng trơn như bôi mỡ; nhà vua lần lượt phong cho ngài các chức chánh đô thống hoàng kỳ, tổng quản thái giám, Khâm sai đại thần công cán Vân Nam, Tứ hôn sứ, Phó trụ trì chùa Thiếu Lâm (tỉnh Hồ Nam), Chánh trụ trì chùa Thanh Lương (Ngũ Đài Sơn), Khâm sai xây dựng Trung liệt từ Dương Châu, Tư lệnh mặt trận thủy chiến đánh Thần Long giáo, Lộc Đỉnh công, Tư lệnh mặt trận đánh quân La Sát (người Nga) ở biên giới Trung - Nga, Đại sứ đặc nhiệm toàn quyền đàm phán Trung - Nga. Đảm nhiệm những chức vụ cao cả đó, ngài hoàn thành một số công việc, có khi nghiêm chỉnh, có khi tào lao: ép buộc Ngô Tam Quế tạo phản, cứu mạng được nhiều anh hùng Thiên Địa hội, bắt phò mã Ngô Ứng Hùng, gia nhập Thần Long giáo, ngủ được với bảy phụ nữ Trung Hoa và một phụ nữ Nga, bảo vệ sinh mạng cựu hoàng Thuận Trị, khám phá âm mưu nằm vùng của thái hậu giả thuộc Thần Long giáo, bình trị những âm mưu tạo phản của Mông Cổ và Tây Tạng, bắt được cẩu quan Ngô Chi Vinh, hòa giải mối xung đột Trung - Nga, đánh Trịnh Khắc Sảng - lãnh đạo của thầy mình… Công lao của Vi Tiểu Bảo lớn hơn công lao của bất cứ vị cố mệnh đại thần Mãn Châu.
Nghệ thuật làm quan của Vi Tiểu Bảo rất đơn giản: chửi tục luôn mồm, dùng tiền mua chuộc lòng trung thành của kẻ dưới, tặng quà hậu hỷ cho đồng liêu và sẵn sàng đòi kẻ khác đưa tiền. Qua thăm Ngô Tam Quế, ngài nói một câu kiếm được ba trăm lạng vàng. Trịnh Khắc Sảng dám yêu A Kha của ngài; ngài bắt đánh cho một trận, bắt lấy máu viết lên vải văn tự thiếu một trăm vạn lạng vàng. Ngài là nhân vật đầu tiên dùng nữ vệ sĩ; là nhà sư (giả) làm phó trụ trì một chùa danh tiếng mà dám đánh bạc, chọc gái; là viên tướng duy nhất đi tiểu và bảo quân thụt nước đó vào thành trì của người Nga.
Tuy ngài không biết chữ nhưng vẫn nói khoác đọc được văn tự cổ nòng nọc, ấm ớ một vài từ tiếng Nga như “Tử man cơ” là giết chết đi, “Phục đặc gia tửu” là rượu Vodka, “Hà thư nhi khắc” là món thịt nướng, nhưng vẫn tự hào là mình tinh thông tiếng Nga (?). Khi đại sứ Nga sang Bắc Kinh trình quốc thư, ngài nhận nhiệm vụ phiên dịch. Đại sứ đọc, ngài dịch lưu loát: “Văn thành võ đức, nhân nghĩa anh minh, thương sinh trạch bị, thọ dữ thiên tề…”. Hóa ra đó là những câu nịnh bợ của Thần Long giáo mà ngài lỡ thuộc, không dính dáng gì tới quốc thư của Sa Hoàng. Thế nhưng vua Khang Hy vẫn mặt rồng hớn hở, cười nói mê ly! Bọn quan lại triều Thanh bái phục Vi đại soái không biết đâu mà kể!
Cuối cùng, dù có đùa giỡn đến mấy, Kim Dung cũng phải cho nhân vật Vi Tiểu Bảo của mình trốn ra đi cùng bảy mụ vợ hương trời sắc nước Tô Thuyên, A Kha, Mộc Kiếm Bình, Phương Di, Tăng Nhu, Song Nhi và Kiến Ninh công chúa. Trước đây, họ đã về Dương Châu, bà Vi Xuân Phương nhìn đàn dâu tươi tốt, thầm khen con tinh đời; nếu gã lập nên một viện thì toàn thể các viện ở Dương Châu sẽ sụp tiệm. Nay, chắc Vi Tiểu Bảo không dám về Dương Châu vì sợ vua Khang Hy truy nã. Ngay đến trùm cười Kim Dung cũng chẳng biết nhân vật của mình trốn đi đâu. Viết truyện cười như vậy quả thế gian đệ nhất, bọn hậu sinh ở Tuổi trẻ Cười xin ngả nón kính chào cụ. Ba trăm năm đã trôi qua, tất nhiên cũng chẳng nắm rõ hậu duệ của Vi Tiểu Bảo. Thế nhưng, ở đâu có bia ôm, động điếm; ở đâu có tham nhũng, có dùng tiền để mua chuộc kẻ dưới; ở đâu có chửi tục “con mẹ nó, tổ bà mười tám đời quân rùa đen, phường chó đẻ”; ở đâu có nịnh bợ; ở đâu có kẻ thú nhận “chữ nghĩa biết ta nhưng ta chẳng biết nó” thì ở đó có tinh thần Vi Tiểu Bảo được lưu truyền.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét