梁 昭 明 太 子 分 經 石 臺 梁 朝 昭 明 太 子 分 經 處 石 臺 猶 記 分 經 字 臺 基 蕪 沒 雨 花 中 百 草 驚 寒 盡 枯 死 不 見 遺 經 在 何 所 往 事 空 傳 梁 太 子 太 子 年 少 溺 菸 文 強 作 解 事 徒 紛 紛 佛 本 是 空 不 著 物 何 有 乎 經 安 用 分 靈 文 不 在 言 語 科 孰 為 金 剛 為 法 華 色 空 境 界 茫 不 悟 癡 心 歸 佛 佛 生 魔 一 門 父 子 多 膠 蔽 一 念 之 中 魔 自 至 山 陵 不 涌 蓮 花 臺 白 馬 朝 渡 長 江 水 楚 林 禍 木 池 殃 魚 經 卷 燒 灰 臺 亦 圯 空 留 無 益 萬 千 言 後 世 愚 僧 徒 聒 耳 吾 聞 世 尊 在 靈 山 說 法 渡 人 如 恆 河 沙 數 人 了 此 心 人 自 渡 靈 山 只 在 汝 心 頭 明 鏡 亦 非 臺 菩 提 本 無 樹 我 讀 金 剛 千 遍 零 其 中 奧 旨 多 不 明 及 到 分 經 石 臺 下 終 知 無 字 是 眞 經 .
阮攸
Phiên âm:
Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài.
Lương triều Chiêu Minh thái tử phân kinh xứ,
Thạch đài do kí “Phân kinh” tự.
Đài cơ vu một vũ hoa trung,
Bách thảo kinh hàn tận khô tử.
Bất kiến di kinh tại hà sở?
Vãng sự không truyền Lương thái tử Thái tử.
Thái tử niên thiếu nịch ư văn,
Cưỡng tác giải sự đồ phân phân.
Phật bản thị không bất trước vật,
Hà hữu hồ kinh an dụng phân?
Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa,
Thục vi Kim Cương vi Pháp Hoa?
Sắc không cảnh giới mang bất ngộ,
Si tâm quy Phật Phật sinh ma.
Nhất môn phụ tử đa giao tế,
Nhất niệm chi trung ma tự chí.
Sơn lăng bất dũng liên hoa đài.
Bạch mã triêu độ Trường Giang thủy,
Sở lâm họa mộc trì ương ngư,
Kinh quyển thiêu hôi đài diệc dĩ.
Không lưu vô ích vạn thiên ngôn,
Hậu thế ngu tăng đồ quát nhĩ.
Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn,
Thuyết pháp độ nhân như Hằng Hà sa số.
Nhân liễu thử tâm nhân tự độ,
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu.
Minh kính diệc phi đài,
Bồ Đề bản vô thụ.
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh,
Kì trung áo chỉ đa bất minh Cập đáo phân kinh thạch
đài hạ,
Chung tri vô tự thị chân kinh .
Việt dịch:
Đài đá 'phân kinh’ của thái tử Lương Chiêu Minh.
Nơi phân kinh Chiêu Minh thái tử[1],
Đài đá còn in chữ phân kinh.
Nền hoang hoa dại phủ trong mưa,
Trăm cỏ chết khô run sợ rét.
Chẳng thấy lưu kinh ở nơi nào?
Việc chỉ nghe qua Lương Thái tử,
Ấu thời người lại thích văn chương.
Cưỡng bày chú giải thêm lộn xộn.
Phật vốn là không, vật chấp nào,
Vậy có kinh nào để đặt chia?
Văn linh nào nhờ nơi ngôn ngữ,
Kim Cương, Pháp Hoa là kinh gì?
Cảnh giới sắc không mà không tỏ,
Lòng mê theo Phât, Phật thành ma.
Cha con một nhà đều mù cả,
Một niệm khởi lên ma tự đến.
Lăng tẩm, đài sen không tự mọc,
Một sớm trường giang bạch mã qua,
Cây lây rừng Sở ao cá vạ,
Kinh đốt ra tro đài sập luôn.
Muôn vạn nghìn lời thôi vô ích,
Tăng ngu hậu thế miệng lia thia.
Tôi nghe Thế tôn tại Linh Sơn,
Nói pháp độ người như số cát[2].
Người tỏ tâm này người tự độ,
Linh sơn chỉ tại tấm lòng ngươi.
Gương sáng trong veo cũng không đài,
Bồ-đề xưa nay vốn không cây.
Ta đọc Kim Cương hơn nghìn biến,
Áo chỉ trong kinh không tỏ nhiều.
Cho đến dưới đài đá phân kinh,
Cuối cùng “Vô tự” biết là chân kinh. Qua nội dung bài thơ
này, Nguyễn Du tiên sinh đã cho chúng ta biết được sự thông hiểu về giáo lý Đại
thừa nhà Phật nói chung và, nhất là Thiền Tông Phật giáo nói riêng của cụ,
không những về mặt nghiên cứu học hỏi thâm hiểu thông suốt sâu xa không thôi,
mà ngay cả đến vấn đề thực hành trong tu tập để đưa đến sự đạt ngộ về Thiền
qua “Vô Tự” là chân kinh cũng được cụ thể hiện rốt ráo nữa. Thường những người
nghiên cứu Phật Giáo về Truyện Kiều mà không đọc qua thơ chữ Hán của Cụ thì hầu
hết đều có những cái nhìn sai lạc về Phật Giáo nói chung và về cụ Nguyễn Du
nói riêng. Vì Nhân duyên, tác nhân thọ quả, tội phước báo ứng của Phật giáo
trong truyện Kiều của Cụ Nguyễn Du được Cụ đưa vào để phủ định thuyết Thiên mệnh
của Nho Giáo để trả lại sứ mệnh của con người do chính con người tạo ra trong
chức năng tự tác tự thọ chứ không phải đưa ra để dung hợp hay, đưa ra để tạo
sự mâu thuẫn giữa thiên mệnh và nhân mệnh tạo thành một thế giới quan tiêu cực
hỗn tạp như một số tác giả đã nói. Ở đây chúng tôi sẽ đưa ra một số
nhận định đại diện cho các nhà phê bình từ xưa đến nay về Phật giáo theo quan
niệm hiểu của họ rồi đem gán cho cụ Nguyễn Du qua truyện Kiều và, qua đó
chúng ta đem so sánh với cái thâm hiểu Phật giáo của Cụ Nguyễn Du nói chung
và Thiền tông nói riêng qua bài thơ trên chính Cụ đã làm, nhân chuyến đi sứ
Trung Quốc, về sự thâm hiểu và ngộ nhập vào lý Không Trung đạo của Phật giáo
như thế nào? Để từ đó chúng ta đánh giá đúng thật sự về Cụ Nguyễn Du đã chịu ảnh
hưởng Phật giáo như thế nào, chứ không phải như những nhà học giả phê bình bằng
vào sự tưởng tượng của chính mình đem áp đặt lên cho Cụ, rồi bảo quan niệm của
Cụ về Phật Giáo như thế này, như thế nọ theo ý riêng tư của mình, trong khi họ
không hiểu biết một cách chính xác gì về Phật giáo, hay có biết Phật giáo
cũng thuộc dạng nửa vời, hời hợt, sai lạc khi đề cập về Phật giáo trong truyện
Kiều của cụ Nguyễn Du! Theo cụ Trần Trọng Kim
trong “Lý thuyết Phật học trong truyện Kiều.[3]”
thì cho rằng: “Theo đạo Phật ở đời không có gì là không có nhân duyên,
mà cái nhân duyên đó kết hợp thành cái nghiệp. Cái phần tốt, phần hay của
nàng Kiều là ở chỗ dù khổ sở thế nào, cũng giữ được cái tâm trong sạch, cái bụng
nhân nghĩa và cái sức cố gắng mà phấn đấu với cái nghiệp chướng của
mình. Cái giá trị của con người ta ở đời cốt ở chỗ ấy, mà cái nhân cách
của con người ta có rõ rệt ra là cũng ở chỗ ấy.” “Cái thuyết nhân
quả và cái nghiệp của nhà Phật gần giống như cái thuyết định mệnh
(déterminisme) của triết học bên Tây. Nhưng chỉ khác ở chỗ cái định mệnh
của nhà Phật là do tự mình định ra, chứ không phải tự ở sức ngoài sai khiến. Thành
thử cái thuyết nhân quả vẫn để cho mình có cái hoàn toàn tự do. Mình phải
theo cái nghiệp tự mình gây ra cho mình, chứ không phải cái nghiệp tự đâu gây
ra mà bắt mình phải chịu.” Và cũng trong bài này,
chỗ khác cụ viết: “Nguyễn Du không chỉ giải diễn cái tư tưởng của Phật học ở
trong Truyện Kiều mà thôi, tiên sinh còn làm bài Văn tế thập loại chúng sinh
cũng theo đúng cái tư tưởng ấy.” Chỗ khác cụ Trần Trọng
Kim viết, “cứ như ý tôi thì Truyện Kiều bày tỏ một cách rất rõ ràng cái lý
thuyết nhân quả của nhà Phật.” và cụ Trần Trọng Kim, cho Truyện Kiều là
một tác-phẩm “văn dĩ tải đạo” thật sâu sắc. Điều này chứng tỏ “tiên sinh là một
người học rộng, tinh thông cả Nho học và Phật học.” Còn theo cụ Đào Duy
Anh trong Khảo luận về “truyện Thúy Kiều”[4] đã
viết: “Nhưng Nguyễn Du không
phải là một nhà nho thuần túy. Cái tình đa cảm, những kinh nghiệm đau đớn
đã đem Nguyễn Du đến Phật giáo. Ông không thỏa mãn đối với cái luật ‘bỉ
sắc tư phong,’ vì nó mới chỉ là một nhận xét tuồng như đúng mà chưa cắt nghĩa
rõ ràng về lý do. Người ta vẫn chưa hiểu tại sao lại có cái luật thừa
trừ như thế. Ông không chịu rằng người ta không có trách nhiệm gì về sự
cân nhắc họa phúc của Trời. Ông bèn lấy chữ nghiệp của nhà Phật mà phát
huy cho chữ mệnh của nhà nho. Theo luật nhân quả của Phật thì những điều
người ta làm ở kiếp này là nguyên nhân sẽ sinh ra kết quả ở kiếp sau, mà những
điều người ta làm ở kiếp trước là nguyên nhân sinh ra kết quả ở kiếp
này. Những việc làm trước sinh ra kết quả ở sau gọi là nghiệp.” Và chỗ
khác Cụ viết: “Thực ra tư tưởng nhờ
thiện tâm mà giảm nhẹ bớt được nghiệp chướng để hưởng thụ ngay ở kiếp này thì
không đúng hẳn với quan niệm nhân quả thuần túy của nhà Phật, nhưng nó lại rất
đúng với quan niệm nghiệp báo hay báo ứng phổ thông trong dân gian.
Chính như cái tư tưởng ‘trời định’ (tỷ-dụ, khi Đạm Tiên báo cho Kiều là ‘Đoạn
trướng [đã] sổ rút tên ra’ hoặc khi sư Tam Hợp cho rằng Kiều tuy có ‘hại một
người [Từ Hải, nhưng] cứu muôn người’ thì ‘khi nên, trời cũng chiều người’)
... cũng không có quan hệ gì với Phật lý, nhưng vốn là điều người mình tin lắm,
vô luận là người theo Phật hay theo Nho. Vậy ta nên nói rõ rằng tư tưởng
Phật giáo của Nguyễn Du ở đây là theo tín ngưỡng thông thường của dân chúng.” Còn Theo Cao Huy Đỉnh
Triết lý đạo Phật trong truyện Kiều[5] đã
viết: “Trong cái khối thế giới
quan tiêu cực hỗn hợp của Truyện Kiều,” ông viết, “triết lý Phật chiếm một liều
lượng lớn, vì chất bi quan yếm thế của nó dễ diễn tả nhất những nỗi day dứt
siêu hình ở trong tâm trạng con người, nhất là phụ nữ, nạn nhân cực khổ nhất
của xã hội phong kiến, càng là nạn nhân cực khổ nhất của thời đại Nguyễn
Du. Đạo Nho lúc này đây chỉ còn có những con người đa tình, phong nhã
hào hoa như Kim Trọng, những con người tầm thường sống trong khuôn phép tầm
thường như Thúy Vân, như Vương Quan, những con người biết yêu biết khóc nhưng
không dám hành động như Thúc Sinh, những ông quan lừng chừng như viên tri phủ,
những vị trọng thần ‘mặt sắt cũng ngây vì tình’ như Hồ Tôn Hiến. Đạo Nho rõ
ràng đang suy sụp cùng với cả cái nền tảng xã hội phong kiến của
nó. Cương thường đạo lý của nó không còn sức hấp dẫn nữa.” Ở đoạn khác Cao Huy Đỉnh
viết: “Phải chăng đây
là mối cảm tình đặc biệt của Nguyễn Du và thời đại ông đối với Phật
giáo? Nó át hẳn cái lý của Nho giáo mà ông phải theo một cách gượng gạo. Chữ
‘nghiệp’ [làm] mê muội và an ủi tâm hồn yếu đuối quả đã hấp dẫn được lòng người
đang sợ hãi cái thực tại đầy đau thương và thổi thêm luồng gió bi quan vào
trong cơn bão táp thời đại Nguyễn Du và trong Truyện Kiều.” Và theo Trần Đình Sử,
Thi Pháp truyện kiều[6],
trong phần Truyện Kiều như một đối tượng của văn học so sánh, đã viết: “Thực ra đạo Phật đã bị
khúc xạ khi đi vào truyện Kiều. Nhận xét về sự hỗn dung, pha trộn Phật – Nho
là rất có căn cứ. Trong thơ chữ Hán đã có nhiều bài, nhiều câu thể hiện cho
tư tưởng Phật như: “Hà năng lạc phát “ (Làm sao có thể gọt tóc vào rừng đi
tu), “Mãn cảnh giai không hà hữu tướng, thử tâm thường định bất ly thiền” (Đầy
trời là không, không hình tướng, tâm này thường định vào ý thiền). Còn trong
truyện Kiều thì nghiệp và mệnh trời bổ sung cho nhau, nhân ái và từ bi bổ
sung cho nhau. Nhưng tính chất dung hợp cũng đã làm nhạt nhòe tư tưởng Phật
giáo.” Đó là những quan điểm
đại diện cho các khuynh hướng của các nhà học giả phê bình từ xưa đến nay viết
về Phật giáo theo truyện Kiều của cu Nguyễn Du mà chúng tôi đã trích ra, và
sau đây chúng tôi sẽ trình bày Phật giáo của Nguyễn Du qua sự thâm hiểu và đạt
ngộ củ Cụ như thế nào theo bài thơ mà chính cụ đã viết nhận chuyến đi sứ
Trung quốc: Qua toàn bộ ý tưởng
bài thơ này không những cụ Nguyễn Du đã thâm hiểu một cách triệt để về tư tưởng
Phật giáo Đại thừa, mà nhất là tư tưởng Thiền tông kinh qua thực hành độc tụng
Kinh Kim Cương. Một bản kinh mà Phật giáo Thiền tông Trung quốc đã y cứ vào
đó để cho các hành giả Thiền tu tập[7].
Một bài thơ mà trong đó nó chuyên chở cả hệ thống Thiền tông từ Ấn Độ nơi
khơi mào Thiền tại Linh Thứu sơn qua “Niêm Hoa Vi Tiếu” giữa đức Đạo sư và
Tôn giả Ma-ha Ca-diếp trong việc truyền trao Tâm ấn “Chánh Pháp nhãn tạng,
diệu tâm Niết bàn thực tướng vô tướng truyền riêng ngoài giáo”[8],
truyền mãi cho đến Ngài Bồ-đề Đạt-ma và cho đến Lục tổ Huệ Năng Đại sư Tại
Trung quốc đều được gói ghém trọn trong một bài thơ này để cuối cùng nói lên
chỗ sở ngộ của mình về Kinh Kim Cương. Ngoài những ý chính này ra, Nguyễn Du
tiên sinh cũng để cảnh tỉnh những ai làm việc với tâm hữu sự vì chút danh hay
chút lợi đều đi ngược lại với tư tưởng Thiền giải thoát của đức Đạo sư cả. Dưới
đây chúng tôi sẽ phân tích và chứng minh những điều đó qua thực tế của bài
thơ: Để đi vào chủ đề bài
thơ Nguyễn Du tiên sinh nhân đi thăm viếng những nơi có lẽ theo người Trung
quốc lúc đó thì “Phân Kinh Thạch Đài” xưa kia của Thái tử Lương Chiêu Minh là
một nơi có tiếng tăm nên được nhà nước Trung Hoa vào lúc bấy giờ hướng dẫn
cho các sứ thần nước khác đến viếng thăm hay ít ra chỉ đặc biệt dành cho cụ
Nguyễn Du nước Việt nam nhân chuyến đi sứ Trung quốc vào năm 1813 này thôi? Vào đầu bài thơ Cụ viết: 梁 朝 昭 明 太 子 分 經 處 石 臺 猶 記 分 經 字 臺 基 蕪 沒 雨 花 中 百 草 驚 寒 盡 枯 死 不 見 遺 經 在 何 所. Phiên âm: “Lương triều Chiêu
Minh thái tử phân kinh xứ, Thạch đài do kí “Phân
kinh” tự Đài cơ vu một vũ hoa
trung Bách thảo kinh hàn tận
khô tử Bất kiến di kinh tại
hà sở.” Dịch nghĩa: Nơi phân kinh Chiêu
Minh thái tử [9], Đài đá còn in chữ phân
kinh; Nền hoang hoa dại phủ
trong mưa, Trăm cỏ chết khô run sợ
rét. Chẳng thấy lưu kinh ở
nơi nào? Sự hiện hữu và đổi
thay của mọi hiện tượng tất cả đều do nhân duyên đủ đề hình thành và biến dịch
và chúng bị luật vô thường chi phối nên muôn sự muôn vật thuộc vật lý và cả
tâm lý cũng bị chúng chi phối làm thay đổi biến dịch tất cả, không có một vật
thể nào có thể được gọi là trường tồn vĩnh viễn với thới gian hết. Ở đây đài
phân kinh xưa kia của Thái Tử Lương Chiêu Minh cũng nằm trong quy luật tất yếu
này, cụ Nguyễn Du đến viếng nơi này chỉ còn thấy những hiện vật trơ mờ hai chữ
“phân kinh”, mà không thấy kinh lưu lại nơi nào? Còn chăng chỉ một nền đá
hoang tản phủ đầy hoa cỏ dại nằm trong mưa, trăm loại cỏ cây chết vì sợ giá lạnh
khắc nghiệt của thời tiết. Đối với hiện thực của cảnh vật được cụ Nguyễn Du
chứng kiến qua con mắt của mình khi viếng thăm nơi này chỉ có vậy thôi, còn
việc nghe qua tai thì Cụ viết tiếp như sau: 往 事 空 傳 梁 太 子 太 子 年 少 溺 菸 文 強 作 解 事 徒 紛 紛
Phiên âm: “Vãng sự không truyền
Lương Thái tử Thái tử niên thiếu nịch
ư văn, Cưỡng tác giải sự đồ
phân phân. Dịch nghĩa: Việc chỉ nghe qua
Lương Thái tử; Ấu thời người lại
thích văn chương, Cưỡng bày chú giải
thêm lộn xộn. Về nội dung của việc
phân kinh này như thế nào thì trong hiện tại chỉ thấy qua những sự kiện đổi
thay của sự vật còn nội dung và ý nghĩa của nó thì chỉ có nghe qua người nói
lại biết rằng Thái tử họ Lương lúc còn trẻ tuổi thích văn chương thi phú,
thích nghiên cứu trước tác nên đã cưỡng bày ra việc đem kinh ra giảng giải
chú thích, nhưng cuối cùng nó chỉ mang lại cho người đọc và người đi sau thêm
phần lộn xộn rắc rối mà thôi. Cụ Nguyễn Du đã phê bình việc làm này của Thái
tử Lương Chiêu Minh và cho cả những người đi sau như chúng ta nữa, đó là một
việc làm trói buộc trái với đạo lý giải thoát của đức Đạo sư, Cụ viết tiếp: “佛 本 是 空 不 著 物 何 有 乎 經 安 用 分 靈 文 不 在 言 語 科 孰 為 金 剛 為 法 華 色 空 境 界 茫 不 悟 癡 心 歸 佛 佛 生 魔 一 門 父 子 多 膠 蔽. Phiên âm: “Phật bản thị không bất
trước vật Hà hữu hồ kinh an dụng
phân Linh văn bất tại ngôn
ngữ khoa Thục vi Kim Cương vi
Pháp Hoa Sắc không cảnh giới
mang bất ngộ Si tâm quy Phật Phật
sinh ma Nhất môn phụ tử đa
giao tế. Dịch nghĩa: “Phật vốn là không,
không chấp vật Vậy có kinh nào để đặt
chia? Văn linh nào nhờ nơi
ngôn ngữ Kim Cương, Pháp Hoa là
kinh gì? Cảnh giới sắc không mà
không tỏ Lòng mê theo Phât, Phật
thành ma Cha con một nhà[10] đều
mù cả.
Ngay đến Phật dù mang hình thức vật hay là tâm cũng đều là hư vọng, giả
danh như huyễn đứng về mặt tướng, còn nếu đứng về mặt thể thì là Không, là
tánh không, vì tất cả đều hiện hữu nhờ vào các duyên mà có. Có này chỉ là một
tập hợp của năm uẩn (sắc (đất, nước, gió, lửa) thọ, tưởng hành, thức) không
có bản chất nhất định nào của năm uẩn này làm chủ nên nó là không. Tóm lại Phật,
nếu đứng về mặt tướng thì Phật là như huyễn, nếu đứng về mặt thể thì là tánh
không, cho nên ở đây cụ Nguyễn Du đã nói lên được chỗ tột cùng của tướng chân
thật của Phật là Không. Và ở đây tướng và thể của Phật là như huyễn và, tánh
của Phật là tánh không, vậy chúng ta dựa vào cái gì để mà chấp trước? Ngay đến
Phật còn không, huống chi là kinh pháp, vậy chúng ta lấy gì đặt để và phân
chia? Như trong Kinh Kim Cương đức Đạo sư đã dạy: “Phàm sở hữu tướng, giai thị
hư vọng. (Phàm vật gì có tướng mạo, đều là hư vọng.)” Và cũng trong
Kinh kim Cương chỗ khác đức Đạo sư dạy: “Nhứt thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn
bào ảnh, như lộ diệc như điễn, ứng tác như thị quán.[11] (Tất
cả pháp có tạo tác, như mộng, huyễn, bọt, ảnh, như sương cũng như điện, nên
quán chúng như vậy). Do vậy cho nên cụ Nguyễn Du đã phê bình sự sai lầm của
Thái tử Lương Chiêu Minh trong cách hiểu Phật và giáo pháp của Ngài nên đã
làm một công việc không có ích lợi gì hết, Thái tử chỉ hiểu biết Phật qua
hình thức mà thôi còn cốt tủy của Phật và giáo pháp của Ngài lại không hiểu
biết gì hết nên bày ra việc phân chia kinh điển luận giải lôi thôi! Như Cụ đã
nói Văn linh không cần nhờ vào ngôn ngữ. Ở đây cái linh văn chính là phần cốt
tủy nội dung của nó chứ không phải ở nơi ngôn ngữ lời nói; chính kinh Kim
Cương, kinh Pháp Hoa cũng vậy. Pháp Hoa, Kim cương chỉ là sự tập hợp của ngôn
ngữ, mà ngôn chỉ là mang hình thức nâng đỡ cho nội dung của nó chứ ngôn ngữ
không phải là nội dung của chính nó, do đó chúng ta không nên chấp vào hình
thức văn tự của Pháp Hoa hay Kim Cương, vì hình thức không là gì hết, nếu
chúng ta căn cứ vào hình thức ngôn ngữ để đánh giá nó thì đó là một việc làm
theo cụ Nguyễn Du là sai lầm, không đúng tôn chỉ và, xa lìa cốt tủy của nó.
Theo cụ Nguyễn Du nếu muốn thông hiểu Phật pháp cho đúng thì phải thông hiểu
cảnh giới sắc-không, bằng không hiểu cảnh giới sắc-không thì chúng ta là những
kể mê không bao giờ hiểu đúng những lời dạy của Phật hết; cho dù chúng ta đem
lòng mê muội này để đi theo Phật, thì theo Cụ, Phật mà chúng ta theo đó cũng
thành ma mà thôi! Để kết luận cho việc làm này của Thái tử Lương Chiêu Minh,
Cụ Nguyễn Du đã bảo Thái tử và cha của Thái tử là Lương Vũ Đế cả nhà hai cha
con đều mù cả là vậy. Vì sao ở đây cụ Nguyễn Du bảo cả hai cha con của Lương
Vũ đế đều mù cả? Vì như theo Pháp
bảo Đàn kinh[12]: “Một hôm Lục Tổ đăng đàn nói pháp thì, Vi Thứ Sử hỏi Sư rằng: “Đệ tử
có nghe khi Đạt-ma mới giáo hóa cho Lương Võ Đế. Đế
có hỏi rằng: "Một đời
Trẫm xây dựng chùa chiền, cúng dường chúng Tăng, bố thí thiết trai, vậy có
công đức gì không?" Đạt Ma dạy: "Thật chẳng có công đức gì cả". Đệ
tử chưa rõ được lý này, mong Hòa Thượng vì đệ tử mà chỉ dạy. Sư dạy: “Thật chẳng có công đức gì cả, chớ nghi ngờ lời nói của Thánh xưa. Vì
Võ Đế mang tâm tà nên chẳng hiểu chánh pháp. Việc xây dựng chùa chiền, cúng
dường Tăng chúng, bố thí thiết trai là những việc cầu phước, chẳng thể đem
phước đó để làm công đức được. Công đức thì ở trong pháp thân chứ chẳng phải ở
việc tu phước.” Theo Phân kinh thạch đài của Thái tử Lương Chiêu Minh và những điều hỏi của
Vua cha Lương Vũ Đế đối với Tổ sư Bồ-đề Đạt-ma về công đức làm phước theo
nhân quả thì ở đây rõ ràng cũng giống việc làm của người con thôi. Vì vậy cho
nên Cụ Nguyễn Du mới bảo là “Cha con một nhà đều mù cả” là như vậy. Qua việc phê bình này rõ ràng Cụ Nguyễn Du không những chỉ thâm hiểu về
Giáo lý Đại Thừa không thôi, mà nhất là đối với Thiền tông Cụ cũng thông suốt
tất cả về cả hai mặt về lịch sử truyền thừa và tư tưởng, nhất là việc thực
hành Thiền tông hằng ngày của Cụ, chúng tôi sẽ đề cập đến sau. Ở đây chúng
tôi xin đề cập đến sự thông hiểu Giáo lý Đại thừa của Cụ, nếu đối với Phật
giáo Đại thừa mà Cụ chưa thông hiểu thì đương nhiên trong bài thơ này cụ đã
không lấy kinh Pháp Hoa ra để làm điển tích thí dụ cùng với kinh Kim Cương một
bản kinh được Thiền tông Trung Hoa lấy làm nền tảng tu học cho các tồng đồ của
mình. Kinh Pháp Hoa một bản kinh trung gian đưa người Tiểu thừa lên Đại thừa
qua nhịp cầu khai Quyền – hiển Thật (Vì Quyền pháp ba thừa dẫn độ chúng sanh
nên tạm nói có ba thừa, với mục đích là phương tiện nói Quyền để mà hiển Thật,
tức là tạm vì căn cơ chúng sanh mà nói ba thừa để hiển bày một thừa, đó chính
là Phật thừa). Từ cửa Tích môn 14 phẩm trước Phật phương tiện nói
pháp ba thừa (thời gian nói kinh pháp từ khi Đạo sư thành đạo cho đến Pháp
Hoa hội thượng thì pháp ba thừa là phương tiện, quyền pháp, còn pháp nhất thừa,
tức Phật thừa mới là Thật pháp) đến cửa Bản môn 14 phẩm sau của
Kinh Pháp Hoa (đức Đạo sư thuyết về Thân Phật từ lúc thị hiện Đản sinh cho đến
lúc thành đạo dưới bóng cây Boddhi và cho đến nay (lúc nói kinh Pháp Hoa),
thân này chẳng phải là thật thân của Ngài, mà đã từ lâu ngài đã thành tựu
pháp thân chân thật rồi, vì muốn cứu độ chúng sanh nên Ngài mới
phương tiện mượn ứng hóa thân này thành tựu dưới bóng cây Bồ-đề hóa độ mà
thôi.) Với mục đích nhằm khai quyền hiển thật mới thật sự nhìn ra được tướng
chân thật của các pháp vốn là Không, tướng chúng là tướng Không tịch, xưa nay
chúng thường là tướng tịch diệt không sở hữu, như một đoạn trong bài kệ trong
Kinh Pháp Hoa[13] đức
Đạo sư dạy Tôn giả Xá-lợi-phất: “… 是故舍利弗! 我為設方便, 說諸盡苦道, 示之以涅槃。 我雖說涅槃, 是亦非真滅, 諸法從本來, 常自寂滅相。 佛子行道已, 來世得作佛, 我有方便力, 開示三乘法。 一切諸世尊, 皆說一乘道, 今此諸大眾, 皆應除疑惑, 諸佛語無異, 唯一無二乘。…” Phiên âm: “…Thị cố Xá-lợi-phất, Ngã vị thuyết phương
tiện, Thuyết chư tận khổ đạo, Thị chi dĩ Niết –bàn. Ngã tuy thuyết Niết-bàn, Thị diệc chi chân diệt; Chư pháp tùng bản
lai, Thường tự tịch diệt tướng. Phật tử hành đạo dĩ, Lai thế đắc tác Phật, Ngã hữu phương tiện lực, Khai thị tam thừa
pháp. Nhất thiết chư Thế
Tôn, Giai thuyết nhất thừa
đạo; Kim thử chư đại chúng, Giai ưng trừ nghi hoặc, Chư phật ngữ vô dị, Duy nhất vô nhị thừa
…” Dịch nghĩa: Cho nên Xá-lợi-phất Vì phương tiện Ta nói Thuyết con đường hết
khổ Dẫn đạo đến Niết-bàn. Tuy Ta nói Niết-bàn Đó cũng chẳng diệt thật Các Pháp từ xưa nay Thường ở tướng tịch diệt. Phật tử đã hành đạo, Đời sau được làm Phật; Ta có sức phương tiện. Khai mở pháp ba thừa. Tất cả các Thế Tôn, Đều nói đạo Nhất thừa, Nay trong đại chúng
này, Cần phải trừ nghi hoặc, Chư Phật không khác lời, Chỉ một, không hai thừa. Ở đây Cụ nhờ đã thâm
hiểu kinh Pháp Hoa của Đại thừa về cốt tủy của nó nên đồng với Kinh Kim Cương
trên mặt lập tông chỉ về thật tướng của các pháp, nên Cụ đã đưa kinh Pháp Hoa
và Kinh Kim Cương vào đây như là một điển tích, từ đó phương tiện phá hủy mọi
hình thức có tính ước lệ trói buộc, mà đi sâu vào thật tướng của các pháp, xa
lìa hết mọi vọng tưởng phân biệt chấp trước của các pháp hữu vi hữu lậu, đạt
đến cứu cánh Không tịch Niết-bàn tối hậu. Chỉ có như vậy mới hiểu đúng và đi
đúng con đường Trung Đạo của đức Đạo sư để lại mà thôi. Đó là sự thâm hiểu Phật
pháp Đại thừa qua kinh Pháp Hoa và kinh Kim cương của Cụ, và nhất là Cụ Nguyễn
Du đã lựa chọn bộ kinh Kim Cương lấy làm nền tảng cơ bản cho pháp tu của
mình, trong thực hành tu tập thường ngày khi chưa thâm ngộ ra thực tướng của
các pháp. Theo chân lý tối hậu của đức Đạo sư thì khi chúng ta chưa tỏ ngộ được
cảnh giới sắc không thì như cụ đã nói lòng mê theo Phật cũng thành ma, dù
chúng ta có nói đến cảnh giới thực chứng của thánh trí đi chăng nữa thì, cảnh
giới đó cũng biến thành ma như trong kinh Viên Giác đức Đạo sư đã dạy ngài
Kim Cang Tạng và, ở đây với cụ Nguyễn du cũng vậy: “Lòng mê theo Phật,
Phật thành ma.” Cho nên theo cụ khi chúng ta chưa ngộ đạo thì chúng ta
đang sống với cảnh giới mê vọng, nên trong mọi ý nghĩ khởi lên đều mang hình
bóng của mê lầm, mà theo đức Phật thì thế giới mê lầm vọng tưởng là thế giới
của ma. Vì sao thế giới vọng
tưởng mê lầm gọi là thế giới của ma, vì ma đại diện cho thế lực vô minh vọng
tưởng điên đảo sai lầm tạo ra khổ đau, vì vậy nên đức Phật bảo muốn thoát khổ
được vui an ổn hạnh phúc thật sự thì phải giải thoát khổ qua con đường trung
đạo bát chánh. Cũng vì lý do này nên cụ Nguyễn Du đã khuyên cáo các vị Tăng
sau này trong đó có chúng ta là: “Một niệm khởi lên ma tự đến.” Hãy cẩn
thận trong mọi ý nghĩ mang mầm móng trói buộc phiền não khổ đau. Vì mọi ý
nghĩ của chúng ta khi còn là chúng sanh thì ý nghĩ khởi lên đều mang mần móng
của khổ đau và trói buộc phiền não do ba độc tham sân si gây nên cả. Đây
chính là tác nhân vọng tưởng điên đảo của ma mà chúng ta gây nên và sau đó sẽ
đưa đến những thọ quả tương ứng với những tác nhân mà chúng ta đã gây ra. Tất
cả mọi hiện tượng tâm vật lý của thế giới quan có được này đều phát sinh từ
chánh báo (nghiệp báo chính mà chúng ta đã tạo ra kiếp trước nay thọ quả báo
qua kiếp người trong hiện tại) cùng y báo (xứ sở là duyên đủ và hợp với chánh
báo nơi chúng ta sinh ra) của các hữu tình chúng sanh cả, chúng lệ thuộc vào
luật tắc nhân quả mê lầm điên đảo của hữu lậu pháp tạo ra chứ không có bất cứ
hiện tượng nào được gọi là ngẫu nhiện hay tự nhiên sinh ra, mà chúng phải do
nhân duyên đủ hòa hợp nhau mà hiện hữu: 一 念 之 中 魔 自 至 山 陵 不 涌 蓮 花 臺 白 馬 朝 渡 長 江 水 楚 林 禍 木 池 殃 魚 經 卷 燒 灰 臺 亦 圯 空 留 無 益 萬 千 言 後 世 愚 僧 徒 聒 耳
Phiên âm: “Nhất niệm chi trung
ma tự chí. Sơn lăng bất dũng liên
hoa đài. Bạch mã triêu độ Trường
Giang thủy, Sở lâm họa mộc trì
ương ngư, Kinh quyển thiêu hôi
đài diệc dĩ. Không lưu vô ích vạn
thiên ngôn, Hậu thế ngu tăng đồ
quát nhĩ.” Dịch nghĩa: “Một niệm khởi lên ma
tự đến. Lăng tẩm, đài sen
không tự mọc, Một sớm trường giang bạch
mã qua, Cây lây rừng Sở ao cá
vạ, Kinh đốt ra tro đài sập
luôn. Muôn vạn nghìn lời
thôi vô ích, Tăng ngu hậu thế miệng
lải nhải.”
Trong một niệm khởi
lên phải phát xuất từ một nguyên nhân nào đó, lăng tẩm không tự dưng mọc lên
đài sen, ngựa trắng vượt trường giang vào một sớm không phải là không có
nguyên nhân, nguyên nhân đưa đến kết quả rừng Sở cháy và, rừng Sở cháy là
nguyên nhân đưa đến vạ lây cho cá, kinh đã đốt đâu còn nữa, đài cũng sập
luôn, tất cả mọi hiện tượng sinh ra và biến dịch đi đều có nguyên nhân của
nó. Chúng bị luật vô thường chi phối, không có bất cứ hiện tượng tâm vật lý
nào tồn tại mãi mãi với thời gian, do đó chúng ta không thể chấp vào bất cứ
hiện tượng có được do nhân duyên đủ hòa hợp mà hiện hữu đó cho là có thật là
chân lý, mà chúng chỉ là những hiện hữu giả hợp, giả danh do nhân duyên sinh
ra, nên chúng không có tự tánh hay bản thể nhất định nào và, như vậy chúng là
không, không có sở hữu. Vậy thì viêc gì chúng ta phải nhiều lời về chúng, vì
những hiện hữu đó rồi sẽ bị luật vô thường chi phối không còn là chính nó nữa,
nên sự đánh giá của chúng ta về sự hiện hữu tạm thời này là không đúng như cụ
Nguyễn Du đã cảnh cáo trong câu: “Muôn vạn nghìn lời thôi vô ích.” nhiều
lúc làm hại cho người đi sau và, nhất là những vị tăng vô học đời sau sẽ dựa
vào đó mà rêu rao thuyết giảng nhảm nhí! Chúng chả có ích lợi gì, khi chúng
không còn là chính chúng trong giây phút sau đó, như một tế bào chẳng hạn, điều
này chúng rất phù hợp với nền khoa học hiện đại của chúng ta đang phát triển.
Qua đây chúng ta thấy kiến thức và sự thâm hiểu Phật giáo Đại thừa của cụ
Nguyễn Du thật là sâu sắc và chính xác; để từ sự thâm hiểu sâu xa và chính
xác này đã đưa cụ Nguyễn Du đến việc thực hành Phật giáo Thiền tông qua kiến
thức thông hiểu lịch sử truyền thừa Thiền Tông từ Ấn Độ đến Trung hoa như dưới
đây chính cụ đã tự viết lên sự thật đó. “吾 聞 世 尊 在 靈 山 說 法 渡 人 如 恆 河 沙 數 人 了 此 心 人 自 渡 靈 山 只 在 汝 心 頭 明 鏡 亦 非 臺 菩 提 本 無 樹.
Phiên âm: “Ngô văn Thế Tôn tại
Linh Sơn Thuyết pháp độ nhơn
như Hằng hà sa số Nhơn liễu thử tâm nhơn
tự độ Linh sơn chỉ tại nhữ
tâm đầu Minh kính diệc phi đài Bồ-đề bổn vô thọ. Dịch nghĩa: Tôi nghe Thế tôn tại
Linh Sơn[14], Nói pháp độ người như
số cát[15]. Người tỏ tâm này người
tự độ, Linh sơn chỉ tại tấm
lòng ngươi. Gương sáng trong veo
cũng không đài, Bồ-đề xưa nay vốn
không cây.
Như trên chúng tôi đã đề cập đến, Linh Thứu sơn chính là đỉnh núi đức Thế Tôn
đã mở ra pháp hội truyền trao Phật tâm tông cho người đồ đệ của mình là Tôn
giả Ma-ha Ca-diếp, như lịch sử truyền thừa của phái này đã truyền dạy. Chính
trong pháp hội Linh sơn đức Thế Tôn ở giữa đại chúng cầm cành hoa giơ lên giữa
mọi người và im lặng; nhưng trong chúng này không có một người nào thấu hiểu
được việc làm của đức Đạo sư mang ý nghĩa gì, nên mọi người hoàn toàn im
lăng, duy nhất chỉ có một mình Tôn giả Ma-ha Ca-diếp là rạng mặt mỉm cười, đức
Đạo sư liền tuyên bố: “Ta có chánh pháp nhãn tạng diệu tâm Niết-bàn, thực
tướng vô tướng, bất lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo. Nay trao lại cho
Ma-ha Ca-diếp tôn giả.”[16] Từ
Tôn giả Ma-ha Ca-diếp truyền xuống Tôn giả A-nan và cho đến Bồ-đề Đạt-ma Tổ
28 của Ấn Độ và cũng là Tổ thứ nhất của Thiền tông Trung Hoa. Từ Bồ-đề Đạt-ma
truyền xuống Đại sư Huệ Năng tổ thứ sáu của Trung Hoa. Qua đoạn thơ trên Cụ
Nguyễn Du đã cho chúng ta thấy rằng không những cụ chỉ thâm hiểu sâu xa về Phật
giáo Đại thừa không thôi, mà ngay đến Thiền sử truyền thừa bên Thiền tông Người
cũng nắm vững một cách rõ ràng và hệ thống. Thiền Trung hoa nổi lên từ Lục Tổ
mà vị Tổ thứ năm là Thiền sư Hoằng Nhẫn thầy truyền lại y bát cho Lục Tổ Huệ
Năng qua Kinh Kim Cương, nhưng bài kệ nổi tiếng của ngài Huệ năng như dưới
đây, không phải là bài kệ chính thức ngộ đạo của Ngài: “菩 提 本 無 樹 明 鏡 亦 非 臺 本 來 無 一 物 何 處 惹 塵 埃。[17]” Bồ đề bổn vô thọ Minh kính diệc phi đài Bổn lai vô nhất vật Hà xứ nhạ trần ai? “Bồ-đề vốn không cây Gương sáng cũng không
đài Xưa nay không một vật Nơi nào bụi nhơ bám?” Mà nó phát xuất từ cuộc
đối đầu lại tư tưởng Thiền giáo của Thần Tú qua bài kệ: “身 是 菩 提 樹 心 如 明 鏡 臺 時 時 常 拂 識 勿 使 惹 塵 埃。” Thân thị Bồ-đề thọ Tâm như minh kính đài Thời thời thường phất
thức Vật sử nhá trần ai.[18] “Thân là cây Bồ-đề Tâm như đài gương sáng Luôn luôn siêng lau
chùi Chớ đẻ bụi nhơ bám!” Nhằm để phủ định
phương pháp Thiền tiệm tu luôn luôn siêng lau chùi bụi nhơ nơi tâm mình của Đại
sư Thần Tú, mà chủ trương ngược lại chỉ cần thấy tánh tức khắc thành Phật
không cần phải siêng năng lau chùi như chủ trương của Thần Tú qua hai câu:
“Người tỏ tâm này, người tự độ, Linh Sơn chỉ tại tấm lòng ngươi!”. Linh
sơn ở đây chỉ là một ẩn dụ được cụ đưa ra để tỏ ra chính nó là cõi lòng của mỗi
người. Thứ nữa là nói lên tinh thần không một vật xưa nay của các pháp vốn
không, không có sở hữu vì tính duyên khởi tính không của chúng. Đó là những
gì cụ Nguyễn Du đã học hỏi được từ lịch sử Thiền từ Pháp Hội Linh Sơn nơi đất
Ấn Độ đến Hoàng Mai nơi đất Trung hoa, cụ đã mượn nửa bài kệ trên của Lục Tổ
Đại sư dạy lại cho chúng ta nhân cuộc viếng thăm Phân kinh thạch đài của Thái
tử Lương Chiêu Minh nhà Lương Trung quốc. Qua đoạn thơ trên cụ cho chúng ta
thấy rằng, Núi Linh thứu là một danh sơn, nơi xưa kia đức Đạo sư đã từng thuyết
nhiều bộ kinh Đai thừa quan trọng và, độ vô số chúng sanh như số cát sông Hằng,
mà Cụ đã nhắc lại trong bài thơ này. Nơi đây cũng là nơi chính đức Đạo sư
truyền trao chánh pháp nhãn tạng cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp vị Tổ đầu tiên của
Thiền tông Ấn Độ để truyền mãi về sau này sang Trung quốc qua hai câu cụ mượn
lại trong bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng : “Gương sáng trong veo cũng không đài,
Bồ-đề xưa nay vốn không cây.” để phủ định những hiện tượng đang hiện hữu có
được đều là hư vọng như trong kinh Kim cương chính đức Đạo sư đã dạy: “Phàm vật
gì có tướng đều là hư vọng”[19].
Từ những thâm hiểu về Phật giáo Đại thừa và nhất là đối với Thiền tông nên từ
đó Cụ đã trở thành một hành giả tu tập Thiền theo Kinh Kim Cương. Không biết
sự tu tập Thiền của Cụ có Thầy hướng dẫn hay không? Điều này chúng ta không
thấy trong văn thơ Cụ để lại, nhưng có một điều chính đích thân cụ nói ra
trong thơ văn của mình là đã từng đọc tụng hàng nghìn lần kinh Kim Cương đó
là một việc có thật như đoạn thơ kết của bài thơ trong Phân Kinh Thạch Đài dưới
dây: 我 讀 金 剛 千 遍 零 其 中 奧 旨 多 不 明 及 到 分 經 石 臺 下 終 知 無 字 是 眞 經 .” Phiên âm:
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh,
Kì trung áo chỉ đa bất minh Cập đáo phân kinh thạch
đài hạ, Chung tri vô tự thị
chân kinh .”
Dịch nghĩa: Ta đọc Kim Cương hơn
nghìn biến,
Áo chỉ trong kinh không tỏ nhiều.
Cho đến dưới đài đá phân kinh,
Cuối cùng “Vô tự” biết là chân kinh.” Việc độc tụng kinh Kim
Cương, nếu như không phải là một hành giả tu Thiền tông thì dứt khoát không
bao giờ có ai bỏ hàng nghìn lần ra để ngồi đó mà đọc tụng kinh Kim Cương chơi
hay nghiên cứu, mà chỉ có những hành giả hành trì Thiền tông mới làm được những
việc này. Vì bản thân bộ kinh Kim Cương không phải là một bộ kinh dễ đọc tụng,
vì chúng đòi hỏi người độc tụng phải có trình độ căn cơ vượt lên trên hệ thống
nhân quả, phải là người nắm bắt được thật tướng của các pháp qua kiến thức nhờ
vào định thức Duyên khởi mới có thể phù hợp với bản kinh này. Nếu người nào
không có trình độ này thì chỉ cần độc tụng qua một lần thì sẽ thối lui, hoặc
có độc tụng đi nữa cũng dưới dạng độc tụng để tu phước mà thôi. Hơn nữa như
chính Cụ Nguyễn Du trong bài thơ đề động Nhị Thanh đã từng viết là: “… 滿 境 皆 空 何 有 相 此 心 常 定 不 離 禪。 Phiên âm: "… Mãn cảnh
giai không hà hữu tướng Thử tâm thường định bất
ly Thiền...”[20] Dịch: … Mọi cảnh đều không,
có tướng sao? Tâm này thường định,
chẳng lìa Thiền…” Đích thị là Cụ đã tự
giới thiệu cho mọi người biết là Tâm cụ không bao giờ lìa Thiền định, có
nghĩa là cụ luôn luôn ở trong thiền định. Vậy thì những việc làm của Cụ đó
không phải là một việc làm của hành giả đang hành Thiền tu tuệ đó là gì!? Vì
cốt tủy của bộ kinh Kim Cương chính là một phương pháp tu để trụ tâm và hàng
phục Tâm mình qua công án: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm?[21] (Nên
trụ vào không chỗ, mà sinh tâm mình.)”. Xưa kia Lục Tổ Huệ Năng cũng qua
Công án này mà ngộ lý Thiền và, bây giờ cụ Nguyễn Du cũng qua Kinh Kim Cương
để thực tập Thiền hàng nghìn lần độc tụng và cuối cùng Cụ cũng tỏ ngộ được bộ
kinh này qua “Đài đá phân kinh” nhân tố cuối cùng của một quá trình tu tập đó
đã làm bùng vỡ nghi tình của công án Thiền thuộc kinh Kim Cương. Nó là giọt
nước cuối cùng đổ vào công án nghi tình này làm bùng vỡ tâm hữu vô của Cụ.
Qua việc ngộ kinh Kim cương này cụ giờ đây đích thực là một thiền sư, là Thiền
sư Tố Như – Nguyễn Du theo nghĩa truyền thửa của nó chứ không còn là một học
giả Phật học hay học giả của Thiền tông chỉ hiểu biết qua trên mặt kiến thức
không thôi. Qua bài thơ này Cụ
Nguyễn Du đã tự giới thiệu cho chúng ta biết rằng Cụ là người thông hiểu Phật
pháp Đại thừa và nhất là thông hiểu lịch sử truyền thừa Thiền Tông và không
những thế chính Cụ là một hành giả tu tập Thiền tông như thế nào? Ở đây chúng
tôi không phải là những người không thông hiểu gì về Phật giáo và nhất là văn
thơ chữ Hán của Cụ để rồi tự tưởng tượng ra một thứ Phật giáo theo kiểu của
mình rồi áp đặt lên cho cụ, mà chính những gì cụ là người thông hiểu và hành
trì Phật giáo theo cách riêng của Cụ mà viết về chính mình đã am hiểu và thực
hành Phật giáo như vậy. Những gì Cụ đã viết về Phật giáo của chính Cụ như vậy,
nếu chúng ta đem so sánh với những bài viết của những nhà học giả nghiên cứu
phê bình văn học Việt nam từ trước cho đến nay, hoàn toàn là những cái nhìn
sai lạc về Phật giáo theo cách am hiểu và thực hành của chính cụ. Theo tinh
thần và nội dung của bài thơ này chúng ta thấy nó không phù hợp gì với những
cách nhìn về Phật giáo của Cụ Nguyễn Du qua truyện Kiều cả. Qua đây chúng ta
mới thấy việc nghiên cứu về một tác giả về một khuynh hướng nào đó, nhất là vấn
đề tôn giáo chúng ta nên cẩn trọng: Thứ nhất phải hiểu qua toàn bộ sự nghiệp
văn chương của tác giả và nhất là những đối tượng mang tính cách tư tưởng tôn
giáo và triết học, chúng ta phải biết rành và thông hiểu về những phạm trù đặt
biệt này, nếu hai vấn đề này mà chúng ta không nắm vững thì tốt nhất là đừng
nên viết về họ và viết về những phạm trù đặc biệt mà chúng ta không thông hiểu,
hay thông hiểu một cách cạn cợt nửa vời rồi đem áp đặt quan điểm của mình lên
cho tác giả đó. Ở đây khi nghiên cứu về truyện Kiều của cụ Nguyễn Du viết về
Phật giáo cũng vậy, chúng tôi thấy những nhà học giả nghiên cứu phê bình viết
về Phật giáo theo Truyện Kiều của Cụ Nguyễn Du, họ viết theo lối tưởng tượng
áp đặt quan điểm hiểu biết cạn cợt nửa vời hay sai lạc của mình về Phật giáo
rồi cho đó là quan điểm của Cụ Nguyễn Du về Phật giáo trong truyện Kiều. Như
quan điểm của cụ Đào Duy Anh viết về Phật giáo theo Cụ Nguyễn Du, “Thực
ra tư tưởng nhờ thiện tâm mà giảm nhẹ bớt được nghiệp chướng để hưởng thụ
ngay ở kiếp này thì không đúng hẳn với quan niệm nhân quả thuần túy của nhà
Phật, nhưng nó lại rất đúng với quan niệm nghiệp báo hay báo ứng phổ thông
trong dân gian.” Còn Cao huy Đỉnh thì
viết “Phải chăng đây là mối cảm tình đặc biệt của Nguyễn Du và thời
đại ông đối với Phật giáo? Nó át hẳn cái lý của Nho giáo mà ông phải
theo một cách gượng gạo. Chữ ‘nghiệp’ [làm] mê muội và an ủi tâm hồn yếu
đuối quả đã hấp dẫn được lòng người đang sợ hãi cái thực tại đầy đau thương
và thổi thêm luồng gió bi quan vào trong cơn bão táp thời đại Nguyễn Du và
trong Truyện Kiều.” Và Trần đình Sử viết: “Thực
ra đạo Phật đã bị khúc xạ khi đi vào truyện Kiều. Nhận xét về sự hỗn dung,
pha trộn Phật – Nho là rất có căn cứ. Trong thơ chữ Hán đã có nhiều bài, nhiều
câu thể hiện cho tư tưởng Phật như: “Hà năng lạc phát “ (Làm sao có thể gọt
tóc vào rừng đi tu), “Mãn cảnh giai không hà hữu tướng, thử tâm thường định bất
ly thiền” (Đầy trời là không, không hình tướng, tâm này thường định vào ý thiền).
Còn trong truyện Kiều thì nghiệp và mệnh trời bổ sung cho nhau, nhân ái và từ
bi bổ sung cho nhau. Nhưng tính chất dung hợp cũng đã làm nhạt nhòe tư tưởng
Phật giáo.” Phật giáo của Cụ Nguyễn
Du trong tuyện Kiều có phải như những tác giả trên đã viết như vậy hay không?
Hay đó chỉ là những tưởng tượng theo cái nhìn cá nhân của họ rồi bảo cụ quan
niệm Phật giáo như vậy theo phạm trù tư tưởng của họ để viết về phạm trù tư
tưởng Phật giáo của Nguyễn Du qua truyện kiều!? Qua sự thâm hiểu Phật pháp của
cụ Nguyễn Du như trong bài thơ trên đúng là chúng không liên hệ gì đến một
cái Phật giáo được họ hiểu mù mờ gượng ép đồng hóa với dân gian xã hội, trong
khi Phật giáo cụ Nguyễn Du đưa vào truyện Kiều là để phủ định quan điểm Thiên
mệnh của Nho giáo vào lúc bấy giờ của cụ Nguyễn Du. Điều này muốn tìm hiểu rõ
xin quí độc giả tìm đọc bài “Nguyễn Du đã chịu ảnh hưởng Phật giáo như thế
nào?” (trong “THỎNG TAY VÀO CHỢ” NXB Văn Hóa Sài Gòn 2007 tháng 12, của Đại
Lãn). Có lẽ những nhà học giả phê bình trên do vì không am hiểu Phật giáo, nhất
là những thuật ngữ chuyên môn của Phật giáo, cho nên dù ai là người giỏi Hán
ngữ nhiều đến đâu, nhưng đối với những thuật ngữ chuyên môn của nhà Phật mà
không am hiểu thì cũng phải hiểu sai tư tưởng và dịch sai mà thôi. Ở đây
chúng tôi đơn cử tác giả Trần Đình Sử trong Thi pháp truyện Kiều có đưa ra những
câu thơ mà tác giả gọi là có ảnh hưởng đến Phật giáo của cụ Nguyễn Du rồi hiểu
và dịch sai ý tác giả; qua kiểu dịch như vậy thì, đúng là họ đã làm hại Nguyễn
Du và làm hại Phật giáo, chỉ vì họ không am hiểu những thuật ngữ Phật giáo mà
cụ Nguyễn Du đã dùng trong thơ của cụ như câu thơ: “Mãn cảnh giai không
hà hữu tướng, thử tâm thường định bất ly thiền” mà tác giả Trần Đình Sử
dịch như vầy(Đầy trời là không, không hình tướng, tâm này thường định vào ý
thiền). Chữ “cảnh” ở đây mà dịch là “trời, bầu trời” thì không đúng và
sai nghĩa hoàn toàn. Vì chữ “Cảnh” ở đây nó là một thuật ngữ của Phật giáo chỉ
cho những đối tượng của “Căn”, tức là chỉ cho năm “trần cảnh” ở bên ngoài
thân con người như sắc, thinh, hương. vị, xúc; chúng là những đối tượng của mắt,
tai, mũi, lưỡi và thân con người, mà thuật ngữ Phật giáo thường gọi là “Ngũ
căn” (năm căn), còn chữ Cảnh thường gọi là “Ngũ cảnh” hay “Ngũ trần cảnh”. Ở
đây vì tác giả Trần Đình Sử không am hiểu thuật ngữ của Phật giáo nên đã dịch
sai câu thơ này của cụ Nguyễn Du. câu thơ trên chúng ta phải dịch như vầy: “Mọi
vật đều không, có tướng nào? Mọi vật ở đây chỉ cho mọi hiện tượng bên
ngoài như núi sông nhà cửa cây cối, những vật gì có hình tướng để mắt chúng
ta thấy được đều thuộc về “sắc”, cùng những âm thinh, tiếng động mà tai chúng
ta nghe được chung quanh, gọi là “thinh”, và những mùi thơm, hôi, thối v.v…
mà mũi chúng ta ngửi thấy được thuộc về “hương” những vị đắng, cay, ngọt, bùi
v.v… mà lưỡi chúng ta nếm được thuộc “vị”, cùng những vật chung quanh khi
chúng ta tiếp xúc có lạnh, nóng, ấm, mát, trơn, nhám v.v.. qua thân thì thuộc
về “xúc”. Tất cả những vật này đều là không, vì sự hiện hữu của chúng là do
các duyên đủ hòa hợp mà thành, vậy cái thành này là giả hợp, nên sự hiện hữu
này không có thật thể; chúng cũng sẽ theo duyên mà biến dịch không còn nữa
theo luật vô thường tác động, nên chúng không có bất cứ một bản tính nào nhất
định để gọi là thật có cả, cuối cùng chúng là không. Thì chữ Không này mới là
chữ không của Phật giáo, là chữ không của cụ Nguyễn Du dùng trong bài thơ
này, chứ không phải nghĩa không là trống rỗng, không có gì hết, hay là hư
không. Vì ở đây tác giả Trần Đình Sử hiểu chữ “giai không” có nghĩa là đều
không, trống rỗng, không có gì hết nên dịch sai chữ “cảnh”, và còn một chữ
“Hà” trong câu thơ tác giả Trần Đình Sử bỏ không dịch, vì chữ Hà theo ngôn ngữ
Thiền thì nó là một chữ rất quan trọng trong việc tạo ra nghi tình cho hành
giả khi tu tập. Theo ngôn ngữ Hán thì dịch như vậy vửa sai vửa sót đối với
thuật ngữ tư tưởng Phật giáo, đó là một cách dịch hoàn toàn sai sót, bất cẩn.
Còn câu thơ tiếp Trần Đình sử dịch như vậy cũng chưa hoàn chỉnh mà còn xa lìa
ý của cụ Nguyễn Du nữa. Ở đây theo Cụ, không lìa Thiền, tức là tâm của Cụ
luôn luôn định một chỗ, đó là Thiền. Vậy Thiền ở đây là “Thiền sự” chứ không
phải “Thiền ý” như tác giả đã dịch, vì Cụ đã và đang thực tập Thiền theo Kinh
Kim Cương trong độc tụng như Cụ đã nói trong bài thơ. Vì vậy cho nên khi
chúng ta nghiên cứu về một tác phẩm của một tác giả nào đó phải am hiểu hai
việc mà chúng tôi đã nêu ra, nếu không việc nghiên cứu của chúng ta trở thành
vô ích không có giá trị. Khi chúng ta viết về người khác thì phải trung thực
với những liên hệ đối với tác giả đó về mọi mặc nếu có, nếu không vậy thì những
nhận xét của chúng ta thiếu khách quan và trở thành những cưỡng ép chủ quan
thiếu tính thuyết phục, tự biến mình thành những người thiếu liêm khiết tri
thức. Tóm lại qua bài thơ
này cụ Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu
sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim
Cương và, cuối cùng kết quả đạt được là đã thấu triệt ngộ nhập được Không lý
của Phật giáo để trở thành một Thiền sư thực thụ theo tính truyền thừa, cho
dù không người để ấn chứng cho những sở ngộ của cụ vào lúc đó; nhưng với những
gì Cụ đã để lại qua văn thơ đã nói lên được giá trị đích thực của một hành giả
tu tập Thiền và những kết quả có được qua “Vô tự” thị chân kinh thì chúng ta
không nghi ngờ gì nữa về giá trị đích thực của nó là một Thiền sư theo nghĩa
như thực. Ở đây chúng tôi không phải làm cái việc “Thấy người sang bắt quàng
làm họ.” mà đó chính là cái giá trị đích thực của một hành giả đã từng cưu
mang “Thử tâm thường định bất ly Thiền” trong cuộc sống của Người. Và cũng nhờ
cái giá trị đích thực này mà Cụ đã được những người đi sau tôn vinh như là
người thông đạt sáu cõi,
tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời như Mộng Liên Đường chủ nhân đã khen qua truyện Kiều[22].
Vì theo nhà Phật chỉ có những vị đạt ngộ mới thông hiểu được các pháp, mới
thông suốt ba cõi, sáu đường và, tấm lòng mới nghĩ suốt cả nghìn đời mà
thôi. Chú thích: [1] Thái tử Chiêu
Minh đời nhà Lương. [2] Cát sông Hằng. [3] Tập san Khai Trí
Tiến Đức số 1. năm 1940. [4] Khảo luận về
“Truyện Thúy Kiều”. Quan hải tùng thư, Huế, 1943. [5] Triết lý đạo Phật
trong truyện Kiều, trong sách kỷ niệm 200 năm, năm sinh Nguyễn Du, NXB Khoa học
xả hội, 1967. [6] Thi pháp Truyện
kiều, Trần Đình Sử, nhà xuất bản Giáo Dục, 2005. [7] Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn
Đại sư đã lấy kinh Kim Cương cho các đệ tử dưới trướng của mình tu tập độc tụng
và, Lục Tổ Huệ năng cũng nhờ vào cậu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (應 無 所 住 而 生 其 心 trong
kinh Kim Cương mà ngộ lý thiền. Pháp bảo Đàn Kinh. Đ. 48. [8] Giáo ngoại biệt
truyền. Đ.84, tra. 166c. [9] Thái tử Chiêu
Minh đời nhà Lương. [10] Cha con một nhà:
Chỉ cho Lương Võ Đế và Lương Chiêu Minh. [11] Kinh Kim Cương,
bản Kinh mà cụ Nguyễn Du đã từng độc tụng hàng nghìn lần. [12] Pháp bảo Đàn Kinh, Phẩm nghi Vấn, Đ. 48.
tra. 351c [13] Phẩm
Phương tiện, Kinh
Pháp Hoa, Đ. 09a, tra. 0007c [14] Linh Sơn: tức
Núi Linh Thứu (Gridhrakuta) [15] Cát sông Hằng. [16] Ngũ Đăng hội
Nguyên. Đ. 80, tra. 0028b [17] Pháp Bảo Đàn
Kinh, Phẩm Hành Do [18] Pháp Bảo Đàn
Kinh, Phẩm Hành Do. [19] Đ. 07, tra.
0749a. Kim Cương Bát-nhã kinh. Phàm sở hữu tướng, giai
thị hư vọng, (凡所有相,皆是虛妄) [20] Đề Nhị Thanh động. [21] Kim Cương
Bát-nhã Ba-la-mật kinh. Đ.07, tra. 0749c [22] “Tố
Như Tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu
không phải có con mắt trông thấy cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời,
thì tài nài có cái bút lực ấy.” So sánh dị bản Truyện Kiều của Lê Quế, Nhà xuất
bản Hội nhà văn, Hà Nội 2006.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét