Thứ Tư, 12 tháng 3, 2025

Chiếc cáng xanh

Chiếc cáng xanh

Phần I
Lưu Trọng Lư (19 tháng 6 năm 1912 - 10 tháng 8 năm 1991) là một nhà thơ, nhà văn, nhà soạn kịch Việt Nam.
Lưu Trọng Lư quê làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình quan lại xuất thân nho học. Ông học đến năm thứ ba tại trường Quốc học Huế thì ra Hà Nội làm văn, làm báo để kiếm sống. Ông là một trong những nhà thơ khởi xướng Phong trào Thơ mới và rất tích cực diễn thuyết bênh vực "Thơ mới" đả kích các nhà thơ "cũ". Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia Văn hoá cứu quốc ở Huế. Trong kháng chiến chống Pháp, ông hoạt động tuyên truyền, văn nghệ ở Bình Trị Thiên và Liên khu IV. Sau năm 1954, ông tiếp tục hoạt động văn học, nghệ thuật: hội viên Hội nhà văn Việt Nam từ năm 1957, đã từng làm Tổng thư ký Hội nghệ sỹ sân khấu Việt Nam. Ông mất tại Hà Nội. Con trai thứ chín của ông, Lưu Trọng Ninh cũng là một đạo diễn phim khá nổi tiếng của Việt Nam.
Ông đã được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2000.
Năm ấy tôi mới lên tám. Thuở bấy giờ một đứa bé vào tuổi ấy chẳng khôn lớn gì hơn một đứa bé bấy giờ lên năm. Nhưng, vì có lẽ thiên bẩm dồi dào hơn một chút, cho nên đối với những đứa bé cùng tuổi, tôi đã ra dáng biết nhiều, hiểu nhiều hơn chúng. Thật ra, sự hiểu biết ấy cũng chỉ chu tuần ở trong vòng tình cảm mà thôi. Nói một cách khác là tôi đã sớm biết rung động rất nhiều trước một cảnh vật khả ái, hay trước cái tình lưu luyến mênh mông của một bà mẹ.
Cảnh vật thứ nhất đã đắm mê tôi là cái cảnh rừng núi trên con đường từ làng nội tôi đến làng ngoại tôi, tôi có thể nói là bắt đầu từ con đường ấy và người đàn bà ấy. Những cảm giác đầu tiên của tôi, là do người đàn bà và cái cảnh đường ấy in vào trong tâm hồn tôi. Và nay tôi là người thế nào, là do những cảm giác đầu tiên đó đã đúc nên vậy.
Cuốn truyện của đời tôi, không biết đến bao giờ mới chép đến trang cuối, nhưng mỗi khi giở lại mấy trang đầu, bao giờ tôi cũng thấy sa xuống trên màu giấy trắng toát, sa xuống cái bóng âm u của người đàn bà ấy mà tôi được gặp đầu tiên trong cõi đời trần thế của tôi. Vì bao giờ tôi cũng tỉ dụ rằng: trái với sự quả quyết của khoa học, một kiếp sau sẽ có, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài cõi đất. Trong cái kiếp sau ấy, tôi sẽ còn gặp lại mẹ tôi và cũng ở trên con đường ấy, từ làng nội đến làng ngoại tôi. Một người đàn bà hiền hòa khả ái như mẹ tôi, không phải là Thượng đế chỉ cho ta gặp một lần rồi để không bao giờ gặp lại nữa. Tôi ước nguyện rằng lòng tin sẽ tạo ra sự thực. Và nhờ thế, mẹ tôi chưa chết hẳn. Không, một người như mẹ tôi không thể nào chết hẳn được. Mẹ tôi không hẳn chỉ là một người mẹ, chỉ thế, trong linh hồn ấy cũng đã ẩn chứa một sứ mệnh thiêng liêng, một nguyên lý bất diệt.
Tôi không nhớ rõ lần ấy là lần thứ mấy tôi theo thầy mẹ tôi từ làng nội về làng ngoại. Nhưng làm sao tôi quên được cái buổi chiều mát lạnh ấy, mà gió lên vội vàng, hấp tấp, đêm xuống nhanh như để giành cướp lấy cái buồn vắng của một chiều thu tàn. Thoảng bên tai, tôi còn nghe mẹ tôi vừa nhổ bãi trầu cái toẹt, vừa giục người nhà:
- Các chú sửa soạn mau lên một tý. Mặt trời chỉ còn một lẻ sào nữa thôi. Liệu đấy!
Một lát sau tôi trông ra phía núi, thì mặt trời đã đỏ gay, to bằng cái nia, chỉ đợi tôi ngoảng mặt đi là trụt dần xuống núi.
Môi tôi vẫn hối những người đầy tớ:
- Đi sớm được tí mô hay tí nấy. Các chú khần khừ thế này, thì đêm đến canh hai cũng chưa đi được.
Một người tớ già, ngồi xếp những thức ăn vào một cái quay, ung dung nói:
- Thưa bà, chả có việc chi mà phải gấp cả. Mười chín nín trâu. Hôm nay mười chín, thì dễ thường cũng phải đợi đến đầu canh hai mới có trăng.
Mẹ tôi cười:
- Tôi cũng không tính việc hôm nay có trăng.
Một lát mẹ tôi nói tiếp:
- Mà trăng hay không trăng cũng thế thôi, phải không các chú? Rừng năm nay nhờ Bụt, cũng hiền. Nói tỉ dụ mà nghe, dù trời có tối mò mò cũng chả việc chi.
Nhưng đêm nay, mỗi khi tôi sực nhớ lại những câu chuyện loạn rừng, và sống lại trong tâm hồn những giờ kinh khủng ở giữa xóm quê khi trời chưa tối mà rèm đã sập lại, thì tôi luôn tự hỏi: tại sao thầy tôi lại lấy mẹ tôi? Lấy một người vợ cách rừng như thế để cho trong sự đi lại giữa hai gia đình thêm khó khăn và phiền phức. Đến nay tôi cũng chưa tìm được một câu trả lời. Có lẽ mẹ tôi là một người có nhan sắc chăng? Hay là chỉ tại mẹ tôi là một người có tiền?
Dầu sao, đối với tôi, sự phối hợp cách biệt của thầy mẹ tôi, là một điều hay: nó đã cho tôi hằng năm một cuộc du lịch thú vị, mà thành kính như cuộc đi viếng đất thánh của những tín đồ ở xa.
Mỗi năm, tôi nhớ chừng thường thường vào tháng chín mà vào một ngày giữa tháng, cái tháng mà những cơn gió bão từ đâu về và khi đi khỏi rồi, để lại những ngày trong gương, phản chiếu cái màu trắng phau của những đàn cò ở trên một thảm lúa xảnh rì.
Nhưng chiều hôm nay sao gió lên mau quá, hình như ở một rừng Lào dồn về, lần thứ nhất trong lòng trẻ dại của tôi thấy có một nỗi mênh mông như một nỗi buồn trong một chiều ly biệt. Hình như là tôi sắp phải từ giã đây, từ giã những cái khờ dại, cái vô tội cái hồn nhiên của cây cỏ để bước vào một thế giới tình cảm của giống người. Có lẽ hôm đó là lần thứ nhất trong trí tôi ngừng lại một ý nghĩa để ghi lại những rung động tha thiết đầu tiên của tâm hồn.
Tôi thấy cả một buồi chiều lạnh ôm trùm lên những ngọn tre phất động. Và buổi chiều đã đượm thắm và trong tâm hồn tôi.
Nhưng quả thật có thế! Đêm, ngày hôm ấy, đến một cách gấp vội, hình như để bôi đen cả tâm hồn tôi và xóa hẳn những cảm giác đầu tiên vừa mới nở.
Mẹ tôi đến sau lưng tôi:
- Con không sửa soạn về thăm ông bà ngoại à? Ông ngoại con đương ốm nặng, con có biết không?
Tôi ngẩng mặt nhìn mẹ tôi ngơ ngác. Mẹ tôi muốn giấu sự cảm động, gọi chị tôi bảo:
- Chị Nguyệt đâu! Không thay áo cho em.
Trăng vừa chồi ở trên nóc nhà ngang thì chúng tôi bắt đầu đi. Mẹ tôi với tôi và cả em gái tôi nữa cùng nằm một cáng, một thứ cáng có trần, và phủ diềm xanh. Chính cái cáng chúng tôi đi xưa kia, ngày thầy tôi còn làm quan đã dùng để đi hành hạt. Cáng ấy, trông đòn chạm trổ kỹ càng, tỉ mỉ với lại tấm diềm tha thướt còn giữ được cái vẻ đài các, quan dạng ngày xưa. Mỗi năm, cáng gác cất trên rầm nhà, chỉ đến vào độ này mới lấy xuống để phủi sạch và sửa sang lại.
Thầy tôi thường nói với giọng sung sướng: Ngày xưa, có một bận, một vị quan thủ hiến, vì phải nhường cái võng điều lại cho ông sứ, đã phải nằm ở cái cáng xanh này để đi thăm một con đường núi.
Đến nay, sau hơn 20 năm rồi, tôi còn nhớ rõ như hôm qua, cái hình ảnh diễm dáng, đài các của chiếc cáng xanh, mà tôi coi như là cái hình ảnh đầy đủ và khả ái của một thời dĩ vãng bình lặng. Nhất là những khi cái cáng ấy, chống lên trên hai cái nạng cắm ở trước sân của một nhà trạm hiền lành, thì ta tưởng như thời giờ không đi nữa, mà mọi sự chuyển đi ở trên thế giới cũng không có nữa. Một màu điều, hay một màu xanh của diềm cáng, lấp lánh dưới ánh nắng như buổi trưa, hay phất động trong một cơn gió chiều, thì ta cũng cảm thấy một nỗi buồn bằng phẳng và không lưu động, cái nỗi buồn của cuộc đời trước khi âu hóa.
Khi bắt đầu lên cáng thì hình như tôi cũng bắt đầu ngủ. Trong lúc ấy, thì cáng có lẽ lên dốc và xuống dốc, đã nhiều lần lắm rồi, vì tôi biết đường phải đi qua những động núi. Nhưng có một lúc nào đó tôi nhớ có thức giấc dậy.
Tôi nhìn ra ngoài, thấy ánh trăng tuôn chảy ra như chì trên đường sỏi, trên các túm lá, trên các lối đi. Tôi thấy hơi hơi ghê lạnh từ trong tâm hồn. Tôi co mình vào trong lòng mẹ tôi, và hỏi:
- Thầy con và anh con ở đâu mẹ?
Mẹ tôi đáp bằng một giọng rất tỉnh táo:
- Thầy con và anh con đi ngựa. Có lẽ đã đi trước rồi.
Rồi đổi giọng, mẹ tôi hỏi những người phu cáng:
- Quan huyện ngài đi trước rồi phải không các chú?
- Dạ bẩm, quan con đi trước…
- Các chú bẩm ngài đi từ từ một tý.
- Dạ, thưa bà, thế tất quan con cũng phải đợi, vì chúng ta cũng sắp đến truông.
- Truông ngoài hay truông trong chú?
- Dạ, mới truông ngoài…
“Truông”, tiếng ấy dội vào trong tâm hồn tôi như một điều ghê lạnh. Cái óc trẻ con, tôi tưởng tượng cảnh truông như một đoạn đường cây cối rậm rạp ghê sợ nhất, quanh năm không có bóng mặt trời, không có bóng người, chỉ có những thú dữ.
Tôi hỏi mẹ tôi:
- Con nghe nói ở truông có nhiều khái…
Mẹ tôi vội giơ tay bưng miệng tôi lại. Thật bấy giờ tôi không hiểu sao như vậy, mà tôi cũng không hỏi vì cớ gì mẹ tôi lại không cho tôi nói hết. Nhưng bây giờ thì tôi đã hiểu rồi: tiếng khái là tên húy của chúa sơn lâm, không nên nói đến, nhất là trong khi đi đường rừng lại càng không nên nói đến.
Mẹ tôi im lặng một lúc lâu, hình như để giấu sự sợ hãi. Một hồi lâu mẹ tôi nói với những người phu cáng:
- Các chú xem quan có đứng lại chờ không?
- Bẩm bà quan đã đứng lại ở gốc đa.
Mẹ tôi cất giọng bảo thầy tôi:
- Thầy nó đi đâu mà vội thế? Vào truông nên cho ngựa đi chầm chậm và kèm một bên cáng.
Trong lúc ấy, một thứ chim gì lạ khắc khoải đánh ở trong một bụi gần. Mãi sau tôi mới biết đó là con chim kiểng kiểng, mỗi khi có chúa rừng ra suối uống nước, thì nó lại “đánh” hồi gấp rút.
Tôi nghe thấy mẹ tôi nín thở lại. Và cả bao nhiêu người đều im lặng, một sự sợ hãi đè nặng trên tâm hồn con người…
Một hồi lâu lắm người phu cáng thở một cái thật dài và nói trước:
- Kể kiểng kiểng nó đáng có nhiều khi thiêng mà nhiều khi….
Mẹ tôi ngồi nhổm dậy, ngắt lời:
- Nhưng mà bây giờ thật đi qua truông rồi đấy chứ?
Người phu cáng cười:
- Dạ, có qua truông rồi con mới dám nói.
Thầy tôi xen vào:
- Có gì đâu mà ngại! Nói dại mà nghe, ví dụ có ngài ra khe thì ngựa tôi có dám đi nữa đâu. Nó phải rúc đầu vào cái bụi cây và nó hí lên một cách ghê rợn lắm.
Mẹ tôi hỏi lại:
- Làm sao ngựa lại rúc đầu vào bụi như thế, thầy nó hỉ?
- Ấy ngựa nó cũng tinh khôn lắm. Nó “bắt” thấy mùi ngài một cách tài tình lắm, không bao giờ lầm cả. Mà một khi ngài đã ra, thì dẫu có phi đường trời, ngài cũng đuổi kịp. Cho nên ngựa chỉ có một cách để tự vệ, là che hết nửa thân hình đi, và chỉ giơ hai chân sau mà thôi? Ngựa nó cũng chỉ có hai chân sau là “chặt” được, và “chặt” mạnh lắm.
- Nhưng nói đổ sông đổ biển, ví dụ lúc bấy giờ mình còn ở trên lưng ngựa, thì biết làm thế nào được?
Một người phu cáng xen vào:
- Con nghe những người đi củi thường nói rằng: hễ, mỗi khi gặp ngài thì nên quỳ xuống, mà van lạy ngài đi, và nhìn tròng trọc vào mắt ngài, thì thế nào ngài cũng tha cho.
Một người phu cáng khác:
- Bẩm quan bà, chú Thởn chú nói cái ấy có thực đấy. Con cũng có nghe Cố Điệt thường nói: hễ thấy ngài rồi, thì chẳng bao giờ ngài làm tội cả, ngài chỉ chộp khi bất thình lình mà thôi!
Chú Thởn:
- Chú Thạc nà! Mà Ngài chộp, cũng chỉ chộp người đi đầu hay đi cuối thôi, chứ chẳng bao giờ chộp người đi giữa cả.
- Cái ấy thì đã hẳn.
Rồi câu chuyện giữa hai người phu cáng dần dần rơi vào trong cái ướt lạnh của đêm sương. Tôi cũng lại ngủ đi lúc nào, không hay, mãi đến lúc, hình như gần đồng ruộng, tôi mới lại trở dậy.
Tôi nghe tiếng chân đi san sát và đều đặn của những người phu cáng. Dưới chân ngựa một vài tiếng sỏi đánh nhau rơi loảng choảng và tôi thấy giữa khoảng trời sương lấp lánh muôn nghìn mặt trăng: tâm hồn trẻ dại của tôi đã thấy như một cốc thủy tinh rung động theo điệu gió.
Tôi nghe rõ tiếng một người phu cáng nói với người bạn, tiếng nghe lạnh quá:
- Chú Thởn nà! Ta xin phép quan bà nghỉ chân một tí nhá!
- Thì hãy cứ đổi vai một lần nữa đã nào?
- Không phải mỏi vai – nhưng mà không còn gối nữa.
Thầy tôi hình như không nghe chúng nói vì ngựa vẫn rộn ràng đạp trên đường sỏi.
Chúng vẫn đi, vẫn im lặng đi.
Bỗng xa xa, thưa thưa, đôi tiếng gà.
Đời tôi làm sao quên được những tiếng gà đầu tiên ở giữa rừng sâu ấy: tiếng gà làm cho ta có cảm tưởng ấm áp là sắp gần một thôn mạc nào… Nhưng đây chỉ là những con gà ri, gáy trắng…
Mẹ tôi trở mình hỏi to:
- Đã đến đồng Kẻ Tra chưa các chú?
- Thưa bà, chưa đến, nhưng kể cũng không ngái mấy nữa.
- Các chú gắng đến đồng, lại nghỉ một lát cũng được.
Và khi chúng tôi đến đồng Kẻ Tra, thì mặt trời đã tung ánh sáng trắng vàng trên những đồng ruộng mạ xanh rì, như người thuyền chài tung cái lưới của mình vậy.
Sau đồng ruộng ấy là làng ngoại tôi. Ông tôi ở một xóm gọi là xóm Cồn, nghĩa là ở trên một đồi núi. Chúng tôi, bước khỏi cổng xóm là bắt đầu lên dốc, đi trên con đường đỏ ối. Tôi thấy một cái mùi đất ấm lạ, và cây cối ở trên xóm Cồn xum xuê một cách khác thường khiến cho tôi có cảm giác rằng: cuộc đời ở đây tựa hồ như một cái gì rất dễ dàng, rất đáng yêu: những cây cau vươn khỏi những mái tranh, và trên những vách đất đỏ gạch, leo lên với một cái khí lực manh danh, những cây trầu là xanh tươi và cong vạm vỡ.
Cáng tôi từ khi khỏi cổng xóm, đi vòng quang, và cứ trèo, trèo mãi. Những người đàn ông hay đàn bà thấy mẹ tôi thì cúi chào.
Họ đáp lại những câu hỏi của mẹ tôi một cách niềm nở, lễ phép:
- Này thím Thìn, có nghe Bọ (chỉ ông tôi) ra sao không?
- Bẩm bà, đã có mời ông Đước tới cúng rồi.
Một lát sau:
- Này A Dụng, Bó có khá không?
- Bẩm bà, Bọ hai hôm nay không cháo cơm chi hết.
Một lát nữa:
- Thế nào chú Huỳnh, Bọ…
- Bẩm bà, Bọ khó lòng mà ở rốn được…
Giọng mẹ tôi càng run run, chưa kịp nói, thì một bà cụ già vừa chống gậy vừa xuống dốc, bà nói với đôi mắt rưng rưng:
- Bà Huyện ơi! Có lẽ Bọ về mất.
Lúc bấy giờ hình như là lần thứ nhất tôi mới được nghe người ta nói đến tiếng “Bọ”. Nhưng tôi cũng hiểu “Bọ” là một “tiếng” trịnh trọng để tặng những người già cả đáng kính.
Dần dần khôn lớn, tôi càng hiểu thêm: tất cả những dân trong xóm đều coi ông tôi gần như một vị “giáo chủ”, dầu người ở trong xóm không theo đạo Phật hay đạo Thiên chúa. Họ chỉ tin ở sự cúng quảy, chay đàn. Mà trong những đám tế hay đám chay nào thì ông tôi cũng được mời ngồi làm “thầy cả.”
Sự yêu vì có tính chất tôn giáo ấy của dân xóm đối với ông tôi còn có những lẽ khác nữa: ông tôi là một ông lang của dân xóm, và là một ông chánh tổng bổ thọ độc nhất ở trong làng ngoại tôi. Nhưng cái danh dự to lớn hết của ông tôi là được một người rể có tên trong khoa giáp và sĩ hoạn.
Khi đến gần ngõ nhà ông tôi thì tôi thấy những người đàn ông và đàn bà trong ngõ bước ra. Họ chạy lại gần cáng tôi và nói với mẹ tôi bằng một giọng ngập cảm động:
- Bọ về rồi! Bọ về rồi? Thưa bà!
Tôi ngẩng trông mẹ tôi: trên khuôn mặt mẹ tôi không còn một chút máu.
Và khi chúng tôi bước lên: “Bọ ơi là Bọ ơi”.
Những dì tôi, nước mắt ràn rụa, chạy nói với mẹ tôi:
- Bọ chờ bà từ hôm qua đến hôm ni nhưng coi không thể chờ được nên phải đi.
Mẹ tôi chạy vào cầm lấy tay ông tôi, và khóc rú lên. Tôi cũng khóc to như mẹ tôi. Anh chị tôi còn khóc to hơn nữa.
Tôi ngẩng trông lên mặt ông tôi tuy da đã xanh nhợt nhưng cái chòm râu vẫn lấp lánh bạc, cái chòm râu vẫn đáng kính yêu biết bao! Tôi sực nhớ lại những lúc tôi ngồi ở trên gối ông tôi, và nhìn vườn cây qua cái chòm râu to dài ấy, thì tôi lại cảm động và khóc rú lên nữa. Thực ra tôi không hiểu rõ cái chết là một cái gì, nhưng mang máng cũng biết rằng: cái chết là một cái gì buồn não như một sự biệt ly mới là buồn não mà thôi. Tôi nhớ lại cái lần thứ nhất: mẹ tôi và tôi tiễn đưa anh tôi lên tỉnh học. Cuộc tiễn đưa ở trên bến sông. Con đò mang anh tôi, như chần chừ nấn ná không muốn lướt đi, còn anh tôi cứ đứng mãi ở mui thuyền trông với. Mẹ tôi cũng đứng trông ra. Lẽ ra chúng tôi có nhiều điều nói với nhau lắm nhưng mà trong lúc con thuyền một lúc một trôi xa, chúng tôi muốn nói gì phải nói thật to. Nhưng cảnh vật trong lúc bấy giờ bắt chúng tôi không thể động mạnh hay nói to. Phải âm thầm và ly biệt. Mà cái giờ phút trên bến sao kéo dài đến thế. Mà con đò thì hình như không đi và chỉ có dòng sông lượn, uốn khúc, và để rồi con đò đi trong một cái khúc quanh. Tôi đương thẫn thờ nghĩ lại cái cuộc biệt ly lần thứ nhất trong lòng đứa trẻ dại thì anh tôi đã lại bên tôi, bấm vào tay tôi và nói:
- Doãn, em không khóc đi?
Như tỉnh khỏi một giấc mộng, tôi vội vàng khóc lên, khóc cho kịp những người khác.
Mấy hôm nhà có việc như thế thì tôi thường được lệnh của mẹ tôi:
- Con đi ra lòi chơi.
Thấy tôi ngần ngại, thì mẹ tôi quay về phía Mượn:
- Mượn dẫn em đi lòi chơi đi.
Thực ra, Mượn về hình xác cũng không cao lớn gì hơn tôi. Mượn cũng chỉ suýt soát tuổi tôi, có lẽ còn kém tôi mấy tháng nữa. Nhưng theo một định luật bí mật từ ngàn đời xưa để lại, vì mẹ tôi là em mẹ Mượn, cho nên tôi phải gọi Mượn bằng anh và vì điều này mới kỳ, tôi cũng thấy tự nhiên bé nhỏ bên cạnh Mượn.
Vẫn giọng âu yếm và cầu xin của mẹ tôi nói với Mượn:
- Mượn coi, chớ để em chơi bẩn nha?
- Dạ.
Vẻ sung sướng và tự đắc hiện rõ ở trên mặt Mượn, Mượn đưa tay choàng ngang lưng tôi và nói với tôi, hình như cũng với cái giọng âu yếm, niềm nở của một người anh thực.
- Doãn đi ra lòi, anh hái đào cho ăn.
Tôi cũng không hề phải đổi cái giọng đàn anh ấy vì rằng: từ nhỏ tôi cũng đã biết ru lòng trong những ân tình đằm thắm của sự che chở, sự đùm bọc. Tôi nũng nịu:
- Anh Mượn, anh hái cho em nhiều khế ngọt nữa nhá!
- Được, em có thích ăn hồng không?
- Ừ, hồng nữa, anh hái cho em nữa!
Từ đó, trong lúc chơi đùa hay trong lúc nghiêm trang, Mượn nhiều khi đã lợi dụng cái quyền đàn anh mà “bức” tôi. Nhưng có điều là tôi cứ để cho nó dẫn dắt, sai bảo, âu yếm tưởng là một sự đương nhiên vậy, mới hay cái sự được che chở, cái sự được nằm trong lòng yêu thương của một người khác, cái tính nô lệ cũng có những cái say sưa của nó.
Thực ra, cái quyền sai bảo của Mượn đối với tôi hình như đi quá giới hạn, và cũng có nhiều điều khó chịu và buồn cười. Tôi nhớ có một bận, tôi đương đứng tĩnh túc trước linh cữu ông tôi, hình như là trong ngày “thành phục” thì phải, mọi người đương im lặng, bỗng có người thông xướng “xướng” hai chữ gì mà tôi không nghe ra. Nhưng Mượn ra dáng biết nhiều đưa tay bấm tay tôi, ý chừng muốn ra hiệu cho tôi một điều gì. Thấy vẻ ngơ ngác của tôi, Mượn ghé lại bên tai tôi và nói nhỏ và có ý tứ “người ta xướng cử ai đấy! Khóc đi!”
Khi người ta đã biết đến hai chữ “Cử ai” thì cũng phải ví dụ rằng: người ta biết nhiều lắm, ít ra cũng biết hơn mình. Nhưng tôi cũng phải đợi cho Mượn khóc trước, rồi tôi mới khóc theo, cả hai chúng tôi đua nhau khóc nghe thảm thiết lắm, mê say lắm, đến nỗi không kịp để ý đến những người xung quanh có khóc không.
Một lúc lâu, có người lấy quạt đánh khẽ vào đầu tôi, tôi mới chịu nín đi. Tôi còn nhớ cặp mắt ngơ ngác có vẻ hờn giận của Mượn lúc bấy giờ nhìn tôi, và không hiểu vì sao người ta xướng “cử ai” mà lại không khóc được. Mượn nhìn tôi, có vẻ ngượng lắm, và từ đấy đối với tôi cũng mất đi một ít uy lực. Văng vẳng tôi nghe xung quanh người ta nói: Im đi mà nghe văn!”
Tôi ngẩng trông lên trước bàn thờ đã có người lễ sinh quỳ xuống, tay bưng một cái bảng gỗ nhỏ, và bên cạnh một thầy thông xướng rọi một cây nến, dầu bấy giờ còn là ở giữa ban ngày.
Mượn nháy mắt tôi:
- Im! Người ta đọc văn.
Thực ra tôi đã đứng im phăng phắc, bình lặng, tĩnh túc, tò mò đợi xem người ta làm gì. Bỗng giữa sự im lặng nghiêm trang một tiếng ngân nga lên xuống, tôi không hiểu là gì cả những cái tiếng ấy, đến bây giờ vẫn còn văng vẳng dội lại trong lòng tôi những điệu vừa não nùng vừa huyền diệu, từng giọt sầu thảm rơi trong một ngày mưa rả rich ở trên mái ngói.
Nhất là khi tôi nghe người ta đọc to đến tên tôi, thì tôi thấy có thứ cảm giác vừa vui vui, vừa buồn buồn. Nhân đó, mình lại càng cho mình một sự quan trọng mà lẽ ra mình không có.
- Cử ai…
Tiếng thầy thông vừa xướng dứt, thì mọi người, thầy mẹ tôi, cậu mợ tôi, dì dượng tôi đều khóc rống lên. Tôi muốn khóc theo nhưng mà tôi chỉ có kêu lên mà nước mắt không thể chảy ra được. Và khóc không phải bao giờ cũng là để tỏ sự buồn vậy. Nhưng từ đấy có một điều làm cho tôi hơi ngờ ngợ cái chết của người ta chỉ là một sự rộn ràng ở trong nhà, không phải là một cảnh ly biệt âm thầm trong cõi lòng. Nhất là khi tôi nhìn vào cậu tôi trong cái bộ trang phục, có đủ mũ gậy như một ông võ tướng, thì tôi lại càng thấy cái chết không phải là một điều gì buồn nữa, mà chỉ đáng buồn cười thôi. Thằng Mượn cũng hình như có cảm tưởng thế. Chẳng thế sao một hôm trước lễ “thành phục”, nó khoe với tôi bằng một giọng tự đắc sung sướng:
- Ngày mai, anh Mượn sẽ được bịt khăn trắng.
Làm như được bịt khăn trắng là một điều tôi vinh dự và làm như tôi không được bịt khăn trắng. Nhưng ngày thành phục, tôi mới biết rằng: tôi cũng được bịt khăn trắng. Mà rồi than ôi! Đời tôi còn phải bịt tới mấy lần nữa.
Cất tang ông ngoại tôi xong, mẹ tôi vì có lẽ khóc nhiều quá bị bệnh đau mắt. Thầy tôi trở về làng trước, còn mẹ tôi ở lại làng ngoại. Vì thế, Mượn và tôi còn được gần nhau. Ngày nào, chúng tôi cũng dẫn nhau ra lòi chơi. Mượn hái đủ thứ quả ở trong lòi cho tôi ăn. Và chính trong cái thời kỳ ấy, tôi đã học được nhiều tên cây, và bắt đầu yêu cây. Mượn đối với những loài vật, và nhất là đối với những con gà pha con thì Mượn âu yếm lắm. Mượn thường vào nhà lấy trộm những nắm bắp đỏ chói, rắc cho gà ăn. Đến nỗi, mỗi khi Mượn ra lòi là những con gà chạy lại và đứng chực sẵn: thường thường thì Mượn có một cái cử chỉ rất đáng yêu để đánh lừa bầy gà con là Mượn, mỗi khi đi ra, thu thu đút đút hai tay dưới vạt áo. Tuy trong bầy gà ấy, có một con gà cồ mà Mượn ghét lắm, con gà ấy là một thứ gà chọi, ông ngoại tôi nuôi nó đã 6, 7 năm. Nó to, cao và dữ lắm. Da cổ nó rất dày và đỏ gay như mặt trời. Đêm nó không vào chuồng, ngủ ngay ở trên cổng lòi, thì thị uy với cả loài chồn cáo ở trong lòi.
Bình sinh ông ngoại tôi nâng niu nó lắm, mà từ khi ông ngoại mất đi, hình như nó đâm ra dữ và hỗn. Tôi thấy có một bận, nó chạy đuổi theo cướp mổ những hạt ngô trên tay Mượn. Đối với loài gà, hay loài vật gì tôi cũng không bao giờ còn có một kỷ niệm khả ái đáng ghi chép lại. Nhưng đối với loài cây, thì tôi có cảm tình lạ. Nhất là đối với những cành đào khẳng khiu, mang những trái đào “hừng hừng” tròn trĩnh, thì tôi thương lạ, và ngạc nhiên vô cùng. Tôi không hiểu vì sao những cành đào ấy lại mang một cách tự nhiên, những trái đào hình như đã lạc loài đến ở đấy. Tôi thích nhất là người ta kể cho tôi nghe cái đời của loài cây. Và một hôm thấy tôi ngắm cây cam sành ở cạnh giếng, mẹ tôi nói với tôi:
- Con có biết cây ấy xưa kia ông con nâng niu biết bao không?
Rồi mẹ kể như kể một câu chuyện thuộc lòng:
- Cây cam sành, đến nay đã 27 năm rồi, ông con “bứng” ở nhà ông chánh Đước về. Chính năm mẹ lấy chồng, là năm nó ra trái đầu tiên. Mẹ còn nhớ, về nhà chồng được một tháng, mẹ lại trở vô đây để thăm ông mệ con, rồi đến khi mẹ đi, mệ ngoại con cất vào trong thúng may của mẹ năm trái cam sành ấy và dặn: “Con về gọt cho bà gia con ăn”. Bà nội con thích ăn lắm. Đến nỗi từ đấy, hễ mẹ về quê ngoại, là bà cũng dặn mẹ xin một ít cam cho bà. Có lẽ cũng nhờ thế, cái đời làm dâu cũng bớt chua cay.
Bỗng mẹ tôi ngừng nói. Mấy giọt nước mắt long lanh trên mí mắt mẹ tôi. Mẹ tôi nói thêm những tiếng nức nở:
-Con xem, từ khi ông con mất đi, thì cây nó bắt đầu héo mòn.
Mà rồi năm nay, sợ cam không có trái nữa.
Tôi cũng cảm động theo mẹ tôi. Trái với lời đoán trước của mẹ tôi cây cam sành ở cạnh giếng vẫn có trái mà trái cũng vừa ngọt vừa thanh lắm. Nhưng có điều này, tôi đã nhiều lần kinh nghiệm: là người chủ yêu giấu mất đi thì cây cối mà bình sinh người ấy thường coi ngó nâng niu cũng héo mòn dần. Cây cam của ông tôi, sau một năm đã khô đét lại, và chết cả màu tươi xanh. Và sau này, cây trầu… cây trầu của mẹ tôi… nhưng thực lòng tôi chưa muốn nói tới, không muốn nói tới. Có một điều này mà đến nay tôi cũng nhận thấy là cây cối hình như cũng gây ra, và cũng chịu lấy một phần lớn những đau khổ của đời tôi… Cũng như cái loài gà khả ái cũng chẳng làm cho Mượn sung sướng gì hơn.
Có một sự tình cờ làm cho tôi cảm động vô cùng: trước mấy hôm, khi chúng tôi từ biệt để Mượn về làng nội của Mượn mà tôi cũng theo mẹ về làng nội của tôi thì có người thợ ảnh đi qua xóm Cồn. Thực ra, bấy giờ vào kỳ thi tuyển sinh, quan đốc học ở tỉnh có phái một người thợ ảnh đi các trường làng và trường tổng để lấy ảnh các học trò thi. Luôn thể, người thợ ảnh ấy cũng chụp cả cho những ai trong làng muốn lưu lại một kỷ niệm của mình lúc thiếu thời, nếu kẻ đó là một người còn trẻ, và là một chút ấy là lần thứ nhất, người ta bắt các “cậu khóa” trong bản tỉnh phải dán ảnh mình vào đơn thi. Cũng như thế, xóm Cồn lần thứ nhất, được trông thấy người nhiếp ảnh, mà họ coi như một kẻ có phép tiên, có thuật lạ. Trừ những người nghèo khổ quá, những nhà khá giả ở trong cùng xóm Cồn, đều cố rước cái ông thợ nhiếp ảnh về nhà để chụp cho cả gia đình một cái. Thật là một quang cảnh đến cảm động và buồn cười, người ta thấy những người đàn bà nhà quê, quanh năm bò lội ở dưới bùn lầy, bao giờ cũng chít cái khăn nhiễu tam giang, mặc cái áo cổ y, và điều này mới cảm động hơn, cũng cố xỏ hai chân thô, to vào đôi guốc quai da nhỏ nhắn. Lại những ông cụ già đầu râu đã bạc tuyết, lộng lẫy trong bộ áo quần đỏ hoe, cũng cố chễm chệ ngồi lên trên một cái ghế mây, hai tay đặt lên trên đôi gối, và giữ chặt lấy sự cân đối, những ông cụ già ấy cũng để cho người ta thu hình như một đứa trẻ con.
Có cụ nóng lòng, muốn thấy hình của mình nên hỏi người thợ ảnh:
- Thế được rồi chứ ngài, ngài cho lão xem một tý nào?
Người thợ ảnh vẫn một cái cười không mỏi mệt:
- Thưa cố, phải để cho cháu sang ra giấy đã chớ.
- À ra thế! Phải bao lâu mới được?
- Thưa cố, phải đến ba hôm,
Cụ già như thất vọng:
- Phải đợi đến ba hôm ư? Lâu quá nhỉ?
Thật là một ngọn gió hiền hòa trẻ trung đã thổi qua xóm Cồn: mọi người từ già đến trẻ, từ giàu đến nghèo, suốt mấy hôm chỉ bàn tán về việc nhiếp ảnh. Họ bình phẩm một cách vui vẻ về anh thợ ảnh thì ít, mà về dáng điệu ngượng ngùng, kỳ lạ của những người bị chụp hình thì nhiều. Duy có một sự căm hờn và buồn tủi đã đến ở trong gia đình ông tôi. Mẹ tôi, dì tôi, tất cả đều cho rằng: ông tôi chết một lúc chẳng may. Giá mà ông tôi nấn ná lại độ hai, ba tuần nữa, thì thế nào cũng đã có thể lưu lại cho con cháu cái tấm ảnh phương phi của mình: vì ông tôi là một ông già đẹp – ai cũng phải nhận thế. Rồi cho đó là một điều đau tủi, ngày hai bữa cúng cơm, dì tôi và mẹ tôi lại khóc, vừa khóc vừa kể lể. Cái vui của gia đình cũng dường như bị cấm tiệt: lúc đầu không một người nào dám nghĩ đến sự chụp lấy một tấm ảnh chung cho tất cả gia đình: vì thật ra sự tụ họp đông đủ như thế, thật là một dịp hiếm. Hình như cũng nghĩ đến sự chia cách rất gần của đôi bạn trẻ mà mẹ tôi, như quên hết cái đau tủi về phần ông tôi, dám bác hết sự phản đối cứ bằng lòng để cho hai chúng tôi chụp chung một tấm hình. Cái tấm hình đến nay đã rách nát đâu cả nhưng tôi quên làm sao được cái vẻ già dặn và chững chạc của hai chúng tôi ngồi trên hai chiếc ghế đẩu đặt ở dưới sân. Chúng tôi có cái nhìn thẳng thắn làm sao! Mà hai môi như mím chặt lấy lại để giữ lấy nụ cười. Còn hai tay thì giữ chặt lấy hai bên vạt áo như sợ nó rúm lại, và lộ những đường răn không đẹp.
- Này các cậu nhìn vào đây.
Nhưng thực ra chúng tôi đã nghiêm trang, cung kính nhìn vào cái bàn ảnh từ lâu. Và đến khi người ta chụp xong rồi, mà chúng tôi vẫn tưởng chưa, cứ ngồi lỳ ra, với cái nhìn ngay thẳng và không chớp.
Chúng tôi đứng dậy, thở ra một cách sung sướng tưởng như mình vừa thoát khỏi một hình phạt thú vị nhất đời.
Cái tấm hình đã ghép lại gần đôi đầu xanh ấy, đã nghiêng đôi tấm lòng với nhau. Bấy giờ Mượn mới mười tuổi. Tôi cũng ngần ấy tuổi. Nhưng lòng yêu có bao giờ chừa tuổi trẻ. Nó đã đến ở trên tấm hình. Nó đã đến trong một buổi chiều. Nó đã đến trong một sự ly biệt. Phải, nếu không có cái hôm ly biệt ấy thì tôi chẳng bao giờ tin có nó, biết có nó. Những lúc đắm say trong những trò chơi vô tội gần gụi nhau trong những giây phút hiền hòa, chúng tôi có ngờ đâu rằng chúng tôi đã yêu nhau trong một sự khác lạ, trong một mối tình gần tội lỗi. Nhất là khi tôi trèo lên cáng, tôi thấy Mượn khóc rung rức, thì chúng tôi đã không còn là hai đứa trẻ nữa và chúng tôi đã yêu nhau gần như một cặp trai gái rồi. Ngoảnh lại tôi vẫn thấy Mượn, vò cái chéo áo của dì tôi, và đương nhìn tôi trong một cái nhìn tội nghiệp làm sao!
Mẹ tôi còn nói với dì tôi:
- Chị hỉ? Thế nào qua tháng tám, cũng mời chị ra chơi và đem Mượn theo cho nó gặp lại Doãn…
Tôi tưởng như mẹ tôi nói hộ tôi câu nói cuối cùng ấy.
Dì tôi thì hình như không để ý đến vẻ buồn tẻ trong câu nói của mẹ tôi, dặn mẹ tôi một lần chót:
- Thế nào có ai vô, dì cũng nhớ gửi cho tôi một ít “hùi” nhá! Cứ gửi sống, để mặc tôi muối lấy.
Mẹ tôi chỉ gật đầu mà không nói gì thêm nữa.
Thế rồi trớ trêu chưa! Tháng tám, tôi cũng không thấy dì tôi ra chơi mà ngay trong năm ấy dì tôi cũng không ra nữa. Qua năm sau, dì tôi có ra thì Mượn đã lên học trường Phủ. Năm sau nữa Mượn ra, thì lại không có tôi: tôi vừa đỗ tuyển sinh và lên học trường Huyện đã mấy tháng rồi. Bây giờ, tôi còn nhớ là tôi ở trọ nhà một thầy Đề lại. Nhà trọ có một người con gái tuy không đẹp nhưng mà trông cũng ngộ như một cô gái núi, có tính tình tuy thô lậu mà thật thà… Nguyên nhà thầy Đề đối với nhà tôi cũng là chỗ cố giao: hình như khi thầy tôi làm tri huyện Hoa Vang thì thầy cũng làm “thông nhất” hay là “thông nhì” gì đó. Vì thế, thầy Đề mỗi khi nói với thầy tôi cũng hay nhắc đến mấy chữ “thầy trò cũ” mà thầy tôi thường gạt đi một cách cung kính, và lấy chỗ tuổi tác mà đãi nhau ngang hàng vậy. Tôi không hiểu trong trí người nào đã nẩy ra lần thứ nhất sự ghép gá tôi với người con thầy Đề, nhưng có một sự tình cờ này làm cho người ta càng dễ có cái ý ấy. Cô Nguyệt cũng như tôi là con rối… Mà điều lạ hơn là hai vợ chồng thầy Lại quý tôi lắm: không có miếng ngon vật lạ nào là hai ông bà không dành cho tôi. Mà mỗi khi tôi về quê thì chính tay bà Lại sắp dọn quần áo đồ đạc cho tôi, và làm như mẹ mình không bằng. Tôi cảm động và quý mến bà hơn, nhưng chẳng bao giờ vì thế tôi có ý gì với cô Nguyệt cả.
Một hôm mẹ tôi lên chơi, có hỏi chơi bà Lại:
- Cô em năm nay bao nhiêu tuổi…
- Thưa bà, cháu năm nay mới mười ba tuổi, cháu tuổi tý.
- Thằng Doãn nhà tôi cũng tuổi tý.
Rồi hai bà nhìn nhau cùng cười, cười vui sướng, cười hả hê, cười đắc ý. Có lẽ sự giao ước giữa hai nhà bắt đầu từ đó.
Nhưng có một điều tôi nhận thấy là trong mấy ngày ở lại với tôi, mẹ tôi thường hay kiếm dịp để xuống bếp: vì theo ý bà muốn xem xét một người con gái phải xem ở chỗ bếp nước vậy. Mà rồi từ đấy, trong nhà thầy Lại có sự khác lạ: cô Nguyệt ít khi lên nhà và hễ có dịp là bà cho ra một tràng những nữ tắc, nữ huấn đến bực mình, làm như tôi để ý đến việc của bà lắm. Bây giờ tôi nghĩ lại không khỏi buồn cười: làm sao có người coi việc đời kính cẩn, nghiêm trang thế! Trong thời kỳ ấy tôi chỉ học và chỉ nghĩ đến Mượn. Những ngày nghỉ, tôi thường lấy tấm hình của hai chúng tôi ra mà tập “họa” truyền thần lại, và tập làm thơ để vịnh người trong ảnh. Có điều này hơi lạ, là tấm ảnh ở trong có hình Mượn, đối với tôi như là một bức tranh tiên của thầy Tú Uyên ngày xưa. Tôi chỉ thiếu một đường là đem đóng tranh lên ngay ở vách, cạnh án thư, và mỗi bữa cơm, để ra đấy một bát cơm và một đôi đũa… Có một điều mà tôi cho là hiện tượng lạ lùng về tâm lý là, mỗi khi nhìn vào ảnh tôi lại thấy người trong ảnh gợi thêm cho tôi nhiều tình cảm đẹp. Những mỹ cảm ấy gần tựa như lòng thương tiếc nhớ nhung. Rồi có một việc xảy đến làm xáo trộn cả trí não và tình cảm của tôi: một hôm trong khi mọi người đã ngủ cả, tôi lấy ảnh ra, và đặt lên hình Mượn một cái hôn… Vâng cái hôn đầu tiên của lòng tôi, của đời tôi.
Suốt hôm ấy, da thịt tôi rạo rực, và sáng hôm sau, tôi dậy thật trưa và nhìn người nào cũng tưởng như nhìn vào gương và thấy mình thẹn thùng, bẽn lẽn.
Lại một hôm nữa, thoạt đầu tôi không nhớ rõ, chúng tôi từ đâu lại… nhưng bấy giờ chúng tôi đã ở một quãng rừng, hình như là giữa con đường từ làng ngoại tôi về làng nội… Tôi vừa xuống cáng thì thấy Mượn chờ sẵn ở một quán nước, ở ngang sườn… Chúng tôi, thầy mẹ tôi, anh tôi, Mượn cùng đi cả vào quán.
Quán sạch sẽ mát mẻ lạ: gió chiều lên từ phía sau nhà… và mây trắng vần bay ở ngoài cửa sổ… chúng tôi hỏi chủ quán đâu?
Một ông cụ già rất đẹp, chạy ra chào hỏi chúng tôi một cách niềm nở vì chủ nhân lại là người chúng tôi quen lắm, và coi đó như một trạm độc nhất của mình… Trong nhà quán, có những câu đối khắc trên tre lồ ô, chữ rất tất, mà theo thầy tôi, ý tứ lại rất thâm thúy, huyền diệu. Có câu của một ông tiến sĩ ở làng Lý, có câu của ông đồ Ninh, một tay hay chữ ở trong vùng này ai cũng biết. Những câu đối ấy hay, điều ấy không đáng ngạc nhiên, nhưng đáng lạ là làm sao ông quán cũng ngồi một phản… Những cuộc nói chuyện văn thơ giữa hai người kéo dài hàng giờ. Trong lúc ấy chúng tôi chỉ nghĩ đến những cái ghế đẩu của ông quán, những cái ghế đều làm với những rổ tre. Nhìn cái thế ngộ nghĩnh chúng tôi tưởng như lão quán là một ông tiên, ở trong sách xưa thường hiện ra các quán ở dọc đường để được nói chuyện văn thơ với những tay văn hào thi bá.
- Đi, Doãn, đi ra ngoài chơi đi em?
- Ừ thì đi!
Chúng tôi đi ra rừng… đoạn đường này không có một bụi rậm, thỉnh thoảng lại có một cây cao, chúng tôi chạy nhảy ca hát như một con sáo sổ lồng.
Nắng hanh rồi mát dần… Buổi chiều, vàng cả một cánh rừng mênh mông… Gió ở dưới chân đồi, dần dần lên mạnh… Chúng tôi đi cạnh nhau, rừng tự nhiên vắng hẳn đi vì chúng tôi mỗi người đi sâu vào một ý nghĩ của mình…
Nhưng bỗng tôi ngoảnh lại thì không thấy Mượn đâu nữa. Tôi gọi, không có tiếng đáp. Mãi một lúc sau, Mượn ở đâu chạy ra cầm cho tôi một nhánh muồng. Tôi nhìn trên tay Mượn thấy những ngón tay xinh nõn của Mượn bị ố tím thì tôi thấy thương lạ. Tôi toan giữ tay Mượn lại trong tay tôi nhưng Mượn đã giục tôi:
- Kìa Doãn, ăn đi, muồng đấy…
Tôi đưa những trái muồng vào miệng, những quả muồng có một vị vừa ngọt vừa bùi. Tôi ngẩng lên để cảm ơn Mượn thì Mượn đã không còn nữa…
Giấc chiêm bao của tôi chỉ có thế, nhưng khi tỉnh rồi, tôi thấy bâng khuâng, nhớ tiếc, nhớ tiếc một cái gì rất êm ái, rất dịu dàng. Thực ra chuyện tôi vừa kể lại đây không hẳn hoàn toàn là một giấc chiêm bao tôi ngờ nó chỉ là sự diễn lại một sự thực…
Vâng, đây không phải là một giấc mộng thờ ơ… mà ở trong ấy, nó đã chứa chan cái vị đằm thắm, và nồng thiết của sự thật…
Sáng hôm sau, tôi viết thư cho Mượn như để gỡ cho mình một mối bâng khuâng.
Hình như đến năm tôi mười lăm tuổi tôi mới lại gặp Mượn. Chỉ có ba năm không gặp nhau mà tưởng chừng đã lâu lắm rồi.
Mượn thay đổi hẳn. Mượn không còn cái vẻ đẹp của người con gái nữa. Tây chân phốp pháp, và ngực nở ra trong như một lực sĩ. Trên khuôn mặt Mượn cũng có vẻ khác: trán nở rộng ra và đôi lông mày đen và rậm thêm. Giọng nói của Mượn “ồ ồ”, giọng nói của một người “dậy thì”. Dáng điệu khoan thai như một người lớn. Thấy tôi nhìn Mượn chòng chọc thì Mượn hỏi:
- Tôi có thay đổi lắm không?
Tôi mỉm cười:
- Chả thay đổi gì hết.
Mượn vỗ vai tôi:
- Nhưng ít nhất cũng khác cái vật nhỏ ở trong tấm ảnh chứ?
Nghĩ đến tấm ảnh, chúng tôi cùng bật ra cười… Nhưng bỗng hai chúng tôi cùng sầm nét mặt lại. Mượn hỏi tôi bằng một giọng hơi buồn buồn:
- Tại sao đã lâu Doãn không gửi thư cho Mượn?
Tôi ngập ngừng. Vì thật ra, tôi cũng không biết đáp thế nào. Tôi cũng không nhớ rõ cái nguyên nhân đích xác làm cho tôi không nghĩ tới sự viết thư cho Mượn nữa. Anh tôi mà hình như mẹ tôi nữa cũng hiểu rằng chính vì người con gái ông Đề lại mà tôi nhãng cả sự học hành và nhãng cả bao nhiêu việc khác nữa. Mỗi năm, cứ ngày kỵ ông tôi thế nào tôi cũng xin phép ông đốc trường nghỉ mấy hôm để về nhà. Điều ấy làm cho thầy tôi bất bình lắm, đã có lần biên thư trách mắng tôi, trái lại, mẹ tôi thì cứ mỉm cười một cách đắc ý, hình như tôi đã trúng phải một kế sách của bà. Một hôm, mẹ tôi vào thăm tôi, xoa đầu tôi và nói với tôi như để thử ý tôi:
- Năm nay mẹ muốn bàn với thầy con để cho con lên học ở tỉnh. Ý con có bằng lòng thế không?
Tôi lắc đầu, và nũng nịu nói với mẹ tôi:
- Thưa mẹ, con chưa muốn lên tỉnh vội.
Mẹ tôi kéo tôi vào lòng và nói:
- Ừ hỉ, con không muốn rời huyện vì cớ gì mẹ biết cả rồi.
Mẹ tôi lại cười một cách hóm hỉnh, tôi hiểu ngay ý mẹ tôi. Tôi hết sức biện hộ:
- Con chưa muốn lên tỉnh vội là vì ở tỉnh người ta cũng dạy như ở huyện thế thôi! Lên tỉnh tốn hơn, mà ở tỉnh con còn lạ cả.
Mặc cho tôi biện hộ thế nào, mẹ tôi vẫn không nghe, vẫn cười một cách dí dỏm, và cuối cùng nói với tôi:
- Con không muốn lên tỉnh là vì con không muốn rời cô Nguyệt chứ gì?
Rồi mẹ tôi đứng dậy ngay, lời nói ấy, có ngờ đâu là lời tuyên án cuối cùng. Trước mặt mọi người, từ tôi là người rể gần như chính thức của ông Đề lại. Như lời tôi nói ở trang trên, cái ông Đề lại này với thầy tôi là tình thầy trò cũ, đối với việc này, hẳn ông sẽ coi như là một điều gì rất tốt đẹp và rất may cho nhà ông. Tôi sợ rằng lòng tin của người ta sẽ tạo nên sự thực. Và sự đời lắt léo sẽ muốn tôi trở nên cái người chồng của cô Nguyệt, dầu tôi không muốn thế. Hôm mẹ tôi ở huyện về làng, cũng mang theo cái lòng tin nguy hiểm ấy, cố nhiên là chỉ nguy hiểm cho tôi mà thôi. Nhưng chuyện từ trước đến đây không dính líu gì đến cái tấm hình của hai chúng tôi, cái tấm hình đã làm cho tôi mỗi khi nghĩ tới phải buồn rầu vô hạn. Ấy cũng chỉ tại có thế này
Nguyên những thư từ của Mượn từ trước, tôi để lẫn với tấm hình và tất cả tôi để ở trong một cái hộp giấy. Cái hộp giấy ấy ngay cả những người bạn thân của tôi cũng không có quyền mở nếu không được tôi cho phép. Vì thế sự kín nhiệm ấy làm cho người ta kính cẩn và thêm tọc mạch.
Một hôm anh tôi ở Kinh về làng, ghé lại huyện thăm tôi. Tôi không nhớ rõ là vì cớ gì, tôi lại mở cái rương tôi ra, hình như là để tìm cho anh tôi chép lại một câu đối nôm na của thầy tôi làm hộ cho một người làng. Trong lúc tôi lúi húi lục lộn thì tôi thấy anh tôi cầm lấy cái hộp giấy của tôi và mở ra… Không hiểu sao tôi rung mình và trên sắc mặt có vẻ lo lắng. Nhưng anh tôi khép lại một cách vội vàng và có dáng ngượng ngùng trơ trẽn như đụng đến cái tấm hình giữa những bức thư và đã đoán rằng đó là những bức thư tình, vì làm sao lại có thể khác được? Mà có lẽ tấm hình cũng đã bầy cái mặt trái, nên mới làm cho anh tôi có cái cảm tưởng quái ác đó được… Nếu anh tôi đã thấy rõ những người trong tấm hình, thì đâu đến nỗi phải lầm đến thế. Thế là tôi chẳng có cách gì biện hộ cho tôi được. Thực ra tôi cũng không muốn biện hộ. Cái cảm giác của tôi, khi anh tôi sờ động đến cái hộp thư và tấm hình là lo sợ ái ngại, thẹn thùng như có người sờ động đến những bức thư tình thật. Nhưng cái cảm giác tiếp theo là cái cảm giác của một người đã trấn tĩnh, đã suy nghĩ: tôi cho rằng những bức thư ấy anh tôi cần phải đọc tới, có thế cái tình của tôi mới được mình oan và không ai còn tin rằng tôi còn có thể là vị hôn phu của cô Nguyệt. Nhưng muốn thay đổi lòng tin của người ta không phải là dễ: cả nhà tôi và nhà cô Nguyệt nữa đều tin rằng tôi đã ưng cô Nguyệt rồi, và điều này mới nguy hiểm: hình như hai bên tính đến lễ “ăn hỏi”.
Có lẽ câu chuyện hộp thư ấy, anh tôi về làng lại thuật cho cả nhà tôi nghe, cho nên sau độ ấy hơn một tháng thì thầy tôi viết một bức thư dài cho ông Đề lại. Tôi nghe phong thanh rằng trong thư, thầy tôi có ngỏ ý muốn tiến hành gấp việc hôn nhân của tôi, vì lẽ rằng theo quan niệm các cụ đời xưa thì với một người nhãng học duy có một kế thần diệu nhất để làm cho “anh nho” ấy trở lại chăm chỉ, là cưới cho anh ấy một người vợ. Có thế mới giết chết được cái chí phóng đãng của “anh nho”.
Nhưng từ nãy có một điều tôi quên nói là tại sao tôi không biên thư cho Mượn nữa. Đến nay, thật tôi cũng chưa xét định lại được cái nguyên nhân đích xác. Tôi muốn cho rằng: có lẽ vì tôi không muốn tập thư dày thêm nữa, sợ có điều không hay…
Nếu những bức thư ấy mỗi ngày một thêm thì đến một lúc kia, sẽ đưa cái tình bạn bè giữa hai chúng tôi đến một chỗ không thể lùi được nữa. Mà cái tình bạn bè ấy không thể chối được những tai nạn mà nó đã dễ xảy ra. Nó không tiết lộ ra thì mọi người còn hiểu lầm rằng số mệnh đã định là tôi phải lấy cô Nguyệt, mà tiết lộ ra thì người ta sẽ nhìn chúng tôi bằng cặp mắt nào? Và thực ra, trong cái tình giữa hai chúng tôi có một điều gì khác lạ gần như là bất bình. Sự tội lỗi cùng hoàn toàn vẫn ở tôi chứ Mượn vẫn vô tội như một hạt ngô. Nói bất chính thì cũng hơi quá đáng, có lẽ là tội lỗi cũng chỉ là tại chùng lén. Mà sở dĩ chùng lén là vì hai chúng tôi cùng bước vào một thời giống như tuổi “dậy thì” của người con gái. Những sự gặp gỡ gián đoạn, những sự tụ họp rồi những sự biệt ly làm cho cái tình yêu thương giữa hai linh hồn trở nên ẩn hiện, khi ngập ngừng, khi ái ngại, rồi cái tình bạn phải khác cái mầu e thẹn của tình yêu. Rồi cái thú ấy, cái thú yêu nhau trong chùng lén, trong mờ ám, cái thú ấy trở nên một thói quen nguy hiểm. Một ngày nọ cảm thấy một cách rõ rệt rằng: đời sống không thể thiếu Mượn được nữa. Cái tình ấy, mập mờ, bất thường và vô định, nó không có tên trong tiếng nói của loài người. Đến nay, thực tôi cũng chẳng hiểu gì hơn lúc bấy giờ, cái lẽ tương quan màu nhiệm giữa đôi linh hồn, giữa đôi thể chất.
Phần II
Tôi xin thú rằng: một sự cần thiết đã tạo ra cái tình không tên mà có thực ấy, tạo ra Mượn một người anh. Tôi không đợi ở Mượn một chút đằm thắm, một chút dịu dàng, một chút say sưa; tôi cũng không xin ở Mượn một câu an ủi, một lời tình tứ. Lòng tôi chỉ muốn được ngả vào một sự đùm bọc, một sự dìu dắt, một sự che chở. Cả cái say sưa là được mơn man, được trớn rởn…
Chúng tôi, hình như đi đã lâu như thế, cạnh nhau, đi trên con đường rơm nửa ướt nửa khô… Chúng tôi đi trong bóng một hàng tre vì bấy giờ vào một buổi trưa hè. Và chúng tôi ở trong lòng của một sự tịch mịch nơi thôn dã. Ở trước mặt chúng tôi, một con đường trắng toát thẳng tới một đồi núi: ánh nắng trưa lừ đừ trôi như một dòng nước đục và nặng như thủy ngân…
Theo lối đi, những người đàn bà nón thượng quai thao có kẻ không bao giờ quen chúng tôi cả nhưng chào chúng tôi một cách thân mật:
- Chào hai anh nho, các anh coi gái làng tôi có đẹp không?
Họ tưởng như chúng tôi là những người lạ ở đâu tới. Một người đàn bà nhìn sát vào mặt tôi, nắm chặt lấy tôi, cười rú lên:
- Trời ôi! Là cậu Cọt! Thế mà già ngỡ là ai! “Nậy” mau quên quá, già không nhận ra được nữa!
Rồi cả bọn cùng xúm lại nhìn sát mặt tôi như là một quái tượng.
- Hai anh nho ra mà coi chợ.
Tôi cười cãi lại:
- Đừng gọi chúng tôi là “nhỏ” nữa. Chúng tôi bây giờ học chữ tây rồi.
Một người hỏi lại:
- Thế chữ tây không có anh nho, anh khóa à? Đời Tây Tàu có khác.
Rồi cả bọn… già ấy cười lên, tiếng cười tươi giòn như tiếng cười của những cô gái mười lăm, mười sáu. Họ vẫn không tha cho, nhìn chúng tôi một cách hỗn xược và nói to:
- Chết, ăn chi mà “nậy” mau quá đỗi. Ngày tôi gặp cậu chỉ bằng thằng Ngu nhà tôi, nhỏ xíu xíu… thế mà, Bụt ơi! Chà mau “nậy” quá! Thế đã mấy năm cậu không về làng hở?
Thấy tôi không đáp, họ cùng nói với nhau:
- Dễ thường cũng đến ba năm rồi hỉ?
Mượn nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên… Cái đoàn bà già ấy đã đi xa Mượn vẫn trầm ngâm với một câu hỏi:
- Làm sao đã ba năm rồi Doãn lại không về nhà?
- Thật Doãn cũng không hiểu tại sao thế!
- Chắc dì giận lắm hỉ?
- Dạ, mẹ em giận em lắm…
Nghĩ một hồi lâu, Mượn mới hỏi lại:
- Thế độ trước, Mượn có nghe nói Doãn yêu cô, cô… gì hỉ?
- Cô Nguyệt?
- Ừ phải, cô Nguyệt!
- Chỉ là một lời đồn!
Mượn ngừng bước ngay, quay mặt nhìn tôi và ngạc nhiên:
- Sao lại là lời đồn? Mượn không tài nào tin được.
Chúng tôi đi đã gần đến chợ làng mà không biết. Một buổi họp chợ dưới ánh nắng hè gay gắt sao mà ghê sợ thế: tôi tưởng như một cảnh tụ tập của một đám âm binh nào, và ở một thế giới huyền ảo. Đến nay thật tôi cũng không hiểu, mà óc lẽ cũng tại tôi không chịu hỏi những người làng, vì sao làng tôi lại họp chợ đúng giờ ngọ, cái giờ nặng nề, tội lỗi, mà tất cả sinh vật yếu đuối, đầy nhân ái từ con sâu cho đến con người phải co lại. Phải xếp sự hoạt động của mình, phải uể oải, phải lười biếng. Có lẽ biết đâu đó chỉ là một sự bắt buộc mà thôi, vì đến 4,5 làng cùng đổ về chợ làng tôi, cho nên chợ làng phải nhóm sớm, để cho những người ăn chợ xa mấy độ đường, lúc đi, lúc về cũng có thể kịp được.
Đến bây giờ tôi cũng còn nhớ những tiếng cười giòn của những người đàn bà nhà quê trên con đường từ chợ về các thôn xóm, tiếng cười kéo dài trong cái im lặng gay gắt của ban trưa đã làm cho tôi có cảm giác như được xem một giải cờ đỏ mở dài cũng ở dưới ánh nắng im lặng, cái ánh nắng không lưu động, cái ánh nắng tê liệt của ban trưa, của cái giờ Ngọ, giờ của cõi Âm.
Những người nhà quê lẽ ra hiền hậu biết bao, bây giờ trong tâm trí tôi trở nên những hình ảnh ghê sợ… Thím Neo… Ả Dục… Mợ Rô… Ừ nhỉ, làm sao những người đàn bà nhà quê ấy không chết hẳn đi trong ký ức của tôi, vào một buổi chiều thê thảm kia, cũng như mọi vật ở đời… Mà họ cũng chẳng đưa lại đến trong những giờ náo nhiệt của tôi, một ít bình lặng của thời xưa, đầy hương và đức.
- Thế mẹ Doãn muốn gì?
- Thì nào Doãn có biết…
Mượn và tôi, chúng tôi hình như đi cạnh nhau như thế, đi trên con đường quen thuộc của những người đàn bà ấy… Có lúc hình như chúng tôi đã im lặng. Và sau một hồi im lặng lại một câu hỏi đột ngột làm cho chính hai chúng tôi bối rối ngơ ngác.
- Hay là mẹ Doãn muốn Doãn lấy vợ chăng?
- Thì sao bà ấy lại chẳng chịu nói ra…
- Các bà ấy, có bao giờ chịu nói ra.
Thực ra, tôi đã nói dối Mượn. Đã hai hay ba lần rồi mẹ tôi đã ngỏ cho tôi cái ý ấy. Mà cảm giác đầu tiên của tôi là cảm giác của một tâm hồn, của một thể chất bất bình: tôi mới có 14 tuổi. Trời ơi! Làm sao tôi có thể thâu nhận cái tư tưởng hôn nhân giữa tuổi ấy mà không ngượng ngùng, mà không đau khổ? Tôi không rõ Mượn có là một phần nào trong sự ngăn trở ấy không chứ điều mà tôi cảm thấy một cách rõ ràng là lòng của tôi coi như đã phạm đến hồn trinh bạch, khi nghĩ đến sự lấy vợ.
Nghĩ đến sự lấy vợ, chả phải là mua chác vào tâm trí những tư tưởng nặng nề như xiềng xích, nghĩa là chặt đôi cánh vừa mới mọc trên cái tuổi hồn nhiên thơ dại… Nhưng mẹ tôi, cả nhà tôi không nghĩ thế. Điều cách này mới tai ác: mọi người đều tin một cách chắc chắn rằng, tôi với cô Nguyệt, con ông Đề lại ở huyện có tình ý với nhau, và bây giờ nhà nói ra là như cởi mở cho tấm lòng thắc mắc của đôi trẻ. Có ngờ đâu, tôi là một người rất ái ngại cho cái vui mau chóng của mẹ tôi, của cả nhà tôi.
Cái hôm mẹ tôi sung sướng, hí hửng như một đứa trẻ con, tin cho tôi cái tin mừng ấy là cái hôm tôi đau đớn, lo lắng vô cùng. Nhưng tôi cố thản nhiên cười bảo mẹ tôi:
- Một cậu bé như con mà lấy vợ, con sợ có sớm không?
Mẹ tôi cười:
- Gớm! Cậu tưởng cậu còn bé bỏng lắm đa? Cậu không thấy anh Bích con bà Huyên Yên cũng bằng tuổi cậu mà người ta đã sắp có con rồi đấy.
Tôi không cãi.
Có lẽ bấy giờ, mẹ tôi cũng yên trí rằng tôi không phản đối sự hôn nhân. Nhưng từ độ ấy, tôi xin thầy mẹ tôi lên tỉnh học: tôi bỏ trường Huyện. Và từ đấy, tôi cũng thường không nghĩ đến việc hôn nhân nữa. Mẹ tôi, mấy bận lên tỉnh thăm tôi, lại hay nhắc đến. Một độ, thấy tôi lơ láo, mẹ tôi cũng không nói gì tới nữa.
Tôi tiến tới trước Mượn mấy bước, rồi quay lại cười bảo Mượn:
- Mượn bước lên xem nào?
Mượn không hiểu gì, cũng cứ làm y tôi dặn. Tôi tấm tắc nói một mình:
- Này con vật ở trong tấm hình bây giờ nó phốp pháp và khỏe quá, nó không còn yểu điệu như ngày xưa nữa.
Tôi vẫn mỉm cười bí mật, Mượn vẫn không hiểu gì. Nhưng thực ra, tôi không thể không tin được rằng: Mượn có lúc đã chiếm một địa vị quan hệ trong tâm linh tôi. Và sự hôn nhân của tôi thất bại có lẽ một phần cũng tại người bạn tâm tình ấy.
Mẹ tôi ốm đã gần một tháng nay, hai lần mẹ tôi gọi tôi về bên giường bệnh của bà, chỉ lần thứ ba tôi mới về được. Thật tội bất hiếu của tôi đối với bà không biết đổ đâu cho hết. Nguyên nhân làm mẹ tôi gọi tôi về gấp như thế cũng giống cái nguyên nhân làm cho tôi chần chừ không dám đến gần mẹ tôi. Nhưng tôi có thể khất với tôi chứ thực lòng với một người ốm nặng, nhất là người mà bao giờ tôi cũng chỉ có lòng thương mến. Tôi nhớ hôm tôi ở huyện về, thấy tôi, tự nhiên mẹ tôi khỏe lên, gắng ngồi dậy nói chuyện với mọi người. Tôi cảm động về sự sung sướng của mẹ tôi quá. Chẳng hạn, tôi không còn đủ can đảm để mà trái ý bà một cái gì. Giá hôm ấy, bà bảo tôi một điều gì tôi cũng nghe cả. Nhưng mẹ tôi không hề “lợi dụng” chỗ yếu ấy của tôi để mà “đánh” tôi. Trái lại, tôi đã biết khôn khéo cùng với cái nhịp sung sướng mà bắt ép mẹ tôi.
- Mẹ uống thuốc nhá, để con quạt thêm chén thuốc nữa.
Mẹ tôi gật đầu, không hề phản đối mảy may như mọi lần.
- Mẹ ăn cháo nhá, để con bảo thằng Vinh nó nấu cho mẹ. Hay mẹ uống sữa để con pha.
Mẹ tôi gật đầu một cách sung sướng. Tôi bảo thế, giá tôi bao hơn nữa mẹ tôi có lẽ cũng nghe theo. Hay là mẹ tôi có ý chiều tôi như thế, chiều tôi hết cả để rồi bắt ép tôi một điều, chỉ một điều thôi nhưng là một điều tối quan trọng.
Tôi chắc rằng bà nói ra trong lúc ấy thì sẽ tiêu. Tôi sợ sự im lặng đè nén trong tâm hồn mẹ tôi, sợ sự đối diện nặng nề của mẹ tôi và tôi. Cho nên bao giờ tôi cũng kiếm cách để cho trong phòng mẹ tôi ngoài tôi ra còn có một vài người nữa. Nhưng tôi quên làm sao được cái chiều hôm ấy, trời vừa ngớt một cơn giông, khí trời tự nhiên mát ra, cảnh chiều hôm đưa lại một cơn gió lạnh bất ngờ. Mẹ tôi ho nhiều quá nhưng mẹ tôi cứ gắng ngồi dậy. Mẹ tôi vẫy tay bảo tôi đến ngồi cạnh bà. Tôi rụt rè ngồi ở mé giường và bảo mẹ tôi.
- Mẹ nằm xuống kẻo mệt.
Mẹ tôi như không để ý đến lời tôi nói:
- Doãn, con ngồi dịch lại đây một tý, gần mẹ một tý.
Tôi ngồi dịch lại, vẫn rụt rè, vẫn lo sợ. Tôi cảm giác trước rằng cái trận quyết liệt đã đến giữa chúng tôi: mẹ tôi thừa cái dịp này để bắt tôi hàng phục. Mà thật thế, tôi đã hạ khí giới trước khi ra trận. Mẹ tôi hớp xong một hớp trà, tôi quên không nói rằng: mẹ tôi hôm ấy, trái với lệ thường, bảo pha một ấm trà liên tử cho thật đặc. Mẹ tôi uống luôn miệng, khiến cho tôi phải sinh nghi. Trong lúc ấy, một ngọn gió lạnh đến tận giường mẹ tôi, tôi rầy thằng Vinh:
- Đồ khốn nạn, chỉ khép cái cửa mà cũng không nên thân.
- Con đừng mắng nó tội ngiệp, chính mẹ bảo nó mở hé cửa như thế cho có ánh sáng.
- Nhưng dẫu thế nào thì mẹ cũng phải nằm xuống đã. Mẹ cần phải “dưỡng” lắm.
- Không, con đừng ngại, hôm nay mẹ thấy trong mình khỏe lắm.
Tôi không tin, vẫn khăng khăng bảo mẹ tôi:
- Mẹ hãy còn yếu, mẹ hãy nằm xuống rồi mẹ muốn nói gì hẵng nói.
Mẹ tôi mỉm cười:
- Thế con muốn mẹ nói cái gì?
Nghĩ một lát, mẹ tôi nói tiếp:
- Mẹ chẳng muốn gì cả!
Tôi nhìn mẹ, tôi ngạc nhiên và cảm động, mẹ tôi vẫn bình tĩnh thản nhiên nói tiếp:
- Hôm ni, thực lòng mẹ chẳng nói gì với con hết.
Hình như mẹ đã nói nhiều rồi.
Mẹ tôi xoa đầu tôi và lại nói bằng một giọng ngọt ngào, êm ái:
- Ý muốn của mẹ bây giờ là chỉ mong sao con học cho giỏi, và đỗ nhanh như anh con là mẹ mừng. Mẹ chỉ cầu nguyện có thế. Còn như việc hôn nhân của con thì mẹ đã nghĩ kỹ, bây giờ mẹ không muốn giục con hay ép con nữa. Mẹ bây giờ đã đổi ý hướng. Mẹ chỉ muốn con học giỏi và nối được chí thầy con, anh con… lòng mẹ chỉ ước có thế.
Mẹ tôi nói câu này bằng một giọng chân thật và quả quyết quá khiến tôi lại càng tin rằng: mẹ tôi đã đổi ý rồi chăng… Tôi chưa kịp tỏ sự vui mừng thì ở ngoài đã nghe có tiếng ngựa hí.
Mẹ tôi nằm xuống giường và nói với tôi:
- Thầy con đã về đấy.
Tôi chạy ra thì thầy tôi cũng vừa bước vào.
Sau lưng thầy tôi là ông Hương Rớt, một ông lang có tiếng nhất ở vùng tôi.
Thầy tôi hỏi:
- Mẹ con bây giờ thế nào?
- Bẩm mẹ con đã khá.
Nhưng tôi cũng theo thầy tôi và ông lang trở về buồng. Tôi có ngờ đâu lại như thế: mẹ tôi mặt tái mét nằm sõng sượt.
Thầy tôi hỏi gì mẹ tôi cũng không đáp… hai môi chỉ mấp máy…
Ông lang chẩn mạch xong… Thầy tôi và tôi, trái tim hồi hộp quá cứ nhìn thẳng vào mắt ông lang như có vẻ van lơn hay cầu nguyện.
Nhưng ông lang đã kéo thầy tôi ra khỏi buồng và nói một cách thất vọng:
- Có lẽ bà “về” mất.
Tôi rụng rời tay chân. Thầy tôi vẫn bình tĩnh trở vô buồng. Mẹ tôi còn mở mắt nhìn thầy tôi và nhìn tôi, chỉ hỏi được một câu:
- Thằng cả đã về chưa ông?
Rồi hai tay mẹ tôi buông dần… Trời ôi! Tôi có ngờ đâu mẹ tôi đã đánh lừa tôi, tôi biết, chính việc hôn nhân của tôi đã làm cho cái chết của mẹ tôi đến một cách gấp vội thế.
Tôi không thể chép cuốn truyện này mà không thuật những phút cuối cùng của một cuộc đời cần cù, lam lũ, chỉ biết hy sinh, hy sinh bao nhiêu sức khỏe, bao nhiêu tâm sự cho hạnh phúc của những người khác. Những người khác đó, thân thì là chồng con, anh em nhà chồng, sơ thì họ hàng và xóm giềng. Cái sống của mẹ tôi là một mùi hương theo gió mà lan rộng ra mãi, vì thế, cái chết của mẹ tôi là một tiếc thương cho những họ hàng quen biết.
Mẹ tôi về với thầy tôi đã hơn mười lăm năm. Sự kiệm cần, sự ngăn nắp, cùng theo mẹ tôi, về trong gia đình thầy tôi. Mẹ tôi là một bà quan, nhưng thực ra không có gì là một bà quan cả. Quanh năm, ở cạnh bà, không có một người lính hầu. Ngày thầy tôi còn ở huyện đường Tuyên Hoá. Cũng chỉ có hai lần mẹ tôi theo thầy tôi mà thôi. Mỗi lần, mẹ tôi chỉ ở với thầy tôi độ 3, 4 tháng. Mùa gặt về, mẹ tôi thế nào cũng phải tạm biệt thầy tôi mà về quê. Ở quê tôi mẹ tôi đã dựng nên một “giang sơn” cho chồng, làm cho tất cả người trong làng hay người “hàng xứ” nhắc tới như là một chuyện đời xưa lưu truyền lại để làm gương cho thiên hạ.
Sinh ở nơi dân dã, mẹ tôi, về nhà họ Trương, mà vẫn giữ cái cốt cách của dân dã. Tôi còn thấy như mới hôm qua, cái người đàn bà cũ kỹ ấy, mỗi lần ở chợ về, vất cái nón thượng quai thao xuống đất, đặt cái thúng nặng ở nách xuống, nhổ bãi trầu và nhoẻn một nụ cười rộng và bao dung biết chừng nào! Vẻ mệt nhọc không làm mất được cái nét hiền từ không thay đổi của một người mẹ, một người đàn bà Việt Nam. Bà ung dung ngồi sắp những thức ăn ở thúng ra trên một cái mẹt.
Tôi bá cổ mẹ tôi, một đứa em ngồi lên bẹn mẹ tôi, một đứa em nữa, moi những trái thị vô tình hay hữu ý trốn chúng tôi ở dưới một mớ rau. Mẹ tôi đưa tay giữ chặt lấy tay em tôi và cố không tỏ vẻ giận dữ:
- Này Việt. Của cúng đấy, đừng đụng tới, không nên. Mai cúng xong, thôi tha hồ.
Em tôi vẫn cố giằng lấy một trái thị nhỏ nhất, và cãi lại mẹ tôi:
- Cho con trái nhỏ xíu này. Con cầm mà ngửi. Con không ăn mô.
Mẹ tôi cố tìm một cái lẽ để thứ lỗi cho em tôi:
- Mẹ cho con cầm mà chơi, nhưng con không được đưa lên mũi nhá! Ngửi, cũng không nên.
Em bé tôi cầm một trái chạy. Em gái tôi và tôi, cũng cố mỗi đứa cướp lấy mỗi quả:
- Mẹ ơi! Chúng con cũng chỉ ngửi thôi! Chúng con không ăn mô.
Mẹ tôi vẫn hoảng lên, cố tìm kế để đánh lừa chúng tôi:

- Này! Chúng mày! Tao quên phát cho chúng mày “lá móng tay”, Cọt đâu, Song đâu, Lạc đâu, Quỳnh đâu, đứa nào ra lãnh phần đứa nấy.
Hai em tôi và cả tôi nữa vội vàng trả những quả thị lại cho mẹ tôi và cùng mấy anh tôi ra lãnh phần những “lá móng tay”.
Hai em tôi ngơ ngác, không hiểu gì. Tôi nhớ mang máng rằng: hình như một năm trước mẹ tôi cũng có một lần phát những “lá móng tay” như thế.
Quên hẳn những quả thị, bấy giờ tâm hồn tôi hoàn toàn sống lại những màu kỷ niệm thấp thoáng vừa hiện ra rồi lại lẩn ngay.
Giật mình, tôi hỏi anh Lạc tôi:
- Mai ăn mồng năm phải không anh Lạc?
Lạc đáp:
- Ừ thằng này đến lẩn thẩn? Không ăn mồng năm, thì làm chi mẹ lại đi chợ, mua nhiều trái thế, mà lại còn mua cả lá mồng tơi thế nữa?
Anh Song tôi ra dáng hiểu nhiều, và “điển sách” lắm, nói với cả chúng tôi bấy giờ quây quần bên anh tôi.
- “Tết mồng năm” tên chữ là Tết Đoan Ngọ... ngày xưa ông Khuất Nguyên.
Bấy giờ anh Song tôi vào khoảng 16 tuổi nhưng thầy tôi vẫn không chịu “rút” anh tôi cho học chữ tây, vẫn cứ gửi ở một ông đồ trong làng, ông đồ này đối với thầy tôi, là chỗ đồng liêu. Anh tôi, vì thế như lạc hẳn vào giữa bọn chúng tôi, là một bọn đã tới trường làng, sớm đến tối, gào thét như con vẹt, “le café là cà phê, le pain là bánh tây”.( bánh tây là bánh mì) Anh tôi, bị chúng tôi đưa ra làm một trò để chế giễu. Quỳnh là đứa bé con hỗn xược nhất trong bọn.
- Triều phò mã chơng vơng. Triều phò mã chơng vơng cái ông Khuất Nguyên nhà anh!
Cả bọn cũng lặp lại như thế để chế giễu anh tôi. Bấy giờ và đến nay, tôi cố tìm cũng không hiểu nghĩa mấy chữ ấy. Đến nay, mấy chữ ấy đã mất tích hẳn trong tiếng nói của người làng tôi. Nhưng thật quả, tôi nhớ đích là hồi bấy giờ, mấy chữ “triều phò mã chơng vơng” rất thông dụng trong tiếng nói của người nhà quê, nhất là của bầy trẻ. Danh từ ấy tôi biết là cốt để chế giễu một cái gì ngược trái lại với sự thông thường.
Anh Lạc tôi, đỏ mặt lên như củ gấc, toan cãi lại, thì một tiếng sạt ở sau lưng làm tất cả chúng tôi giật mình quay lại: Con Mén người đầy tớ của nhà tôi vừa đặt một bó lá xuống phản và nói với mẹ tôi:
- Thưa bà, hôm ni, con thấy có chú Thạc, ông phó Ngưỡng, ông xã Nghếch ở Lào về mỗi người một gánh kén nặng. Chú Thạc nghe đồn về được bờ năm trăm. Ông phó Ngưỡng bờ một nghìn nhưng phải thỉnh cả bàn đèn về nhà... Giang san sự nghiệp rồi cũng đến chui vào cái lõ cả. Hút thì rồi cũng đến xách. Bà hỉ... Mấy ai?
- Thế còn bác xã Nghếch.
- Bác xã Nghếch, thì một bồ lưng kén, còn một bồ nữa thì..
- Nó phá ra cười, như một cái máy không thể hãm được nữa.
Mẹ tôi phải mắng nó:
- Vô duyên chưa nói đã cười! Khéo! Việc chi mà rũ lên thế! Nói đi đã, rồi lại cười nào!
Đưa tay vuốt ngực, nó cố trấn tĩnh và đáp lại mẹ tôi:
- Thưa bà, còn trong một bồ nữa, thì bác Xã, bác ấy nhét đầy cả...
Nó lại cười rũ lên....
Mẹ tôi phải mắng nó.
- Đồ đâu mà trắc nết quá đỗi.
- Thưa bà, còn một bồ nữa, thì bác nhét đầy cả những lá mồng năm.
Rồi nó chỉ bó lá ở trên phản và nói tiếp:
- Đó cái lá quý hóa ấy đó, bác nói bác lấy từ năm ngoái, đúng giờ ngọ, và lấy ở rừng “Póut - Măng”... Rừng “Pout - Măng”, một rừng mọi, theo chú nói, thì thiêng lắm, bà nờ! Thiếu một đường, con phải lạy lục bác Xã, bác ấy mới cho được một nắm đó. Chừng ấy, cũng “khẳm” chán bà hỉ?
Mẹ tôi, mỉm cười, nói với con nụ:
- Nhờ Trời Phật! Nếu quả thật hay, thì chừng ấy, cũng đủ dùng hết cả một đời.
Rồi bỗng nhiên, mẹ tôi ngồi thần ra mà không nói gì. Tôi lại sán đến mẹ tôi và thủ thỉ hỏi mẹ:
- Tết Đoan Ngọ sao thầy con không về mẹ?
- Thầy con mắc đi hành hạt với cụ sứ. Trong huyện sắp mở thêm mấy cái trường mới.
Mẹ tôi nói với tôi như nói với một người lớn, dầu bấy giờ tôi chỉ là một đứa bé lên bảy. Tôi nhận thấy trong lời nói của mẹ tôi, một nỗi buồn u ẩn.
Trong lúc ấy, Việt em tôi đã “thịt” xong trái thị, và cắt cái vỏ thành hình ngôi sao dán lên tường. Mẹ tôi chưng hửng:
- Con thế thì thôi! Đồ chưa cúng mà đã đưa ra phá, phải tội chết.
Nhưng tôi không thấy một nét gận dữ ở trên khuôn mặt mẹ tôi. Đôi mắt mẹ tôi vẫn hiền lành như bao giờ, nhìn tôi và âu yếm:
- Tối nay, thì con phải ngủ sớm, mai móng tay mới thắm.
Tôi chưa hiểu cái câu nói của mẹ tôi, nhưng tôi cũng không hỏi lại, phập phồng, cảm động đợi cái thuật phép lạ lùng.
Nhưng thuật phép có gì đâu! Tối đến, ăn cơm xong, mẹ tôi, chị tôi, các bõ già, gọi chúng tôi ra, nhá những «lá móng tay » của chúng tôi, rồi « rịt » vào ngón tay cho chúng tôi. Buộc vào cho tôi xong, mẹ tôi dặn tôi, đến nay tôi cũng không quên được cái câu nói « dễ thương » làm sao!
- Con cố đừng cựa nhá! Đứa nào mai móng tay không đỏ, là không được về ông ngoại ăn Tết đấy.
Nhưng phần riêng tôi: sáng hôm sau, những móng tay đỏ tươi như huyết ;
Sáng tưng bừng, tôi xòe hai bàn tay cho mẹ tôi và hỏi:
- Của con có tốt không mẹ?
Mẹ tôi cười, và không tỏ dấu trách móc:
- Của con tồi nhất bọn! Hôm qua tại con cựa nhiều quá.
Lẽ ra, tôi phải bị « phạt », những ngày hôm sau, tôi vẫn được theo mẹ tôi về quê ngoại. Ngồi trên chiếc cáng xanh với mẹ tôi, với cái nhìn hiền lành âu yếm! Nhưng than ôi! Đôi mắt ấy, còn tìm đâu cho thấy nữa. Mẹ tôi đã bỏ tôi mà đi, đã nỡ đành đọan bỏ cuộc đời mà đi, nghĩ đến cái Tết Đoan Ngọ đầu tiên ấy của đời tôi, tôi lại càng thêm chua xót: cái lòng thương nhớ mẹ tôi thật mênh mông rào rạt như gió chiều ở biển khơi.
Ngồi co ro một xó, tôi cố ngẩng lên nhìn một lần chót cái mặt hiền hòa ấy, nhưng cái sắc mặt đã xanh như tàu lá: tôi không thể tìm trên cái nét tàn phá, một vẻ hiền hậu ngày xưa …
Bấy giờ dì tôi đã tắm rửa xong cho mẹ tôi. Và người ta đã bắt đầu khâm liệm mẹ tôi. Trời ơi! Tôi quên làm sao được vòng khăn nhiễu tam giang, cái quần áo cổ y, và đôi vòng bạc … mà người ta vừa đeo khoác vào cho cái xác chết ấy! Cái áo cổ y ấy, cái khăn nhiễu tam giang ấy, đó là những đồ mà ông mệ ngoại tôi sắm cho mẹ tôi … Mẹ tôi có lẽ chỉ mặc một bận khi về nhà chồng, và than ôi! Một bận nửa là khi về … cõi đất. mắt quên làm sao được cái khăn nhiễu ấy, và màu áo ấy, mỗi khi có cơn nắng mới, mẹ tôi đưa ra phơi trước giậu.
Thoạt trông thấy mẹ tôi trong cái bộ áo liệm ấy, thì sự cảm động và thương xót của tôi lại tăng lên gấp bội. Một cảm giác vừa thoáng qua trong tâm trí tôi: tôi thấy như mẹ tôi không thể chết được. Tôi tưởng như còn diễn ra trước mắt tôi một cảnh tưởng hằng ngày: giữa những hôm mưa lạnh, ẩm ướt, bỗng rớt vào một ngày nắng ráo, mẹ tôi thường mở rương ra, lấy cái bộ áo vàng, chính cái bộ áo cổ y ấy để đưa ra phơi ở trên một hàng giậu.
Trong trí lúc bấy giờ, cái màn cổ y tím sẫm gợi cho tôi một sự tương tự: cái màu sắc đằm thắm, đen sẫm của cả một đời người đàn bà không kiêu hãnh, không ham muốn.
Nhưng khi tôi quay lại, thì giời ôi! Người ta đã liệm xong cho mẹ tôi và bây giờ mẹ tôi chỉ còn là một cái xác chết, bó chặt lại trong vải trắng và trên mặt ấp một tờ giấy vàng.
Lòng tôi quằn quại: tôi không ngờ trong một phút, tôi cách xa mẹ tôi đến thế. Tôi kêu gào lên như kẻ điên. Tôi không ngờ, sự đau thương có thể làm cho người ta điên cuồng được.
Mẹ tôi ngày nay đã không còn nữa. Nhưng còn lại biết bao là chuyện ấy sống mãi trong ký ức tôi, có lẽ cho đến cái ngày cuối cùng của tôi ở trên cõi thế! Cái sự sống chết của người đời, nếu có chút thú vị là tại luôn luôn bao phủ một màn bí mật, lâu lâu chỉ bị chọc thủng một đôi chút ánh sáng, yếu ớt quá không đủ chỉ dẫn cho ta một điều gì.
Tôi còn nhớ, lúc mẹ tôi thụ bệnh, thì tự nhiên ở đâu bay về một con ong tướng, đậu ngay ở cây khế trước ngõ nhà, và rồi chỉ mấy giờ sau, là những ong quân ở đâu tìm đến và đậu choáng cả một cành cây. Một tổ ong đã bắt đầu gây dựng ở trước ngõ nhà. Thầy tôi nhất là mấy dì tôi, không dấu được vẻ lo sợ. Từ đó, hôm nào người ta cũng rước thầy phù thủy về cúng. Và mấy lần anh Hướng, một người anh họ của tôi, bịt mặt lại, cầm một bó « giang » to trèo lên cây để « xông khói » tổ ong mới. Nhưng mà vô hiệu, những con ong chỉ bay tán loạn trong một lúc, rồi chờ khi anh tôi xuống, khói đã tản rồi, thì đâu lại vào đấy: những ong quân vẫn theo hướng của chúng, nó trở về đậu ở chỗ cũ.
Thầy tôi nói với chị tôi: « đã ba mươi năm thầy mới lại thấy thứ ong « bò vệ » ấy trở về đóng ở ngõ nhà như thế. Lần trước, nó cũng về đóng thế, thì quả hôm sau … »
Thầy tôi không nói hết, nhưng chị tôi cũng hiểu ngầm. Khắp cả nhà đều có vẻ lo ngại, duy có tôi là chẳng biết gì … Cả mẹ tôi, cũng vậy …
Bầy ong đã đóng được ba hôm, ở trước ngõ nhà tôi. Hình như chỉ cách hôm sau, thì bầy ong bay đi, thì mẹ tôi cũng đi. Cái việc bầy ong ấy, đã để lại trong tâm linh tôi, những ấn tượng rất mạnh, khiến cho tôi bao giờ cũng nghĩ rằng trong đời tôi đã được nom thấy một bầy ong, vâng một bầy ong giang hồ, hết chỗ này bay qua chỗ kia, mang những cái tin sầu thảm lại cho người này hoặc người nọ. Nghĩ đến bầy ong ấy tôi tưởng như có một tai biến tàn bạo từ một dĩ vãng xa xôi đến, kẹp cha95t lấy tâm hồn tôi.
Phần III
Sau cái chết của mẹ tôi được 50 ngày, thì những cây trầu leo ở tường, mà chính mẹ tôi lúc sinh thời đã vun bón, những cây trầu xanh tươi ấy cũng héo dần, héo một cách trông thấy trước mắt mọi người. Tôi còn nhớ như mới hôm qua, hình như là vào một ngày nắng mới, những đường nhà quê đã ráo khô: bà Mục, người hàng xóm của mẹ tôi, qua thăm nhà tôi: ấy là lần thứ nhất từ khi mẹ tôi chết. Bà hàng xóm ấy qua thăm vườn nhà tôi, tôi thấy bà len lỏi giữa những con đường nhỏ mà trơn lầy, và có khi phải cúi mình sát rạt để tránh những cành đào hay cành mận chĩa ngang qua đường. Tôi trông cái tuổi già ấy phải « gấp đôi » lại mà tôi thương hại vô cùng. Bà vẫn len lỏi, cúi đầu, lâu lâu đưa vạt áo lên để lau những hạt sương trên trán. Bà vẫn cứ đi. Hình như bà muốn tìm lại giữa những cây cối thân yêu ấy, một kỷ niệm gì ngày xưa, một kỷ niệm cuối cùng, cũng chực trốn thoát mình … Bỗng bà đứng lại, và tôi thấy rõ dưới ánh chiều vàng, người đàn bà tuổi tác ấy, đưa vạt áo lên, và không phải để lau những hạt sương rơi vướng trên khăn mà là để lau những hạt lệ đong ở dưới mí mắt. Tôi hiểu một cách dễ dàng cái sự nghiệp của người bạn không còn nữa. Mẹ tôi là một bà quan. Bà Mục chỉ là vợ một người dân bình thường.
Nhưng tình xóm giềng mạnh hơn tinh thần giai cấp. Hai cái khoảng vườn gần nhau và những cành cây ở hai vườn đã giao đối nhau, kết liên nhau. Đã có lúc, mẹ tôi, trong khi xem vườn, gọi người hàng xóm mà biếu một quả cam đầu mùa, hay một lá trầu son. Hai người ấy đã từng, người ở bên này kẻ ở bên kia vườn, đã từng gọi nhau như hai người cùng danh phận, để nói chuyện với nhau về một giống rau mới trồng, hay một cái chòm nhãn mới lông … Trong lúc ấy, chồng bà hàng xóm, đi buôn kén ở một làng hẻo lánh ở Thankhek hay Paksé. Và thầy tôi, cũng ở một huyện xa, giữa những cờ trống rộn ràng, cỡi trên mình ngựa đi khánh thành một cái ấp mới.
Đến nay, khi chép lại cuốn truyện này mới hơn mười năm thôi, mà sự đời xung quanh tôi đã thay đổi nhiều lắm. Tôi thương tiếc bao nhiêu, khi tôi nghĩ đến cái việc ngày nay trên đất nước tôi, đã không còn những người đàn bà lặng lẽ mà thâm trầm gần đất cát biết bao, sống giữa những cây cối thân yêu, hồn của đất nước! Tôi vừa đau đớn vừa căm giận khi nghĩ đến cái lớp đàn bà lòe loẹt kia đã dám kiêu hãnh thay thế cái lớp người đàn bà cũ kỹ ấy, những người đàn bà thùy mị với những bộ răng đen nhánh. Những người đàn bà ngày nay đã để răng trắng, và vì thế, họ có bao giờ như những người đàn bà thời xuèa dầu là một bà quan, cũng cầm lấy cái chét để vun bón một cây trầu non, hay một cây cau mới ở vườn … Họ có bao giờ còn nâng niu những cây cối nữa, và như thế, họ sống xa đất cát biết bao …Nhưng tôi biết nói thế nào, khi người ta gọi đó là sự tiến bộ?
Mà cả tâm hồn tôi ngày nay cũng như một cái gì rất ăn rập với thời thường, những sự khóc cười của tôi cũng gần như là những đồ sáng chế.
Nhưng có một lúc, thật tôi đã được chứng kiến những sự nẩy nở của những tâm hồn giản dị mà chân thực biết bao! Và, có lúc tôi cũng bị lôi cuốn giữa cái «dòng đời» lừ đừ và «tha thiết» ấy. Làm sao tôi quên được cái buổi chiều nhàn rỗi mà mây đen hay gân mặt đất lượn đầy trước ngõ tre, một buổi chiều dễ mời mọc người ta đến những chốn âm u, buồn lạnh. Dì tôi cho gọi bà «bóng rong» vào để phụ hồn mẹ tôi. Hôm ấy, những người đàn ông ở trong nhà đều đi vắng, quây quần bên bà « bóng » chỉ có những người đàn bà … Sau mộT hồi kêu phụ, bà bóng bắt đầu «lên».
Dì tôi hỏi:
Thế hồn có nhớ hồn đi, ai liệm cho hồn không?
Hồn đáp bằng thơ:
Dì Sâm với lại dì Hoàn,
Người chít khăn nhiễu, người choàng cổ y …
Thế hồn ra đi có giận hờn ai không? Có thương nhớ ai không?
Hồn:
Từ khi hồn xuống âm ty …
Ngày ran nỗi nhớ, đêm chia mối sầu.
Trách riêng con tạo cơ cầu,
Tơ duyên ngắn ngủi, nhịp cầu cắt ngang…
Miễn chồng cho được giàu sang…
Con hồn ăn học, giữ giường mới xưa …
Đấy những câu hỏi và những câu dça1p lại đại để là như thế. Nhưng những câu đáp ấy đã làm cho tất cả nhà tôi, khóc thút thít. Làm sao tâm hồn tôi có thể ngờ rằng đó chỉ là một sự bịa đặt, giả dối. Và cái ngày mà tôi biết rằng: cái chết là sự hết hoàn toàn, thì có lẽ sự thật đó là một điều đau khổ không lường cho cái đời tình cảm của tôi. Nhưng cũng may, trong cuốn truyện này, tôi cũng không còn phải nói đến chết một lần nào nữa … Một mặt giời mới, chiếu vào đời tôi từ nay. Ít ra, tôi cũng nguyện ước như thế.
Mẹ tôi mất đã gần ba tháng, tôi mới lại từ biệt làng vào tỉnh học, tôi không hiểu sao bấy giờ, xin nghỉ được lâu thế mà ông đốc trường không nói gì. Ba tháng ở cạnh cái chết của mẹ tôi cũng có vẻ nghiêm trọng, lâu dài như « ba năm » cư tang của một ông quan có hiếu. Tôi cần nói rõ một điều: bấy giờ tôi vừa hơn 15 tuổi. Và tôi đã học lớp nhất trường tiểu học, với cái tuổi ấy, và với cái trình độ ấy của sự học, kể cũng là một điều hiếm thấy trong tời bấy giờ. Mẹ tôi khi còn sống và các dì tôi thường ngợi khen tôi không ngớt, dì Hoan tôi thưởng cho tôi một cái áo lụa « Cương Hà », còn dì Sâm tôi cho tôi một cái áo « địa »xanh. Thầy tôi lẽ ra cũng phải sung sướng và kiêu hãnh về sự học của tôi, nhưng thầy tôi vẫn dạy tôi theo một phép tắc nghiêm khắc, cũng như khi dạy các anh tôi hay chị tôi. Với những người con gái thì ông hay đưa chuyện “dì qua” tôi khi còn sống và làm dâu nhà họ Đặng, mà kể lại cho nghe. Thầy tôi thường nói: “Dì qua”(1) các con ngày xưa làm dâu thật cay đắng không thể nói hết, gặp phải một bà già điêu ngoa, độc ác vô cùng đối với con dâu mà không mấy khi là không dùng đến lời mắng nhiếc chửi bới, có khi dùng đến roi vọt nữa. Thế mà “dì qua” chúng con, mỗi khi về nhà nghe mệ(2) nội các con hỏi: “bà gia con đối với con có tử tế không?”, thì “dì qua” con chỉ vui vẻ đáp như không hề xảy ra việc gì: “thưa mẹ, mẹ con bên nhà, đối với con quý hoá quá chừng”.
Cái gương nhẫn nhục ấy vô lý biết bao, bất công biết bao, nhưng thầy tôi cũng nhét vào tâm trí của chị tôi tư tưởng như là nhét một món ăn rất hiền lành. Còn đối với bọn con trai chúng tôi, thầy tôi, cũng dậy những điều tương tự lấy ở trong cuộc đời của những người đã qua, “chú qua”, “bác qua”,v.v... và nhiều khi cũng lấy ở trong cuốn sách vở thánh hiền nữa. Đại để, ý thầy tôi là muốn đào luyện chúng tôi thành những kẻ phục tùng cúi đầu mà chịu, cam tâm mà chịu, đau khổ mà chịu. Cũng may, cái điều xấu đến đâu cũng có một điểm tốt.
Cái giáo huấn ấy đã tập quen chúng tôi với sự đau đớn gian nan, nghèo khổ. Nhưng mà nhiều khi thật quá đáng! Với cái chết của mẹ tôi, đó là cái chết của tất cả cái gì êm ái ngọt ngào nhất ở trong đời chúng tôi. Từ đấy tôi phải cứng rắn, mạnh dạn như cái cành kia sắp phải rời cây mẹ, để tự mình chôn chặt vào đất, tự tìm thấy khí lực. Cái tình ấy lẽ ra không nên gọi là “tình” nữa. Vì “tình” tức là cái gì người ta kéo vào mình, bao trùm lấy, ôm giữ lấy, cái gì cột chặt lại. Mà “lý” là cái gì người ta “buông ruổi” ra, xô đẩy ra. Chỉ nói về phương diện tinh thần, ở xã hội Việt Nam, người con trai ở tuổi tôi đã coi như là một cành cây phải lìa cây mẹ. Người ta cứng rắn với nó, để nó có thể cứng rắn với đời.
Mẹ tôi mất được một tháng, thì thầy tôi cũng vào lúc về hưu trở về làng cũ, coi vườn, dạy con. Cái khoảng đời ấy thầy tôi thường ví một cách nôm na với “cái đời gà trống nuôi con”— từ cái chỗ quan chiêm đẹp đẽ bấy giờ nhảy vào khuôn vòng chật hẹp, cái khuôn vòng một người nội trợ. Và với cái cuộc đời ấy, tất cả những cái khó chịu hàng ngày, những cái vụn vặt bận bịu làm cho người ta phải bực tức... Nhưng dầu sao, tôi cũng không thể dung thứ cho cái tấm lòng sắt đá của thầy tôi, khi ông gọi tôi lên rặn tôi mấy câu khuyên răn theo lệ thường, trước lúc tôi lên đường vào tỉnh. Muôn nghìn lời thánh hiền cũng không làm cho tôi khó chịu bằng cái cử chỉ mà tôi phải nói là tàn nhẫn của thầy tôi.
Các bạn có biết ông thân sinh tôi đã nói với tôi những gì và giao cho tôi bao nhiêu để làm tiền lộ phí từ làng lên tỉnh?
“Đấy con cầm lấy hai hào này để làm tiền ăn dọc đường”.
Tôi ngẩn người ra trước lời nghiêm huấn. Tôi không thể ngờ lòng thương con của thầy tôi, nhưng cắt nghĩa làm sao được cái cử chỉ ấy của một người cha đối với một người con, khi tiễn cái ông con lên đường hơn 50 cây số, mà tất cả lộ phí chỉ có hai hào. Người ta muốn dạy con sự cực khổ nhưng mà sự cực khổ ấy cũng phải có hạn. Thầy tôi tất nhiên cũng có thể tính cái độ đường cho tôi, vì ngày xưa đã từng đi thi, đi cử thì cũng đã biết mấy lần đi con đường của tôi rồi, 50 cây số....
Hai con sông! Một cái đèo! Rồi lại mấy chục cái dốc! Mà điều này, thầy tôi lại càng không được quên, tôi là một người học trò chữ tây và tôi lại là một cậu con quan! Lúc nhỏ, tôi đã từng đi cáng xanh, cái thứ cáng nếu không phải là con nhà dòng dõi thì dễ thường đã đi được. Mà nào chỉ có đoạn đường chua chát. Sau 50 cây số là những đêm dài đằng đặc nối tiếp nhau những đêm ôn tập bài vở vì bấy giờ tôi chỉ còn vỏn vẹn một tháng nữa thì thi bằng tiểu học. Thầy tôi hẳn phải biết cho tôi như thế, nhưng có bao giờ ông lại muốn rằng con cãi lại lời cha mẹ. Vì vậy, lúc cầm lấy hai hào bạc, tôi cố vui vẻ hết sức, dầu bấy giờ dưới mắt tôi đã rưng rưng hai giọt lệ. Cũng may, hôm ấy cùng đi với tôi lại có thằng cháu của tôi nữa. Có lẽ ra đi, nó cũng bị một cuộc tiễn đưa chua chát như tôi, cho nên nó cũng nhận lời đi bộ với tôi một cách vui vẻ lạ thường. Tôi còn thấy lại một cách rõ ràng trong tâm cảnh tôi, cái hình ảnh của hai chàng loắt choắt, len trên những ngõ tre làng làng nhỏ hẹp, bùn lầy để đi ra con đường cái. Tôi mang ở trên vai một cái khăn gói, ở trong ấy là tất cả giang sơn sự nghiêp, tất cả cái đời học sinh của tôi.
Mặt trời vừa mới mọc. Nhưng mặt trời cũng không cười mà lòng tôi cũng không cười, cả hai chúng tôi cũng không hát, tuổi trẻ ở trong chúng tôi thật quả đã chết từ ngày hôm ấy. Tôi buồn nao nao. Quýnh - đứa cháu tôi cũng như lây cái buồn của tôi. Lần thứ nhất, tôi cảm thấy mẹ tôi chết hẳn trong lòng tôi. Cũng chết đi bao nhiêu những hình dáng hiền lành của thời thơ ấu. “Chiếc cáng xanh” mà tôi lấy làm đề cho tập bút ký này - cái chiếc cáng xanh ấy từ lâu là để móc ở trên rầm, võng thì bị chuột cắn thủng đi, cái diềm cũng bị bở nát. Và trên con đường từ làng ngoại, cũng không còn bao giờ có lại những cuộc du lịch hằng năm, những cuộc du lịch đầy thành kính và đầy thi vị.
Cũng tại mẹ tôi đã chết... mà cũng tại một cuộc đời rất thái tây, rất văn minh đã đến ở trước ngõ người Việt Nam....Từ làng nội đến làng ngoại tôi, sau này người ta đã vỡ một con đường mới, dành cướp của truông núi tất cả cái bí mật của nó. Sau này, tôi có mấy lần đi thăm làng ngoại tôi, thì than ôi! Tôi chỉ đi bằng ô tô của anh tôi... Con đường ấy bấy giờ chỉ dài có 15 phút đồng hồ... Tôi còn biết nói thế nào được? Vì sự nhanh chóng ấy, người ta gọi là sự tiến bộ kia mà!
Nhưng mà tôi phải trở lại với cái cuộc du hành của hai đứa trẻ lúc bấy giờ. Tôi còn nhớ khi đi khỏi làng và lúc đến địa phận làng bên cạnh, thì một việc hơi vui vui đã xảy ra. Một đứa con gái nhà quê mặt trông cũng sạch sẽ ngồi cắt cỏ ở vệ đường, nó ngừng hát, và nói với tôi:
- Kìa anh khoá! Anh khoá đi mô rứa! Cho em theo với nào! Để khăn gói em mang cho!
Thật tình tôi chỉ thấy ở trong lời nói có một vẻ đùa cợt hiền lành. Tôi đáp:
- Đi thì đi...! Lại đấy mà đi với anh.
Có ngờ đâu người con gái nhà quê ấy bỏ cắt, chạy theo chúng tôi thật, và nhất định đòi mang cho được khăn gói của tôi mới nghe. Tôi cũng chiều nàng. Nhưng bấy giờ là cô con gái đi trước. Và tôi rảo bước theo mà cũng không kịp. Đến nỗi phải van xin, cô cũng không chịu buông tha cho. Chốc chốc, cô chỉ ngoảnh lại nói với chúng tôi.
- Ô tê! Việc chi mà phải bận! Cứ để em mang cho có được không....
Rồi cô hát to:
- Khăn gói theo chồng, nước mắt như mưa.
Và quay lại chúng tôi:
- Nhưng tôi thì không khóc đâu! Vì chồng tôi thế nào cũng thi đỗ trạng nguyên...
Tôi cười:
- Chúng tôi là những ông khoá chữ tây...
- Thế chữ tây, thì không có ông trạng à?
- Không.
- Không mà!
- Mà em bảo có thì đã sao!
Rồi nàng lại nhăn cái hàm răng đen nhánh cười với chúng tôi. Nhưng nàng vẫn không tha cho. Nàng đi thẳng về nhà nàng, đặt cái khăn gói xuống phản và nói với mẹ nàng.
- Khăn gói của chồng tôi đó!
Người đàn bà ấy, cũng bằng một giọng thản nhiên, hỏi lại:
- Thế chồng con là ai nào!
Người con gái chỉ vào tôi và nói:
- Đấy chồng con đấy!
Rồi quay lại phía khăn gói, và toan mở ra:
- Để xem trong khăn gói của chồng tôi có những gì nào.
Rồi nàng mở ra và không cần xin phép tôi.
Tôi cũng không hề phản đối... và nhìn một cách ngạc nhiên cái người con gái có những bộ điệu tưng tửng ấy. Mẹ nàng lại còn “ngộ” hơn: nhất định giữ chúng tôi lại đến sáng hôm sau mới cho đi. Không hiểu sao, chúng tôi cũng nhận lời, như nhận một điều rất hợp lý... Rồi sáng hôm sau, chúng tôi từ biệt nhau không có một lời bịn rịn, không có một câu tình tứ. Nhưng một sự lạ lùng hơi làm tôi cảm động: khi vào đến tỉnh, hai hôm sau, mở cái khăn gói ra, tôi thấy có một quan tiền kẽm. Tôi dầu nghèo kiết đến đâu, dầu thầy tôi có bóp chặt sự ăn tiêu của tôi đến đâu tôi cũng không phạm đến tiền của nàng. Sau này khi trở về làng, tôi tìm giả, thì nhà nàng đã đổi chủ. Hỏi người làng xóm, mới hay nàng đã... chết.
Không, nàng đã đi lấy chồng xa.
Vâng, thì cũng thế.
Ngay năm ấy, tôi thi đỗ bằng sơ học, mà lại đỗ đầu nữa. Tôi nhớ hôm ấy, thầy tôi cũng có mặt ở tỉnh. Vì vậy, tôi không hề tỏ một vẻ vui mừng, dầu bạn bè tôi và cả những người nhà quê mà tôi không hề quen biết, cũng xúm lại quanh tôi và tán dương cái ông “thủ khoa tý hon”
- Này cậu! Thế rồi về “làng miền” có định rước không hỉ?
Một người nhà quê khác đáp:
- Ấy, như làng tôi, thì dân sẽ đi quá ba làng là ít, để đón vị “tân khoa”
Tôi biết thuở bấy giờ cái bằng “sơ học” mà họ vẫn gọi là bằng “ri-me”, có giá trị lắm: cái thời người hiếm, của hiếm, cái gì chẳng quý… Nhưng đó là với những làng khác, chứ đối với làng tôi thì sự đỗ đạt ấy vẫn bị coi thường. Ngày nay, cái anh “khoá sinh” giật được cái bằng “ri-me” cũng như ngày xưa người ta giật cái “tú tài”.
Đậu tú tài, thì đừng hòng dân làng rước? Dầu sao thì ít ra tôi cũng phải lấy đó làm một điều kiêu hãnh với thầy tôi. Không nữa, tôi cũng cho đó là một dịp tốt để tôi trả thù thầy tôi là người chỉ cho tôi hai hào bạc để ăn đường gần năm mươi cây số. Tôi quên làm sao được nét mặt của thầy tôi.
Về đến nhà trọ, tôi vẫn hầm hầm đặt cái “chồng sách thưởng” xuống bàn và như muốn nguýt thầy tôi. Nhưng thầy tôi vẫn “lạnh lùng” như không, chỉ hỏi tôi:
- Sách đâu mà nhiều thế con?
Tôi cố lấy giọng tự đắc, đáp:
- Bẩm sách người ta thưởng cho con, vì con đỗ đầu kỳ thi ri-me.
Tôi cố tìm một vẻ vui sướng hay kiêu hãnh trên mặt thầy tôi.
Nhưng ông vẫn lạnh lùng như không:
- Năm nay, thầy sẽ cho con vào Kinh học với các anh con.
Tưởng được vào kinh học, thì tôi sung sướng lắm? Tôi chỉ cầu sao người sinh ra tôi, tỏ cho tôi một chút vui mừng trong lúc này, thế là đủ lắm rồi. Tôi có cần gì hơn nữa! Tôi sực nghĩ lại cái sự đi bộ của tôi trên con đường 50 cây số mà tôi không sao nén được căm hờn.
Trời thì nắng như thiêu. Những trận “gió cát” đưa lên đường hơi nóng làm cho tôi muốn chết ngốt. Khốn nỗi bấy giờ tôi đâu có một đôi guốc gỗ để kéo lượt thượt. Quýnh, người cháu tôi và tôi phải vào trong một xóm ở bên đường xin những tàu lá chuối để kết làm những đôi “dép” tạm mà đi cho đỡ bỏng chân bởi vì có những quãng đường chỉ là những quãng đường cát. Cái mũ trắng của tôi cũng không đủ che cái nắng đúng ngọ: chúng tôi phải trèo lên những cây “sầu đâu” ở bên đường để bẻ những cành lá tạm làm những cái ô che nắng. Nhưng mà đi bộ được năm cây số, thì những đôi dép chuối ở chân chúng tôi phải mòn và rách hết. Chúng tôi bất đắc dĩ lại phải xuống lánh nắng ở dưới một cái cống. Bấy giờ chúng tôi mới đưa những vắt xôi ra ăn với nhau. Những kẻ ăn bằng mâm vàng đũa ngọc, cũng không thể có cái sung sướng của chúng tôi. Từ đấy đến nay đã hơn 15 năm rồi, chưa bao giờ tôi lại tìm thấy cái vị thấm thìa và não nùng của những nắm xôi ấy!
Tôi sực nhớ đến mẹ tôi, hai khoé mắt bỗng rưng rưng. Quýnh dỗ tôi bằng sự nói xấu thầy tôi:
- Ông ấy, cứ ngày xưa mà khổ như chúng mình thế này xem có đỗ được cái cử nhân không?
Tôi lau nước mắt nói thêm:
- Đừng nói cái cử nhân, hãy nói cái tú tài xem có giật được không nào?
Rồi hai chúng tôi cười với nhau một cách đắc ý. Sự hăng hái lại đột khởi ở trong lòng: chúng tôi lại trở lên đường không sợ gì những cơn gió cát nữa. Và từ đó mỗi khi nghĩ đến nông nỗi ấy chúng tôi nhất là tôi, lại càng chúi đầu mà học tưởng như thế là có thể trả thù thầy tôi được. Quả vậy, cái công học của tôi không uổng: tôi đã đỗ thủ khoa vào kỳ thi Ri-me ở tỉnh. Ấy là tôi chưa kịp nói rằng kỳ ấy có những ba trường Pháp Việt cùng thi và số thí sinh đến non bốn trăm người. Một người khác ở địa vị thầy tôi thì chỉ thiếu một nước là đưa cậu “quý tử ” đi từng nhà quen mà khoe ầm lên. Và cái sự khoe khoang ấy chính đáng biết bao! Nhưng đằng này thầy tôi chỉ đáp bằng những câu nói cụt ngủn và lạnh lùng, đáp lại những người đến hỏi mừng.
Duy có dì Sâm tôi, nghe tin tôi đỗ đã đi hết hai ngày đò ra thăm cho kỳ được.
Vừa đến ngõ, dì tôi thấy tôi đã chạy lại ôm sập lấy tôi và khóc như mưa gió. Vừa khóc vừa kể:
- Em (chị mẹ tôi) ôi là em! Em đi đâu nay không về mà xem con em rạng rỡ mặt mày...
Tôi cũng cảm xúc lắm và tâm hồn gần như mê loạn không biết dì tôi còn kể gì nữa.
Dì tôi thấy vẻ lạnh lùng của thầy tôi đốì với sự thi đỗ của tôi, thì dì cũng hơi giận cho rằng thầy tôi không yêu tôi. Tôi cũng nghĩ như thế. Mãi về sau, tôi mới hiểu được thầy tôi là khi thầy tôi buông tay gọi các con lại bên giường và dặn một lần cuối:
- Thầy làm quan, các con cũng biết đấy mà nhà vẫn nghèo. Tất cả hương hỏa ông bà truyền lại chỉ có một chữ...
Thầy tôi bấy giờ không nói hết, nhưng chữ ấy là chữ “nhẫn”.
Đã đành rằng trên thế giới có những núi sông đẹp hơn những núi sông ở quê hương tôi, có những dân tộc hùng mạnh hơn dân tộc tôi nhưng không bao giờ, người ta sinh ra đời lại có quyền chọn một quê hương, chọn một huyết thống theo ý muốn của mình... Vì thế tôi đã là một người Việt Nam.
Phần IV
Dãy núi Giăng Màn chạy sát suối bể Trung Quốc. Cái giống người xen lẫn với nhau trên ít đất ruộng, phải dồn ép một bên bởi những núi đồi và một bên bởi những đụn cát. Những đụn cát xua đuổi bởi những cơn sóng bể và những cơn gió mùa, mỗi ngày lẩn vào đất một tí, và như xô đùn bởi một sức mạnh vô hồi của cát sóng. Những cây phi lao không ngăn cản nổi những trận “gió cát”... Những cây ấy đẹp quá để mà hữu ích về một “tích sự” gì: quanh năm, chúng reo hát bài ca nỉ non hay thánh thót...
Trước sự tấn công mãnh liệt của gió cát, họ phải lùi, và vừa lùi vừa kiếm một đường thoát, một đường thoát vĩnh viễn. Họ đã phải rời khỏi những hạ bản và đến chỗ cao nguyên... Họ đã chiến thắng những quả núi hoang... Những cái “rẫy” mới vỡ đất còn đỏ ối... Cái màu đỏ “chất phác” và mới mẻ ấy như muốn kiêu hãnh lại với cái màu trắng của đụn cát, cái màu trắng nõn nường và thuần nhã...
Giữa cái “khoảng sống còn” một ngày thu bớt đi bởi sự xâm lấn của những đụn cát, và một ngày một mở rộng ra bởi sự bành trướng bằng những “rẫy” mới: nhưng sự bành trướng không bù nổi sự xâm lấn: cho nên một cảnh tượng nghèo nàn, khốn khổ đã bày ra trên cái đám người chen chúc trên một ít bình địa eo hẹp ấy... Người dân ở đấy, quanh năm ít khi có đủ gạo bắp mà ăn ngày hai bữa... Một phần lớn, người dân phải ăn sắn mới trừ cơm, cái thứ sắn mà người ta trồng ở những rẫy mới vỡ… Sự khốn khổ không phải chỉ có thế! Những đụn cát mênh mông, lại những dải núi cộc cằn, và cái sự sống về sự vật chất của người dân đã gấy nên một cuộc đời tinh thần rất nghèo nàn... Đi hàng chục cây số, hàng trăm cây số, không tìm được một ngôi chùa. Thảng hoặc chỉ gặp được một cái thành cổ, gạch đã vụn nát, đất đã lún, cái thành của vua lỗi hay vua lồi: dấu tích của một ông vua Hời ngày xưa. Người sống quanh năm không được một tiếng chuông chùa... Người chết, lúc buông tay, không nghe được một bài kinh cuối để tiễn đưa vong linh về nơi Tây phương Cực lạc.
Những đêm dài ghê sợ chỉ nghe có tiếng hò hét của những ông thầy phù thủy, đuổi xua những con ma hời nhất định quanh quẩn ở đất nước này để cướp xin những “lá đa hớp cháo”!
Thảng hoặc những năm “hung độc”, có sự dịch biến về thời tiết: nếu là mặt trời ăn mặt trăng thì họ reo mừng vui sướng, nhưng nếu là trăng ăn mặt trời, thì họ coi như có sự khốn nguy: từ người này gọi người khác, từ thôn này gọi thôn khác, từ làng này gọi làng kia: họ gọi dậy để cứu chữa mặt trời bằng không thì năm ấy mùa màng sẽ mất hết... Họ lấy dùi gõ vào nia, gõ vào sàng, gõ vào mẹt. Họ gõ vào mâm, họ gõ vào nồi, họ gõ vào thau... Họ gõ bất kỳ vào một cái gì... Lại tiếng trống ở đình. Tiếng mõ ở điếm. Tiếng thanh la ở giáp đông và giáp đoài. Người ta tưởng như giặc cướp đã đến ở đầu làng, ở trước xóm và ngoài ngõ...
Những người sinh vào ngày giờ như thế, có một tâm hồn “bất định” và luôn luôn sợ hãi. Nhưng họ không tin ở trời, phật. Họ chỉ tin ở những yêu tinh, quỷ quái, những con ma bờ và ma xó... Nhà thờ của họ: một gốc đa, một bờ giếng. Vị giáo chủ của họ những ông thầy phù thủy chuyên làm sai lạc Đạo đức kinh. Tôn giáo của họ: những tà đạo có thể có, và có thể tưởng tưởng được!
Trong lúc ấy, một vài trường học mọc lẻ tẻ đó đấy! Cái ánh sáng từ những ngôi sao hiếm hoi ấy phát ra, còn yếu ớt quá, còn rụt rè quá không đủ để đuổi xua cái màn đen tối nặng nề bao phủ các thôn xóm. Vả thực ra, người dân thuở bấy giờ cũng không mong đợi, cũng không cầu xin một thứ ánh sáng nào hết. Họ chỉ ước nguyện sao cho những trường học ấy đưa lại cho họ những vị tân khoa, để họ được cái vinh dự đưa hèo, hoa, võng, lọng ra mà đón rước. Vì thế, ở nhiều làng, những ông nghè tân khoa chỉ là những cậu bé vừa giật được bằng tuyển sinh (cũng tương tự như cái bằng Yếu lược bấy giờ) một cảnh tượng khốn đốn và buồn cười vô cùng. Mà khốn đốn là chỉ tại lúc bấy giờ nền học nho đã vội vàng xách nón ra đi, mà cái nền học tây chưa kịp đến. Tôi còn nhớ những câu hỏi ngớ ngẩn của người nhà quê lúc bấy giờ, những ông già đã có cái sự từng trải của cả một đời người, nay cũng tự nhiên trở nên bé nhỏ, khờ dại, ngớ ngẩn trước những cậu bé vừa ở những trường Tổng hay trường Huyện về, những cậu bé vừa hôm qua dạy còn gào thét như những con vẹt, “Voici le tableau noir” « Đây là tấm bảng đen » hay là cao hơn thế.
Một ông già, một hôm hỏi tôi:
- Thế thì cái bằng Ri-me (primer) cũng như ngày xưa cái bằng Tú tài cậu hỉ?
Tôi không hiểu gì cũng đáp:
- Kể thì cũng rưa rứa, nhưng về sự học, có phần hay ho hơn.
- Thế còn bằng Côlêle?( collège) Cũng như xưa kia, bằng Cử nhân chứ gì!
- Ấy cũng thế cả.
Thực ra, cả tôi, cả ông cụ nhà quê ấy, cả bao nhiêu người nữa lúc bấy giờ không thể hiểu được cái bằng Ri-me hay là cái bằng Côlêle có giá trị đến bực nào. Nhưng là chắc có giá trị lắm! Vì xưa kia chỉ ở một làng tôi, ở một nhà tôi, mỗi khoa đã có bao nhiêu ông cử ông tú, mà nay từ khi học tấy, thật trong làng tôi, cả tổng tôi, cả huyện tôi cũng chưa ai đỗ được cái bằng Côlêle (Complémentaire) bao giờ cả. Làng tôi xưa nay có tiếng là làng văn vật, không hiểu sao cũng đâm ra “đốn” thế. Riêng tôi, tôi nghiệm thấy như thế này: hễ làng nào có tiếng là văn vật thì làng ấy lại chậm tiến trên con đường Tây học.Vì lẽ rằng những nhà khoa giáo cũ, những ông đồ nho hay chữ, họ vẫn còn tin ở sự cao quý của chữ nho, cho nên họ không muốn gửi con cháu họ tới ngay những trường Tây học. Nhưng người làng tôi thì họ không tin như thế.
Trong làng tôi, có một ông đồ nho hay chữ đã từng đỗ cử nhân và ra làm quan. Nhưng việc đời rắc rối lôi thôi. “Quan lớn Lê” - người làng tôi vẫn gọi một cách cung kính như thế - phải treo ấn từ quan về làng dạy học. Học trò của ngài, phần nhiều là những người đỗ đạt lớn sau này ở trong vùng tôi, “ngài” là một nhà nho chính tông, tính tình rất nghiêm khắc. Cái nghĩa khí của ngài hàng huyện đều biết và sợ. Người ta còn truyền tụng nhiều chuyện rất lạ về cái tính nghiêm khắc của ngài. Lúc bình thường, ngài ngồi một mình bao giờ cũng quay mặt về phía trong. Cái khăn đội trên đầu ngài, nếu một khi vô ý rơi xuống đất thì ngài sẽ vất đi mà không dùng nữa. Ngài thường cắt nghĩa cái cử chỉ của mình:
- Cái khăn này là để thờ trời, thờ vua, thờ ông bà tổ tiên. Một khi nó đã rơi lấm mà còn đội lên nữa, chả hóa ra mang tội bất kính với các đấng trên đầu trên cổ.
Tôi đã nói: cái văn bằng “Tiểu học” mà người dân quê vẫn gọi một cách buồn cười là bằng “Ri-me”, đối với làng tôi là một làng “văn vật” thì thật chẳng có nghĩa lý gì, nhưng đốì với những người làng khác, thì cái bằng ấy quả có một giá trị to tát. Chẳng hạn như ở làng Khương Hà là làng của Mượn, người ta xôn xao và rộn rịp về cái tin Mượn đỗ bằng “Ri-me” như là một vinh dự xưa nay chưa từng có: thần làng đã bắt đầu “linh ứng”, và đất làng đã sắp phát... Người ta đã tổ chức một cuộc đón rước hết sức linh đình đốì với vị tân khoa. Những người dân “kèo hoa võng lọng” không phải chỉ chực đón ở địa đầu làng như ngày xưa đón rước trọng thể hơn nữa, họ phải mang cơm nắm đi đón chực vị tân khoa ở địa tổng mình... Vì thế, cái cuộc đón rước ấy, phải đi qua những mấy làng...
Ấy cũng là một cách cho làng trên xã dưới đừng cho có ai chê miệt làng ta làng “mít nài, dây sắn” (1) hoang, « mít nài dây có nghĩa là dốt nát vô học) nữa. Từ ông Phó, cụ Trùm, xuống đến cậu Xeo, anh Mõ của làng Khương Hà đều trầm trồ với nhau như thế. Mà ai cũng có quyền hỉ hả về cái đỗ đạt của Mượn... Khắp hàng Tổng, người ta đều nói đến... Những ông bá, ông điển, có con gái “trộng” đã nhờ mối mai tin đi tin về với nhà nhà dượng tôi là ông đề Viễn.... Cái mũi của dượng tôi “hỉnh” lên gần bằng cái mũi sư tử. Còn dì tôi được thể, lại kén già....
- Cô này thì phải cái dáng đi vất vả... Còn cô kia được cái miệng rộng, nhưng phải cái lỗ mũi trống. Của vào lỗ hà, ra lỗ hổng cả... Trong lúc ấy thì Mượn vẫn hiền lành, nhún nhường, vô tội... Nghe thầy mẹ nói thế nào, Mượn cũng chỉ biết “dạ”. Đến nỗi, đã làm cho một “mụ mối” phải kêu lên: “cậu cả lành như một cục đất”. Thật ra, cục đất còn có chỗ kiêu hãnh hơn.
Mượn vẫn biên thư cho tôi luôn, giọng thư vẫn một vẻ bình tĩnh không thay đổi: không vui mà cũng không buồn. Mượn tường
thuật lại cho tôi, như những bài luận trường, về những việc xảy đến: này cuộc đón rước, này sự thăm hỏi của bà con, này việc “khao” hàng xã, này việc mối mai... Trong bức thư cuối cùng, Mượn cho tôi hay rằng: dì dượng tôi đã nhất định hỏi con gái ông điển Tiệp ở làng Thanh Lăng, và ngày cưới đã định là 20 tháng một...
Chú thích:
(1) Mít nài là một thứ mít hoang, “mít nài dấy sắn” có nghĩa là dốt nát vô học.
(2) Tiếng qua là để chỉ một kẻ đã qua đời.
Chương V
Bây giờ sự ấy đã thành sự thực rồi, sờ sờ ra trước mặt mọi người, không thể che đậy được:con Vịnh có chửa đã ba tháng nay. Nó xấu hổ vô cùng. Mọi người trong làng đều nhìn nó một cách khinh bỉ, cho nó là đồ dâm ô khốn nạn, nếu sinh ra ngày trước, thì đã bị đem ra cho voi chà ngựa xé. Một hôm, nó đi gánh nước, ở cái giếng đầu xóm, thằng Dưỡng đang ngồi đan rổ ở dưới gốc cây bàng, thấy nó đi qua, ứng khẩu đặt một bài vè để trêu nó. Phảng phất, nó nghe những câu:
"Lẳng lặng mà nghe
Lấy nhà anh Đối
Mụ trối, mụ chè
Cái vè con Vịnh
Đỏng đảnh đỏng đa,
Thè lè cái bụng
Như trong làng ta
Xấu xa hết nước.
Đối xước qua Lào...
Nó ko dám nghe nốt đoạn cuối. Nó cúi mặt lủi qua chỗ khác. Cách mấy hôm sau, cái vè ấy đã truyền khắp làng, đi đâu nó cũng bị trẻ chăn trâu hát vào tận mặt nó.
Nó buồn tủi quá, nó căm tức quá, nhất là vì trong vè có đã động đến tên thằng Đối. Nó cho rằng thằng Đối chẳng có tội tình gì, muôn sự đều tại nó cả. Mỗi khi nó nghe đứa nào hát vấn đề, nó muốn chửi vào mặt đứa ấy. Nhưng nó thấy nó yếu ớt, phải địch lại với cả một bọn, thì nó lại thôi. Nó nén lòng nuốt thầm giọt lệ. Ra ngoài đường, nó khổ với chúng bạn, về nhà, ông Bá Ngưỡng chẳng để cho nó yên. Ông đay nghiến nó, ông mắng nhiếc nó đủ điều. Có khi ông còn dùng roi vọt để răn nó nữa, mà thường thường ông bắt nó làm việc gấp đôi, gấp ba để phạt nó. Một hôm nó đang ngồi sắc sắn ở sân, bỗng nó thấy sấn vào một đoàn những ông Lý, ông Phó, ông trùm và 3,4 thằng xeo bịt khăn tai chó. Cái đoàn người ấy sừng sừng sộ sộ, bước vào như một đoàn người mặt ngựa đầu trâu mà Diêm Vương sai đi lùng những quân tội lỗi. Con Vịnh rụng rời tay chân. Nó có cảm giác rằng mấy người ấy vào bắt nó để làm tội. Rồi nó bỏ chạy ra chuồng lợn, ôm mặt khóc.
Tiếng ông Lý quát:
- Xeo, bay đâu, vào tóm cổ con Vịnh ra đây cho tao!
Bọn xeo "dạ" ran một lượt, rồi xô vào tóm cổ con Vịnh. Con Vịnh không hề cống cự tí nào hết, nhưng mà nó buồn, nó khổ, nó khóc lên mấy tiếng cho quỉ thần biết là nó oan.
Ông Lý lại quát:
- Xeo, bay giải nó ra chợ!
Rồi quay lại bảo ông Bá Ngưỡng:
- Chốc nữa ông cùng đi ra ngoài chợ cho tôi hỏi ít câu.
Đoàn đầu trâu mặt ngựa lại ra đi.
Ông lý đi trước, thứ đến ông Phó, ông Trùm, thứ nữa đến bầy xeo, giải áp con Vịnh. Dọc đường, mấy bà lão trỏ vào mặt con Vịnh, xì xào: "đáng kiếp, đồ voi chà, băm ra trăm mảnh còn chưa hết tội".
Trong lúc nấy, ông Phó Thanh và thằng Mõ làng Phú Mỹ đương thương thuyết với nhau về việc việc quan trọng...
- Anh Mõ, anh còn ngần ngại chi nữa. Anh cứ nhận phức đi, con ấy mặt mũi cũng sáng sủa đấy.
- Con cũng vui lòng nhận lắm chớ. Ngặt vì bây giờ khắp trong làng ai cũng đồn rằng nó có nghén với anh Đối.
- Thì chính vì thế tôi mới cậy đến anh. Việc nó có nghén với thằng cả nhà tôi, thực hư như thế nào không rõ, thằng cả nhà tôi còn đi làm ăn xa. Nhưng tiếng tăm bây giờ đã vỡ lỡ ra thì anh giúp tôi nhận phức đi là anh có ăn nằm với nó, trước là anh có đôi có đũa, sau nữa tôi cũng khỏi mang tiếng là không biết dạy con. Tùy đó, anh liệu làm thế nào đó thì làm, miễn sao là tôi khỏi mang tiếng với họ hàng, làng nước. Việc xong xuôi tôi xin thưởng anh ba chục bạc. Tôi có nói sai thì tôi là con chó.
- Dạ, con xin nghe lời ông dạy. Làm dân không nghe lời ông Phó thì nghe ai? Nhưng sợ một điều là nó cứ khăng khăng một hai bảo nó ăn nằm với anh cả, thì con biết tính sao?
- Khó gì việc ấy! Già miệng, anh cứ cãi phăng đi! Anh cứ thưa với ông Lý rằng nó có thù riêng với thằng cả nhà tôi...cứ thế anh khai. Chỗ tôi với ông Lý đương thứ làng ta, ông ấy trước cũng có việc quan với tôi, thế nào ông ấy cũng bênh tôi.
- Nhưng con lại sợ tật nào vẫn tật ấy, nó lại về làm hư gia đạo nhà con.
- Anh cứ lấy roi vọt mà trị cho nó chừa. Thôi anh đi đi! Bây giờ có lẽ xeo dịch đã giải nó ra chợ rồi.
- Lạy ông, con đi!
- Cố làm cho trôi việc. Về đây, lĩnh ba chục bạc thưởng!
- Dạ...
Rồi thằng Mõ chạy một mạch ra chợ....Thiên hạ vòng trong, vòng ngoài, đứng xem chặt ních...Nó chen lấn hết hơi mới vào được. Nó thấy con Vịnh đương nằm dài trên mặt đất. Trong chợ, các hương chức đang gật gù cùng nhau uống rượu.
Dãy bên này thì ông Lý, ông Phó, ông Trùm, ông hương Kiểm, ông hương Bộ...dãy bên kia là các ông hào mục.
Đã ngà ngà hơi men, ông Lý bắt đầu lấy cung:
- Hỡi con kia! Mi không biết làng ta xưa nay là một làng có tiếng thuần phong mỹ tục, sao mi dám làm điều xấu xa, trái phép thế kia? Mi ăn nằm với ai thì khai ra đi!
- Dạ bẩm, quả con...
- Mi không ăn nằm với ai thì sao mi có chửa?
Ông Trùm nối lời ông Lý:
- Nó không chịu khai thì xin ông Lý ra lệnh cho xeo lột hết quần áo tẩn cho nó năm chục roi.
Các hào mục cũng nói xen vào:
- Xin làng trị tội cho đến nơi để làm gương.
Thằng Mõ bấy giờ đứng vào giữa, chắp tay lạy làng ba cái, rồi nó gãi đầu gãi tai thưa:
- Trước thưa các quan chức, sau trình ông Lý, ông Phó và hai giáp: làng tha, con được nhờ, bắt tội, con phải chịu, quả thật con trót dại quyến rũ nó.
Ông Lý cười sặc sụa, chỉ vào mặt thằng Mõ, nói:
- À! À chính anh Mõ làm cho con này phình bụng ra à! Tôi nói cho anh biết rằng: người khác tôi còn nhẹ, chứ anh, anh có làm việc làng chút đỉnh, anh phải biết rõ phép làng, anh còn dám làm điều xằng bậy à? Tôi sẽ trừng trị anh thẳng tay, cho anh biết mặt.
Rồi ông quay về phía con Vịnh:
- Còn con kia, có phải thằng này ăn nằm với mi không?
Cái cử chỉ của thằng Mõ làm cho nó cảm động quá, nó cứ tưởng như thằng Mõ là một đức thiên xứ trời sai xuống để cứu vớt danh giá thằng Đối. Chẳng ngần ngại chi hết, nó đáp lời ông Lý:
- Bẩm, con trót dại với anh Mõ thật. Nhưng xin ông xét cho. Anh ấy chẳng có tội gì, tội ở nơi con tất cả. Ông tha cho được nhờ, bắt tội con phải chịu.
- Thế bây giờ mi có bằng lòng về với thằng Mõ không?
- Bẩm ông dạy sao, con xin theo vậy. Ở đất làng, nhờ ơn làng.
- Còn anh Mõ, anh có bằng lòng chịu cho nó sáu quan tiền vạ không?
- Bẩm ông châm chước cho được chừng nào con nhờ chừng ấy.
- Đó là lệ làng. Hẹn cho anh, nội nhật hôm nay đưa lại nhà tôi đủ sáu quan và nhận lĩnh con Vịnh về.
- Dạ!
- Còn con Vịnh! Cho đứng dậy và lạy tạ làng đi.
Ông trùm còn lôi thôi, lên giọng buộc thằng Mõ một điều rất oái ăm:
- Anh là Mõ, ngày mai anh phải đi trình làng thượng hạ, xóm trên, xóm dưới, trình cho nam nữ lão ấu, khắp khắp mọi người, đều biết cái điều tốt đẹp của mình.
Mọi người đều cười ầm cả lên, rồi giải tán.
Chương Kết
Con Vịnh về là vợ nhà thằng Mõ đã hơn một năm. Cửa nhà nó săn sóc một cách chu đáo, tươm tất. Với ba chục bạc ông Phó Thanh cho nó, con Vịnh mở một ngôi hàng xén, bán buôn những đồ tạp hóa ở chợ. Nó bắt tay vào làm việc gì, là được việc ấy vì nó được cái nết siêng năng, cần kiệm. Buôn bán gặp may, nó dành dụm từng đồng một đồng hai, cuối năm nó đã có cái vốn hơn trăm bạc. Thằng Mõ thấy cửa nhà ngày một hưng thịnh, thì nó vui lòng quên cái lỗi xưa của vợ và chiều chuộng vợ đủ điều, nó đã từ dịch cái chức Mõ và bỏ ra ba chục bạc để chạy cái chức Hương dịch. Nó không muốn thiên hạ gọi vợ nó một cách khinh bỉ: "cái chị nhà anh Mõ". Từ nay nó là ông Hương dịch, và vợ nó là bà Hương dịch. Mỗi khi nó nghe có người kính cẩn gọi vợ nó bằng "bà Hương" thì nó sung sướng quá. Một hôm nó bảo vợ nó:
- Mụ Hương, ráng làm ăn siêng năng cần kiệm, qua sang năm, tôi sẽ ra ứng cử Phó lý.
- Thôi, khéo đa mang làm chi nữa, ông Hương. Để tiền mà nuôi con!
- Mụ Hương nói nghe phải đấy!
Thiên hạ ngó vào, ai cũng tấm tắc khen ngợi hai vợ chồng thằng Mõ biết ăn ở với nhau thuận hòa. Những chúng bạn con Vịnh xì xào với nhau:
- Số con ấy thế mà tốt đấy! Được gặp ngay nhà ông Hương Tá (tên thằng Mõ) làm ăn nên nỗi.
Nhưng họ có biết đâu rằng: đôi khi con Vịnh hồi tưởng đến chuyện đã qua, mà ôm lòng đòi đoạn...
Mỗi khi nó nhìn thằng Cu, nhận thấy trên cái mặt thằng bé như in cái hình ảnh của con người luân lạc ở phương xa, thì hai hàng lệ lại tuôn ra như suối. Nhưng hễ thấy bóng thằng Mõ ở ngoài đi vào, nó vội vàng đứng dậy gạt lệ hỏi chồng:
- Ông Hương chưa ra thăm ruộng à?
- Tôi vào chơi với thằng Cu một tí đã!
Dẫu sao thì thằng Mõ cũng là ân nhân của mẹ con nó. Nếu không phải là vì tình ái thì cũng là nghĩa vụ, nó phải vui vẻ mà ra gánh vác cái giang sơn nhà chồng. Kể thì con Vịnh cũng quí mến chồng lắm. Đi chợ thấy con cá nào tươi nó cũng tranh mua cho được, về nấu nướng cho chồng ăn. Những sầu não trong giây lát rồi cũng tiêu tán vào trong những công việc hằng ngày. Làm việc là quên hết mọi sự. Cái hình ảnh thằng Đối, rồi nó cũng phai nhạt dần trong tâm trí con Vịnh.
Nhưng, một buổi chiều thu...
Một buổi chiều thu, khi tan chợ rồi, con Vịnh đi vào rừng sim, chặt ít củi khô về thổi. Bỗng tần ngần, nó nghe như từ cái dĩ vãng xa xăm, đưa lại tiếng sáo trúc não nùng. Những bụi sim già xào xạc khua động cái buồn ủ rũ trong lúc chiều tà. Buồn rầu, nó ôm bó củi ra về. Đến cây đa, dưới chân rừng, nó thấy đi trước nó có hai người, một người gánh kén và một người vác cái cày trên vai. Nó đi sau nghe lõm được câu chuyện của 2 người.
Người gánh kén nói:
- Va đã về với tôi đến Mường Héo, nghĩa là chính giữa đèo Măng Gia rồi thì không may va cảm bịnh. Tội nghiệp quá! Ở đấy không có làng mạc nào hết, va phải nghỉ lại ở giữa đường, tôi lấy bàn đèn ra tiêm cho va mấy điếu, và đã hơi đỡ, nếu ko có việc gì thì hai ba hôm va cũng về được nơi xứ sở. Không may trong lúc ấy thì chúng tôi gặp thằng Phỉ, con ông Mục Néo ở làng dưới lên. Vô tình, thằng Phỉ đem chuyện đã xảy ra với con Vịnh kể lại cho va nghe. Nào khi con Vịnh có mang, bị xeo đưa ra chợ làm nhục, nào khi về với thằng Mõ... Nghe hết đầu đuôi sự tình va nổi uất lên. Bịnh trở lại. Chỉ trong 2 giờ đồng hồ thì va chết. Tôi với thằng Phỉ phải ở lại đấy mất một ngày, khâm liệm, chôn cất va.
- Tội nghiệp quá!
- Khi ra đi hai anh em, mà về có một mình, thật là ảo não quá!
- Thế vốn liếng của va, có gì ko?
- Trong lưng va cũng còn được năm ba trăm bạc tôi còn niêm giữ để giao lại cho ông Phó Thanh. Về chuyến này va cũng định trốn đưa con Vịnh lên. Thế ra bây giờ đã lấy nhà thằng Mõ rồi!
- Lấy đã hơn một năm.
- Con ấy thế mà bạc!
- Kể thì cũng là bất đắc dĩ.
Con Vịnh đi sau lưng, nghe câu chuyện như sét đánh ngang tai, chân tay rụng rời... Đến cây bàng, ông Chan, người bạn đồng hành của thằng Đối và chàng nông phu kia rẽ vào xóm đình, còn con Vịnh thì đi thẳng về xóm chợ.
Về đến nhà, nghe tiếng thằng Cu khóc, nó vất mạnh bó củi xuống sân, rồi vội vàng chạy vào với con... Nó cầm lấy tao nôi, nó ru thằng bé mà hát rằng:
" Yêu anh thịt nát xương mòn
Yêu anh đến thác cũng còn yêu anh"
lại hát:
" Nhớ ai em những khóc thầm
Năm thân áo vải ướt đầm như mưa
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai"
Hát rồi, nó tự trách mình hát chi những giọng thê lương ảo não. Nhưng những giọt lệ vẫn tiếp nhau rơi tràn trên gò má...
Nó lặng im nhìn ra ngoài trời...
Trước khi tản vào cõi mờ mịt, khói thổi cơm chiều tỏa ra từng đám xanh như còn lưu luyến những mái tranh màu ảm đạm...
Cảnh vật như thuộc về thời dĩ vãng.
Lưu Trọng Lư
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Cuộc phiêu lưu của chú cá linh Các bạn miền Tây chắc sẽ không lạ gì tôi đâu. Vỗ ngực một cái, tôi là cá Linh. Cá Linh có nghĩa là con cá c...