Thứ Tư, 12 tháng 3, 2025
Chùa Trà Am
Mùa hè cách đây 46 năm khi tôi vừa học xong lớp nhất trường tiểu học An Cựu lúc đó chúng tôi chỉ mới 12 tuổi, tôi, Lê Ngọc Dinh và Vũ ba đứa rủ nhau đi chơi chùa Trà Am, chỉ nghe tiếng chứ chưa biết đường nhưng ba đứa nhỏ chúng tôi vẫn quyết định khởi hành, từ sáng tinh mơ mẹ tôi đã làm sẵn cho một vắt cơm bới và một chai nước cho thêm ba đồng bạc cây dừa chúng tôi qua đò ở cống Phát Lát, đi ra ngã lăng Vạn Vạn gần nhà cụ Phạm Quỳnh, lên Trường Bia rồi đến ngã ba Ngự Bình, tù đó chúng tôi hỏi đường để vào chùa Trà Am, con đường đất nhỏ ngoằn ngoèo chạy theo chân núi Ngự Bình, hai bên đường toàn là cây bứa, cả một rừng bứa rợp bóng cây với các trái bứa trỉu vàng với những tàng lá che kín ánh sáng mặt trời làm mát rượi con đường đi, lên Trà Am thì tha hồ mà ăn bứa, trái bứa chua ngọt và chát mũ dính miêng nhưng đúa nào cũng muốn ăn, dó là kỷ niệm đầu tiên trong đời tôi về chùa Trà Am, về sau này tôi mới biết chùa Trà Am nằm gọn ở giữa ba hòn núi nỗi tiếng ở Huế là Núi Ngự Bình, núi Thiên Thai và núi Ngũ Phong, thuộc thôn Tứ Tây, An Cựu huyện Hương Thủy. Đi từ Huế lên Trà Am non 10 cây số, con đường vòng vèo qua chân núi Ngự Bình, vừa qua một con suối nhỏ là đã tới Trà Am. Chung quanh Trà Am còn có nhiều ngôi chùa cổ như Viên Thông, Tây Thiên, Trúc Lâm. Hồng Ân... Muốn đến Viên Thông thì đi chừng cây số rưỡi, muốn qua Hồng Ân, Trúc Lâm thì đi vòng qua chân núi Ngự Bình ra Nam Giao qua Tây Thiên hay đi xuống Cầu Lim mới vào được Trúc Lâm, nhưng đi đường tắt thì nhanh hơn chỉ đi vòng qua mấy quả đồi, mấy quả núi đá nhỏ dưới dãy núi Thiên Thai là có thể tới Hồng Ân rồi lội qua một con suối nhỏ vòng qua một giếng đá, nước trong veo ngọt lịm mát rượi là đến địa phận chùa Trúc Lâm. Trà Am hay là Tra Am? Cách đây 80 năm khi lập chùa, tổ khai sơn lấy biệt hiệu của mình đặt tên cho chùa là Tra Am, Tra Am là do điễn tích của Trung Hoa, theo Nam Sử, Trương Phu thuở nhỏ tên là Tra, cha ông là Trương Thiệu tên tục là Lê. Vua Tống Văn Đế thường gọi đùa rằng:" Tra sao bằng Lê được!" Trương phu cười mà tâu rằng: " Lê là cây trăm quả, Tra đâu dám sánh bằng!" Đời sau dùng điển tích này chỉ người sau không bằng người xưa, ngụ ý khiêm nhường, Tổ khai sơn lấy biệt hiệu Tra Am này tự cho mình không bằng được sư phụ.Trong di chúc để lại vị tổ khai sơn này nói câu; Tự hậnTra bất như Lê dã " để tỏ lòng tôn kính sư phụ mình. Người dân Huế đọc không quen được chữ Tra Am họ đọc trại ra thành chữ Trà Am lâu ngày người ta quen gọi tên chùa là Trà Am mà quên mất nó là Tra Am với cái điển tích cái ý nghĩa mà vị tổ khai sơn đã đặt cho nó. Chùa Trà Am khởi công xây dựng vào năm 1923, chủ nhân cùng mấy đệ tử là Trí Uyên, Trí Hiển, Trí Giải và vài ba người giúp việc xắn tay đốn cây, chặt lá,cuốc đất làm nền dựng chùa,giữa một mảnh đất còn hoang sơ chưa vết chân người lui tới, lúc đầu chỉ là một mái am tranh sơ sài, phên tre được trét bằng đất sét vàng, gian trước để thờ Phật, bên tả là nhà trai và bếp, bên hữu làm phòng khách phía sau là thư phòng và chổ nghĩ ngơi của chủ nhân. Cảnh trí chung quanh chùa là một bài thơ, một tác phẩm nghệ thuật hiếm có, tất cả cây cỏ, khe suối, núi đồi, đá tảng được sắp xếp tạo dáng để khi ai đó bước chân đến ngôi chùa này cũng cảm thấy phảng phất chung quanh một sự nhẹ nhàng bay bổng, để tâm hồn mình trở nên thanh thản, siêu thoát trước cảnh sắc phong quang thoát tục, ở đó con người dễ hòa mình trong sự trầm mặt của triết lý Phật Giáo. Cái khung cảnh tuyệt vời đó cũng nói lên cái sâu sắc, cái ý nghĩa của con đường đã chọn và cái ngộ của chủ nhân ngôi chùa. Để đi vào chùa Trà Am phải đi ngang qua một cái cầu làm bằng thân một cây thông to,có tay vịn chiếc cầu này vắt ngang một giòng khe nhỏ mang tên là Tẩy Bát Lưu, Tẩy Bát Lưu có nghĩa là là giòng khe để rữa bình bát. Và chiếc cầu mang tên một chữ trong câu cổ thi " Lược ước hoành thu thủy" hay một câu thơ của Lục Du" tiên tiên nhất cứ thủy, vãng lai nhất lược ước " ( bên bờ nước chảy trong veo, qua về trên chiếc cầu treo hững hờ ) chiếc cầu chỉ dùng cho người đi qua, xe ngựa không qua được. Lược Ước Kiều là tên của chiếc cầu nói lên cái phương tiện đi đến với đạo, cái thâm ý của chủ nhân ngôi chùa là ; "Ta chỉ đưa người chứ không đưa xe ngựa" hãy vứt bỏ cái ngã tướng, cái chấp nê khi bước chân vào chốn thiền môn này. Vị chủ nhân chùa Tra Am là ai? Đó là công tử Công Tôn Hoài Trấp là cháu nội của Định Viễn Quận Vương con vua Gia Long, công tử sinh năm 1879, xuất gia năm 1895 lúc vừa tròn 17 tuồi, thọ giáo với Viên Giác Đại Sư tại chùa Ba La Mật, đạo hiệu là Viên Thành, pháp húy Trừng Thông, để chấp nhận công tử xuất gia làm đệ tử Viên Giác Đaiï Sư đã bảo: "...thử nghĩ vài câu,nếu có cơ duyên, tôi sẽ giúp mệ xuất gia " sau khi lạy Phật công tử Hoài Trấp viết hai câu trình Viên Giác Đại sư như sau:
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Cuộc phiêu lưu của chú cá linh Các bạn miền Tây chắc sẽ không lạ gì tôi đâu. Vỗ ngực một cái, tôi là cá Linh. Cá Linh có nghĩa là con cá c...
-
Lời kỹ nữ - Xuân Diệu A.TÁC GIẢ: I. Cuộc đời: Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng T...
-
Hoa muộn - Nơi mùa xuân đi qua Vũ trụ này không có bắt đầu và không có kết thúc. Hay nói đúng hơn, con người không biết nó bắt đầu từ đâu ...
-
Qua bài thơ "Không đề" hiểu thêm tính sâu sắc của Văn Cao Nếu như ai đã từng thả bộ trên đôi bờ của một con sông, sẽ thấy mỗi b...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét