Thứ Tư, 12 tháng 3, 2025

Trông lại ngàn xưa

Trông lại ngàn xưa

- 1 -
Giáp Tết năm Quý Hợi (1983), tôi được tiếp một vị khách thật đặc biệt. Dạo ấy, điện thành phố cứ bị cúp liên miên, mới sáng ra mà đã thấy oi bức đến khó chịu. Tôi đang nhễ nhại mồ hôi vì phải lo loay hoay sắp đặt lại mấy hộp thẻ tư liệu sao cho gọn gàng và dễ sử dụng thì nghe tiếng gọi cửa. Khách đến tìm là một cụ ông lối chừng ngoài bảy mươi, tay ôm một bó hoa thược dược thật đẹp.
- Ông Nguyễn đấy ư? Nếu ông không phải là người ra mở của thì chắc tôi khó có thể nhận ra. Mấy chục năm rồi còn gì? Thầy có nhà không thưa ông?
Chính nhờ lời chào vồn vã cũng là câu tự giới thiệu ấy, tôi mới có thể nhanh chóng nhận ra được rằng, cụ chính là một trong số những người từng theo học lớp hoài cổ của thân sinh tôi hồi trước Cách mạng tháng Tám. Sở dĩ gọi là lớp hoài cổ bởi vì hồi đó hầu như không còn mấy ai chịu theo học chữ Nho nữa. Tôi được nghe kể rằng lớp của thân sinh tôi chỉ gồm độ dăm bảy học trò, thiên hạ có người chê bai, gọi lớp học ấy là lớp hoài cổ, thế mà cũng chẳng ai buồn, đã thế lại còn vui vẻ nhận luôn cho mình cái tên lớp hoài cổ. Đặc điểm của học trò lớp này là nói năng rất nhã nhận, biết cung kính giữ lễ với người trên đã đành, ngay cả bạn cùng một lớp mà họ cũng thường gọi nhau theo họ, như ông Trần, ông Phạm, ông Lê... chứ ít khi nào gọi nhau theo tên. Tôi là lớp hậu sinh, không được học trong lớp hoài cổ ấy nhưng vì về sau cũng có võ vẽ tập tành dăm ba câu chi hồ giả dã, cho nên, cũng được học trò của thân sinh tôi hào phóng bắt chước theo cách trên mà gọi là ông Nguyễn.
Vào nhà, thi lễ chào thân sinh và thân mẫu tôi xong, khách xin phép được tự tay cắm hoa. Tôi thật sự bất ngờ và rất lấy làm áy náy về việc này nhưng thân sinh tôi mỉm cười, ý bảo là cứ để tự nhiên, không sao cả. Một lúc sau, khách đứng dậy khoanh tay nói:
- Thưa thầy và thưa cô. Con biết thầy rất thích loài hoa thược dược này. Tất cả những gì thầy dạy, rốt cuộc, quý nhất vẫn là chữ tâm. Con xin được kính tặng thầy và cô chữ tâm kết bằng hoa thược dược, là loài hoa mà thầy hằng ưa thích.
Lần đầu tiên tôi thấy thân sinh tôi lặng lẽ lau nước mắt. Người ra hiệu cho phép tôi được ngồi để cùng tiếp khách và cuộc đàm đạo hôm đó giữa thân sinh tôi với người học trò cao niên đã khiến tôi không thể nào quên. Hoá ra, để lớp hoài cổ ham thích học tập, thân sinh tôi đã dạy theo cách dạy hoàn toàn riêng của mình. Người không dựa vào bất cứ một tài liệu giáo khoa nào có sẵn mà cất công tìm tòi và trích lục hàng trăm những mẩu chuyện hấp dẫn trong kho thư tịch cổ rồi cho học trò tập chép, tập dịch, tập thích nghĩa và tập suy gẫm. Cứ thế, mỗi lần tiếp xúc với một mẩu chuyện là một lần say mê và chính sự say mê đặc biệt này đã làm cho học trò dễ nhớ, dễ nâng cao nhận thức, dễ bồi bổ đạo đức làm người. Cụ Tạ -vị khách hôm đó người họ Tạ - nói với tôi rằng:
- Ông Nguyễn biết không, có một lần tôi trót dại vô lễ, hỏi thầy rằng: Thầy thường cho học những bài, hoặc là khen người xưa giỏi, hoặc là khen người xưa hay, vậy thì phải chăng là giờ đây nhân tài đã cạn, người nay đều vô dụng cả? ông Nguyễn ạ, thế mà thầy không giận tôi, lại còn ân cần nói: Ta có lỗi! Ta có lỗi! Ta chăm chú tìm gương sáng của nguời xưa, cho nên, hầu như chỉ thấy người xưa đều là đấng hiền tài khả kính. Nhưng, giả thử ta không có ý chăm chú làm như vậy thì kết quả chắc cũng sẽ tương tự như thế mà thôi. Tất cả đều bởi cái tâm của các cây đại bút thuở xưa con ạ. Bền bỉ viết những lời tôn vinh đấng hiền tài để giúp đời sửa đức, ích lợi có phải là nhỏ đâu? Ta không nghĩ là nhân tài ngày nay đã cạn. Bởi vì nếu vậy thì giang sơn nòi giống làm sao mà bảo tồn? Nhưng, nếu như người nay mà không biết noi theo những điều hay, trong đó có không ít những điều hay của chính tổ tiên mình thì sự vô dụng cũng là điều rất có thể.
Cụ Tạ kể thật nhiều điều, đại để, vào khoảng cuối những năm kháng chiến chống Pháp, cả gia đình cụ phải phiêu bạt vào Nam. Từ đó, biết bao biến cố vật đổi sao dời, nhưng cụ vẫn không bao giờ quên thân sinh tôi, không bao giờ quên lớp hoài cổ với những bài học luân lí thật sự bổ ích. Bấy giờ, các con cụ đều đã trưởng thành và cụ rất tự hào về điều đó. Cụ nói tiếp:
- Tôi noi theo thầy, cố hiểu cho được tâm thành của người xưa và cố truyền tâm thành của người xưa cho con cháu. Nhưng ông Nguyễn ạ, chỉ tiếc là tôi không đủ sức nối được nghiệp thầy, nói năng lỗ mỗ lắm.
Quả đúng là lời của học trò lớp hoài cổ, lúc nào cũng khiêm nhượng hơn người. Sau đó, được sự uỷ thác của thân sinh, tôi đến thăm để đáp lễ cụ Tạ. Ấn tượng mạnh nhất khi tôi bước vào là ngay ở nơi trang trọng nhất của ngôi nhà cụ có bức tường, trên chỉ thêu có mỗi một chữ tâm (心). Cụ Tạ đã sẵn lòng thành, lại vốn là một chuyên gia về trang trí nội thất, hèn chi cách cắm hoa cũng có nét riêng rất rõ.
Giáp tết năm Mậu Thìn (1988), thân sinh tôi qua đời sau khi đã may mắn được hưởng phúc lành trời ban, cho bình dị tại thế vượt qua cả bậc đại thượng. Sinh thời, người vẫn thường tin cậy mà nói với tôi:
- Nhà ta tính đến con nữa là chín đời liên tục làm nghề dạy học. Gia tài thiêng liêng nhất mà các thế hệ trước để lại chỉ là kho sách nhỏ và lời cầu chúc con cháu mãi mãi được thanh thản với đời và với nghề.
Tôi nối nghiệp nhà, làm một thầy giáo bình thường như thân sinh tôi, như tổ tiên tôi và như bao người nặng lòng vì lớp trẻ. Trước năm 1945 mà học chữ Nho còn bị chê là hoài cổ, huống nữa là bây giờ? Đã có lúc hoang mang, tôi cứ ngỡ rằng dăm ba câu chi hồ giả dã rốt cuộc cũng chỉ như là kỉ niệm, mình biết với riêng mình mà thôi. May mắn thay, phần lịch sử cổ trung đại Việt Nam mà tôi được phân công giảng dạy ở nhiều trường đại học là phần bắt buộc người giảng dạy ở nhiều trường đại học là phần bắt buộc người giảng phải tham khảo thư tịch cổ. Bởi thế, ngày này qua tháng nọ, tôi cất công đọc hết quyển này đến quyển khác. Nhưng, tôi là người hay quên. Lên lớp mà quên thì quả đúng là một sự xúc phạm lớn đến sinh viên và nghề nghiệp của mình. Bởi thế, đọc tới đâu, tôi cố gắng ghi chép cẩn thận tới đó. Phần nào nguyên bản là chữ Hán thì dịch ngay. Phần nào nguyên bản là chữ Nôm thì phiên âm ngay. Làm mãi, làm mãi,... tư liệu làm ra, tính hết số trăm rồi đến số ngàn mà vẫn chưa hết. Hoá ra, tôi đã bắt chước thân sinh tôi tự lúc nào không hay. Từ năm 1991, tôi bắt đầu gửi những mẩu viết ngắn của mình tới các cơ quan thông tin đại chúng. Và, tuy trước sau, nhiều ít có khác nhau, nhưng tính ra là có đến trên một chục tờ báo và đài phát thanh đã sử dụng một cách trân trọng. Nhiều bạn bè thấy vậy thì khích lệ tôi, khuyên tôi tập hợp lại cho in thành sách. Bởi lẽ này, liên tục trong ba năm 1993, 1994 và 1995, ngoài một số sách chuyên môn khác, tôi đã cho in hai bộ. Một là Việt sử giai thoại (8 tập, do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành) và hai là Giai thoại dã sử Việt Nam (4 tập, do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành). Nay, bộ Việt sử giai thoại đang được in lại lần thứ ba mặc dù số lượng bản in hai lần đầu khá lớn. Điều này khiến cho tối rất lấy làm cảm kích, do vậy, lại cặm cụi viết tiếp. Tôi coi đó như một cách tiếp tục công việc của gia tiên và của bản thân mình, như một lời cám ơn chân thành đối với thân nhân, bạn bè và độc giả. Tuy nhiên từ bản thảo đến hình hài cụ thể của một cuốn sách bao giờ cũng có một khoảng cách rất xa. Ân cần và vô tư tiếp sức cho tôi băng qua khoảng cách rất xa đó, ngoài thân nhân còn có một loạt những đồng nghiệp giàu lòng nhiệt thành, đó là các nhà báo, nhà văn, nhà khảo cứu quen thuộc như: Trần Tu Duy, Nam Đồng, Nguyễn Vũ Tiềm, Đỗ Mạnh Hùng,... Sách mang tên tôi nhưng tên tôi lại mãi mãi quyện chặt với những tình cảm nồng nàn và tốt đẹp của các bạn.
Thành phố Hồ Chí Minh, 18-4-1997
NGUYỀN KHẮC THUẦN
- 2 -
Tuổi trẻ của Lý Thánh Tông hoàng đế
Triều Lý tồn tại trước sau tổng cộng 215 năm (1010 -1225) với 9 đời Hoàng đế nối nhau trị vì. Trong số 9 đời Hoàng đế này. Lý Thánh Tông (1054 -1072) là người có tên tuổi thuộc hàng nổi bật nhất.
Bộ Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ, quyển 3, tờ 1 - a) cho biết, Lý Thánh Tông tên thật là Lý Nhật Tôn, con trưởng của Lý Thái Tông và Kim Thiên Thái hậu. Một hôm, bà nằm mơ, thấy Mặt Trăng bay vào bụng, thế rồi mang thai, đến ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi, niên hiệu Thuận Thiên thứ 14 (tức là năm 1023) thì mãn nguyệt khai hoa. Lý Nhật Tôn chào đời ở cung Long Đức, từ tấm bé đã có dáng vẻ khôi ngô tuấn tú hơn người.
Năm Thiên Thành thứ nhất (tức là năm 1028), khi thân sinh được lên nối ngôi chí tôn (đó là Lý Thái Tông Hoàng đế) thì Lý Nhật Tôn cũng được phong làm Đông Cung Thái tử. Khi ấy, Lý Nhật Tông chỉ mới năm tuổi.
Bấy giờ, Thái tử có cung thất riêng. Cung thất của Thái tử thường xây cất ở phía Đông của đại điện, cho nên, gọi là Đông Cung. Từ khi ra Đông Cung, Thái tử phải bắt đầu một quá trình học tập và rèn luyện rất căng thẳng. Tại đây, một loạt những người hiền tài được Hoàng đế đích thân chọn lựa để lo việc giảng dạy cho Thái tử. Thái tử không chỉ học văn; chương, nghi lễ, phép trị nước,... mà còn học cả võ nghệ, binh pháp,...
Hẳn nhiên, vấn đề không phải là học cái gì mà quan trọng hơn vẫn là học như thế nào. Sử cũ đã viết những lời đầy thán phục về sức học của Thái tử Lý Nhật Tôn. Hơn mười tuổi, hiểu biết của Thái tử Lý Nhật Tôn về Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo đã rất sâu sắc. Hai mươi tuổi, Thái tử Lý Nhật Tôn đã đủ năng lực để trực tiếp chỉ huy cả một đạo quân lớn.
Ngày mồng 1 tháng 3 năm Quý Mùi (1043), Thái tử Lý Nhật Tôn được trao chức Đô Thống Đại Nguyên Soái, cầm quân đi đánh dẹp vùng Ái Châu (nay thuộc tĩnh Thanh Hoá) và Thái tử Lý Nhật Tôn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quan trọng này.
Từ năm hai mươi mốt tuổi trở đi, Thái tử Lý Nhật Tôn bắt đầu được tập sự điều khiển hoạt động triều đình. Nhiều vấn đề quan trọng của quốc gia được Lý Thái Tông Hoàng đế tin cậy giao cho Thái tử Lý Nhật Tôn vạch kế hoạch giải quyết hoặc trực tiếp giải quyết.
Đầu năm Giáp Thân (1044), Lý Thái Tông Hoàng đế cầm quân đi đánh Chiêm Thành, Thái tử Lý Nhật Tôn được trao quyền Lưu Thủ Kinh Sư (tức là trông coi mọi hoạt động của kinh thành Thăng Long). Năm ấy, Thái tử Lý nhật Tôn chỉ mới hai mươi mốt tuổi. Vị Lưu Thủ Kinh Sư trẻ tuổi này đã tỏ rõ năng lực điều hành rất đặc biệt, khiến cho bá quan vãn võ lớn nhỏ đều răm rắp tuân theo.
Theo truyền thuyết dân gian và một vài tài liệu dã sử, thì vào năm Kỷ Sửu (1049), Lý Thái Tông Hoàng đế quyết định cho xây chùa Diên Hựu (tức chùa Một Cột) ở ngay kinh thành Thăng Long. Và, người trực tiếp chỉ huy việc xây cất này cũng chính là Thái tử Lý Nhật Tôn. Tuy chỉ có quy mô rất nhỏ, nhưng chùa Một Cột là một công trình kiến trúc vô cùng độc đáo. Gần một ngàn năm qua, chùa Một Cột được coi là biểu tượng của trái tim cả nước.
Ngày mồng 1 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1054), sau khi Lý Thái Tông Hoàng đế qua đời, Thái tử Lý Nhật Tôn được tôn lên ngôi báu, đó là Lý Thánh Tông Hoàng đế. Năm ấy, Lý Thánh rông Hoàng đế đã quyết định đổi quốc hiệu của nước ta. Trước đó, quốc hiệu của nước ta là Đại Cồ Việt (do Đinh Tiên Hoàng đặt từ năm 968) đến đây, đổi là Đại Việt.
Thời trị vì của Lý Thánh Tông Hoàng đế cũng chính là thời nhà Tống (Trung Quốc) ráo riết chuẩn bị vạch kế hoạch tấn công xâm lược nước ta. Về mặt ngoại giao, quân xâm lăng đã sai sứ giả đi khắp các lân bang của ta, xúi giục họ phối hợp với nhà Tống quấy phá ra bằng nhiều hình thức khác nhau. Bấy giờ, Chiêm Thành là nước đã dại dột nghe theo lời xúi giục ấy. Để có thể vững tâm đối phó ở mặt Bắc, Lý Thánh Tông Hoàng đế đã tự mình cầm quân, thân chinh đến Chiêm Thành vào năm 1069. Và, với cuộc tấn công này, Lý Thánh Tông Hoàng đế chẳng những đã trừng trị đích đáng những hành vì sai trái của Chiêm Thành, mà còn đập tan một mảng quan trọng trong toàn bộ kế hoạch xâm lăng của nhà Tống.
Vừa từ Chiêm Thành trở về, Lý Thánh Tông Hoàng đế đã khấn trương bắt tay vào công cuộc chuẩn bị đón đánh quân Tống, nếu chúng dám liều lĩnh tràn sang nước ta. Một kế hoạch có quy mô lớn, trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau, đã được Lý Thánh Tông Hoàng đế hoạch định. Và, lịch sử đã xác nhận rằng, những dự kiến chung của Lý Thánh Tông Hoàng đế về diễn biến phức tạp của tình hình chính trị đương thời là hoàn toàn đúng đắn. Thắng lợi trọn vẹn và vang dội của nhân dân ta trong cuộc chiến tranh vệ quốc chống quân Tống xâm lăng ở nửa sau thế kỉ XI, gắn liền với tầm nhìn chiến lược sâu sắc và biện pháp chuẩn bị đối phó rất hữu hiệu của Lý Thánh Tông Hoàng đế.
Cũng ngay sau khi vừa từ Chiêm Thành trở về, tuy rất bận rộn với vô số những công việc lớn nhỏ của quốc gia, Lý Thánh Tông Hoàng đế vẫn không quên chăm lo đến sự phát triến của văn hoá nước nhà. Chính Lý Thánh Tông Hoàng đế đã cho phép và tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng Văn Miếu ở ngay giữa kinh thành Thăng Long vào năm 1070. Đây là một sự kiện rất quan trọng, đánh dấu bước tiến mới của quá trình truyền bá Nho giáo ở nước ta
Tháng giêng năm Nhâm Tý (1072) Lý Thánh Tông Hoàng đế qua đời, hưởng thọ 49 tuổi. Một cuộc đời chỉ có 49 tuổi xuân, nhưng Lý Thánh Tông Hoàng đế đã có đến hơn một chục năm nắm giữ trọng trách của quốc gia và gần hai mươi năm ở ngôi chí tôn của đất nước. Thời Lý Thánh Tông Hoàng đế là thời huy hoàng của Đại Việt, thời để lại niềm kiêu hãnh cho hậu thế chúng ta. Để có thể đưa giang sơn bước từng bước, vững chắc lên đỉnh cao vinh quang, Lý Thánh Tông Hoàng đế đã phải khổ công rèn luyện và học tập suốt mấy chục năm trời. Tuổi trẻ của Lý Thánh Tông Hoàng đế, kính thay! 
NGỌC HOA CÔNG CHÚA - NỮ ĐIỆP VIÊN TRẺ TUỔI XUẤT SẮC THỜI LÝ
Thực ra, Ngọc Hoa Công chúa lại không phải là... Công chúa. Bà tên thật là Trần Thị Ngọc Tường, con gái của một nhà nho tên là Trần Huấn. Thần tích ở đền thờ bà tại thôn Tư, xã Nam Giang, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Hà (cũ) chép rằng...
Thời trị vì của vua Lý Nhân Tông (1072 -1127), ở đất Phúc Lâm của Ái Châu (nay thuộc Thanh Hoá), có nhà nho trẻ, tên là Trần Huấn. Để mưu sinh, Trần Huấn đã ra tận kinh thành Thăng Long mở trường dạy học và tại đấy, ông đã kết duyên với một một người con gái làm nghề buôn bán ở chợ Đại Yên, vừa nổi tiếng là xinh đẹp và đoan trang lại nết na và thật thà hiếm thấy. Chuyện kể rằng: Có một lần nọ, dọc đường từ chợ về nhà, vợ của Trần Huấn nhặt được một túi lớn, trong đó chứa đầy lụa là và châu báu. Dầu bấy giờ gia cảnh cũng chẳng khá giả gì, bà vẫn quyết tìm cho bằng được chủ nhân túi của cải kia mà trả lại, không một chút tơ hào, tham lam. Thế rồi vào một đêm, bà nằm mơ thấy Tiên ông vào nhà mình, trao cho một viên ngọc rất đẹp và ân cần nói:
- Vợ chồng ngươi khéo tu nhân tích đức, tiếng tốt vang xa, cho nên, Trời đã sai Ngọc Nữ xuống đầu thai vào nhà ngươi.
Tiên ông nói xong thì biến mất. Bà thấy cơ thể ngày một khác. Đến mồng tám tháng hai năm Giáp Tuất (1094), bà sinh hạ một cô con gái. Khi ấy, nhân có điềm được Tiên ông ban cho viên ngọc quý trong mộng, hai ông bà quyết định đặt tên cho con gái mình là Ngọc Tường.
Năm 1103, có người tên là Lý Giác nổi binh gây hấn ở Diễn Châu (nay thuộc Nghệ An), bị vua Lý Nhân Tông đánh và chống đỡ không nổi, bèn chạy vào cầu cứu Chiêm Thành. Vua Chiêm Thành lúc ấy là Chế-ma-ma liền nhân cớ ấy, cho quân tràn ra cướp phá, lại còn có ý đòi lại ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính mà vua trước của Chiêm Thành là Chế Củ đã cắt dâng cho ta vào năm 1069.
Trước tình hình đó, vua Lý Nhân Tông lại sai lão tướng Lý Thường Kiệt đem đại binh đi Nam chinh một lần nữa. Khá đông lính mới được tuyển thêm, trong đó có cả nhà nho Trần Huấn. Khi cùng mẹ tiễn cha ra trận, bỗng dưng, Ngọc Tường nắm chặt áo cha, nhất quyết đòi theo cha đi đánh giặc, ai khuyên bảo thế nào cũng chẳng chịu nghe. Chuyện đến tai chủ soái, Lý Thường Kiệt đành chấp nhận cho Ngọc Tường đi theo, dẫu chưa biết sẽ dùng người con gái chưa đầy mười tuổi này vào việc gì.
Đến sát biên giới phía Nam, Lý Thường Kiệt cho quân dừng lại và sai lính do thám bí mật luồn sâu vào lãnh thổ Chiêm Thành để điều tra về kế hoạch bố phòng và các vị trí đóng quân của chúng. Nhưng, dẫu đã rất cố gắng, lính do thám của Lý Thường Kiệt vẫn không sao có thể vượt qua hàng rào kiểm soát nghiêm ngặt của quân Chiêm Thành. Đúng lúc đang lúng túng ấy, Ngọc Tường xuất hiện và xin được đóng vai một cô bé buôn trầu cau, quẩy gánh trầu cau đi thẳng vào dinh trại giặc. Cái dáng loắt choắt, cộng với tiếng rao lảnh lót có vẻ rất rành nghề bán hàng dạo của Ngọc Tường đã khiến cho quân Chiêm Thành không chút nghi ngờ. Và, Ngọc Tường đã đi đến khá nhiều đồn giặc, thận trọng học thuộc lòng từng vị trí đóng quân của đối phương rồi trở về báo cáo lại cho Lý Thường Kiệt. Nhờ những nguồn tin quan trọng và chính xác do Ngọc Tường cung cấp, Lý Thường Kiệt đã tổ chức thành công một cách mau chóng cuộc Nam chinh cuối cùng của mình.
Khi toàn thắng trở về, Lý Thường Kiệt trân trọng kính tâu lên vua Lý Nhân Tông về công lao của nữ điệp viên trẻ tuổi mà xuất sắc là Trần Thị Ngọc Tường. Nhà vua vừa hết lời khen ngợi, vừa hạ lệnh ban thưởng cho Ngọc Tường rất hậu, ngoài ra, còn đặc biệt gia ân, phong Ngọc Tường làm Ngọc Hoa Công chúa.
Sau, Ngọc Hoa Công chúa qua đời vào năm nào chưa rõ. Nhân dân Đại Yên là nơi thân mẫu của Ngọc Hoa Công chúa từng qua lại buôn bán đã đồng lòng xây đền và tạc tượng Ngọc Hoa Công chúa để thờ. Đền Ngọc Hoa Công chúa còn được nhân dân nhiều địa phương khác tôn kính lập nên. Nay, cũng có đền còn lưu giữ được cả thần tích như đã kể ở trên. Có đôi câu đối bằng chữ Hán (hiện chưa rõ của ai), viết ca ngợi Ngọc Hoa Công chúa, xin tạm dịch như sau:
Sau Bà Trưng, Bà Triệu, nữ giới lại có đấng anh thư xuất hiện;
Triều đình ban sắc phong, vẻ vang thay, người sống chết thật phi thường.
Điều độc đáo là Ngọc Hoa Công chúa được dân một số làng tôn làm thần Thành hoàng. Bạn biết đấy, Thành hoàng mà nữ thần là hiện tượng rất hiếm hoi. Các triều đại nối tiếp sau triều Lý đều lần lượt gia phong thêm. Đến thời Nguyễn (triều đại cuối cùng tiến hành việc phong thần), Ngọc Hoa Công chúa được phong làm Thượng đẳng thần.
Thế mới hay, cuộc đời bao giờ cũng rất công bằng. Đền thờ và khói hương nghi ngút chính là cách tưởng nhớ đầy vẻ tôn nghiêm của hậu thế đối với tất cả những bậc giàu công đức. Người bất diệt là người dốc lòng vì nước vì dân. Như Ngọc Hoa Công chúa, tại thế chỉ một đời mà sống thì muôn đời, kính thay! 
CHUYỆN LI KÌ VỀ KIẾP TRƯỚC CỦA VUA LÝ THẦN THÔNG
Vua thứ năm của triều Lý là Lý Thần Tông (1128 -1138). Nhà vua vốn là con người em ruột vua Lý Nhân Tông, nhưng vì vua Lý Nhân Tông không có con trai nên mới nhận con của em ruột (là Sùng Hiền Hầu) làm con của mình. Người con ấy tên là Lý Dương Hoán, sinh năm 1116, được lên nối ngôi năm 1128, mất năm 1138, hưởng dương 22 tuổi. Chuyện li kì về vị này được khá nhiều thư tịch cổ ghi chép. Nay, xin theo một số thần tích và dã sử mà lược kể như sau:
Phan Huy Chú (1782 -1840) trong Hoàng Việt địa dư chí (quyển 1) chép đại để rằng: ở làng Yên Lãng, huyện Vĩnh Thuận (nay là khu vực Láng, Hà Nội) có một ngôi chùa cổ, cũng mang tên gọi là chùa Yên Lãng. Dân gian quen gọi là chùa Láng. Tương truyền, chùa Láng là nơi tu luyện của đại thiền sư Từ Đạo Hạnh. Từ Đạo Hạnh và vị thiền sư Đại Điên ở chùa Dịch Vọng (Hà Nội) vốn có mối thâm thù với nhau, vì thế, Từ Đạo Hạnh quyết chí tìm đường sang tận Tây Vực học đạo, mong sao có đủ phép thuật để trừng trị thiền sư Đại Điên. Sau bao năm tu hành khổ luyện nơi đất khách quê người, Từ Đạo Hạnh đã thành công. Thiền sư trở về nước và dùng phép thuật học được để trừng trị thiền sư Đại Điên đúng như lời nguyền trước lúc ra đi.
Mối thâm thù giữa Từ Đạo Hạnh với Đại Điên do đâu mà có? Các bộ dã sử khác chép khá kĩ hơn. Xin tổng hợp tất cả những ghi chép đó mà tái hiện một cốt truyện chung như sau:
Đại thiền sư Từ Đạo Hạnh thế danh là Từ Lộ, người làng Yên Lãng, huyện Vĩnh Thuận (nay thuộc Hà Nội). Từ Đạo Hạnh là con trai của Từ Vinh, một trong những vị tăng quan cao cấp dưới thời trị vì của vua Lý Nhân Tông (1072 -1127). Tương truyền, vì Từ Vinh có chút hiềm khích với Diên Thành Hầu và Diên Thành Hầu đã nhờ thiền sư Đại Điên dùng phép thuật đánh cho Từ Vinh đến chết rồi đem xác quẳng xuống sông Tô Lịch. Xác của Từ Vinh cứ hễ trôi đến đoạn sông trước cửa nhà Diên Thành Hầu là lại dựng đứng lên, tay đưa lên và chỉ thẳng vào nhà Diên Thành Hầu. Hoảng quá, Diên Thành Hầu liền chạy đến cậy nhờ thiền sư Đại Điên thêm một lần nữa. Đại Điên đến, niệm chú một lúc thì cái xác mới chịu trôi đi. Từ Đạo Hạnh cầm gậy chạy đến, định đánh Đại Điên để trả thù cho cha, nhưng vừa giơ gậy lên đã nghe tiếng thét lớn từ trên không:
- Chớ! Chớ!
Từ Đạo Hạnh tự biết là không thể làm khác hơn được, bèn bỏ xứ, tìm đường sang Tây Vực để theo học cho bằng được các phép thần thông. Sau nhiều năm tu luyện, phép thuật của Từ Đạo Hạnh đã rất cao cường. Một hôm, Từ Đạo Hạnh bỗng thấy một vị thần nhân đến, nói rằng:
- Thần được đấng Thiên Vương cai quản Từ Trấn sai đến để sớm hôm hầu hạ.
Từ Đạo Hạnh bèn trở về, ra sông Tô Lịch, lấy gậy thả xuống sông để làm thuyền, chẳng cần chèo mà gậy cũng tiến ngược dòng, đến tận cầu Tây Dương (tức cầu Giấy ở Hà Nội ngày nay), xong, cầm gậy đi tìm thiền sư Đại Điên. Thiền sư Đại Điên nói:
- Ngươi không còn nhớ lời can ngăn thuở nào chăng?
Từ Đạo Hạnh ngước nhìn lên, bốn bề thinh không im lặng, biết là chẳng còn ai cản ngăn như trước, bèn lấy gậy đánh Đại Điên. Đại Điên bị đánh đau, được ít lâu thì chết. Từ Đạo Hạnh rửa được thâm thù, bèn lên núi Phật Tích ở Sài Sơn tu hành.
Bấy giờ, vua Lý Nhân Tông không có con trai, đành xuống chiếu tuyển con cháu tôn thất họ Lý để truyền ngôi. Em ruột của vua Lý Nhân Tông là Sùng Hiền Hầu đến Sài Sơn cầu tự. Từ Đạo Hạnh rất cảm mến ơn đức của cả hai vợ chồng Sùng Hiền hầu, nên mới dặn rằng:
- Tôi nguyện sẽ giúp. Chừng nào phu nhân chuyển dạ thì xin cho gia nhân đến báo cho tôi biết gấp.
Đến ngày nhận được tin, Từ Đạo Hạnh vào trai giới sạch sẽ, thay áo quần tươm tất rồi vào trong hang núi ngồi mà mất. Đời truyền rằng, ấy là bởi vì ông đã dùng phép thuật, hoá thân đầu thai là con Sùng Hiền Hầu. Ngày Từ Đạo Hạnh mất cũng là ngày con trai Sùng Hiền hầu chào đời. Người con trai ấy là Lý Dương Hoán, được hai tuổi thì Lý Nhân Tông cho làm Thái Tử, được mười hai tuổi thì lên nối ngôi và ở ngôi tổng cộng mười năm (1128 - 1138), đó là Lý Thần Tông.
Thế ra, kiếp trước của vua Lý Thần Tông là Từ Đạo Hạnh, còn Từ Đạo Hạnh lại là con của Từ Vinh. Từ Vinh và Từ Đạo Hạnh là người tu hành mà sao tâm đầy uẩn khúc, tính ngập oán thù, động cơ tu luyện phép thuật kiểu ấy, nghĩ mới đáng sợ làm sao! Thời Lý Thần Tông là thời bắt đầu đổ nát của nhà Lý. Phải chăng, câu chuyện li kì trên muốn chuyến tải một chút triết lí, rằng chuyên tâm báo oán thì làm sao có thể gia ân cho trăm họ? Kiếp trước nếu là vậy thì kiếp sau ắt phải là vậy, bởi vì, khi tu hành mà còn coi nhẹ đạo đức, khi ở ngôi chí tôn, đạo đức là chuyện khó nói lắm thay!
CHUYỆN HAI QUAN KIỂM PHÁP THỜI TRẦN
Thời Trần (1226-1400), chức quan trông coi về tư pháp và xét xử án kiện thường được gọi là quan kiểm pháp. Bấy giờ, chức này được trao quyền rất lớn, vì thế, việc chọn người làm kiểm pháp luôn luôn được cân nhắc rất thận trọng. Không ít quan kiểm pháp đã tỏ ra xứng đáng với sự chọn lựa đầy tin cậy của triều đình. Trong số họ, có Trần Thì Kiến và Phí Trực.
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 8, tờ 25) chép rằng:
“Trần Thì Kiến là người cương trực, từng được giữ chức An Phủ Sứ tại phủ Thiên Trường (vùng tương ứng với tỉnh Nam Hà cũ -NKT). Khi ấy có người mang món ăn tới biếu, Trần Thì Kiến liền hỏi rằng:
- Vì sao lại biếu?
Người ấy đáp:
- Chẳng có việc gì cả, chỉ vì nhà tôi ở gần lị sở mà thôi.
Mấy hôm sau, người ấy đem việc đến nhờ giúp, Trần Thì Kiến giận lắm, bèn lấy tay móc họng cho ói ra. Đến đây (tháng 4 năm Đinh Dậu, 1297 -NKT) ông được cất nhấc làm quan Kiếm Pháp. Trần Thì Kiến là người xét xử công bằng, thoả đáng. Ai cũng nói rằng ông có thể quyết đoán được việc hình ngục.”
Sách Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ, quyển 6, tờ 34 -b) chép:
“Bấy giờ, trộm cướp bắt đầu nổi lên, tên Văn Khánh là đầu sỏ của bọn cướp. Có người bắt được một tên cướp, đem giải lên quan và nói rằng chính nó là Văn Khánh. Khi xét hỏi, tên ấy cũng nhận ngay, cho nên, ai cũng tin là thực, duy chỉ có (Phí) Trực là vẫn còn ngờ, vì thế, án ấy để lâu mà không thể quyết. Thượng Hoàng hỏi, (Phí) Trực tâu:
- Mạng người rất trọng mà lòng thần thì vẫn còn có chỗ ngờ, cho nên, chưa dám liều lĩnh xét xử ngay.
ít lâu sau, Thượng Hoàng lại hỏi, (Phí) Trực vẫn trả lời như trước, vì thế, Thượng Hoàng giận mà nói rằng:
- Nó đã nhận như thế, ngươi còn ngờ gì nữa?
(Phí) Trực tâu:
- Nó chưa bị tra tấn khổ sở mà đã điềm nhiên nhận, cho nên, thần rất lấy làm ngờ.
Một tháng sau, tên Văn Khánh thật mới bị bắt. Thượng Hoàng do vậy mới khen (Phí) Trực có tài.”
Đọc đoạn ghi chép ngắn ngủi nói trên, hậu sinh trộm nghĩ: Trần Thì Kiến móc họng cho ói hết thức ăn ra, ấy là bởi ông quyết giữ lòng cho trong sạch. Làm việc quan mà lòng không trong sạch thì chỉ khiến cho công đường ngày một thêm ô uế mà thôi. Kẻ đã biếu món ăn cho ông thấy thế thì sợ, dân trong cõi nghe vậy thì phục, điều tốt lành nào phải là nhỏ đâu! Triều đình trao cho ông chức Kiểm pháp là chí phải. Người đức sáng như ông thì việc có mờ tối bao nhiêu vẫn có thể nhìn thấu tỏ. Nhất định là như thế.
Thượng Hoàng khen Phí Trực là người có tài, nhưng xem ra, trước hết hãy nên khen ông là người bình tĩnh và biết trọng mạng sống. Thượng Hoàng giận dữ thúc giục, Phí Trực vẫn quyết không vội vàng. Quan toà mà hấp tấp và hời hợt, nỗi oan khuất thật khó mà lường trước được. Chuyện chỉ nói ông tránh sự xử oan cho một người nhưng thực thì ông đã tránh được tiếng xấu cho quan Kiểm Pháp và phép nước một thời vậy. Kính thay!
CHIÊU VĂN VƯƠNG TRẦN NHẬT DUẬT - NGƯỜI BIẾT NHIỀU THỨ TIẾNG NHẤT THỜI TRẦN
Điều ít ai ngờ là tuyệt đại đa số quý tộc họ Trần đều rất giỏi sinh ngữ. Trần Hưng Đạo nói tiếng Trung Quốc hay đến nỗi khiến cho người Trung Quốc không thể ngờ rằng... ông là người Việt. Trần Quang Khải từng tiếp sứ giả nước ngoài mà không cần đến người phiên dịch... Nhưng, biết nhiều thứ tiếng nhất thời Trần có lẽ là Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật (1255 -1331)
Trần Nhật Duật là con thứ sáu của vua Trần Thái Tông (1226 -1258), em của vua Trần Thánh Tông (1258 -1278) và danh tướng Chiêu Văn Vương Trần Quang Khải (1241 - 1294). Sử cũ chép rằng, chính vua Trần Thái Tông đã đích thân sai Đạo sĩ đi cầu tự. Thế rồi một đêm nọ, nhà vua nằm mơ thấy Ngọc Hoàng Thượng đế sai Chiêu Văn Đồng Từ xuống đầu thai làm con của vua. Đến khi Trần Nhật Duật sinh ra, trên cánh tay còn in rõ hai chữ Chiêu Văn, vì thế, nhà vua mới cho lấy Chiêu Văn làm hiệu cho con.
Ngay từ thuở nhỏ, Trần Nhật Duật đã nổi tiếng thông minh, học qua là nhớ, mà điều gì đã nhớ là nhớ mãi không bao giờ quên, cho nên, người đương thời vẫn gọi ông là thần đồng. Bấy giờ, chữ Hán được coi là văn tự chính thức của nước nhà, nói đi học cũng có nghĩa là học chữ Hán. Nhưng, ta đọc chữ Hán theo âm Hán -Việt, khác hẳn với âm chữ Hán theo cách đọc của người Trung Quốc. Bởi lẽ này, rất nhiều người giỏi chữ Hán mà vẫn không sao có thể nói chuyện được với người Trung Quốc, họ đành phải trao đổi theo lối bút đàm, vừa phiền phức, vừa rất tốn thời gian. Trần Nhật Duật thì khác hẳn. Từ thuở tấm bé, hễ thấy sứ giả của Trung Quốc sang là ông lại mon men tới, vừa bút đàm, vừa học nói, và chẳng bao lâu sau thì ông đã có thể nói một cách thông thạo, khiến cho cả triều đình phải kinh ngạc. Năm chừng hai mươi tuổi, Trần Nhật Duật đã có thể nói chuyện với sứ giả cả ngày, chẳng những không chút vấp váp mà còn tế nhị chuyển đạt được những vấn đề lớn của đất nước.
Bấy giờ, Đại Việt phải thường xuyên tiếp đón sứ giả của Chiêm Thành cũng như Ai Lao và Vạn Tượng (thuộc Lào ngày nay). Người thường được giao trách nhiệm tiếp sứ giả cũng chính là Trần Nhật Duật. Ông thông thạo tiếng của người Chăm và tiếng nói của người Lào đến nỗi khiến cho vua Trần Nhân Tông phải thốt lên rằng: Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật chừng như là hậu thân của các phiên thuộc!
Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 7, tờ 2 a - b) có một đoạn chép về Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật khá lí thú như sau:
“Đời (Trần) Nhân Tông (ở ngôi từ năm 1278 đến năm 1293 -NKT), có sứ giả của nước Sách -mã -tích (tên một tiểu vương cổ, có lẽ là vùng thuộc về Singapo ngày nay -NK.T) đến dâng cống. (Triều đình) không tìm đâu ra người phiên dịch, chỉ có (Trần) Nhật Duật là dịch đuợc. Có người hỏi ông rằng nhờ đâu mà biết được tiếng của nước họ, ông trả lời:
- Thời Thái Tông (ở ngôi từ năm 1226 đến năm 1258 - NK.T), sứ của nước này có sang, nhân đó, tôi giao du với họ nên hiểu được đôi chút tiếng nói của họ.”.
Ngoài tiếng Trung Quốc, tiếng Chăm, tiếng Lào và tiếng Sách -mã -tích như đã nói ở trên, Trần Nhật Duật còn rất giỏi tiếng Mông cổ. Mỗi khi có sứ thần Mông cổ sang, ông thường nói chuyện trực tiếp một vài thứ tiếng nói của đồng bào các dân tộc ít người. Có một chuyện rất độc đáo, xảy ra vào năm 1280, tức là năm Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật mới 25 tuổi, được sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyến 5, tờ 40 a - b) ghi lại, đại để như sau: Năm ấy, viên Thổ tù của đạo Đà Giang là Trịnh Giác Mật nổi loạn, tình thế rất nguy cấp. Thay vì đem quân tới đàn áp, Chiêu Văn Vương chỉ đem dăm tiểu đồng tới Đà Giang, tay không hề cầm vũ khí. Quân của Trịnh Giác Mật vây lấy ông, giáo mác và cung tên đều chĩa thẳng về phía ông, nhưng ông vẫn cứ điềm nhiên đi vào chỗ trú đóng của Trịnh Giác Mật. Tới nơi, ông nói chuyện với Trịnh Giác Mật bằng tiếng thổ dân, xử sự theo đúng tập tục của thổ dân, và điều đó đã khiến cho cả Trịnh Giác Mật cùng với quân sĩ của hắn vô cùng kinh ngạc. Ngày hôm sau, Trịnh Giác Mật đem toàn bộ lực lượng ra đầu hàng Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật. Khi ông trở về kinh đô Thăng Long, Trịnh Giác Mật đem cả vợ con theo vào chầu vua Trần. Sau đó, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật còn nhận nuôi dạy cho con của Trịnh Giác Mật nữa. Vùng Đà Giang từ đó luôn được yên bình.
Hậu thế xưa nay thường coi Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật là một danh tướng. Và, quả đúng là như vậy. Dũng khí và mưu lược của ông đã khiến cho quân xâm lược Mông - Nguyên phải bạt vía kinh hồn. Hậu thế xưa nay cũng thường coi Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật là một văn tài. Và, cũng quá đúng là như vậy. Trước tác của ông đáng để cho đời ngưỡng mộ và tôn kính xếp vào hàng những cây đại bút của văn học dân tộc. Trong guồng máy chính trị, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật là một trong những đấng lương thần khả kính, có nhiều đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và phát triến đất nước đương thời.
Ngày nay, trong không khí đối mới của đất nước, khi mà ngoại ngữ trở thành phương tiện không thể thiếu của tất cả những ai muốn hội nhập vào cuộc giao lưu, chúng ta càng khâm phục Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật. Cũng cần nói thêm rằng, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật biết rất nhiều thứ tiếng và tập tục của người nước ngoài, nhưng, phẩm cách của ông thì hoàn toàn thuần Việt, ông là một trong những đại diện của khí phách và nhân cách cao quý của Đại Việt thế kỉ thứ 13. Ông học rất nhiều, nhưng cái xuyên suốt mọi sụ học của ông chính là học làm chủ. Kính thay! 
- 3 -
Kính thay! lý đạo tái
Thời Trần có hai người cùng tên là Đạo Tái. Một người là Trần Đạo Tái con của Thượng tướng Trần Quang Khải, cháu nội của vua đầu triều Trần là Trần Thái Tông. Trần Đạo Tái đỗ Bảng nhãn năm mới 14 tuổi, sau được phong tới tước Văn Túc Vương. Một người là Lý Đạo Tái, sinh năm Giáp Dần (1254) tại làng Vạn Ty, huyện Gia Định (nay là thôn Vạn Ty, xã Cao Đức, huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh, mất năm Giáp Tuất (1334), hưởng thọ 80 tuổi).
Nếu như Trần Đạo Tái sinh ra trong một gia đình đại quý tộc, thì trái lại, Lý Đạo Tái sinh ra trong một gia đình nghèo hèn. Dã sử chép rằng: thời thơ ấu, vì gia cảnh quá khó khăn, Lý Đạo Tái thường bị người làng hắt hủi. Bà con trong họ thấy thế cũng làm ngơ, chẳng ai ra tay giúp đỡ, thậm chí, có người còn ra mặt khinh khi. Tuy rất buồn nhưng cả nhà Lý Đạo Tái chẳng ai lấy đó làm điều oán giận. Ngày ngày, Lý Đạo Tái vừa tất bật kiếm sống vừa dốc chí học hành. Không được vào lớp đàng hoàng như bao chúng bạn thì ông đứng ngoài nghe lỏm lời thầy giảng, không có giấy thì ông lấy que viết xuống đất, vậy mà chẳng bao lâu, ông đã nổi danh hay chữ. Khoa Giáp Tuất, niên hiệu Bảo Phù năm thứ hai (1274) đời vua Trần Thánh Tông, Lý Đạo Tái đỗ Thái Học Sinh (học vị này từ năm 1442 đối gọi là Tiến Sĩ). Năm đó, Lý Đạo Tái tròn hai mươi tuổi, ông là người giàu đức độ, được nhiều người nể trọng, lại có tài uyên bác, cho nên, tuy chỉ đỗ Thái Học Sinh, đời vẫn tôn ông là Trạng Nguyên.
Từ khi ông đỗ đạt và vinh hiển với đời, tự dưng, ai ai cũng nhận ông là bà con họ hàng, ai ai cũng muốn bày tỏ tình đồng hương quen biết, ông chán nản với nhân tình thế thái, chỉ muốn vùi đầu vào sách vở cho quên hết mọi sự. Người đương thời có câu rằng:
Khó khăn thì chẳng ai nhìn
Đến khi đỗ Trạng chín nghìn anh em
Bấy giờ, vua Trần thấy ông là người gồm đủ hiền tài, bèn dự tính đem công chúa Liễu Sinh gả cho ông. Danh vị Phò mã với nhiều quyền lợi vật chất đang đợi Lý Đạo Tái, nhưng nỗi chán nản về nhân tình thế thái vẫn đè nặng trong tâm trí ông, khiến ông phải khôn khéo tìm cách chối từ. Vua Trần thấy không thể ép buộc ông được nên đành phải từ bỏ ý định này. Từ đó, Lý Đạo Tái dành tất cả thời gian rảnh rỗi cho việc đọc sách. Những lúc có sứ thần phương Bắc tới, ông thường được cử làm người tiếp đón. Tài ứng đối bằng ngôn ngữ phương Bắc của Lý Đạo Tái đã khiến cho nhiều vị sứ thần nể phục. Danh tiếng về sự uyên bác của ông dần dần lan truyền sang cả Trung Quốc.
Khi Lý Đạo Tái bắt đầu bước vào tuổi ngũ tuần thì cũng là khi phái thiền tông Trúc Lâm Yên Từ đã phát triển khá mạnh. Phái này do Thượng hoàng Trần Nhân Tông xưng là Điều Ngự Giác Hoàng, và đó chính là vị tổ thứ nhất của phái thiền tông Trúc Lâm Yên Tử. Năm 1308, Điều Ngự Giác Hoàng viên tịch, người được tôn làm vị tổ thứ hai của phái thiền tông này là Pháp Loa Tôn Giả, tức Đồng Kiên Cương.
Một lần, nhân hộ giá vua Trần đi viếng cảnh chùa, Lý Đạo Tái được gặp Pháp Loa Tôn Giả. Phong thái ung dung, đạo đức cao khiết, và đặc biệt là sự uyên thâm kì lạ của Pháp Loa Tôn Giả đã khiến cho Lý Đạo Tái vô cùng bái phục, ông quyết từ bỏ mọi phú quý và danh vọng để đi tu theo đạo Phật. Năm 1330, Pháp Loa Tôn Giả viên tịch, Lý Đạo Tái được tôn là vị tổ thứ ba của phải thiền tông Trúc Lâm Yên Tử. Bấy giờ, Lý Đạo Tái xưng là Huyền Quang, vì thế, đời vẫn quen gọi ông theo đạo Huyền Quang này.
Việc Lý Đạo Tái xuất gia đầu Phật khiến cho không ít người đương thời tỏ ra nghi ngờ. Tương truyền, chính Thượng hoàng Trần Anh Tông cũng không tin. Và, để thử đạo hạnh của bậc tu hành này, Thượng hoàng Trần Anh Tông đã bí mật sai một cô gái rất đẹp, tên là Điểm Bích, đến để tìm cách thử ông. Điểm Bích đã khôn khéo thử đủ mọi kiểu, nhưng rốt cục cũng phải chịu thất bại. Từ đó, mọi người mới thực tin rằng Lý Đạo Tái là bậc chân tu.
Như trên đã nói, năm 1334, Lý Đạo Tái qua đời, hưởng thọ 80 tuổi. Tám mươi năm của cuộc đời bậc tài hoa này đã để lại cho hậu thế những điều thật lớn lao. Một là sáng suốt nuôi chí vượt qua sự nghèo hèn một cách thật khả kính. Hai là bình tĩnh xa lánh thói tệ của thế tục một cách thật khôn khéo. Ba là biết dừng lại khi cần thiết phải dừng, không để cho bả vinh hoa chôn vùi khát vọng vươn tới không ngừng của kẻ sĩ. Và, bốn là canh cánh giữ gìn đạo hạnh, khiến cho tại thế chỉ một đời mà đức sáng đến bao đời. Kính thay!
VIÊN BÁCH HỘ NGƯỜI HỌ THÔI BỊ DIÊM VƯƠNG NGHIÊM TRỊ
Sử cũ cho hay, vào thời loạn, nơi công đường chẳng ít bọn quan lại nhũng nhiễu tham tàn. Tích xưa kể rằng, chốn âm ti địa ngục cũng không thiếu đám gian thần tệ hại. Cuộc đối đầu giữa thiện và ác, giữa chính và tà,... diễn ra quyết liệt khắp mọi lúc, mọi nơi. Trông lại ngàn xưa, thấy chẳng ít những chuyện thoạt nghe thì đầy vẻ lí thú và quái đị, nhưng suy gẫm cho kì thì lại thấy ý tứ răn đời dưỡng đức thật khôn khéo của tổ tiên. Đại để như chuyện...
Cuối năm 1406, quân Minh giương ngọn cờ chính trị giả hiệu là phù Trần diệt Hồ (giúp nhà Trần tiêu diệt nhà Hồ) để tràn sang xâm lược nước ta. Cuộc kháng chiến chống quân Minh do nhà Hồ lãnh đạo đã nhanh chóng bị thất bại, nước ta bị quân Minh đô hộ suốt hai mươi năm trời (từ năm 1407 đến năm 1427). Sử gọi đó là thời thuộc Minh.
Dưới thời thuộc Minh, nhân dân ta liên tiếp nổi dậy, chiến đấu một mất một còn, quyết giành lại cho bằng được độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Cuộc khởi nghĩa lớn nhất và bùng nổ sớm nhất là khởi nghĩa do Trần Ngỗi (tức là Trần Quỹ hay Giản Định Đế) và Trần Quý Khoáng (tức Trần Quý Khoách hay Trùng Quang Đế) lãnh đạo. Sử gọi đó là nhà hậu Trần. Sau gần bảy năm chiến đấu ngoan cường (1407 -1413), tuy cuối cùng đã bị quân Minh đàn áp thảm khốc, nhung cuộc khởi nghĩa này cũng đã gây cho lũ xâm lăng nhiều tổn thất nặng nề. Trong số những trận đánh vang dội của nhà hậu Trần, nổi bật hơn cả là trận Bô Cô (đất này thuộc tỉnh Nam Hà cũ), diễn ra vào cuối năm 1408. Ở trận đánh này, tướng cao cấp của nhà Minh là Mộc Thạnh nhờ may mắn mà thoát chết. Trong số những tì tướng của Mộc Thạnh bị thiệt mạng tại Bô Cô, có một viên mang hàm Bách Hộ, người họ Thôi, cho nên sách xưa chép là Thôi Bách Hộ, còn như tên thật của hắn là gì thì chưa ai rõ. Sinh thời, Thôi Bách Hộ là tên gian ngoa tàn ác, chết đi, hồn ma của hắn lại trở thành yêu quái, phá phách hành hạ đủ điều, dân cả một vùng rộng lớn quanh khu vực Bô Cô lấy đó làm mối lo lớn. Ai cũng muốn tìm cách trừ khử đi nhưng không sao làm được. May sao, có một người trẻ tuổi mà tài cao, họ Ngô, tên Soạn, tự là Tử Văn, từ phương xa đến, quyết ra tay diệt ác quý, trừ tà ma.
Dã sử chép rằng, Ngô Soạn người huyện An Dũng, phủ Lạng Thương (nay thuộc tỉnh Bắc Giang) là người khí khái, ghét gian, sẵn sàng bênh vực kẻ oan khuất. Tới Bô Cô, nghe các bậc trưởng lão kể rằng, hồn ma Thôi Bách Hộ đã hoá thành yêu quái, chiếm đền thờ ở khu Bô Cô, nhũng hại dân khốn khổ khống sao kể hết. Ngô Soạn nghe xong thì nổi giận bừng bừng, bèn trai giới sạch sẽ rồi lập đàn tế cáo và sau đó là... cầm lửa đốt đền. Xong việc, ông trở về nhà, tự dưng thấy mình ớn lạnh, chốc lát thì mê man li bì. Trong cơn mơ màng, Ngô Soạn thấy có một người cao lớn, ra dáng người phương Bắc, áo mũ chình tề, tự xưng là thần được sắc phong trấn giữ ở đền, nói rằng:
- Âm dương cách trở nhưng gần chớ chẳng xa, nếu không khôn hồn lo làm lại đền cho ta, ta sẽ lôi cổ xuống địa ngục. Khi ấy, chớ có trách.
Nói xong thì người ấy hậm hực bỏ đi ra. Một lúc sau, bỗng có một người khác, mình mặc áo vãi, đầu đội mũ thâm, dáng khoan thai, ung dung bước tới mà chào hỏi rồi nói rằng:
- Tôi là thần ở đền Bô Cô đây. Hay tin ông liều mình đốt đền, cảnh cáo cả tên gian thần nhũng hại tàn ác, sung sướng quá nên vội đến chúc mừng.
Ngô Soạn chẳng hiểu ra làm sao cả, bèn hỏi:
- Người cao lớn lúc nãy nhận là thần đền Bô Cô, giờ đến lượt ông cũng nhận là thần đền Bô Cô. Chẳng lẽ một đền mà có đến hai thần hay sao?
Người ấy liền nói:
- Tên cao lớn lúc nãy là Thôi Bách Hộ, người Tàu, chết trận Bô Cô nên hồn gửi ở đây. Hắn là tên gian ngoa, trên dối trời, dưới lừa âm ti mạo nhận cả họ tên tôi, chiếm cả đền của tôi, khiến tôi phải bỏ đi nương nhờ ở chỗ thánh Tản Viên. Khốn khổ thay, tôi vốn là đại thần thời Lý Nam Đế, chết vì nước nên mới được phong làm thần nơi này, từng dày công ban phúc cứu độ cả ngàn năm, vậy mà giờ đây bị yêu quái làm cho ô nhục cả danh tiết.
Ngô Soạn hỏi:
-Phàm đã gặp oan ức thì phải đi kêu oan, cớ sao phải nhún mình mà đi nương nhờ ở thánh Tản Viên.
Người ấy lại đáp:
-Tôi nào có quản ngại việc kêu oan, từng bao lần gửi sớ xuống để kêu với Diêm Vương rồi đấy chứ. Nhưng, hồn ma Thôi Bách Hộ gian xảo khó lường, vả lại, chư thần quanh đây đều là hạng hay ăn của đút lót, họ đã mờ mắt vì tiền của Thôi Bách Hộ, có ai dám bênh vực tôi đâu.
Ngô Soạn hỏi:
-Vậy, nó có thể hãm hại tôi không?
Người ấy đáp:
-Có quá đi chứ. Nhưng, hễ nó có kiện xuống âm ti thì ông cứ nói là xin Diêm Vương sai người đến gặp thánh Tản Viên mà hỏi. Đừng sợ.
Chuyện vừa dứt thì Ngô Soạn thấy có hai tên quỷ sứ đến bắt ông đi. Qua một dinh thự lớn lắm, chúng để ông ngồi đợi phía ngoài một lúc, khi trở ra, chúng nói:
-Tội ngươi nặng lắm, không thể tha được đâu.
Chúng lại dắt ông đi tiếp. Đến chỗ cây cầu bắt qua một con sông nước đen ngòm, mùi tanh tưởi bốc lên nồng nặc, nơi có đến hàng ngàn quỷ dạ xoa dữ tợn đang đợi sẵn, Ngô Soạn kêu to lên rằng:
-Tôi chỉ là người thẳng thắn vô tội của thế gian. Vì sao tôi bị xử cực hình oan uổng nhu thế này?
Ngô Soạn vừa kêu xong thì nghe tiếng phán truyền rằng:
-Hãy mang kẻ cứng cổ kia lại đây để ta chỉ rõ tội lỗi cho hắn.
Lời phán truyền ấy là của Diêm Vương. Trở lại, Ngô Soạn đã thấy kẻ cao lớn, trước đó từng tụ xưng là thần đền Bô Cô, đang sụp lạy kêu với Diêm Vương. Diêm Vương phán tiếp:
-Đây là đấng trung thần từ thời Lý Nam Đế, từng có công nên mới được phong làm thần đền Bô Cô. Người là tên học trò ngạo mạn, sao dám đốt đền của thần?
Ngô Soạn cứ tình thực kể lại từ đầu, sau cùng còn nói thêm:
-Nếu Diêm Vương không tin, xin sai sứ đến hỏi thánh Tản Viên, ắt sẽ rõ hư thực.
Hồn ma Thôi Bách Hộ biết là khó bề lừa dối mãi, bèn giả giọng nhân từ, xin với Diêm Vương tha tội cho Ngô Soạn, vì dẫu sao thì Ngô Soạn cũng chỉ là một học trò rồ dại, mới phạm tội lần đầu. Nhưng, cũng chính thái độ thay đổi đột ngột đó của hồn ma Thôi Bách Hộ đã khiến cho Diêm Vương thêm sinh nghi. Việc kiểm tra lời kêu oan của Ngô Soạn lập tức được tiến hành. Sự thực sáng tỏ. Ngô Soạn được tha còn hồn ma Thôi Bách Hộ thì bị tống gỗ vào miệng, bị gông và bị giam vào ngục kín.
Đền Bô Cô lại được trả về cho thần cũ. Dân địa phương góp công góp của xây dựng lại to đẹp hơn. Riêng Ngô Soạn, về sau, theo sự tiến cử (kể như một sự đáp ơn) của thần đền Bô Cô, đã được Diêm Vương cho làm Phán Quan ở đền thánh Tản Viên.
Bạn nghĩ gì về mẩu chuyện trên? Hình như tổ tiên muốn nói rằng, dù có bao nhiêu tiền của hối lộ và mánh khoé gian manh, vẫn không sao che giấu được tội lỗi. Cương trực đáng kính như Ngô Soạn, dẫu có bị vùi dập thì cuối cùng cũng sẽ được minh oan. Trông lại ngàn xưa, kính thay Ngô Soạn! Kính thay, tuổi trẻ hiên ngang!
TUỔI THANH XUÂN CỦA DANH TƯỚNG TRỊNH KHẢ
Danh tướng Trịnh Khả người làng Kim Bôi, huyện Vĩnh Ninh, nay đất làng quê ông thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Hiện vẫn chưa ai rõ Trịnh Khả chào đời vào năm nào, chỉ biết ông mất vào năm Tân Mùi (1451).
Sử cũ cho hay, tổ tiên Trịnh Khả từng làm quan dưới thời Trần và đã từng lập được nhiều công lao trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên xâm lược. Thân phụ của Trịnh Khả là Trịnh Quyện, tuy làm chánh tổng nhưng vì suốt đời thanh liêm nên bốn anh em Trịnh Khả rất vất vả. Trịnh Khả là con út của Trịnh Quyện, vậy mà ngay từ thuở thiếu thời đã phải quanh năm tất bật với công việc mộng nương.
Bấy giờ, quân Minh đã xâm lược và đô hộ nước ta, chúng áp bức và bóc lột nhân dân ta rất hà khắc, đúng như Nguyễn Trãi nói: “thui dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. ” Lớn lên trong bối cảnh đó, Trịnh Khả phải nếm đủ mọi đắng cay, nhục nhã. Trong Đại Việt thông sử (Chư thần truyện), Bảng nhãn Lê Quý Đôn có kể rằng:
“Năm lên mười sáu tuổi, một hôm, ông (đây chỉ Trịnh Khả -NK.T) dắt trâu đi cày về ngồi nghĩ trước cổng một ngôi chùa trên núi. Khi ấy, có viên tướng nhà Minh từ thành Tây Đô đến, thấy vẻ mặt ông thì ưa, liền bắt ông về làm gia nô cho hắn. ít lâu sau, hắn xem tướng ông và nói:
-Thằng bé này mình rồng, mắt hổ, khoẻ hơn cả mọi lính tráng trong ba quân. Ngày sau thế nào hắn cũng sẽ được cầm cờ mao và tiết việt (ý nói sẽ được làm tướng—NK.T).
Thế rồi hắn nói tiếp:
-Ngày sau, kẻ đánh đuổi ta tất phải là mày, phải trừ ngay đi để đề phòng hậu hoạ.
Ông nghe thế thì sợ quá, trốn qua bên kia sông Mã, ẩn trong nhà của người cô ở xã Diên Phúc. Quân Minh đuổi theo bắt mà không được, bèn bắt thân phụ ông là Trịnh Quyện, cốt để buộc ông phải trở lại, nhưng không được, giặc liền quãng thân phụ ông xuống sông. Đến đêm khuya, ông lén vớt xác thân phụ đem đi chôn. Vừa thương thân phụ, vừa căm quân Minh, ông quyết chí báo thù. Nghe tin Thái Tổ (chỉ Lê Lợi - NK.T) đang náu mình ở Lam Sơn, ngầm nuôi binh mã, ông liền vác gươm đến xin theo ngay.”
Đến với Lê Lợi, Trịnh Khả được tin dùng, được trao chức phó chỉ huy lực lượng quân Thiết Đột. Năm 1416, ông là một trong số mười chín người thân tín nhất của Lê Lợi, tham dự Hội thề Lũng Nhai -tức là lễ ra mắt dưới dạng đặc biệt của bộ chỉ huy Lam Sơn. Trải hơn mười năm chiến đấu ngoan cường, Trịnh Khả đã liên tiếp lập được nhiều công lao, trở thành danh tướng Lam Sơn, cũng là danh tướng trong lịch sử nước nhà.
Cuối năm 1424, khi mới khoảng ba mươi tuổi, Trịnh Khả đã là tướng cao cấp, tham gia chỉ huy chiến dịch tấn công vào Nghệ An, giải phóng vùng đồng bằng rộng lớn này. Cuối năm 1426, cùng với các danh tướng khác của Lam Sơn như Phạm Văn Xảo, Lý Triện và Đỗ Bí, ông lập công lớn trong ba trận oanh liệt tại Ninh Kiều (nay thuộc Hà Nội), Nhân Mục (nay thuộc ngoại thành Hà Nội) và Xa Lộc (nay thuộc Vĩnh Phú), khiến cho quân Minh phải kinh hoàng. Cũng cuối năm 1426, ông là một trong những vị tướng cao cấp của Lam Sơn, chỉ huy xuất sắc trận quyết chiến chiến lược Tốt Động -Chúc Động, làm thay đổi hẳn mối tương quan thế và lực giữa Lam Sơn với quân Minh. Từ đây, viên Tổng binh khét tiếng hung hãng của nhà Minh là Vương Thông, vốn được sai đi cứu viện, đã buộc phải trở thành tên tướng kêu cứu một cách thảm thiết. Cũng bắt đầu từ đây, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng có quy mô cả nước. Cuối năm 1427, khi bộ chỉ huy Lam Sơn quyết định đập tan hoàn toàn đạo viện binh mười vạn tên của nhà Minh do Liễu Thăng cầm đầu, danh tướng Trịnh Khả được lệnh đem quân lên ải Lê Hoa (vùng Cao Bằng ngày nay), trận đánh đạo viện binh khác của nhà Minh gồm năm vạn tên do viên lão tướng dày dạn kinh nghiệm vào hàng bậc nhất của giặc là Mộc Thạnh chỉ huy. Trọng trách của lực lượng Trịnh Khả là phải vô hiệu hoá mọi khả năng của Mộc Thạnh, đặc biệt là quyết không để Mộc Thạnh có thể cứu nguy cho Liễu Thăng. Và, cùng với các tướng lĩnh khác, Trịnh Khả đã đánh thắng hai trận lớn ở Lãnh Câu và Đan Xá (gần ải Lê Hoa).
Năm 1428, sự nghiệp đánh đuổi quân Minh đô hộ đã thành công, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, Trịnh Khả là một trong số 93 công thần khai quốc, được trao lần lượt rất nhiều chức hàm lớn của triều Lê. Rất tiếc là ông bị gièm pha rồi bị giết một cách oan khuất vào năm 1451.
Từ một người lam lũ với ruộng nương trở thành một vị danh tướng, từ một người ở dưới đáy của xã hội trớ thành một đại thần... tất cả chỉ diễn ra trong hơn mười năm của một thời trai trẻ, tuổi thanh xuân của Trịnh Khả, đáng kính thay! 
TUỔI THANH XUÂN CỦA KIẾN QUỐC TRINH LIỆT PHU NHÂN
Kiến Quốc Trinh Liệt Phu nhân là tước hiệu cao quý mà vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi) đã ban tặng cho bà Lương Thị Minh Nguyệt, người phụ nữ sinh trưởng tại làng Ngọc Chuế (làng này thuộc xã Yên Nghĩa, huyện Ý Yên, tình Nam Định). Hiện tại vẫn chưa ai rõ bà sinh vào năm nào, chỉ biết rằng khi quân Minh xâm lược và đô hộ nước ta, bà đã ở vào tuổi trường thành và đã kết hôn với một thanh niên người cùng làng là Đinh Tuấn.
Sinh thời, Lương Thị Minh Nguyệt là người nổi tiếng xinh đẹp và giàu khí phách. Theo thần tích (tờ ghi sự tích của các vị thần) ở đền Ngọc Chuế (tục danh là đền Duối) thì đám cưới giữa Đinh Tuấn với Lương Thị Minh Nguyệt tổ chức chưa được bao lâu, quân Minh đã tràn đến xây thành cổ Lộng và trú đóng ở đó rất đông. Đây là một trong những thành kiên cố, cách làng Ngọc Chuế không bao xa. Ngày ngày từ thành cổ Lộng, quân Minh liên tục tiến hành những cuộc tấn công đàn áp tàn bạo và vơ vét không biết bao nhiêu là tài sản của nhân dân các vùng chung quanh. Việc làm này của giặc khiến cho bà Lương Thị Minh Nguyệt rất căm giận. Bà liền bàn với chồng bỏ vốn mở một quán hàng nước ở sát ngay của đồn Cổ Lộng để theo dõi tình hình quân Minh, nhằm chuẩn bị kế hoạch đánh đuổi chúng. Đó là một quán hàng khá khang trang, có nhiều rượu ngon và thức uống tốt, lại có nhiều cô gái trẻ và đẹp phục vụ rất chu đáo. Giặc không chút nghi ngờ, liên tục rủ nhau ra quán, cả ngày và cả đêm, thậm chí, không ít tên còn bạo san xin ngủ lại.
Theo mô tả của sử sách xưa thì lúc bấy giờ, mỗi tên lính đều được phát một chiếc bao dệt bằng đay rất to, gọi là cái túi ngủ. Tối đến, tất cả lính đều chui vào túi ngủ, phần túi ở dưới là giường, là chiếu, còn phần túi ở trên là chăn, là màn. Sau vài đêm xin ngủ lại mà vẫn được bình an vô sự, quân Minh trong đồn cổ Lộng kéo nhau ra quán để ngủ ngày càng nhiều. Tướng chỉ huy đồn cổ Lộng của giặc còn cho gọi bà Lương Thị Minh Nguyệt vào đồn để nhờ nấu nướng mỗi khi chúng có tiệc tùng. Bởi lẽ này, bà nắm rất vững mọi chi tiết về sự sắp đặt và bố phòng trong đồn giặc.
Khi vợ khôn khéo tạo lập niềm tin và bí mật nắm tinh hình giặc thì chồng ráo riết vận động thanh niên trai tráng trong vùng, bí mật thành lập một đội dân binh, sẵn sàng chờ cơ hội để đánh úp đồn cổ Lộng. Bấy giờ, thấy giặc ra ngủ lại ở quán khá đông, Đinh Tuấn liền dẫn đội dân binh do mình chỉ huy, đến ôm từng bao mà quẳng xuống kênh. Xác giặc theo dòng chảy của kênh mà trôi ra sông Đáy. Kênh ấy vì thế mới có tên gọi là kênh Ma.
Khi chưa tìm được cơ hội tốt để có thể tiêu diệt đồn cổ Lộng thì vợ chồng Đinh Tuấn - Lương Thị Minh Nguyệt nhận được tin nghĩa quân Lam Sơn do Bình Định Vương Lê Lợi lãnh đạo đã giải phóng được một vùng đất rộng lớn và liên hoàn từ Thanh Hoá trở vào Nam. Bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm, cũng chẳng kể thân gái dặm trường, Lương Thị Minh Nguyệt đã tự lần mò, tìm đường vào tận Lỗi Giang (Thanh Hoá) để gặp Lê Lợi. Bà đến đúng vào lúc lính do thám của Lê Lợi cũng vừa bí mật đi thu thập tin tức từ vùng đồng bằng phía Bắc trở về và báo cáo rất đầy đủ những hoạt động của hai vợ chồng bà, vì thế, bà được Lê Lợi tiếp đón nồng hậu.
Từ Lỗi Giang trở về, Lương Thị Minh Nguyệt lại cùng chồng bàn định kế hoạch phối hợp với nghĩa quân Lam Sơn đánh đồn cổ Lộng. Vào một đêm giữa tháng 9 năm 1426, khi phần lớn tướng sĩ của giặc trong đồn đã bị chuốc ruợu say khướt thì nghĩa quân Lam Sơn cùng với đội dân binh của Đinh Tuấn bất ngờ tấn công. Lương Thị Minh Nguyệt và các cô gái trẻ ở hàng nước nhanh tay mở toang cửa đồn. Chỉ trong chốc lát, toàn bộ quân giặc bị tiêu diệt, đồn Cổ Lộng bị san bằng. Chiến thắng to lớn này đã khích lệ mạnh mẽ tinh thần nghĩa sĩ Lam Sơn và nhân dân trong khắp các vùng còn tạm bị quân Minh chiến đóng. Lam Sơn hiên ngang tiến ra Bắc và liên tiếp lập nên những chiến công vang dội để rồi hơn một năm sau đã kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại, khiến cho “xã tắc từ đó vững bền.”
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, khai sáng ra nhà Lê. Vợ chồng bà Lương Thị Minh Nguyệt hân hạnh được Lê Lợi mời ra Thăng Long. Cũng theo tờ thần tích nói trên, Lê Lợi đã ân cần nói:
-Trẫm từ khi khởi binh ở Lam Sơn, đánh dẹp quân Minh để cứu sinh linh của trăm họ, lòng chỉ mong sao cho sự nghiệp lớn chóng thành công. Thế nhưng, sở dĩ trẫm không thể thẳng tiến ngay ra Thăng Long được cũng chỉ vì đồn cổ Lộng vững chãi án ngữ ngay trước mặt. May sao có người đàn bà này bày mưu giúp sức, khiến cho trẫm sớm phá được đồn cổ Lộng để tiến quân. Đây là một trong những kì công thuộc vào hàng bậc nhất.
Sau lời khen ngợi đó, Lê Lợi đã phong cho bà Lương Thị Minh Nguyệt làm Kiến Quốc Trinh Liệt Phu nhân và chồng bà là Đinh Tuấn được phong làm Kiến Quốc Trung Dũng Công thần.
Dân gian truyền rằng, bà Lương Thị Minh Nguyệt tâu vua:
-Thần thiếp vốn sinh ra ở nơi thôn dã, lập được chút công lao ấy cũng bởi nhờ oai trời và đức độ của nhà vua. Vợ chồng thiếp là kẻ quê mùa, đâu dám dự vào hàng quan chức. Nay chỉ xin vua rộng ban ơn đức cho dân làng của thần thiếp mà thôi.
Thể theo lời tâu của bà, Lê Lợi cấp cho dân làng Ngọc Chuế 200 mẫu ruộng để chia nhau cày cấy. Dân gian còn truyền rằng, sau khi một vùng đất hoang rộng lớn được phạt cỏ và dân đang hồ hởi đốt cỏ để lấy tro làm phân, Lê Lợi cho bà Kiến Quốc Trinh Liệt Phu nhân một con ngựa để bà cưỡi đi nhận đất. Hễ dấu chân ngựa in trên tro tàn tới đâu thì đất cấp rộng tới đó. Kiến Quốc Trinh Liệt Phu nhân vì thế mà có tên gọi rất thân mật là Bà Chúa Tro.
Ngày 25 tháng 11 năm Quý Sửu (1433), sau khi Lê Lợi tạ thế được hơn ba tháng, hai vọ chồng bà không hề lâm bệnh mà bỗng dưng cũng qua đời. Dân địa phương lập đền thờ cả hai ông bà. Triều đình phong cho cả hai ông bà làm phúc thần, lại còn cấp 100 mẫu ruộng để dân sở tại chung lo việc tế tự. Về sau, nhà sử học lừng danh, sống vào cuối thế kỉ 15, đầu thế kỉ 16, là Lê Tung có lời ca ngợi Kiến Quốc Trinh Liệt Phu nhân rất cảm động. Xin trích dịch như sau: “Lớn lao thay, người phụ nữ lẫm liệt! Khí hùng mạnh như cả vạn binh. Giặc Ngô chiếm đóng ở thành cổ Lộng. Vua ta khởi nghĩa. Bà dốc chí theo về. Quân thiết ki của ta dũng mãnh tấn công. Đánh thành như là thắt nút túi. Nay cầm bút chép sử nước Việt. Tên tuổi của bà sánh ngang với Trưng Vương. Miếu đền đời đời cúng tế. Tiếng tăm truyền đến ngàn năm.
Đáng kính thay, Kiến Quốc Trinh Liệt Phu nhân! Khi vận nước lâm nguy thì một lòng vì nước, khi non sống thái binh thì một dạ vì dân. Sinh thời, bà được kính trọng, tạ thế bà được tôn thờ, mới hay, người hạnh phúc nhất chính là người lúc nào cũng canh cánh chăm lo hạnh phúc cho muôn người. Đúng như cây đại bút Lê Tung đã viết, ngàn năm còn đó danh thơm của bà.
TUỔI 18 CỦA VUA LÊ THÁNH TÔNG
Lê Thánh Tông là vua thứ năm của nhà Hậu Lê, ở ngôi từ năm 1460 đến năm 1497. Đây là vị vua sáng giá vào hàng bậc nhất của lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Lê Thánh Tông đã có nhiều cống hiến xuất sắc cho văn hiến của nước nhà. Nhưng, lí lịch cuộc đời trước lúc lên ngôi của Lê Thánh Tông như thế nào?
Sử cũ chép rằng, ngay trước khi bước vào tuổi 18, thân sinh của vua Lê Thánh Tông là Lê Thái Tông (tên thật là Lê Nguyên Long, con của Lê Lợi, ở ngôi từ năm 1433 đến năm 1442) đã có khá nhiều cung tần mĩ nữ, trong đó, có năm người được nhà vua chính thức sách phong, đó là Dương Thị Bí (chưa rõ gốc tích, thân mẫu của Lê Nghi Dân), Nguyễn Thị Anh (thân mẫu của vua Lê Nhân Tông (1442 -1459), Lê Ngọc Dao (con gái của Đại Tư Đồ Lê Sát), Lê Nhật Lệ (con sái của Tể tướng Lê Ngân) và Ngô Thị Ngọc Dao (con gái của Thái Bảo Ngô Từ).
Tháng 6 năm 1439, bà Dương Thị Bí sinh hạ Hoàng tử Lê Nghi Dân và đến tháng 1 năm 1440, Lê Nghi Dân được lặp làm Thái tử. Bà Dương Thị Bí cũng được sách phong làm Hoàng hậu. Nhưng, vì thấy Dương Thị Bí luôn tỏ ra đắc chí và kiêu căng, vua Lê Thái Tông lấy làm ghét, bèn truất giáng ngôi vị của cả hai mẹ con bà. Ngôi hoàng hậu sau đó thuộc về bà Nguyễn Thị Anh. Tháng 6 năm 1441, Nguyễn Thị Anh sinh hạ Hoàng tử Lê Bang Cơ. Tháng 11 năm 1441, Lê Bang Cơ được lập làm Thái tử (đến năm 1442, Lê Bang Cơ được lên nối ngôi, đó là vua Lê Nhân Tông). Khác với Dương Thị Bí, Nguyễn Thị Anh tỏ ra rất khôn khéo trong việc bảo vệ ngôi vị của cả hai mẹ con.
Tháng 6 năm 1437, Đại Tư Đồ Lê Sát bị giết, con gái của ông bấy giờ là Nguyên phi Lê Ngọc Dao cũng bị phế làm đàn bà thường dân. Và, tháng 12 năm 1437, đến lượt Tể tướng Lê Ngân cũng bị triều đình khép vào tội phải chết, con gái của ông là Huệ phi Lê Nhật Lệ cũng bị giáng xuống hàng Tu Dung. Hậu cung chỉ còn hai người có danh giá nối bật nhất, đó là Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh và Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao.
Tuy ở ngôi Hoàng hậu, lại có con là Thái tử, nhưng xét thấy chồng là vua Lê Thái Tông còn quá trẻ, bà Nguyễn Thị Anh rất lấy làm lo âu. Một mai, nếu nhà vua có thêm những vị Hoàng từ kháu khỉnh và đáng yêu, thì biết đâu, thân phận của mẹ con bà rồi cũng chẳng khác gì thân phận của hai mẹ con bà Dương Thị Bí trước đó. Nghĩ vậy, Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh luôn tìm đủ mọi mưu sâu kể hiểm để hãm hại bà Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao. Tháng 12 năm 1437, chính bà đã nguỵ tạo chứng cớ để vu cho bà Ngô Thị Ngọc Dao tội đồng loã với Huệ phi Lê Nhật Lệ và Tể tướng Lê Ngân, đồng thời, xúi nhà vua khép Ngô Thị Ngọc Dao vào hình phạt phải cho voi xé xác. May thay, Ngô Thị Ngọc Dao được Nguyễn Trãi ra sức che chở. Thông qua người vợ lẽ của mình rất được nhà vua quý mến là Nữ Quan Học sĩ Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn Trãi đã luôn luôn nhắc nhở nhà vua, rằng chớ bao giờ cả tin mà làm những điều thất đức. Biết được sự thật này, Nguyễn Thị Anh hết sức căm tức, chỉ mong có cơ hội để trả thù mà thôi. Tháng 8 năm 1442, vua Lê Thái Tông đột ngột qua đời, Nguyễn Thị Anh vu cho Nguyễn Trãi tội ngầm bỏ thuốc độc để giết vua, và do đó, ông cùng tất cả gia quyến đã chịu cái án tru di thảm khốc. Sử gọi đó là vụ án Lệ Chi Viên, nhưng chuyện này xin được kể vào một dịp khác.
Khi nhà vua nghe lời Nguyễn Trãi, không làm chuyện thất đức với bà Ngô Thị Ngọc Dao thì cũng là khi bà Ngô Thị Ngọc Dao bắt đầu mang thai. Để tránh mọi bất trắc, được sự chấp thuận của nhà vua, Nguyễn Trãi đã bí mật đưa bà Ngô Thị Ngọc Dao ra khỏi hoàng thành, đến ở tạm trong chùa Huy Văn (nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội). Tháng 7 năm 1442, tức là đúng một tháng trước khi Nguyễn Trãi chịu án tru di, bà Ngô Thị Ngọc Dao đã sinh hạ một người con trai, đó là Lê Tư Thành. Vua Lê Thái Tông qua đời, Lê Bang Cơ là Thái tử, được đưa lên nối ngôi, và do đó, bà Nguyễn Thị Anh cũng nghiễm nhiên được tôn phong làm Thái hậu, được quyền buông rèm để trông coi chính sự. Chính vì đã nắm được tất cả quyền lực tối cao ở trong tay, mối lo ngại của bà Nguyễn Thị Anh về bà Ngô Thị Ngọc Dao giảm xuống rất nhanh.
Tháng 10 năm 1459, Lê Nghi Dân bất ngờ đem đồ đảng bí mật bắc thang trèo qua hoàng thành, vào giết chết cả vua Lê Nhân Tông và bà Thái hậu Nguyễn Thị Anh. Năm đó, vua Lê Nhân Tông mới 18 tuổi. Lê Nghi Dân tự lập làm vua và ở ngôi từ tháng 10 năm 1459 đến tháng 6 năm 1460 thì bị cả triều thần lẫn hoàng tộc đồng lòng giết đi. Giết Lê Nghi Dân rồi, triều thần bèn đến rước Lê Tư Thành lên ngôi. Đó là vua Lê Thánh Tông. Khi ấy, nhà vua cũng vừa tròn 18 tuổi.
Mười tám năm trước khi lên ngôi Hoàng đế, Lê Tư Thành đã phải sống một cuộc đời rất cơ cực. Ông không phải chỉ là sống gần dân mà là ở ngay trong dân, nhận sự chân thành chia xẻ cay đắng ngọt bùi của dân, và hiểu thấu mọi nguyện ước của dân. Bất chấp mọi khó khăn trở ngại, Lê Tư Thành ngày đêm miệt mài học tập, và nhờ bẩm tính thông minh, ông đã sớm nổi tiếng hiền đức với đời. Và, như trên đã nói, ngày 8 tháng 6 năm Canh Thìn (1460), Lê Tư Thành được đông đảo đại thần cùng một số hoàng tộc, đồng lòng tôn lên ngôi Hoàng đế.
Ngôi vị ở đời kể cũng lạ. Có người làm được nhưng lại không được làm, ngược lại, có người được làm nhưng lại không làm được. Riêng vua Lê Thánh Tông thì khác: ông vừa được làm lại vừa làm được một cách xuất sắc. Ngay ở tuổi 18, ông đã tỏ ra chững chạc và sắc bén lạ thường. Dân gian truyền tụng rằng, một phần quan trọng của bản lĩnh Lê Thánh Tông là do người mẹ tạo dựng và vun đắp cho. Tương truyền, khi các quan văn võ đến đón rước Lê Tư Thành về tôn lên ngôi vua, bà Ngô Thị Ngọc Dao đã bắt con quỳ xuống trước mặt và hỏi:
-Con có biết nhờ ai mà mẹ được thoát chết để rồi sau đó sinh ra con và giờ đây con có may mắn được làm Hoàng đế của nước Đại Việt hay không?
Lê Tư Thành đáp:
-Thưa mẹ, đó là nhờ ơn đức ra tay cứu mạng của quan Thừa Chỉ Nguyễn Trãi ạ.
Bà Ngô Thị Ngọc Dao liền nói:
-Vậy, nhân danh Hoàng đế nước Đại Việt, con phải minh oan cho người, đừng để đấng trung thần nhân đức ấy phải ngậm hờn nuốt tủi mãi ở dưới suối vàng.
Thấy con cung kính lắng nghe, bà lại hỏi tiếp:
-Con có biết nhờ ai mà mẹ con ta có thể sống qua ngày đoạn tháng ở chốn bị đọa đày này không?
Lê Tư Thành đáp:
-Thưa mẹ, đó là nhờ những người nghèo ở xóm Văn Chương cạnh ngôi chùa này, những người giàu lòng nhân ái đã sẵn lòng nhường cơm sẻ áo cho hai mẹ con ta.
Bà Ngô Thị Ngọc Dao nói:
-Con biết đấy, thường thì chỉ có người nghèo mới là người tốt. Vậy, nhân danh Hoàng đế của nước Đại Việt, con hãy làm sao cho người tốt bớt nghèo.
Về sau, chính vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, đồng thời, ban hành rất nhiều chính sách tích cực và tiến bộ, đưa Đại Việt lên vị trí của một cường quốc ở vùng Đông Nam Á. Vua Lê Thánh Tông mất ngày 30 tháng 1 năm Đinh Tị (1497) hưởng thọ 55 tuổi. Xưa nay, ai cũng ca ngợi 37 năm trị vì của nhà vua, có biết đâu rằng, mọi sự tốt đẹp của 37 năm ấy đã được chuẩn bị suốt 18 năm đầu của cuộc đời ông. Tuổi 18 của Lê Thánh Tông kính thay!
- 4 -
Giai thoại về tài làm câu đối tết của vua Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông là con thứ của vua Lê Thái Tông (1433 -1442), do bà Ngô Thị Ngọc Dao (tức Quang Thục Hoàng thái hậu) sinh hạ vào ngày 20 -7 -1442, được tôn lên ngôi ngày 8/6/1460 và ở ngôi cho đến ngày 30 -1 -1497 thì mất, hường thọ 55 tuổi. Sinh thời, vua Lê Thánh Tông là bậc tài kiêm văn võ, mưu lược trị nước được coi là sáng giá nhất thời Lê. Đời còn truyền tụng rất nhiều giai thoại về tài ứng đối của cây đại bút này. Dưới đây chỉ là vài mẫu nhỏ.
Trong thời gian ở ngôi, vua Lê Thánh Tông vẫn thường đi thăm dân. Khi thì tiền hô hậu ủng, kẻ tuỳ tùng rất đông đúc, nhưng cũng có khi chỉ vài ba người theo hầu, thậm chí, có lúc nhà vua còn bí mật cải trang để ra ngoài hoàng thành, cốt tự minh lắng nghe cho bằng được tiếng nói trung thực nhất của trăm họ.
Giáp tết năm nọ, nhà vua đóng giả một anh học trò, đi lang thang khắp các phố phường Thăng Long để coi câu đối tết của các nhà. Bấy giờ, nhà nhà đều treo câu đối tết, duy chỉ có một gia đình không đến nỗi nghèo nàn, lại ở ngay nơi phố xá đông đúc mà chẳng có lấy câu đối nào. Lân la tới hỏi chuyện mới hay, đó là nhà của bà goá phụ, sống bằng nghề nhuộm quần áo. Nghe tâm sự của bà, nhà vua liền sai lấy giấy bút ra và viết tặng đôi câu đối bằng chữ Hán (phiên âm) như sau:
Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủ
Triều trung chu tử tông ngô gia
Nghĩa là:
Màu vàng, màu xanh khắp thiên hạ đều từ tay mà ra,
Màu đỏ, màu tím trong triều, tất cả đều do nơi nhà ta hết.
Đôi câu đối này vừa treo lên thì Trạng nguyên Lương Thế Vinh có dịp tình cờ đi qua. Thấy khẩu khí của người viết câu đối có vẻ rất khác thường, ý như muốn tranh đoạt ngôi vị, Trạng nguyên Lương Thế Vinh lập tức tấu trình lên nhà vua. Nghe xong, nhà vua cười lớn, nói tác giả chính là mình. Chẳng dè, Trạng nguyên Lương Thế Vinh lại nghĩ, gia đình bà goá phụ làm nghề thợ nhuộm kia chẳng những được nhà vua vào thâm lại còn viết tặng cho đôi câu đối nữa thì hẳn là phúc đức của bà ta lớn lắm vì thế mà về sau, ông mới đem con gái của mình gả cho con trai của bà ta!
Chuyện khác kể rằng, giáp tết một năm nọ, vua Lê Thánh Tông giả một thường dân đi coi cảnh trưng bày ngày tết của các nhà quanh Thăng Long. Đến đâu nhà vua cũng thấy đèn hoa rực rỡ, duy chỉ có một gia đình ở nơi cuối hẻm vắng thì gần như chẳng hề trang trí gì. Thấy lạ, nhà vua bèn vào nhà hỏi rõ nguồn cơn. Thấy có khách lạ, gia chủ đón tiếp rất ân cần. Được hỏi vì sao trong nhà chẳng có câu đối tết nào, gia chủ liền thú thực rằng:
-Chẳng giấu gì bác, nhà tôi sống bằng nghề quá thấp hèn, cho nên, tết nhất gì cũng thế, chúng tôi chẳng dám nhờ ai viết hộ cho đôi câu đối.
Gia chủ bèn lẽn đáp:
-Dạ, đi nhặt phân, kể cả phân người, đem về bán lại cho dân trồng rau.
Nghe xong, nhà vua bèn sai mua giấy bút và viết tặng cho gia đình này một câu đối chữ Hán (phiên âm) như sau:
Ý nhất nhung y, năng đảm thế gian nan sự,
Đề tam xích kiếm, tận thu thiên hạ nhân tâm.
Nghĩa là:
Khoác tấm nhung y vào, có thể đảm đương việc khó của thế gian,
Cầm ba thước kiếm, thu hết lòng dạ thiên hạ.
Năm ấy, ai cũng cho đôi câu đối của gia đình này là hay nhất, vừa tả thực một cách tài ba, lại vừa hóm hỉnh thể hiện được khẩu khí cũng rất oai phong của mình.
Lại có một chuyện khác đại để như sau: cũng vào dịp giáp tết một năm nọ, nhà vua giả dạng một người thường đi dạo phố. Ngang qua một gia đình ở giữa phố, nhà vua thấy một bà cụ đang ngồi bán trầu cau. Cảm cảnh thân già, tết nhất đến nơi mà vẫn còn ngồi cần mẫn bán từng quả cau, lá trầu, nhà vua liền dừng lại hỏi chuyện. Và, hai người có vẻ rất tâm đắc với nhau. Sau khi quan sát quán hàng bé nhỏ của bà cụ, lại thấy trong nhà chưa có câu đối tết, nhà vua liền hạ bút, viết tặng đôi câu đối bằng chữ Nôm (phiên âm) như sau:
Nếp giầu quen thói kinh cơi, con cháu nương nhờ phúc ấm
Việc nước ra tay chuyển bát, bốn phương đâu đấy lại hàng.
Đôi câu đối chữ Nôm này, chỉ đọc sơ qua thôi cũng đã thấy gần như gồm đủ những thú mà thường ngày bà cụ vẫn bày ra trong quán, như: giầu (trầu), cơi (khay), nước, bát,... và đặc biệt nhất là mấy chữ bốn phương đâu đấy lại hàng, vừa nói được cái ý đông khách, lại vừa tỏ được khấu khí của người có tài kinh bang tế thế.
Tiếng đồn về đôi câu đối chữ Nôm vừa lạ vừa hay này chẳng mấy chốc đã vào đến tận triều đình. Các quan lũ lượt kéo nhau ra tận quán hàng của bà cụ để kiểm tra hư thực. Sau khi được tận mắt trông thấy, ai cũng muốn tìm cho ra tác giả nhưng tìm mãi vẫn không được. Nhân buổi chầu, họ tâu lên vua, song, chỉ thấy vua cười.
Và, chuyện thứ tư kể rằng, giáp tết một năm khác, vua Lê Thánh Tông về thăm quê cha đất tổ ở Thanh Hoá. Tới nơi chưa được bao lâu, nhà vua đã giả dạng người thường, đi dạo dọc theo bờ sông. Trên đường đi, nhà vua thấy có một cô gái nhan sắc mặn mà, đang cầm rá đựng gạo ra sông để vo. Vừa thoáng trông thấy gương mặt của cô gái, nhà vua đã... rạo rực trong lòng, một lúc sau đó, nhà vua mới đọc một vế đối bằng văn Nôm (phiên âm) như sau:
Gạo trắng, nước trong, mến cảnh lại càng thêm mến cả...
vế đối này tuy bỏ lững, nhưng ý tứ thì đã quá rõ ràng, thêm vào cho đủ chữ, có khi lại mất hết cả cái hay. Cô gái ấy chẳng dè cũng là người rất giỏi văn chương chữ nghĩa. Cô ngước nhìn nhà vua, mỉm cười, và khi đã vo xong rá gạo, cô bước lên, đọc ngay vế đối lại của mình, cũng bằng văn Nôm (phiên âm) như sau:
Cát lầm, gió bụi, lo đời đâu đấy hẵng lo cho...
vế đối lại của cô gái cũng bỏ lững một cách rất tế nhị và thông minh. Nghe xong, nhà vua rất lấy làm cảm phục, bèn hỏi thăm mới biết tên cô là Nguyễn Thị Hằng, con gái thứ của Nguyễn Đức Trung (người về sau được phong làm Trinh Quốc Công). Cô được đón về kinh đô, rồi được phong làm Hoàng hậu, và đó chính là thân mẫu của vua Lê Hiến Tông (1498 - 1504), vị vua thứ sáu của triều Lê.
NHỜ ĐÂU BÙI XƯƠNG TRẠCH ĐỖ ĐẠI KHOA?
Bùi Xương Trạch sinh năm Tân Mùi (1451) tại làng Định Công, huyện Thanh Đàm, nhưng trưởng thành lại ở thôn Bùi Đông, làng Thịnh Liệt. Nay, đất quê ông thuộc xã Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Khoa Mậu Tuất (1478), Bùi Xương Trạch đỗ Tiến sĩ. Sau, ông làm quan trải phong dần lên đến chức Thượng thư, quyền Chưởng Lục Bộ Sự, kiêm Đô Ngự Sử và Quốc Tử Giám Tế Tửu, Tri Kinh Diên Sự, hàm Thái Phó, tước Quảng Quốc Công. Ông mất năm Kỉ Sửu (1529), hưởng thọ 78 tuổi.
Bùi Xương Trạch là nguời khai mạch đại khoa cho dòng họ Bùi ở đất Thanh Trì. Con trưởng của ông là Bùi Trụ làm quan tới chức Thượng thư, con thứ của ông là Bùi Vĩnh đỗ Bảng nhãn năm 1532, làm quan đến chức Lại Bộ Tả Thị Lang, tước Mai Lĩnh Hầu. Và, các bậc đại khoa khác như Tiến sĩ Bùi Công Cầu, Tiến sĩ Bùi Bình Quân, Hoàng giáp Bùi Huy Bích,... đều là cháu chắt của ông.
Dã sử chép rằng, thân phụ ông là một Nho sinh học hành dang dở, tính thích tra cứu sách địa lí. Một hôm, nhờ may mắn mà ông được một thầy địa lí Trung Quốc chỉ cho một ngôi huyệt đại phát danh Nho. Ông liền táng hài cốt của tổ tiên vào đấy và đến đời con ông là Bùi Xương Trạch thì quả nhiên ứng nghiệm.
Trong Lịch triều hiến chương loại chí (Nhân vật chí), nhà bách khoa toàn thư của thế kỉ 19 là Phan Huy Chú cũng có chép lại mẩu chuyện nhỏ này, nhưng, điều đáng nói hơn là, lần theo lời truyền tụng của dân gian, ông đã ghi lại được mấy điều khá lí thú về thuở hàn vì của Bùi Xương Trạch. Nay, xin theo Phan Huy Chú và một vài lời truyền tụng dân gian khác, lược thuật như sau:
Gia đình Bùi Xương Trạch rất nghèo, có khi cơm không đủ ăn, áo cũng không đủ mặc. Ông thường nói, muốn thoát cảnh nghèo nàn thì nhất thiết phải chăm chỉ làm lụng, chịu khó dãi gió dầm mưa, đồng thời, lại phải biết tằn tiện dành dụm. Và, nói là làm, ông đã nêu một tấm gương sáng về sự cần mẫn lo toan việc ruộng nương đồng áng.
Sau ông lại nghĩ, muốn thoát khỏi địa vị thấp kém thì chỉ có một cách duy nhất, đó là học tập, thi cử và đỗ đạt. Không có cơ may được theo nghiệp đèn sách từ nhỏ thì phải lấy cái chí của tuổi trưởng thành mà cất công dùi mài kinh sử. Để đỡ gánh nặng cho gia đình, ông vừa làm vừa học. Bấy giờ, hễ ngơi tay cày là ông lại cầm lấy sách, do vậy, việc đồng áng vẫn chu tất mà việc học hành vẫn được chú ý đầy đủ. Người đương thời cho là hiếm ai vẹn lo trọn cả đôi đàng như ông...
Từ đồng ruộng trở về, dẫu mệt lả cả người, Bùi Xương Trạch vẫn miệt mài học cho đến tận khuya, vốn sinh ra trong một gia đinh rất nghèo, cho nên, làm bất cứ việc gì ông cũng đều tính toán cẩn thận. Tương truyền, hễ vào mùa có đom đóm bay, ông bắt đom đóm bỏ đầy chai rồi học bài bằng chính thứ ánh sáng đom đóm lập loè và yếu ớt ấy. Ngay cả việc đi thi của ông cũng khác thường: vì nhà ở gần trường thi, cho nên, hễ làm bài xong là ông lại chạy vội về nhà, không nỡ bỏ lỡ một ngày làm lụng nào ở ruộng vườn, đồng áng!
Thi Hội rồi thi Đình xong, sĩ tử nào cũng náo nức trông chờ ngày yết bảng, còn Bùi Xương Trạch thì lặng lẽ trở về lo việc đồng áng. Mọi người thấy bảng vàng có tên ông, vội chạy đến tận nhà để báo tin vui thì thấy ông đang... lúi húi đi cày ở ngoài đồng! Và, ông chăm chỉ làm cho đến lúc vào triều nhận chức mới thôi.
Ngay sau khi ông đỗ đạt, vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã bổ nhiệm ông vào làm việc tại Hàn Lâm Viện. Năm 1489, cùng với Tiến sĩ Nguyễn Khắc Cung và Hoàng giáp Nguyễn Hán Đinh, Bùi Xương Trạch được nhà vua và triều đình tin cậy, giao việc đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc). Và ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này. Năm 1493, được sự uỷ thác của vua Lê Thánh Tông, Bùi Xương Trạch đã viết bài Quảng Văn đình kí rất nối tiếng. Bài kí này được Phan Huy Chú trân trọng ghi lại trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí lừng danh của mình.
Nhờ đâu Bùi Xương Trạch đỗ đại khoa? Chuyện về ngôi huyệt đại phát danh Nho bất quá chỉ là lời giải thích tầm thường trước ý chí phi thường của Bùi Xương Trạch, nó chỉ đủ để tạo thêm một chút li kì cho ra vẻ ngàn xưa mà không đủ để người đời hiểu được chí hướng của nhân vật lịch sử cụ thể này, nhiều con đom đóm góp lại cũng có thể tạo ra được một ngọn đèn. Đời vẫn hơn kém nhau ở chỗ, có ai đó trong thiên hạ biết bắt thật nhiều đom đóm để làm đèn như là Bùi Xương Trạch hay không mà thôi.
Muốn có cả một thành trì, trước phải biết cần mẫn xây từng viên gạch nhỏ. Muốn có trí tuệ lớn, trước phải biết miệt mài lượm lặt từng hiểu biết đơn giản đầu tiên. Như Bùi Xương Trạch, như bao bậc Tài hoa thiên cổ mà sử sách còn lưu danh...
BA LẦN NỐI DANH CỦA TRỊNH THIẾT TRƯỜNG
Trịnh Thiết Trường người làng Đông Lý, huyện Yên Định (nay là thôn Đông, xã Hạnh Phúc, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá), sinh và mất năm nào chưa rõ, chỉ biết ông là người của thế kỉ thứ 15. Chính sử cũng như dã sử xưa từng chép khá nhiều chuyện li kì về ông, dưới đây, xin dựa theo ghi chép của Đại Nam Nhất Thống Chí (tỉnh Thanh Hoá, tập Hạ, mục Nhân vật) để lược kể về ba lần nổi danh của ông như sau:
Lần thứ nhất, Trịnh Thiết Trường nổi danh khi còn là một đứa trẻ. Sách trên chép rằng, có một hôm, Trịnh Thiết Trường cùng lũ trẻ con trong làng thi nhau lấy đất sét nặn đồ chơi. Ông nặn con voi, xong bắt bốn con cua con gắn vào dưới bốn chân, khiến cho con voi đất có thể di động được, ai ai trông thấy cũng phải phục là ông sáng dạ. Mà quả là ông sáng dạ thật, chỉ cần vài lần nghe ai đó đọc sách là ông đã có thể thuộc lòng. Khi nhập trường, ông học một biết mười, ông đối rất trôi chảy. Người quê ông đương thời gọi ông là thần đồng.
Lần thứ hai, Trịnh Thiết Trường nổi danh khi đã bước vào tuổi lục tuần. Trước đó, tuy tiếng tăm uyên bác của ông đã lan rộng khắp nơi, Trịnh Thiết Trường vẫn không chịu đi thi. Ông sống tại quê nhà, mở trường dạy học, vui với công việc và học trò của mình, chẳng màng gì tới công danh. Nhưng rồi không hiểu trời xui đất khiến thế nào mà vào khoa Nhâm Tuất (1442) Trịnh Thiết Trường bỗng nổi hứng đi thi. Khoa ấy, ông cùng với người học trò xuất sắc của mình là Nguyễn Nguyên Chẩn (người làng Lạc Thực, huyện Thanh Lâm, nay là thôn Lạc Thực, xã Đồng Lạc, huyện Nam Thanh, tĩnh Hải Dương) cùng... lai kinh ứng thí. Thầy trò bàn nhau rằng, không đi thi thì thôi chớ đã đi thi thì quyết định phải chiếm cho được tam khôi (tức là đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn hoặc Thám hoa) mới chịu. Chẳng dè cả thầy lẫn trò đều chỉ đỗ Tiến sĩ. Khi vào dự yến tiệc vua ban, Trịnh Thiết Trường cùng học trò là Nguyễn Nguyên Chần tâu vua xin được trở về bản quán chứ không nhận chức tước gì cả. Vua Lê Thái Tông hỏi:
-Đỗ đạt khi tuổi đã cao, sao lại xin về? Hay là khanh không thích làm quan?
Trịnh Thiết Trường thưa:
-Thần nuôi chí đỗ vào hàng tam khôi, nay chưa được như thế nên xin được trở về để học thêm và thi lại.
Vua Lê Thái Tông cười nói với ông rằng:
- Khoa sau nếu đỗ vào hàng tam khôi, thì ta sẽ đem công chúa năm nay mới mười một tuổi mà gả cho.
Đến khoa Mậu Thìn (1448), đời vua Lê Nhân Tông, quả nhiên Trịnh Thiết Trường lại cùng với học trò là Nguyễn Nguyên Chẩn đi thi. Và lần này thì ông đỗ Bảng nhãn, tức là đứng ở bậc thứ hai trong hàng tam khôi, còn Nguyễn Nguyên Chấn thì lại đỗ Tiến sĩ thêm một lần nữa. Bấy giờ Trịnh Thiết Trường đã sắp bước sang tuổi bảy mươi mà công chúa (em vua Lê Thái Tông) thì mới mười bảy tuổi, nhưng theo lời hứa của vua cha, Lê Nhân Tông đã làm lễ cưới cho hai người.
Lần thứ ba, Trịnh Thiết Trường nổi tiếng khi nhận mệnh đi sứ. Năm Đinh Sửu (1457), triều đình Lê Nhân Tông cử phái bộ sứ giả sang Trung Quốc. Phái bộ sứ giả này gồm có chánh sứ là Trạng nguyên Nguyễn Trực (đỗ khoa Nhâm Tuất, 1442) và phó sứ là Bảng nhãn Trịnh Thiết Trường. (Cứ như ghi chép của chính sử thì phái bộ sứ giả này không có Nguyễn Trực, nhưng đây theo nguyên bản của sách nói trên mà lược dịch như thế -NKT). Đến nơi, triều đình nhà Minh tổ chức cho các sứ giả cùng tham sự một khoa thi đặc biệt. Khi vào làm bài thi được một lúc, Trịnh Thiết Trường nói nhỏ với Nguyễn Trực rằng:
- Phen này, chiếm giải nhất nhì chắc chỉ có tôi với bác mà thôi. Nhưng nói thật, văn tôi như rồng bay phượng múa, bác khó mà theo nổi. Chỉ tiếc rằng bác là Trạng nguyên, còn tôi là Bảng nhãn, nếu để văn tôi đè văn bác thì chẳng hoá ra là vua ta chọn người đỗ đạt không đúng hay sao. Vậy, hãy để tôi nghĩ cách khiến cho văn bác đóng trên văn của tôi.
Nguyễn Trực im lặng đồng tình. Trong bài làm của Trịnh Thiết Trường có câu: “Nam chi chu, Bắc chi mã’’ (nghĩa là: Thuyền phương Nam, ngựa phương Bắc). Chữ mã (馬) trong câu này, thay vì phải viết đủ bốn chấm ở dưới, ông chỉ viết có ba chấm mà thôi. Khảo quan cho rằng bài của Trịnh Thiết Trường đáng đỗ đầu, nhưng giận vì chữ mã chỉ có ba chấm, cho như thế là coi thường Trung Quốc, nên hạ ông xuống hạng hai và đưa bài của Nguyễn Trực lên hạng nhất. Đến khi sứ bộ ra về, họ còn lấy dây cột một chân trước của ngựa ông, khiến cho chân ấy phải co lên, ngựa không sao đi được, nhằm phạt cái lỗi viết chữ mã chỉ có ba chấm, đã thế lại còn hạ lệnh rằng, nếu không tìm cách cưỡi ngựa ấy về được thì sẽ bị giữ lại mãi mãi ở Trung Quốc. Trịnh Thiết Trường mỉm cười rồi lẳng lặng lấy gỗ đẽo một cái chân ngựa cùng kích cỡ với chân trước của con ngựa thật, xong, lấy dây cột vào, khiến cho ngựa có thêm một cái chân giả. Ông điềm nhiên nhảy lên lưng ngựa và vung roi quất thật mạnh. Con ngựa của ông tuy lúng túng nhưng vẫn chạy đi được với cái chân giả do ông đẽo. Mọi người thấy vậy thì vỗ tay tán thưởng. Quan lại thiên triều phục ông nhanh trí, bèn sai người đuổi theo, tháo chân ngựa cho ông để ông được ung dung mà trở về cùng với Trạng nguyên Nguyễn Trực.
Sau khi đi sứ về, Trịnh Thiết Trường được phong tới chức Hữu Thị Lang, tước Nghi Quận Công. Lúc mất, ông được truy tặng chức Thượng Thư Bộ Công.
Tuy thời điểm, địa điểm và mức độ khác nhau, nhưng, cả ba lần nổi danh của Trịnh Thiết Trường đều rất đáng để cho đời suy gẫm. Lần thứ nhất là lần có thật, một sự thật có ý nghĩa dự báo tương lai rất tốt đẹp cho Trịnh Thiết Trường. Lần thứ hai cũng là lần có thật, một sự thật rất hiếm hoi đã được sử sách xưa trân trọng ghi chép. Thoạt nghe, rất dễ tưởng rằng Trịnh Thiết Trường cao ngạo, nhưng, xét kĩ mới thấy rõ là ông giàu lòng tự tin, giàu bản lĩnh và ý chí. Thế mới hay, giữa cao ngạo và tự tin xem ra cũng có những nét khiến cho kẻ nông cạn có thể nhầm lẫn. Lần thứ ba rõ ràng là lần không có thật, nhưng, đây cũng chính là lần khiến cho đời rất tin và do vậy, cứ truyền tụng mãi không thôi. Vì sao ư? Đơn giản là vì Trịnh Thiết Trường thực sự có tài. Giả thử bấy giờ người ta đồn rằng, vua Trung Quốc phục tài Trịnh Thiết Trường đến nỗi phải ngã lăn từ trên ngai vàng xuống, gãy mất năm cái răng và rách cả môi, buộc phải cấp cứu đến bảy tiếng đồng hồ mới khỏi, thì bảo đảm là thiên hạ vẫn cứ tin như thường. Ngẫm mà xem!
VŨ TUẤN CHIÊU NHỜ VỢ MÀ ĐỖ TRẠNG NGUYÊN
Các bộ Đăng khoa lục đều cho hay rằng Vũ Tuấn Chiêu, người làng Nhật Chiêu, huyện Quảng Đức (nay là thôn Nhật Tảo, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội), nhưng tổ tiên lại vốn người xã cổ Liễu, huyện Tây Chân (nay là làng Xuân Lôi, xã Nam Hùng, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Định). Ông sinh năm Bính Ngọ (1426), đỗ Trạng nguyên khoa Ất Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ sáu (tức năm 1475), đời vua Lê Thánh Tông, làm quan trải phong dần đến chức Lại Bộ Tả Thị Lang. Sinh thời, Vũ Tuấn Chiêu có hai lần nổi tiếng rất trái ngược nhau. Lần đầu là nổi tiếng dốt nát kém cỏi và lần sau là nổi tiếng thông minh. Chuyện nổi tiếng thông minh của Vũ Tuấn Chiêu thì sử sách đã chép, riêng chuyện nổi tiếng dốt nát và kém cỏi của Vũ Tuấn Chiêu thì chỉ thấy dã sử và thần tích để ở đền cổ Liễu chép mà thôi. Nay, xin theo thần tích ở đền cổ Liễu mà lược kể như sau:
Vũ Tuấn Chiêu mồ côi cha từ năm lên sáu tuổi. Bởi gia cảnh bần hàn, họ hàng thân thích cũng chẳng có ai, người mẹ liền bán nhà rồi đem miếng đất thổ cư ấy gởi cho hàng xóm là Trần Công, xong, đem con về tá túc bên ngoại. Năm Vũ Tuấn Chiêu ngoài hai mươi tuổi thì mẹ ông cũng qua đời. Vào một năm nọ, nhớ lời mẹ dặn, Vũ Tuấn Chiêu trở về cổ Liễu để thăm phần mộ tổ tiên. Bấy giờ, Trần Công đã già, vợ đã mất, sống nhờ một người con gái duy nhất, tên là Trần Thị Chìa. Thấy con gái đã đến tuổi lấy chồng mà Vũ Tuấn Chiêu lại chưa vợ, tính nết hiền lành, cho nên, Trần Công đứng ra tác hợp gia thất cho con gái của mình với Vũ Tuấn Chiêu.
Trần Thị Chìa là cô gái nết na chăm chỉ, một lòng lo phụng dưỡng cha và nuôi chồng ăn học. Được vài năm thì Trần Công qua đời, Trần Thị Chìa tường được nhẹ gánh hơn, chẳng dè, chồng học mãi mà chẳng tấn tới chút nào, đằng đẵng những hơn hai mươi năm mà rốt cuộc vẫn phải ngồi chung lớp với mấy đứa trẻ nhỏ mới nhập học. Thiên hạ lắm kẻ cười chê, nhưng, Trần Thị Chìa vẫn không chút nản chí, tháng ngày tần tảo, gánh gạo đến tận nơi chồng ở trọ để nuôi chồng. Mỗi lần đến trường là một lần Trần Thị Chìa lại cung kính đến chào thầy học của chồng. Một lần nọ, thầy giáo gọi hai vợ chồng Vũ Tuấn Chiêu và Trần Thị Chìa lại rồi nói:
-Vũ Tuấn Chiêu tuổi tuy đã lớn mà học hành thì kém cõi, cố gắng cũng chẳng thể khá hơn. Vậy, thầy cho về giúp vợ làm ruộng, đỡ đần để vợ bớt vất vả.
Thấy ý thầy đã quyết, Trần Thị Chìa đành phải chào thầy rồi trở về nơi chồng trọ, thu xếp mọi thứ để cùng chồng trở về quê. Về đến gần làng, vợ chồng đặt gánh nghỉ bên gốc cây ở cạnh chiếc cầu bằng đá bắt qua con rạch. Vũ Tuấn Chiêu thấy nóng bức, bèn cởi áo và lội xuống tắm. Thấy chân cầu bằng đá mã bị mòn vẹt, Vũ Tuấn Chiêu liền hỏi vợ:
-Tại sao chân cầu lại bị mòn như thế?
Người vợ đủng đỉnh trả lời:
-Đó là bởi nước chảy lâu ngày nên đá bị bào mòn đó thôi. Ai cũng nói rắn như đá và mềm như nước, nhưng cho dẫu nước mềm, nếu chảy mãi cũng có thể bào mòn được đá cứng, ở đời, trăm sự đều như thế cả, nếu bền chí thì nhất định sẽ có ngày thành công.
Vũ Tuấn Chiêu nghe xong thì chợt tỉnh ngộ, bèn chạy lên thay quần áo rồi bảo vợ trở về, còn mình thì quẩy gánh trở lại trường, xin thầy cho học lại. Thấy Vũ Tuấn Chiêu, thầy giáo ngạc nhiên hỏi:
-Con đã trở về rồi, sao còn trở lại? Hay là con có điều gì cần hỏi thầy chăng?
Vũ Tuấn Chiêu nói:
-Thưa thầy, con đã nghĩ kĩ lại rồi. Cứng như đá mà nước chảy mãi cũng phải mòn, nếu con bền chí học mãi thì nhất định cũng sẽ có ngày thành đạt. Con quyết chí có tên trên bảng vàng, trước là để khỏi phụ ơn thầy, sau là để khỏi uổng công vợ.
Thầy giáo cũng không tin là Vũ Tuấn Chiêu có thể học nổi, nhân có cơn mưa, bèn chán nản lắc đầu, đọc rằng:
—Mưa sa Hạ Vũ
Chẳng dè, Vũ Tuấn Chiêu lại ứng khẩu mà đáp ngay được rằng:
- Sấm động Xuân Lôi.
Nhờ lời đáp ấy, Vũ Tuấn Chiêu được thầy giáo cho vào học lại. Từ đó, ông học hành tấn tới rất nhanh. Nhưng, khi ông sắp sửa thành tài thì bà Trần Thị Chìa lâm bệnh mà qua đời, để lại cho ông một đứa con trai duy nhất. Một lần nữa, Vũ Tuấn Chiêu phải quay về quê ngoại, vừa lo tìm người thân tín để gởi con, vừa chuẩn bị sắm sửa cho việc thi cử. Và, như trên đã nói, khoa Ất Mùi (1475), ông đỗ Trạng nguyên. Năm ấy ông vừa 50 tuổi (tính theo tuổi ta). Khoa này, triều Lê lấy đỗ tất cả 43 vị Tiến sĩ, trong đó có một Trạng nguyên là Vũ Tuấn Chiêu, một Bảng nhãn là ông Nghĩa Đạt và một Thám hoa là Cao Quýnh.
Cắt nghĩa về sự thành đạt của Vũ Tuấn Chiêu, người đời xưa nay vẫn có khá nhiều ý kiến khác nhau, tuy nhiên không có ý kiến nào lại bỏ qua vai trò đặc biệt quan trọng của vợ ông là bà Trần Thị Chìa. Người phụ nữ ấy đã một lòng một dạ vì chồng, gian nan không quản, thất bại không sờn lòng, lời thị phi của chúng bạn cũng không thèm để ý đến, lòng vàng đá ấy thật đáng kính lắm thay!
Nước chảy đá mòn! Triết lí của bà Trần Thị Chìa thật giản dị mà sâu sắc. Để trở thành Trạng nguyên, Vũ Tuấn Chiêu phải học không biết bao nhiêu sách vở, nhưng, bài học lớn lao nhất, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhất, lại chính là bài học từ câu nước chảy đá mòn mà vợ ông đã dạy ông.
Sau, dân cổ Liễu lập đền thờ Vũ Tuấn Chiêu. Cửa đền có bức hoành phi với ba chữ sơn son thếp vàng: Trạng nguyên từ (đền thờ Trạng nguyên). Dân thờ người tài vì muốn mạch nhân tài của mình không bao giờ dứt. Song không có đền thờ riêng bà Trần Thị Chìa thì kể cũng đáng tiếc lắm. Tài ba và đức độ của bà vẫn mãi mãi toả sáng trong kí ức bất diệt của muôn đời đó thôi. 
BA LẦN NỔI DANH TRONG THỜI HÀN VI CỦA BINH BỘ THƯỢNG THƯ LƯƠNG HỮU KHÁNH
Thời Lê Trung Hưng, Binh Bộ Thượng Thư Lương Hữu Khánh là một trong những bậc đại thần giàu mưu lược. Đời vẫn truyền tụng rất nhiều giai thoại về Lương Hữu Khánh, và dưới đây là phần lược thuật những giai thoại về ba lần nổi danh của ông, thấy ghi trong Đại Nam Nhất Thống Chí (tỉnh Thanh Hoá, tập Hạ, mục Nhân vật).
Lương Hữu Khánh là con trai của Bảng nhãn Lương Đắc Bằng (1472 —?), người làng Hội Triều, huyện Hoằng Hoá (nay thuộc thôn Hội Triều, xã Hoằng Phong, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá). Sinh thời, Lương Đắc Bằng là người thanh liêm, chính trực, làm quan trải phong dần tới chức Lại Bộ Thượng Thư. Khi ông mất, con trai ông là Lương Hữu Khánh còn ở tuổi ấu thơ.
Sử cũ cho hay, năm mới lên mười tuổi, Lương Hữu Khánh đã nổi danh ăn khỏe. Hầu nhu lúc nào ông cũng cảm thấy đói. Đến bữa, mẹ ông thường phải nhường phần cho ông ăn. Một hôm, Lương Hữu Khánh thưa với mẹ rằng:
-Tiên quân nhà ta là bậc làm quan trong sạch, chẳng để lại gì đủ để cho con no, vậy, xin mẹ cho con được tự ý ra đi kiếm sống.
Nói rồi, ông từ giã mẹ ra đi. Một lần nọ, ông tình cờ qua sông chung một chuyến đò với khoảng dăm sáu nhà sư. Thấy ông có vẻ như đang đói, các nhà sư lấy ra mấy phần oản mời ông ăn. Ông nói:
- Tôi nhịn đói đã mấy ngày nay, mấy phần oản này thì có thấm thìa gì? Ăn có khi chẳng bõ dính răng.
Nhà sư cao niên nhất nghe vậy thì cười và ôn tồn nói:
-Nếu chỉ nội trong chuyến đò ngang này mà anh làm được bài thơ Nho tăng đồng chu (Nhà Nho và nhà sư cùng đi chung thuyền) thì sang đến bờ bên kia, chúng tôi sẽ tặng anh hết số phẩm oản này.
Lương Hữu Khánh chẳng cần nghĩ ngợi, ứng khẩu đọc ngay một bài thơ bằng chữ Hán và một bài thơ bằng chữ Nôm, khiến cho các nhà sư phải tấm tấc khen mãi. Họ đưa cho ông đến khoảng sáu bảy chục phẩm oản, thế mà chỉ trong chốc lát, ông ăn hết sạch. Các nhà sư tặng ông một quan tiền và nói:
-Anh thật là người có tài. Sau này nếu chẳng may khói lửa xảy đến, anh hãy nên tìm chốn Bồ Đề mà nương tựa, may ra sẽ có thiện duyên.
Một lần khác, Lương Hữu Khánh gặp một cụ bà lang thang kiếm người làm. Vừa trông thấy ông, cụ bà đã mừng rỡ hỏi ngay rằng:
-Nhà tôi có năm mẫu ruộng chiêm, nước ngập sâu mà cỏ mọc cũng rất nhiều. Tôi đang thuê người dọn giúp mà chẳng ai dám nhận. Anh có cách gì giúp tôi được không?
Lương Hữu Khánh đáp:
-Cụ cứ chuẩn bị tiền công và cơm ăn cho mười người, đến trưa thì mang ra đồng, mọi việc đâu sẽ vào đó hết.
Nói xong, ông theo cụ bà đi nhận đất. Cụ bà vừa đi, Lương Hữu Khánh đã mượn dụng cụ, lội xuống ruộng làm ào ào chừng quá nửa buổi là xong. Sau khi đem trả dụng cụ, ông trèo lên cây nằm ngủ, ngáy vang cả một vùng. Cụ bà mang cơm và tiền công ra, Lương Hữu Khánh nhận tiền và im lặng ngồi ăn một lúc hết sạch cả mười phần cơm.
Chuyện thứ ba kể rằng, năm lên 18 tuổi, Lương Hữu Khánh đến theo học Trạng Trình Nguyễn Bĩnh Khiêm (1491 -1585). Trạng Trình vốn là học trò của thân phụ Lương Hữu Khánh, vì thế, Lương Hữu Khánh được tiếp đón rất chu tất. Bấy giờ, học trò của Trạng Trình đông có đến hàng mấy ngàn người, nhưng trong đó, chỉ có Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613) là nổi tiếng thông minh và hay chữ hơn cả. Nhưng, từ khi có Lương Hữu Khánh, ngôi vị giỏi hạng nhất của Phùng Khắc Khoan lập tức bị lung lay.
Thế rồi triều đình mở khoa thi, cả Lương Hữu Khánh lẫn Phùng Khắc Khoan đều ra ứng thi. Tương truyền, văn bài của ông lẽ ra phải được xếp hạng nhất, nhưng chẳng hiểu vì sao mà quan trường lại đẩy ông xuống hạng nhì, vì thế, ông lấy làm buồn nản, không vào dự tiếp khoa thi Đình như bao nhiêu sĩ tử khác. Ra phố, ông kiếm được 60 bát gạo với hai con cá biển khá lớn, liền thổi cơm kho cá rồi trải chiếu, ngồi ngay dưới gốc cây, vừa ăn vừa nói:
-Thế này thì có kém gì mâm cao cỗ đầy?
Khi ấy, có một viên quan đi chầu triều về ngang qua, thấy ông có tướng mạo lạ, bèn tặng ông năm quan tiền và khuyên ông nên ra làm quan, nhưng ông chỉ một mực chối từ.
Sau, Phùng Khắc Khoan đỗ Hoàng Giáp (tức là chỉ đỗ hàng thứ tư, nhưng vì ông nối tiếng tài hoa xuất chúng, cho nên, đời vẫn tôn ông là Trạng nguyên). Nghĩ tình đồng môn, Phùng Khắc Khoan liền sai người đi đón hai mẹ con Lương Hữu Khánh về tư dinh của mình, săn sóc bạn và phụng dưỡng mẹ của bạn rất chu tất. Cảm ơn nghĩa ấy, ông ra làm quan cùng với bạn, dần dần được phong tới chức Binh Bộ Thượng Thư.
Thế là, ngay trong thời hàn vi, Lương Hữu Khánh đã có đến ba lần nổi danh. Lần thứ nhất là nổi danh ăn khỏe. Lần thứ hai là nổi danh làm khỏe. Lần thứ ba là nổi danh học tài. Nếu chỉ dừng lại ở lần nổi danh thứ nhất, ông bất quá cũng chỉ là... phường “giá áo túi cơm”. Nếu dừng lại ở lần nổi danh thứ hai, ông bất quá cũng chỉ là... đám “vai u thịt bắp". Phải đợi đến lần nổi danh thứ ba, ông mới thực sự là... con trai của Bảng nhãn Lương Khắc Bằng, là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sau, con ông là Lương Khiêm Hanh cũng đỗ Tiến sĩ (khoa Kì Sửu), 1589), xứng thay!
Ở đời, ai mà chẳng muốn nổi danh, khác chăng thì chỉ là nổi danh như thế nào mà thôi. Nếu bạn cho tôi biết cách bạn muốn nổi danh, tôi sẽ nói ngay với bạn rằng, bạn thuộc hạng người nào. Chắc chắn là như thế.
- 5 -
Thuở hàn vi của trạng nguyên Trần Sùng Dĩnh
Thời vua Lê Thánh Tông (1460 -1497), ở làng Đồng Khê, huyện Thanh Lâm (nay là xã An Lâm, huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Dương) có hai anh em ruột cùng đỗ đại khoa, đó là Trần Năng (đỗ Hoàng Giáp và Trần Sùng Dĩnh (đỗ Trạng nguyên). Trần Năng là anh, sinh năm Ất Sửu (1445), còn Trần Sùng Dĩnh là em, sinh năm Ất Dậu (1465). Do lớn hơn em những 20 tuổi, Trần Năng có vai trò rất lớn trong việc góp phần nuôi dạy em ăn học. Nhất nhất mọi việc lớn nhỏ, hễ Trần Năng mà đã nói là Trần Sùng Dĩnh phải vâng lời.
Người đời truyền tụng rằng, sinh thời, Trần Năng là người rất hiếu thảo và chăm chỉ. Ngày ngày, ông vừa đi học, vừa tận tuỵ lo toan đủ mọi thứ việc giúp đỡ gia đình, vậy mà đêm nào ông cũng cố chong đèn học bài đến quá nửa đêm mới chịu thôi.
Ngay từ thuở còn nằm nôi, Trần Sùng Dĩnh đã quá quen thuộc với tiếng học bài sang sảng của anh trai. Và, ông đã thuộc lòng những bài học ấy tự lúc nào không hay. Lúc mới lên năm tuổi, Trần Sùng Dĩnh đã nhớ vanh vách hàng chục bài trong Kinh thi, đồng thời, đã có thể nhận biết được rất nhiều mặt chữ Hán. Người địa phương đương thời ai cũng cho ông là bậc thần đồng. Gia đình ông, mà đặc biệt, anh ông là Trần Năng, thấy ông sáng dạ hơn người nên đã dốc sức chăm lo cho ông ăn học. Hy vọng rằng ông sẽ sớm rạng danh với đời.

Trần Năng tự lấy sự miệt mài chăm chỉ của mình làm chuẩn để bắt em theo, nhưng, cách học của Trần Sùng Dĩnh lại hoàn toàn khác. Khi đến trường, Trần Sùng Dĩnh lắng nghe một cách say sưa như nuốt từng lời thầy. Chỗ nào không hiểu hoặc hiểu chưa thật đầy đủ, ông ghi chép lại và quyết hỏi cho bằng được mới thôi, về nhà, ông chỉ lẩm nhẩm xem lướt qua một lần nữa, xong là chạy đi nô đùa với lũ trẻ cùng trang lứa trong làng. Điều ấy khiến cho cả gia đình ông rất lo lắng. Một hôm, Trần Năng tức giận, gọi em lại mà mắng rằng:
-Em học cái lối gì mà cứ rong chơi như thế? Rõ là chỉ tổ uổng cơm cha mẹ mà thôi.
Trần Sùng Dĩnh cãi:
-Đưa chữ vào đầu cũng như đổ thóc vào thúng. Thúng mà muốn chứa được nhiều thóc thì phải lắc, đầu mà muốn chứa được nhiều chữ thì phải chạy nhảy cho nó nén xuống.
Trần Năng nghe em nói vậy thì lại càng tức hơn nên mới mắng tiếp:
-Chớ có lí sự. Cả nhà chưa ai từng nghe tiếng em đọc sách bao giờ.
Trần Sùng Dĩnh cũng chẳng vừa, lập tức biện hộ một cách rất lém lỉnh rằng:
-Ở trường, em đã phải nuốt từng chữ của thầy, về nhà, anh cứ bắt em đọc to như thế, chữ của thằy cứ theo tiếng đọc của em mà bay ào ào ra hết, thử hỏi là em còn có thể giữ được chữ nào nữa hay không? Vả lại, em học là học cho em, dại gì đọc to cho người khác thuộc để rồi mình thì không.
Trần Năng cho là em có ý nói cạnh nói khoé (vì ông có tật hễ học bài là đọc thật to), cho nên, đã tức lại càng thêm tức. Ông bắt Trần Sùng Dĩnh phải nằm dài trên giường để chuẩn bị đánh roi. Trần Sùng Dĩnh vừa khóc vừa nói:
-Anh có giỏi thì cứ thử tài em. Em mà học hành lôi thôi thì anh đánh sau cũng đâu có muộn, việc gì cứ ỷ thế làm anh để muốn đánh là đánh.
Trần Năng nghe nói cũng thấy có lí, liền cầm sách bắt em trả bài. Trần Sùng Dĩnh đọc vanh vách, đọc xong lại còn nói:
-Con vẹt còn học thuộc được, huống chi là con người. Cái khó là sau khi thuộc rồi, người ta có nghĩ thêm được điều gì mới hơn không thôi. Chỗ này thì con vẹt không thể nào làm đuợc.
Nói xong, Trần Sùng Dĩnh say sưa giảng giải thêm rất nhiều điều mới lạ, khiến cho Trần Năng phải ngơ ngác về tài học của em mình. Từ đó, không một ai lo lắng gì về chuyện học hành của Trần Sùng Dĩnh nữa. Khoảng hơn mười tuổi, tiếng tăm của Trần Sùng Dĩnh đã rất lớn. Năm 1479, tức là lúc mới vừa 14 tuổi, Trần Sùng Dĩnh đã đỗ đầu ở trường Hương. Năm Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (tức là năm 1487), khi vừa mới 22 tuổi, Trần Sùng Dĩnh đã đỗ Trạng nguyên. Khoa ấy, vua Lê Thánh Tông lấy đỗ đến 60 người, nhưng trong số đó, không có anh ông là Trần Năng! Phải đến khoa Quý Sửu, niên hiệu Hồng Đức thứ 24 (tức là năm 1493), Trần Năng mới đỗ Hoàng giáp. Xét về thứ bậc, Hoàng giáp là bậc thứ tư, cao hơn Tiến sĩ, nhưng thấp hơn Thám hoa và Bảng nhãn, càng thấp hơn Trạng nguyên. Khi đỗ Hoàng giáp, Trần Năng đã 48 tuổi!
Sau khi đỗ Trạng nguyên, Trần Sùng Dĩnh được vua Lê Thánh Tông bổ làm quan rồi được thăng dần lên đến chức Hộ Bộ Thượng Thư. Khi mất, ông được dân làng tôn làm phúc thần. Trần Năng sau khi đỗ cũng được bổ làm quan nhưng chỉ được thăng tới chức cao nhất là Lại Bộ Tả Thị Lang (dưới Thượng Thư một bậc) mà thôi. Khi mất, Trần Năng mới được triều đình truy tặng chức Thượng Thư chớ khi còn sống, ông chưa bao giờ được phong tới chức này.
Hai anh em, hai thứ bậc đỗ đạt, hai địa vị cao thấp, nhưng, cả hai đều là người tài, đặc biệt là Trần Sùng Dĩnh. Một nhà mà như thế, kính thay! 
NHỜ ĐÂU LÊ TƯ ĐỖ HOÀNG GIÁP?
Phạm Duy Quyết người làng Mộ Trạch, huyện Đường An (nay là thôn Mộ Trạch, huyện Cẩm Bình, tinh Hải Dương), ông là em ruột của Trạng nguyên Nguyễn Khắc Kính (đỗ khoa Ất Sửu, 1505). Thuở còn tấm bé, Phạm Duy Quyết đã nổi danh thần đồng, thông minh hơn thiên hạ, nhưng đồng thời, Phạm Duy Quyết cũng khét tiếng tự phụ, từng nếm cảnh chua chát của sự... hỏng thi. Mãi đến khoa Tân Mùi (1511), Phạm Duy Quyết mới đỗ Hoàng Giáp (tức là đỗ thứ tư, sau Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa, nhưng trên Tiến sĩ). Nhờ đâu Phạm Duy Quyết đỗ Hoàng giáp? Hẳn nhiên là không phải nhờ ở tính tự phụ của ông rồi. Sách Công dư tiệp kí (quyển 1) chép chuyện ông thi cử như sau:
“Trong khoa thi Hội năm Ất Sửu (1505), cả hai anh em cùng ứng thí. Giữa kì làm bài thứ nhất, Phạm Duy Quyết quên sách, bèn lân la hỏi anh. Nguyễn Khắc Kính nói:
-Kì này có tôi và chú cùng thi, nếu tôi lại chỉ cho chú thì còn bảo thi cử với ai nữa.
Phạm Duy Quyết tức giận nói:
-Thôi thì khoa này tôi cho anh chiếm giải trước vậy.
Nói xong, ông liền gỡ phăng lều chõng ra về. Tới nhà thì đã đến canh ba, ông không dám gọi cửa mà nằm ngủ ngoài hiên. Lúc ấy, thân mẫu của ông đang nằm ngủ trong nhà, mơ thấy thần nhân bảo:
-Hoàng hiên đang có ông Hoàng giáp, sao không mở cửa đón vào?
Bà sực tình, nghĩ rằng hai con mình đang đi thi Hội, đang ở kinh đô, vậy thì Hoàng giáp nào đang ngủ ngoài hiên? Bà mở cửa để coi thì thấy một người đang ngủ lăn trước hiên nhà mình, liền đánh thức dậy, lúc ấy mới hay là cậu Tư, con trai của mình. Bà hết sức ngạc nhiên, còn Phạm Duy Quyết thì kể lại đầu đuôi câu chuyện thi cử. Nghe xong, bà nói:
-Đó là tại con học chưa đến nơi đến chốn. Từ nay con phải cố gắng hơn nữa.
Ông nghe lời mẹ dạy, vội đi vào nhà, đốt đèn mở sách mà học. Bà thấy thế, mỉm cười nói rằng:
-Bởi mới hỏng thi nên nhất thời tức khí mà học, chỉ sợ không được như vậy mà thôi.
Ông thưa:
-Thưa mẹ, từ nay về sau mẹ sẽ thấy con cứ thế này mãi mãi.
Từ đấy, ngày cũng như đêm, hầu như không lúc nào ông rời quyển sách. Còn anh ông là Nguyễn Khắc Kính, từ khi đỗ Trạng nguyên, được nhà vua cho giữ chức Giảng Quan trong Quốc Tử Giám. Không ít Giám Sinh đã nhờ ông mà thành đạt. Phạm Duy Quyết ra kinh đô, đón đường mà nói với các Giám Sinh rằng:
-Ta chính là bồ chữ, các anh muốn hỏi gì, cứ đem sách tới đây ta chỉ cho.
Giám Sinh phần nhiều đã nghe tiếng ông nên cũng muốn thử xem tài học của ông ra sao, bèn kéo nhau tới nơi ông ở là khu Chợ Dừa (nay thuộc nội thành Hà Nội -NK.T) để hỏi kinh sách. Họ hỏi tới đâu, ông trả lời tới đó, cứ thế thao thao bất tuyệt. Có người đem cả sách vở của Trung Quốc và của chư tử ra hỏi, ông cũng giảng giải tinh tường, khiến cho ai cũng phải khiếp phục, kéo nhau đến chỗ ông. Quốc Tử Giám vì thế mà vắng người. Anh ông là Nguyễn Khắc Kính thấy vậy thì can:
-Chú có tài học, lo gì không đỗ cao mà lại đi làm cái chuyện vô ích này. Tôi thấy việc này quan hệ đến giáo hoá của triều đình, chú đình chỉ đi thì hơn.
Ông nghe lời anh, lập tức trở về quê nhà. Đến khoa Tân Mùi (1511), ông đỗ Hoàng giáp và rất lấy làm hận vì không chiếm được khôi nguyên. Sau, ông ra làm quan, được thăng tới chức Lại Bộ cấp Sự Trung thì mất.”
Đến đây, xin được trở lại câu hỏi đặt ra từ đầu, đó là: Nhờ đâu Phạm Duy Quyết đỗ Hoàng giáp? Không ai phủ nhận là Phạm Duy Quyết có tài bẩm sinh, nhưng, cái tài bẩm sinh của Phạm Duy Quyết bất quá chỉ là cái tài của một... cậu bé. Phạm Duy Quyết nổi danh thần đồng, song Phạm Duy Quyết cũng nổi danh tự phụ. Nếu không được anh ông là Nguyễn Khắc Kính hai lần nghiêm khắc phê phán, thì cái còn lại của Phạm Duy Quyết chắc chỉ là sự tự phụ hợm hĩnh mà thôi. Phạm Duy Quyết có người mẹ thật tuyệt vời. Trong nghệ thuật động viên và khích lệ con học tập. Bà quả là một điển hình đáng để cho đời đời noi theo. Thế ra, học vị Hoàng giáp của Phạm Duy Quyết là kết quả học tập của Phạm Duy Quyết, cộng với kết quả uốn nắn nghiêm khắc của anh ông là Trạng nguyên Nguyễn Khắc Kính, và cộng với kết quả của nghệ thuật động viên, khích lệ khôn khéo của mẹ ông.
Với những người có chút tài nhưng lại hay tự phụ, nếu chẳng được cộng thêm những điều cần thiết như Phạm Duy Quyết đã được cộng thêm, đời họ chỉ còn là hiệu số của những phép trừ, xót xa và thê thảm. Đơn giản là như thế mà thôi.
VÌ SAO DÒNG HỌ NGUYỄN Ở HUYỆN ĐÔNG NGÀN ĐẠI PHÁT DANH NHO?
Dòng họ Nguyễn ở huyện Đông Ngàn (nay thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc) có đến mấy chục người đỗ đạt cao. Tiến sĩ Vũ Phương Đề trong bộ sách nổi tiếng của ông viết vào khoảng nửa đầu thế kỉ thứ 18 là Công dư tiệp kí, cho rằng, tất cả đều nhờ ở đại đức của tiên tổ dòng học này là cụ Phạm Duy Quyết Xin giới thiệu một đoạn trong sách nói trên, kèm theo lời chủ ngắn ngủi rằng: Phạm Duy Quyết là họ chứ không phải tên.
Cụ (Phúc Mại) dựng nhà tại xã Đông Lâu, thuộc tình Hà Bắc cũ -NKT) và sống bằng nghề nấu rượu. Gia đình hàng xóm gần nơi cụ ở có cây bồ đề lâu năm, một hôm, chẳng may bị bão đánh đổ nên cụ đến xin mua để lấy củi nấu rượu. Khi đào gốc, cụ thấy có ba hũ bạc, bèn lẳng lặng đem về giấu kín không cho ai biết. ít lâu sau, cụ dời nhà đi chỗ khác ở.
Bỗng độ ba, bốn năm sau, chẳng dè có người từ bên Tàu sang, tìm đến chỗ chôn bạc của tổ tiên xưa, thấy dấu cũ còn đó, lỗ chôn bạc cũng còn đó mà các hũ bạc thì đã biến mất. Họ hỏi những gia đình bên cạnh thì ai ai cũng đoán rằng cụ nấu rượu năm trước đã lấy mất rồi. Họ bèn đến thẳng nhà cụ, xuất trình gia phả cùng các thứ giấy tờ rồi thưa:
- Tổ tiên chúng tôi ngày trước có chôn ít bạc ở đấy, nay chúng tôi đến lấy, chẳng ngờ số bạc đó đã về tay cụ rồi. Chúng tôi chẳng dám trách cứ gì, chỉ xin cụ nghĩ lại, bởi vì nay mai chúng tôi đã phải trở về quê hương mà tiền lương đã cạn, mong cụ cảm thương mà giúp cho chút ít lộ phí. Chúng tôi nguyện chẳng dám quên ơn.
Phần cụ Phạm Duy Quyết, từ khi đào được kho bạc cho tới lúc ấy vẫn đem giấu kín một nơi chứ chưa hề đụng tới, chẳng rõ trong đó có bao nhiêu. Mở gia phả rồi kiểm tiền, thấy đúng con số đã ghi, cụ liền giữ người Tàu ấy lại, tiếp đãi ân cần rồi nói:
-Số bạc kia quả là tôi đã đào được nhưng vẫn cứ giấu kín chưa hề tiêu mất chút nào. Nay chú sang đây tức là của lại trở về chủ cũ của nó. Tôi xin trả hết chứ chẳng giữ làm gì.
Người Tàu nghe cụ nói vậy, lòng như mở cờ nhưng cũng chẳng dám nhận ngay, bèn hỏi:
-Thưa cụ, thấy hũ bạc này đúng là của tổ tiên chúng tôi để lại, nhưng, nay Trời đã trao cho cụ thì tức là của cụ. Cụ ban cho chút ít để làm lộ phí đã là may mắn lắm rồi, chúng tôi đâu dám nhận lại tất cả như thế.
Nói vậy, nhưng cụ vẫn dứt khoát không nghe. Người Tàu đề nghị chia đôi, họ một nửa, cụ một nửa, nhưng cụ vẫn không chịu. Cụ nói:
-Tôi nào phải là người không biết quý tiền bạc, chí vỉ bạc đó không phải của mình, chẳng qua Trời sai tôi giữ lại để đợi chủ đó thôi. Chú cứ nhận đủ số đem về thì hơn.
Người Tàu biết không thể nào ép được, bèn nhận bạc đem về. Tới quê nhà, gặp ai ông ta cũng kể chuyện cụ già nước Nam đức độ. Bấy giờ, có thầy địa lí rất giỏi, nghe chuyện cũng khen cụ là đấng hiếm có, rồi than rằng:
-Tiếc là ta đã già chứ ví thử còn trai tráng, thế nào ta cũng quyết tìm hộ người ấy một ngôi huyệt tốt để báo ơn.
Người Tàu nghe thầy địa lí nói thế thì khấn khoản mời đi, nhưng thầy địa lí đã quá già. Thầy nói:
-Ta có hai môn đệ cũng là học được bí truyền, thôi thì ta sai họ đi với bác vậy.
Cả ba cùng sang nước ta, tìm đến nhà cụ bán rượu, nhưng lúc ấy cụ đã mất được hơn một năm. Họ biện lễ phúng điếu rồi ra đi, mãi đến vài ba tháng mới quay trở lại và nói với người con trai lớn của cụ rằng:
-Truớc đây, chúng tôi chịu ơn của cụ rất nhiều mà không có cách gì để báo đáp lại. Nay, tôi mời được hai thầy địa lí cùng sang đây và đã tìm được mấy ngôi huyệt tốt. Ngôi thứ nhất có núi chầu về, sau sẽ phát đế vương nhưng chỉ được một đời là hết. Ngôi thứ hai hình đoá sen, phát được một đời là Phò mã. Vậy, cậu nhận ngôi nào?
Người con trai của cụ (Phạm Duy Quyết) đáp:
-Chúng tôi ở nơi thôn đã, không dám hi vọng cao xa, chỉ mong được ngôi nào đời đời phát văn Nho là đủ.
Hai thầy địa lí đáp:
-Vậy thì có khó gì, chẳng cần tìm đâu xa cho mệt. Tôi thấy thôn nhà ta đây cũng có long mạch từ xã cẩm Chương kéo đến, đi uốn khúc như con hoàng xà, đến xã Vịnh cầu thì ngóc lên, đột khởi thành hai cái gò, gò lớn bằng phẳng, gò nhỏ hơi cong cong. Thầy cả cho rằng huyệt kết ở gò lớn, còn thầy hai không tin, bèn lặn lội tìm mãi rồi quả quyết là huyệt kết ở cái gò nhỏ. Hai thầy không ai chịu, bèn hoạ lại kiểu đất, sai người đem về Trung Quốc để hỏi sư phụ của mình. Sư phụ coi bản đồ, nói:
-Đó là kiếu hoàng xà thính cấp (nghĩa là con hoàng xà lắng nghe tiếng của con nhái), mà lúc lắng nghe thì tinh thần tập trung hết ở lỗ tai, vậy thì khí huyết ở lỗ tai. Hai cái gò đất là hai cái tai. Gò lớn mà phẳng là cái tai đã bị điếc, còn như cái gò nhỏ mà hơi cong là gò có khí huyết tụ lại, tức là tai lành. Huyệt ở cái gò nhỏ.
Sau khi nhận được lời chỉ bảo của sư phụ, hai môn đệ lập tức bảo người con trai của cụ, cải táng thi hài cụ vào cái gò nhỏ. Ngôi huyệt ấy toạ lạc ở hướng cẩn (tức hướng Đông Bắc -NK.T), trông ra hướng Khôn (hướng Tây Nam -NKT).
Đến đời thứ ba (cháu nội -NKT) có ông Nguyễn Văn Huy đỗ Thám hoa khoa Kỷ Sửu (1229) thời nhà Mạc, làm quan đến chức Thượng thư rồi về trí sĩ. Con thứ ba của Nguyễn Văn Huy là Nguyễn Trọng Quýnh đỗ Hoàng giáp khoa Đinh Mùi (1547), tức là vào thời Vĩnh Định (vua Phạm Duy Quyết Nguyên), sau cũng làm quan đến chức Thượng thư. Người em của ông Nguyễn Trọng Quýnh là Nguyễn Đạt Thiên, mới mười tám tuổi đã đỗ Hoàng giáp khoa Kỷ Mùi (1559), niên hiệu Quang Bảo nhà Mạc, sau làm quan đến chức Đô Khoa cấp Sự Trung. Em của Nguyễn Trọng Quýnh và Nguyễn Đạt Thiện là Nguyễn Hiển Tích cũng đồ Tiến sĩ khoa Ất Sửu, niên hiệu Thuần Phúc thời Lê trung hưng (tóc năm 1565 - NK.T), sau làm quan đến chức Thị Lang...
Sách trên còn thống kê thêm một loạt những bậc danh Nho thuộc hàng chắt, hàng chiu của cụ Phạm Duy Quyết, nhưng thiết nghĩ, trích dịch ngần ấy kể cũng đã đủ kính nể lắm rồi. Chẳng hay, hậu duệ của cụ Phạm Duy Quyết hiện thời ra sao, cũng chẳng hay, đọc đến đoạn này, bạn sẽ nghĩ gì về đức lớn của những người làm cha, làm mẹ?
THẦY TRÒ CÙNG DỰ THI, TRÒ ĐỖ TRẠNG NGUYÊN, THẦY ĐỖ HOÀNG GIÁP
Năm Nhâm Tuất, niên hiệu Quang Bảo thứ 9 (1562), triều đình Mạc Hậu Hợp tổ chức thi Hội, lấy đỗ 18 người, gồm một Trạng nguyên, một Bảng nhãn, một Thám hoa, năm Hoàng giáp và mười Tiến sĩ. Trạng nguyên khoa này là Phạm Duy Quyết, người xã Xác Khuê, huyện Chí Linh (nay là thôn Kim Khê, xã Cộng Hoà, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Và một trong số năm vị Hoàng giáp của khoa này là Nguyễn Khắc Kính, người làng Thanh Hoài, huyện Siêu Loại (nay là thôn Thanh Hoài, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tình Bấc Ninh). Nguyễn Khắc Kính cũng chính là thầy giáo của Phạm Duy Quyết.
Dã sử cho hay, khi Phạm Duy Quyết mới lên tám tuổi, cha ông đã xuất gia tu hành theo đạo Phật, việc nuôi dạy con đều do mẹ ông đảm đương. Vì gia cảnh khó khăn, cho nên mãi đến lúc đã vào tuổi tráng niên, Phạm Duy Quyết vẫn chưa biết chữ. Thấy mặt ông rất sáng sửa, xóm làng ai ai cũng khuyên mẹ ông gắng cho ông ăn học, nghe lời, mẹ ông dẫn ông tới tận đất Siêu Loại, xin được thọ giáo thầy đồ đang dạy học ở đấy là Nguyễn Khắc Kính. Bấy giờ Nguyễn Khắc Kính tiếng là thầy nhưng còn rất trẻ, kém Phạm Duy Quyết đến hơn một chục tuổi. Mẹ Phạm Duy Quyết thấy vậy thì lấy làm lúng túng, liền hỏi rằng:
-Bẩm thầy, tôi muốn xin thầy cho đứa con này được thọ giáo, vậy xin thầy cho biết, tôi phải sắm lễ vật gì.
Nguyễn Khắc Kính nói:
-Cái chính là ở tâm thành, còn như lễ vật thì tuỳ sức và tuỳ ý.
Bà lại hỏi:
-Gia sản tôi chỉ có một con trâu là đáng giá. Nhưng, vì vui mừng thấy con mình được đi học, tôi xin mồ trâu làm lễ, thầy liệu có được chăng?
Nguyễn Khắc Kính không nói gì. Thế rồi, bà sai mổ trâu cúng Tiên sư thật. Dâng lễ cúng Tiên sư xong, Nguyễn Khắc Kính liền lấy giấy bút để ghi tên học trò mới. Khi nghe người mẹ đọc họ và tên của con bà, Nguyễn Khắc Kính rất lấy làm kinh sợ. Nguyên do là trước đó, ông nằm mơ, thấy thần nhân đến nói cho biết, phải đợi đến năm 31 tuổi ông mới đỗ đại khoa, mà cũng chỉ đỗ được đến Hoàng giáp (tức là đỗ hàng thứ tư, sau Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa nhưng ở trên Tiến sĩ), còn như ngôi vị Trạng nguyên thì đã thuộc về Phạm Duy Quyết!
Nhập học rồi, thấy Phạm Duy Quyết sáng dạ một cách kì lạ, Nguyễn Khắc Kính rất lấy làm hài lòng. Khoa thi Hội năm Nhâm Tuất (1562), thầy trò cũng ứng thí và cùng đổ cao. Trước khi vào thi Đình, Nguyễn Khắc Kính thử vận, liền vờ nói với học trò Phạm Duy Quyết rằng:
-Thôi, ngôi vị Trạng nguyên khoa này, anh hãy nhường cho ta đi.
Phạm Duy Quyết vui vẻ bằng lòng. Nhưng, vừa nhận đề thi xong, Nguyễn Khắc Kính bị đau bụng quằn quại, không sao có thể làm bài nổi. Mãi đến gần trưa, chợt nhớ đến giấc mộng thuở trước, Nguyễn Khắc Kính liền khấn trời đất rằng:
-Con không dám giành ngôi Trạng nguyên với học trò của con là Phạm Duy Quyết nữa, xin thần linh khắp đất rộng trời cao, chứng giám và phù hộ cho con để con có thể làm cho xong bài thi.
Khấn xong, bỗng dưng Nguyễn Khắc Kính liền khỏi đau và rốt cuộc cũng làm xong bài, nhưng không thể sánh với bài của Phạm Duy Quyết được, vì thế, ông chỉ đỗ Hoàng giáp mà thôi. Năm đó, ông vừa 31 tuổi còn học trò của ông là Phạm Duy Quyết thì đã 42 tuổi rồi.
Sau khi đỗ đạt, Phạm Duy Quyết làm quan trải thăng dần đến hàm Đông Các Đại Học Sĩ (tức là một trong tứ trụ của triều đình) còn Nguyễn Khắc Kính thì được phong dần tới chức Thượng thư.
Dân gian đương thời bàn rằng, sở dĩ Phạm Duy Quyết tiến một mạch thật nhanh, ấy là bởi mẹ ông cúng Tiên sư nguyên cả một con trâu. Sức trâu bao giờ cũng hơn sức người, ruộng văn chương dẫu lớn thì cũng chỉ cày mấy năm là xong.
Ngộ thay!
- 6 -
Có một mối tình như thể!
Thời nhà Mạc có ông Hoàng Sầm, nguời xã Thù Sơn, huyện Hiệp Hoà, sau ông dời nhà đến xã Quế Trạo, cũng ở huyện nói trên. (Nay, đất làng quê ông thuộc xóm Giếng, xã Hoà Sơn, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang). Tổ tiên ông đời đời là nông dân. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo, cha mất sớm, gia sản chỉ có mấy sào ruộng, hai mẹ con ông nương tựa nhau mà sống. Mãi đến năm ngoài hai mươi tuổi, ông vẫn chưa biết chữ. Sách Tang thương ngẫu lục chép rằng:
“Bấy giờ ở huyện ông có quan Thượng thư Nguyễn Doãn Địch (đỗ Tiến sĩ khoa Tân Sửu, năm Hồng Đức thứ 12, tức là năm 1481 -NKT) về làng trí sĩ. Quan huyện sở tại bắt dân phu phải đi đón rước. Hoàng Sầm cũng là một trong số những dân phu ấy. Ông bị sung vào chân khiêng kiệu cho cô con gái của quan Thượng thư. Khi khiêng kiệu, ông liếc mắt thấy tiểu thư nhan sắc tuyệt vời, lòng rung động khó tả. Về nhà, ông nói với mẹ là muốn cưới cô tiểu thư làm vợ. Người mẹ cười, nói là không được, ông không nghe, mua buồng cau, cố nài mẹ phải đi dạm hỏi cho mình, nhưng lại sợ mẹ nói dối, nên đi bám theo sau mẹ. Bà mẹ không muốn, nhưng cũng sợ con buồn, bèn đến đứng trước cửa nhà quan Thượng thư, lần lừa mãi mà chẳng dám vào. Quan Thượng thư lấy làm lạ, liền cho gọi vào để hỏi. Bà mẹ kêu xin quan tha tội cho, vì chẳng qua bà bị con thúc ép. Quan Thượng thư cười, nói rằng:
-Không sao cả.
Nói rồi, quan cho gọi ông đến để xem ông là người thế nào. Ông mặc mỗi chiếc quần đùi, đến sụp lạy trước thềm nhà. Quan Thượng thư nói:
-Con gái nhà quan, có đâu lại gả cho một kè bạch đinh. Hễ sau này anh làm nên sự nghiệp như ta, anh mới có thể lấy con gái ta được.
Ông lạy hai lạy rồi thưa:
-Xin vâng mệnh quan lớn, nhưng cũng mong quan lớn giữ lời hứa cho.
Về nhà, ông giấu mẹ, bán trộm một sào ruộng được ba mươi quan, lần đường tới kinh đô, xin làm học trò của một bậc danh nho. Ba năm sau, ông đã giỏi lắm, nhân đó, lấy cớ là học trò bị bỏ sót tên, đến xin quan huyện Hiệp Hoà cho được khảo thí. Ông trúng ở trường Huyện, rồi đi thi Hương, đỗ Giải Nguyên (tức đỗ đầu hàng Hương cống, cống sĩ hay Cũ nhân -NK.T). Xong, ông nhờ người về báo cho quan Thượng thư, xin quan chớ sai lời ước cũ, rồi lại về kinh đô dự thi Hội.
Bấy giờ, con gái của quan Thượng thư, tuy cũng đã có mấy đám đến dạm hỏi, nhưng chưa ưng ý ai, vẫn còn ở nhà. Khoa Mậu Tuất, niên hiệu Đại Chính (tức năm 1538 - NK.T) ông 27 tuổi (tính theo tuổi ta -NKT), đỗ Thám hoa. (Khoa này, Giáp Hải đổ Trạng nguyên, Trần Toại đỗ Bảng nhãn và Hoàng Sầm đỗ Thám hoa -NK.T). Hôm vinh quy, ông về làm đám cưới ngay giữa sân nhà quan Thượng thư, người làng ai cũng cho là một sự vinh hạnh hiếm có.
Sau, ông làm quan, được phong tới chức Lê Bộ Tả Thị Lang, tước Hoành Phúc Bá.”
Hình ảnh chàng thanh niên Hoàng Sầm, mặc mỗi chiếc quần đùi, quỳ lạy dưới thềm nhà quan Thượng thư trí sĩ là Nguyễn Doãn Địch, thương hại biết là bao! Nhưng, kẻ phàm phu chỉ thấy được cái vẻ bề ngoài khốn khổ, chẳng thể thấy chí lớn của Hoàng Sầm. Hoá ra, sức mạnh của tình yêu thật khó mà lường được, đủ để biến một anh dân phu quê mùa trở thành một vị Thám hoa tài giỏi, đủ để một người như Hoàng Sầm có thể vượt qua chặng đường đèn sách, từ chỗ chưa biết gì đến hàng tột cùng vinh hiển mà chỉ mất có ba năm. Có một mối tinh như thế, nhưng, cổ kim nào phải chỉ có một mối tinh như thế. Lạ thay, tình yêu!
CHUYỆN LI KÌ VỀ THỜI TRAI TRẺ CỦA TRẠNG NGUYÊN GIÁP HẢI
Giáp Hải (sau đổi gọi là Giáp Trưng), sinh năm Đinh Mão (1507) tại làng Công Luận, huyện Văn Giang (thuộc Hà Bắc cũ), nhưng trưởng thành lại ở làng Dĩnh Kế, huyện Phượng Nhãn (nay là xã Dĩnh Trì, huyện Lạng Giang, tĩnh Bắc Giang), đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Tuất (1538), đời Mạc Thái Tông, mất năm Bính Tuất (1586), thọ 79 tuổi. Sau khi đỗ đạt, Giáp Hải làm quan cho nhà Mạc, được phong dần lên đến chức Lục Bộ Thượng thư, kiêm Đông Các Đại Học Sĩ, hàm Thái Bảo, tước Sách Quốc Công. Sinh thời, ông là bậc quyền cao chức trọng, danh vọng khó ai bì và có lẽ cũng chính vì thế mà người đời không ngớt truyền tụng những chuyện li kì về ông. Dưới đây là một trong số những chuyện về thời trai trẻ Trạng nguyên Giáp Hải.
Dân gian kể rằng, sau khi đã thọ giáo với các nhà Nho mở trường dạy học ở làng và ở huyện, Giáp Hải được gia đình gửi đến kinh thành Thăng Long để học tập và chuẩn bị dự thi. Ông mướn được một căn nhà nhỏ ở gần bến Bồ Đề (Gia Lâm, Hà Nội) và nghỉ trọ tại đó một mình. Ngày ngày Giáp Hải phải đi đò qua bên kia sông Hồng để học. Một hôm, khi đến bến Bồ Đề, ông chợt thấy người ta bắt được một con rùa rất đẹp và đang định đem làm thịt ăn. Cho rằng ăn thịt một con rùa xinh đẹp như thế là quá bất nhẫn, Giáp Hải liền đến nài nỉ xin mua lại. Ông phải trả một giá tiền khá cao mới mua được con rùa ấy. Đem rùa về để trong nhà vào cho rùa ăn uống đâu đó rồi, Giáp Hải mới đến trường để học. Từ đó trở đi, con rùa xinh đẹp và bé nhỏ là người bạn thân thiết của Giáp Hải. Khoảng một thời gian ngắn sau, mỗi lần đi học về, Giáp Hải đã thấy cơm canh dọn sẵn, nhà cửa sạch sẽ và gọn gàng, dò la thăm hỏi cũng không biết rằng ai đã cất công giúp đỡ. Ông quyết chí tìm cho ra sự thực. Thế rồi vào một ngày nọ, ông giả vờ đi học như thường lệ, nhưng đến chừng giữa buổi thì quay lại, núp kín ở một góc gần nhà mình để chờ. Bỗng Giáp Hải thấy một cô gái đẹp tuyệt trần, tuổi chừng mười tám đôi mươi, tự dưng hiện ra trong nhà mình. Cô lặng lẽ cầm chổi quét dọn và nhóm bếp nấu cơm. Đúng lúc đó cô đang mải mê làm việc thì Giáp Hải lén đến, ôm chầm lấy cô và nói:
-Chẳng phải cô là hạng sàm sỡ, nhưng... xin cô tha lỗi cho, tôi muốn giữ cô lại để hỏi cho ra lẽ, rằng cô từ đâu đến và tại sao cô lại bí mật giúp đỡ tôi thế này. Chừng nào chưa rõ thực hư, tôi quyết không thể nào buông cô ra được.
Cô gái từ tốn thưa:
-Xin chàng đừng làm thế. Thiếp không trốn đi đâu. Sự thật đã ra thế này thì thiếp cũng chẳng giấu chàng làm gì nữa. Thiếp vốn là con gái của Đông Hải Đại Vương, vì mải vui nên bị người đánh lưới bắt được. Hẳn chàng còn nhớ con rùa bé nhỏ mà chàng đã bỏ cả một khoản tiền lớn ra để mua về nhà và chăm sóc tử tế chứ. Con rùa bé nhỏ tội nghiệp ấy chính là thiếp đây. Cảm ơn sâu nghĩa nặng, thiếp đã thuận lòng ở lại với chàng và bạo dạn giúp chàng đôi chút việc nhà lặt vặt.
Giáp Hải nghe cô gái nói vậy thì buông tay ra và lấy cái mai rùa đem giấu đi. Từ đó, hai người ăn ở với nhau như vợ chồng. Một hôm, cô gái thỏ thẻ nói với Giáp Hải rằng:
-Thiếp với chàng có duyên nợ với nhau, nhưng kẻ dương gian, người thuỷ phủ, đôi đường cách biệt, thật bất tiện vô cùng. Nay nếu thiếp ở lại mãi với chàng thì sợ rằng thân phụ sẽ trách phạt, mà về thuỷ phủ một mình thì thiếp lại chẳng cam lòng. Vậy, xin chàng hãy cùng đi với thiếp, trước là để ra mắt song thân, sau là để thiếp có dịp báo đáp ơn đức cho chàng.
Giáp Hải nói:
-Lời nàng nói thật hay, nhưng ta nay còn nuôi chí lập công danh qua đường khoa bảng, nếu đi cùng nàng thì chẳng có lẽ bỏ lỡ cả việc học hành hay sao?
Cô gái nói:
-Xin chàng chớ có lo. Dưới thuỷ phù cũng có nhiều trường. Cạnh nơi thiếp ở là trường của Trạng nguyên Lương Thế Vinh đấy. Từ ngày tạ thế về với âm cung, Trạng nguyên Lương Thế Vinh được mời đến giảng học cho thuỷ phủ của thân phụ thiếp.
Nghe vậy, Giáp Hải liền đồng ý đi. Ông lấy mai rùa trả lại cho cô gái. Thoắt một cái, cô đã trở lại thành rùa, rẽ nước đưa Giáp Hải xuống thuỷ phủ. Đến nơi, Giáp Hải được Đông Hải Đại Vương đón tiếp rất nồng hậu. Ông được coi là rể quý của Đông Hải Đại Vương. Ít hôm sau, Giáp Hải đến xin thọ giáo Trạng nguyên Lương Thế Vinh. Vừa thấy Giáp Hải, Trạng nguyên Lương Thế Vinh đã nói:
-Con hẳn không phai là người của thủy phù. Vậy, ai đã đưa con đến đây?
Giáp Hải cứ tình thực kể hết đầu đuôi mọi chuyện. Nghe xong, Trạng nguyên Lương Thế Vinh nói:
-Trời đã định cho con đỗ Trạng nguyên và trao cho quyền cao chức trọng. Con hãy về ngay, đừng nấn ná làm gì nữa. Trốn tránh phận trời đã định làm sao được?
Giáp Hải cung kính vâng lời. Đông Hải Đại Vương sai con gái lo lắng cho ông mọi sự một cách chu tất rồi đưa ông trở về dương thế. Ông đến kinh đô vừa kịp lúc đó có khoa thi Hội. Giáp Hải ứng thí và đỗ đạt như đã nói ở trên. Sau khi được vinh hiển với đời, Giáp Hải thường đến xã Cao Hương, huyện Thiên Bản để làm lễ bái tạ trước mộ Trạng nguyên Lương Thế Vinh...
Bạn nghĩ gì về câu chuyện li kì và đượm màu huyền bí ở trên? Có người bàn rằng, sắc đẹp mê hồn của con gái Đông Hải Đại Vương vẫn không hề làm Giáp Hải sao nhãng việc học, sự sang giàu phú quý của thuỷ phủ cũng không khiến Giáp Hải lơ là việc đèn sách, người như ông mà chiếm bảng khôi nguyên thì có gì là lạ đâu? Giáp Hải liều xuống thủy phủ chi vì tin rằng ở đó có trường của đấng Trạng nguyên tài danh đã quá cố là Lương Thế Vinh và Giáp Hải rời thuỷ phủ cũng chỉ vì... một lời khuyên của hồn thiêng Lương Thế Vinh, xem thế cũng đủ biết, tiếng tăm của Lương Thế Vinh ảnh hưởng tới Giáp Hải mạnh mẽ biết là ngần nào!
Muôn đời vẫn vậy, dốc chí “tầm sư học đạo ” đã là khó, nghiêm cẩn làm theo lời khuyên của bậc tôn sư lại càng khó hơn. Bất cứ ai làm được cả hai việc khó ấy cũng đều có thể trở thành người tài. Triết lí của thiên cổ, thực ra cũng chỉ đơn giản như vậy mà thôi. Như Giáp Hải... thử ngẫm mà xem.
VỤ XÉT ÁN ĐẲU NĂM CỦA QUẬN CÔNG LÊ ĐÌNH KIÊN
Dưới thời trị vì của vua Lê Huyền Tông (1662 - 1671) và chúa Trịnh Tạc (1657 - 1682), có Quận công Lê Đình Kiên là người nổi tiếng xét án thông minh, chính xác và công bằng. Ông là người làng Bái Trại, huyện Yên Định, Thanh Hoá, sinh và mất năm nào chưa rõ. Tháng 9 năm Kỉ Dậu (1669), ông được bố làm Trấn Thủ trấn Sơn Nam. Tại đây, Tết năm Canh Tuất (1670), Quận công Lê Đình Kiên đã xét xử một vụ án rất nổi tiếng. Nhiều bộ dã sử, trong đó có Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn đã ghi chép lại khá tỉ mỉ vụ án này. Xin tổng hợp và lược thuật như sau:
Khi ấy ở trấn Sơn Nam có vợ một người phường chèo nọ nhan sắc rất mặn mòi. Ngày Tết là ngày vợ chồng anh phường chèo liên tục phải đi hát xướng khắp mọi nơi, vì thế, tiếng tăm về nhan sắc của vợ anh phường chéo cũng theo đó mà truyền đi ngày một xa. Một hôm, có một khách buôn người Trung Quốc trông thấy, cầm lòng không được, bèn bỏ ra thật nhiều tiền để mời cả hai vợ chồng anh phường chèo xuống thuyền ca hát. Hắn cố chuốc rượu cho người chồng uống thật say rồi bắt người vợ giấu ở phía dưới cột buồm, bắt phải ngậm nhân sâm để khỏi bị tắt thở. Người chồng tỉnh rượu, không thấy vợ đâu nữa, bèn hốt hỏang đi tìm, nhưng người khách buôn lại nói là vợ anh ta đã lên bờ đi đâu rồi. Vì tìm mãi không thấy, anh phường chèo liền làm đơn gởi lên quan. Quận công Lê Đình Kiên bỏ cả chơi xuân, quyết xử cho bằng được vụ án đầy vẻ mờ ám này. Trước hết, ông sai lính đến lục soát khắp thuyền của tên khách buôn, nhưng vẫn không tìm thấy vợ của người phường chèo. Sau ông sai một võ quan thuộc hạ của mình là Duy Vũ, đem lính đến truy tìm lần nữa. Lần này, ông dặn trước với Duy Vũ rằng, hãy làm như thế, như thế,...
Thấy Duy Vũ đem lính tới, tên khách buôn hùng hổ, tuốt gươm ra và quát to lên rằng:
-Lần này, nếu tìm không được, ta sẽ giết anh.
Duy Vũ là người to lớn, lại có võ nghệ cao cường, bèn điềm tĩnh bước tới, giật phăng thanh gươm của tên khách buôn, trói anh ta lại rồi mắng rằng:
-Thế ra mày muốn chống lại lệnh quan trên hả?
Mắng xong, Duy Vũ cùng tốp lính bắt trói hết tất cả những người ở trong thuyền, giải về nạp Quận công Lê Đình Kiên. Quận công Lê Đình Kiên sai bắt giam mỗi người một nơi, lấy sẵn dụng cụ tra tấn ra để uy hiếp, thế mà chẳng có tên nào chịu thú nhận cả. Ông liền hạ lệnh bắt hai tên ra đánh cho mấy đòn thật đau, đồng thời, bắt một tên khách cho dẫn qua dẫn lại ở phía ngoài, cốt sao cho hắn trống thấy việc đồng bọn đang bị tra khảo. Xong, ống sai dẫn hai tên đã bị tra khảo đi nơi khác và dẫn tên chưa bị tra khảo vào và quát:
-Bọn kia bị tra khảo đã khai nhận hết mọi tội lỗi rồi, lời khai đã được ghi cả vào giấy tờ đây. Đến lượt mày, mày có nhận phần lỗi của mày hay lại giấu giếm chối cãi?
Quận công Lê Đình Kiên vừa nói vừa đưa tờ giấy cho người này thoáng thấy. Hắn hoang mang lo sợ, bèn khai hết đầu đuôi mọi chuyện. Quận công Lê Đình Kiên liền sai người giải hắn về thuyền, quả nhiên, tìm ở phía dưới cột buồm thì thấy vợ người phường chèo ở đó. Hết đường chối cãi, tên khách buôn bị phạt trượng (tức là bị đánh bằng gậy) và bị nộp phạt đến bảy chục dật bạc. (Mỗi dật tương đương với hai mươi bốn lạng, tức là tổng cộng lên đến 1.680 lượng bạc.)
Vụ án nói trên tuy không phải là lớn, nhưng xem ra cũng có không ít điều đáng để cho hậu thế suy gẫm. Truớc hết, đó tuy là thời loạn, nhưng, một người phường chèo thấp cổ bé miệng, bị người đương thời cho là hạng “xướng ca vô loài”, vẫn có thể dễ dàng tìm đến cửa quan (mà là quan cao cấp) với tất cả niềm tin cậy của mình. Chừng nào mà dân còn có thể dễ dàng đến với cửa quan để nhờ cậy, thì chừng đó, phép nước vẫn còn có ý nghĩa nhất định của nó
Vụ án xảy ra vào dịp Tết, dịp mà mọi án kiện ngục tụng đều tạm gác lại để các quan còn ngơi nghĩ và vui xuân, thế nhưng, Quận công Lê Đình Kiên vẫn không chút câu nệ. Ông gác ra ngoài tất cả để quyết xử nhanh, xử đúng tội trạng của kẻ gian manh. Đó là một điều đáng kính. Với Quận công Lê Đình Kiên, mạng người là rất quan trọng, cho dẫu đó là mạng của một người ở dưới đáy của xã hội. Vì mạng người, ông quyết không buông vũ khí công lí ở trong tay. Đó là hai điều đáng quý. Quan xét án mà gồm đủ cả hai điều đáng quý ấy thì đời tôn kính nhắc nhở, sách vở trân trọng ghi chép lại, kể cũng là lẽ tự nhiên.
LÒNG CƯƠNG TRỰC VÀ TÀI XÉT ÁN CỦA NỘI TÁN NGUYỄN KHOA ĐĂNG
Dưới thời trị vì của các chúa Nguyễn. Nội Tán là một trong những chức quan cao cấp của xứ Đàng Trong. Hẳn nhiên là có rất nhiều người từng được trao chức Nội Tán, nhưng, quan Nội Tán trẻ tuổi mà lừng danh hơn cả vẫn là Nguyễn Khoa Đăng, thậm chí, hễ nói đến Nội Tán là xã hội lại nghĩ ngay đến Nguyễn Khoa Đăng. Vậy, ông là người như thế nào? Sách Đại Nam liệt truyện (tiền biên, quyển 5) cho biết rằng...
Nguyễn Khoa Đăng là con thứ của Nguyễn Khoa Chiêm. Họ Nguyễn Khoa vốn dĩ là Nguyễn Đình, gốc ở Hải Dương. Thời Nguyễn Hoàng vào trấn thủ ở Thuận Hoá, dòng họ này có Nguyễn Đình Thân cũng đi theo. Đến nơi, Nguyễn Đình Thân định cư tại huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên và đổi gọi là Nguyễn Đình thành Nguyễn Khoa. Nguyễn Khoa Chiêm là đời thứ ba của của họ Nguyễn Khoa tại Hương Trà.
Nguyễn Khoa Chiêm là một văn tài của xứ Đàng Trong, ông là tác giả của bộ tiểu thuyết lịch sử Trịnh -Nguyễn diễn chí rất có giá trị. Sinh thời, Nguyễn Khoa Chiêm từng được chúa Nguyễn Phúc Chu phong đến tước Bảng Trung Hầu. Ông có hai người con trai rất nổi tiếng với đời, đó là Nguyễn Khoa Hợp và Nguyễn Khoa Đăng.
Nguyễn Khoa Đăng sinh năm Tân Mùi (1691). Lớn lên, vì là con nhà gia thế, ông được bổ làm Văn Chức. Nhờ bẩm tính thông minh lại có khả năng quyết đoán, cho nên, chẳng bao lâu sau khi nhận chức, Nguyễn Khoa Đăng đã được chúa Nguyễn để ý cất nhắc.
Năm Nhâm Dần (1722). khi vừa mới được 23 tuổi, Nguyễn Khoa Đăng đã được thăng làm Nội Tán, kiêm Án Sát Sứ, Tổng Tri Quân Quốc Trọng Sự. Đó là chức quan cao cấp mà nhiều người làm quan cả đời vẫn không dám mơ tới. Thường thường, trước khi cử hành việc lớn, Nguyễn Khoa Đăng luôn cân nhắc thật cẩn trọng, xong, vạch kế hoạch dâng lên, nếu được duyệt làm mới làm, mà đã làm là làm tới nơi tới chốn. Đại Nam liệt truyện đã trân trọng chép mấy sự kiện đặc biệt có liên quan trực tiếp tới Nguyễn Khoa Đăng.
Sự kiện thứ nhất diễn ra vào khoảng sau năm 1722 một chút. Sách này chép rằng: “Đường rừng Nhà Hồ (tức Hồ Xá) thường có kẻ cướp tụ họp, khiến cho người đi đường rất sợ hãi. Chúa biết chuyện ấy, liền sai Nguyễn Khoa Đăng đi kinh lí đặt ra phép bắt trộm cướp, mệnh lệnh rất nghiêm minh. Từ đó, bọn cướp im bặt. Bấy giờ, bờ biển Tam Giang, tức là xứ Bào Ngược (ở hai xã Vinh Xương và Kể Môn, thuộc huyện Quảng Điền) nước sâu mà sông thì cong, chảy xiết lắm. Vào mùa thu và mùa đông, nơi này hay có sóng to gió dữ. Thuyền đi qua thường bị đắm luôn. Nguyễn Khoa Đăng liền sai dân đào đất, nắn cho sông chảy thẳng, khiến cho nước bớt xoáy, thuyền bè qua lại dễ dàng hơn, khách buôn và nhân dân đều lấy đó làm tiện lợi nên không ngớt ca ngợi”...
Lời ca ngợi của nhân dân không chỉ truyền tụng một thời mà là mãi mãi. Về sự kiện thứ nhất này, hẳn bạn đã từng biết đến qua câu ca dao:
Thương em anh cũng muốn vô,
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang
Phá Tam Giang ngày nay đã cạn,
Truông nhà Hồ, Nội Tán cấm nghiêm.
Sự kiện thứ hai cũng diễn ra sau khi Nguyễn Khoa Đăng nhận chức Nội Tán, còn như vào năm cụ thể nào thì chưa rõ. Đại Nam liệt truyện chép:
“Nguyễn Khoa Đăng là người nghiêm giữ lòng ngay thẳng, không vị nể bất cứ ai, kể cả những nhà gia thế. Bấy giờ, nhiều hoàng thân quốc thích ăn chơi xa xi, thường vay mượn tiền kho, lâu ngày không chịu trả, Nguyễn Khoa Đăng liền xin đi đòi nợ. Trước khi đi, ông nói với Chúa rằng:
-Phép nước phải bắt đầu thực hiện từ người họ gần trước thì may ra việc mới thành công được.
Chúa vâng theo. Có một Trưởng Quận chúa nợ công quỹ rất nhiều mà quan lại không ai dám tới đòi. Nguyễn Khoa Đăng biết vậy, liền sai bọn thị tì rình lúc Trương Quận chúa đi ra thì tới níu xe lại mà đòi nợ. Bà ta giận quá vào cung kêu khóc với Chúa rằng:
-Chúa thượng chẳng lẽ không bênh vực chị mình ư? Nội Tán là gì mà dám làm như thế?
Chúa an ủi một lúc rồi nói:
-Phép nước phải bắt đầu thực hiện từ người họ gần trước. Nội Tán chấp hành đúng, biết nói thế nào được?
Nói xong, Chúa bèn cho chị minh tiền để trả, không dám chậm trễ nữa. Từ đó trở đi, những người còn mắc nợ liền đem tiền đến trả, không ai dám dây dưa như trước.”
Sự kiện thứ ba chép chuyện bốn lần xét án Nguyễn Khoa Đăng, Đại Nam liệt truyện chép rõ bốn lần xét án này như sau:
“Đời truyền là có người trồng dưa, đêm bị kẻ khác dùng xẻng phá huỷ đi. Không rõ kẻ đó là ai, nhưng chủ nhà vẫn đem việc lên kiện. Bấy giờ, Nguyễn Khoa Đăng liền sai thu hết xẻng của mọi nhà trong làng ấy đến và ra lệnh ghi rõ tên chủ nhân của từng chiếc xẻng. Xong, ông sai người liếm xẻng thì thấy một cái có vị đắng. Lập tức, Nguyễn Khoa Đăng cho bắt chủ chiếc xèng ấy ra tra khảo, quả nhiên đúng hắn là kẻ phá huỷ ruộng dưa.
Lại có chuyện người hàng dầu bị tên mù ăn trộm tiền. Tên mù lấy cớ là mù, không chịu nhận tội ăn trộm. Người hàng dầu đến kiện, Nguyễn Khoa Đăng liền đem số tiền trong túi tên mù thả xuống nước, thì thấy quả nhiên có váng dầu nổi lên. Tên mù khi ấy mới chịu, còn mọi người thì ai cũng phục.
Chuyện khác kể rằng, ở truông nhà Hồ có vụ án lái buôn đi buôn giấy bị bọn bất lương cướp mất hàng mà chẳng để lại dấu vết gì cả. Người lái buôn đem việc ấy đi thưa kiện.
Nguyễn Khoa Đăng bình tĩnh sai dân trong vùng, mỗi người phải lấy giấy kê rõ họ tên quê quán của mình. Giá giấy vì thế mà đắt lên. Bọn kẻ cướp nhân đó đem giấy ra bán. Vụ án nhờ vậy mà nhanh chóng được phanh phui.
Có một vụ án, Nguyễn Khoa Đăng đã dò la được họ tên của bọn cướp, nhưng (vì chưa có chứng cớ rõ ràng) nên vờ như không biết. Nhân đầu làng ấy có một tảng đá to, dân làng vẫn thờ làm thần, Nguyễn Khoa Đăng liền nghĩ ra một mưu kế. Ông sai người bí mật đào hầm ở giữa sân, phía trên che kín, phía dưới cho người núp sẵn, xong, hạ lệnh đem tảng đá thần đến để cho ông... xét xử. Nguyễn Khoa Đăng vừa tra khảo, vừa hỏi họ tên kẻ cướp. Người núp sẵn dưới tảng đá vừa than khóc kêu đau, vừa khai vanh vách họ tên kẻ cướp. Nguyễn Khoa Đăng liền sai bắt, chúng đều nhận tội hết.
Năm 1725, Nguyễn Cửu Thế vốn có thù ghét với ông, nhân lúc chúa Nguyễn Phúc Chu qua đời, đã lập mưu giết hại ông. Năm ấy, Nguyễn Khoa Đăng mới vừa 34 tuổi. Tiếc thay!
SAU HAI VỤ ÁN, NGHĨ VỀ CHÂN TƯỚNG CỦA NGUYỄN CỬU THẾ
Nguyễn Cửu Thế là cháu nội của Nguyễn Cửu Kiều (1599 -1656) và là con của Nguyễn Cửu Ứng (1634 -1705). Họ Nguyễn Cửu này vốn gốc ở huyện Tống Sơn (Thanh Hoá) rất được chúa Nguyễn tin dùng, ông và cha của Nguyễn Cửu Thế đều là tướng lĩnh cao cấp của chúa Nguyễn. Riêng Nguyễn Cửu Kiều còn được kết hôn với Quận Chúa Nguyễn Thị Ngọc Đinh, tức là được làm con rể của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Đáp lại sự tin cậy của các chúa Nguyễn, dòng họ Nguyễn Cửu cũng luôn luôn bày tỏ sự trung thành tuyệt đối của mình.
Nhờ có tiếng tốt của ông và cha, ngay khi vừa mới bước vào độ tuổi trưởng thành, Nguyễn Cửu Thế đã được chúa Nguyễn Phúc Trăn ban ơn, cho được hưởng chế độ tập ấm, trao chức Quản đội của đội Tiểu Sai (chức quan võ bậc thấp trong phủ chúa đương thời). Sau, Nguyễn Cửu Thế được phong dần lên đến chức Chưởng Cơ là chức võ quan cao cấp nhất của xứ Đàng Trong.
Tiếc thay, khi đã có danh vọng lớn với đời, Nguyễn Cửu Thế lại là người thất đức. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện (Tiền biên, quyển 4) chép chuyện Nguyễn Cửu Thế, trong đó có nói đến sự liên luỵ của Nguyễn Cửu Thế đối với hai vụ án lớn. Xin được tóm lược như sau:
Vụ án thứ nhất xảy ra vào năm Kỷ Sửu (1709). Bấy giờ, em ruột của Nguyễn Cửu Thế là Nguyễn Cửu Khâm cùng với quan Nội Hữu Chưởng Doanh là Tống Phúc Thiệu, vì không bằng lòng với chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 -1725) cho nên đã lỡ lời nói xấu Chúa. Biết được chuyện này, thay vì chân thành khuyên bảo em, Nguyễn Cửu Thế lại thêu dệt thành chuyện mưu phản rồi tâu lên Chúa. Sách trên có đoạn nguyên văn (phiên dịch) như sau: “Nhằm ngày đầu năm, phủ Chúa có lễ đại duyệt, sau khi các quan làm lễ chầu hầu xong. Chúa bèn xuống chỉ bắt ngay bọn (Nguyễn Cửu) Khâm và (Tống Phúc) Thiệu để giao cho đình thần tra xét. Chúng đều nhận tội. Xét thấy (Nguyễn Cửu) Khâm là kè chủ mưu, đình thần khép vào tội phải xử tử, (Tống Phúc) Thiệu là kẻ a tòng thì bị phế làm thứ dân. Chúa cho rằng (Nguyễn) Cửu Thế là người biết lo dẹp yên nội loạn, bèn cho thăng làm Nội Hữu Chưởng Doanh. Chúa lại còn riêng tặng cho (Nguyễn Cửu Thế) đôi câu đối (phiên âm) như sau:
Vi đống, vi lương, trọng trấn Nam triều lương Hữu Bật;
Thức kim, thức ngọc, tráng ngô Quốc Lão điện bàn an.
Nghĩa là:
Làm cột, làm rường, trọng trấn Nam triều như Hữu Bật;
Tựa vàng, tựa ngọc, xứng thay Quốc Lão vững bàn an.
Sau lời đặc biệt khen ngợi này, Chúa còn vui đem Quận chúa Nguyễn Thị Ngọc Phượng, trước đã định gả cho (Tống Phúc) Thiệu mà gả cho (Nguyễn) Cửu Thế.”
Vụ án thứ hai xảy ra vào mùa hạ năm Ất Tị (1725). Bấy giờ ở xứ Đàng Trong có dòng họ Nguyễn Khoa cũng rất nổi tiếng. Họ Nguyễn Khoa nguyên là họ Nguyễn Đình, tổ tiên người gốc Hải Dương. Người đầu tiên vào xứ Đàng Trong là Nguyễn Đình Thân, ông nhập tịch ở huyện Hương Trà (nay thuộc Thừa Thiên -Huế). Con của Nguyễn Đình Thân là Nguyễn Khoa Chiêm, từng làm quan tới chức Tham Chánh Doãn Sự. Con của Nguyễn Khoa Chiêm là Nguyễn Khoa Đăng, ngay từ lúc còn rất trẻ đã nổi tiếng tài hoa. Năm 1722, khi vừa tròn 30 tuổi, Nguyễn Khoa Đăng đã được phong tới chức Nội Tán kiêm Án Sát Sứ, Tống Trị Quân Quốc Trọng Sự. Hẳn bạn đã từng nghe câu ca dao:
Thương em anh cũng muốn vô,
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang
Phá Tam Giang ngày nay đã cạn,
Truông nhà Hồ, Nội Tán cấm nghiêm.
Truông nhà Hồ ở Hồ Xá (Quảng Bình) là nơi lắm trộm cướp. Phá Tam Giang ở Quảng Điền (Thừa Thiên -Huế) là nơi lắm gió to sóng dữ. Và, Nội Tán chính là Nguyễn Khoa Đăng, người có tài trị dân, khiến cho vùng truông nhà Hồ được bình yên. Cũng trong sách đã dẫn ở trên có đoạn:
“Quan giữ chức Nội Tán là Nguyễn Khoa Đăng vốn tính trung trực, luôn lo giữ nghiêm phép nước, cho nên, (Nguyễn) Cửu Thế lấy làm ghét, bèn tìm cách để buộc tội. Mùa hạ năm Ất Tị (tức là năm 1725 -NK.T), sau khi Hiển Tông (tức Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu) qua đời, (Nguyễn Cửu) Thế bèn phao tin rằng (Nguyễn Khoa) Đăng mật sai bọn cung nhân (trong phủ Chúa), lấy ấn truyền quốc làm bằng vàng đem cất giấu đi, cốt mưu việc phế lập. Nguyễn Cửu Thế còn giả làm di mệnh của Chúa, cho triệu (Nguyễn Khoa) Đăng về rồi giết chết (Nguyễn Khoa) Đăng ở ngay trên đường về.”
Bấy giờ, nhiều người tin chuyện Nội Tán Nguyễn Khoa Đăng lập mưu phế lập là có thật. Phải đợi đến sau mùa hạ năm Canh Tuất (1730), tức là sau khi Nguyễn Cửu Thế đã qua đời, sự thật về vụ án thứ hai này mới được phơi bày, nhưng, vì thấy chúa Nguyễn Phúc Chú (1725 -1738) không đả động gì lại còn truy tặng cho Nguyễn Cửu Thế rất hậu, cho nên, chẳng ai dám dâng sớ hạch tội Nguyễn Cửu Thế cả. Thấy chúa Nguyễn Phúc Chú phong cho các con của Nguyễn Cửu Thế là Nguyễn Cửu Quý chức Tả Quân Đô Đốc, tước Uy Quận Công, Nguyễn Cửu Thông chức Nội Tả Chưởng Cơ, tước Kính Quận công và Nguyễn Cửu Pháp chức Ngoại Hữu Chưởng Doanh, tước Hoán Quận Công,... thiên hạ lại có người cho rằng Nguyễn Cửu Thế là người đại đức!
Thời chúa Nguyễn Phúc Chu và chúa Nguyễn Phúc Chú được coi là thời thịnh trị của họ Nguyễn ở xứ Đàng Trong. Nhưng, rất tiếc là ngay trong thời thịnh trị ấy, phép nước đã bắt đầu bị coi thường. Như Nguyễn Cửu Thế mà trọn đời được bình an giữa cõi trời cao đất dày thì quả là lạ lắm!
Hình như đường tiến thân của Nguyễn Cửu Thế luôn luôn là đường hãm hại kẻ khác. Làm anh mà không chân tình chỉ bảo cho em, chỉ rắp tâm đẩy em vào chỗ chết để mình được Chúa tin dùng, cổ kim chẳng mấy ai nhẫn tâm đến thế! Chẳng hay, màu chữ đỏ của đôi câu đối mà chúa Nguyễn Phúc Chu viết tặng Nguyễn Cửu Thế có giống như màu máu của em trai Nguyễn Cửu Thế là Nguyễn Cửu Khâm? Chẳng hay, sau đêm tân hôn cùng Quận Chúa Nguyễn Thị Ngọc Phượng, có bao giờ Nguyễn Cửu Thế mơ thấy hồn oan của em mình lớn vởn đó đây?
Lập mưu giết hại Nội Tán Nguyễn Khoa Đăng, Nguyễn Cửu Thế đã bộc lộ đầy đủ bản chất nham hiểm của mình. Nguyễn Khoa Đãng chết mà tiếng thơm để mãi đến muôn đời, còn Nguyễn Cửu Thế thì ngược lại, được sống thêm mà chỉ tổ chất chứa nỗi nhục, ngàn năm chưa dễ rửa sạch đâu! tâm địa Nguyễn Cửu Thế, gớm thay!
Nhưng, riêng trách Nguyễn Cửu Thế có lẽ cũng có chỗ chưa phải. Bấy giờ, sở dĩ Nguyễn Cửu Thế có đất để thoải mái dung thân, ấy là bởi trên Nguyễn Cửu Thế còn có chúa Nguyễn. Ôi, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, rõ là chí lí thay!
- 7 -
Đức nghiêm cẩn của tuần phủ đặng đại độ
Ngạn ngữ Pháp có câu: “Hãy làm theo những điều tôi nói, chớ làm theo những điều tôi làm.”Nhưng, đó là câu của người Pháp, của phương Tây... Trong quá khứ của dân tộc ta, có không ít những người nói rất hay và làm cũng rất giỏi, rất đáng để cho hậu thế noi theo. Một trong số những người ấy là quan Tuần phủ Đặng Đại Độ.
Đặng Đại Độ là con của Đặng Đại Lược, người huyện Phong Đăng (nay thuộc tình Quảng Bình). Đặng Đại Lược nhờ có văn tài mà được chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765) bổ làm quan. Khởi đầu, Đặng Đại Lược tập sự ở Văn Chức Viện, đến năm 1741 thì thăng làm quan Kí lục của dinh Bố Chính và đến năm 1746 thì thăng làm Cai bạ dinh Quảng Nam. Sử cũ cho hay, Đặng Đại Lược là người thanh liêm, cho ai cái gì hoặc giả là nhận của ai cái gì cũng đều suy xét rất kĩ. Ai dâng chút gì chỉ có giá trị vật chất thật nhỏ thì ông mới nhận, còn hơi lớn một chút là ông từ chối, nói rằng:
-Nhà đã có dư thừa cho nên không dám nhận chứ chẳng phải là bày đặt nói năng màu mè gì đâu.
Nhà họ Đặng ở huyện Phong Đăng đúng là nhà cha tài con giỏi. Đặng Đại Lược được Chúa sủng ái và con ông là Đậng Đại Độ cũng có danh thơm với đời. Thuở thiếu thời, Đặng Đại Độ nổi tiếng văn hay chữ tốt. Lúc mới vào tuổi trưởng thành, ông đỗ Hương tiến (tức Cử nhân) và được Chúa Nguyễn Phúc Khoát bổ làm quan. Năm 1748, khi cha làm Cai bạ dinh Quảng Nam thì Đặng Đại Độ được bố làm Kí lục dinh Bình Khang. Một nhà, hai cha con cùng được Chúa tin cậy mà trao trọng trách, đời bấy giờ cho là hiếm. Sinh thời, Đặng Đại Độ là người rất nghiêm cẩn, tự xét mình một cách rất nghiêm khắc. Sách Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 5) có đoạn chép về Đặng Đại Độ như sau:
“Đại Độ làm quan còn liêm khiết hơn cả cha. Ai đưa tặng bất cứ món gì Đặng Đại Độ cũng nhất quyết từ chối. Người đời khen ông là trong sạch. Sau, Đại Độ được bổ làm Kí lục dinh Trấn Biên (vùng Bà Rịa -Vũng Tàu cộng với Đồng Nai, Binh Dương, Bình Phước, Lâm Đồng ngày nay -NKT). Bấy giờ, có hai viên cai đội là kẻ hầu cận của Chúa đi vào Trấn Biên để tìm bắt ca nhị đem về phủ Chúa. Chúng cậy thế, làm nhiều chuyện hống hách, trái với phép nước. (Đặng) Đại Độ liền hạ lệnh bắt chúng mà xé xác ra rồi đem treo ở cửa chợ. Xong, (Đặng Đại Độ) tự mặc áo đơn, đeo gông ngắn, đi bộ ra tận kinh (chỉ Huế ngày nay -NK.T) để xin chịu tội. Khi ấy, Đặng Đại Độ có một người cháu gọi ông bằng chú ruột đi theo. Người cháu đề nghị với Đại Độ thuê người dùng võng mã cáng đi cho đỡ mỏi chăn. Ông gạt đi và nói rằng:
-Làm gì có chuyện tội nhân mà mong được nhàn hạ khỏe khoắn?
Đi bộ hơn một tháng thì tới kinh, ông trình mọi việc với Hình Quan và xin được vào ngục để chờ xét xử. Hình Quan đem việc tâu lên Chúa, Chúa liền cho gọi (Đặng Đại Độ) vào. Đặng Đại Độ một mình đi vào không mặc triều phục. Chúa (thấy thế) liền sai cấp cho ông mũ áo. Đặng Đại Độ xin được chịu tội, Chúa an ủi, nói rằng:
-Ngươi đâu có tội gì mà tự làm khố mình đến thế? Trước đây, ta sai người đi tuyển chọn vài ca nhi để khi nhàn rỗi thì tiêu khiển, có ngờ đâu bọn được sai đi đều là tiểu nhân, cậy thế mà ức hiếp người. Ngươi giết đi là phải. Chẳng có tội gì cả. Hãy quên chuyện ấy đi.
Thế rồi, Chúa thăng cho Đặng Đại Độ chức Tuần phủ Gia Định, lại còn cho ông được quyền tuần hành khắp năm phủ, được quyền thăng giáng các quan lại địa phương (dưới mình). Và, chẳng bao lâu sau đó thì ông mất.”
Sách trên còn cho biết thêm rằng, đáng lẽ chuyện liêm khiết và nghiêm cẩn cho cha con Đặng Đại Lược, Đặng Đại Độ phải được đưa vào Thực lục (tức là bộ chính sử lớn nhất viết về thời Nguyễn, gồm 453 quyển -NKT) nhưng vì những ghi chép có liên quan phát hiện ra quá muộn nên không kịp đưa.
Đặng Đại Độ nghiêm trị hai kẻ bất lương để ban phước cho muôn người, đó âu cũng là sự thường của người làm quan trong muôn thuở. Nhưng, nghiêm giữ phép nước đã là khó, nghiêm giữ mình theo đúng phép nước lại càng khó hơn. Việc Đặng Đại Độ tự đeo gông vào cổ rồi đi bộ ra kinh sẵn sàng chịu tội, tất nhiên, chưa phải là cách hay nhất, nhưng, đó quả thật là việc không dễ làm. Bước chân dặm trường ấy khiến cho cả đến Chúa cũng phải sợ. Chúa đon đả với Đặng Đại Độ, bởi vì, chừng như Chúa cũng là tòng phạm chợt tỉnh ngộ đó thôi.
Từng nghe, quan toà xử tội nhân chứ chưa từng nghe quan toà tự xử quan toà, thế mà Đặng Đại Độ... Phải chi, khắp cả đông tây và khắp cả mọi thời, quan tòa nào cũng biết nghiêm xử với mình trước khi nghiêm xử với người, đại để như Tuần phủ Đặng Đại Độ trong câu chuyện kể ở trên.
Vâng, phải chi...
SAU 265 NĂM, THỬ LẬT LẠI HỒ SƠ VỤ ÁN TRẦN ĐẠI ĐỊNH
265 năm trước đây, hồ sơ một vụ án lớn đã được hoàn tất tại Gia Định (vùng Nam Bộ ngày nay), bị cáo của vụ án này lại là một võ quan cao cấp, người đang lập được nhiều công lao, cuối cùng, tuy vụ án không được chính thức đưa ra xét xử, nhưng, dư luận lại rất xôn xao.
Võ quan cao cấp nói trên là Trần Đại Định, con trai của tướng Trần Thượng Xuyên (tức Trần Thắng Tài). Theo ghi chép của các bộ sách như Đại Nam thực lục và Đại Nam liệt truyện thì Trần Thượng Xuyên người Quảng Đông (Trung Quốc), từng là quan Tổng Binh của nhà Minh. Khi nhà Minh bị nhà Thanh lật đổ (năm 1649), Trần Thượng Xuyên tham gia phong trào bài Thanh phục Minh (bài trừ nhà Thanh, khôi phục nhà Minh), nhưng phong trào này bị nhà Thanh đánh bại, Trần Thượng Xuyên cùng với các tướng khác như Trần An Bình, Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến... đem hơn 3000 binh sĩ đến xin các chúa Nguyễn cho được dung thân ở xứ Đàng Trong. Chính ông và phó tướng Trần An Bình cùng với thuộc hạ đã có công tổ chức khai khẩn đất đai, đặc biệt, đã lập ra khu buôn bán rất sầm uất ở Cù Lao Phố (Biên Hoà, Đồng Nai). Sinh thời, Trần Thượng Xuyên là người rất trung thành với chúa Nguyễn, từng được chúa Nguyễn phong tới chức hàm Đô Đốc.
Trần Đại Định sinh tại Biên Hoà, còn như vào năm cụ thế nào thì chưa rõ. Đến tuổi trưởng thành, do có cha là võ quan cao cấp và được Chúa rất mực tin cậy và thương yêu, cho nên, Trần Đại Định được hưởng chế độ tập ấm, nghĩa là cũng được nối nghiệp cha làm quan, tất nhiên là bắt đầu bằng chức võ quan bậc thấp. Năm 1732, khi Trần Đại Định đang lập được nhiều công lao, khi ngỡ như ông đang chuẩn bị được tưởng thưởng thật trọng hậu, thì Trần Đại Định lại bị giam ở Quảng Nam để rồi chỉ ít lâu sau đó là bị chết ở trong ngục. Vì sao kết cục cuộc đời Trần Đại Định lại bi thảm như vậy? Cũng căn cứ vào ghi chép chủ yếu của hai bộ sử nói trên, chúng ta có thể lật lại hồ sơ vụ án này như sau:
Sau khi được hưởng chế độ tập ấm và được bổ làm quan, Trần Đại Định ngày đêm rèn luyện và lo nghĩ, lòng chỉ mong làm tốt chức phận của mình. Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) và chúa Nguyễn Phúc Chú (1725 -1738) đều rất hài lòng về ông, vì thế, Trần Đại Định được thăng quan tiến chức khá nhanh. Đầu đời Nguyễn Phúc Chú, Trần Đại Định là võ quan cao cấp, chỉ huy quân chủ lực của Chúa ở vùng Gia Định. Bấy giờ, Gia Định là vùng đất rộng, dân thưa nhưng kinh tế lại rất trù phú, giữ được đức thanh liêm khi làm quan ở đây thật chẳng dễ một chút nào. Trước Trần Đại Định và đồng thời với Trần Đại Định, không ít văn quan võ tướng đã bị thân bại danh liệt khi cầm quyền ở đây. Cũng thời bấy giờ, Gia Định là đất thường bị ngoại xâm quấy phá. Giặc không tiến hành tổ chức những cuộc xâm lăng có quy mô lớn, nhưng, với lối đánh bất ngờ và hiểm hóc, chiến sự nơi đây cũng thường xuyên ác liệt. Nếu không phải là bậc dũng tướng giàu mưu lược, thật khó lòng giữ yên được đất
Năm Nhâm Tí (1732), chúa Nguyễn giao việc trấn giữ đất Gia Định cho ba vị tướng, đó là Trương Phúc Vĩnh, Trần Đại Định và Nguyễn Cửu Triêm. Tướng Trương Phúc Vĩnh là kẻ tham lam, nhận hối lộ của giặc, trù trừ để mặc mọi việc cho Trần Đại Định và Nguyễn Cửu Triêm lo toan. Việc ăn hối lộ xấu xa này bị binh sĩ dưới quyền của Trương Phúc Vĩnh phát giác, làm đơn tố cáo lên, khiến Trương Phúc Vĩnh bị chúa Nguyễn Phúc Chú quở trách rất nặng nề. Thay vì tỉnh ngộ nhận lỗi mà tu tâm dưỡng đức, Trương Phúc Vĩnh lại lấy đó là điều oán giận. Và, giận Chúa không được thì đem lòng oán giận luôn cả các tướng cùng vào sinh ra tử với mình. Giặc tới, Trương Phúc Vĩnh, Trần Đại Định và Nguyễn Cửu Triêm ước hẹn chia quân cùng nhau tiến đánh. Trần Đại Định đánh rất hăng, đuổi giặc ngày đêm rất gấp. Trương Phúc Vĩnh không đem quân tiếp ứng mà ung dung nghĩ ngơi và tiếp tục nhận hối lộ của giặc. Đã thế, Truơng Phúc Vĩnh còn sai bọn tay chân, cùng nhau dâng thư về phủ Chúa, nói rằng: Trần Đại Định không chịu cho quân đi đánh, vì thế, tình hình Gia Định ngày một xấu đi. Thư tố cáo ấy đến phủ Chúa thì cũng là khi Trần Đại Định thắng trận trở về. Nghe được tin này, ông vô cùng uất ức, liền lập tức dùng thuyền nhẹ đi nhanh ra Huế để vào tận phủ Chúa mà tự mình kêu oan. Đến Bát Sơn (Quảng Ngãi), ông vào nhà người em họ tên là Thành để nghi. Em họ ông nói:
-Trương Phúc Vĩnh là con nhà thuộc dòng dõi gia thế, mình tranh cãi với họ thế sao được. Thôi, bỏ qua mọi chuyện đi có phải là hơn không?
Trần Đại Định nói:
-Nhà ta, cả cha lẫn con đều chịu ơn lớn lao của Chúa, nay nếu bị tướng ngoài biên cõi tố cáo sai lệch, nếu ta nhịn mà bỏ đi, thì đối với Chúa là bất trung, đối với cha là bất hiếu, đối với chính mình là tự ôm lấy nỗi nhục. Nhịn thế nào được.
Em họ ông can mãi không được, bèn lấy thuyền đưa ông đi, nhưng, thay vì ra Huế thì cứ theo hướng Đông mà đi mãi. Trần Đại Định biết bị mắc lừa, liền rút gươm chém chết em họ rồi cho thuyền quay vào. Đến Quảng Nam, ông cho thuyền vào Đà Nằng, làm tờ trần tình mọi sự, nhờ quan cai quản dinh Quảng Nam dâng lên Chúa. Trước đó, các quan trong phủ Chúa đã nhận được thư tố cáo của Trương Phúc Vĩnh, cho nên, nhiều người chỉ muốn đem ông ra trị tội ngay. Nhưng, chúa Nguyễn Phúc Chú thì nửa tin nửa ngờ, vì thế, chỉ ra lệnh tạm giam Trần Đại Định ở Quảng Nam, đồng thời sai quan vào tận Gia Định để điều tra lại hư thực. Nhân cơ hội này, Truơng Phúc Vĩnh lại tìm cách thêu dệt thêm, quyết hãm hại cho bằng được Trần Đại Định. Thuộc hạ của Trương Phúc Vĩnh, người thì hoàn toàn tin vào chủ tướng nên nhất nhất mọi điều đều nói theo Trương Phúc Vĩnh, kẻ thì biết rõ sự trạng nhưng tâm địa xấu xa nên cứ liều a dua với Trương Phúc Vĩnh. Bấy giờ, chỉ có Nguyễn Cửu Triêm là người đường đường chính chính, ra sức biện bạch, quyết chứng minh rằng công, tội và trắng đen phải phân biệt rõ ràng.
Bản điều tra của các quan vâng mệnh Chúa vào tận Gia Định tiến hành được dâng lên. Chúa chưa kịp xét đến thì Trần Đại Định đã lâm bệnh mà mất ở trong ngục thất Quảng Nam. Chúa Nguyễn Phúc Chú hay tin, rất lấy làm thương tiếc, bèn xuống lệnh truy tặng cho Trần Đại Định hàm Đô Đốc Đồng Tri, lại ban cho tên thuỵ là Tương Mần và cho an táng trọng
Từ ấy đến nay đã 265 năm. Lật lại hồ sơ vụ án Trần Đại Định mới hay cả bị cáo lẫn nguyên cáo và quan toà đều có những điều rất đáng phải suy nghĩ. Thời mà người đang lập công cũng có thể dễ dàng bị coi là kẻ phạm tội, thì chỉ có một cách diễn đạt duy nhất, đó là loạn! Trần Đại Định là người thế nào? Dũng khí và mưu lược của ông chỉ đủ để đánh tan binh hùng tướng mạnh của đối phương mà không đủ để đè bẹp tham vọng cũng như tà ý của đồng liêu. Khi bị Trương Phúc Vĩnh tố cáo oan, ông quyết vượt đường xa dặm dài để tự minh minh oan, đó là một sự lạ. Sự lạ đáng kính. Dọc đường đi minh oan cho mình, ông đã chém người em họ chỉ vì người này không ủng hộ ông. Đó là hai sự lạ. Sự lạ này đáng sợ thay. Hoá ra, ông đã sai ngay khi ông đang quyết chí bảo vệ sự đúng.
Trương Phúc Vĩnh là người thế nào? Tham lam là một đại tội. Gian ngoan vu hãm đồng liêu, đẩy đồng liêu vào chỗ chết là đại tội thứ hai. Mang hai đại tội ấy, sống thì dơ bẩn dương gian, chết thì nhơ nhớp âm phủ, vẻ vang gì mà cũng áo mũ cân đai! Nhưng, vì sao những kẻ như Trương Phúc Vĩnh cũng có thể được vênh vang với đời? Sự nham hiểm chứa đầy tâm địa Trương Phúc Vĩnh, nhưng, cũng... đội ơn Chúa, người mang tâm địa ấy mới được chễm chệ trên công đường đó thôi.
Chúa xét án mà như không xét, không xét mà như là xét, lạ thay. Truy phong cho Trần Đại Định, thế có nghĩa là Chúa thừa nhận Trần Đại Định có công, nhưng, không nói gì đến kẻ nhẫn tâm vu oan giá hoạ là Trương Phúc Vĩnh, thế thì truy phong cho Trần Đại Định phỏng có ích gì. Hình như, cũng có khi người ta làm giỗ không phải để cúng người đã khuất mà là để tự xoa dịu một chút gì đó trong chính lòng người sống vậy.
Lật lại hồ sơ vụ án Trần Đại Định, hậu thế chỉ biết rung đùi cảm khái mà ca rằng: may mắn thay, những chuyện đáng tiếc này chỉ là của ngàn xưa. Vâng, may mắn thay!
PHÉP TRỊ DÂN CỦA KÝ LỤC NGUYỄN ĐĂNG ĐỆ
Nguyễn Đăng Đệ người xã An Hoà, huyện Hương Trà (nay thuộc tình Thừa Thiên -Huế) nhưng tổ tiên ông lại vốn là người họ Trịnh, nguyên quán huyện Thiên Lộc (nay thuộc tình Hà Tĩnh). Thời Lê Cung Hoàng (1522 -1527), có người họ Trịnh ở Thiên Lộc là Trịnh Cam làm quan đến chức Binh Bộ Thượng thư. Năm 1527, khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi của nhà Lê, Binh Bộ Thượng thư là Trịnh Cam chạy vào đất Thuận Hoá (vùng phía nam Hà Tĩnh đến hết Thừa Thiên -Huế ngày nay) để mưu việc khôi phục nhà Lê. Nhưng việc chuẩn bị chưa đâu vào đâu thì ông đã lâm bệnh mà qua đời. Con cháu ông về sau định cư ở xã An Hoà và đổi gọi là họ Nguyễn. Nguyễn Đăng Đệ là cháu bảy đời của Thượng thư Trịnh Cam, sinh năm Kì Dậu (1669), mất năm Đinh Mùi (1727), hường thọ 58 tuổi.
Thời Nguyễn Đăng Đệ, đất quê ông nổi tiếng là đất học. Dân gian có câu: “Học Đồng Di, thi An Hoà”. Đồng Di là tên một xã của huyện Phú Vang. Dân xã ấy có truyền thống hiếu học, xa gần đều biết tiếng. Còn An Hoà là tên một xã thuộc huyện Hương Trà, xã quê hương của Nguyễn Đăng Đệ. Xã này có nhiều người đỗ đạt cao, được coi là đất khoa bảng, hiến vinh vào hàng bậc nhất của xứ Đàng Trong.
Ngay từ lúc còn nhỏ, Nguyễn Đăng Đệ đã được coi là nguời “đã ôn nhã lại trung chính, văn học uyên bác hơn người”. Tương truyền, có một thầy coi tướng thấy ông, liền nói ngay rằng:
-Khoé mắt có tàng thần, đó là quy cách, chỉ tiếc là tai thấp, cho nên, không thể đỗ cao được.
Theo ghi chép của Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 5) thì vào năm Tân Tị (1701), dưới thời trị vì của chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 -1725), Nguyễn Đăng Đệ đi thi và đỗ Sinh đồ. Học vị này về sau đời gọi là Tú tài. Năm đó, ông 32 tuổi. Sau khi đỗ đạt, ông làm quan trải phong dần từ chức Tri huyện, huyện Minh Linh (nay thuộc Quảng Trị) rồi lên tới Văn Chức trong phủ Chúa. Nhờ làm Văn Chức, Nguyễn Đăng Đệ mới có cơ hội được gặp chúa Nguyễn và được chúa Nguyễn trực tiếp thấy rõ năng lực thực sự của ông. Sử cũ cho biết, chúa Nguyễn Phúc Chu thấy ông ứng đối tường tận, lập luận sâu sắc, bàn việc rộng rãi, phong thái lại ung dung... cho nên, rất lấy làm đặc biệt yêu quý.
Năm 1712, Nguyễn Đăng Đệ được thăng chức Kí lục và bổ đi làm ở dinh Quảng Nam. Với chức vụ quan trọng này, Nguyễn Đăng Đệ ngày đêm lo nghĩ, lòng chỉ mong sao cho dân bớt kiện cáo lẫn nhau, ông gọi đó là phép bồi bố phong hoá, là phép đức trị, cũng là phép dùng lòng nhân nghĩa để cố kết, tránh bớt việc xét án cho quan nha. Tiếng lành đồn xa, ba năm sau (năm 1715), ống được chúa Nguyễn khen là bậc thanh liêm, cống binh và có tài giáo hoá, do đó, thăng làm Chính Dinh Đô Tri. Năm 1724, Nguyễn Đăng Đệ lại được thăng tiếp là Chính Dinh Kí lục.
Sinh thời, Nguyễn Đăng Đệ đi tới đâu là ở đó nha lại không dám làm điều nhũng loạn, dân được yên ổn làm ăn, vì thế, không ai là không tín phục. Khi ông làm việc ở Quảng Nam, chúa Nguyễn Phúc Chu có gởi tặng ông đôi câu đối bằng chữ Hán (phiên âm) như sau:
Lập pháp tinh hình, cánh kiến ngã triều sinh Cáp Ảm;
Sử dân vô tụng, phương tri ngô quốc hữu Hoài Nam.
Tạm dịch:
Lập pháp giảm hình, lại thấy triều ta Cáp Am[1]
Khiến dân không kiện, mới hay nước có Hoài Nam[2]
Sách Bán đại văn (Nửa đời nghe) của ở Vận Tiên Sinh có đoạn chép về Nguyễn Đăng Đệ khá độc đáo. Xin lược thuật như sau: Có viên nhà lại nhân thấy Nguyễn Đăng Đệ đi khuyên dạy dân không được đánh bạc, liền tìm cách ngăn ông mà nói rằng, chỗ của quan lớn là trong nha môn công đường, không phải nơi lũ ương ngạnh tụ tập. Ông từ tốn đáp lại là ngăn cái xấu khi cái xấu chưa kịp xảy ra có phải là tốt hơn đem hình pháp mà xử cái xấu không? Bọn ương ngạnh sở dĩ cả gan làm điều càn quấy, bất quá chỉ vì ân đức giáo hoá chưa nhuần thấm đến đó mà thôi. Nói rồi, ông cứ thế đi thẳng.
Mùa đông năm Đinh Mùi (1727), Nguyễn Đăng Đệ bị mất vì bệnh khi đang tại chức. Chúa Nguyễn Phúc Chú (1725 -1738) rất lấy làm thương tiếc, tổ chức an táng ông rất trọng thể, đồng thời, truy tặng ông hàm Kim Tử Vinh Lộc Đại phu. Ông có hai người con được đời biết tiếng, đó là Nguyễn Đăng Cẩn và Nguyễn Cư Trinh.
Chú thích:
(1) và (2): Tên những nhân vật Trung Quốc thời cổ đại được coi là thanh liêm và có công giáo hoá
MẠC THIÊN TỨ - NGƯỜI ĐẶT TÊN CHO MƯỜI CẢNH ĐẸP Ở HÀ TIÊN
Một trong những tuyến tham quan có sức hấp dẫn rất mãnh liệt đối với du khách là Hà Tiên. Bạn đã từng tới Hà Tiên rồi sao? Xin chúc mừng bạn. Nhưng, lúc ở Hà Tiên, có bao giờ bạn cảm thấy bâng khuâng khi chợt nghĩ đến người đã có công tạo ra những tên đất thật đẹp và thật thân thương cho miền đất này không? Chưa ư? Vậy thì chúng ta hãy bắt đầu nhé.
Năm 1649, sau gần ba trăm năm tồn tại (1368 -1649), nhà Minh sụp đổ, nhà Mãn Thanh được dựng lên. Một phong trào phản kháng khá mạnh, mang tên gọi chung là bài Thanh phục Minh (bài trừ nhà Thanh, khôi phục nhà Minh) đã dấy lên trên hầu khắp Trung Quốc suốt mấy chục năm trời. Cuối cùng, tất cả đều bị đè bẹp. Hàng ngàn thành viên của lực lượng bài Thanh phục Minh đã buộc phải rời bỏ quê cha đất tổ đi tìm chốn dung thân. Riêng năm Kỉ Mùi (1679), xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn đã tiếp nhận đến trên ba ngàn người. Họ định cư và lập nghiệp ở nước ta, quy tụ thành lực lượng mà ta quen gọi là người Minh Hương. Xem ra, người Minh Hương cũng di cư đến đây trước sau gồm nhiều đợt chú không phải chỉ có một lần duy nhất vào năm Kỉ Mùi (1679) như đã nói ở trên. Có khi họ cùng nhau đi thành từng nhóm khá đông, nhưng cũng có khi, họ đi rất riêng rẽ. Trong số những người đi riêng rẽ ấy có Mạc Cửu (1655 -1736).
Mạc Cửu người Lôi Châu (Quảng Đông, Trung Quốc), bỏ xứ mà đi năm 1671. Lúc đầu, ông phiêu bạt đến đất Chân Lạp, sau, thấy nội tình Chân Lạp rối ren, ông đến định cư ở Hà Tiên. Bấy giờ, đất ấy người Chân Lạp gọi là Péam còn thương nhân người Hoa thì gọi là Mang Khảm. Mạc Cửu muốn thi vị hoá vùng đất quê hương mới của mình, bèn truyền rằng, ở đó, đêm đêm trên sóng nước của những dòng sông, có các nàng tiên tới múa hát. Sông có tiên nên đất có sông ấy cũng gọi là Hà Tiên.
Mạc Cửu là người gốc Hoa nhưng vợ Mạc Cửu (bà Bùi Thị Lầm, quê ở Đồng Nai) lại là người Việt. Ông bà tổ chức khẩn khoang, lập nên bảy xã thôn, bao gồm cả một vùng rộng lớn, tương ứng với Kiên Giang và Minh Hải ngày nay. Sau, Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 -1725), tình nguyện làm quan trấn giữ cõi biên thuỳ Tây - Nam cho chúa Nguyễn.
Mãi đến năm Bính Tuất (1706), năm Mạc Cửu 51 tuổi, bà Bùi Thị Lầm mới sinh hạ cho ông đuợc một người con trai, đó là Mạc Thiên Tứ (cũng tức là Mạc Thiên Tích). Sách Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 6) chép:
“Mạc Thiên Tứ tự là Sĩ Lân, con trưởng của Mạc Cửu. Khi ông sắp sinh ra có điềm lạ: nước trong sông Lũng Kì bỗng dưng phun vọt lên cao, để lộ ra một tượng vàng áng chừng bảy thuớc. Sứ Man đi qua trông thấy, liền nói với Mạc Cửu rằng:
-Đó là điềm nước ông sinh người hiền, phúc đức lớn khó lường hết.
Mạc Cửu sai người đi ruớc tượng vàng về, nhưng làm cả trăm cách cũng không sao kéo lên được, vì thế ông sai dựng chùa nhỏ ở bên sông (Lũng Kì) để thờ. Mạc Thiên Tứ cũng ra đời vào đúng ngày hôm đó, cho nên, thiên hạ truyền rằng, ông chính là Bồ Tát hiện thân.”.
Ngay tù thuở ấu thơ, Mạc Thiên Tứ đã nổi tiếng là người thông minh và đức độ. Với chúa Nguyễn, ông là người rất trung thành, với song thân, ông là người rất hiếu thảo; với trấn Hà Tiên, ông là người có công xây dựng nhiều công trình, để dấu tích tốt đẹp cho đến tận ngày nay. Năm 1735 Mạc Cửu qua đời, Mạc Thiên Tứ được chúa Nguyễn Phúc Chú (1725 - 1738) cho nối nghiệp cha, cầm đầu chính quyền trấn giữ miền biên cõi Hà Tiên. Một trang mới hơn, giàu sức hấp dẫn hơn của lịch sử Hà Tiên bắt đầu.
Độc đáo nhất, cũng là thành công lớn nhất của Mạc Thiên Tứ chính là lập ra Chiêu Anh Các. Đúng như tên gọi của nó, Chiêu Anh Các là nơi quy tụ những người tài. Thống kê tất cả những ghi chép tản mạn của sử cũ, chúng ta có thể thấy đến con số trên bảy chục người tài, gồm đủ mọi lứa tuổi, mọi địa phương, mọi tầng lớp, mọi hệ tư tưởng, và thậm chí là có cả khá đông người Trung Quốc. Chiêu Anh Các có nhiều hoạt động phong phú khác nhau, nhưng nối bật nhất vẫn là ngâm vịnh, xướng hoạ. Nói khác hơn, Chiêu Anh Các là một thi xã, là nơi gặp gỡ của tao nhân mặc khách bốn phương.
Người thành lập, cũng là cây bút chủ lực của Chiêu Anh Các là Mạc Thiên Tứ. Ông làm thơ chữ Hán khá điêu luyện đã đành, ông còn làm thơ chữ Nôm cũng tương đối thành thục. Nổi tiếng khó tính như Bảng nhãn Lê Quý Đôn (1726 -1784) mà cũng đã phải thán phục, viết rằng: “Văn mạch một phương dằng dặc không dứt, thực đáng khen lắm thay’’ (Phù biên tạp lục, quyển 5).
Gần như toàn bộ thơ Mạc Thiên Tứ là thơ ca ngợi thiên nhiên Hà Tiên. Nếu thân phụ của ông là Mạc Cửu người đầu tiên tạo ra chất thơ cho tên gọi của mảnh đất cưu mang đùm bọc mình, thì ông là người đã kể thừa và phát triển một cách xuất sắc ý tưởng tốt đẹp này. Mạc Thiên Tứ đã viết mười bài xướng, ca ngợi mười cảnh đẹp của Hà Tiên. Văn nhân tài tử bốn phương tới tấp gởi bài hoạ đến, tính ra, có cả thảy trên ba trăm bài. Đó quả là một con số không nhỏ. Mười cảnh đẹp của Hà Tiên mà Mạc Thiên Tứ ca ngợi là:
1. Kim Dự lan đào (đảo vàng chắn sóng)
2. Bình San điệp thuý (dãy núi như bức bình phong trùng điệp màu xanh)
3. Tiêu Tự thần chung (tiếng chuông buổi sáng sớm trong ngôi chùa tịch mịch)
4. Giang Thành dạ cổ (tiếng trống đêm ở thành bên sông)
5. Thạch Động thôn vân (hang đá nuốt mây)
6. Châu Nham lạc lộ (có đậu triền đất đỏ)
7. Đông Hồ ấn nguyệt (trăng in xuống hồ phía đông)
8. Nam Phố trừng ba (bãi nam chắn sóng)
9. Lộc trĩ thôn cư (thôn xóm ở Mũi Nai)
10. Lư Khê ngư bạc (thuyền chài ở rạch vược)
Mỗi cảnh đều được gợi tả bằng bốn chữ, nhưng dân gian chỉ quen gọi tên cảnh bằng hai chữ đầu. (Chúng tôi viết hoa hai chữ đầu cũng là vì thế). Trước Chiêu Anh Các, tất cả rihững cảnh đẹp nên thơ nói trên đều chưa hề có tên gọi, thậm chí, nhiều cảnh còn im lìm trong sự hoang sơ. Nhưng, từ Chiêu Anh Các, từ mười bài khởi xướng của Mạc Thiên Tứ, tất cả bỗng dưng lên một sức hấp dẫn thật lạ kì. Gần ba trăm năm qua, khách thập phương không ngớt tìm đến Hà Tiên. Và, đã tới Hà Tiên là phải tìm đến cho bằng được cả mười cảnh đẹp mà họ từng biết được qua những vần thơ óng ả của Mạc Thiên Tứ.
Giờ đây, sau gần ba trâm năm vật đối sao dời, trải biết bao biến cố lớn lao của thời cuộc, trải sự tàn phá không thương tiếc của thời gian, mười cảnh đẹp Hà Tiên tuy không còn nguyên vẹn như xưa nữa, nhất là cảnh Giang Thành, nhưng đến với Hà Tiên, đến với đất khai sinh Chiêu Anh Các thuở nào, bạn vẫn có thể dễ dàng cảm nhận sự truyền cảm chân thành và ấm áp của cảnh cũ nguời xưa từ tất cả những gì chung quanh bạn. Cám ơn Mạc Thiên Tứ, cám ơn Chiêu Anh Các, cám ơn những vần thơ đã khiến cho chúng ta yêu thiên nhiên và con người hơn. Hình như Mạc Thiên Tứ đã góp phần tạo ra cảnh đẹp thứ mười một, cảnh đẹp không tên. Đó chính là cảnh đẹp đầy vẻ thanh thãn trong lòng mỗi chúng ta sau khi đến Hà Tiên.
LÒNG CƯƠNG TRỰC VÀ ĐỨC THANH LIÊM CỦA PHẠM HỮU KÍNH
Sách Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 5) cho hay, Phạm Hữu Kính người huyện Diên Phước (nay thuộc tỉnh Quảng Nam), sống vào khoảng giữa thế kỉ thứ 18, còn như sinh và mất năm nào thì chưa rõ.
Sinh thời, Phạm Hữu Kính là người văn hay, chữ tốt, tính quả cảm, cương trực và thanh liêm. Năm đầu đời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 -1765), Phạm Hữu Kính mang khăn gói, lều chõng ra Phú Xuân (Huế ngày nay) để dự thi. Bấy giờ, trên đèo Hải Vân có một cái miếu, được coi là rất thiêng, ai ai cũng nói rằng, hễ qua đèo Hải Vân mà không đến dâng lễ ở miếu ấy thì thế nào cũng sẽ gặp điều tai dị. Phạm Hữu Kính đi qua, nghe vậy thì nói:
- Phàm quý thần mà hễ không được dâng lễ là làm điều tai dị thì đấy phải là ác tà.
Nói xong, xăm xăm chạy tới miếu, lấy bút đề một bài thơ cảnh cáo rồi đi. Nghe nói, miếu thiêng từ đó hết thiêng, không ai phải lo sợ như trước, còn Phạm Hữu Kính thì chẳng những đỗ khoa ấy mà còn đỗ luôn cả khoa thi viết chữ do phủ Chúa tổ chức thêm.
Sau khi đỗ đạt, Phạm Hữu Kính được bổ làm thầy dạy ở ngay trong phủ Chúa và được chừng vài năm thì bổ làm quan Trấn thủ ở Nha Trang. Sử cũ viết rằng: “Kính làm quan thanh liêm, xử việc công minh, sống rất đạm bạc, không cho ai đến thưa việc ở nhà riêng, đã thế lại khéo xét đoán, giỏi tìm ra kẻ gian, tài phanh phui những điều lẩn quất, cho nên từ nha lại cho đến dân chúng, ai ai cũng đều cảm phục mà sợ. ”
Tương truyền ở phía ngoài trấn thành Nha Trang có một ngôi cổ miếu, dân địa phương đời đời hương khói thờ phụng. Trước ngôi cổ miếu ấy có một cây cổ thụ cành lá xum xuê.
Mỗi năm, cây cổ thụ ấy rụng một cành và cứ mỗi lần như vậy là dân trong vùng phải mất một mạng người. Nghe biết chuyện này, Phạm Hữu Kính liền hạ lệnh phá nát ngôi cổ miếu, đồng thời đốn ngã cây cổ thụ. Vậy mà chẳng hề có tai biến gì.
Năm 1751, Phạm Hữu Kính được thăng chức Cai bạ ở Quảng Nam. ông phải rời Nha Trang để về Quảng Nam nhận chức. Dọc đường về, Phạm Hữu Kính đi qua một ngôi chùa. Truớc cổng chùa ấy có con nghê bằng đá. Dân địa phương kể rằng, con nghê bằng đá ấy rất thiêng, đêm đêm vẫn thường đi tác oai, tác quái. Phạm Hữu Kính liền lấy bút viết ngay một chữ tử (nghĩa là chết) vào trán con nghê. Từ đó, cả vùng được bình an, con nghê hết thiêng.
Vừa đến Quảng Nam nhận chức thì ông bỗng thấy nhân dân vùng này nháo nhác chạy đến thưa rằng, họ đang bị nạn chuột đồng phá hại, mùa màng đang hứa hẹn bội thu thì bị chuột phá tan hoang. Phạm Hữu Kính liền nghiêm nghị hạ lệnh:
-Hãy trở về và bắt giết hết cho ta!
Dân thất vọng quay về, và lạ thay, về đến nơi thì lũ chuột đồng quái ác cũng đã biến đi đâu hết. Bởi chuyện này, ai cũng cho Phạm Hữu Kính là thần!
Những chuyện đại loại như trên, nay chẳng đáng để tâm nhưng xưa thì khác hẳn. Bấy giờ, phải là người cương trực và thật sự có chí cả mới dám động đến thần linh. Bởi lẽ này, tên tuổi của Phạm Hữu Kính được đời cảm phục mà truyền tụng. Tuy nhiên, chuyện đáng kể nhất về Phạm Hữu Kính không phải là chuyện cả gan động tới thần linh mà là thẳng thắn đụng ngay với sự nhiễu nhương của thế lực.
Sách nói trên chép đại lược rằng, Phạm Hữu Kính thường được Chúa uỷ thác việc đi kiểm tra hoạt động của quan lại các địa phương. Trong một lần đi kiểm tra, ông phát hiện ra con trưởng của minh đã ăn hối lộ. Phạm Hữu Kính tự mình xét án, khép con vào tội phải tử hình. Nhiều người thấy thế thì can ngăn, chẳng dè ông nói:
-Thằng ấy ngu như heo, làm ô nhục cả gia phong, để nó sống phỏng có ích gì? Vả chăng, phép nước sở sở ra đấy, ta đâu dám vì tình riêng mà phạm đến phép công.
Sau, án ấy được dâng lên để Chúa duyệt làm. Chúa xuống lệnh tha chết cho con ông, nhưng người con ấy đã sợ quá mà chết từ trước rồi!
Phạm Hữu Kính có một người con gái tên là Lam Anh, xinh xắn, thông minh, nên rất được cưng chiều. Thấy con ham học, Phạm Hữu Kính liền rước một thầy đồ trẻ tuổi, tên là Nguyễn Dũng Hiệu về nhà để dạy học cho con. Nguyễn Dũng Hiệu người huyện Duy Xuyên (nay cũng thuộc Quảng Nam), phong thái ung dung, nho nhã, lại có tiếng văn hay, vì thế Phạm Hữu Kính có ý muốn đem Lam Anh mà gả cho. Nhưng rồi Phạm Hữu Kính bận việc quan, ở nhà, con gái ông và thầy đồ Nguyễn Dũng Hiệu trao thư cho nhau và tư thông với nhau. Biết chuyện, ông bắt con gái ra sông, tính sẽ dìm nước cho chết, may có nhiều người can ngăn nên mới thôi, ông giận dữ nói:
-Nước có phép nước, nhà có gia giáo. Chừng nào ta còn sổng thì không một ai trong nhà được phép coi thường phép nước và làm băng hoại gia giáo của tổ tiên.
Sau, thế theo lời khuyên của mọi người, ông mới chịu gả Lam Anh cho thầy đồ Nguyễn Dũng Hiệu. Từ đó, Lam Anh và Nguyễn Dũng Hiệu thường hay ngâm vịnh xướng hoạ với nhau, để lại cho đời khá nhiều lời thơ đẹp.
Phạm Hữu Kính đi đến đâu là quan lại địa phương đó nể trọng, không ai dám làm điều càn quấy, cho dẫu quan tước của Phạm Hữu Kính cũng chỉ là... thường thường bậc trung chứ không phải là... quan to! Đời từng truyền tụng rằng, trên là thánh thần mà ông không kiêng nế, dưới là con đẻ của mình ông cũng không tha, đấng thanh liêm cương trực ấy không thể không tôn vinh được.
Cổ kim khắp đông tây vẫn vậy, trong trăm người, may ra mới có được một người đám nói. Trong trăm người dám nói, may ra mới có được một người dám làm. Phạm Hữu Kính là người vừa dám nói lại vừa dám làm, tức là người hiếm trong số những người hiếm vậy. Bởi lẽ này, khi ông mất, chúa Phạm Hữu Kính đã truy tặng ông hàm Tấn Trị Công thần, Đặc Tiến Trụ Quốc Kim Tử Vinh Lộc Đại phu, Chính Trị Thượng Khanh Tham Nghị, lại ban cho tên thuỵ là Văn Hiếu.
Ôi, giá mà ông sống vào thời thịnh trị thái bình!
- 8 -
Chuyện chị dâu trưởng của ớ vận tiên sinh
Ớ Vận Tiên Sinh là một người nổi tiếng hay chữ, quê ở vùng này thuộc tỉnh Hà Tĩnh, sống vào khoảng nửa sau của thế kỉ 19. Ông có để lại cho đời một ít thơ văn, nhưng, đặc biệt hơn cả vẫn là những giai thoại về chính cuộc đời của ông. Thơ văn của Ớ Vận Tiên Sinh giàu chất trào lộng. Mẫu chuyện dưới đây thấy chép trong cuốn Bán Đại Văn (Nửa đời nghe) của ông, nội dung thi viết bằng chữ Nôm nhưng tiêu đề lại viết bằng chữ Hán: Ngã đại tẩu chi co sự (Chuyện chị dâu trưởng của ta). Xin phiên âm và tóm lược mẩu chuyện này như sau:
Khi ấy, trưởng huynh ta còn là lính thú, đóng binh cách nhà những mấy trăm dặm đường. Song thân ta qua đời đã lâu, anh em trong nhà phiêu bạt lắm ngả, vì thế, trưởng huynh ta cũng ít khi về viếng cố hương. Giáp Tết năm Mậu Dần, tức là năm Tự Đức thứ 31 (1878), có người bạn tri kỉ của trưởng huy ta, cũng là lính thú, bỗng nhận được thư nhà. Song thân của người ấy qua đời cũng đã lâu, nhà chỉ có một người em gái, mọi việc cửa nhà đều trông cậy ở người em gái ấy.
Đàn bà nào có mấy ai biết chữ. Em gái người bạn tri kỉ của trưởng huynh ta cũng vậy mà thôi. Bóc thư gởi đến, mở ra chỉ thấy có mỗi một tờ giấy bản, trên vẽ độc nhất hình một con gà trống cồ. Cả đồn lính thú ấy ai ai cũng thi nhau đoán, nhưng rốt cục, chẳng ai hiểu được ý nghĩa của bức thư. Đến lượt viên Suất đội, ông ta vừa ngắm nhìn con gà cồ, vừa hỏi han về gia cảnh, xong thì phán một câu chắc như cột đình, rằng:
-Cô em tuổi Dậu, tức là tuổi con gà, nay đã đến tuổi thành gia thất nên mới nhờ anh kiếm chồng. Gà mái tơ muốn kiếm gà trống cồ chớ có gì là khó khăn đâu.
Ai cũng cho lời ấy là phải. Tết ấy, bạn tri kỉ của trưởng huynh ta được phép về thăm nhà. Ngần ngừ mãi, người ấy mới quyết định đến nói với trưởng huynh ta rằng:
-Lời của Suất đội mà đúng thì quả thật là tôi chẳng biết toan liệu thế nào cho em mình. Thôi, chỗ thâm giao quý mến, sau là nếu có thể thì cùng tôi lo việc lớn này.
Bấy giờ, trưởng huynh ta cũng được hưởng phép, cho nên, đã vui vẻ nhận lời ngay. Hai người khăn gói gọn gàng, cùng vượt dặm dài về quê. Tới nơi hàn huyên tâm sự mới vỡ lẽ ra rằng, em gái người bạn tri kỉ của trưởng huynh ta, vì biết anh trai sắp được về, không biết chữ nên viết thư bằng hình, nhắn anh kiếm cho con gà đem về cúng song thân nhân ngày Tết. Vậy thôi.
Chuyện đoán già đoán non của cả đồn lính thú được đem ra kể, khiến ai ai cũng phải bật cười. Báo hại, em gái người bạn tri kỉ của trưởng huynh ta, vì mắc cỡ nên đã trốn biệt trong buồng, không dám ra lo cơm nước gì cả. Thấy vậy, bạn tri kỉ của trưởng huynh ta nói:
-Cứ cho là anh đi kiếm chồng cho em thì đã sao? Anh thấy bạn anh...
Sau đó không lâu, trưởng huynh ta kết hôn với em gái của người bạn tri kỉ ấy. Mọi sự đều êm đẹp, chỉ tiếc là từ đó, cả nhà bỗng huỷ chữ gà, cứ nhất nhất gọi gà là vịt cạn.
Chị dâu trưởng của ta là người rất đoan chính và hiếu thảo, tuy không hề biết chữ nhưng xử việc rất mạch lạc và thật đằm thắm nghĩa tình. Chị đã sinh hạ cho trưởng huynh ta trước sau tổng cộng là mười người con cả gái lẫn trai. Trưởng huynh ta thật là người có phúc. Nhiều người nói rằng, sở dĩ chị dâu trưởng của ta sinh hạ được nhiều con như thế là vì chị ấy tuổi Dậu, tức là tuổi con... vịt cạn đó thôi.
NGUYỄN Ư DĨ – CHỖ DỰA TIN CẬY VÀ VỮNG CHẮC ĐẦU TIÊN CỦA NGUYỄN HOÀNG
Sách Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 1) viết rằng: “Chúa (đây chỉ Nguyễn Hoàng - NKT) nghe tiếng Nguyễn Bỉnh Khiêm, người Trung Am, xứ Hải Dương, đỗ Trạng nguyên triều nhà Mạc, làm đến Thái Bảo thì về trí sĩ, vốn rất giỏi về thuật số, bèn ngầm sai người tới dò hỏi ý tứ. (Nguyễn) Bỉnh Khiêm không đáp, chỉ nhìn hòn non bộ để trước sân rồi ngâm rằng:
—Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân.
(Nghĩa là: Một dãy Hoành Sơn, dung thân muôn đời -NK.T). Sứ giả đem câu ấy về tâu lại. Chúa hiểu ý.”
Và, chính vì hiểu ý nên năm 1558, Nguyễn Hoàng đã lên đường... vượt Hoành Sơn (tức Đào Ngang, ngọn đèo nằm siữa Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay) để nhận chức Trấn thủ Thuận Hoá, cũng là để âm thầm xây dựng cơ đồ riêng cho mình, sẵn sàng đối đầu với họ Trịnh khi điều kiện cho phép. Cứ như đoạn ghi chép nói trên của Đại Nam thực lục thì rõ ràng, chỗ dựa đầu tiên, cũng là chỗ dựa tin cậy và vững chắc nhất của Nguyễn Hoàng khi vào Thuận Hoá chính là Hoành Sơn, nhưng xem ra, suốt cả cuộc phân tranh lâu dài và quyết liệt với họ Trịnh, Hoành Sơn hầu như không giữ một vai trò quan trọng gì đáng kể đối với khả năng đề kháng của xứ Đàng Trong. Chỗ dựa tin cậy và vững chắc đầu tiên của Nguyễn Hoàng lại là con người mà một trong số những con người đó là Nguyễn Ư Dĩ.
Nguyễn Ư Dĩ (cũng có nguời phiên âm là Nguyễn Ư Tị) quê ở huyện Tứ Kì (nay thuộc Hải Dương) nhưng sau vào định cư ở Thanh Hoá. Ông là con của quan Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Nguyễn Kính Diện. Dưới thời trị vị của Lê Cung Hoàng (1522 - 1527), Nguyễn Ư Dĩ là quan Thái Phó, tước Uy Quốc Công, ông là em vợ của Nguyễn Kim và là cậu ruột của Nguyễn Hoàng.

Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi của nhà Lê, Nguyễn Kim chạy vào Thanh Hoá rồi sang tận Ai Lao và mãi đến năm 1533 mới tìm được một người trong hoàng tộc của nhà Lê là Lê Ninh để tôn lên ngôi vua, nhằm tạo ra danh nghĩa chính thống cho cuộc chiến tranh chống lại họ Mạc. Bấy giờ, Nguyễn Hoàng mới lên hai tuổi. Người trực tiếp nuôi dạy Nguyễn Hoàng chính là Nguyễn Ư Dĩ...
Lê Ninh lên ngôi vua, đó là Lê Trang Tông (1533 -1548), tuy nhiên, quyền hành thực sự của Nam triều lại nằm trong tay Nguyễn Kim. Bấy giờ, Nguyễn Ư Dĩ là một trong những trợ thủ đắc lực nhất, ông vừa lo giúp việc triều chính, vừa lo nuôi dạy Nguyễn Hoàng. Phần lớn những phẩm cách đáng quý của Nguyễn Hoàng được xây dựng và bồi bổ trong thời kì này
Năm 1545, Nguyễn Kim bị một viên tướng trá hàng của nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc giết chết. Cuộc khủng hoảng của Nam triều bắt đầu. Con rể của Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm đã sát hại Nguyễn Uông (anh ruột của Nguyễn Hoàng, cũng là một vị tướng trẻ và đầy tài năng của Nam triều), đồng thời, tính kế hãm hại cả Nguyễn Hoàng. Tình thế trở nên rất nguy cấp. Không còn con đường nào khác, Nguyễn Ư Dĩ ra tay cứu cháu.
Trước hết, ông bàn với Nguyễn Hoàng, bảo Nguyễn Hoàng giả làm như người thần kinh không được bình thường, lúc thì tỉnh táo và thông minh, nhưng cũng có lúc thi như khờ như dại. Bởi lẽ này, Trịnh Kiểm đã đánh giá sai năng lực thực sự của Nguyễn Hoàng, mối lo sợ bị trả thù có phần nguôi bớt. Một thời gian sau, Nguyễn Ư Dĩ và Nguyễn Hoàng tìm cách gặp riêng Nguyễn Thị Ngọc Bảo là chị gái của Nguyễn Hoàng và là vợ của Trịnh Kiểm, nhờ Nguyễn Thị Ngọc Bảo lựa lời xin Trịnh Kiểm cho Nguyễn Hoàng được vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hoá (vùng đất tương ứng với khu vực từ phía nam Hà Tĩnh vào cho đến hết Thừa
Thiên -Huế ngày nay). Trịnh Kiểm là tên gian manh, biết Thuận Hoá vừa xa xôi, vừa nghèo khó, đã thế lại còn có quân nhà Mạc quấy nhiễu thường xuyên, cho nên, xuống lệnh chấp thuận ngay. Vào đó, nếu Nguyễn Hoàng có bị quân nhà Mạc giết thì đó cũng là việc Trịnh Kiểm đang mong, ở đời, dễ gì mượn được tay kẻ thù để tiêu diệt đối thủ: Cũng vào đó, nếu Nguyễn Hoàng không hoàn thành được chức trách của một Trấn thủ, thì Trịnh Kiểm sẽ có cớ để trị tội. Vòng cương toả của Trịnh Kiểm, khiếp thay!
Năm 1558, Nguyễn Hoàng lên đường đi nhận chức. Năm đó, ông mới 33 tuổi. Cùng đi theo vào Thuận Hoá với Nguyễn Hoàng là Nguyễn Ư Dĩ và toàn bộ gia quyến của ông. Vẫn biết Nguyễn Hoàng bấy giờ đã là vị tướng giỏi, võ nghệ và mưu lược hơn người, đã thế lại còn khéo biết cố kết nhân tâm, nhưng, Nguyễn Ư Dĩ vẫn không nỡ để Nguyễn Hoàng phải đơn phương độc mã nơi đất hiểm. Nghĩa tinh cậu cháu trong con người ống mạnh mẽ đến lạ thường.
Xét về thứ bậc họ hàng, Nguyễn Ư Dĩ là cậu, Nguyễn Hoàng là cháu. Xét về chức tước trong Nam triều, Nguyễn Ư Dĩ là Thái phó, tước Uy Quốc Công còn Nguyễn Hoàng lúc ấy chỉ mới là Quận Công. Xét quan hệ thì Nguyễn Ư Dĩ là ân nhân của Nguyễn Hoàng, từng nuôi dạy Nguyễn Hoàng từ lúc Nguyễn Hoàng mới được hai tuổi. Nhưng, trong mọi ứng xử, Nguyễn Ư Dĩ luôn luôn ẩn mình ở phía sau, tạo dựng uy tín và ra sức củng cố địa vị cho Nguyễn Hoàng. Với Nguyễn Hoàng, Nguyễn Ư Dĩ đồng nghĩa với sự an tâm, tin tưởng. Sách Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 3) chép rằng:
“Mùa đông năm Mậu Ngọ (tức là năm 1558 -NKT), Thái Tổ (chỉ Nguyễn Hoàng - NKT) vào Thuận Hoá, (Nguyễn) Ư Dĩ đem con cái đi theo. Đến bãi cát Ái Tử thuộc huyện Đăng Xương, dân sở tại đem dâng bảy vại nước trong. (Nguyễn) Ư Dĩ mừng rỡ tâu rằng:
-Đây chính là mệnh trời ban cho. Mệnh trời bao giờ cũng ứng báo qua những hình tượng có thể thấy và hiểu được. Nay chúa thượng vừa mới đến mà dân vui đem nước dâng lên, có lẽ đó là điềm được nước đó chăng?
Thái Tổ nghe vậy, liền nhận bảy vại nước và đóng doanh trại tại khu vực Ái Tử.”
Vào làm Trấn thủ Thuận Hoá, Nguyễn Hoàng đã thực hiện chính sách hai mặt. Mặt thứ nhất là mặt bên trong, mặt bí mật: ông vừa ra sức chiêu mộ nguời theo vào, vừa âm thầm tuyển chọn đội ngũ tay chân thân tín cho mình. Mục tiêu của Nguyễn Hoàng là phải xây dựng cho bằng được một cơ đồ riêng của mình, nhằm chuẩn bị đối đầu với họ Trịnh. Mặt thứ hai là mặt công khai, mặt bề ngoài: Nguyễn Hoàng vẫn bày tỏ sự thần phục đối với vua Lê và chúa Trịnh. Với cương vị là Trấn thủ Thuận Hoá (rồi từ năm 1570 thì được kiêm thêm cả Trấn thủ Quảng Nam), Nguyễn Hoàng đã đóng góp sức người và sức của vào cuộc chiến tranh chống lại nhà Mạc. Nguyễn Hoàng cũng nhiều phen đích thân cầm quân đi đánh nhau với quân đội nhà Mạc. Và, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, Nguyễn Ư Dĩ cũng luôn luôn theo sát Nguyễn Hoàng, ân cần chỉ vẽ và chân thành chia sẻ mọi niềm vui nổi buồn.
Theo ghi chép của các bộ sử thi, thì từ năm 1558, cho đến khi mất tại Thuận Hoá (chưa rõ là năm nào, chỉ biết là sau năm 1570), Nguyễn Ư Dĩ chỉ một lần rời Nguyễn Hoàng đế về thăm quê trong một thời gian rất ngắn, còn thì lúc nào ông cũng ở bên cạnh Nguyễn Hoàng. Ông thực sự là chỗ dựa tin cậy và vững chắc đầu tiên của Nguyễn Hoàng. Chính sử thời Nguyễn viết: “Trong hàng Công Thần Khai Quốc, Nguyễn Ư Dĩ thật xứng đáng đứng đầu vậy.”
Năm 1613, Nguyễn Hoàng qua đời, hưởng thọ 88 tuổi. Ông là người đầu tiên xây dựng nền tảng cho cơ nghiệp của họ Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là người có công tổ chức khai khẩn một vùng đất rộng lớn của đất nước. Có thể nói rằng một phần quan trọng của sự nghiệp này là nhờ ở sự giúp đỡ chân thành và có hiệu quả của Nguyễn Ư Dĩ.
Thời Nguyễn Ư Dĩ là thời loạn, thời mà đạo vua tôi, nghĩa thầy trò, tinh đồng liêu,... bị rẻ rúng, thời mà các phe cánh không ngừng hãm hại lẫn nhau. Tìm những người giữ được tình nghĩa thuỷ chung giữa thời ấy chẳng khác gì tìm hoa ở giữa sa mạc. Cho nên, hiếm thay, những người như Nguyễn Ư Dĩ! Kính ông, đâu chỉ có Nguyễn Hoàng?
Chuyện Nguyễn Ư Dĩ hình như chẳng phải chỉ là chuyện Nguyễn Ư Dĩ. Chuyện Nguyễn Hoàng hình nhu cũng chẳng phải là chuyện riêng của Nguyễn Hoàng. Nguyễn Ư Dĩ đến với Nguyễn Hoàng bằng tất cả tài năng và tất cả lòng thành. Nguyễn Hoàng cũng đón nhận Nguyễn Ư Dĩ với tất cả tài năng và tất cả lòng thành tương ứng. Cả Nguyễn Ư Dĩ và Nguyễn Hoàng đều đã là người thiên cổ, nhưng, những gì rút ra từ sự tương đắc của họ, rằng ở đời chỉ có người tài mới dùng được những người tài, rằng ở đời có sự thành tâm mới mong có được tất cả... vẫn là bài học cho muôn đời đó thôi.
SIÊU QUẦN TIÊN SINH NGUYỄN ĐĂNG ĐÀN
Sách Đại Nam liệt truyện (Tiền biên) đã dành một phần của quyển 6 để chép chuyện các bậc tử sĩ sáng danh như Võ Trường Tỏan, Đặng Đức Thuật, Nguyễn Đăng Đàn... Sách Đại Nam Nhất Thống Chỉ (quyển 2: Phủ Thừa Thiên, mục Nhân vật) cũng đã trân trọng chép chuyện Nguyễn Đăng Đàn.
Và, chuyện Nguyễn Đăng Đàn còn thấy chép trong sách Bán đại văn (nửa đời nghe) của Ớ Vận Tiên Sinh và trong vài bộ dã sử khác theo đó thì...
Nguyễn Đăng Đàn còn có tên gọi khác là Nguyễn Đăng Tường sinh và mất năm nào chưa rõ, chỉ biết ông nổi danh tài đức dưới thời trị vì của chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765). Ông có tên tự là Thuần Nhất, hiệu là Bất Nhị, sinh quán huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên (nay thuộc tỉnh Thừa Thiên -Huế). Sử cũ cho hay, ngay từ thuở thiếu thời, Nguyễn Đăng Đàn đã nổi tiếng thông minh, chữ mới thoáng nhìn đã nhớ, sách chỉ mới học qua đã thuộc. Tương truyền, lúc ông lên sáu tuổi thì trong họ nhà ông có một nhà quá nghèo, phải đi vay nợ một phú ông gần đó. Phú ông này rất gian tham, bắt phải làm tờ khế ước, nhưng biết người vay mù chữ, cho nên cho vay chỉ năm tiền mà hắn ghi trong tờ khế ước những mười. Chẳng dè lúc ấy Nguyễn Đăng Đàn đang chơi ở đấy và phát hiện ra sự hiểm ác này. Phú ông vừa xấu hổ, vừa phục tài cậu bé, bèn giả lả nói rằng:
- Ta nghe dòng họ Nguyễn Đăng có thần đồng nhưng chưa hề giáp mặt, cho nên mới vờ làm thế để thử xem có đúng cậu ta là thần đồng hay không mà thôi.
Đến tuổi vũ thược (tức là 13 tuổi ta. Theo Kinh lễ, thiên Nội tắc thì đến tuổi 13, con trai bắt đầu học múa theo nhạc thược, cho nên tuổi 13 cũng gọi là tuổi vũ thược) tài học của Nguyễn Đăng Đàn đã vượt trội hơn người, ông chẳng những đã làu làu nhiều thiên kinh sử mà còn bắt đầu để tâm suy gẫm những chỗ uyên thâm nhất trong sách vở của thánh hiền.
Từ năm 16 tuổi, khắp Ngũ kinh, Tứ thư, Bắc sử và Bách gia chư tử... Nguyễn Đăng Đàn đều rất am tường. Người Hương Trà và người phủ Thừa Thiên đương thời, không ai là không biết tiếng. Bấy giờ, hầu như tất cả cũng chỉ biết học là để tìm đường tiến thân, bám vào hoạn lộ để hưởng những đặc quyền đặc lợi do hoạn lộ mang lại, nhưng riêng Nguyễn Đăng Đàn thì ngược lại. Ông không một chút cảm tình với lối học củ nghiệp, càng không một chút ham mê danh lợi quan trường, bởi vì theo ông, đó là những thứ rất dễ làm vẩn đục đức sáng của học trò muôn thuở. Nghĩ vậy, Nguyễn Đăng Đàn đã lên núi Thanh Thuỷ, dựng nhà lá vách đất để ở và mở trường dạy học. Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 6) chép: “Ông đố chí hiểu cổ, khống thích lối văn chương khoa cứ sáo rỗng, tính tình điềm tĩnh và khiêm tốn, ưa làm điều thiện, vững tin ở đạo lí, không thèm danh lợi vinh hoa, tuy sống trong nhà lá vách đất mà lúc nào cũng vui. ông chẳng những giỏi về lí học mà còn thông thạo cả các sách Kiềm, Thao."
Nói giỏi về lí học tức là giỏi về phần tinh tuý và uyên thâm nhất của nho học, phần mà không phải bất cứ nhà Nho nào cũng đủ trí tuệ để có thể vươn tới được. Còn như nói thông thạo các sách Kiềm, Thao là thông thạo một lĩnh vực hoàn toàn khác. Kiềm tức Ngọc Kiềm còn Thao là Lục Thao -tên hai trong số hơn một chục bộ binh pháp nổi tiếng nhất của Trung Quốc thời cổ và trung đại. Thông thạo các sách Kiềm, Thao cũng có nghĩa là thông thạo binh pháp. Nói khác hơn, đến đây, ông đã đạt tới trình độ văn võ song toàn. Sách Bán đại văn (Nữa đời nghe) của Ớ Vận Tiên sinh chép về Nguyễn Đăng Đàn có đoạn:
“Có bậc phụ lão từ xa chống gậy đến, gọi:
-Dốc chí đèn sách, dùi mài kinh sử mà không chịu ra ứng thí cho thoả một phen, như hổ tùng phong, như long tùng vân, như cá vượt vũ môn, thế là thế nào?
Ông cung kính đáp:
-Hậu sinh chỉ muốn học để biết đại đạo của thánh hiền, nhằm sống sao cho khỏi sự lầm lỗi, trông lên không thẹn với Trời, cúi xuống cũng không xấu hổ với Đất, chẳng dám có chí gì khác hơn. Vả chăng, sống mà được toại sở nguyện, thử hỏi có gì vui hơn?
Phụ lão lại hỏi:
-Văn đã như phượng múa rồng bay, như thế chưa đủ sở nguyện hay sao mà còn đọc sách binh gia và tập rèn võ nghệ?
Ông lại cung kính đáp:
-Sự học là vô tận. Xưa nay chỉ có người nản chí không học chớ đâu có ai nản chí vì hết sách để học đâu. Hậu sinh sống giữa thời còn có trăm mối lo toan, đọc sách binh gia và tập rèn võ nghệ, trước là để hiểu cố nhân, sau là để phòng thân khi chẳng may gặp sự biến.”
Ngày 12 tháng 4 năm Giáp Tý (1744), chúa Nguyễn Phúc Khoát làm lễ lên ngôi vương, ý đồ xây dựng hẳn một quốc gia biệt lập với vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài ngày một thể hiện rõ rệt. Chiếu lên ngôi của Nguyễn Phúc Khoát có đoạn: “Nay Đất Trời rộng ban đức nhân, khiến cho khắp cõi bờ đều nhuần thấm. Ta thuận đạo lên ngôi, bá tính vạn vật từ đây đổi mới. Ngọc vàng rực rỡ. Lời tỏ truyền xa. ” (Đại Nam thực lục, Tiền biên, quyển 10). Được tin này, Nguyễn Đăng Đàn liền vội tìm đường đến tận Phú Xuân, lấy tư cách là một người học trò áo vải, dâng lên Nguyễn Phúc Khoát một bài sớ dài, viết bằng chữ Nôm. Theo ghi chép của Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyến 6) thì bài sớ ấy đại lược nói rằng: “Đạo làm vua nên lấy việc cầu cho được người hiền tài và lắng nghe lời can gián làm trọng. ” Cũng theo sách này thì bài sớ của ông “lời trang nghiêm mà thiết thực, Chúa khen lắm, muốn vào phủ để trao cho quan chức, nhưng, (Nguyễn) Đăng Đàn từ chối, không chịu nhận.
Việc làm nói trên của Nguyễn Đăng Đàn gây chấn động dư luận của cả xứ Đàng Trong đương thời. Thiên hạ không chỉ kính trọng tài năng mà còn rất phục nghĩa khí của ông. Học trò bốn phương tìm về xin thọ giáo Nguyễn Đăng Đàn ngày một đông. Thư tịch xưa cho hay, trường của Nguyễn Đăng Đàn không lúc nào là không có đến vài trăm môn sinh. Đến năm bảy mươi tuổi, Nguyễn Đăng Đàn vẫn say mê với nghề dạy học. Bất cứ ai cũng lấy việc từng được là học trò của Nguyễn Đăng Đàn làm điều vinh dự. Người đương thời đã tôn kính gọi Nguyễn Đăng Đàn là Siêu Quần Tiên Sinh nghĩa là bậc thầy vượt trội hơn tất cả.
Mới hay, vinh quang ở đời kể cũng lạ, kẻ tìm đủ cách để tìm kiếm thì chẳng được, người chỉ để tâm luyện tài tích đức, hững hờ với vinh quang thì vinh quang lại đến, rạng rỡ lạ thường. Như Nguyễn Đăng Đàn, tất cả những gì ông làm, nào có phải để được lừng danh tài đức trong khắp thiên hạ. Biệt danh Siêu Quần Tiên Sinh chính là do thiên hạ thành kính tôn phong cho ông đó thôi.
TÌNH BẠN CỦA TƯỚNG NGUYỄN HỮU CHỈNH
Nguyễn Hữu Chỉnh (7-1787) người làng Đông Hải, huyện Chân Phúc (nay là huyện Nghi Lộc, tinh Nghệ An) vốn là võ tướng của chúa Trịnh. Sau, Nguyễn Hữu Chỉnh bỏ chúa Trịnh mà về với Tây Sơn. Năm 1786, ông có công trong việc cùng Nguyễn Huệ đại phá quân Trịnh. Vậy mà, năm 1787, ông lại mưu phản Tây Sơn nên bị Tây Sơn giết
Sách Lịch triều tạp kỉ (quyển 4)chép chuyện Nguyễn Hữu Chỉnh với bạn là Đỗ Thế Long như sau:
“Long là người có tài năng và giỏi mưu lược nhưng tính tình lại rất giảo hoạt. Có lần, Chỉnh bị giam vì phạm tội thiếu nợ công quỹ. Khi ấy, Long cũng bị giam vì một lí do riêng, cho nên, cùng ở chung một nhà ngục với Chỉnh. Nhân đó, hai bên tương đắc với nhau.
Khi Chỉnh dẫn quân Tây Sơn ra lấy Thăng Long thì Long hãy còn ở tù. Chỉnh sai người đến thả Long ra và mời đến tư dinh, đối đãi như thượng khách. Hai người bàn việc nước, Long nói lời nào cũng được Chỉnh tin theo. Lúc chúa Trịnh Tông (bị bắt rồi tự tử mà chết), Chỉnh nói với Long rằng:
-(Trịnh) Tông không tin ta nên mới tự tử, giá thử như (Trịnh) Tông cứ việc sống, thế nào ta cũng cho (Trịnh) Tông hưởng địa vị thanh nhàn, chẳng sợ mất gì tước lộc cả.
Long nghe Chỉnh nói thế, cứ tưởng rằng Chỉnh hãy còn tử tế với Chúa (Trịnh), bèn nhân đó bàn rằng:
-Ông tuy bên trong thì có lòng nhân nghĩa, nhưng bên ngoài thì hình tích chẳng khác gì thằng giặc tàn bạo. Vì sao ư? Vì giờ đây, ông có cái thế dời non lấp biến, giúp cho Tây Sơn không biết kể bao nhiêu cho hết. Nhưng, ông (hãy nhớ lại đi), khi mới được trao quyền cầm quân rồi được phong tước Hầu, có gì là không phải ơn huệ của Chúa đâu? Thế mà bây giờ ông làm cái việc nên danh nghĩa (phù Lê) diệt Trịnh thì thật là quá quắt lắm. Nếu ông cho việc chúa Trịnh hiếp đáp vua Lê là có lỗi, thì tại sao ông không nghĩ đến công lao tôn phò (của nhà Chúa đối với vua Lê) từ hơn hai trăm năm trước đây? Chuộng mới mà bội phản cũ là bất nghĩa, tìm vạch lỗi (của Chúa) mà che lấp công (của Chúa) là bất nhân. Vì (gồm đủ cả) bất nghĩa và bất nhân nên mới gọi là thằng giặc tàn bạo. Nam nhi lập thân, lẽ đâu lại chịu mang tiếng là thằng giặc tàn bạo?
Chỉnh nghe vậy thì tái mặt, nhưng vẫn từ tốn trả lời:
-Gầy dựng là ơn riêng, cương thường là đạo lớn. Tôi làm việc này cũng chỉ để vun đắp cho cương thường, phải nói là chí nhân và đại nghĩa, hà cớ gì mà bác lại nói là thằng giặc tàn bạo? Chuyện này, nếu tôi không sai thì bác nói quá đáng.
Long nói:
-Vua Lê đã được tôn rồi, cần gì phải đợi ông phò? Chẳng qua ông giả mượn danh nghĩa để hòng tranh đoạt mà thôi. Nước nhà đang như chiếc âu vàng chưa hề sứt mẻ, thế mà ông vô cớ đưa người khác đến, trên thì giết chủ soái, dưới thì hại nhân dân, người ta còn cho ông là cú vọ lang sói nữa kia. Tôi bảo ông là thằng giặc tàn bạo thì đã có gì là quá đáng? Này ông dựa vào Tây Sơn thì có khác nào cáo mượn oai hùm, nếu những người có lòng trung thành với chúa Trịnh mà biết, ắt sẽ có biến loạn. Một mai Tây Sơn bỏ ông mà đi, thì với thân phận bé nhỏ như vậy, lại cộng thêm cái tội tày trời kia, hỏi ông còn biết nương vào đâu?
Chỉnh tuy chỉ muốn nghiến răng căm giận, nhưng vẫn cố đổi nét mặt rồi tươi cười mà nói rằng:
-Vậy thì bạn của lang sói và cú vọ thử bàn tính lối thoát cho lang sói và cú vọ xem sao?
Long liền nói:
-Ông ra đây chẳng qua là chỉ cốt để báo thù bọn kiêu binh đã giết quan Trấn thủ trước đây là Quận Huy mà thôi. Nay, kiêu binh đã bị diệt, ông đã toại nguyện rồi còn gì. Nếu ông biết mau chuyển lối, khéo điều hành với bọn (Nguyễn) Huệ và (Vũ Văn) Nhậm của nhà Tây Sơn, khiến cho họ được no say rồi quay về, xong, chọn lấy người hiền tài trong tôn thất họ Trịnh mà lập làm Chúa, còn ông chỉ lo việc phò tá, thì đó là công hiếm có ở đời.
Chỉnh nói:
-Phải đấy. Để tôi suy nghĩ. Bác hãy về đi, nhớ kiếm câu gì nên nói và cố sửa sang lời lẽ sao cho đẹp rồi đợi xem có ai ưa mà trổ tài, may ra có thể tốt đấy!
Long vừa ra khỏi, Chỉnh nói:
-Long là rồng. Nên cho rồng uống nước chớ không nên cho nó ở trên cạn khiến nó có thể làm mê hoặc thiên hạ.
Xong, Chỉnh liền sai người đón ở ngoài cổng, bắt Long trói lại, đưa đi dìm xuống dưới nước sông Nhị, để cho... rồng theo nước.”
Nguyễn Hữu Chỉnh và Đỗ Thế Long gặp nhau trong tù không đáng kể bằng việc gặp nhau trong sự... giảo hoạt, cổ nhân có câu: “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” là để chỉ những trường hợp đại loại như thế này đây. Song le, kẻ giảo hoạt làm gì có nghĩa tình, cho nên, chúng đánh giết lẫn nhau thì có gì là lạ đâu.
Nguyễn Hữu Chỉnh giết Đỗ Thế Long để rồi sau đó không bao lâu, đến lượt Nguyễn Hữu Chỉnh bị Tây Sơn diệt. Thế gian nhờ đó mà bớt được một kè thất đức, nhưng âm phủ từ đó lại phải nhận thêm một hồn ma bạo tàn.
Than ôi, nếu ai cũng biết trước rằng cái chết sẽ đến cụ thể ra sao thì có khi họ sẽ sống tử tế hơn. Chắc chắn là như thế mà. 
ĐẠM AM NGUYỄN CƯ TRINH: TÀI KIÊM VĂN VÕ
“(Nguyễn) Cư Trinh học rộng, thơ hay, tài kiêm văn võ. Khi cầm quân đóng ở dinh Bình Thuận và Gia Định, ông thường cùng tổng binh Hà Tiên là Tông Đức Hầu Mạc Thiên Tứ lấy văn chương đáp tặng nhau, ông có hoạ 10 bài thơ vịnh Hà Tiên của (Mạc Thiên Tứ)”.
Lê Quý Đôn (Phủ biên tạp lục) Nguyễn Cư Trinh hiệu là Đạm Am, người làng An Hoà, huyện Hương Trà, (nay thuộc tình Thừa Thiên -Huế). Tổ tiên Nguyễn Cư Trinh vốn người họ Trịnh. Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, một người của họ Trịnh, tên là Trịnh Cam (quê ở vùng Thiên Lộc, nay thuộc huyện Cam Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) nuôi chí báo thù cho họ Lê, bèn chạy vào làng An Hoà, huyện Hương Trà, âm thầm chuẩn bị lực lượng để dấy nghĩa. Nhưng việc đang tiến hành dở dang thì ông qua đời, con cháu của ông thấy không thể nối chí đánh đuổi nhà Mạc, liền đổi thành họ Nguyễn và định cư tại An Hoà, đến Nguyễn Cư Trinh là đời thứ sáu.
Bấy giờ, huyện Hương Trà có hai làng rất đặc biệt. Một là làng Đồng Di lừng danh hiếu học. Hai là làng An Hoà nức tiếng đỗ đạt cao, vì thế, dân gian vùng Hương Trà có câu rằng: “Học Đồng Di, thi An Hoà”. Thân phụ của Nguyễn Cư Trinh là Nguyễn Đăng Đệ. Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 5) chép rằng: Nguyễn Đăng Đệ “là người ôn nhã và trung chính, văn chương uyên bác. Khi Nguyễn Đăng Đệ còn nhỏ, có thầy tướng trông thấy, nói rằng, mắt ông có tàng thần, đấy là cốt cách cao quý, chỉ phải tội tai thấp cho nên không thể đỗ cao. ” Về sau, quả là ông chỉ đỗ có Sinh Đồ (tức Tú tài), nhưng làm quan cẩn trọng, đức độ thanh liêm, trên thì phù chúa, dưới là dân gian, thảy đều mến phục, ông làm quan, trải thăng dần đến chức Kí lục. Nguyễn Đăng Đệ có hai người con được chính sử nhà Nguyễn trân trọng ghi chép, đó là Nguyễn Đăng Cẩn và Nguyễn Cư Trinh.
Nguyễn Cư Trinh sinh năm Bính Thân (1716). Ngay từ nhỏ, ông đã được thân phụ là Nguyễn Đăng Đệ trực tiếp dạy dỗ. Vốn thông minh và hiếu học, lại may mắn được thụ bẩm tri thức từ người cha đức độ và tài ba, chẳng mấy chốc, Nguyễn Cư Trinh đã nổi tiếng là thần đồng. Bấy giờ, đất Hương Trà có đến hai thần đồng. Một là Nguyễn Cư Trinh và hai là người anh con bác của ông: Nguyễn Đăng Thịnh. Sau, cả hai thần đồng này đều làm quan cho chúa Nguyễn Phúc Khoát. Đại Nam liệt truyện chép rằng: “phàm là điển chương pháp độ (của phủ Chúa) đều do Nguyễn Đăng Thịnh tạo lập rành mạch, còn phàm là tư lệnh (của phủ Chúa) thì đều do Nguyễn Cư Trinh soạn ra. ”
Năm Canh Thân (1740), Nguyễn Cư Trinh đỗ Hương cống (tức Cử nhân). Năm đó ông 24 tuổi. Suốt 27 năm làm quan. Nguyễn Cư Trinh đã có ba cống hiến nổi bật như sau:
Về chính trị: Nguyễn Cư Trinh là người có nhiều ý tưởng cải cách khá táo bạo. Những ý tưởng cải cách này thể hiện tập trung nhất trong bức thư ông dâng lên chúa Nguyễn Phúc Khoát vào cuối năm Tân Mùi (1751). Mở đầu bức thư đầy tâm huyết này, ông viết: “Dân là gốc của nước. Gốc mà không vững bền thì nước chẳng thể yên. Nếu ngày thường mà không biết lấy ơn nghĩa để cố kết lòng dân, thì thử hỏi đến lúc có việc sẽ nương tựa vào đâu?" Sau lời tâm huyết nói trên, Nguyễn Cư Trinh đề nghị phủ Chúa cần lưu ý bốn điều đang gây lo ngại cho xã hội. Một là nạn quan lại gây phiền hà nhũng nhiễu. Hai là tệ nạn ăn hối lộ của quan lại địa phương diễn ra rất trắng trợn mà không thấy xử phạt gì. Ba là nên miễn hoặc giảm thuế cho những người nghèo khó. Và, bốn là hạn chế việc sai quan của phủ Chúa về các địa phương mà không nói rõ chức phận, khiến cho bọn này cứ mặc sức tác oai tác quái đối với dân.
Thư ấy lời lẽ thống thiết mà chân thành, tiếc thay, Chúa đọc xong rồi... đem cất, không một lời nói lại. Nguyễn Cư Trinh buồn rầu xin từ chức nhưng không được.
Về quân sự: Nguyễn Cư Trinh là người có biệt tài cầm quân, dẫu ông chưa từng học ở bất cứ một lớp đào tạo võ quan nào. Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát trị vì (1738 -1765), ông là người được tin cậy, trao quyền trấn giữ ở Bình Thuận và ở Gia Định. Chính ông là người đã có công vỗ yên dân chúng và mở rộng đất đai cho xứ Đàng Trong. Các vùng đất như Tầm Bôn, Lôi Lạp và Tầm Phong Long (nay tương ứng với khu vực miền Trung và một phần miền Tây Nam Bộ) là do ông đem về. Nói theo cách nói của các sử gia nhà Nguyễn thì: “Cõi Nam mở đất đến đây rất rộng, tất cả đều là do công của Nguyễn Cư Trinh”. Điều đáng nói là Nguyễn Cư Trinh cầm quân, nhưng thường thu phục đối phương bằng uy đức chứ không phải là bằng trận mạc.
Về văn chương: Nguyễn Cư Trinh là một trong những cây đại bút của xứ Đàng Trong giữa thế kỉ 18. Năm 1750, khi còn làm Tuần phủ Quảng Ngãi, để trấn an đồng bào các dân tộc ít người (mà sử cũ coi là mọi Thạch Bích), ông đã viết Truyện Sãi Vãi và cho lưu truyền trong nhân dân địa phương. Tuy lí do ra đời chỉ đơn giản như vậy, nhưng Truyện Sãi Vãi thực sự là một trong những án văn Nôm có giá trị của xứ Đàng trong, được nhân dân đương thời ưa thích. Khi cầm quân trấn giữ ở Gia Định, Nguyễn Cư Trinh có dịp được tiếp xúc với những áng thơ văn của các tác giả trong Chiêu Anh Các do Mạc Thiên Tứ sáng lập năm 1736. Ông đã viết nhiều bài thơ chữ Hán, hoạ lại mười bài xướng của Mạc Thiên Tứ về mười cảnh đẹp của Hà Tiên. Những bài thơ hoạ này của Nguyễn Cư Trinh đã được Bảng nhãn Lê Quý Đôn trân trọng ghi lại. Theo Lê Quý Đôn, chính nhờ những người như Nguyễn Cư Trinh mà: “Văn mạch một phương dằng dặc không dứt, thực đáng khen lắm”, cần lưu ý rằng, Bảng nhãn Lê Quý Đôn là một người cực kì khó tính, ông không dễ gì ban lời khen tặng đối với bất cứ ai.
Bởi ba cống hiến nổi bật kể trên, sinh thời, Nguyễn Cư Trinh rất được nể trọng. Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 5) nhận xét về ông như sau: “Nguyễn Cư Trinh là bậc tài lược hơn người, đã thế lại còn giỏi quyết đoán. Những việc ông tâu bày phần nhiều đều tỏ được lòng trung và sự phải đạo. Khi coi việc quân ở cõi Nam, ông có công mở đất đai, giữ yên biên cõi, có huân vọng thật là siêu việt. ”
Sinh thời, Nguyễn Cư Trinh cũng là người nổi danh cương trực. Cũng sách Đại Nam liệt truyện nói trên đã chép lại chuyện cương trực của ông như sau: Năm 1765, khi Nguyễn Phúc Khoát qua đời, Nguyễn Phúc Thuần được đưa lên nối nghiệp, ông cũng được gọi về phủ Chúa để cai quản bộ Lại kiêm quản Tào Vận Sứ. Bấy giờ, quyền thần Trương Phúc Loan bắt đầu lộng hành, thường hay triệu các quan tới nhà riêng bàn việc chứ không bàn ở phủa Chúa. Nguyễn Cư Trinh biết được, liền nghiêm mặt mắng rằng:
-Bàn việc công ở phủ đường là chế độ đã định rõ từ lâu, Trương Phúc Loan sao dám vô lễ mà làm trái như thế? Thiên hạ mà loạn thì hẳn là do con người này thôi.
Các quan nghe Nguyễn Cư Trinh nói vậy, liền không dám đến nhà của Trương Phúc Loan nữa. Trương Phúc Loan giận ông lắm, nhưng cũng chẳng dám làm gì.
Năm 1767, Nguyễn Cư Trinh qua đời, hưởng thọ 51 tuổi. Đất nước mất một đấng tài hoa, văn võ song toàn, ông có hai người con trai là Nguyễn Cư Tuấn và Nguyễn Cư Sĩ, cũng đều đáng xếp vào bậc có tài.
- 9 -
Chiêu vũ hầu nguyễn hữu dật - một tài năng nổi bật của xứ đàng trong
Có thể gọi Nguyễn Hữu Dật (1604-1681) là một danh tướng hoặc một nhà thiên văn, lại cũng có thể gọi ông là một văn thần xuất sắc. Tài năng của ông bộc lộ rất sớm và trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Nay xin theo Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 3) mà lược kể về ông như sau:
Nguyễn Hữu Dật là con của Tham Tướng Chưởng Cơ Nguyễn Triều Văn, vốn người huyện Tống Sơn (Thanh Hoá). Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào Trấn thủ đất Thuận Hoá (vùng tương ứng với miền đất từ phía nam Hà Tĩnh đến hết tỉnh Thừa Thiên -Huế ngày nay), nhằm tạo lập cơ đồ riêng cho mình, Nguyễn Triều Văn là một trong số những người đầu tiên đi theo. Đến đất phương Nam, Nguyễn Triều Văn định cư tại vùng nay thuộc huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình. Và, Nguyễn Hữu Dật chào đời tại đó.
Sử cũ chép rằng:
“Lúc mới được vài ba tuổi, khi chơi với lũ trẻ cùng trang lứa, (Nguyễn Hữu) Dật thường bày trận giả, cờ xí và đội ngũ đàng hoàng, xong, còn tự nhận mình làm tướng. (Nguyễn) Triều Văn thấy thế thì mừng thầm, cho là con mình ngày sau ắt sẽ thành người tài, bèn quyết cho đi học. Ông may gặp được dị nhân, dạy cho binh phép, vì thế, (Nguyễn Hữu) Dật tiến tới rất nhanh.”.
Khoảng hơn mười tuổi, Nguyễn Hữu Dật đã nổi tiếng thần đồng, võ nghệ đã cao cường mà văn chương chữ nghĩa cũng khó có ai bì kịp. Năm Kỉ Mùi (1619), lúc vừa mới 15 tuổi, Nguyễn Hữu Dật đã được chúa Nguyễn Phúc Nguyên bổ làm Văn Chức. Đó là vị quan văn trẻ tuổi nhất của chính quyền họ Nguyễn lúc bấy giờ. Năm Quý Hợi (1623), do tâu việc trái với ý chúa, Nguyễn Hữu Dật bị chúa Nguyễn Phúc Nguyên bãi chức. Trở về nhà, thay vì buồn nản, ông lại dốc chí học tập, vì thế đúng ba năm sau, năm Bính Dần (1626), Nguyễn Hữu Dật lại được phục chức. Lần này, chỉ trong vòng một khoảng thời gian rất ngắn, ông đã được chúa Nguyễn Phúc Nguyên tin cậy và yêu quý, khen ông là người thông thái về phép tắc chính trị, cho nên, tuy vẫn bổ ông làm Văn Chức, nhưng thăng quyền được dự bàn các việc cơ mật của phủ Chúa. Bấy giờ, trong số những người được quyền dự bàn các việc cơ mật của phủ Chúa, không một ai mới ngoài hai mươi tuổi như ông.
Năm Đinh Mão (1627), tức là năm vừa 23 tuổi, một bước ngoặt mới trong cuộc đời làm quan của Nguyễn Hữu Dật bắt đầu. Từ đây, cuộc nội chiến lâu dài và quyết liệt giữa họ Trịnh với họ Nguyễn đã diễn ra, Nguyễn Hữu Dật được chuyển sang ngạch quan võ. Dưới đây là bản lược kê mấy sự kiện liên quan đến cuộc đời làm quan võ của Nguyễn Hữu Dật:
-Năm 1627: Nguyễn Hữu Dật được trao chức Giám chiến. Thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, chức Giám chiến là chức chịu trách nhiệm thông báo thường xuyên và trung thực về mọi diễn biến của chiến trường cho chúa, đồng thời, chuyển đạt nhanh chóng và chính xác các mệnh lệnh của chúa đến chiến trường. Ngoài ra, Giám chiến cũng có quyền được cùng với tướng cầm cờ Tiết chế (tướng tổng chỉ huy) bàn các việc về quân cơ.
-Năm 1631: Nguyễn Hữu Dật được cùng với Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ đi chỉ huy việc đắp luỹ Nhật Lệ (cũng tức là Luỹ Thầy). Đây là một công việc rất khó khăn, trực tiếp liên quan đến thành bại của chúa Nguyễn trong toàn bộ quá trình chống đỡ lâu dài với họ Trịnh sau này. Và, Nguyễn Hữu Dật đã hoàn thành xuất sắc công việc được giao.
-Năm 1633: Vì là người có kinh nghiệm chỉ huy đắp lũy, Nguyễn Hữu Dật được chúa Nguyễn Phúc Nguyên sai cầm quân đi đắp luỹ Trường Sa. Ông đã hoàn thành công việc trước thời hạn. Cũng năm ấy, chúa Trịnh Tráng cho quân tràn vào đánh chúa Nguyễn lần thứ hai. Nguyễn Hữu Dật đã chỉ huy quân đắp luỹ, đánh cho quân chúa Trịnh một trận tơi bời ở ngay phía ngoài luỹ Trường Sa (Quảng Bình).
-Năm 1648: Chúa Nguyễn (lúc này là Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần) đã thăng Nguyễn Hữu Dật làm Cai Cơ (là chức võ quan thuộc hàng cao cấp). Khi ấy, Nguyễn Hữu Dật 44 tuổi. Ngoài chức Cai Cơ, chúa Nguyễn Phúc Tần còn thăng Nguyễn Hữu Dật làm Kí lục dinh Bố Chính (Quảng Bình). Kí lục là chức cũng thuộc hàng cao cấp của quan văn. Bố Chính là vùng tiếp giáp với đất đai của họ Trịnh, nếu không phải là người vừa có tài, vừa được chúa Nguyễn tin cậy, quyết không thể nhận một lúc hai chức lớn như thế.
-Năm 1655: Lần đầu tiên, chúa Nguyễn cho quân vượt sông Gianh tràn ra đánh thẳng vào đất đai của họ Trịnh. Năm này, Nguyễn Hữu Dật được trao chức Đốc Chiến. Với chức này, quyền ông chỉ dưới Tiết Chế Thuận Nghĩa hầu Nguyễn Hữu Tiến mà thôi.
-Năm 1661: Nguyễn Hữu Dật được thăng làm Chưởng Cơ. Đây là chức võ quan cao cấp, trên cả Cai Cơ. Năm ấy, ông 57 tuổi. Bấy giờ, tổng số người được thăng đến chức này đếm không quá mười đầu ngón tay.
-Năm 1664: Tức là năm vừa tròn 60 tuổi, Nguyễn Hữu Dật được thăng đến tột đỉnh của ngạch võ quan: Chưởng Doanh Tiết Chế. Cũng năm này, ông được phong tước Chiêu Vũ hầu.
Viết về Nguyễn Hữu Dật, sử cũ không bao giờ quên kể chuyện tài coi thiên văn của ông. Xin được theo bộ sách đã nói ở trên mà lược thuật lại hai trong số nhiều lần coi thiên văn đặc biệt của ông.
Lần thứ nhất xảy ra vào mùa thu năm Đinh Dậu (1657). Bấy giờ, Nguyễn Hữu Dật đang gữ chức Đốc Chiến, tham gia chỉ huy lực lượng quân chúa Nguyễn tiến đánh ra tận Nghệ An. Đó là những ngày nắng ráo, quân chúa Trịnh bí mật tập kết ở Đồng Hôn (Nghệ An), tình thế rất nguy cấp. Nghe quân do thám báo lại, Tiết Chế Nguyễn Hữu Tiến cũng không khỏi lo lắng, nhưng Nguyễn Hữu Dật lại nói, đại ý rằng:
-Tôi đã xem thiên văn, biết ngày Quý Hợi là ngày 25 tháng này thế nào cũng sẽ có mưa to lụt lớn. Giặc đóng nơi luỹ thấp, ta chỉ cần chờ đến ngày đó đốc quân ra đánh thì nhất định sẽ phá được.
Ngày 25, quả nhiên mưa như trút, nước dâng lênh láng khắp nơi, quân chúa Nguyễn chỉ dùng sức ít mà cũng cản phá được. Nguyễn Hữu Tiến phải khen Nguyễn Hữu Dật tính giỏi như thần!
Lần thứ hai xảy ra vào mùa thu năm 1658, cũng tại Đồng Hôn (Nghệ An). Lúc này, cuộc tranh chấp luỹ Đồng Hôn đang diễn ra rất quyết liệt, cho nên Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến rất lo. Nguyễn Hữu Dật liền cười mà nói đại ý rằng:
-Tôi xem thiên văn, biết đến ngày Mậu Thìn tức là ngày 11 tháng này thế nào cũng có mưa to lụt lớn. Hãy chờ đến ngày này sẽ cất quân, nhất định sẽ thắng lớn.
Ngây 11, quá nhiên có mưa to, và một lần nữa, quân của chũa Trịnh lại bị đại bại. Từ đó, tiếng tăm về tài xem thiên văn của Nguyễn Hữu Dật ngày một lan xa.
Mùa xuân năm Tân Dậu (1681), Nguyễn Hữu Dật bị bệnh mà qua đời, hưởng thọ 77 tuổi. Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần truy tặng ông là Tán thị Tĩnh Nạn Công thần. Đặc Tiến Phụ Quốc, Thượng Tướng Quân, Cẩm Y Vệ, Tả Quân Đô Đốc phủ, Chưởng Phù Sự, Chiêu Quận Công và ban cho tên thuỵ là Cần Tiết.
Vì sao Nguyễn Hữu Dật nhiều tài đặc biệt như thế? Tất nhiên là bởi nhiều lí do khác nhau, tuy nhiên, tác giả bài viết này xin được tiết lộ một trong những lí do đó: ông là hậu duệ của Nguyễn Trãi, là thân phụ của hai danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh và Nguyễn Hữu Hào! Cả nhà ông, cả dòng họ ông có rất nhiều người giỏi, chớ có phải riêng mình ông đâu.
LỘC KHÊ HẦU ĐÀO DUY TỪ - NHÀ BINH PHÁP LỪNG DANH CỦA THẾ KỈ 17
Đào Duy Từ (1572 -1634) sinh trưởng ở xứ Đàng Ngoài nhưng lại tạo lập sự nghiệp ở xứ Đàng Trong. Sinh thời, ông được Sài Vương Nguyễn Phúc Nguyên tôn làm thầy, ông là tác giả của bộ Hổ Trướng Khu Cơ, là nhà binh pháp lừng danh nhất lịch sử nước nhà thế kỉ 17.
Sách xưa cho biết, Đào Duy Từ là người làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn (nay là xã Vân Trai, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá). Ngay từ lúc còn tấm bé, Đào Duy Từ đã nổi tiếng thông minh, qua tuổi thiếu niên, ông đã nổi tiếng là người thông minh và uyên bác kì lạ. Đến tuổi đôi mươi, sức học của Đào Duy Từ đã khó có ai sánh kịp. Trịnh Nguyễn diễn chí chép rằng:
“Cha mẹ mất sớm nhưng nhờ bẩm tính thông minh, tuổi mới hai mươi mốt mà ông đã thông hiểu kinh sử cổ kim, các sách kinh điển của Nho gia như Ngũ kinh (gồm Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu -NKT), Tứ Thư (gồm Luận ngữ, Đại học, Trung dung và Mạnh Tử -NKT), cho đến Bấc sử (sứ Trung Quốc -NKT), Bách gia chư tử (sách của các nhà tư tưởng nổi bật ở Trung Quốc thời Đông Chu -NKT) và Tam giáo (Nho, Phật, Đạo -NK.T), Cửu lưu (Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Âm dương gia, Mặc gia, Tạp gia, Danh gia, Tung hoành gia, Nông gia -NKT) rồi văn chương, thi phú,... tất cả đều tinh xảo. Nếu không phải là bậc có tài xuất quỷ nhập thần hoặc là những đấng trí giả có tài phò vua giúp nước thì quyết không thể sánh nổi với ông. Người đương thời nhân đó, khen ngợi mà gọi ông là Gia Cát tái sinh (tức Khổng Minh Gia Cát Lượng sống lại -NKT).
Nghe tin triều đình (vua Lê, chúa Trịnh Tùng -NKT) sắp mở khoa thi để chọn người hiền sĩ, Đào Duy Từ thu xếp hành trang hăm hở định ngày lên đường ứng thí. Nhưng, Khảo quan ở trường thi, theo đúng luật định, rằng những ai là con của những người làm nghề hát xướng, thì dẫu thông hiểu kinh sử đến đâu cũng không được đi thi để rồi mong đỗ đạt mà liệt vào hàng cống cử (tức Cử nhân -NKT), nên không cho Đào Duy Từ tham dự (Đào Duy Từ là con của kép hát Đào Tá Hán, hành nghề ở đất Thanh Hoá -NKT). Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ đành nuốt hận trở về, ngày đêm nung nấu ý chí tìm kế lập thân. Chuyện này ông giấu kín, cả đến anh em, họ hàng cũng không ai hay biết.
Nghe đồn, chúa phương Nam là Thuỵ Quân Công (chỉ Nguyễn Phúc Nguyên, tức chúa Sãi hay chúa Phật -NK.T) thường rộng ban ân đức, phong độ không khác gì vua Thuấn, vua Nghiêu, chính sách cầu người hiền tài thì phỏng theo thời Đường (thời trị vì của vua Nghiêu-NK.T), thời Ngu (là thời trị vì của vua Thuấn -NKT), danh tiếng vang khắp nơi, hào kiệt ở khắp đâu đâu cũng tìm đến, đã thế, xứ ấy lại mưa thuận gió hoà, thiên hạ giàu có, cảnh tượng như có đấng đế vương mới dấy lên, tương lai ắt sẽ thành nghiệp lớn... cho nên, Lộc Khê Hầu tin là nếu vào đó, công danh của mình sẽ chẳng mấy chốc mà được như Trương Tử Phòng thuở xưa về với Hán, như Ngũ Tử Tư về với nhà Ngô... mai sau dẫu có thể nào cũng không uổng phí một đời. Và, nói là làm..
Sách Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 3) chép rằng:
“Đào Duy Từ quyết chí vào Nam. Đến Vũ Xương, ở hơn một tháng mà vẫn chưa có ai biết ông là người thế nào. Nghe đồn ở Quy Nhơn có quan Thám Lí là Trần Đức Hoà đang rất được Chúa tin yêu, ông bèn vào Quy Nhơn và nương thân làm nghề đi ở chăn trâu cho một gia đình phú ông ở xã Tòng Châu. Một hôm, gia đình phú ông ấy đặt tiệc, mời các danh sĩ tới để uống rượu và ngâm thơ. Chiều ấy, Đào Duy Từ cho trâu về sớm rồi cầm roi chăn trâu đứng ở phía trước, cùng các danh sĩ bàn luận cổ kim kinh sử. Thấy ông thông hiểu sâu sắc, đám tiệc phải kinh ngạc. Phú ông lấy làm lạ, bèn đem việc ấy thưa với quan Thám Lí Trần Đức Hoà.
(Trần) Đức Hoà nói chuyện với (Đào) Duy Từ, thấy (Đào) Duy Từ học rộng, biết nhiều thì đem lòng yêu quý, bèn mời đến dạy học rồi gả con gái cho. (Đào) Duy Từ thường ngâm bài Ngoạ Long Cương, Trần Đức Hoà nghe được liền nói: (Đào) Duy Từ là Ngoạ Long (tức Khổng Minh Gia Cát Lượng -NK.T) đấy chăng.”.
Hai sách nói trên cho biết khá tỉ mỉ thêm rằng, một lần vào phủ chúa, Thám Lí Trần Đức Hoà đã đưa bài Ngoạ Long Cương của Đào Duy Từ cho Chúa xem. Lập tức, chúa Nguyễn Phúc Nguyên sai đưa Đào Duy Từ tới yết kiến. Để thử, chúa Nguyễn Phúc Nguyên liền mặc áo trắng, đi hài xanh, ra đứng ở cửa nách để đợi. Vừa thoáng trông thấy, Đào Duy Từ liền dừng lại, có ý muốn quay gót trở ra. Chúa biết, liền vào mang mũ áo chỉnh tề ra đón. Bấy giờ, Đào Duy Từ mới chịu lạy chào. Sau một lúc đàm đạo, thấy Đào Duy Từ quả thật uyên bác hơn người, chúa Nguyễn Phúc Nguyên liền ân cần nói:
-Sao khanh đến với ta muộn thế?
Nói xong, liền phong ngay cho Đào Duy Từ chức Nha Uý Nội Tán, tước Lộc Khê Hầu, quyền quản quân cơ trong ngoài và tham dự chính sự, đồng thời, tôn kính gọi Đào Duy Từ là Thầy, thường mời vào phủ để bàn luận các việc. Với chúa Nguyễn, Đào Duy Từ đã có mấy công lao lớn, được sử sách xưa ghi lại như sau:
- Một là: Soạn sẵn các câu ứng đối cho mọi tình huống, giúp sứ giả của chúa Nguyễn Phúc Nguyên là Lại Văn Khuông hoàn thành xuất sắc chuyến đi Đàng Ngoài. Sách Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 3) chép: “Lại Văn Khuông đến Đông Đô, chúa Trịnh Tráng cho triệu vào để hỏi, Lại Văn Khuông biện bạch trôi chảy, không chịu khuất, khiến chúa Trịnh Tráng cũng phải sợ tài, bèn tiếp đãi Lại Văn Khuông rất hậu. Lại Văn Khuông bèn đem mâm đồng đựng vàng và lụa dâng lên, xong là thừa dịp đi ngay, về phía chúa Trịnh Tráng, đến lúc mở đáy mâm ra, thấy có một đạo sắc và một tấm thiếp, trên ghi mấy chữ: Mậu nhi vô dịch; Mịch phi kiến tích; Ái lạc tâm thường; Lực lại tương địch. Chúa Trịnh Tráng đưa cho các quan xem, nhưng chẳng ai hiểu gì cả, duy chỉ có quan Thiếu Uý là Phùng Khắc Khoan thì giải theo lối Hán tự chiết ngữ mà nói rằng, đó chẳng qua là bốn chữ Dư bất thụ sắc (Ta không nhận sắc). Chúa Trịnh Tráng giận lắm, sai người đuổi theo thì Lại Văn Khuông đã đi xa rồi. Chúa Trịnh Tráng muốn đem quân vào đánh, nhưng lúc ấy đất Cao Bằng và Hải Dương loạn lạc, đành thôi. Lại Văn Khuông về đến nơi, chúa (Nguyễn Phúc Nguyên) mừng mà nói rằng:
-Đào Duy Từ đúng là Tử Phòng, là Khổng Minh ngày nay vậy.
Nói rồi, ban thưởng cho hai người rất hậu, lại còn cho Lại Văn Khuông được thăng chức Cai Họp.”
-Hai là: Vạch kế hoạch và trực tiếp chỉ huy việc xây dựng luỹ Trường Dục và luỹ Nhật Lệ. Lũy Trường Dục nối núi Trường Dục với bãi Hạc Hái, cò tầm quan trọng vô cùng đặc biệt ở phía bắc xứ Đàng Trong. Luỹ Nhật Lệ nối cửa biển Nhật Lệ với núi Đâu Mâu. Luỹ này cũng gọi là luỹ Thầy. Cùng với luỹ Trường Dục, luỹ Nhật Lệ đã góp phần bảo vệ vững chắc vùng tiếp giáp với Đàng Ngoài của họ Trịnh.
-Ba là: Kén chọn và giới thiệu người hiền tài cho chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Bình sinh, Đào Duy Từ là người biết kính trọng và tận dụng tài năng của người khác, cho dẫu đó là người trẻ tuổi hơn mình rất nhiều. Trong số những người được ông tiến cử, nổi bật hơn cả là danh tướng Nguyễn Hữu Tiến (sau được phong là Thuận Nghĩa Hầu) và danh tướng Đào Duy Từ (sau được phong là Chiêu Nghĩa Hầu).
-Bốn là: Trên cơ sở tham khảo để kế thừa những tinh hoa khoa học quân sự cổ đại của Trung Quốc và của tổ tiên ta, đặc biệt, trên cơ sở phân tích và tổng kết một cách thiên tài tất cả những hoạt động quân sự của thời đại mình, Đào Duy Từ đã tiến hành biên soạn binh pháp. Ông không phải là tướng trực tiếp cầm quân xông pha trận mạc, nhưng Đào Duy Từ thực sự là một nhà chiến lược có tầm vóc lớn, nhà binh pháp lừng danh nhất thế kỉ 17 của dân tộc ta. Bộ binh pháp mà Đào Duy Từ để lại cho hậu thế có tên gọi là Hổ trướng khu cơ.
Truớc Đào Duy Từ hơn ba trăm năm, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cũng từng biên soạn binh pháp. Với Binh thư yếu lược, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã có công xây dựng nền tảng lí luận quân sự vững chắc cho cuộc chiến đấu quyết liệt, chống quân xâm lược Mông -Nguyên thiện chiến và khét tiếng tàn bạo. Với Binh thư yếu lược Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã có công khai sinh nền khoa học quân sự nước nhà. Tuy nhiên, bởi nhiều lí do lịch sử khác nhau, bộ Binh thư yếu lược của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn nay không còn nguyên vẹn nữa. Công tác thẩm định văn bản đối với tác phẩm vô giá này gặp rất nhiều khó khăn.
Khác với Binh thư yếu lược của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ hiện vẫn còn lưu giữ được gần như nguyên vẹn. Đọc Hổ trướng khu cơ ai ai cũng có thể dễdàng nhận thấy Đào Duy Từ vừa có trình độ lí luận rất uyên thâm lại vừa có vốn hiểu biết thực tiễn rất phong phú. Ông không chỉ giỏi về chiến lược, chiến thuật mà còn nắm vững kĩ thuật chế tạo cũng như sử dụng các loại vũ khí và trang thiết bị quân sự.
Năm 1634, Đào Duy Từ qua đời, hưởng thọ 62 tuổi. Đào Duy Từ bị chế độ vua Lê chúa Trịnh Đàng Ngoài chối bỏ, nhưng lại được chúa Nguyễn của Đàng Trong ân cần tiếp nhận. Mới hay, đấng chân tài bao giờ cũng là đấng chân tài, sớm muộn thế nào cũng sẽ được đời biết đến và trọng dụng, ôi, phải chi thời Đào Duy Từ chẳng phải là thời loạn li!
GIA GIÁO CỦA TIẾN SĨ NGUYỄN ĐĂNG MINH
Nguyễn Đăng Minh là người làng Hoài Bão, huyện Tiên Du (nay là thôn Hoài Bảo, xã Liên Bão, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Khoa Bính Tuất (1646), triều đình Lê Chân Tông chỉ lấy đỗ một Thám hoa và 16 Tiến sĩ, thì Thám hoa là Nguyễn Đăng Cảo và một trong số 16 Tiến sĩ là Nguyễn Đăng Minh (em ruột của Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo). Đương thời ai cũng cho là hiển vinh hiếm thấy. Tuy nhiên, hiển vinh trong khoa bảng của dòng họ Nguyễn Đăng không phải chỉ có vậy. Xin lấy gia đình Nguyễn Đăng Minh làm ví dụ: Khoa Quý Sửu (1673), con trưởng của Nguyễn Đăng Minh là Nguyễn Đăng Tuân đỗ Tiến sĩ. Mười năm sau, khoa Quý Hợi (1683), đến lượt con thứ của Nguyễn Đăng Minh là Nguyễn Đăng Đạo (cũng tức là Nguyễn Đăng Liên) đỗ Trạng nguyên.
Nguyễn Đăng Minh được đại phước của trời ban cho chăng? Xét sự nghiêm cẩn răn mình của chính ông mới hay là ông và các con của ông không rạng danh mới lạ, chứ để tiếng thơm cho muôn thuở thì có gì là lạ đâu. Xin theo sách Công dư tiệp kí (quyến 3) của Tiến sĩ Vũ Phương Đề và một vài bộ dã sử khác, lược kể về Tiến sĩ Nguyễn Đăng Minh như sau:
Suốt đời, Nguyễn Đăng Minh luôn bày tỏ sự đặc biệt cung kính đối với anh mình. Ông không bao giờ cãi lại hay làm bất cứ điều gì trái ý anh. Khi ông còn nhỏ, mọi người khen ông vừa ngoan vừa lễ độ, nhưng đến khi ông đã đỗ Tiến sĩ, đã thuộc hàng cao niên, có người thấy thế thì chê ông rằng:
-Cớ gì cứ phải sợ anh và nhút nhát như thế?
Ông điềm tĩnh đáp:
-Trên thì các quan, dưới thì trăm họ, ai nghe tên anh tôi là Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo cũng đều cung kính, tôi may mắn được trời cho làm em, lại may mắn được anh thương yêu mà tận tình dạy bảo, thế thì bảo không giữ lễ với anh làm sao được?
Với con trai trưởng là Tiến sĩ Nguyễn Đăng Tuân, ông nói năng rất thận trọng, thoạt nghe, cứ tưởng là ông đang nói chuyện với một vị quan lớn trong triều chứ không phải là đang nói chuyện với con. Có kẻ biết, tìm cách khích bác ông, ông nói:
-Con tôi đã làm rạng danh cho cả gia tộc, trọng con cũng chính là trọng cả gia tộc vậy. Vả chăng, trong nhà không biết trọng nhau, bảo người ngoài trọng mình thế nào được?
Đối với con thứ là Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo, ông càng bày tỏ sự quý trọng đặc biệt hơn. Mỗi khi Nguyễn Đăng Đạo cung kính chấp tay vái chào thì ông luôn nở nụ cười đôn hậu và khiêm nhượng đáp:
-Không dám! Không dám!
Đến thăm con ở tư dinh, bao giờ ông cũng từ tốn thưa gửi với lính gác cổng rồi điềm đạm ngồi chờ chứ không cậy thế mà đi thẳng vào ngay. Ra đường, nếu tình cờ gặp con, ông tránh hẳn sang một bên để nhường đường. Có kẻ lấy làm lạ, hỏi rằng:
-Tại sao lại phải làm như thế?
Ông cười đáp:
-Đó là bậc Khôi nguyên của thiên hạ mà trời sai xuống đầu thai vào nhà tôi, dám đâu tôi lại không cung kính?
Sinh thời, Nguyễn Đăng Minh sống rất đạm bạc và giản dị. Với dân, ông thường dùng đức để thu phục, hầu như không dùng quyền để bất tuân theo. Xin được trích dịch nguyên văn một đoạn trong sách Công dư tiệp kí để minh chứng:
“Phần mình, ngày thường ông vẫn đi giày cũ, mặc áo cũ, ít khi dùng đến xe ngựa. Có người chẳng biết ông là quan, lỡ xúc phạm đến, ông cũng chẳng hề để tâm. Một hôm, ông từ trong triều đình ra về, khi đi qua hàng thịt ở Cửa Nam, một người hàng thịt thấy ông có dáng vóc giống y tên xã trưởng còn nợ tiền thịt, bèn níu lại để đòi. Ông phân trần mãi, hắn cũng không nghe, cứ lôi xềnh xệch về nhà rồi đem trói vào cột cửa trước nhà. Lúc ấy bỗng có quan Phó Đô Sử là Nhữ Đình Hiền, cũng vừa trong triều về ngang qua. Ngày thường, (Nhữ Đình Hiền) vẫn kính trọng ông như bậc cha chú của mình, nên thấy ông bị trói thì lập tức xuống cáng, đỡ ông dậy và hỏi duyên cớ vì sao. Ông cứ tình thực mà nói lại. Nhữ Đình Hiền liền sai lính bất trói tên hàng thịt giải đi, còn mình thì nhường cáng cho ông. Tới nhà mình, Nhữ Đình Hiền liền mời ông ngồi và xin phép vào trong để thay quần áo. Nhưng, cũng ngay lúc đó, ông đứng dậy, cởi trói cho tên hàng thịt và nói:
-Ngươi hãy tìm lối mà trốn mau. Ta cũng đi đây.
Nhữ Đình Hiền thay áo xong, trở ra thì chẳng thấy ông đâu và tên đồ tể cũng đã mất dạng, sai người nhà chạy đi mời ông lại nhưng không kịp, đành ngồi than thở mà thôi.”
Hoá ra, cái gốc trong gia giáo của Tiến sĩ Nguyễn Đăng Minh chính là giữ lễ và trọng đức. Có được cái gốc vô giá ấy là có được tất cả. Ngẫm mã xem. 
HOẠN LỘ CỦA TƯỚNG CÔNG ĐINH VĂN TẢ
Đinh Văn Tả sinh năm Tân Sửu (1601) tại Hàm Giang, nay, đất làng quê ông thuộc huyện Cẩm Giang, tỉnh Hải Dương. Dã sử cho hay, thuở thiếu thời, Đinh Văn Tả tuấn tú và thông minh khác thường, võ công cũng rất tinh thông, chỉ tiếc là ông hay giao du với đám vô lại, thành ra bị coi là kẻ có tài mà thất đức. Sách Tang thương ngẫu lục chép rằng:
“Trước làng ông ở có một con sông to, rộng ước chừng hơn một dặm, ông thường ra đó bơi lội, lâu ngày thành thói quen. Một hôm, ông cùng lũ bạn ra bờ sông ngồi uống rượu, chợt nghe bên kia bờ sông có tiếng chiêng cúng đình vang lên, bèn khích nhau thử xem ai có tài vượt sông sang bên kia lấy trộm cái chiêng mang về. Ông nhận lời, và ngay đêm ấy, bơi sang bên kia sông lấy trộm chiêng. Trên đường trở về, ra đến giữa sông, ông đấm cho chiêng kêu vang, khiến dân làng bên kia sông phải thức dậy đuổi theo, nhưng không kịp nữa, đành quay về. Sau, ông phạm tội, phải giam ở ngục Đông Môn.
Bấy giờ là lúc đang chiến tranh ở biên thuỳ phía Nam, chúa Trịnh sai các tướng cho quân đắp ụ ở trước lầu Ngũ Long để luyện tập bắn súng, ông cùng bọn tù nhân có việc phải đi qua. Ông đứng lại xem rồi cười mà nói rằng:
-Bắn có thế mà cũng sai. Chẳng hiểu triều đình dùng bọn họ để làm gì?
Người lính tức giận, đưa súng cho ông, bắt phải bắn trúng, ông lấy một khẩu súng lớn, áp má bắn luôn mấy phát liền, trúng hết cả ba cái đích. Người lính lấy làm lạ và cảm phục lắm. Các tướng võ sai ông bắn lại cho họ xem. Ông bắn tiếp, phát nào trúng phát ấy. Việc này đến tai Chúa, Chúa bèn tha tội cho ông và bắt làm lính đi đánh ở phương Nam. Quan quân đóng giữ trên núi, địch vừa tới đánh là họ đã tháo chạy, chỉ mình ông ở lại núp trong bụi rậm, đợi cho quân địch tới gần, chĩa súng bắn tới tấp. Địch tưởng có mai phục, bèn sợ hãi tháo lui. Quan quân quay lại đánh, khiến địch phải thất bại.
Sau nhiều lần lập công, ông được phong tới tước Quận Công, nhưng ông giao trả lại hết sắc phong để xin xoá trên trong sổ tội nhân. Lập thêm nhiều chiến công nữa, ông được phong tới hàm cực phẩm.”.
Sách trên còn cho biết thêm rằng, vào năm 80 tuổi, Đinh Văn Tả bị bệnh nặng. Chúa Trịnh lúc bấy giờ là Trịnh Sâm đã thân đến tận nơi để thăm. Khi nghe Chúa hỏi về nguyện vọng, ông nói:
-Nếu có thể được, xin cho tôi được làm phúc thần ngay lúc này. Được hưởng ân huệ ấy của Chúa thì tôi dẫu có nhắm mất cũng chẳng còn có gì để tiếc nuối nữa.
Chúa Trịnh Sâm ưng thuận, liền sai người tuyên đọc sắc phong ngay tại giường bệnh, nhưng chẳng bao lâu sau thì ống khỏe mạnh, sống thêm được mấy năm nữa mới mất.
Như Đinh Văn Tả, tuổi trẻ mà đã quen thói bê tha rượu chè, lại còn dám cả gan ăn trộm chiêng đình của làng bên cạnh, thì tội ấy, quả đúng là... tày đình! Nhưng xét cho cùng thì dẫu từng đi ăn trộm, Đinh Văn Tả cũng không phải là kẻ sống bằng nghề ăn trộm. Chút nho nhỏ này xem ra cũng rất đáng để cho đời lưu tâm.
Ông là người có tài. Thoạt tiên, ông chinh phục tất cả tướng sĩ của triều đình bằng tài bắn súng, sau, ông chinh phục tướng sĩ của triều đình bằng sự quả cảm và ứng phó thông minh trước tình huống éo le của trận mạc. Mới hay, những người được đời biết tiếng tài ba, trước hết là bởi họ thực sự có tài, và sau đó là bởi tài năng của họ có điều kiện để nảy nở. Nếu chẳng có thời loạn, ai dám bảo là Đinh Văn Tả sẽ là... Đinh Văn Tả như sử sách đã nói tới ở trên!
Hoạn lộ của Đinh Văn Tả khởi đầu bằng sự bất ngờ nhưng kết thúc lại bằng sự hẳn nhiên: thời ông, người cỡ như ông, được phong tới tước Quận Công là chí phải. Tiếc thay, người ban sắc phong lại là chúa Trịnh Sâm. Đinh Văn Tả có tài cầm quân, còn chúa Trịnh Sâm thì có tài... ban sắc, hậu thế chỉ còn biết vừa cười vừa gạt nước mắt mà khen Chúa rằng: Tài! Rất tài! Chẳng hay là nếu biết trước điều này, tướng quân Lộc Quận Công Đinh Văn Tả có dám bước lên hoạn lộ hay không.
NGUYỄN QUỐC TRINH PHẪN CHÍ MÀ THÀNH TÀI
Nguyễn Quốc Trinh nguời làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì (nay là thôn Nguyệt Áng, xã Đại Áng, huyện Thanh Trì, Hà Nội), sinh năm 1625, mất năm 1674, hưởng dương 49 tuổi. Ông là anh của Tiến sĩ Nguyễn Đình Trụ (đỗ khoa Bính Thân, 1656), bác của Tiến sĩ Nguyễn Đình Bách (đỗ khoa Quý Hợi, 1683) và Thám hoa Nguyễn Đình Ức (đỗ Khoa Canh Thìn, 1700).
Nguyễn Quốc Trinh đỗ Trạng nguyên khoa Kỉ Hợi, năm Vĩnh Thọ thứ hai, đời vua Lê Thần Tông (tức là năm 1659), tiếng tăm lừng lẫy một thời, tuy nhiên, ít ai ngờ rằng vị Trạng nguyên này, mãi đến năm 17 tuổi vẫn còn gần như mù chữ.
Dã sử chép rằng, chẳng may cha mẹ đều qua đời sớm, mấy chị em Nguyễn Quốc Trinh phải sống nương nhờ ở ông bà nội. Gia cảnh tuy rất nghèo khó, nhưng ông bà nội Nguyễn Quốc Trinh bao giờ cũng nhân ái với mọi người và luôn luôn giữ đức trong sạch. Có lần, cụ nhặt được một gói vàng lớn, liền tìm đến trả lại cho người mất. Người ấy mừng quá, bèn lấy một nữa số vàng ấy kính biếu, gọi là để tạ ơn. Nhưng, cụ cười và nói:
-Nếu ham của thì tôi đã lấy cả gói chớ lấy nữa gói mà làm gì? Phàm cái gì không phải do minh làm ra, cho dẫu là một mảy may, tôi cũng quyết không màng đến.
Người được trả của vốn là một thầy địa lí, thấy tạ ơn bằng vàng không xong, liền cất công tìm giúp cho cụ một huyệt tốt ở ngay trong làng. Cụ vui vẻ nhận. Từ đó, mọi chuyện lạ mới bắt đầu. Tương truyền sau khi cụ mất, anh rể của Nguyễn Quốc Trinh (là một vị Tiến sĩ) đến lo sửa từ đường cho gia đình ông. Thấy Nguyễn Quốc Trinh đã 17 tuổi rồi mà học hành chẳng đâu vào đâu, bèn nói khích rằng:
-Bên nội nhà em liệu có ai đứng ra cáng nổi các việc cho tổ tiên, đại loại như thế này không?
Nguyễn Quốc Trinh nghe vậy thì lấy làm tức, bèn quyết chí học hành cho bằng được mới thôi. Sau ngày tu sửa từ đường, lúc nào người ta cũng thấy Nguyễn Quốc Trinh miệt mài học tập. Ngày ra đồng, ông cũng mang theo sách, vừa làm vừa lẩm nhẩm học. Hễ quên thì lại mở sách ra xem. Đêm về nhà, không bao giờ ông chịu đi ngủ trước canh ba. Nhờ sáng dạ lại cần mẫn hơn người, Nguyễn Quốc Trinh học hành tấn tới rất nhanh. Ông thường nói với em ông là Nguyễn Đình Trụ rằng:
-Ta quyết phải học và đỗ cao hơn anh rể mới được.
Sau khi đỗ Hương cống, đến khoa thi Hội năm Bính Thân (1656), hai anh em cùng đi thi. Vào đến kì làm bài thứ tư, chẳng dè, ông quên hẳn một đoạn của cổ thư, không sao làm được nữa. Em ông là Nguyễn Đinh Trụ nói:
-Em nhớ, để em giúp cho.
Nguyễn Quốc Trinh nghiêm mặt trả lời:
-Có ai muốn đỗ Trạng nguyên mà lại đi xin chữ bao giờ.
Khoa ấy, quả nhiên em ông đỗ Tiến sĩ, còn ông thì chịu hỏng. Khoa Kỉ Hợi (1659), ông lại đi thi và lần này thì đỗ Trạng nguyên thật. Thế là, anh thì Trạng nguyên, em thì Tiến sĩ, cùng xuất thân từ một cửa nhà nghèo, người đời ai cũng cho là hiếm thấy.
Sau khi đỗ đạt, ông làm quan, trải thăng dần lên đến hàm Á Khanh, chức Bồi Tụng, Nguyễn Quốc Trinh từng được cử đi sứ sang Trung Quốc và từng được triều đình tin cậy, giao cho việc biên soạn chính sử của quốc gia. Sinh thời, ông là người rất cương trực và thanh liêm. Bạn đồng liêu thường nói, ấy là nhờ ông được thụ bẩm một nền gia giáo rất tốt đẹp. Tiếc thay, vào tháng 5 năm 1674. ông bị giết hại bởi cuộc nổi loạn của kiêu binh. Triều đình thương tiếc, truy tặng ông chức Binh Bộ Thượng thư, tước Từ Quận Công, lại ban cho tên thuỵ là Cương Trung và phong cho làm Thượng Đẳng Phúc thần.
Vì sao Trạng nguyên Nguyễn Quốc Trinh không được hưởng phúc lâu dài? cắt nghĩa điều này, dân gian có lời bàn về ngôi huyệt mà thầy địa lí đã tìm hộ cho cụ nội tổ của ông như sau: Ngôi đất ấy hình tựa như cái khánh bằng gỗ và huyệt nằm ngay giữa cái khánh gỗ ấy. Tiếng khánh ấy mà đã vang lên thì muôn người sẽ về tụ họp, tức là đại phát đến Trạng nguyên. Hiềm một nỗi, gỗ làm khánh thì không bền, chết khi đang ở tột đỉnh vinh quang là chí phải.
Thế đấy. Nhưng biết làm sao được. Xưa mà!
CHUYỆN CÁI ĐẦU CỦA VŨ ĐÌNH PHƯƠNG
Thời các chúa Nguyễn, tuy quy chế chưa thật chặt chẽ, thể lệ cũng chưa thật rõ ràng, nhưng, dầu sao thì các khoa thi Hương cũng đã được tổ chức khá nhiều. Bấy giờ, người đỗ chính thức ở trường Hương thì gọi là Hương cống hay Cống sĩ. Và một trong số những cống sĩ của giai đoạn lịch sử này là Vũ Đình Phương.
Sách Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 5) cho biết Vũ Đình Phương người huyện Lệ Thuỷ (nay thuộc tình Quảng Bình), con trai của Vũ Đình Thế (đỗ cống Sĩ, làm quan đến chức Tri phủ). Ngay từ thuở thiếu thời, Vũ Đình Phương đã nổi tiếng thông minh, văn hay chữ tốt khó ai sánh kịp. Vào khoảng thời trị vì của chúa Nguyễn Phúc Lan (1635 -1648), Vũ Đình Phương dự thi Hương và đỗ thủ khoa. Năm ấy, ông mới 18 tuổi. Bấy giờ, ai cũng cho đó là bậc tuổi trẻ mà tài cao hiếm thấy. Theo lệ, tất cả tân khoa cống sĩ đều được vào bái yết Chúa, đồng thời được dự bữa tiệc do Chúa ban. Nhưng, vừa thoáng trông thấy Vũ Đình Phương, chúa Nguyễn Phúc Lan đã thất vọng. Lí do là: Vũ Đình Phương vừa nhỏ tuổi lại nhỏ con, đầu đã to mà mặt lại rỗ chằng rỗ chịt. Do không thể tự kiềm chế được, chúa Nguyễn Phúc Lan đã buột miệng mà nói rằng:
-Tiếc là ngươi có tài mà không có tướng!
Nói xong, Chúa cho ông về, không bổ làm quan như các vị tân khoa khác. Vũ Đình Phương đành phải lẳng lặng về nhà. Để quên nỗi buồn, ông đóng của đọc sách. Trải nhiều năm liền, Vũ Đình Phương chẳng những uyên thâm về Nho học mà cả thiên văn, địa lí và binh thư... cũng rất thông hiểu. Tiếng tăm về tài học của ông ngày một vang xa. Dầu vậy, chúa Nguyễn Phúc Lan cũng chẳng chút đoái hoài đến ông. Ông sống bình thản và thầm lặng như một ẩn sĩ.
Thế rồi 32 năm sau, khi ông vừa 50 tuổi, Vũ Đình Phương... bất ngờ mà được dùng. Bấy giờ, chúa Nguyễn Phúc Lan đã mất, chúa Nguyễn Phúc Tần lên nối nghiệp (1648 - 1687). Ở Đàng Ngoài lúc này, Chúa cầm quyền là Trịnh Tráng (1623 -1657). Để thử xem xứ Đàng Trong còn có người tài hay không, Trịnh Tráng đã sai sứ vào Nam. Sứ giả đem đến tặng chúa Nguyễn một cái trống lớn và một miếng ván dài chừng một thước (non 40 cm), trên ván ấy có ba chữ Hán (phiên âm) là Hồ bất thực. Cả ván lẫn chữ đều được sơn son thếp vàng rất đẹp. Chúa Nguyễn Phúc Tần và bá quan văn võ đều rất băn khoăn vì không sao hiểu nổi ý nghĩa của mấy chữ này, mà nếu không hiểu được thì cũng có nghĩa là bị hạ nhục. Và, phải đợi đến lúc này, người ta mới nhớ đến thủ khoa Vũ Đình Phương, người tài cao học rộng. Chúa Nguyễn Phúc Tần lập tức cho người về quê Vũ Đình Phương. Cũng phải vất vả lắm sứ giả của chúa mới tìm được nhà của ông, bởi vì, suốt mấy chục năm liền, dân địa phương quen gọi Vũ Đình Phương là ông cống Đầu (vừa có nghĩa là người đỗ đầu thi Hương, lại cũng vừa có nghĩa là ông cống sĩ có cái đầu rất to), mà quên mất cả tên thật của ông. Vũ Đình Phương tới nơi, cầm dùi đánh trống, chăm chú lắng nghe, xong thì cầm tấm ván nhỏ lên, lật đi lật lại rồi mỉm cười thưa:
-Đây chi là cái trống thường, không có gì đặc biệt, họ chỉ cốt làm cho ta mất công suy nghĩ chơi vậy thôi.
-Thế tấm ván nhỏ và mấy chữ trên đó là gì?
-Ấy là họ thử xem ta có biết nói lái theo kiểu của người Bắc hay không mà thôi. Hồ bất thực nghĩa là cáo không ăn (hồ là cáo, bất là không, thực là ăn). Cáo không ăn thì cáo gầy, và cáo gầy nói lái theo kiểu của người Bắc là cây gạo. Đại để, họ muốn nói rằng đem cái trống này treo lên cây gạo mà đánh thì hiệu lệnh sẽ vang xa.
Chúa Nguyễn Phúc Tần nghe xong thì cả cười, ban thưởng cho Vũ Đình Phương rất hậu.
Ngay ngày hôm đó, bổ ông làm Kí lục Quảng Bình, kiêm chức Tham Mưu, cho được quản lĩnh hai vệ binh, đặt dưới quyền Tiết chế của Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Tiến, vượt sông Gianh đánh thẳng ra xứ Đàng Ngoài. Trong cuộc tấn công này, Vũ Đình Phương đã có nhiều ý kiến xuất sắc, được chủ tướng Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Tiến nghe theo.
Sau Vũ Đình Phương qua đời hưởng thọ 90 tuổi, được truy tặng hàm Thái Thường Tự Khanh. Sử cũ cho biết là ông không có con trai nối dõi, còn như con gái thì bao nhiêu người thì chưa tra cứu được.
Cuộc đời của Vũ Đình Phương là cuộc đời của một nhân tài, chỉ tiếc là ông sinh vào thời đất nước loạn li, càng tiếc hơn nữa là chúa Nguyễn Phúc Lan nhìn người sao mà hời hợt quá. Chúa chỉ thấy gương mặt rỗ chằng rỗ chịt mà không thấy được trí tuệ ngời sáng. Chúa chỉ thấy một người to đầu mà mình thấp chớ chẳng thể thấy được hoài vọng lớn. Tạo hoá sinh ra hai con mắt và hai lỗ tai ở gần ngay trí não để thấy là nghĩ, nghe là nghĩ, nghĩ thật nhanh, nghĩ thật thấu đáo. Ai đó chỉ thấy và nghe mà không hề nghĩ, thì... có khi thần kinh và trí não của họ nếu có cũng nằm ở vị trí khác. Lạy Chúa, không rõ sinh thời, trí não của chúa Nguyễn Phúc Lan ngụ ở chỗ nào! 
- 10 -
Thuở hàn vì của trạng nguyên Nguyễn Kì
Người xưa từng dạy, đại ý nói rằng: kẻ đi học mà chỉ biết khoe giàu thì trí não chẳng thể khá, chỉ biết khoe sang thì tâm địa chẳng thể tốt, còn như gồm đủ cả hai thì vô tài thất đức là điều khỏi phải bàn. Các đấng đại hiền xưa nay đều thế cả, hoặc từ chốn bần hàn mà dốc chí đi lên, hoặc từ chốn cao sang nhưng luôn khép mình trong gia giáo, thoáng nhìn chẳng thể nào biết được.
Mới hay, trước khi học làm quan, phải cố học cho thành người học trò đàng hoàng. Thế gian muôn đời chỉ chê học trò dốt, có ai chê học trò nghèo đâu.
Đúng là chẳng những không chê mà còn khen, rất khen, rất phục tất cả những ai giàu ý chí và nghị lực vượt qua nghèo khó để học tập và vươn lên. Trong số những người được đời vừa khen vừa phục ấy, có Trạng nguyên Nguyễn Kì.
Thư tịch cổ cho hay, Nguyễn Kì sinh năm Mậu Dần (1518) tại xã Bình Dân, huyện Đông Yên (nay thuộc xã Tân Dân, huyện Châu Giang, tình Hưng Yên). Lúc đầu, Nguyễn Kì có tên là Nguyễn Thì Lượng. Gia đình Nguyễn Thì Lượng rất nghèo, hai bên nội ngoại đều phải vất vả làm lụng quanh năm suốt tháng mà vẫn không đủ ăn. Tuy thiếu thốn trăm bề nhưng dòng họ Nguyễn Thì Lượng rất chăm lo giữ đức, dân khắp vùng lúc bấy giờ ai ai cũng cảm mến.
Truyền thuyết kể rằng, cha mẹ Nguyễn Thì Lượng ăn ở rất hiền lành, họ kết hôn với nhau từ lúc còn rất trẻ nhưng mãi đến năm ngoài bốn mươi tuổi vẫn chưa có con. Một hôm, có thầy coi tướng qua làng, vừa thoáng trông thấy bà đã nói:
-Ông bà tuy hiếm muộn nhưng con bà sẽ vô cùng quý hiển. Nhưng, muốn được như thế thì ông bà phải vào hầu của Phật.
Nghe vậy, hai ông bà liền phát từ tâm, được bao nhiêu tiền của, dù là rất ít ỏi, chưa đủ để lo toan đắp đổi mọi việc trong nhà, ông bà vẫn đem hết đi mua nhang, mua hoa để vào chùa lễ Phật. Cần mẫn hai năm như thế thì bà sinh hạ được một người con trai, đó là Nguyễn Thì Lượng.
Ngay từ lúc mới chào đời, Nguyễn Thì Lượng đã có gương mặt khôi ngô lạ thường. Hai ông bà quý con như vàng như ngọc, nhưng, nhớ đến lời thầy tướng thuở nào, khi Nguyễn Thì Lượng vừa lên ba, họ liền đem vào chùa, xin sư trụ trì ở đấy nhận làm con nuôi. Và, bắt đầu kể từ đó, Nguyễn Thì Lượng ở hẳn trong chùa, được sư thầy trụ trì nuôi dưỡng và dạy dỗ.
Năm Nguyễn Thì Lượng lên bốn tuổi, sư thầy trụ trì phát hiện ra một sự lạ, đó là nhờ chơi quanh quẩn trong chùa, Nguyễn Thì Lượng đã nghe và thuộc được rất nhiều bài kinh nhật tụng. Sư thầy liền thử đọc cho Nguyễn Thì Lượng nghe vài bài kinh kệ khác. Nguyễn Thì Lượng cũng học thuộc rất nhanh. Các bậc tu hành cùng Phật tử và thiện nam tín nữ đến chùa, ai ai cũng nói Nguyễn Thì Lượng là thần đồng. Sư trụ trì nhân đó cho đổi tên gọi Nguyễn Thì Lượng là Nguyễn Kì. (Chữ Kì này có nghĩa là kì lạ). Lại thấy Nguyễn Kì tuổi nhỏ mà mẫn tuệ khác thường như vậy, lớn lên ắt sẽ là lương đống của triều đình, sự nghiệp phò vua giúp nước nhất định sẽ lớn lao, cho nên, sư thầy trụ trì quyết định cho Nguyễn Kì đi học.
Nguyễn Kì được đưa tới trường, nhưng cũng chỉ được ăn, được mặc như tất cả những học trò nghèo khác, ấy là bởi sư thầy trụ trì sợ Nguyễn Kì được no đủ sớm quá sẽ sinh ra biếng nhác. Ngày ngày, cứ hễ hết giờ đi học là Nguyễn Kì lại phải làm đủ thứ việc, không bao giờ được ngơi tay, ấy là bởi sư thầy trụ trì sợ Nguyễn Kì chưa học được đức lớn của người xưa đã bị nhiễm thói hư ăn bám. Cũng như bao học trò khác, Nguyễn Kì phải học bài vào ban đêm, nhưng sư thầy trụ trì cũng không cho tiền mua dầu, ấy là để rèn cho Nguyễn Kì tính cần kiệm. Đêm đêm, Nguyễn Kì ngồi dưới điện thờ Phật, học bài dưới ánh sáng của mấy ngọn nến thờ, học đến bao giờ nến tắt mới đi ngủ. Sư thầy trụ trì thấy Nguyễn Kì chăm chỉ, liền dùng những cây nến lớn hơn để thắp trên điện thờ, Nguyễn Kì nhờ đó mà được học khuya hơn.
Đã thông minh lại có chí lớn, Nguyễn Kì học hành tấn tới rất nhanh, tiếng tăm của ông ngày một vang rộng. Năm Tân Sửu, niên hiệu Quảng Hoà năm thứ nhất (1541), Nguyễn Kì đỗ Trạng nguyên. Năm đó, nhà Mạc lấy đỗ tất cả 30 người, gồm Trạng nguyên Nguyễn Kì, Bảng nhãn Phạm Công Sâm, Thám hoa Nguyễn Thế Lộc và bốn Hoàng giáp là Ngô Quang, Lê Củ Phương, Nguyễn Hoằng Diễn và Trương Hữu Phỉ, còn lại là Tiến sĩ.
Truyền thuyết kể rằng, ngày vinh quy bái tổ, nơi Nguyễn Kì dừng chân trước hết là nhà chùa. Ông thành kính thi lễ tạ ơn sư thầy trụ trì, xong thì cúng chùa đến mấy gánh nến, gồm toàn những cây có kích cỡ đại để như những cây trước đó sư thầy trụ trì đã thắp trước điện thờ Phật cho Nguyễn Kì học ké. Sư thầy cười hỏi:
-Chẳng lẽ lại còn cò đứa trẻ khác đến đây ngồi học nữa sao?
Nguyễn Kì cung kính đáp:
-Kính bạch sư thầy. Cũng một cây nến, nhưng trong tay con thì bất quá chỉ soi sáng được vài trang sách, vậy mà trong tay sư thầy thì lại đủ để soi sáng cho cả một đường đời. Con tin sẽ còn có nhiều học trò nhỏ đến cậy nhờ ánh sáng sư thầy ban cho.
Sau, Nguyễn Kì làm quan cho nhà Mạc, trải thờ hai đời vua là Mạc Hiến Tông (tức Mạc Phúc Hải: 1540 -1546) và Mạc Tuyên Tông (tức Mạc Phúc Nguyên: 1546 -1561). Sử chỉ chép ông được phong chức Hàn Lâm Viện Thị Thư, còn sau đó hoạn lộ ra sao không rõ, mất năm nào cũng không hay.
Nguyễn Kì, tên ấy, sự nghiệp ấy, xứng thay! 
THIÊN TÌNH SỬ TUỔI 18 CỦA TIẾN SĨ NGUYỄN BÁ DƯƠNG
Nguyễn Bá Dương, người làng Nguyễn Xá, huyện Thần Khê (nay làng ông thuộc huyện Tiên Hưng, tinh Thái Bình), ông sinh năm Canh Thân (1740), đỗ Hương cống (tức Cử nhân) năm Ất Dậu (1765) và đỗ Tiến sĩ năm Bính Tuất (1766), cùng khoa với Ngô Thì Sĩ (thân sinh của Tiến sĩ Ngô Thì Nhậm).
Nguyễn Bá Dương rất chăm học và học giỏi, nhưng gia đình ông lại rất nghèo. Bởi kì vọng ở ông, cho nên, dẫu là nghèo đến độ ít có ai nghèo hơn, cha mẹ ông cũng cắn răng chịu đựng để nuôi ông ăn học. Đã thế, năm ông 18 tuổi, cha mẹ ông còn gởi ông lên kinh đô Thăng Long để học hành. Khi rời quê nhà đến kinh đô Thăng Long, hành lí của ông chẳng có gì đáng kể, ngoài tấm áo che thân.
Tuy nghèo như vậy, nhung, Nguyễn Bá Dương lại có tật ưa uống rượu, ông là khách uống chịu thường xuyên của một bà hàng rượu ở Kẻ Mơ (nay thuộc Hà Nội). Chẳng bao lâu, tiền uống chịu đã lên đến 900 đồng. Một hôm, ông bị bà chủ hàng rượu đón đường để đòi và mắng té tát ngay ở chỗ đông người. Bởi không sao trả được, ông đành đứng im chịu nhục mà thôi. Bấy giờ, có cô gái Kẻ Mơ, người cùng làng với bà chủ hàng rượu, thấy chuyện chẳng đẹp như thế, liền bỏ gánh xuống, lấy tiền lưng của mình ra trả hộ, xong là tất bật quẩy gánh đi ngay. Nguyễn Bá Duơng vội chạy theo và thành tâm cám ơn rồi xin được biết họ tên của cô gái, nhưng cô xua tay mà nói rằng:
-Chẳng qua em thấy cậu là học trò, vì nợ tiền ruợu mà phải xấu hổ với một người đàn bà ở chốn người qua kẻ lại nên trả hộ chớ em đây chẳng mong báo đáp gì đâu.
Thấy cô dứt khoát từ chối, không cho biết địa chỉ và họ tên, ông bèn quay lại hỏi thăm ngay... bà hàng rượu. Lúc ấy, bà hàng rượu cũng đã nguôi giận, liền nói cho ông biết tất cả. Nguyễn Bá Dương lẩm nhẩm đọc lại cho đến khi thật thuộc mới chịu bỏ đi. Từ đó, ông bỏ rượu và dốc chí học hành. Như trên đã nói, năm 25 tuổi, ông đỗ Hương cống (tức Cử nhân) và năm 26 tuổi, ông đỗ Tiến sĩ.
Sau khi đỗ đạt, bạn đồng khoa với ông lo sắm sửa đủ thứ, riêng ông thì vẫn cứ nằm khoèo ở nhà. Bấy giờ, có bà phu nhân đang làm bảo mẫu cho Quận Chúa (con gái của chúa Trịnh), vốn là người cùng huyện với ông, sai người đến tận nơi, nói là sẽ gả con hoặc cháu của bà cho ông. Bà giới thiệu cho ông đến mấy chục người cả con lẫn cháu để ông tuỳ nghi chọn lựa, nhưng, ông từ chối, chỉ xin cưới cô gái Kẻ Mơ, người đã hào hiệp trả món tiền rượu nọ cho ông thuở trước. Thế rồi ông cưới cô gái Kẻ Mơ thật. Người đương thời ai cũng khen, truyền tụng với nhau rằng, đó là duyên kì ngộ giữa một cô gái giàu lòng nhân ái và đoan trang với một chàng trai có tài và trọng nghĩa.
Sau, Nguyễn Bá Dương được bổ làm quan, được bạn đồng liêu khen là người thanh liêm và chính trực, ông dám xử phạt rất nặng cả người nhà của bà Chúa Chè (tức Đặng Thị Huệ, Chính Cung của chúa Trịnh Sâm) về tội ăn hối lộ.
Sách xưa cho rằng, ở tuổi 18, Nguyễn Bá Dương đã có đến hai sự nổi tiếng khác nhau, một là nát rượu, hai là thông minh. Nhưng, xét kĩ thì ông còn có sự nổi tiếng thứ ba nữa, đó là lòng trọng nghĩa và thiên tình sử nảy sinh từ lòng trọng nghĩa đáng quý ấy. Phàm là người ở giữa cõi trần thế, đã đến hoặc đã qua tuổi 18 rồi mà không biết trọng nghĩa, thì thông thái cũng bằng thừa mà thôi. Vả chăng, trọng nghĩa với đấng bề trên đã khó, trọng nghĩa với một cô gái thôn dã chưa một lần quen biết thì lại càng khó hơn. Thế ra, người ta lấy vợ thì thường chỉ là được vợ, còn Nguyễn Bá Dương lấy vợ, ngoài được vợ lại được thêm cả lòng người một thuở, kính thay! Hẳn nhiên là có rất nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng lòng cương trực và đức thanh liêm của ông sau này, không thể nói là không có sự góp phần quan trọng của cô gái Kẻ Mơ. Người vợ đáng yêu nhất trong muôn thuở vẫn là người có công góp phần hoàn thiện nhân cách của chồng mình đó thôi. Ngẫm mà xem.
THẦN ĐỒNG ĐINH THÌ TRUNG
Một trong những thần đồng lừng danh của nước ta, sống vào nửa sau của thế kỉ thứ 18 là Đinh Thì Trung (1757 -1776). Ông người huyện Đông Sơn (nay thuộc Thanh Hoá). Sách xưa cho hay rằng, khi ông vừa lên năm thì ở làng ông có cụ đồ đến mở trường dạy học. Lũ trẻ quanh vùng tới xin thọ giáo rất đông. Đinh Thì Trung tuy còn quá nhỏ nhưng vì đã học lóm được khá nhiều chữ, bởi thế, cũng được thân phụ dắt đến gặp cụ đồ. Bấy giờ, cụ đồ đang ngồi nhắm rượu một mình, thấy Đinh Thì Trung có đôi mắt rất tinh anh, lòng những mừng thầm, nhưng cũng cố thử xem sao, bèn nói:
-Đây chỉ nhận dạy những đứa trẻ đã biết chữ và viết sơ qua về phép đối, nếu chưa biết đối cả một vế dài thì cũng phải biết đối nghĩa của từng chữ, liệu con có làm được không?
Đinh Thì Trung gật đầu một cách lễ phép nhưng cũng rất tự tin. Cụ đồ cầm li rượu đưa lên và đọc: tửu (nghĩa là rượu), Đinh Thì Trung liền đáp: đăng (nghĩa là đèn). Chữ tửu bên trái có bộ thủy (水) nghĩa là nước, còn chữ đăng ở bên trái có bộ hoả (火) nghĩa là lửa. Và, chữ đăng cũng có thể viết là (水丁) (bên trái bộ thuỷ, bên phải là chữ đinh, người họ Đinh cũng dùng chữ đinh này). Chữ của Đinh Thì Trung đối lại, có nghĩa là ngọn lửa sáng của dòng họ Đinh. Cụ đồ nghe xong thì phục lắm, nhưng vẫn cố thử thêm một lần nữa. Cụ đọc:
-Tam xuyên (nghĩa là ba dòng nước)
Hai chữ này còn hàm ý chỉ ba người (cụ đồ và hai cha con Đinh Thì Trung), nhưng cái lắt léo là ở chỗ, chữ tam (三) nếu dựng đứng lên sẽ thành chữ xuyên (川). Đọc xong, cụ đưa mắt nhìn Đinh Thì Trung, Đinh Thì Trung cũng điềm tĩnh nhìn lại và đúng lúc bốn mắt nhìn nhau, ông đọc:
-Tứ mục (nghĩa là bốn mắt).
Hai chữ này vừa tả được cảnh cụ đồ và Đinh Thì Trung nhìn nhau, lại vừa đối được cái ý lắt léo của cụ đồ. Bởi vì: chữ tứ (四) nếu đem dựng ngược lên sẽ thành chữ mục (目). Đến đây, thi cụ đồ bái phục quá, bèn nói với thân phụ của Đinh Thì Trung rằng:
-Cậu bé này sáng dạ như thần, tôi không thể dạy hơn được, vậy, hãy mau đưa cậu đi xin học ở những lớp cao hơn.
Đinh Thì Trung liền được dẫn đến một trường khác. Khi ấy, học trò của trường này đang làm thơ, đề là Hán Vương như Huỳnh Dương. Thấy có người đang bí, Đinh Thì Trung liền cầm bút viết hộ hai câu:
Ba Thục an năng uất tịch cư
Huỳnh Dương bát nguyệt Hán Vương như
(Nghĩa là: Đất Ba Thục làm sao có thể dung thân qua đêm; Tháng tám, vua Hán đi Huỳnh Dương). Thầy đồ dạy ở trường ấy xem xong hai câu này thì kinh ngạc mà nói:
-Thiên tài đến cỡ này rồi, còn đến đây xin học làm gì nữa!
Năm lên tám tuổi, Đinh Thì Trung đã học xong cả Ngũ kinh, Tứ thư và Bắc sử. Năm mười bốn tuổi, ông đỗ Hương cống (tức Cử nhân) và sau đó được vào học thêm tại Quốc Tử Giám. Bấy giờ, cả nước ai cũng biết tới tài học của Bảng nhãn Lê Quý Đôn (1726 - 1772). Họ cùng được tôn là tam hổ, tuy nhiên, tài học của Lê Quý Đôn và Hà Tông Huân vẫn có phần trội hơn. Trong các cuộc ngâm vịnh xướng hoạ, thơ văn của hai ông này luôn được xếp trên thơ văn của Lê Như Kì. Đinh Thì Trung biết tiếng tam hổ nên cũng muốn thủ sức, bèn tìm đến và chỉ giúp cho Lê Như Kì. Bởi lẽ này, Lê Như Kì có thơ văn trội hơn cả Lê Quý Đôn và Hà Tông Huân đến mấy lần ngâm vịnh xướng hoạ. Lê Quý Đôn, Hà Tông Huân và Lê Như Kì đều kính phục tài học của Đinh Thì Trung, cùng tôn chàng thanh niên chỉ mới đáng tuổi con cháu của mình làm thượng hữu (bạn ở bậc trên), còn người đời thì gọi chung cả bốn người là tứ hổ.
Năm 1775, cả Đinh Thì Trung và con của Lê Quý Đôn là Lê Quý Kiệt cùng dự thi Hội. Rất tiếc là trong khoa thi này, hai người đã làm một việc chẳng hay, đó là đổi quyển thi cho nhau. Việc bị phát giác, Đinh Thì Trung bị đày ra ngoài Quảng Yên (nay thuộc Quảng Ninh). Nhân sự việc này, người đương thời có câu rằng: “Đinh Thì Trung tống phối, chấn Đông Hài chi văn ba”. Nghĩa là: Đinh Thì Trung bị đem đi đày (ở vùng ven biến Quảng Yên), làm tung cả sóng văn chương ở Đông Hải.
Sau, ông được tha, nhưng phải đi lính. Năm 1776, Đinh Thì Trung bị bắt trong khi đi đánh dẹp. Ông không chịu đầu hàng mà nhảy xuống sông tự tử. Năm ấy, ông mới 19 tuổi. Người đời thương tiếc, cho ông chính là kiếp sau của Vượt Bột (nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng) vậy.
NHỊN NHỤC NUÔI CHÍ ĐI HỌC VÀ ĐI THI
Phàm ở đời, bất cứ ai muốn thành công lớn cũng đều phải có chí lớn, mà chí lớn cũng phải được hun đúc từng ngày, nuôi dưỡng thường xuyên mới hi vọng là không bị mai một. Không ít trường hợp, vì quyết chí đạt cho bằng được mục tiêu cao cả và tốt đẹp của mình, người ta còn sẵn sàng nhịn nhục. Chuyện Uông Sĩ Đoan cũng có thể được coi là một ví dụ tiêu biểu của người xưa về vấn đề này. Ông Kính Phủ Nguyễn Án (1770 -1815), trong Tang thương ngẫu lục viết rằng:
“Khi chưa đỗ đạt, ông Uông Sĩ Đoan ở rể tại một nhà giàu trong làng tôi (tức làng của Nguyễn Án -NKT) và đã sinh hạ được một người con trai. Người vợ của ông tính khí rất dữ dằn, hễ thấy bạn của chồng đến chơi là đuổi thẳng, lại còn lải nhải nói rằng:
-Cái đồ... dài lưng tốn vài ăn no lại nằm chứ gì mà cứ nói năng ỏm tỏi ra chiều bắng nhắng thế.
Đến khi có khoa thi, ông sắm sửa để đi, nhưng người vợ keo kiệt, quyết không chu cấp lệ phí gì cả. Ông giận dỗi rồi vùng vằng ra đi, ai dè, bà ta đuổi theo, lột hết quần áo, khiến ông phải lội xuống ao để... núp. Bấy giờ, có một cô gái ở làng bên cạnh đang cùng với bà nội mang vải ra chợ bán, thấy cảnh ấy, liền nhờ bà nội tới hỏi xem đầu đuôi sự thể thế nào. Xong, cô xé vải tặng ông để ông đóng khố dùng tạm. Khoa ấy ông đỗ, liền cưới cô gái này làm vợ. Sau, ông làm quan trong triều đến hơn sáu mươi năm, thọ 99 tuổi. Người con gái này, sau là chính phu nhân của ông. Các quan Bồi Tụng là (Uông) Sĩ Lãng, (cũng tức là Uông Sĩ Điển -NK.T), Tri huyện của huyện cẩm Giang là (Uông) Sĩ Thiên, Lại Bộ Lang Trung là (Uông) Sĩ Trạch, đều do bà chính phu nhân này sinh ra.”.
Các tài liệu dã sử khác cho biết thêm, Uông Sĩ Đoan vốn gốc họ Giang, nhưng đến đời ông không hiếu vì lí do gì, đã đổi thành họ Uông. Chính Uông Sĩ Đoan là người khai mạch đại khoa cho dòng họ của mình. Chuyện ông đỗ đạt nói trên là đỗ Tiến sĩ, khoa Tân Sửu (1721). Thế là từ một kẻ “bạch diện thư sinh”, bị coi là cái đồ... “dài lưng tốn vải”, nhờ có chí mà Uông Sĩ Đoan đã trở thành một ông Nghè, và tất nhiên, ông Nghè thời ấy là... “dân chi phụ mẫu.”
Cô con gái nhà giàu - người vợ cũ của Uông Sĩ Đoan -chỉ thấy bát cơm trước mắt mà không thấy được cả một đồng lúa tốt mênh mông, chỉ thấy cái lưng dài của học trò mà không thấy được kho trí tuệ ở trong đầu của họ, song le, trách cô nào có ích gì? Có thế, cô mới là cô chứ. Người xưa nói rằng “yến trước an tri hồng hộc chí” (con chim sẻ làm sao biết được chí lớn của chim hồng hộc), là để chỉ những trường hợp đại loại như thế này.
Tương truyền, sau khi ông cưới cô gái đã hào phóng tặng cho mình miếng vải làm khố, bà vợ của ông liền chạy đến... kiếm chuyện. Cô vợ mới của Uông Sĩ Đoan nói:
-Tôi chỉ lấy cái mà bà đã nhẫn tâm vất xuống ao chứ có giành gì của bà? Còn như áo mũ hiện giờ chồng tôi đang dùng là của vua ban, bà có giỏi thì cứ đến mà lột.
Vợ cũ của Uông Sĩ Đoan xấu hổ quá, bèn bỏ xứ mà đi, sau, không còn ai biết tung tích ra sao nữa. Nhưng thôi, chỉ để lại một chuyện này kể cũng đã quá thừa, tìm tung tích của bà, lỡ lại gặp thêm chuyện tương tự như thế này nữa, sợ lắm thay, ở đời, có những người nổi tiếng chẳng qua chỉ vì họ tầm thường, và chính vì càng tầm thường cho nên họ càng trở nên nổi tiếng. Hãy tránh xa.
Kẻ sĩ chân chính của đông tây kim cổ thường để lại cho đời những di sản phong phú khác nhau. Như Uông Sĩ Đoan, di sản đáng kính mà ông để lại chính là sự nhịn nhục để nuôi chí đi học và đi thi. Có phải ngẫu nhiên mà các con ông đều đại thành đạt đâu?
HOÀNG KIM SÁN: TỰ HỌC VẪN THỪA SỨC; ĐỂ... CHẤM THI CHO TIẾN SĨ!
Lịch sử giáo dục xưa nay vẫn thường cho thấy có ba hạng người nổi tiếng rất khác nhau. Một là những người đã có học vị cao lại còn có cả thực tài, trọn đời chỉ đốc chí đem tài năng của mình ra phục vụ xã hội. Tên tuổi của họ vĩnh tồn cùng sử sách. Hai là những người chỉ có học cho có bằng cấp để lẩy làm vinh hiển riêng, vốn liếng tri thức bất quá chỉ đủ để họ vượt qua được kì thi mà thôi. Họ nỗi danh nhờ ở sự tầm thường đáng sợ. Ba là những người vì hoàn cảnh hoặc sở nguyện riêng nên chỉ cần mẫn học hỏi chứ không hề tham gia thi cử, vì thế họ chẳng có bằng cấp gì đáng kể, nhưng, chính họ lại thực sự là những nhà thông thái, trí tuệ uyên bác hơn người. Họ nổi danh nhờ ở sự kính phục của thiên hạ. Trong số những người này, có Hoàng Kim Sán.
Theo Đại Nam chính biên liệt truyện (quyển 17) thì tổ tiên Hoàng Kim Sán vốn người huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên, sau, không rõ vì lí do gì đã di cư đến huyện Phong Lộc, tình Quảng Bình. Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 -1765), thân sinh của Hoàng Kim Sán là Hoàng Văn Hoán rất nổi tiếng văn tài. Hoàng Văn Hoán từng được mời vào làm thầy dạy học trong phủ Chúa. Dưới thời trị vì của chúa Nguyễn Phúc Thuần, lợi dụng lúc Đàng Trong bị quân Tây Sơn tấn công quyết liệt, chúa Trịnh đã cho hơn ba vạn quân đánh thẳng vào Phú Xuân, Nguyễn Phúc Thuần vội vã chạy vào Gia Định lánh nạn, Hoàng Văn Hoán cũng rời phủ Chúa, dắt díu gia đình chạy đến Bút Sơn để mở trường dạy học, lấy đó làm kể sinh nhai.
Hoàng Kim Sán là con trai thứ hai của Hoàng Văn Hoán. Ngay từ thuở tấm bé, ông đã nổi tiếng thông minh. Chuyện kể rằng, lúc mới lên năm tuổi, ngày ngày, Hoàng Kim Sán vẫn thường theo cha đến trường, khi cha dạy học thì ông cũng ngồi nghe như tất cả những học trò khác. Thỉnh thoảng, ông lại lân la lần giở sách của học trò, hỏi và châm chú lắng nghe họ giảng giải từng chữ, từng câu một. Cứ như thế, đến năm lên mười tuổi, ông đã có thể làm thơ và ứng đối rất trôi chảy.
Một lần, Hoàng Văn Hoán mở tiệc chiêu đãi các bậc tao nhân mặc khách trong vùng. Tất cả vừa uống rượu vừa ngâm vịnh xướng hoạ với nhau. Hoàng Kim Sán cũng được cha cho ra hầu tiệc. Mọi người làm thơ vịnh Bút Sơn. Hoàng Kim Sán làm thơ hoạ lại. Bài thơ hoạ của ông có câu: “Vị dư thủ thự môn bảng" (nghĩa là: Vì ta viết lên đầu bảng cửa trời). Nhiều người khen câu này chứa khẩu khí của bậc có hoài bão lớn, nhưng, cũng có kẻ khó tính, mượn tích từ Kinh, Lễ, ra đề là Tịch thường trân (đấng Nho gia đại đức ung dung ngồi trên chiếu đợi người đến dâng lễ vấn kế), cốt lấy sự lắt léo để thử tài Hoàng Kim Sán. Chẳng dè, Hoàng Kim Sán hạ bút viết ngay một mạch. Bài viết của ông có câu: “Thúc Bạch nhất tòng nham huyệt bí; Cao Quỳ toạ thượng triển kinh luân ” (nghĩa là: bó Thúc Bạch, tức bó lụa người xưa dùng để làm lễ thỉnh người hiền tài, một lần mang tới hang núi là nơi đấng đại trí chọn là chỗ ẩn mình, ắt sẽ thấy có Cao Quỳ -nhân vật tượng trưng cho trí tuệ và đức độ cao khiết của đấng quân tử -đang ngồi giảng giải kinh luân). Đọc đến câu này, ai ai cũng phải phục tài của Hoàng Kim Sán.
Năm Hoàng Kim Sán hai mươi tuổi thì thân phụ của ông là Hoàng Văn Hoán cũng đã già việc giảng dạy học trò đều uỷ thác hết cho Hoàng Kim Sán. Và, ông đã tận tuỵ làm việc, xứng đáng với niềm tin cậy lớn lao của cha. Học trò nhiều người còn lớn tuổi hơn cả Hoàng Kim Sán, nhưng, không ai không một lòng nể phục.
Năm 1801, Nguyễn Ánh chiếm lại được Phú Xuân và xuống lệnh tìm người hiền tài để bổ làm quan. Thể theo lời khuyên của cha già, Hoàng Kim Sán đã ra dự tuyển, ông vượt qua cuộc sát hạch ở địa phương một cách rất nhẹ nhàng, vì thế, được bổ làm quan. Năm 1804, Hoàng Kim Sán là Tri huyện của huyện Lệ Thuỷ (nay thuộc tỉnh Quảng Bình). Nhờ nổi tiếng có tài xử việc nhanh chóng và chính xác, lại sống giản dị và tham liêm, chẳng bao lâu sau, ông được thăng chức Thiêm Sự của bộ Lễ. Năm 1824, Hoàng Kim Sán được vua Minh Mạng bổ làm Thự Tham tri, quyền cai quản Bộ Hình. Và, chỉ một thời gian rất ngắn sau đó, ông lại được thăng làm Thượng Thư Bộ Hình. Dưới thời Minh Mạng, Hoàng Kim Sán còn được trao nhiều trọng trách khác, như Thượng Thư Bộ Binh kiêm Tống đốc Nam Định và Hưng Yên. Ông nổi tiếng là người rất thanh liêm, suốt một đời làm quan chưa từng nhận của ai một chút quà biếu. Bọn tham quan ô lại đương thời, hễ nghe tiếng ông là kinh hồn bạt vía.
Tuy nhiên, Hoàng Kim Sán nổi tiếng với đời lâu bền hơn cả có lẽ vẫn là có ý chí tự học không ngừng. Khi đã có quyền cao chức trọng, dẫu công việc luôn luôn bộn bề, Hoàng Kim Sán vẫn không xao lãng việc học. Trong lịch sử các vị vua chúa nước ta, có lẽ Minh Mạng là người thuộc hàng nổi tiếng khó tính nhất, thế nhưng, cũng chính nhà vua này, trong khoa thi Hội năm 1829, đã quyết định cử Hoàng Kim Sán làm quan chủ khảo. Đây là một quyết định rất táo bạo, bởi năm này, vua Minh Mạng cho đổi gọi một loạt học vị cũ (như Sinh đồ thì đổi gọi là Tú tài, Hương cống hay cống sĩ thì đổi gọi là Cử nhân) và đặt thêm học vị mới là Phó bảng hay Ất bảng... mà Hoàng Kim Sán chỉ là người tự học, chưa từng đỗ đạt ở bất cứ một khoa thi chính thức nào, chưa hề có trong tay một học vị cụ thể nào. Thành bại của khoa thi này có ảnh hưởng không nhỏ đến toàn bộ chế độ giáo dục và thi cử Nho học của nhà Nguyễn sau đó. Đáp lại niềm tin cậy lớn lao đó, Hoàng Kim Sán đã cố gắng hoàn thành xuất sắc trọng trách của mình, ông đã thực sự chọn được những người có tài cho đất nước, được sử cũ hết lời khen ngợi. Theo ghi chép của sách Quốc Triều khoa bảng lục, thì khoa này Hoàng Kim Sán đã lấy đỗ những người cụ thể như sau:
-Hoàng Giáp: một người (Nguyễn Đăng Huân).
-Tiến sĩ: tám người (Bùi Ngọc Quỹ, Phạm Thế Hiển, Nguyễn Tông, Trương Quốc Dụng, Phạm Thế Lịch, Ngô Thế Vinh, Phạm Quý và Trần Huy Phác.).
-Phó bảng: năm người (Phạm Văn Hợp, Dương Đăng Dụng, Phan Văn Nhã, Nguyễn Thường và Trần Ngọc Dao).
Tổng cộng khoa này có tất cả mười bốn người đỗ từ Hoàng giáp đến Phó bảng. Trong số mười bốn người này, có những người về sau rất nổi tiếng, như Nguyễn Đăng Huân, Phạm Thế Hiến, Trương Quốc Dụng, Ngô Thế Vinh... Quả là quan chủ khảo Hoàng Kim Sán đã nghiêm cẩn chọn đúng người tài.
Ngoài trí tuệ uyên bác và đức thanh liêm, Hoàng Kim Sán còn là tấm gương của lòng hiếu thảo. Sách Đại Nam liệt truyện cho biết thêm rằng, sinh thời, vì biết thân mẫu của mình rất thích ăn chuối và mít, vì thế, cả đời ông, không bao giờ dám đụng tới hai thứ quả này. Mỗi khi có việc cần thưa trình với cha là Hoàng Văn Hoán, ông rất cung kính và nói năng nhẹ nhàng đến nỗi lúc đó không ai có thể nhìn thấy răng ông.
Năm 1832, Hoàng Kim Sán qua đời khi đang tại chức, hưởng thọ 57 tuổi. Vua Minh Mạng sai quan đến tận nơi tế lễ rất chu tất. Về sau, vua Minh Mạng từng nhiều lần than phiền về sự bất cập của trí tuệ các bậc đại khoa, nhưng với Hoàng Kim Sán, người chỉ một đời tự học, thì nhà vua luôn ca ngợi một cách chân thành.
Tài học của Hoàng Kim Sán, kính thay!
MAI ANH TUẤN: ĐỖ VỚT THI HƯƠNG, ĐÔ ĐẦU THI ĐÌNH!
Trong lịch sử thi cử Nho học của thời Nguyễn, chỉ có hai người đỗ Bảng nhãn (Phạm Thanh và Vũ Duy Thanh), 9 người đỗ Thám hoa (Mai Anh Tuấn, Phan Dưỡng Hạo, Hoàng Xuân Hiệp, Vũ Huy Dực, Nguyễn Đức Đạt, Nguyễn Văn Giao, Nguỵ Khắc Đản, Đặng Văn Kiều và Vũ Phạm Hàm). Không một ai được đỗ Trạng nguyên bởi vì lệ của triều đại này là như thế.
Thám hoa đầu tiên của thời Nguyễn là Mai Anh Tuấn, đỗ khoa Quý Mão, năm Thiệu Trị thứ ba (1843). Ông sinh năm Ất Hợi (1815) tại làng Thạch Giản, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, mất năm Ất Mão (1855) vì bị thổ phỉ giết hại tại Lạng Sơn, hưởng dương đúng 40 tuổi. Truớc khi bị giết hại, ông là quan Án sát tỉnh Lạng Sơn.
Dân gian truyền rằng: Người họ Mai ở Nga Sơn xưa có tục hằng năm cứ đến ngày mồng 3 tháng 3 âm lịch là vào động Từ Thức để viếng tổ tiên. Năm Giáp Tuất (1814), thân mẫu của Mai Anh Tuấn cũng theo họ hàng nhà chồng vào động Từ Thức. Thắp nhang khấn vái, xong, bà thấy hơi mệt, liền lần ra gần cửa động ngồi nghĩ. Thế rồi, bà thiếp đi. Trong cơm mơ màng, bà bỗng thấy có một cụ già râu tóc bạc phơ, đưa cho bà một cái nghiên mài mực và nói:
- Ta cho con cái nghiên mực này đem về để trẻ nhỏ dùng vào việc học.
Bà đưa tay ra, chưa kịp nhận thì mọi người trong họ cũng vừa từ trong động đi ra về nhà, bà đem chuyện này kể lại cho chồng. Chồng bà suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Đây hẳn là điềm tổ tiên ban phước cho mình, muốn con cái minh đỗ đạt, làm vinh hiển cho cả họ hàng nhà ta đây.
Nói rồi, hai người vui vẻ sắm sửa lễ vật trở lại động Từ Thức để tạ ơn tổ tiên. Hơn một năm sau, họ sinh hạ được một cậu con trai kháu khỉnh bụ bẫm, đặt tên là Mai Thế Tuấn. Mai Thế Tuấn lớn nhanh như thổi và sáng dạ lạ thường. Tròn một tuổi, Mai Thế Tuấn đã nói rất sõi. Lên bốn tuổi, Mai Thế Tuấn đã có thể nắm vững luật bằng trắc. Năm lên sáu, Mai Thế Tuấn được đi học. Đó là cậu học trò bé nhất trường làng nhưng sức học lại vượt trội hơn cả. Người trong thân tộc ai ai cũng nói rằng, mai sau, nhất định cậu bé này sẽ làm vẻ vang cho họ hàng làng nước.
Người xưa thường nói: “học tài thi phận”. Câu này có thể là sai với nhiều người, nhưng với Mai Thế Tuấn thì lại đúng. Năm Đinh Dậu (1837), Mai Thế Tuấn đi thi Hương, nhưng kết quả là cậu học trò nổi tiếng thần đồng này chỉ đậu vớt! Ai cũng lấy đó làm tiếc, nhưng Mai Thế Tuấn thì không nản. Ông vẫn miệt mài học tập, ngày cũng như đêm. Làng ông có khá nhiều đoạn tường bằng gạch, ngoài trát vữa, và quét vôi. Ông lấy bút viết chữ kín cả những bức tường ấy, cốt để có thể học vào bất cứ lúc nào, kể cả khi đi dạo trong làng. Thường thì bất cứ ai làm bẩn tường cũng đều bị la mắng, thậm chí là còn bị phạt, nhưng Mai Thế Tuấn thì không, bởi lẽ mọi người đều tin rằng, sẽ có ngày Mai Thế Tuấn làm vinh hiển cho làng.
Năm Canh Tí (1840), Mai Thế Tuấn lại vác lều chõng đi thi Hương lần thứ hai, và lần này thì ông đỗ thực sự. Năm ấy, ông 25 tuổi. Tuy nhiên, để bảo đảm chắc chắn hơn cho kì thi Hội, ông lại bỏ ra ba năm trời ôn luyện không ngừng. Khoa Quý Mão, năm Thiệu Trị thứ ba, Mai Thế Tuấn “lai kinh ứng thí", đỗ Đình nguyên, đệ nhất giáp, đệ tam danh (Thám hoa).
Trương truyền lúc bấy giờ, nhiều bậc đại khoa lấy làm tiếc, vì Mai Thế Tuấn đỗ Đình nguyên (tức đỗ đầu kì thi Đình), nhưng không được là Trạng nguyên đã đành, đến Bảng nhãn cùng chẳng được, cho nên đã đồng lòng dâng sớ lên Hoàng đế Thiệu Trị, xin cứu xét cho Mai Thế Tuấn. Và Hoàng đế Thiệu Trị đáp:
- Trẫm biết văn tài của Mai Thế Tuấn hơn hẳn những người khác, song, các bậc tiên Đế đã định lệ như thế rồi, không thể làm khác được.
Tuy nhiên, để ghi nhận và khích lệ tài năng của Mai Thế Tuấn, Hoàng đế Thiệu Trị cho đối gọi tên ông là Mai Anh Tuấn. Ta quen gọi là Mai Anh Tuấn kể từ đó.
Ngày vinh quy bái tổ, dân làng hồ hởi ra đón ông. Lời đầu tiên mà Mai Anh Tuấn nói vói dân làng là:
- Hôm nay tôi về để mua vôi quét lại tường cho dân làng đây!
Sau, nghe tin Mai Anh Tuấn bị thổ phỉ giết hại, dân làng vô cùng thương tiếc, bèn cùng nhau lập đền thờ, tôn làm thần, khói hương nghi ngút mãi.
Mai Anh Tuấn từng là một thần đồng, nhưng đời nhắc nhở tới ống mãi mãi không phái vỉ ông là thần đồng, mà vì ông là người có chí cả, biết nghiêm khắc tự rút bài học cho chính bản thân. Mới hay, bài học lớn nhất của mỗi cuộc đời chính là ở chỗ phải biết tự rút ra từ cuộc đời những bài học. Như Mai Anh Tuấn, như bậc đại khoa thuở nào... 
Nguyễn Khắc Thuần
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Đóa mai rừng

  Đóa mai rừng Vân Trang đang hướng dẫn học sinh lao động tổng vệ sinh sân trường, chuẩn bị sơ kết học kỳ I. Mấy cô cậu học sinh lớp 9 nghịc...