Xứ sương giăng: Ông già
bán xôi ở cây số 6
CHƯƠNG 1
1. Ngã ba cây số sáu - 1960
Như một quy luật bất thành văn, mỗi khi một con đường vươn ra xa thì hai bên đường nhà cửa mọc lên. Con đường Đan Kia cũng vậy, hai bên đường nhà ván, nhà xây mọc lộn xộn theo ý thích của từng chủ nhà. Con đường tuy nhỏ nhưng đã được tráng một lớp nhựa cho nên cũng tránh được cảnh lầy lội khi mùa mưa đến. Sống ở ngã ba có tên gọi là cây số sáu này đa số là dân miền Trung đến lập nghiệp, mỗi gia đình một hoàn cảnh, nhưng họ rất giống nhau ở cái cảnh nghèo khi mới đến. Trồng rau là nghề đương nhiên của họ. Nói đương nhiên vì theo những ông già lớn tuổi, ngày lập ấp, ty canh nông đã từng thử trồng lúa tại đây, nhưng nghe nói thổ nhưỡng không thích hợp, lúa làm đòng nhưng hạt lép hết trơn, không có được một hạt thóc nào cả. Thật lạ, cách chỗ này độ năm sáu cây số, người Thượng lại trồng được lúa, tuy là lúa đồi, cơm cứng, năng xuất thấp, nhưng dù sao cũng là hạt ngọc nuôi người. Đã không trồng được lúa thì chỉ còn cách làm vườn, dân ngã ba trồng rau đem bán cho người phố thị. Vậy là một nghề nghiệp ra đời, nghề buôn “la ghim” như cách gọi của một số người có chút ít chữ Tây, dù chỉ là Tây bồi. Sáng sớm những người buôn rau lũ lượt gánh những gánh sú, gánh lơ, gánh cải, khoai tây, cà rốt…xuống chợ Tân Thị để mong kiếm được chút ít tiền đong gạo. Chợ Tân Thị là cách gọi “sính chữ” của một số người, còn đa số gọi là chợ mới để phân biệt với chợ Cây mà bây giờ gọi là khu Hoà Bình. Ngôi chợ mới đó do một ông kiến trúc sư tài hoa thiết kế, khi mới xây xong đã nổi tiếng trong cả nước. Người ta dành cho những người bán rau một khoảnh đất để bán sản phẩm của mình. Không có sự phân biệt ở đây, người buôn rau và anh làm vườn đều giống nhau, họ đều muốn bán cho nhanh gánh rau của mình để về sớm sau khi mua vài thứ hàng trong chợ. Đó là những năm đầu của thập kỷ sáu mươi.
Ông Tuất – 1998
Một ngày ở ngã ba cây số sáu bắt đầu từ 5 giờ sáng, lúc đó ông Tuất đặt gánh xôi xuống vỉa hè trước quán bà Hóa và ra sau quán vần cây dù được hàn vào một vòng tròn bằng sắt thật to ra chỗ ngồi. Đó là nơi bán hàng lâu nay của ông Tuất. Ông Tuất với nồi xôi của mình chờ người mua mở hàng, trên tay ông là ly cà phê đen mua ở quán cô Thân. Sáng sớm nào ông Tuất cũng mở hàng cho cô Thân bằng một ly cà phê đen nóng hổi. Nói cho cùng, ông ghiền mùi vị cà phê cô Thân pha từ lúc nào không rõ, chỉ biết rằng nếu không được uống một ngụm cà phê vợtở quán Ngọc Tuyền thì ông chưa tỉnh ngủ hẳn. Cà phê vợt khó pha lắm, bởi phải làm sao giữ được cả hương và vị của cà phê cùng lúc với độ nóng bỏng của thứ nước uống này là cả một nghệ thuật. Cái nghệ thuật đó ông Tuất không biết, vả chăng ông cũng không có ý định tìm hiểu làm gì, ông chỉ chú ý vào một chuyện là làm sao nấu xôi cho thật ngon để khỏi mất khách. Khách hàng của ông Tuất nhiều dạng lắm, từ anh xe ôm cho đến đứa học trò, vị công chức, người làm vườn và cả mấy bà bán cá. Sáng nay, lúc ông Tuất đang thưởng thức ngụm cà phê đen thì Bằng chạy xe ra bến. Bằng dựng xe chỗ quen thuộc rồi sà ngay vào gánh xôi ông Tuất. Ông Tuất không hỏi Bằng ăn gì, ông quá quen với sở thích của tay xe ôm có bộ râu quai nón, ông làm cho Bằng một hộp xôi bắp và cho nhiều hành phi hơn thường lệ. Nhìn Bằng ăn ngon lành món quà sáng, ông Tuất hỏi:
– Sao, mở hàng chưa?
Ông Tuất hỏi cho có hỏi chứ ông biết sáng nào từ lúc 3 giờ Bằng cũng thức dậy và chở cô Xinh xuống chợ đầu mối mua rau về bán. Cô Xinh không chồng không con, tuổi xuân của Xinh sắp qua đi nhưng không thấy cô có ai đưa đón cả. Có người thấy Bằng hàng ngày chở cô Xinh đi mua hàng từ sáng sớm nói rằng hay là Bằng lấy luôn Xinh “làm phòng nhì” đi cho xong chuyện. Bằng chỉ ngước nhìn người phát ngôn ẩu một cái rồi thôi, Bằng không trả lời trả vốn gì cả. Đâu ai biết Bằng nghĩ gì trừ ông Tuất. Ông Tuất ở cạnh nhà Bằng, hàng ngày những chuyện lớn chuyện nhỏ nhà Bằng đâu qua được mắt ông? Vợ Bằng tên Thắm, tên là Thắm những không đằm thắm chút nào. Ngày nào Thắm cũng xoen xoét chuyện chồng chuyện con. Con thì Thắm có hai đứa, một đứa học lớp 5, một đứa vừa vào lớp 1. Những trò nghịch ngợm của hai thằng con trai khiến Thắm la lối suốt ngày. Hết la con Thắm lại la chồng. Cũng lạ, Bằng nhìn bặm trợn với một hàm râu quai nón xanh um, nhưng anh lại sợ vợ một phép. Thắm nói gì thì nói, Bằng chỉ một mực lặng thinh. Bắt đầu bao giờ Thắm cũng lôi chuyện tiền nong ra nói, Thắm hỏi Bằng sao hôm qua chạy xe ra sao mà chỉ đưa cho vợ năm chục bạc? Năm chục bạc thì làm sao nuôi hai thằng con phá như giặc ăn học cho nên người, chắc cuối cùng cũng chỉ làm đến anh xe ôm như bố là cùng.
3.Buôn gánh – 1970
Chị Hoá là một người buôn rau, chị chuyên buôn gánh. Quê chị ở Quảng Trị, vào vùng đất cao nguyên này, chị vẫn giữ nguyên giọng nói đặc sệt miền quê nghèo khổ. Quả chị nghèo khổ thật, thằng con đầu ba tuổi của chị cứ khóc thét lên mỗi sáng sớm thức dậy quơ tay không thấy chị đâu. Lúc ấy có lẽ chị đã đi được một nửa đoạn đường với chiếc đòn gánh cong vòng kẽo kẹt. Chị đi tắt qua bãi tha ma mà người ở đây hay gọi là mả thánh. Chẳng biết có thánh thần gì ở đây không, nhưng còn ma thì chị sợ lắm. Chị tin là ma ở khắp nơi rình rập từng bước chân con người trong đêm hôm tăm tối. Nhưng nỗi sợ trong chị vẫn không thắng nỗi sự mệt nhọc khi phải gánh đến sáu chục ký lô rau và đi xa năm, sáu cây số đường trường. Ai đã từng lao động cật lực như chị mới thấm thía nỗi vất vả mà người đàn bà gần ba mươi tuổi phải gánh chịu. Người ta cũng như chị thôi, ai cũng phải băng qua một quả đồi nhấp nhô mồ con mả lớn trong đêm vắng vẻ để có thể bớt đi một đoạn đường dù phải leo lên một con dốc tối tăm. Chị đi không mệt mỏi, ngày nào cũng vậy, sau khi bán rau xong, chị vội đi lấy hàng bỏ mối mà mấy quán tạp hóa dặn, mua một ít thức ăn đơn giản thường là mắm hay cá khô, rồi tong tả trở về.
Anh Vinh chồng chị là một người đỏm dáng, anh giống như một con gà trống đẹp mã lúc nào cũng có thể cất cao tiếng gáy khoe mẽ với bầy gà mái vây quanh. Hình như trời sinh anh ra là để làm cảnh hay sao mà trông anh lúc nào cũng bảnh bao. Anh có bằng tiểu học nên xin đi làm thư ký cho một đội diệt trừ sốt rét ở quận Lạc Dương. Sáng sáng, anh đạp chiếc xe đạp cà tàng của mình đi làm sau khi nhét bụng một bát cơm rang. Thằng Thiên con anh nhìn theo mà lòng lại mong mạ về. Mạ về nghĩa là nó được một tấm bánh, cho dù tấm bánh chị Hoá mua cho con chỉ là loại rẻ tiền, thường là bánh cam làm bằng bột bắp, nhân khoai lang. Nhưng thằng Thiên ăn ngon lành lắm, nhìn nó ăn ai cũng bắt thèm. Không chỉ có Thiên, chị Hoá lại đẻ con, ông trời chi đâu mà bắt chị sòn sòn năm một, hai đứa con gái ra đời tiếp theo thằng Thiên chỉ trong vòng có bốn năm. Nhưng cái ăn thì lúc nào cũng cần thiết, nên vừa ở cử xong chừng một tháng, chị Hoá lại tiếp tục gánh rau đi bán. Trời thương người nghèo khổ, sức khỏe chị Hoá chỉ sa sút chút ít trong những lần vượt cạn. Có phải vì chị làm lụng từ thuở nhỏ nên có sự chịu đựng dẽo dai? Cũng có khi con người ta muốn thoát ra cảnh bần cùng nên không còn sự lựa chọn nào khác?
4.Xe ôm – 1998
Bằng chạy xe ôm, số tiền thu được trong ngày Bằng chia làm ba phần. Một phần dành cho xăng cộ, không thì lấy gì để chạy? Phần nữa Bằng dành cho sửa chữa và khấu hao xe, còn lại mới đưa cho vợ. Bằng không dành riêng cho mình một chút nào. Với cái quần din bạc màu, cái áo khoác giả áo lính Bằng “liên khúc” từ 3 giờ sáng cho tới 10 giờ. Nghỉ ngơi cho đến 12 giờ là Bằng chạy xe đến 8 giờ đêm. Cái thời khóa biểu của Bằng như vậy, không ngày nào sai trật, trừ ba ngày tết. Ba ngày đó cô Xinh cũng nghỉ bán hàng, Bằng đành thất nghiệp, nói vậy chớ có ai kêu Bằng cũng sẳn sàng….
Ông Tuất biết Bằng hiền như cục bột thì làm gì có chuyện tòm tem với cô Xinh, quả là thiên hạ ác mồm ác miệng. Nhưng ông Tuất lầm. Bằng không đi lại với cô Xinh thiệt, nhưng Bằng bị bắt tại trận với vợ của một đồng nghiệp, không phải đồng nghiệp hai bánh mà là đồng nghiệp mười hai bánh! Đó là tay tài xế đường trường tên Trung chở hàng từ Nam chí Bắc, nhiều khi hàng tháng trời mới ghé qua thăm nhà một lần, còn Bằng thì ngày nào cũng chạy xe qua nhà cô Thủy, Thủy có cái miệng hay cười, Thủy có nước da trắng lắm…và Thủy thường nhờ Bằng vào coi cái này cái nọ giúp mình. Làm thằng đàn ông mà ba cái vụ sửa chữa vặt, điện nước nhỏ nhặt mà không giúp hàng xóm được thì ra làm sao? Nghĩ vậy nên Bằng xắn tay vào làm dùm cho Thủy. Bữa đó chồng Thủy về, hắn đột ngột hiện ra như từ đất mọc lên đúng lúc Bằng từ phòng ngủ của Thủy đi ra. Theo lời Bằng kể lại, Bằng không làm gì Thủy cả, Bằng chỉ vào phòng ngủ của Thủy sửa dùm cái bóng nê ông bị cháy, Thủy cà rà đứng một bên cố tình cạ cặp vú vào lưng Bằng khiến hắn nghe nhột nhột, Bằng đứng nép vào sát vách, Thủy cũng nép theo đến nỗi Bằng phải cự nự. Bằng kể, Thủy thấy vậy càng sấn tới, còn chọc quê Bằng sao mà nhát gái, em đây chả sợ mà anh thì sợ gì chứ?
Bằng không kể chồng Thủy hành sự ra sao khi thình lình xuất hiện và bắt gặp Bằng đi ra từ phòng ngủ của vợ chồng y. Bằng chỉ nói với ông Tuất rằng chú có dư cho cháu mượn hai chục triệu, thằng Trung bắt cháu viết giấy nhận nợ, quả là oan tày trời cháu biết kêu ai! Không dưng mà ông Tuất tin lời Bằng, còn dư luận ở ngã ba thì không như vậy, chuyện của Bằng có nhiều kịch bản, trong đó có nhiều tình tiết giựt gân, éo le và có thể chuyển thể thành …chuyện phim. Ông Tuất về nhà mở tủ gom đủ hai chục triệu đưa cho Bằng, ông Tuất nói:
– Đây là số tiền chú lận lưng phòng lúc trái gió trở trời. Mày cứ lấy trả cho nó đi cho xong nợ. Mà lạ sao tao không nghe vợ bay la lối gì hết?
Bằng im lặng nhìn ông Tuất, trong đôi mắt của Bằng lóe lên một thứ ánh sáng xanh xám, ông Tuất hiểu ngay Bằng phải chịu đựng cơn tam bành lục tặc của con Thắm khổ sở đến độ nào! Bằng ít nói nên không biết nói gì, nhứt là trong những lúc như vầy, Bằng càng im lặng. Nhưng nếu nhìn kỹ, hai giọt nước mắt sắp sửa ứa ra từ khóe mắt Bằng, Bằng ngó lơ đi chỗ khác rồi lấy tay dụi mắt, dường như chiếc xe chở hàng vừa chạy vụt qua đã làm bụi vào mắt Bằng. Bằng càm ràm:
– Chạy gì mà chạy dữ quá, còn sớm mà….
5.Chuyện chồng chuyện con – 2005
Chị Hoá giầu nhưng không sướng gì như nhiều người đồn. Hiển nhiên thôi, một đời chịu cực chị quen rồi. Sáng sương mù còn phủ kín mặt đường chị đã dậy, tiếng la của chị cả dãy nhà bên cạnh ai cũng nghe. Đầu tiên chị la anh Vinh chồng chị trưa trờ trưa trật mà còn ngủ. Thứ đến chị lôi hai con bé giúp việc mà chị lặn lội về quê đem vào ra chửi vang lừng. Chúng đang độ lớn, con gái dậy thì ngủ cứ như chết. Chị ghét cay ghét đắng những đứa như vậy, bằng tuổi chúng chị đã có con, đã lặn lội với những đám rau cải để sớm mai gồng gánh xuống chợ bán chứ đâu có sướng như chúng bây giờ? Vậy là chị tức, chị xách roi vào giường quất túi bụi những cái mông tròn lẳn, những cái mông con gái mà anh Vinh cứ nuốt nước bọt mỗi khi nhìn vào. Những lúc ấy chị bắt gặp ánh mắt có lửa của anh, thế nào đêm ấy bắp vế anh cũng bầm tím chớ chẳng chơi. Chị quất hả hê như cố tuốt ra ánh mắt của anh Vinh hằn lên bờ mông trắng nỏn nà của con Nguyệt, con Ngà. Bà Bảy bán chè ngồi nhờ hiên nhà chị chắt lưỡi tội nghiệp hai con nhỏ đang độ tuổi ăn tuổi ngủ nhưng chẳng biết phải can thiệp làm sao?
Bây giờ đám con nhà chị không còn đứa nào ở với chị. Chị dựng vợ gả chồng cho chúng theo tiêu chuẩn của chị. Con dâu thì chị mặc đám con trai muốn lấy ai thì lấy, còn con rể chị chọn những người nghèo. Chúng càng ham của nả của chị càng tốt. Chị cho người thăm dò xem những chàng “chuẩn rể” nhìn vào số tài sản của chị như thế nào? Nếu anh ta có ý dòm vào gia tài nhà chị thì chị đánh tiếng gả liền. Còn nếu anh làm ra vẻ chẳng phải vì tiền, chị gạt ra ngay. Từng lăn lộn với thương trường chị biết những ai nhìn đồng bạc bằng cặp mắt hau háu thì đó là người chị sai khiến được. Chị sai họ bằng tiền, vậy thì những chàng rể của chị cũng không có cách nào thoát khỏi bàn tay và bọc tiền của chị. Mà quả thật những thằng rể nhà chị ngoan ngoãn lắm, chúng nó như những cục bột chị tha hồ vo tròn bóp méo!
Thằng Thiên con chị Hóa vào tù. Thằng Thiên vào tù cũng phải thôi, nó học bài học của chị nhưng không thuộc. Làm ăn với đối tác phải nắm lấy người ta, đằng này nó để cho người ta nắm lấy nó. Thiên gặp một siêu lừa, lại gặp một ông sếp quá ư giảo quyệt giao hết chuyện cho Thiên chỉ ở đằng sau giật dây đến khi đổ bể thì ôi thôi, chữ ký rành rành là của thằng Thiên. Thiên ký cũng phải thôi vì nó bỏ bạc tỉ vào hùn hạp làm ăn với một công ty X,Y, Z chi đó mà chị nào có biết, nó được giao làm phó giám đốc phụ trách kinh tế. Chị Hoá tức ói máu nhưng biết làm sao được? Chuyện thằng Thiên chưa xong thì bà Bảy bán chè mách với chị:
– Tui nói khi không phải cô coi chừng chú đó?
– Coi chừng chuyện chi hả thím?
Bà Bảy ngập ngừng một hồi rồi mới cho chị biết là anh Vinh lại đi “tòm tem” với một con mụ chồng vừa chết năm ngoái, có một đứa con một tuổi và nghèo kiết xác. Chị Hoá tức lắm, chị quyết phải gọt đầu bôi vôi con lộn chồng cho hả. Chị biết anh Vinh chẳng có tiền đâu mà cho con nhỏ, chị quản không để một xu lọt ra ngoài, vậy nó mê ảnh chỗ nào cơ chứ? Chị tìm đến căn chòi của Hiền vào một chiều chập choạng, cái chòi làm bằng những miếng ván bìa chắp vá mà Hiền xin được của xưởng cưa ông Trí khi cô làm phụ việc ở đây. Tiếng rúc rích cười hạnh phúc của Hiền khi anh Vinh chồng chị nựng nịu con Hiền. Chẳng biết trước đó hai ngươi nói với nhau những gì nhưng khi chị nhìn qua kẽ ván, chị thấy anh Vinh rạng rỡ đút cho thằng nhỏ ăn bột miệng thì nói với Hiền:
– Thôi mạ nó cứ nấu cơm đi để tui đút bột cho con cũng được, phải vậy không thằng con cục vàng của ba?
Hiền nguýt anh Vinh một cái rõ to, nhưng miệng thì cười sung sướng. Cô dọn ra mâm một bữa cơm với một con khô và đĩa rau luộc rồi mời anh Vinh ăn cơm với một câu mà chị chưa bao giờ mời chồng như vậy:
– Anh ăn cơm đi, để đó em đút cho chớ không thì đói bụng chết.
Chị Hoá đứng như trời trồng, bao nhiêu dự tính đánh ghen hầu như đi đâu mất cả. Chị quay về tắp lự với những hình ảnh nhảy múa trong đầu….
6.Bán xôi – 2000
Có khách, Bằng lên xe rồ ga chạy, bỏ lại sau lưng lời khơi mào của ông Tuất “ngày đó mày nhỏ xíu…”. Bằng đã chạy xe khuất sau một khúc quanh nhưng hình ảnh của Bằng hồi nhỏ ông Tuất vẫn nhớ như in. Nhưng ông Tuất không thể tiếp tục chuyện riêng hồi ngày xưa của ông bởi ông còn lo buôn bán vì bây giờ là thời điểm bán hàng đắt nhứt của ông. Người mua xôi về cho con ăn sáng, kẻ dặn chục hộp xôi chút nữa ghé lấy để cho người làm công ăn bữa lỡ, ông Tuất gói xôi liền tay. Nói cho cùng xôi ông Tuất nấu hợp với dân ngã ba cây số sáu, xôi dẽo ngon, nóng, lại vừa túi tiền của những người làm vườn. Dân lao động ăn to nói lớn đã thành thói quen, đi làm vườn là bán sức lao động nên phải cung cấp đủ năng lượng mới làm việc được. Ông Tuất bán xôi ở ngã ba này đã trên chục năm trời, từ ngày bà Thành vợ ông mất. Trước kia khi vợ còn sống, bà Thành bán xôi còn ông Tuất chạy xe ôm chở mối cho quán bà Hóa, cái gì ông cũng chở từ gạo, phân bón, đến bia bọt và cả đưa đón mấy đứa học sinh. Vậy mới đủ ăn và nuôi hai đứa con ăn họcnhưng hai đứa con của ông đã làm ông thất vọng. Một đời với vốn chữ nghĩa lớp 5, ông Tuất phải bán sức lao động để sống nên ông thường hâm mộ những người nhiều chữ làm việc bàn giấy và mong sao hai đứa con của mình cũng kiếm chút chữ ra đời làm “sĩ quan” với người ta. Vậy mà hai đứa chỉ học đến lớp 9 rồi bỏ ngang, hình như chúng không thể nhét con chữ vào trong đầu chúng. Ông giận chúng lắm nhưng biết sao được, vợ chết, ông vừa buồn chuyện vợ lại lo nỗi chuyện con. Thấy ông như người mất hồn, bà Hóa nói:
– Tôi nói khi không phải, hay là chú bán xôi đi chớ cứ đi chở hàng cho tôi hoài, ngày càng có tuổi sức càng yếu chú chống chọi không nỗi với những chuyến hàng cả tạ đâu. Vả chăng bây giờ xe cày, xe tải nhỏ cũng nhiều, chú làm sao cạnh tranh cho được….
Bà Hóa bỏ ngang câu chuyện, ông Tuất biết trong đầu óc con buôn của bà Hóa đã có một bài toán vận tải rồi nhưng lâu nay bà chưa tiện nói ra. Mỗi lần ông Tuất chở hàng cho bà Hóa chừng một tạ là cùng, còn xe cày kéo cái rờ mọt chở vô tới tận vườn năm bảy tạ là chuyện thường thì phí chuyên chở vật tư phân bón, gạo nước cá mắm phải rẻ hơn là cái chắc. Ông Tuất biết mình sẽ mất việc nay mai, đêm đó ông về thắp một nén nhang khấn trước bàn thờ vợ:
– Bà ơi, chắc tui phải bỏ nghề chạy xe ôm, tui trở lại với nghề bán xôi của bà, bà phù hộ cho tui nghen bà!
Ông trầm ngâm trước bàn thờ vợ, nhìn sững nén nhang đang bốc khói, tàn nhang cong vòng khiến ông Tuất thấy an lòng. Hồi còn sống bà Thành bán xôi sáng, ông Tuất đều thức dậy lúc 2 giờ sáng để giúp vợ chuyện nấu xôi. Xôi không phải như món ăn sáng khác có thể chế biến sẳn từ ngày trước. Xôi phải nóng, dẽo mới ngon. Vậy là phải nấu sớm để kịp bán hàng lúc mặt trời còn chưa mọc, chuyện đồ xôi sao cho xôi chín đều ông Tuất chẳng lạ lẫm gì, bây giờ nghe bà Hóa nói vậyông quyết định chuyển nghề. Quả là trời chẳng phụ lòng người, dân ngã ba cây số sáu đang nóng lòng chờ một bà bán xôi thay thế chỗ của bà Thành nhưng chưa có ai đạt yêu cầu. Thiệt ra cũng có hai người bán xôi sáng khi bà Thành bệnh nặng không bán được nhưng họ không trụ được lâu. Người thì xôi không đạt chất lượng, xôi cứng, nếp đi đàng nếp, đậu đi đàng đậu thì ế là cái chắc. Còn người thứ hai nói cho cùng chất lượng cũng tạm được tuy không bằng bà Thành nhưng giá cả thì mắc quá. Dân vườn mà, đồng tiền họ kiếm được đâu phải dễ dàng gì nên chi họ tiêu tiền phải đúng giá trị của nó. Vậy là khi ông Tuất “ra nghề” dân ngã ba ủng hộ tức thì. Câu chuyện buôn bán của ông Tuất thuận buồm xuôi gió cũng nhờ một tay góp sức của bà Hóa. Ai vô mua hàng bà Hóa cũng “tiếp thị” cho ông Tuất, nên chi với chục ký nếp bữa đầu tiên ông Tuất bán hết vèo lúc bảy giờ sáng. Ông mừng lắm, vừa bán hàng vừa tỉ tê “tâm sự” với người mua rằng có lẽ bà Thành phù hộ cho ông!
Xứ sương giăng: Ông già bán xôi ở cây số 6 – Truyện dài của Võ Anh Cương
8 Tháng mười một, 2022
466
Chương 1 (tiếp theo)
7.Mẹ và con – 2000
– Mi coi ba mi tề, tóc đã hai thứ trên đầu rồi mà còn đi mèo chuột.
Huyên không lạ gì tính ba cô, Huyên biết ba là một người trăng hoa, Huyên cho rằng tất cả đàn ông cũng đều một duột, kể cả chồng Huyên. Cũng như mạ Huyên bỏ ngoài tai những chuyện như vậy, cô lao vào kiếm tiền và cũng như mạ, cô sai khiến người khác bằng tiền. Đến khi mỗi đêm thức giấc một mình với chiếc gối ôm, Huyên mới thấm thía cảnh của mình. Người chồng mà cô không yêu không biết nghĩ gì khi phải vâng lời mẹ vợ xuống Đơn Dương để trông coi một nhà máy gạch. Một mình Hưng hay hai người trong cái trại một bên lò gạch mỗi khi đêm xuống, chỉ có trời mới biết nhưng cặp mắt của những người thợ gạch nhìn Huyên thương hại mỗi khi Huyên xuống lò gạch vì công việc gì đó khiến Huyên nao lòng. Hóa ra ở cái thị trấn xa xôi đó Hưng đi lại với một người đàn bà khác, ai cũng biết chỉ một người không biết, đó là Huyên. Đến khi vỡ lở ra Huyên dằn lòng giấu mẹ, cô biết tính mẹ cô sẽ hành xử như thế nào. Hơn nữa Huyên còn phải vật lộn với cơ man nào là công việc. Hơn ba chục tuổi đầu tài sản đứng tên cô cũng kha khá. Ba tòa nhà trong đó có một biệt thự sân vườn, sáu chiếc xe tải chạy đường trường, một siêu thị trang trí nội thất to nhất nhì trong tỉnh và một cửa hàng bán vật liệu xây dựng, trong đó có công ty con là cái lò gạch trước kia làm thủ công nay chuyển hẳn qua công nghệ tuy nen. Một tay Huyên lo tất cả, chừng ấy công việc phải để mắt đến thì nó nuốt trôi đi thời gian của một ngày là lẽ đương nhiên. Do vậy Huyên quên đi thật nhanh người con gái có nước da trắng hồng cướp chồng cô như cách người ta nói. Nó cướp Hưng cả linh hồn và thể xác chứ có cướp của Hưng được đồng nào? Hưng làm gì có tiền ngòai vài trăm dằn túi mỗi tuần Hưng về thăm vợ?
Nhà văn Võ Anh Cương
Những ý nghĩ đó cứ bám riết lấy Huyên mỗi khi không ngủ được. Trong đêm tiếng con thạch sùng trêu tức Huyên như nhắc cô rằng cô chỉ một mình, không con, không chồng, không một ai chia sẻ những lúc Huyên buồn. Nhưng sức mạnh của đồng tiền thật dễ sợ, nó cuốn lấy Huyên, lôi Huyên đi bất chấp một chút kháng cự của cô mỗi khi cô cảm thấy đời mình vô nghĩa.
Bây giờ nghe mạ mình kể chuyện trăng hoa của ba, Huyên nghe cục tức chặn ngang cổ. Ba cô đẹp trai với nụ cười trong mắt và cái miệng dẻo quẹo, và nhất là thuộc tâm lý của đàn bà con gái như thuộc tên ba cái hóa chất diệt trừ sốt rét mà một thời ông làm ai mà không thích? Huyên buột miệng:
– Mạ lo chi con bò trắng răng, ba con chỉ rong chơi một chút rồi cũng chán thôi mà!
Anh Vinh lang chạ với rất nhiều người từ trước đến giờ ai cũng biết, ai anh cũng mau chán và tìm cách bỏ người ta để đi lại với người đàn bà khác. Có lẽ anh mau chán khi chinh phục quá dễ chăng? Chị Hóa cũng biết rõ điều đó nhưng cũng như những người đàn bà khác, chị tức vì thói trăng hoa của anh thì ít mà tức vì lòng tự ái bị xâm phạm thì nhiều. Bây giờ nghe con gái lớn nói như vậy, chị nổi cơn tam bành lục tặc:
– Mi chỉ nói bậy, rong chơi là sao dù gì đầu cũng hai thứ tóc rồi, cứ như vậy hoài người ta cười cho thúi mũi. Còn mi nữa coi chừng thằng chồng mi, tau thấy hắn cũng không vừa chi mô!
Huyên không cãi với mẹ một lời, cô biết tính mạ mình, để cho bà nói đã đời rồi thôi đâu lại vào đó. Bà có biết bao nhiêu việc phải toan tính như cô vậy, lấy đâu ra thời gian mà nói hoài nói hũy, cho dù cái chuyện đó có ảnh hưởng đến danh giá của nhà mình. Danh giá? Huyên cũng không biết người ta nghĩ về gia đình mình ra sao, nhưng dù sao giầu có sẽ khỏa lấp được tất cả những khiếm khuyết, Huyên học được điều này từ mẹ và trong cuộc chinh phục những đỉnh cao tiền bạc, Huyên áp dụng điều này một cách triệt để và cô luôn thành công. Vì vậy mới chớm nghĩ tới chữ danh giá, cô liên tưởng ngay đến tiền nằm trong tủ sắt nhà cô và cô lại bị cuốn vào cuộc sanh nở của những đồng tiền.
8.Bạn lính – 2000
Ông Tuất giờ đã bán hết hàng, vừa nhẩn nha dọn đồ, ông vừa nghĩ tới thằng Bằng. Bằng chở khách đã về lại bến và đang đọc báo, thấy ông Tuất, Bằng cười như mếu:
– Chú coi, sáng chở ông già ra đầu đèo tưởng cũng đỡ, ai dè chẳng được chút gì mà còn lỗ tiền xăng!
Ông Tuất ngước mắt chờ Bằng kể chuyện, quả nhiên Bằng làm một thôi một hồi. Ông già bắt xe ôm của Bằng ra đầu đèo đón xe về Bảo Lộc, đến nơi ông già nói “nói thiệt với cậu tôi còn có hai chục cậu lấy tạm vậy”. Cháu cự nự “ba chục, tôi nói rõ giá rồi mà!”. “Biết vậy, nhưng tui nói thiệt chỉ có bây nhiêu”. Nói xong ông già móc hết các túi ra quả nhiên không còn một cắc nào. Cháu nói tôi không biết chú phải trả đủ tiền! Ông già năn nỉ Bằng cho nợ vậy, chừng nào lên Đà Lạt tui trả lại cậu, cậu coi lên thăm thằng bạn lính bị tai nạn tui đâu ngờ nó nghèo tới mức không thể nào nghèo hơn. Tui móc hết túi tiền đưa cho vợ nó, trừ lại hai chục để đi xe ôm. Tui tưởng giá xe ôm trên này cũng giống Bảo Lộc ai dè…tui không dám trả giá bởi sợ mở hàng mà trả giá cậu sẽ la tui. Cháu hỏi bộ chú định đi nhờ xe đò sao? Cháu cười nhạo, ai ngờ ông già nói đúng, tui là người làm ăn ở Bảo Lộc, mấy người lái xe khách ai mà không biết tui, tới nơi tui trả lại họ chớ khó gì? Mà bạn chú tên gì? Thằng Lai ở tiểu đoàn 200C với tui hồi mới giải phóng.
Ông Tuất la lên:
– Ông Lai à, ổng bị sao?
– Cháu cũng không biết chỉ nghe ông già nói ông Lai làm vườn thất bát, để vườn cho vợ con làm ổng đi làm thợ hồ xui làm sao rơi từ trên giàn giáo xuống gãy một chân, nhà không còn hột gạo may mà ông Bổ lên thăm…phải ông Lai ở Bãi Bằng không chú?
– Rồi sao nữa?
– Cháu phải cho nợ chớ sao, không lẽ ông già đó giúp người gặp khó được còn mình thì không à?
Ông Tuất cười hà hà:
– Mày coi vậy mà được!
Ông Tuất ra về, Bằng trở lại xe đọc báo chờ khách.
9.Nợ nần – 2000
Đang ca cẩm với con gái, chị Hóa ngưng bặt khi nhìn ra đường cái. Một người đàn ông lam lũ đang đi chiếc xe cúp bẩn thỉu chạy qua quán chị. Chị đứng vụt dậy và kêu to:
– Chú An, chú An…
Người đàn ông dừng xe lại, trên môi nở một nụ cười cầu tài:
– Chị Hoá…
Không để cho người đàn ông tên An nói tròn câu, chị Hoá đã chận họng ngay:
– Chú lâu nay làm ăn ra sao mà tôi không thấy mặt mũi chú đâu cả, nghe nói tháng trước chú trúng hành phải không?
Ông An nhăn mặt. Không biết đứa thối mồm nào méc chuyện hành hạ nhà ông cho bà Hóa. Hóa ra ở cái đất này không có chuyện gì là giấu lâu được. Chuyện gì rồi cũng lòi ra thôi. Đúng là ông An có trúng hành thiệt, năm rồi ông đánh liều mua hai hộp hành giống ông tính vãi đại xuống miếng đất cạnh hồ, nhưng thằng con trai ngăn ông lại, nó nói:
– Ba cứ vãi như thời ba làm cách đây mấy chục năm là không ăn đâu, ba phải làm “mô” vừa đỡ tốn hột giống vừa chắc ăn.
Khi kêu mấy chục người làm cấy đám hành trong những mô làm bằng lá chuối khô, ông An tiếc tiền lắm. Nhưng khi nhìn những luống hành xanh mơn mởn ngày một lớn ông khấp khởi mừng thầm. Ông ra sức bơm thuốc và tưới đều như công thức mà thằng con trai không biết học ở đâu về truyền lại cho ông, và khi hành xuống củ, ông thôi không tưới nữa. Hàng ngày, ông dậy thật sớm và xuống ngay vườn để nghe lòng mình hy vọng khi nhìn những củ hành vàng óng đang nổi lên mặt đất. Ông hy vọng có tiền để trả bớt nợ, nếu còn dư mua trữ ít phân tro cho mùa sau. Muà sau, ông không trồng hành nữa, ông tính trồng bó xôi, mà bó xôi hợp đồng như nhà thằng Lự….
Bây giờ khi nghe bà Hóa hỏi khéo, ông An nhớ ngay đến khoản nợ mà bà vợ ông mua chịu quán bà Hóa năm rồi:
– Thưa thiệt với chị, quả là hành tôi thu được cũng kha khá, đâu hơn hai chục tấn. Nhưng mà nghe nói tàu chưa “ăn”, tui chưa bán được củ nào. Cầu trời cho có giá, tui bán hành được là trả ngay số nợ cho chị thôi!
Đôi mắt người đàn ông nói nhiều hơn cái miệng, chị Hóa tính thôi không cay nghiệt khi nhìn thấy những vết nhăn trên vầng trán sạm đen của người đàn ông ốm yếu. Bỗng nhiên chị nhớ đến cái thời chị đi mua chịu mấy chục năm về trước. Bà Hai già còn kêu chị cứ đong gạo cho lũ con háu đói của chị ăn chớ đừng ngại gì cả. Thời buổi chiến tranh, hạt gạo trong nhà là một điều ai ai cũng phải lo, còn thức ăn thì rau dưa cá mắm gì rồi cũng qua ngày thôi. Nhà chị không lúc nào trữ dưới một tạ gạo, đều là mua chịu của bà Hai, người đàn bà tốt bụng có mái tóc bạc phơ như một bà tiên.
Nhưng một giọng nói khác đang lên tiếng trong lòng chị. Hơn một năm rưỡi rồi chớ ít sao. Cũng chừng ấy tiền, nếu nằm trong tay chị thì nó sẽ sinh sôi nẩy nở ra biết chừng nào. Vậy mà nhà ông An lại mua chịu của chị chừng ấy năm trời. Chị nghe tưng tức, một nỗi tức nghẹn nghẹn trong cổ. Giọng nói ấy thắng rồi, chị không chịu được nữa và chị tuôn ra một tràng những lời trách móc, những lời đanh đá cứ trơn tuột như nằm sẳn trên môi chị. Ông An đứng đực mặt ra. Người nông dân già trước tuổi không biết phải nói gì nữa. Những gì đáng nói ông An đã nói với bà Hóa rồi. Ừ thì hành ông trúng đó, nhưng mới chỉ là số lượng, chứ ông chưa thu được một đồng nào cả. Mỗi đêm thức giấc ông và vợ tẩn mẩn xoe xoe từng cuống hành để tìm những củ sắp thúi mà bỏ riêng ra. Cả đêm không ngủ được phần vì mùi hành, phần vì lo sợ hành hạ, hành thúi, hành lên tim khiến người đàn ông như già thêm mấy tuổi. Ừ thì ông có nợ nhà bà Hóa, lâu lâu rồi chưa trả nợ, chưa trả chứ không phải là không trả, ông có phải là kẻ lừa đảo đâu?
Ông An tức lắm, từ trước đến giờ chưa ai chửi ông như vậy. Chỉ vài triệu bạc mà con người ta đối xử với nhau như vậy sao? Nhưng ông An biết mình ở thế hạ phong. Ông còn nợ người ta, ông cũng biết rằng tiền vào nhà bà Hóa là tiền sanh tiền nở, còn tiền trong nhà ông là đồng tiền “đực”, chúng không có khả năng sanh nở như trong tay bà Hóa. Mà ông An có giữ những đồng tiền cho được ấm túi đâu. Nhà nghèo nên hễ bán được lứa hàng nào ông An đưa hết cho bà vợ lo toan việc nhà. Thiếu trước hụt sau, nhưng dù sao gia đình ông vẫn sống được nhưng những khoản nợ có mối có hình thì cho dù cố lắm ông vẫn chưa trả được. Không phải ông An là người có nợ duy nhất trong vùng, mà đã làm vườn ở xứ này ai cũng là con nợ thôi, trừ những người thật là giầu có. Mà đã giầu có thì họ không chỉ làm vườn, họ đi buôn, họ đầu tư tiền vào những nơi khác mà chỉ mình họ biết.
Cuộc chiến tranh ở từ một phía bất thình lình tắt ngấm cũng giống như thình lình nó xuất hiện trong buổi sáng đẹp trời. Cứu tinh chính là anh Vinh, chồng chị Hóa đang vui vẻ lùi chiếc xe hơi vào tận quán nhà. Anh huýt sáo miệng một bài nhạc tình không hợp lắm với tuổi tác của anh đối với nhiều người. Hình như anh không để ý đến điều ấy, anh chỉ thấy niềm vui trong lòng mình, và, anh không thể ngăn cản niềm vui được thể hiện ra ngòai mặt. Anh huýt sáo vui vẻ quá chừng….
Chị Hóa lôi anh Vinh vào nhà, quên mất người đàn ông mắc nợ.
10.Cha con và xe ôm – 2000
Bằng trở lại xe đọc báo chờ khách. Bằng đọc không sót một mục nào của tờ Tuổi Trẻ, hết tin bài rồi quay qua đọc rao vặt. Vừa đọc Bằng vừa mơ, ước gì mình có tiền mình sẽ…không biết sẽ trở thành cái gì chớ Bằng biết rằng không lẽ cứ suốt đời cày xe ôm? Mà xe ôm cầu đủ tiền nuôi con là đã ra máu mắt rồi chớ làm sao mà giầu cho được. Bằng lan man nghĩ giá gì có vốn Bằng sẽ kiếm miếng đất làm vườn, cực thì có cực còn cầu may biết đâu sẽ có lúc trúng lứa hàng ngóc đầu lên được? Bà Hóa cắt ngang luồng ý nghĩ của Bằng, bà gọi to:
– Bằng, cậu Bằng vô tôi nhờ chút!
Bà Hóa nhờ Bằng chở gấp bao gạo vô Bãi Bằng giao cho nhà ông Hợp, sáng nay chở xe phân cho ông Hợp bà quên mất tạ gạo, ông Hợp điện ra hối bà chở vô liền. Bà Hóa biết dân vườn có thói quen ưa dự trữ, làm gì mà gạo nhà ông Hợp thiếu hụt đến độ phải “chở vô liền” nhưng khách hàng là Thượng Đế mà! Nhìn Bằng xốc bao gạo lên xe, bà Hóa buột miệng:
– Cái cách xốc bao gạo của cậu y như ông Tuất, quả là cha nào con nấy!
Bằng sững người hỏi lại:
– Thím nói sao?
Bà Hóa biết mình lỡ lời, đã trót thì trét bà nói luôn:
– Tôi nói cậu giống y ông Tuất cha cậu, bộ cậu không biết sao?
Câu trả lời của bà Hóa làm Bằng lùng bùng lỗ tai, không phải Bằng không nghe chuyện người ta nói Bằng là con ông Tuất, nhưng người biết rõ cuộc đời ông Tuất là bà Hóa đã khẳng định như vậy thì chuyện này là thiệt. Trong lòng Bằng bao nhiêu thắc mắc dồn cục, sao ông Tuất không chịu nhận con, bà Thành vợ ông mất rồi mà, sao mẹ Bằng lúc còn sống nói ba Bằng đi theo vợ nhỏ từ lúc Bằng sinh ra đời, tại sao…tại sao? Hốt nhiên Bằng nhớ đến lời đay nghiến của Thắm, Bằng nghĩ đến hai thằng con, không lẽ đời hai thằng nhỏ rồi cũng chạy xe ôm như ông Tuất, như Bằng? Xe ôm chỉ là một cái nghề chớ không phải là nghiệp.
Bằng buông một tiếng “không” thiệt to rồi rồ ga chạy mất bỏ lại sau lưng bà Hóa đứng lặng dòm theo.
Xứ sương giăng: Ông già bán xôi ở cây số 6 – Truyện dài của Võ Anh Cương
27 Tháng mười một, 2022
550
Chương 1 (Tiếp theo)
11. Xe mì ngã ba cây số sáu – 2000
Khi Luông chuyển qua bán hủ tiếu mì, mùa mưa đã hết. Trời mùa khô hanh hao với những cơn gió ban mai se lạnh khiến con Hà ho sù sụ. Hoa sốt ruột vì con nhưng biết sao được, bé Hà mới ba tuổi rưỡi không thể ở nhà một mình. Hoa sốt ruột vì con một thì Luông lo đến mấy lần, Luông cố tìm một tấm tôn che gió để con bé ngồi cạnh lò lửa cho đỡ lạnh. Nhưng con nhỏ cứ chạy loăng quăng miết, đôi lúc la khan cả tiếng mà bé Hà có chịu nghe lời đâu?
Nhà văn Võ Anh Cương
Rồi công việc bán hàng cuốn lấy Luông và Hoa, chỉ những lúc rảnh rỗi cả hai mới nhớ đến con thì thấy con bé đang thơ thẩn với một bụi hoa dại màu vàng mọc từ một kẽ nứt hiên nhà bà Mùi mà Luông xin ngồi nhờ. Bé Hà đang mải miết chơi với mấy đóa hoa dại quên cả chén mì mẹ múc, Hoa vừa đút cho con ăn vừa nói với chồng:
– Không biết sao con nhỏ lại mê hoa mến cỏ quá, nó cứ thấy hoa là ngắt cho bằng được?
Luông hỏi vợ:
– Hoa gì đó em?
– Hoa bồ công anh, trên này nhiều vô khối, nó mọc hoang nhiều khi nở vàng cả đồi hoang!
Luông không hỏi tiếp, anh đẩy thanh củi vào lò, một làn khói mỏng thoát ra bị cơn gió lùa đi nhưng vẫn để kịp lại một thứ mùi hăng hắc. Thứ củi này chiều chiều Luông đi lượm quanh cánh rừng thông quanh Viện Sinh học gần nhà, xin cọc hàng rào mục chưn của mấy người làm vườn hoặc mấy khúc cây bỏ đi của công trường xây dựng Viện Sinh học mới. Hoa nói với chồng coi chừng con em đi mua hàng, Hoa nói chưa hết câu đã qua bên kia đường. Luông nhìn vào nồi nước nhưn còn chừng một tô, trên thớt là vài lát thịt mỏng tang Hoa xắt để sẳn nếu nhìn soi qua thấy cả trời xanh. Luông nghĩ sáng nay vậy mà bán được, chiều phải nhắc Hoa lấy thêm mì. Một thằng nhỏ chừng như đang học cấp hai đi ngang qua, mắt nó liếc vô xe hủ tiếu mì chỗ Luông đứng bán với một ánh mắt là lạ. Luông cười mời:
– Vô ăn mì đi cháu!
Thằng nhỏ lắc đầu rồi đi thẳng nhưng Luông vẫn kịp thấy nó nuốt khan nước miếng! Bỗng dưng Luông thấy băn khoăn quá, không lẽ thằng nhỏ không tiền mà bụng thì đói? Nghĩ tới đó Luông nhớ tới những ngày mình lang thang lên đây kiếm sống, nhớ đến cái ngày Luông không một hột cơm bỏ bụng nhưng túi thì không tiền. Lúc đó Luông đi ngang qua một xe bánh mì bán đêm, bà già bán hàng cũng mời Luông như vậy, Luông cũng như thằng nhỏ lúc nãy, lắc đầu và bỏ đi sau khi nhìn xe bánh mì với dĩa chả, thịt, rau, tương…rồi vô tình nuốt nước miếng vào trong bụng. Vậy mà bà già nhìn rõ, bà chạy theo nắm tay Luông miệng nói vô đây cháu, để bác làm cho con một ổ, nhìn “bay” là tao biết đang đói rả họng, cùng một cảnh nghèo mà! Đó là má Tám, má của Hoa, má đã bỏ Hoa và Luông mà đi năm rồi, tháng trước vợ chồng Luông làm giỗ cho má và mời mấy người quen của má tới dự. Vậy mà tại sao lúc nãy Luông lại không kêu thằng nhỏ đói bụng như má Tám kêu Luông? Chắc là tại thằng nhỏ khác Luông hồi đó. Nó còn đi học, quần áo tuy cũ nhưng coi cũng tươm tất lắm! Mà chắc gì nó lại chịu ăn tô hủ tiếu Luông mời, vả chăng gặp ai cũng mời ăn kiểu đó chỉ vài bữa là sập tiệm mất thôi, Luông đâu có cặp mắt tinh đời như má Tám? Tự an ủi mình như vậy, nhưng Luông vẫn bần thần với nỗi dằn vặt trong lòng. Hoa về đem theo túi thịt, rau, hành ngò để chút nữa về nhà làm hàng bán bữa tối cho mấy người đi qua ngã ba có tô hủ tiếu bình dân lót dạ lúc đói lòng. Thấy Luông thẩn thờ đứng nhìn về phía trường học, Hoa hỏi:
– Anh bị sao hả?
– Không, Luông đáp rồi hối vợ dọn hàng, ẳm con đẩy xe về nhà trọ.
12. Đồng hương – 2000
Kim vào thăm Luông, Hoa biết tính chồng, cô mời Kim ở lại ăn cơm trưa rồi chạy xuống ngã ba mua vài thứ thức ăn, xị rượu dĩa lòng heo để chồng lai rai với bạn. Lúc mới gặp Kim, Luông nghe giọng nói rặt Nam bộ của Kim khiến Luông bỏ ngang tô hủ tiếu đang múc cho Hoa, Luông hỏi:
– Em người đâu ta?
Khi nghe hai tiếng Châu Thành, Luông chắt lưỡi:
– Cái chỗ đó qua biết, qua có qua đó kiếm việc làm, ở đó chừng hai tháng lận….
Luông không nói tiếp sau hai tháng đó Luông đi đâu, Kim cũng không hỏi, Kim quay qua hỏi tên Luông:
– Tui hỏi khi không phải, anh thứ mấy? Luông lắc đầu nói không có thứ, Kim gặng hỏi vậy chớ anh tên gì?
– Luông!
– Hà, chắc là Hàm Luông, phải không?
– Sao biết, hay quá vậy ta?
Từ đó hai anh em quen rồi thân nhau. Kim lên đây chạy tắc xi kiếm sống, vợ Kim làm nhân viên dọn phòng ở khách sạn Hoàng Hậu. Hai vợ chồng Kim mướn một căn phòng nhỏ trong một con hẻm nhỏ rồi có một đứa con nhỏ ra đời. Nó ra đời đúng lúc thời buổi làm ăn khó quá, đến hãng tắc xi cũng phá sản, Kim thất nghiệp. Kim đi tìm mấy xe chở rau tại mấy phường vùng ven hỏi xem có cần tài xế hoặc lơ xe Kim xin làm. Đói bụng thấy chiếc xe bán hủ tiếu mì, Kim ghé vô rồi gặp Luông. Cùng quê dĩ nhiên cả hai mừng hết lớn! Bữa đó Luông dọn hàng sớm, Luông kéo Kim về nhà trọ, Luông hối Hoa nấu cơm mời Kim. Chuyện quê cứ ào ào tuôn ra nói hoài không hết. Cạn chai rượu Luông nói “chà giờ này mà có vài lát bần cặp với mắm cá linh thì phải biết!”. Kim hưởng ứng “nhậu say cắn miếng bần cặp với mắm cá linh tỉnh cả người, em nhớ quê quá anh Luông ơi!”. Câu nói của Kim rơi vào khoảng không vì cả hai cùng bần thần để hồn đi tận đâu đâu, dường như trong câu nói của Kim, Luông nghe tiếng xào xạc của rặng dừa nước ven sông mỗi khi cơn gió thổi qua. Rồi mùi bùn non, mùi sông nước mà khi còn ở nhà Luông không để ý giờ mới thấy nhớ làm sao?
Kim hỏi Luông có biết ai cần tài xế chỉ giùm Kim, Luông lắc đầu buồn rầu nói:
– Bây giờ làm ăn khó quá, qua may mà học được nghề nấu hủ tiếu của bà già vợ bán hàng kiếm sống qua ngày “còn nghề tài xế à… để coi. À, thôi mày đừng đi lái nữa, nhiều khi lái xe một chưn trong tù một chưn ngoài đời khổ lắm, tụi nhóc chạy bạt mạng biết sao mà tránh? Mày làm vườn đi, để tao hỏi mấy người quen hay ra đây mua bữa lỡ thử coi?”.
Nói là làm, Luông lấy điện thoại gọi ngay cho ông Thường. Ông Thường mừng rỡ nói em kêu chú ấy vô liền đi, anh đang kiếm người làm đỏ con mắt đây, ngày một trăm, bao ăn trưa, có việc gì làm việc nấy, mà anh chuyên trồng dâu tây, công việc nhiều nhưng không vất vả lắm đâu!
Vậy là Kim có việc làm, hên thiệt là hên. Chiều đó Kim vô liền nhà ông Thường. Vườn ông Thường trồng chỉ có dâu tây và vài vạt rau đang thiếu người làm, Kim xắn tay áo lặt lá dâu liền, coi bộ ông Thường ưng bụng với cái nết chịu làm của Kim. Có công việc mới Kim vui lắm, Kim thở ra như vừa thoát được một gánh nặng ở trong lòng!
Luông hỏi:
– Sao lóng rày vườn tược làm có cực lắm không?
Kim kể chuyện làm vườn với Luông. Gì chớ chuyện làm vườn Luông cũng đã trải qua, hồi chưa quen Hoa, Luông cũng đi làm vườn nhưng mà làm mướn, ai kêu gì Luông làm nấy. Còn bây giờ Kim làm tháng cho ông Thường công việc coi bộ đỡ hơn, sáng cứ sáu giờ rưỡi Kim có mặt ở vườn, chiều năm giờ là đã về nhà. Vậy là ổn ha, anh Luông? Luông hỏi lại ổn cái gì, không lẽ mày định làm mướn cả đời sao, tao tính vầy: mày lo dồn tiền, vừa làm vừa dòm coi ai đó dư đất thì sang lại miếng vườn mà làm, dù sao làm chủ cũng đỡ hơn làm mướn nhiều. Kim cười buồn, em biết vậy nhưng làm sao mà dồn tiền mua được đất hả anh Luông, chắc là đến tết Ma Róc? Tự nhiên Luông nổi nóng, Luông tuôn một thôi một hồi những lời tức tối ra với Kim. Mày làm người phải lập chí chớ, đã bỏ quê lên đất lạ làm ăn mà không có chí thì có nước ăn mày. Mày nhớ chưa, dưới quê mình, ngày nào cũng nhậu, có chút tiền là đổ vô chai rượu, chiều chiều tao vẫn nhớ tao cầm bịch mắm ruột giơ giơ ra trước mấy người bạn rượu rồi nói “mồi bén nè!”, “ý sao nè?”. Tao bỏ được rượu em biết nhờ ai không, mà thôi đã lâu tao không nhậu nữa, gặp mày mừng quá lai ra chút đỉnh chớ say sưa gì? Để sức lo làm lo ăn, cái nghề buôn bán cực thì cực thiệt, nhưng có đồng vô đồng ra. Vợ chồng tao dành dụm được chút đỉnh, sang miếng đất trên đồi, ráng một hai năm nữa cất cái nhà cấp bốn có chỗ đi ra đi vô chớ ở nhà mướn hoài, rồi con Hà lớn lên không lẽ cũng vậy sao? Em à, giọng Luông trở nên tha thiết, cố gắng bắt chước vợ chồng anh chị, mày thích làm vườn thì trước hết kiếm miếng đất mà làm để tao hỏi dò cho….
13. Thao thức – 2002
Kim nhìn Luông cảm động không nói được lời nào, đến anh em ruột chưa chắc đã lo cho nhau như vậy, vậy mà Luông dành cho Kim cả một tấm lòng! Chiều nay Kim xin ông Thường nghỉ một buổi để về nhà rủ vợ đi mua cho con chiếc xe tập đi mới ghé nhà thăm Luông và được Luông mở mắt cho chuyện làm ăn. Kim nghĩ, xứ này thiếu gì người như mình, ban đầu lên đi làm thuê, làm mướn rồi tích cóp từng chút một để sang một miếng đất. Đất cũ đãi người mới mà, ông Thường thường nói với Kim như vậy. Ông Thường kể hồi ngoài Quảng mới vô đây ổng cũng đi làm mướn như Kim vậy. Mà cả hai vợ chồng cùng đi làm kìa, ăn thì đã có rau xin vô khối, xứ rau mà, còn cá mắm gì cũng qua ngày thôi. Vậy mà giờ tao có trên năm sào đất, nuôi một bầy con bảy đứa, cho ăn học đàng hoàng. Tụi nó lớn rồi bay nhảy tứ phương, chỉ có con út còn học lớp 12 và thằng anh đang học năm thứ ba là ở nhà, còn năm đứa kia tụ hết ở Sài Gòn. Ông Thường cười phô hàm răng thiếu mấy cái, tụi nó cũng như chú ngày xưa thôi, lúc đó ở ngoài đó khó quá, tao leo đại xe đò vô đây, trong túi chỉ có mấy chục bạc. Lớ ngớ tao đi ngang nhà ông Hai Phong ghé vô xin ngụm nước. Ông già nghe giọng đặc sệt xứ Quảng của tao hỏi tới tới liền. Chú em mới vô sao? Giờ đi đâu? Kiếm việc làm à? Thôi thì chú cứ ở lại đây đi, để rồi tui chỉ việc cho, thiếu gì người cần công mà không có người làm. Vậy chớ ông già cũng cẩn thận lắm, coi căn cước tao đàng hoàng. Thấy tao trai tráng ông già cười hỏi trốn lính à? Tao cười rồi dạ một tiếng. Chú em đừng lo, tối xuống nhà máy ngủ, tụi nó có xét nhà cũng không biết đâu mà lần. Hồi đó không phải như bây giờ, chỉ cần bật công tắc điện là hệ thống tưới tự động làm một màn múa nước. Khoảng năm sáu mấy bảy mươi, nhà nào có máy dầu là xịn, còn không thì máy Bẹc na chạy xăng tưới chỉ được một vòi. Cái máy này chạy bơm ép, nước mới lên được trên những miếng vườn trên cao, càng cao thì nước càng yếu, tưới càng lâu lại hao xăng. Vậy mà lại hay bị mất trộm bơm, mà mất bơm không sắm kịp coi như mất mùa, nên chi có chú ngủ dưới nhà máy ông già Hai Phong yên tâm lắm.
Kim nghe ông Thường kể nhiều chuyện lắm, chuyện ông mua miếng đất mà hàng ngày Kim chăm sóc đám dâu tây trước kia là một vũng sình. Những đêm trăng, hai vợ chồng ông Thường đào đất đồi rồi xe đất lấp dần từng chút một mãi một năm sau miếng đất mới thành hình. Vụ sú (cải tròn, người Đà Lạt gọi loại rau choux choux phiên âm tiếng Pháp) đầu tiên, ông Thường trồng trên miếng đất này ông trúng giá mà lại được mùa. Dường như ông trời nghĩ thương vợ chồng chú, chú mua một con gà làm lễ tạ ơn trời đất. Lòng thành chú chắc thấu tới trời xanh nên vụ sau chú lại trúng nữa. Ông Thường cười hề hề, có vậy tao mới nuôi một lũ con lóc chóc tới nơi tới chốn chớ? Kim nghe ông Thường kể chuyện ngày lập vườn, con suối chảy ngang qua nhà ông nước trong xanh thấy cả những con cá lòng tong đuôi chấm xanh, bây giờ tìm đâu ra? Còn nước thì con suối đã biến thành một dòng chảy nhỏ, còn đâu con nước dồi dào như ngày xưa? Coi vậy chớ chỗ này còn hơn nhiều chỗ khác, làm vườn cứ nhứt nước nhì phân, bây giờ người ta làm vườn nhiều, rừng thông đầu nguồn chỉ còn chừng một phần thì lấy đâu ra nhiều nước? Ông Thường cay đắng kết luận cũng may mấy ông nhà nước mạnh tay với những người phá rừng chớ không thì….Ông bỏ lửng câu nói nhìn Kim bằng một cặp mắt đượm buồn.
Mình có làm được như ông Thường không? Nhiều đêm Kim tự hỏi. Trưa nay những câu nói của anh Luông càng làm cho Kim thao thức. Phá rừng để làm vườn thì không được rồi, còn mua đất biết lấy tiền đâu và biết ai bán đặng mua? Kim nghĩ lung lắm, bỗng nhiên trong đầu Kim lóe lên một tia sáng: mướn đất! Chắc đây là con đường sáng sủa nhứt! Anh Hai Trực cũng mướn đất mà làm vườn, nghe đâu đất của Chùa không có người làm. Kim không giống anh Hai, Kim đâu biết ai có đất mà không có người làm để hỏi mướn, thôi thì nhờ anh Luông vậy. Anh Luông người buôn bán giao thiệp với nhiều người chắc biết?
Quả là Luông biết thật. Ông Hương ở đối diện nhà Luông thuê tối đó ghé xe hủ tiếu của Luông ăn. Luông hỏi thăm công chuyện làm ăn, ông Hương bèn kể một thôi một hồi về chuyện nhà chuyện vườn. Ông Hương than mấy đứa con cứ ở riết Sài Gòn, không đứa nào chịu về. Không biết đất Sài Gòn có gì mà quyến rũ chúng ghê quá. Mà chúng làm đủ thứ, thằng đầu vô đâu như năm chín bảy, ban đầu đi làm thợ đụng, đụng gì làm nấy, sau nó đụng một con nhỏ người Sài Gòn chính hiệu, con nhỏ đưa thằng Hoa vô xưởng thêu đứng máy. Vậy là nó ở hẳn Sài Gòn, mới đây lại cất nhà 4 tấm, nó kêu ông vô ở với vợ chồng nó chớ “ba già rồi làm vườn chi cho mệt, vô đây chơi thôi, con lo hết!”. Còn con thứ hai và thứ ba là Lợi và Lắm học xong cũng lấy chồng Sài Gòn, cũng kêu ba mẹ vô ở với tụi con “trời ơi bốn thằng cháu ngoại phá như giặc, có ông bà ngoại vô rèn tụi nó thì tụi con đỡ quá?”. Rồi ông kết luận:
– Chú tính coi tui với bà nó ở đây mát mẻ quen rồi, vô trong đó nực nội sao chịu được? Mà không vô thì tụi nó trách, còn vô vườn tược ai lo?
Luông nói luôn:
– Chú cho mướn đi, thằng em con tìm đất làm vườn mấy tháng nay rồi, chú cho nó mướn vô Sài Gòn dưỡng già cho khỏe?
Hình như ông Hương hơi xiêu lòng, ông nói ừ để tui bàn với bà nó coi cái đã. Ông Hương ra về, Luông nghĩ thầm trong đầu “bà Ích là vợ ông Hương, mấy đứa con tên Hoa, Lợi và Lắm. Hương Hoa Ích Lợi Lắm? Luông cười tủm, hương hoa sao mà không có ích được chớ, nhà đó ngộ thiệt, hương hoa dĩ nhiên ích lợi lắm rồi.
Chắc là thằng Kim mừng lắm đây, để trưa mai kêu nó vô nói chuyện. Đó là ý nghĩ cuối cùng của Luông trước khi chìm vào giấc ngủ say. Luông mơ mình đang bơi ở một con sông vừa lạ vừa quen, giữa sông có một chiếc xà lan chở cát khẳm làm dậy lên một làn sóng đánh vô đám dừa nước mọc ven bờ. Bỗng nhiên Luông thấy mình nhỏ lại, Luông là một thằng nhỏ ngồi trên chiếc xuồng ba lá má chèo. Má cứ sục sạo mấy đám dừa nước hoài, mắt má đỏ hoe, má đi tìm cha. Má dặn Luông “con sông này tên là sông Hàm Luông, má đặt tên con là Hàm Luông chớ không phải là Hai Luông để con nhớ chỗ cha con hy sinh. Rằm tháng giêng con nhớ ra bờ sông đốt cho cha con nắm nhang, lúc còn sống cha con thích bông cúc lắm”.
Luông thức giấc phát hiện ra chiếc gối ướt nhèm. Mấy năm rồi Luông thất hẹn với má, rằm tháng giêng này nhứt định vợ chồng Luông ẳm con về giỗ cha, nhứt định Luông sẽ mang một ít hoa cúc đại đóa vàng ngát trời mây về cúng cha.
Hương hoa ích lợi lắm, chắc là cha má chứng cho tấm lòng của vợ chồng Luông!
Xứ sương giăng: Ông già bán xôi ở cây số 6 – Truyện dài Võ Anh Cương – Chương 1 (tiếp theo)
28 Tháng mười một, 2022
364
Bằng ăn mì nghe ông Hương có ý định cho thuê vườn. Ông Hương nói già rồi làm vườn không nỗi nữa, vả, ông bà phải vào Sài Gòn coi cháu cho con Lợi và con Lắm. Nghe xong Bằng nói liền:
– Hay là chú cho tui thuê vườn đi, tui muốn đổi nghề thử xem thời vận ra sao?
Ông Hương nhìn Bằng với một cặp mắt ngạc nhiên:
– Cậu muốn làm vườn à, để tui tính coi… cha, chú Luông đây cũng hỏi cho thằng em. Để tui tính coi sao?
Bằng ngước nhìn ông Hương chờ đợi. Còn ông Hương ra vẻ khó xử, ông trầm ngâm uống ly nước trà mà Luông rót đưa tận tay. Luông cũng nhìn ông Hương chăm chú, trước khi Bằng ghé xe hủ tiếu mì kêu tô mì với mấy miếng thịt mỏng tang, ông Hương nói với Luông để ông về tính với bà Ích rồi trả lời Luông việc Luông hỏi mướn đất vườn. Luông không hỏi mướn vườn cho mình làm mà hỏi cho thằng Kim, Kim cùng quê với Luông đang đi làm công cho ông Thường. Vậy mà giờ lại xuất hiện một tay xe ôm muốn chuyển nghề, lại là chỗ hàng xóm với ông Hương mới ác chớ! Dù sao chỗ hàng xóm cũng hơn, còn Luông và Kim chỉ là những người từ xa tới như người ta thường nói “tha hương cầu thực”! Nhưng ông Hương đã hứa, người lớn đã hứa là làm, nhứt là dân lao động tay chân. Luông cũng có thời gian sống gần nên biết rõ lời họ nói ra nặng lắm. Vậy nên Luông vẫn còn hy vọng, hy vọng tìm cho thằng Kim miếng đất làm vườn biết đâu nó sẽ đổi đời? Đổi đời, Bằng cũng muốn đổi đời đó thôi, bao nhiêu năm ròng chạy xe ôm, nói phải tội, Bằng không chê công việc đó nhưng cơ hội thay đổi cuộc sống đang tới, nếu Bằng không chộp lấy, cơ hội sẽ vụt bay mất thôi.
Nhà văn Võ Anh Cương
Cuối cùng thì ông Hương cũng đưa ra quyết định:
– Tui tính vầy mấy chú coi được không. Tất nhiên tui phải về hỏi lại bà Ích chuyện cho mấy chú thuê vườn nhưng hỏi thì hỏi vậy chớ tui đã quyết chắc bả cũng không tính khác được đâu. Chỗ cậu Bằng là hàng xóm lâu năm, vả, ông Tuất cũng là chỗ thân tình với tui hồi còn nhỏ….
Ông Hương ngừng ngang, ông biết mình lỡ lời, tự nhiên ông lại đem ông Tuất vào đây làm gì không biết, ông Tuất có ăn nhậu gì với chuyện thằng Bằng hỏi thuê vườn nhà ông đâu? Luông không biết chuyện gì, Luông ngạc nhiên khi ông Hương bỏ ngang xương câu chuyện, còn Bằng thì dường như không chú ý đến chi tiết ông Tuất xuất hiện trong câu chuyện của ông Hương, Bằng chú tâm vô cái ý còn ẩn giấu trong lời nói của ông Hương thôi. Ông Hương thấy mọi người không tỏ ý gì, ông cười lỏn lẻn rồi nói tiếp:
– E hèm, thì tui tính vầy. Tổng cộng trước giờ tui khai phá được 5 sào đất tính từ dưới suối lên. Cả mấy chục năm làm vườn rồi, tui quen sống với đất, ăn trưa cả nhà dọn mâm ăn trên mặt đất trong nhà để máy bơm, vừa ăn vừa ngửi mùi xăng dầu, mùi phân bón…giờ mà nghỉ làm chắc cũng buồn lắm nhưng biết sao được! Thôi thì cậu Bằng hỏi thuê sau, tui cho cậu thuê miếng vườn trên đồi, chỗ đó đất tốt, bằng phẳng hợp với các loại cây trồng. Cậu Bằng cũng đừng bỏ nghề chạy xe ôm, khi rảnh cậu chạy cái rẹt ra làm vườn, xong việc lại ra ngã ba kiếm chút cháo, chắc cũng đỡ lắm. Cái khó của miếng vườn đó là phải vợi nước từ dưới suối lên, không sao đâu, chừng mười ngày cậu bỏ công vợi nước một lần, chừng vài tiếng đồng hồ. Mà cậu cũng không phải đứng canh nước đâu, cậu đặt một cái đồng hồ hẹn giờ là được thôi. Còn chú Luông tui cho thuê 3 sào vườn gần suối, bởi chú Luông hỏi trước mà! Sao, tui tính vậy được không?
Hai khuôn mặt ngước nhìn ông Hương ngời hy vọng, hai gương mặt đen đen của những người quen cùng sương gió….
15.Chuyện tình – 1995
Bằng ngồi nghe ông Hương kể chuyện ngày xưa mà hồn để tận đâu đâu. Tiếng là sống ở vùng ven chuyên trồng rau hoa nhưng Bằng không có một ngày làm vườn. Hồi nhỏ Bằng đi học, mẹ Bằng ngày ngày vào làm công nhân Trại gà nuôi Bằng, còn ba thì Bằng không biết mặt. Mẹ kể với Bằng rằng ba bỏ mẹ con Bằng đi theo vợ nhỏ, Bằng ghét ba từ ngày có chút trí khôn. Lớn lên, học không đến nơi đến chốn, Bằng không biết làm gì bèn xin đi phụ việc cho một tiệm sửa xe. Đến khi thành nghề, nghĩa là có thể mở một tiệm riêng thì Bằng không có vốn mà cũng không có địa điểm để mở tiệm. Cái nghề sửa xe vậy mà phải nghiên cứu kỹ, phải tìm một chỗ hợp thì mới làm ăn được chớ không thì ngồi ngáp ruồi cả đám. Lúc đó Bằng lại gặp Thắm, yêu và cưới Thắm mà không nghĩ một chút gì đến tương lai. Thấy Bằng thất nghiệp, bà dì họ của Thắm gọi Bằng vào nhà cho chiếc xe Simson không xài đến để Bằng chạy xe ôm. Vậy là cái nghề xe ôm nó vận vào Bằng từ cái ngày thằng con Bằng vừa tượng hình chừng một tháng tuổi. Chiếc xe Simson đã qua ba lần đại tu, Bằng cất ở nhà làm kỷ niệm. Bằng đã mua được một chiếc xe Win, rồi lại bán Win mua lại một chiếc Future tới giờ. Hàng ngày Bằng chở Thắm đi làm và đón Thắm về. Cái nghề quét rác của Thắm vậy mà cũng phải làm theo ca. Ca sáng Thắm làm liên tục từ 5 giờ đến 11 giờ, còn nếu làm ca chiều thì từ 5 giờ đến 11 giờ đêm. Cái điệp khúc của tiếng chổi quét rác vang lên trong những đêm khuya y như sự trăn trở của những toan tính trong đầu của Thắm. Thắm vừa làm vừa nghĩ, tháng này ráng dành chút tiền để mua cho hai thằng “giặc” quần áo giầy dép tết, chớ để đến tháng chạp mới mua thì giá lên gấp mấy lần mà chẳng có đồ vừa ý. Rồi phải mua sao cho con nó mặc lâu lâu một chút, hơi rộng một chút cũng được chớ không thì tiền đâu mà sắm sanh hoài? Nhà có hai thằng con trai, tội nghiệp thằng em chuyên mặc quần áo thừa và chật của thằng anh để lại, vậy mà mỗi khi thấy mẹ lấy trong tủ ra một cái áo cũ của anh nó cười toe mừng rỡ, anh nó hơn nó tới 5 tuổi lận mà, cũ của anh lại là mới của em. Thắm còn nghĩ đến chồng, nhiều khi Thắm cũng thấy tồi tội, suốt năm Bằng với chiếc quần din bạc màu, Thắm mua cái quần đó ở hàng đồ sôn cùng với cái áo khoác may theo kiểu áo lính, Bằng mặc bộ quần áo này hàng ngày để lăn lộn với cuộc đời. Cái gì ở Bằng, Thắm cũng chịu hết duy chỉ có chuyện đi lại với con Thủy là Thắm không thể bỏ qua. Thắm đay nghiến chồng suốt mấy đêm liền khi hai thằng con đã ngủ và nhà ông Tuất cũng đã tắt đèn. Bằng trước sau như một cứ nói chỉ một câu “anh không làm gì con Thủy hết, chỉ giúp nó thay cái bóng nê ông”. Thắm lồng lộn, Thắm muốn hét thật to nhưng cố kềm giọng “vậy tại sao ông ký vô cái giấy nhận nợ hai chục triệu để thằng Trung không làm to chuyện?”. Bằng ú ớ “cái này…cái này…”. Không cái này cái kia gì hết, Thắm tức đến ói máu khi nghĩ đến cảnh chồng nằm trên một người đàn bà khác không phải là mình. Không có lửa sao có khói chứ? Bằng phải có gì đó thằng Trung mới bắt Bằng ký giấy nhận nợ để nó tha cho cái tội tòm tem với vợ nó chứ? Mà cái thằng Trung thiệt là tệ, tệ hết chỗ nói, lấy cái ô nhục của vợ mình để đổi lấy hai chục triệu rồi dông đi mất. Chắc là nó lại chui vô một sòng bạc nào đó, những đồng tiền khốn khổ lại chui vô túi của những quân bất lương để lại đàng sau những mảnh vỡ cuộc đời! Nghĩ đến đó Thắm ứa nước mắt, nhưng khi nhớ lại khuôn mặt chảy dài của chồng, Thắm thấy nao lòng. Bằng không quen nói láo, Thắm biết từ lâu lắm, từ hồi Bằng vừa gãi đầu vừa nói là yêu Thắm dưới bóng của một cây thông. Cây thông giờ vẫn còn ở đường Hồ Tùng Mậu, nó đứng lặng lẽ nghe lời tỏ tình của Bằng với Thắm, hốt nhiên khi Bằng vừa nói xong nó lặng thinh tặng cho hai người một trái thông. Thắm còn giữ trái thông đó trong tủ ly, những cánh đen đen của trái thông gợi ra trong lòng Thắm nước da đen “sao mà đen thế” của Bằng. Đứa con đầu lòng của hai người, Bằng và Thắm thống nhất rất nhanh khi đặt tên Thông. Đứa thứ hai tên là Minh. Thông minh mà lại ngu dại một giờ, chồng ơi là chồng ơi….
Chuyện gì rồi cũng nguôi ngoai, Thắm không lẽ lại nổi cơn ghen đến độ bỏ chồng được sao? Dù sao con Thủy cũng thấy xấu hổ, nó đóng cửa nhà về Nha Trang ở chơi với mẹ, phụ mẹ ra chợ Đầm bán đặc sản biển mặc kệ chồng với chiếc xe tải chạy thuê và những canh bạc cuộc đời. Bằng vẫn lặng lẽ ngày ngày chạy xe ôm, Bằng bỏ ngoài tai những lời đàm tiếu của thiên hạ, duy chỉ có cái nhìn của ông Tuất là Bằng chịu không nỗi. Ông Tuất không hỏi lấy một lời, khi Bằng hỏi mượn tiền, ông đem tiền cho Bằng và chỉ thắc mắc rằng sao không nghe con Thắm la lối gì hết cả? Bằng thường tránh cặp mắt của ông Tuất, Bằng cầu mong có khách đi xe để khỏi thấy cái nhìn nặng trĩu đó. Có cái gì đó chứa bên trong tia nhìn của ông Tuất, Bằng không biết nhưng Bằng đọc thấy trong đó nửa như dò hỏi nửa như chê trách. Cũng may dạo sau cái ngày bi kịch đó Bằng chạy xe đắt hẳn, ngày nào Bằng cũng đưa cho Thắm trên trăm bạc, ông Trời cũng công bằng, mất cái kia thì phải được cái này mà.
15.Chuyện vườn – 2002
Ông An xuống vườn từ sáng sớm. Sáng nào cũng vậy, ông thức giấc lúc 5 giờ, tự pha cho mình một bình trà, ông vừa uống trà vừa tính chuyện trong ngày trước khi xuống thăm vườn. Ông ngồi một mình trong buổi sáng tinh khôi, vừa ngẫm nghĩ vừa lắng nghe tiếng trở mình thức giấc của vạn vật quanh nhà. Sáng nay ông pha một bình trà Ô long từ gói trà của Bằng biếu ông hôm qua. Ông không biết vì sao Bằng biết ông thích uống trà, Bằng đem một gói trà được hút chân không đến nhà ông, Bằng nói:
– Chú Năm à, cháu có gói trà gởi chú, chú uống thử, đây là trà Ô long lên hương tự nhiên đó chú.
Ông An ngắm những viên trà bằng ngón tay út đang ngậm nước nở ra thành những đọt trà, ông chế nước ra một cái tách rồi đổ lại vào bình. Chỉ cần ba lần như vậy ông được một bình trà ngon. Quả thật thằng Bằng không nói khoác, mùi và vị của loại trà này vừa thơm vừa đậm, uống đến giọt cuối cùng mà mùi hương vẫn còn đọng dưới đáy tách. Thằng Bằng kể người ta làm ra loại trà này kỳ công lắm, không bón phân hóa học, chỉ dùng phân hữu cơ như hèm bia, bánh dầu, không sử dụng thuốc hóa học, chỉ phun sữa đậu nành hàng tháng….Còn khi thu hái thì chỉ hái trước 10 giờ sáng, hái xong chế biến liền, trải qua hai mươi mấy công đoạn làm liên tục trong vòng 36 giờ mới hoàn tất. Ông An ngẫm nghĩ quả nghề nào cũng có cái khắc nghiệt riêng, làm vườn đã cực còn làm trà Ô long chắc cũng cực không thua. Đây là gói trà người ta cho Bằng khi Bằng chở một vị khách xuống Cầu Đất hồi năm ngoái, Bằng uống một gói còn một gói biếu ông An. Ông An biết vì sao thằng Bằng biếu mình gói trà, ông nói như trách:
– Chú mày bày đặt quá, làm vườn là một cái nghiệp, lúc nào cũng lo, trời mưa quá cũng lo, nắng quá cũng lo, cây rau có chút đốm vàng cũng lo….Có gì tao sẽ chỉ cho, miễn sao chú mày phải ráng làm là được.
Bằng nói cháu cảm ơn chú, có gì chú bày vẻ giúp cháu. Vừa nói Bằng vừa gãi đầu, đám tóc xoăn tít của Bằng giống y như một cây xà lách cô rôn. Ông An cười ha hả với sự phát hiện đó, ông nói:
– Bây giờ chú mày định trồng gì?
Bằng thuê lại miếng vườn gần hai sào của ông Hương, miếng vườn ông Hương sát với vườn ông An ngăn cách bởi một con suối bắt nguồn từ cánh rừng thông thưa thớt phía trên thượng nguồn gần Thung lũng Tình yêu. Nói cho cùng, nhiều người dùng nước con suối này lắm nên khi tất cả các máy bơm cùng chạy, nước không đủ cung cấp cho tất cả các khu vườn. Ông Hương nói với Bằng điều đó khi ông ký hợp đồng cho thuê vườn, giọng ông có chút ngậm ngùi:
– Ngày trước khi tui vô đây khai phá vườn này, nước dùng không hết, con nước chảy mạnh lắm chớ không rù rì như bây giờ đâu. Nước luồn lách qua các đám lau sậy, trong veo thấy cả mấy hòn sỏi trắng nỏn dưới đáy.
Đó là những ngày vàng son của ông Hương. Đã mấy chục năm trời trôi qua rồi chớ ít gì đâu. Ngày đó ông Hương chắc là trẻ hơn Bằng bây giờ, thời gian đã lấy của ông Hương nhiều quá. Mái tóc muối nhiều hơn tiêu, má hóp, da mặt nhăn nheo, tia mắt nhìn mệt mỏi…của ông Hương khiến Bằng thấy ái ngại. Sau ngày không biết mình như vậy không nữa, nếu phải giống vậy thì buồn quá. Chắc là không đâu, nghe ông Hương nói ngày trước ông làm vườn cực lắm chớ không phải như bây giờ. Sáng tinh mơ, với đôi thùng trên vai ông Hương múc nước từ suối lên để tưới cho những luống rau, mà không phải được đi thong thả, ông vừa gánh vừa chạy để còn kịp thời gian làm việc khác khi mặt trời lên khỏi ngọn thông. “Bây giờ chỉ cần bật công tắc điện là những vòi nước sẽ tưới tự động khắp vườn, cậu chỉ cần đi kiểm tra sửa lại những chỗ bị tắc vòi vì rác hay vì lý do nào đó”. Ông nói tiếp:
– Sau đó tui phải để dành tiền mấy năm trời mới mua được cái máy dầu Kubota, hồi đó máy này là số dách hơn hẳn các loại máy Bernard của Pháp chạy xăng vừa hao vừa yếu, chỉ tưới được có một vòi. Có máy Kubota tôi bắt một dàn ống sắt cỡ 50 – 60 lên tận trên đồi mà vẫn tưới được 2 vòi, cái thằng Nhật thiệt là giỏi…
16.Mùa khoai – 2002
….
Giờ nghe ông An hỏi trồng gì, Bằng ngớ người ra. Bằng cười bẻn lẻn:
– Cháu cũng chưa tính chú ơi, chuyện nó đến cứ như giấc mơ cháu đã tính được gì đâu, chú ơi chuyện làm vườn cháu mù tịt, chú giúp giùm!
Ông An nói:
– Cái đất này nó hợp với hành tây nhưng chú mày mới ra nghề không trồng thứ đó được đâu. Vả, trồng hành đòi hỏi vốn, khi thu hành dội chợ không bán được phải trữ chờ giá lên. Rồi nhà chứa, rồi giàn, rồi mỗi đêm ngồi mân mê hành để loại những củ thúi hoặc lên tim…ôi thôi phức tạp lắm. Thôi chú trồng khoai tây đi, giờ là mùa nắng hợp với khoai, mùa khoai mà. Vả, miếng đất này lâu lắm rồi ông Hương không trồng khoai, khoai đất lạ, mạ đất quen mà. Để tao nói thằng Phúc cháu tao giúp chú mày ít giống.
Quả như một giấc mơ. Khoảng một tháng sau, Bằng “vô chưn” cho đám khoai, nhìn những luống khoai xanh um trong nắng sớm lòng Bằng dậy lên hy vọng. Khi rải phân bón đến luống khoai cuối cùng, Phúc chạy máy đánh rãnh đến, Phúc cười toe khoe hàm răng trắng trên khuôn mặt đen dưới vành nón lá:
– Chà, mới ra nghề làm vườn mà ông trồng được đám khoai lên đều xanh nghít như vầy là hết sẩy. Bây giờ ông xăm đất cho phân lọt xuống dưới để cây nó dễ ăn, tui phụ ông một tay. Lát nữa tui đánh rãnh ông đi sửa chỗ đất lấp lá khoai nghe. Lấp đất vô gốc kỹ chút nghe, nếu không mai mốt khi tạo củ, củ khoai bị nắng làm cho xanh hết là ăn cám đó!
Bằng rạng rỡ:
– Tui mới ra nghề có gì ông bày tui với, ba cái vụ này tui biết chết liền!
– Yên chí, yên chí, chiều chiều tui đi ngang qua “nghía” vườn khoai của ông là biết phải làm gì. Chừng đầu tháng chạp đám khoai này thu được rồi, không biết lúc đó giá cả ra sao chớ nhìn “nước da” đám khoai tui biết một bụi cầm chắc từ 7 lạng đến 1 ký lô.
Một mùa khoai đang chờ phía trước, chắc Bằng gởi gắm điều gì đó trong đám khoai tây, Bằng cười khoe hàm răng trắng trên khuôn mặt đen thui, màu của gương mặt Bằng đen không thua gì của Phúc.
…Ông An an ủi Bằng:
– Chú mày mới làm vườn lứa đầu tiên bị như vầy thì hơi sốc, còn bọn tao thì thấy thường. Được mùa rớt giá là cái chuyện của người làm vườn mình mà nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Chú mày thấy thằng Phúc không, ở vùng này ai cũng nễ nó về cái vụ trồng hành, giá rớt nó thu vô nhà kho phơi phóng lựa chọn kỹ lắm, chờ giá lên nó bán. Nhưng chú mày không bì được với nó đâu, thằng Phúc trường vốn còn chú mày thì….
Ông An nhìn Bằng như dò hỏi, Bằng nói:
– Chú ơi, hôm qua bà Sáu qua chồng tiền, trừ hết chi phí và không tính công hơn ba tháng, cháu còn lại được số tiền khoảng mấy chục chuyến xe ôm!
Bằng tiếp:
– Tuy không được như ý lắm nhưng con Thắm nó mừng lắm, đây là số tiền cháu kiếm được mà không phải từ tiền chạy xe. Thôi thì lứa đầu tiên mà được vậy cháu cũng mừng.
Ông An bàn với Bằng đất cứ để vậy, qua bà Tám mua mấy chục ngàn cây xà lách cô rôn cấy vô, chừng hơn tháng là bán non được rồi, có tiền ăn tết, bán xong lứa cô rôn quay qua trồng sú, kệ thử thời vận coi ra sao….
Mùa khoai chưa hết, đâu đó vẫn còn những vạt khoai tây đang xuống củ, dân vườn nín thở chờ giá. Lúc Bằng từ nhà ông An ra, trên tay Bằng là giỏ khoai hạng nhứt Bằng dành biếu ông Tuất giờ mới đem về, Bằng gặp Phúc:
– Thua keo này ta bày keo khác, Bằng à. Mà ông có biết khoai đang nhích lên mấy giá không, tôi có mấy chục rò (luống) xuống giống sau ông mươi ngày, tôi đang chờ giá lên mới thu. Đúng làm vườn như đánh bạc!
Đất cũ đâu có đãi người mới? Thôi thì cũng ráng đánh bạc một keo nữa coi sao, người ta hay nói đen tình thì đỏ bạc….
Bằng cười tủm với ý nghĩ thoáng qua đó. Chiếc Future khựng lại khi chạy đến gần ngã ba, Thủy dang tay vẫy:
– Em xin lỗi anh, em để anh khổ tâm lâu nay, em trả anh hai chục triệu, em có thằng chồng không ra gì, em xin lỗi anh….
Xứ sương giăng: Ông già bán xôi ở cây số 6 – Truyện dài Võ Anh Cương
5 Tháng 12, 2022
334
CHƯƠNG 2
(Vanchuongphuongnam.vn) – 1. Được mùa – 2002 – Đúng là đất cũ đãi người mới, ông Tuất nghĩ. Thằng Bằng vậy mà có duyên với nghề làm vườn. Mới ra nghề mà đã trúng một lứa hàng như vậy chắc là Bằng mừng lắm. Lúc đó là buổi chiều, ông Tuất đang lui cui vo gạo nếp chuẩn bị cho ngày mai thì Bằng đẩy cổng bước vào sân, Bằng đi ngay ra sân sau chỗ ông Tuất đang ngồi làm việc.
Trên tay Bằng là một bịch ny lông màu đen khá nặng không biết Bằng đựng thứ gì bên trong, ông Tuất định hỏi Bằng nhưng chưa kịp mở miệng thì Bằng đã nói trước:
– Chú ơi, cháu đào khoai cân được hơn 5 tấn, cháu lựa mấy củ hạng nhứt qua biếu chú ăn lấy thảo, lu bu quá bữa nay mới đem qua cho chú được!
Ông Tuất cười tươi:
– Sao cháu không kêu chú phụ cho một tay?
Nói thì nói vậy chớ ông Tuất còn lo chuyện bán buôn thì lấy thời giờ đâu mà đi làm giúp Bằng? Mấy hôm trước Bằng có dọ hỏi chuyện kêu công đào khoai, ông Tuất chỉ Bằng qua nhà trọ của ông Hứa hỏi mấy đứa thanh niên ở trọ đi làm thuê xem có đứa nào rảnh không thì mướn vài công là xong. Ông Hứa cất một dãy nhà ở miếng đất phía sau và ngăn ra làm nhiều phòng trọ. Đám thanh niên nam nữ ngoài miền Trung vào tìm việc cứ hai, ba đứa thuê một căn phòng. Chúng còn rất trẻ, có đứa chưa học xong cấp ba đã bỏ gia đình theo bạn bè vào đây kiếm việc, ông Hứa có 10 phòng trọ chứ nếu thêm 10 phòng nữa cũng có người thuê. Nghe Bằng hỏi chuyện, ông Hứa nói liền:
– Tưởng chuyện gì, chú chờ đó tui kêu thằng Tảo một tiếng là xong!
Làm thuê cũng phải có thủ lĩnh, Bằng biết chuyện này từ lâu. Thằng Tảo là một thằng to con, khuôn mặt đen thui, đen đến độ Bằng phải kêu bằng cụ! Quả thật khi hỏi Bằng diện tích đám khoai, Tảo ra giá liền:
– Chừng đó phải 5 công mới xong, nhưng chừ tui chỉ còn có 4 thằng, thôi ông anh khoán cho đàn em một “chai” là được!
Bằng la lên, một triệu sao, sao mà mắc quá, tao chạy xe ôm nếu hên thì phải chừng hơn ba, bốn ngày cả vốn lẫn lời mới kiếm được chừng đó tiền, mày tưởng tao biết in tiền chắc. Sáu “xị”!
– Thôi ráng chút ông anh, cho thằng em tám “xị”, bảo đảm trưa mai tụi này sẽ khiêng bao khoai cuối cùng lên xe cho ông anh mới lấy tiền.
Tiền cân khoai thì chưa lấy mà phải trả tiền liền cho đám thằng Tảo, Bằng phải qua nhà mượn đỡ ông Tuất. Ông Tuất vừa lấy tiền đưa cho Bằng vừa cười nói:
– Bay cứ tưởng tao là nhà băng chắc, hở chút là qua mượn. Nói vậy thôi, ráng mà làm ăn nghe con, tao thấy thằng Thông có vẻ học được, còn thằng Minh học hành ra sao?
Nghe tới chuyện học của con, Bằng tươi hẳn. Quả thằng Thông đúng như cái tên học gì thông nấy, không biết nó giống ai? Hồi nhỏ, Bằng ham chơi hơn ham học, mẹ Bằng còn phải lo nỗi cơm áo gạo tiền, bà đâu có thì giờ mà coi ngó chuyện học của Bằng? Bằng bỏ học năm hết lớp 9 rồi xin học nghề sửa xe, vậy mà chuyện làm ăn của Bằng chỉ có một chữ “xe” thôi, còn chữ “sửa” dường như Bằng không có một chút duyên nào! Bây giờ lại quay qua làm vườn, đúng là cuộc đời, mình đâu biết trước chuyện gì sẽ xảy ra. Chạy xe ôm ngày ngày lượm bạc lẻ, còn làm vườn, giá sau, nghe nói giá khoai đang ở chỗ bảy ngàn rưỡi. Bảy ngàn rưỡi nhân với năm ngàn không trăm tám chục ký lô thành tiền là…. Bằng bối rối, lúc nhỏ Bằng sợ nhất môn toán, bây giờ ngồi nhăn mặt làm phép tính nhân mà không ra được đáp số! Thấy ba làm miết không xong, thằng Thông hỏi:
– Ba ơi để con làm cho, bài này dễ ẹt, con học hồi lớp ba lận.
Quả thật thằng nhỏ làm cái rẹt là xong, nhân thể Bằng nhờ con làm mấy phép tính nhân tiền phân, rồi bài toán cộng, toán trừ để tìm ra bài toán lời lỗ. Bây giờ nghe ông Tuất hỏi chuyện học thằng con, Bằng mang chuyện hồi hôm kể cho ông Tuất nghe. Ông Tuất cứ tắc lưỡi “cái thằng, cái thằng…” hoài, không biết ông định nói điều gì, nhưng Bằng đọc thấy trong mắt ông Tuất một niềm vui. Ông Tuất hỏi:
– Bay tính chưa, lời được bao nhiêu?
Mắt ông Tuất sáng lóng lánh, ông đang chờ từ Bằng một tin mừng. Bằng trái lại mắt nhìn xuống đất:
– Chẳng bao nhiêu chú ơi, năng suất thì đạt, còn giá thì rớt, phân tro giống má thì mắc, không tính công tiền thu về chỉ bằng mấy chục ngày chạy xe thôi!
Ông Tuất hỏi lại:
– Ủa có chừng đó thôi à?
Bằng cười mếu:
– Chừng đó thôi chú, chú tính con phải chia ra làm ba phần như chạy xe ôm vậy. Phần thì để dành trả tiền thuê đất, phần trả tiền phân bón, thuốc, điện đóm và các thứ khác phần còn lại còn có bấy nhiêu thôi. Con ước sao có thêm đất để mà làm thì mới hết được thời gian, nếu được vậy quá đỡ ha, chú?
Ông Tuất nghĩ cũng phải, ai làm ăn mà không tính chớ. Ông cũng lấy gạo nếp nhà bà Hóa cuối tháng tính một lần, hàng ngày gom từng đồng để tới tháng mà thanh toán. Tháng tới liền liền, tiền gạo nếp, tiền than, tiền củi, tiền đậu, tiền dầu…ôi thôi đủ thứ tiền. Nếu mà vụng tính thì có mà ăn cám?
2. Chuyện cũ – 1995
Tự nhiên khi không ông Tuất lại nghĩ đến hai đứa con. Tức chết đi được, ông nghĩ, nếu thằng Tuấn cũng biết suy nghĩ như thằng Bằng thì đâu đến nỗi. Buôn bán thức đêm dậy sớm gom từng đồng để giắt lưng phòng khi có chuyện vậy mà thằng con trai ông lâu lâu lại về hỏi mượn. Nó mượn thì có chớ trả thì không. Nó không giống thằng Bằng một chút nào, thằng Bằng hễ kẹt tiền là qua mượn ông, nó mượn và trả rất sòng phẳng. Lâu lâu có món gì ngon nó lại mang qua nhà cho ông. Còn thằng Tuấn thì chỉ về thăm ông khi kẹt tiền, có tiền là lặn đi mất tiêu. Nghĩ mà thấy buồn, ở tuổi nay ông Tuất vẫn ở một mình từ khi bà Thành mất. Thằng Tuấn ông cho ra riêng khi vừa cưới vợ xong, ông cho hai vợ chồng nó một miếng đất trên Đa Phú, ở đó đã có cái nhà ván lợp tôn chừng vài chục mét vuông. Ăn thì nhiều chớ ở bao nhiêu, nếu là đứa khác biết lo làm ăn dành dụm để cất lại cái nhà cho đàng hoàng thì đành một lẽ, còn thằng Tuấn thì chỉ biết có nhiêu xài nhiêu. Còn con Hằng thì không đến nỗi như anh nó, nhưng mà nghèo, nó theo chồng làm cà phê tận Di Linh, lâu lắm Hằng mới về nhà thăm ba:
– Ba ơi ba có khỏe không ba?
Chưa kịp nghe ông trả lời, con Hằng đã la:
– Ba ăn uống ra sao mà kỳ này con thấy ba ốm nhách vậy. Giờ ba sống có một mình như vầy con không an tâm chút nào. Hay là ba xuống Di Linh ở với con đi?
Ông Tuất nhìn con:
– Sao mà ở được hả con, không lẽ ba ở chung nhà với anh chị sui sao?
Hằng biết điều đó, không lẽ Hằng mang ba xuống nhà chồng để lo cơm nước cho ba, Hằng có nói ra chắc ba cũng không đồng ý. Hằng biết vậy nhưng Hằng cứ nói để chuyện này đến tai ông Tuấn. Làm thằng con trai mà không chịu lo cho cha mẹ gì hết, chỉ biết mượn tiền là giỏi, Hằng giận anh lắm nhưng đành bất lực. Ông Tuất biết con gái nghĩ gì, ông từ tốn nói:
– Thôi con, ba còn sức khỏe ngày ngày bán xôi cũng kiếm ăn được chưa đến nỗi nào. Anh con làm ăn thì thất bát hoài, con lại đông. Ba lo là lo cho mấy đứa nhỏ, thời buổi này không được học hành đầy đủ có mà ăn cám!
Rồi ông nghĩ tiếp, thằng Tuấn tiếng là làm vườn từ lâu, từ ngày ông giao cho nó miếng vườn hai sào đất để ra riêng nhưng chưa thấy nó tính toán chuyện làm ăn như thằng Bằng tính. Hai sào đất đó vợ chồng ông gom hết vốn liếng mua ngay sau khi thằng Tuấn cưới vợ. Bà Thành lúc đó bàn với ông:
– Thằng Tuấn tính nó tui biết, chẳng lo làm ăn gì hết. Giờ nó lấy vợ rồi, mình cho nó cái cầu câu, chỉ cho nó cách câu chớ không lẽ bao nó trọn đời sao?
Ông Tuất nhớ lại ngày mà thằng Tuất về thưa với ông bà chuyện nó muốn cưới vợ. Bà Thành nghe con định cưới vợ, bà vui lắm:
– Con định lấy ai?
Tuấn đắn đo một hồi rồi nói:
– Dạ, con Trinh.
Bà Thành nghe Tuấn nói tên đứa con gái mà nó muốn lấy làm vợ, bà nói liền:
– Không được, con lấy đứa nào má cũng đồng ý chớ con Trinh thì không!
Tuấn đã biết chuyện má mình không ưa bà Cúc má của Trinh. Ở ngã ba này ai mà không biết chuyện bà Thành và bà Cúc. Từ hồi còn con gái, hai người là bạn thân của nhau. Đi đâu cũng thấy hai người cặp kè, hễ ai thấy Thành thì hỏi chớ Cúc đâu, gặp Cúc mà không có Thành thì hỏi sao con Thành bận gì mà không đi với em? Vậy mà đùng một cái hai người coi nhau như người xa lạ.
3. Trúng số – 1990
Bữa đó Thành ra quán bà Hóa mua ký trứng, trong quán lúc đó cũng khá đông người. Một người nói chuyện với bạn trong khi chờ bà Hóa cân gạo:
– Tuần này đài Đồng Nai lại về con sáu tám, tui tiếc đứt ruột!
Người kia hỏi:
– Đầu hay đuôi?
– Cả đầu với đuôi cũng đều sáu tám mới đau chớ?
Nghe chuyện của họ, Thành biết ngay đây là đệ tử của đề đóm. Nuôi mấy con số chỉ làm giàu cho bọn huyện đề chớ làm sao mà thắng được. Nhưng nghe họ nói chuyện đề, Thành sực nhớ tới mấy tờ vé số Thành và Cúc mua chung hôm trước. Hôm đó hai người đi chợ chơi. Đi chơi thôi không mục đích gì. Gặp hàng nào cũng sà vô, lựa chọn đã đời rồi qua hàng khác. Hình như đàn bà ai cũng giống ai đều thích đi mua sắm. Có tiền đi mua sắm thì đã đành, còn đây không rủng rẻng tiền trong túi cũng đi lựa chọn lung tung. Đang hào hứng với mấy bộ đồ mặc ở nhà, Cúc cúi xuống. Thành nhìn theo bạn. Dưới đất là một hình nhân nằm trên xe bạt đạn, tay cầm sấp vé số, miệng rên rỉ:
– Cô hai mua giúp tờ số, đài Đồng Nai tui còn mười tờ sáu tám đây cô.
Cái bộ dạng của người nằm trên xe còn được coi là một con người đã làm cho tim ai nấy rúng động, nếu là ăn xin người ta cũng cho huống chi là đi bán vé số? Cúc cầm xấp vé số lấy 5 tờ sáu tám. Thành nói với bạn:
– Bồ lấy cho tui 5 tờ luôn đi.
Hai người bạn thương hại nhìn theo cái hình hài nằm trên xe đẩy, trong lòng Thành cảm phục người khuyết tật thà đi bán vé số chớ không chịu đi ăn xin. Hai chị em ra về, lòng không vui vì cái vụ vé số kia. Cúc nói:
– Để tui đưa bồ 5 tờ vé số?
Nói xong Cúc mở nắp cái túi xách đang đeo vai. Thành ngăn lại:
– Thôi bồ giữ luôn đi, chắc gì đã trúng?
Nghe vậy Cúc cũng thôi không đưa bạn mấy tờ vé số. Mấy ngày trôi qua, Thành quên luôn vụ mua vé số, Cúc cũng không nói gì. Bây giờ nghe lóm hai người chơi số đề nói chuyện, Thành mới biết mình trúng số. Trong bụng cũng vui vui, Thành kể chuyện mua vé số cho bà Hóa nghe, bà Hóa nói:
– Mừng cho cô, mình làm ơn mua cho người ta có miếng ăn như rứa cũng được phước cô à?
Đúng lúc đó Cúc cũng đi quán mua mấy thứ thực phẩm khô, Thành hỏi:
– Mình trúng số mấy tờ mua hôm trước bồ dò chưa?
Trong bụng Thành nghĩ chắc là Cúc vui lắm, Cúc sẽ nói “hay bồ với tui hôm nào mình đi chơi xả láng một bữa, tiền trúng số mà!”. Ai ngờ Cúc nói:
– Trúng khỉ gì, trật lất. Tui dò rồi!
Thành ngạc nhiên:
– Ủa mới hồi nãy tui vừa nghe nói đài Đồng Nai về con sáu tám mà, phải không cô Hóa?
Bà Hóa xác nhận:
– Đúng, tui có nghe nói.
Cúc cãi:
– Thì con sáu tám về, còn mình mua con tám sáu mà?
Thành ngạc nhiên hết sức, rõ ràng làm sao Thành nhầm cho được, con sáu tám chình ình trên tay Cúc khi Cúc cầm sấp vé, lúc đó Thành ghé đầu dòm. Vậy mà bây giờ nó nói là con tám sáu, thiệt là tức. Tức là cãi, nói qua nói lại một hồi làm ầm ĩ quán bà Hóa, cả khu chợ chồm hỗm cũng bu lại coi, quê quá. Thành bỏ về mặt phừng phừng. Trong bụng nghĩ không lẽ con Cúc vì mấy trăm bạc mà coi nhẹ tình bạn bè hay sao mà nó cãi tới bến vậy. Thành biểu đưa mấy tờ vé số nó còn nói:
– Vé trật thì “dụt” chớ để làm gì?
Thành rấp tâm tìm người bán số dạo mượn cuốn sổ dò coi sao. Hóa ra hai người chơi đầu đuôi nói sót, đến ba lô ra con sáu tám, ngoài đầu đuôi còn lô hạng nhất. Thành nhớ như in dãy số mua của người nằm trên xe đẩy, giờ nó nằm chình ình trong lô hạng nhất. Chỉ vì số tiền đó mà con Cúc coi nhẹ tình bạn như vậy sao?
4. Trở lại với nghề – 2002
Giờ nghe thằng Tuấn nói nó định lấy con Trinh, con gái đầu bà Cúc làm vợ, bà Thành nhớ lại chuyện xưa, bà nhất quyết không chịu. Thằng Tuấn bị mẹ ngăn cản, chiều chiều ra ngồi ngoài hè ôm đầu gối bà kêu hoài cũng không chịu vô ăn cơm. Dùng lý lẽ rồi dùng tình cảm gì cũng không lay chuyển được thằng Tuấn, chiều nó ngồi tới tận nửa đêm mới chui vô nhà nằm trên bộ phản mà thở ra, không thèm vô giường nằm. Nhìn con mới có một tháng mà hốc hác như một ông già, bà Thành như bị ai xát muối vào lòng. Ông Tuất nói:
– Bà xát muối bà chớ ai vô, thôi trời không chịu đất thì đất phải chịu trời, để tháng tới tui và bà qua nhà bà Cúc nói vợ cho nó là xong chuyện.
Đám cưới thằng Tuấn, bà Thành đánh phấn thật dầy để che khuôn mặt của mình. Bà không mắc cỡ, nhưng bà mắc cỡ cho bà Cúc và cũng để giấu đi vẻ mặt thiệt của mình.
Ông Tuất lan man nghĩ chuyện ngày trước, dạo này ông hay như vậy quá. Cứ ngồi im một hồi là ông lại nhớ đến bà Thành, không chuyện này thì cũng chuyện kia. Sao lạ vậy cà, thôi đúng rồi sắp tới ngày giỗ bà Thành, ông lấy điện thoại bấm máy gọi cho con Hằng và thằng Tuấn nhắc ngày giỗ mẹ nhớ về nhà. À, còn chỗ khoai tây thằng Bằng vừa cho ông để dành còn làm đám giỗ, ông Tuất nghĩ.
Mải nghĩ những chuyện ngày xưa ông Tuất quên mất Bằng vẫn con ngồi ở cái bàn trong bếp. Bằng đang coi tivi, trên truyền hình đang diễn ra một trận bóng đá quốc tế. Bằng ham môn thể thao này lắm, mỗi lần có trận đấu Bằng đều thức đêm coi, sáng ra con mắt mở ra không muốn nỗi. Nhưng hễ có khách kêu xe là Bằng lại thấy tỉnh như sáo. Bây giờ kiêm luôn hai nghề vừa làm vườn vừa chạy xe ôm, Bằng hơi nghiêng về phía vườn. Không nghiêng không được bởi cái nghề trồng rau ai cũng phải theo dõi diễn biến thời tiết, coi cây rau nó có bị làm sao không để mà kịp thời chữa trị. Bằng ra nghề làm vườn sau người ta nên khi có dịp là Bằng đều học hỏi kinh nghiệm của người đi trước. Nhờ cái tính ham học đó nên mới một thời gian ngắn Bằng đã tiếp thu khối kinh nghiệm của người làm vườn và để dành đó bởi Bằng chỉ vừa qua lứa khoai tây thôi. Đang miên man nghĩ về mấy chuyện làm vườn, Kim đẩy cửa bước vào làm Bằng giật mình:
– Ủa Kim, ông định gặp chú Tuất à?
Kim cười:
– Không, tui gặp ông. Tui qua nhà ông, bà xã ông nói ông đang ở đây, tui ghé qua liền!
Bằng ngạc nhiên:
– Gặp tui? Mà có chuyện chi?
Kim ngồi xuống, lấy ly rót nước uống. Vừa lúc đó ông Tuất đẩy cửa bếp bước vô:
– Dạ cháu chào chú, Kim nói.
Ông Tuất chào lại:
– Đi chơi hả cháu, ngồi xuống uống nước đi, có chuyện chi không Kim?
– Dạ cháu qua gặp Bằng. Chú ơi cháu định nhường lại cho Bằng miếng vườn thuê của ông Hương!
Cả ông Tuất và Bằng đều ngạc nhiên:
– Rồi bay làm gì? Ông Tuất hỏi, còn Bằng ngạc nhiên hỏi “sao vậy?”. Kim cười:
– Nói chú mừng, cháu vừa gặp ông già, ổng cho chút vốn rồi còn tìm chỗ cho cháu lái xe. Quay qua Bằng, Kim hỏi:
– Ông lấy luôn chỗ đất ông Hương cho tui thuê mà làm luôn. Tui tính như vầy: tiền ứng trước trả tiền thuê đất, ông cứ để đó chừng nào có tiền trả lại tui sau, còn mấy rò dâu tây tui mới gầy ra đó tui để lại cho ông chăm sóc rồi hái trái bán, ông đưa tui chút ít là được. Chỗ ông với tui cùng cảnh ngộ với nhau mà. Sao lấy không?
Bằng ngẩn người. Quả thật Bằng không nghĩ Kim lại nhường lại chỗ đất thuê gần suối cho mình. Chưa kịp trả lời Kim thì ông Tuất cười nói:
– Cha, thằng Bằng “trúng số” rồi, hồi nãy mày đang ao ước có nhiều đất để làm vườn, thời buổi này chỉ có từng đó đất đâu hết thì giờ phải không Bằng? Còn cháu nữa Kim, cháu cũng trúng số độc đắc phải không?
Cả Kim và Bằng đều cười tươi, chưa biết cái vụ “trúng số” của hai người sẽ mang đến điều gì nhưng trước mắt thấy vui ở trong lòng. Ông Tuất nói tiếp:
– Chú có chai rượu, để chú làm chút mồi ba chú cháu mình ăn mừng vụ trúng số này nghe?
5. Cha và con – 2002
Từ nhà ông Tuất ra về trời đã tối. Vui quá Kim uống tới chục ly rượu giờ mới thấy xót ruột với cái bụng trống trơn. Có mỗi dĩa bò xào với hành tây mà ba người uống hết lít rượu ông Tuất mua của ông Thơ về định ngâm thuốc sao mà bụng dạ không cồn cào cho được? Thứ rượu đó Kim biết ông Thơ ra lò là thứ hạng nhứt dành để bán cho những người dặn trước với giá gấp rưỡi rượu thường. Nhưng cuộc rượu với những toan tính cho tương lai nghe sao trong lòng vui quá, không biết rồi có làm được không nữa? Bằng tính với 5 sào vườn thuê của ông Hương, Bằng sẽ lên một kế hoạch sao cho bắt đất quay vòng một cách hợp lý nhứt. Không biết ông tướng đó tính cái gì trong lòng mà ánh mắt sáng trưng. Nhìn Bằng vui Kim cũng vui lây với bạn. Nhưng thôi bỏ qua chuyện của Bằng, Kim trở lại với những chuyện vừa qua của mình. Sao giống một giấc mơ quá. Từ mấy ngày nay Kim như sống trên mây cứ thấy chân mình như bước đi trong không khí vậy mới ác chứ. Hôm đó đi làm về như thường lệ, Kim nghe vợ nói có người tìm Kim. Kim gặng hỏi Nhàn “ai tìm anh mới được?”. Hỏi thì hỏi vậy chớ trong lòng Kim nghe xao xuyến mới kỳ. Ở trên này ngoài những người sống chung quanh, bạn lái xe, bạn làm vườn Kim đâu có ai quen? Nhàn nói:
– Một ông Việt kiều, là em đoán vậy qua cách ăn mặc của ông ta!
Việt kiều, càng không thể, chắc là ông ta lộn Kim với ai đó rồi. Từ ngày bỏ quê lên đây lập nghiệp, Kim đâu có quen ai ở nước ngoài. Hỏi đi hỏi lại Nhàn cũng khẳng định là hai vợ chồng Việt Kiều đó tìm Kim. Nhất định không lộn đâu. Có phải má anh tên là Nguyễn Thị Quỳnh Hoa? Ổng còn cho em coi hình má nữa. Má có một cái lúm đồng tiền, mái tóc dài, mắt hai mí trông dễ thương lắm. Hình má? Kim cũng có một tấm hình má chụp hồi còn con gái Kim luôn để trong bóp. Tấm hình sáu chín trắng đen để vừa gọn trong một ngăn của cái bóp dầy nhưng mỏng lét tiền. Kim lục bóp lấy hình má cho Nhàn coi:
– Anh cũng có hình má nè?
Nhàn la lên:
– Y chang cái hình ông Việt kiều đó cho em coi, anh thử nhớ đi đó chắc là người thân của anh mới có hình má anh chớ?
Nhàn nói đúng, phải là người thân của Kim mới có hình má chớ? Vậy ông Việt kiều đó là ai? Cái này thiệt lạ lùng, làm sao Kim biết là ai mới được? Nhàn nói:
– Hay là ba anh?
– Tầm bậy, ba anh chết từ hồi tám hoánh?
Nhàn cười:
– Không ba anh thì chắc là bồ má anh hồi đó?
Kim đồng ý:
– Dám như vậy lắm à!
Rồi Kim không nghĩ gì thêm nữa, Kim phụ với Nhàn dọn cơm ra ăn. Trong lúc ăn cơm, Nhàn lại đem câu chuyện hồi chiều ra bàn tiếp:
– Cái bà đi với ông Việt kiều chắc cũng từ “bển” về, nhìn cách ăn mặc là em biết liền. Nhưng anh ơi bà đó có cặp mắt nhìn lạnh thấy sợ?
Kim hỏi:
– Là sao?
– Là nhìn mình như nghi ngờ, dò xét cái gì đó. Em lần đầu gặp bả, có làm gì đâu mà bả nghi em chớ?
Kim ngạc nhiên:
– Vậy sao?
Ăn xong Kim uống nước, cái thứ chè xanh Kim bẻ từ hàng chè trên đồi nhà ông Thường uống vừa chát vừa thơm mùi gừng lẫn trong vị chè xanh. Nhàn biết ý mình, Kim nghĩ, uống chè xanh phải bỏ vô ấm một vài lát gừng sẽ đưa cái vị chè lên thành hương, lại tốt cho sức khỏe nữa. Uống vừa xong chén nước, có tiếng gõ cửa, Kim hỏi:
– Ai đó?
Không có tiếng trả lời, Kim đứng dậy đi ra mở cửa. Khuôn mặt một người đàn ông xa lạ hiện ra, ông ta cười hỏi:
– Cậu có phải là cậu Kim không?
– Đúng tui là Kim mà chú hỏi có chuyện chi?
Người đàn ông nói:
– Tôi đến mời cậu đi gặp một người!
Kim ngạc nhiên:
– Ai đòi gặp tui, mà gặp tui có chuyện chi?
Người đàn ông nói:
– Thì cậu cứ đi với tôi khắc biết!
Kim gặng hỏi:
– Mà đi đâu mới được?
– Resort Hoàng Anh, tôi sẽ chở cậu đi.
6. Nhớ quê – 2002
Chiếc Lexus chạy qua những con đường giờ đã phủ bóng đêm. Hàng đèn đường màu vàng ấm áp không xua được vẻ lạnh lẽo của đêm miền núi. Bóng đêm che phủ mọi vật trừ những chỗ bóng đèn cao áp chiếu xuống mặt đất. Cũng như mình vậy, bóng tối bao phủ chung quanh bao lâu nay chừng nào mới tới lượt đến chỗ có ánh sáng đây? Thì mình phải cố bươn tới chớ biết làm sao, cứ làm hết sức mình đi đừng để mai này hối hận. Nghĩ một mình cũng không thấy thích thú gì trong khi cái câu hỏi cứ muốn bung ra từ trong bụng, Kim nói:
– Chú ơi ai gặp cháu vậy?
Ông lái xe cười:
– Thì tôi nói rồi gặp khắc biết mà.
Ngừng lại một chút, ông tài xế nói tiếp:
– Người đó là bạn của ông chủ tôi từ bên Mỹ về, tôi chỉ biết vậy.
Kim nói:
– Cháu không có ai quen là Việt kiều cả, còn Việt Cộng thì “nhóc”!
Ông lái:
– Tôi thấy ông Việt kiều Mỹ đó có đôi nét giống cậu, có phải là ba cậu không?
Kim cười:
– Chắc là người giống người thôi chú, ba cháu chết từ hồi cháu còn nhỏ xíu mà.
Ông lái:
– Vậy sao, cậu quê đâu ta?
– Bến Tre, mà bỏ đi lâu rồi!
Kim ngừng ngang. Khi không lại tâm sự chi với một người vừa quen như vậy? Đã từ lâu lắm rồi Kim thôi không tơ tưởng gì đến hai tiếng quê nhà. Cái mùi bùn non thum thủm trong mấy con rạch thỉnh thoảng cũng vụt về trong ký ức của Kim. Hình ảnh con thòi lòi chạy trên mặt nước với hai con mắt trô trố dường như hỏi Kim rằng chừng nào anh về vậy? Hôm uống rượu với Luông, Kim mới thấy nhớ quê. Nổi nhớ được Kim dìm tận trong lòng giờ mới vỡ òa. Hình như hôm đó mình khóc, và anh Luông cũng đâu có thua mình, ảnh cũng ứa hai dòng nước mắt như mình vậy. Hai người buồn như con chuồn chuồn đến nỗi chị Hoa quở:
– Hai ông uống đi chớ cứ ngồi ngó trân trân đâu đâu vậy?
Thì ngó tới tận quê chớ đâu, Kim nghĩ trong bụng nhưng không nói ra. Cũng may lên trên này tìm cách sống Kim còn được một người đồng hương là Luông. Có anh Luông thỉnh thoảng Kim ghé vô để chỉ nghe một chút giọng miền Nam “quê ơi là quê”, cái thứ giọng chỉ có hai anh em Luông mới buột miệng nói ra. Giờ lại có người tìm mình trên này, Kim nghĩ nát óc mà cũng không ra là ai nhưng Kim biết chắc rằng người đó cũng có liên quan đến nơi chôn nhau cắt rún của Kim. Nhưng mà ai vậy?
Nãy giờ không nghe Kim nói gì thêm sau câu hỏi, ông tài xế cũng im lặng luôn không bắt chuyện thêm nữa. Ai cũng chìm trong dòng tư tưởng của mình. Ông tài xế lấy làm lạ rằng sao người khách Việt kiều lại ráng tìm cho được cậu thanh niên này. Kim ăn mặc cũng bình thường như ông thôi không ra vẻ gì là công tử, ông nghĩ chỉ có hạng người giàu có đó mới xứng với ông Việt kiều kia. Mà cũng lạ thiệt, cậu thanh niên này không hay biết một chút gì về chuyện ông Việt kiều tìm mình, nhìn cách nói và thái độ ngạc nhiên của Kim, ông tài xế tin Kim nói thiệt. Thôi kệ mình chỉ biết làm cho xong phận sự của mình để khi về lại Sài Gòn ông chủ khỏi ca thán, có vậy mình mới giữ được nồi cơm.
Chiếc xe thắng kịt trong sân của resort Hoàng Anh, ông tài xế nói với Kim:
– Tới rồi, cậu đi theo tôi.
7. Chuyện tình – 1970
Câu nói vô tình của Nhàn như một lưỡi dao đâm vào ngực Kim, anh thấy đau nhói, nỗi đau xuyên thấu tâm hồn Kim từ cái đêm mà người đàn ông trong resort Hoàng Anh nhận cha con với Kim.
– Làm con thì không được xét cha mẹ, anh cũng biết vậy nhưng tới giờ anh vẫn không hiểu nỗi vì sao mà ba anh bỏ má anh trong lúc bụng mang dạ chửa. Ba anh nói nhiều lắm, đó gần như là những lời sám hối, còn anh thì ngồi im. Em biết không lúc đó anh chú ý lắng nghe tiếng con thạch sùng tắc lưỡi có khi nhiều hơn là những lý do ba đưa ra. Ba đâu biết rằng má anh khổ thế nào để nuôi anh thành người, nếu không có ông bà ngoại Bến Tre thì giờ đây không biết anh sẽ ra sao. Cho nên giờ ba anh tìm về nhận cha con rồi kể lễ dông dài những lý do vì sao mà không tiếp tay cùng má anh nuôi anh. Anh nghe ra ý ba anh cũng hối hận chuyện này, nhưng hối hận thì cũng đã quá muộn rồi, má anh đã chết có nghe những lời nói ấy đâu?
Nhàn lờ mờ hiểu tâm lý chồng, cô nghe Kim nói những lời xa gần như vậy dường như có ý kết tội ba anh. Thôi thì tức chuyện đó cũng đúng nhưng dù sao cũng đã xảy ra rồi, Nhàn thấy Kim nên tha thứ cho ba. Nhàn thuyết phục Kim bằng những ý nghĩ của một người đàn bà đôn hậu. Còn Kim dường như dư âm của cái đêm nói chuyện với người cha Việt kiều vẫn còn đọng lại, anh im lặng một hồi để những ý nghĩ nặng lòng lắng lại rồi nói tiếp:
– Ba và má anh nguyên là bạn bè cùng lớp học. Đâu như những năm bảy mươi hai người học trường Văn Học, trường đó là trường tư nằm trên một quả đồi ở đường Hoàng Diệu. Năm ba má học lớp mười hai, hai người thương nhau. Dì Hai là người Bến Tre cũng được ông bà ngoại gởi lên trên Đà Lạt học, dì ở trọ mấy bà sơ ở tu viện Đô Men, dì học cùng lớp với ba và má anh. Ba người thân nhau lắm, tình cảm của ba người dành cho nhau rất sâu đậm, ba không nói ra nhưng anh biết dường như cả má anh và dì Hai đều yêu ba anh. Má anh là người chiến thắng trước dì Hai mà phần thưởng dành cho người chiến thắng là một đứa con: đó là anh. Hồi đó khi có bầu anh má anh được gọi là “chửa hoang”, đó là sự phỉ báng gia đình. Ông ngoại ruột anh đuổi má anh ra khỏi nhà, má không biết tính sao. May mà còn có dì Hai, dì Hai đưa má anh xuống Bến Tre sống những ngày vò võ một mình để chờ ngày sinh nở. Khi theo dì ra bến xe để về quê dì cũng là cái ngày mà má anh cắt đứt hoàn toàn với gia đình, đến bây giờ anh cũng không biết họ hàng phía ngoại nhà mình ra sao. Anh gặng hỏi nhiều lần nhưng má anh không nói, má chỉ khóc và nói rằng má đã làm ô danh nhà ông ngoại, ông bà ngoại coi như má đã chết rồi! Câu nói đó của ông ngoại ruột anh khiến lòng má tan nát, má ra đi và hẹn với lòng không bao giờ quay lại. May mà má con anh còn có ông bà ngoại Bến Tre!
Nhàn hỏi:
– Còn ba anh lúc đó ra sao?
– Ba anh bị bắt lính. Ba anh kể rằng hồi đó chiến tranh ác liệt, ba thi rớt tú tài hai không đủ điều kiện làm giấy động viên tại chỗ nên bị bắt đi học ở trường sĩ qua bộ binh Thủ Đức. Ra trường ba bị điều động về đóng quân ở Vùng một chiến thuật. Ba nói ba cố liên lạc với má nhưng mọi thư từ có gởi đi mà không có hồi âm. Tới năm bảy lăm, ba anh rã ngũ chạy về nhà rồi đi học tập. Mãi đến năm tám mươi ba mới ra trại về làm vườn rồi đăng ký đi Mỹ theo diện HO. Ba anh kể ra trại ba về Đà Lạt tìm ngay đến nhà ngoại anh thì nhà ngoại anh đã dọn đi kinh tế mới ở Tà Hin. Ba lên phường xin phép đi Tà Hin để tìm gia đình ngoại anh, đến vùng kinh tế mới này ba anh hỏi thăm vào trúng ngay nhà ông bà ngoại. Ba anh nói ông về liền trong ngày bởi gia đình ngoại cũng không biết tung tích của má, chỉ biết rằng hồi tháng tám năm bảy mươi, một ngày sau ông ngoại đuổi má ra khỏi nhà má anh nói với bà ngoại đi chợ rồi không thấy trở về. Anh gặng hỏi một hồi ba mới kể rằng ba bị ông bà ngoại thi nhau kết tội ba. Mà cũng đúng bởi vì ba mà nên cơ sự. Ba nói phía ngoại nhà anh có ông bà ngoại nay đã già, hai cậu và một dì, cả ba người đều ở Vùng Loan, anh tính hôm nào rảnh nghỉ một bữa xuống đó tìm nhà ngoại, anh muốn biết mặt ông ngoại ruột anh thử coi một người đủ nhẫn tâm đuổi con gái mình ra khỏi nhà ra sao…
Giờ thì Nhàn đã hiểu phần nào vẻ ủ ê nơi khuôn mặt chồng. Ra là vậy, nếu là Nhàn bị lâm vào cảnh của má Kim có lẽ Nhàn cũng ôm con mà sống một mình. Thân phận đàn bà quả là khổ, mình má Kim chăm sóc con đến khi con trưởng thành thì không còn nữa, đời người qua mau quá đỗi! Nhàn quay qua ôm Kim vào vòng tay tròn trặn của mình, cô hôn nhẹ lên má chồng, Nhàn cảm nhận được vị mặn của dòng nước mắt chảy ra từ mắt Kim. Nhàn rên lên:
– Đừng khóc nữa Kim, bây giờ Kim có em và con bên cạnh mà!
Kim chối:
– Anh có khóc đâu, chỉ là con muỗi nó chui vào mắt anh, anh dụi mắt nên nước mắt mới chảy ra vậy đó.
Đêm không một tiếng gió lay ngọn cây bên cửa sổ, đêm thinh lặng như đồng lõa với tiếng rúc rích yêu thương. Đêm còn mang Nhàn đến một giấc mơ: Kim chở Nhàn trên một chiếc xe du lịch, chiếc xe chạy trên đường hai bên đường là vườn dâu bạc ngàn xanh.
10. Chuyện nợ nần – 2000
Bà Hóa nhìn ra đường không thấy ai vào mua hàng, bà ngả lưng xuống chiếc ghế sô pha đặt ở góc quán. Cái nghề làm dâu trăm họ sao mà cực quá. Sáng bà phải dậy sớm đã đành, còn buổi trưa cái lưng đau muốn chết mà nào bà có được nghỉ cho cam? Bà phải ngồi “chực” người mua hàng. Ai mà biết được người ta mua giờ nào đâu? Con buổi tối phải chín giờ bà mới đóng cửa, tắm rửa xong bà thấy người rả rời chẳng thiết gì nữa ngoài một giấc ngủ ngon. Vậy mà đâu có được. Bà trăn qua trở lại vì lại vì lắm chuyện cứ vây bủa bà. Chuyện chồng chuyện con, chuyện hàng chuyện hóa…bà lan man nghĩ chuyện này rồi chỉ một lát sau lại qua chuyện khác. Chiều hôm qua bà kêu con Chi về nhà nói chuyện. Chi là em kế Huyên và là chị của ba thằng em trai. Còn thằng Thiên, sau cái vụ bị ở tù bà phải lo bộn tiền Thiên mới được về sớm hơn án tuyên. Thiên tiếp tục kinh doanh, lần này Thiên không phá số vốn của bà bơm cho con, ngược lại Thiên lại làm vốn nở ra. Đến giờ bà cũng không biết con có bao nhiêu từ số tiền ban đầu của bà cho với câu dằn mặt:
– Lần này mi mà làm mất vốn nữa là tau lơ luôn, không mạ con chi hết!
Thiên cười nhìn bà bằng một cặp mắt không giấu vẻ thích thú:
– Mạ yên tâm, dù gì con cũng có cái gien của mạ mà!
Bà Hóa không biết cái gien là cái chi chi nhưng câu trả lời của Thiên nghe như một lời hứa chắc nịch khiến bà tạm an tâm. Bà biết thời buổi này kinh doanh ngày càng khó, nghĩ cho cùng kinh doanh mà không đặt mình vào tình thế hiểm thì không dồn hết tâm trí vào chuyện bán buôn. Vậy mà thằng Thiên gặp thời y như câu hết cơn bĩ cực đến hồi thái lai bà thường nghe nói. Số là câu chuyện bắt đầu từ cái xe cub trành của ông An. Ông An nợ bà Hóa một số tiền mua phân bón, gạo và mắm muối. Bà Hóa nghe đồn ông An trúng hành, đâu như vài chục tấn, bà chờ mà nào có thấy ông An đem tiền trả nợ cho bà. Đến khi gặp được ông An bà đòi nợ. Nợ có đòi có trả, kinh nghiệm mấy chục năm buôn bán cho bà biết như vậy, nhất là đòi giữa chốn đông người. Ông An “quê độ” như cách nói của bọn trẻ, ông về bán tống bán tháo chiếc xe cub là cái chân chạy của ông và mượn thêm bà con bên vợ cho đủ số tiền thiếu rồi tức tốc mang tiền ra trả cho bà Hóa.
Nói tức tốc tức là ngay khi ông có đủ tiền, cho dù đã chín giờ đêm ông cũng lội bộ từ xóm Bãi Bằng ra quán nhà bà với xấp tiền trong tay. Dù gương mặt của ông An không vui vẻ gì nhưng miệng ông cũng nói được câu cám ơn, câu nói đó bà Hóa lại nghe như một lời từ giã nhưng bà không coi là quan trọng miễn món tiền nợ bà thu được. Trăm người bán vạn người mua, không ông An này sẽ có ông An khác mua hàng của bà, hàng bà đúng chất lượng, giá cả lại linh hoạt so với các nơi khác thì sợ gì ế? Quả nhiên ông An từ giã bà Hóa thiệt, khi mua hàng nhà cô Lý ông không hé răng vì sao bỏ quán bà Hóa nhưng vợ ông thì khác. Bà An đi kể với làng trên xóm dưới rằng “mụ Hóa tệ thiệt là tệ, ai đời nhà tui mới mua nợ chút phân tro mà gặp đâu mụ ta đòi đó, tui có giựt nợ đâu, khi có hàng tui bán được là mang tiền ra trả ngay mà. Nhà trồng được thứ gì tui lựa hạng nhứt mang ra biếu…”. Có người biết chuyện hỏi chị nợ bao lâu mà bà Hóa đòi gắt nhự vậy? Bà An ngẩn ngơ một chút rồi cười lỏn lẻn:
– Đâu như hồi tháng giêng năm ngoái… Người hỏi cười to:
– Năm ngoái đến nay là mười mấy tháng rồi, bà chị nợ người ta như vậy là quá lâu mà còn nói gì nữa?
Sau cái đận đó dường như ông trời ban lộc cho vợ chồng bà. Bà trúng liên tiếp mấy lứa xà lách cô rôn, tiền kiếm được tuy không nhiều nhưng cuộc sống dễ thở hơn một chút. Ông An lâu nay vẫn hậm hực vụ bán tống bán tháo chiếc cub để lấy tiền trả nợ, nay có rủng rẻng chút tiền ông nghĩ ngay đến chuyện sắm lại chiếc xe làm chân chạy. Kịp lúc này xe máy Tàu đang tràn ngập, giá thì vô cùng rẻ, chỉ vài triệu bạc là có xế nổ rồi mà lại là xe mới hẳn hoi. Ông An xuống ngay tiệm Minh Thư hỏi mua xe theo lời giới thiệu của thằng con, ai dè ông gặp Thiên….
11. Con dòng – 2000
…Thiên nghe mạ kể chuyện ông An bán xe trả nợ, lúc đầu Thiên cũng có chút áy náy trong lòng. Chiếc xe máy là chân chạy của người làm vườn, nó không đơn thuần là phương tiện đi lại mà còn là phương tiện vận chuyển từ phân bón, vật tư nông nghiệp đến gạo cơm mắm muối… tất tần tật đều trông chờ vào chiếc xe máy. Giờ ông An không còn chân chạy nữa cuộc sống chắc sẽ đảo lộn, không biết ông tính sao? Đang nghĩ đến đó bỗng nhiên Thiên nảy ra ý hay là mình kinh doanh xe máy, tập trung vào dòng xe bình dân nhiều người cần? Hay hơn hết là mua xe máy cũ, tân trang lại rồi bán kiếm chênh lệch giá. Thiên bàn sơ với vợ, không chờ sự đồng ý của Thư, Thiên mang tiền mạ cho mua ngay vài chiếc xe cũ dựng trước cửa nhà đề mấy chữ trên tấm cạc tông “xe bán”. Vậy mà mới buổi sáng Thiên đã “gả” một chiếc kim vàng giọt lệ đời 81 lãi chỉ mấy trăm ngàn nhưng lại là niềm động viên khích lệ Thiên. Rồi xe Tàu tràn ngập thị trường, Thiên quay qua kinh doanh loại xe này. Chất lượng xe Tàu tầm tầm, đồ nhựa đụng đâu bể đó nhưng được cái là giá cả thì mềm. Ban đầu Thiên làm đại lý cho một hãng xe ở Sài Gòn, sau khi đã rõ đường đi nước bước, Thiên lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên lấy tên Minh Thư trực tiếp mua hàng của công ty xuất nhập khẩu về bán. Từ đó Thiên phất lên, công ty do Thiên làm giám đốc kinh doanh nhiều ngành nghề…. Khi ông An đến Minh Thư hỏi mua chiếc xe Tàu, Thiên nhớ lại chuyện nợ nần của người đàn ông khắc khổ, Thiên niềm nở mời ông An:
– Chú vô nhà uống nước đã, chú yên trí cháu sẽ lựa cho chú một chiếc xe ngon nhứt!
Ông An hỏi giá cả, thật ra trước khi mua xe ông cũng dã dò hỏi nhiều người mua trước, nghe Thiên nói sẽ để cho ông giá gốc, ông không tin lắm. Nhưng khi nghe Thiên nêu con số ông mới thực sự thấy rẻ cả triệu bạc, lúc đó ông mới tin lời Thiên nói thật. Nhưng sự hồ nghi thì theo ông mãi đến khi dựng chiếc xe trước sân nhà, hàng xóm chạy qua coi xe ông mới tạm quên đi. Bà Hóa như vậy mà có đứa con…được quá đi chớ! Hay là nó sẽ lợi dụng mình về sau? Về sau, hai chữ đó ông cũng để tâm nhưng nghĩ đi ngẫm lại mình có gì cho Thiên lợi dụng?
Bà Hóa không biết những chi tiết này, một hôm Thiên về thăm mạ vô tình thấy ông An chạy xe ngang trước quán, Thiên vui miệng kể cho bà Hóa nghe chuyện anh giúp ông An. Bà Hóa nhìn con gật gù:
– Mi giúp rứa cũng được… thôi thì người ta nghèo có cái xe làm chưn chạy là tốt rồi!
Thiên nghe mạ khen như vậy nở mũi, đi đâu cũng đem chuyện bán vốn chiếc xe Tàu cho ông An, lại còn cho cả “mấy bình nhớt sơ cua” nữa chứ! Đó là cách đánh bóng tên tuổi mình, Thiên nghĩ. Chuyện chỉ có vậy thì cũng không nói làm gì, cái ác là lại đến tai ông An câu chuyện to như con voi. Thằng con ông An không biết đi chơi đâu nghe thiên hạ kể chuyện Thiên cho không cha mình chiếc xe Hongda lại còn giúp vốn để làm ăn, lại có ý định nhận mình vô giúp việc bán xe…nó đem về kể với cha:
– Có phải cha định xin cho tui đi ở mướn cho ông Thiên không vậy? Tui nói trước, tui làm vườn thôi không đi làm công cho ai hết!
Đôi mắt nó lại nói khác. “Tui như vầy mà đi làm thuê làm mướn sao, dù gì vườn tược không thẳng cánh cò bay như địa chủ ngày xưa nhưng làm chủ mấy sào vườn thì vẫn là làm chủ, muốn làm gì tùy ý khỏi phải xin phép ai cả!”. Niềm kiêu hãnh đó một thời ông An cũng trải qua….
Ông An từ ngạc nhiên đến tức giận chỉ sau năm phút nói chuyện với thằng con. Ông giận Thiên có ít xít ra nhiều định bụng khi gặp Thiên sẽ cho thằng con bà Hóa một bài học nhớ đời. Nhưng tối nằm suy nghĩ chuyện nhà trước khi ngủ, ông mới hạ hỏa. Thôi chuyện bé xé ra to làm gì, coi như không biết là xong, dù sao thằng Thiên cũng bán rẻ chiếc xe Tàu cho ông là chuyện có thật. Ông nghĩ thêm về lời tuyên bố của thằng con, nó muốn ở nhà làm vườn như ông đã làm và đang làm. Nói không phụ ơn trời, có mấy sào vườn, mùa được mùa thất nhưng nhờ đó mà gia đình ông có cái ăn cái mặc, lại xây được ngôi nhà trên đỉnh đồi, tuy là nhà cấp 4 nhưng như bà con nói vui khi dự tân gia: nhà ông “hoành tá tràng” bởi rộng tới một trăm hai chục mét vuông tha hồ ở. Từ trên nhà nhìn xuống vườn, mùa nào thức nấy, màu xanh làm dịu những xốn xang trong lòng ông mỗi khi có chuyện lo buồn….
12. Chuyển giao – 2002
Bà Hóa không biết những diễn biến trong nhà ông An, vả chăng bà cũng có cái lo riêng của mình, hơi đâu để ý chuyện thiên hạ chi cho cực! Bà Hóa đang định rút lui khỏi thương trường, già rồi không kham nỗi với chuyện phục vụ các “thượng đế” ngày càng đỏng đảnh! Còn người giúp việc là một nỗi khổ tâm, ai có kinh qua mới thấm thía nỗi niềm. Thuê được người đã khó mà giữ được người làm cho mình lâu dài càng khó cực kỳ, không kể chuyện tính tình người làm có ngay thẳng hay không nữa. Hàng là tiền, tiền là hàng mà, bà giao cho người làm bán buôn chỉ cần nó dấm dúi chút thôi là vốn liếng đội nón ra đi. Nhà bán hàng trăm món làm sao quản cho xuể? Bà già rồi, bà phải chấp nhận cái thực tế phũ phàng mà ai cũng phải trải qua. Bà nghĩ đi nghĩ lại, bà phải bàn giao cái quán này cho con thôi. Nhưng đứa nào? Thằng Thiên thì không được rồi, nó có cơ ngơi riêng chuyên buôn bán đủ thứ nay lại đang ngó nghiêng vô bất động sản. Con Huyên? Huyên cũng vậy, công việc bủa vây Huyên đến nỗi nó than với bạn mà bà nghe lóm được: cũng muốn bỏ hết đi nghỉ biển một lần cho đã nhưng không thể được…. Mấy đứa con trai của bà, em con Chi chúng đều là kỹ sư, bác sĩ ở Sài Gòn không thể kêu chúng về bán tạp hóa, chúng nghe được chắc cười…thúi mũi như cách bà hay nói. Chỉ còn Chi, nó là đứa chịu thương chịu khó, thằng chồng hiền lành đôi khi bà thấy chồng nó hơi…khờ nhưng nghèo nhất nhà, giao cửa hàng cho nói là phải!
Chi về theo lệnh triệu tập của mạ, cô lo lắng ra mặt không hiểu mạ cô kêu về có chuyện chi mà không nói qua điện thoại. Đến khi nghe ý định của mạ, Chi hỏi:
– Nhưng mạ đã hỏi ý anh Thiên và chị Huyên chưa?
Bà Hóa nhướng mày:
– Trong cái nhà này một tay tau sắp đặt, đến ba mi tau chỉ nói qua ý định chớ thằng Thiên và con Huyên tại sao tau phải hỏi?
Cái nhướng mày của bà Hóa như một lời khẳng định, nhà này, tài sản này… là của bà, bà muốn cho ai thì cho, làm gì thì làm đố ai cấm cản.
Chi tiếp quản cái quán tạp hóa của mẹ một cách tự nhiên và cũng chẳng thấy ai tò mò thóc mách hỏi han cô bởi từ nhỏ Chi đã giúp mẹ bán quán rồi nên đã quen việc quen người. Cô sắp xếp lại hàng hóa lớp lang thứ tự theo cách nhìn của mình. Hồi nhỏ Chi có hoa tay, giờ thủ công nào cô cũng được điểm mười nên việc trưng bày hàng khi cô tiếp quản tiệm tạp hóa của mẹ rất là bắt mắt. Bà Hóa vẫn đi ra đi vô tiệm tạp hóa nhưng bà chủ động lùi một bước để Chi quyết hết mọi chuyện. Nhiều khi bà “gai mắt” trước vài việc làm của con gái nhưng bà im lặng để mỗi mình Chi giải quyết hết chuyện bán buôn. Hôm ấy từ trong quán đi ra Chi vô tình đụng ông An dựng xe ghé vào gánh chè bà Bảy ngồi nhờ ở hiên nhà quán, cô chào:
– Chào chú, lâu quá không thấy chú ghé mua hàng!
Ông An nhìn Chi làm ra vẻ như chưa nhận ra Chi. Chi biết ông An chỉ làm bộ thôi, có lẽ ông vẫn còn giận mẹ cô chuyện đòi nợ. Cô xởi lởi:
– Chú cần hàng hóa gì con cũng có đủ, hình như chú cũng quê Quảng Trị như ba mạ con, dù sao mình cũng là đồng hương….
Chi chưa kịp nói dứt câu, ông An đã cắt ngang:
– Cô là cô Huyên phải không, ừ đúng rồi lâu lắm tui không mua hàng nhà cô!
Chi cười:
– Dạ con là Chi, Huyên là chị con.
– Rứa à, tui lú lẩn mất rồi… mà sao cô biết tui với cha mạ cô là đồng hương, ai nói cho cô biết?
Không đợi cho Chi trả lời, ông An nói tiếp:
– Đồng hương chỉ là chuyện cùng quê thôi cô ơi còn chuyện mua bán, nói thiệt với cô… là sòng phẳng!
Thấy Chi chực hỏi ông An tiếp lời:
– Lâu nay tui mua hàng cô Lý người ta giao hàng tận nơi, giá cả phải chăng tui đã mua quen… mà bề tui sợ bị đòi nợ lắm rồi!
Chi nghĩ không sai, ông An còn giận vụ bị bà Hóa đòi nợ. Làm như không biết chuyện, Chi nói:
– Người ta sao con vậy chú ơi, chú muốn mua bao nhiêu cứ nói, con cho chú gối đầu một lứa hàng!
Nghe vậy ông An hỏi móc:
– Bộ cô thay mẹ cô rồi sao?
Ý ông An muốn hỏi Chi thay bà Hóa rồi à, chuyện bán thiếu hồi giờ chỉ mình bà Hóa quyết định, mấy đứa con phụ bán hàng chuyện gì cũng đều phải hỏi bà Hóa. Nay thấy Chi chào mời mình mua hàng lại cho gối đầu ông An hơi ngạc nhiên. Chi không trả lời câu hỏi của ông An, cô chỉ cười cười rồi nói:
– Thì chú cứ mua hàng con đi…
Nghe vậy, ông An dịu giọng:
– Cám ơn cô… để tôi coi sao đã!
13. Thao thức – 2002
Ông An ra về, đêm hôm ấy ông nằm suy nghĩ rất lung về lời đề nghị của Chi. Ừ, mua đâu cũng là mua nhưng cô Lý bán nợ cho ông chỉ chừng mực, không phải ông muốn mua thế nào cô Lý bán thế đó. Ông An cay đắng nhớ lại vụ khoai tây vừa rồi, ông hý hửng ra nhà cô Lý mua chịu phân bón với hình ảnh trong đầu là một vạt khoai tây vừa nhú những chồi xanh mập mạp có thể dự đoán một mùa vàng bội thu. Ai dè cô Lý mặt lạnh như tiền chỉ chịu bán cho ông một nửa số phân bón ông cần. Hơn ai hết ông An biết phải bón bao nhiêu phân thì khoai mới đạt năng xuất còn nếu “tiết kiệm” với nó, nó sẽ tiết kiệm… củ với mình liền. Quả vậy vụ khoai đó ông An chỉ thu được củ to nhất chỉ bằng bằng quả trứng gà so nếu bán chẳng được bao nhiêu tiền. Nhưng trời thương khoai ông già tháng nên ông bán cho người bà con của thằng Phúc dưới Đơn Dương lên mua khoai làm giống, huề vốn là mừng. Khoai đất lạ mạ đất quen, ông An không lạ gì với kinh nghiệm làm vườn này….
Nhưng đó là những suy nghĩ vẩn vơ trước khi vào “chính đề”. Ông An để tâm trí mình rơi vào những vòng xoáy của ký ức. Hồi chiều khi không con bà Hóa lại nhắc chuyện ông đồng hương với cha mạ nó khiến ông nhớ lại lần đầu ông ra quán bà Hóa mua hàng gặp đồng hương mà lại cùng xã ông vui biết chừng nào. Nhưng khi gặp ông Vinh niềm vui giảm ngay một nửa…. Mới đó mà đã hơn hai chục năm rồi, thời gian thật là không tưởng tượng được lại nhanh như vậy. Giữa nhà ông và nhà bà Hóa có chút rắc rối, nói cho đúng, gia đình ông và gia đình ông Vinh chồng bà Hóa có ân oán với nhau, câu chuyện giữa hai gia đình bắt nguồn từ đời ông cố ông sơ! Ông muốn bỏ qua quá khứ nhưng không dưng con bà Hóa lại gợi ra….
Ông An trở mình, tự nhiên hình ảnh mấy chục năm về trước sống lại trong đầu ông. Dòng nước trong xanh soi thấu những viên sỏi tròn dưới dòng sông nơi ông vẫn ra tắm mỗi trưa hè. Chú bé An hồi nhỏ tên là Tộ biết bơi từ rất sớm. Tộ theo mẹ mỗi sáng mỗi trưa ra dòng sông hiền hòa đang êm ả chảy để đãi chắt chắt. Chắt chắt nằm sâu trong lòng cát được mạ con Tộ xúc vô rổ, bằng những cái lắc tay nhẹ nhàng của mạ, cát thoát ra khỏi rổ rơi lại xuống sông còn lại nhúm chắt chắt màu xám đen nằm im trong đôi bàn tay nghịch ngợm của Tộ. Tộ đảo qua đảo lại nhúm chắt chắt trước khi đổ vào cái rổ đặt trên bờ. Tộ ham chơi nhưng khi mạ gọi đi đãi chắt chắt Tộ đi ngay bởi Tộ biết rằng đôi khi lẫn trong cát là những viên sỏi nhiều màu có thể đổi lấy mấy cục kẹo cau của
Xứ sương giăng: Ông già bán xôi ở cây số 6 – Truyện ngắn của Võ Anh Cương
12 Tháng 12, 2022
315
CHƯƠNG 3
Trả nợ – 2002
Tiếng máy xe tắt ngấm và tiếng chân quen thuộc của Bằng vang lên cho Thắm biết chồng đã về. Không nghe tiếng Bằng dắt xe vô nhà như thường lệ, cô nghĩ chồng sắp đi đâu đó. Quả nhiên đúng như Thắm nghĩ, Bằng hỏi vọng xuống từ nhà ngang:
– Em ơi giờ anh đi ra bến, có gì ăn không anh đói quá!
Thắm hỏi vọng lên:
– Bộ anh đi liền hả, nghỉ một bữa đi anh?
Bằng xuất hiện ở bếp với một khuôn mặt đăm chiêu:
– Anh định ra bến đến 5 giờ chú Tuất dặn qua nhà có chút chuyện!
– Thôi anh nghỉ một buổi đi rồi chiều ghé qua nhà chú Tuất luôn?
– Kệ, ra bến biết đâu gặp mối kiếm tí “xèng” trả công máy cày!
Thắm không cản chồng nữa, cô nấu cho Bằng tô mì gói đập vô một quả trứng gà gọi là tẩm bổ cho chồng. Nhìn Bằng ăn ngon lành tô mì, Thắm chạnh lòng. Từ ngày xảy ra chuyện với con Thủy, Thắm chì chiết chồng không biết bao nhiêu lần. Nhiều khi nhìn vẻ nhẩn nhục của chồng Thắm cũng thấy thương hại nhưng khi nghĩ Bằng đầu ấp tay gối với con Thủy là Thắm nổi máu điên. Bằng một mực phủ nhận hết chuyện tòm tem nhưng Thắm viện dẫn lý do không có lửa làm sao có khói? Bằng càng im lặng Thắm càng làm tới cho đến khi ông Tuất qua nhà can thiệp thì Bằng mới được Thắm tạm tha!
Hôm nhận từ tay Thủy hai chục triệu Bằng mang ngay qua nhà ông Tuất trả nợ liền. Ông Tuất ngạc nhiên, khi cho Bằng mượn tiền ông nghĩ chắc phải vài ba năm Bằng mới trả được nợ nhưng khi cầm xấp tiền trong tay ông mới biết là không phải như vậy. Ông Tuất hỏi:
– Mày lấy tiền đâu mà trả nhanh như vậy?
Bằng kể chuyện Thủy bằng một giọng nhát gừng nhưng ông Tuất hiểu hết. Thật tâm lâu nay không nói ra nhưng ông Tuất nghĩ trong lòng biết đâu thằng Bằng cũng có lỗi trong chuyện này. Làm đàn ông không kiềm lòng được dễ sa ngã bởi cái liếc mắt đưa tình của đàn bà. Con Thủy có đôi mắt lá dăm dám quyến rũ thằng Bằng lắm chứ? Nhất là chồng nó thường xuyên vắng nhà, đàn bà ăn quen nhịn không quen mà! Hóa ra không phải như vậy, thằng Bằng không có máu trăng hoa chỉ vụng về thôi nên bị chồng con Thủy lợi dụng. Bằng tuy vụng về nhưng anh vẫn nói được câu cám ơn ông Tuất:
– Thiệt tình lúc đó không có chú con không biết làm sao!
Chỉ chừng ấy thôi nhưng trong mắt của Bằng là cả một tấm lòng. Ông Tuất gạt phắt:
– Thôi, chuyện đó cho qua luôn đừng nhắc lại làm gì. Cháu phải lo làm ăn nuôi con, sắp nhỏ đi học ngày càng tốn kém!
– Thiệt tình chú đối với con còn hơn cả cha!
Nhà văn Võ Anh Cương.
2. Hồ nghi – 2002
Trong đôi mắt của Bằng tình cảm đó rất thật không một chút đãi bôi. Bằng ước gì được nghe từ miệng ông Tuất công khai chuyện cha con với Bằng thì hay biết mấy? Nhiều lần Bằng nói xa nói gần nhưng ông Tuất nào có nhắc gì đến chuyện cha con? Hay chuyện ông Tuất là cha ruột của Bằng chỉ là chuyện tầm phào của thế gian? Ai thì Bằng không biết chứ không lẽ bà Hóa nói sai, bà Hóa là một người có uy tín ở cái ngã ba này mà? Lâu nay Bằng vẫn ưu tư về chuyện cha mình có phải là ông Tuất không nhưng không nói ra miệng. Nói làm sao được khi mà xới chuyện này lên cũng chẳng hay hớm gì.
Ông Tuất không phải là không biết tâm lý Bằng. Ông biết làng trên xóm dưới đều đem chuyện ông là cha ruột của Bằng ra nói trong những lúc trà dư tửu hậu từ hồi thằng Bằng còn trong bụng mẹ. Ông mặc kệ thiên hạ muốn nói gì thì nói, nghĩ gì thì nghĩ ông không chút quan tâm. Ông chỉ cười cười khi có ai đó hỏi đến chuyện này. Ở ngã ba ông Tuất và ông Hương hồi thanh niên là bạn thân, họ hay đi chơi chung với nhau, lúc thì đi coi cải lương, lúc thì đi cinéma nên vịn vào tình thân đó ông Hương không rào trước đón sau gì khi nghe người ta đồn ông Tuất là tác giả cái bầu mà cô Loan đang mang, ông Hương hỏi thẳng:
– Mày làm cho con Loan có chửa phải không?
Ông Tuất lúc đó là một chàng thanh niên, anh trả lời bạn:
– Thì chờ cô Loan sinh xong coi đứa nhỏ giống ai là biết liền!
– Nhưng người ta nói mày chơi rồi quất ngựa truy phong, cái này là không được, tội chết!
Ông Tuất đẩy đưa rồi lái qua chuyện khác, không nhận cũng không phản đối dù chỉ chút ít chiếu lệ! Thái độ đó càng làm cho thiên hạ bán tín bán nghi, họ thêu dệt đủ thứ chuyện chung quanh cái bầu của cô Loan và xem đó là một câu chuyện mua vui. Đến khi cô Loan sinh nở xong xuôi, cô tiếp tục đi làm ở trại gà, ai hỏi gì cô cũng lắc không chịu trả lời, thiên hạ thấy vậy cũng chán rồi chuyện đó trôi vào quên lãng.
Thiên hạ tạm quên chớ Bằng thì không. Từ nhỏ Bằng đã hỏi mẹ chuyện cha mình đâu khi nhìn quanh thấy đứa nhỏ nào cũng có cha trừ Bằng. Mẹ trả lời cha Bằng bỏ mẹ con Bằng đi theo vợ nhỏ nhưng Bằng hỏi tới thì thấy mẹ ngắc ngứ. Vậy là Bằng nghi ngờ mẹ giấu Bằng sự thật về người cha bí ẩn. Khi đủ lớn Bằng lại hỏi chuyện này nhưng mẹ không trả lời chỉ lặng lẽ khóc. Nhìn giọt nước mắt của mẹ, Bằng mềm lòng tạm quên đi chuyện đắng cay này cho đến khi mẹ Bằng đột ngột qua đời. Người mà Bằng có thể hỏi chỉ còn ông Tuất. Mấy năm nay ôm mối hoài nghi trong lòng nhiều lần Bằng định hỏi thẳng ông Tuất nhưng thấy khó nói quá. Nay thấy cơ hội, Bằng nhìn vào mắt ông Tuất hỏi:
– Chú à… người ta đồn chú là cha ruột cháu, chú nói đi người ta nói có đúng không?
Ông Tuất dường như không lấy làm ngạc nhiên khi nghe Bằng hỏi thẳng ruột ngựa như vậy. Ông cười cười:
– Mày thấy sao, tao làm cha mày có được không?
– Được quá chú ơi, chú đối với con còn tốt hơn cả cha ruột nữa!
– Thì mày cứ kêu tao bằng cha đi?
Mắt Bằng sáng lên:
– Thiệt không chú?
Ông Tuất không trả lời câu hỏi của Bằng, ông nói:
– Chiều thứ bảy rảnh qua nhà tao, chú cháu làm mấy ly, tao có con mực một nắng ngon lắm!
3. Khách xe ôm – 2003
Thứ bảy là cuối tuần, Bằng nén lòng chờ. Mới hai giờ trưa, Bằng nghĩ hay nhất là chạy được một hai cuốc xe rồi qua nhà ông Tuất là vừa…
Ăn xong tô mì, Bằng nói với vợ:
– Chiều anh không ăn cơm nhà, chú Tuất mời nhậu!
Thắm dặn:
– Uống vừa thôi nghe anh, sáng mai anh còn dậy sớm!
Đúng, sáng mai Bằng dậy sớm chở cô Xinh đi chợ còn bây giờ mới hai giờ chiều, ở ngã ba mọi hoạt động vẫn diễn ra bình thường, không thấy người nào có ý định đi xe ôm cả. Bằng thiu thiu ngủ ngồi trên xe lưng dựa vào cây hoa chuông, mùa này cây hoa không có những chùm hoa màu cam rực trong nắng như tháng trước, đó là ý nghĩ của Bằng trước khi chìm vào giấc ngủ. Ai đó đập vào vai Bằng khiến anh tỉnh ngủ hẳn:
– Nè đi không?
Bằng trả lời như một phản xạ có điều kiện:
– Đi chớ, xe ôm mà!
Xe ôm mà khách hỏi không đi mới lạ, trừ những dạng xe ôm “đặc biệt”. Bằng biết có loại xe ôm chỉ chở các cô làm gái “đi làm” ở các quán karaoke và những nơi tương tự. Bọn đó là ma cô thôi, Bằng không có liên quan gì đến hạng người này. Khách là một người trạc tuổi Bằng:
– Anh chở tôi đến đường Hoàng Văn Thụ lấy bao nhiêu?
Bằng nói giá, khách đồng ý cầm cái mũ bảo hiểm Bằng đưa đội lên đầu. Chiếc Future nhẹ nhàng lăn bánh bỏ lại sau lưng ngã ba uể oải vắng người. Đi được một đoạn đường khách gợi chuyện:
– Anh ở ngã ba này lâu chưa?
Bằng không ngạc nhiên khi nghe khách đi xe hỏi câu đó. Nhiều người khi đi xe ôm thì im lặng, ngược lại có người hỏi lung tung mà bao giờ câu đầu cũng giống vị khách này. Bằng trả lời:
– Tui sinh ra ở đó mà?
Vốn kiệm lời Bằng không hỏi lại vậy chứ anh có chuyện gì à như những người khác, Bằng chỉ im lặng chờ người ta hỏi thì…trả lời. Đúng như vậy, người khách đang đợi anh xe ôm có bộ râu quai nón xanh um rất chi là nam tính hỏi ngược lại nhưng chờ một hồi không thấy gì, khách nói:
– Trên ngã ba anh có biết ông Chín Binh không?
– Biết!
Một tiếng “biết” thôi, cái tính Bằng nó vậy. Trong làng ai mà không biết ông Chín chứ? Bằng nghĩ trong đầu nhưng không nói ra. Người khách dường như đã hiểu tính cách của Bằng, anh nói:
– Tôi lên ngã ba tìm ông Chín để hỏi mấy chuyện về ngã ba của anh mà không gặp!
Bằng hỏi trong đầu “vậy sao?” và lắng nghe câu trả lời của người khách. Người khách tiếp:
– Anh biết nhiều chuyện về ông Chín không?
– Biết!
– Vậy tôi mời anh vô quán cà phê nói chuyện chút được không?
Bằng không đáp, anh lặng lẽ chạy thẳng tới một quán cóc ven đường:
– Quán này pha cà phê ngon! Bằng nói.
4. Nhà báo nhà văn – 2003
Khi hai ly cà phê đá được chủ quán bưng lên, khách nói:
– Tôi tên Văn, còn anh tên gì?
– Bằng!
Bằng quay qua nhìn Văn. Điều khiến Bằng để ý nhất là cặp mắt Văn sáng quá. Bằng đã chở không biết bao nhiêu khách rồi nhưng chưa bao giờ thấy một người có cặp mắt sáng như vậy, nó giống hai vì sao, Bằng nghĩ.
Văn cười:
– Sao anh nhìn tôi kỹ vậy?
– Không có gì…
Văn bắt chuyện:
– Tôi viết báo. Hôm nay lên ngã ba tìm ông Chín để hỏi mấy chuyện hồi trước về viết bài mà không gặp, tiếc quá!
Nhà báo? Bằng nghĩ trong đầu. Nhà báo phải đi khắp mọi nơi để lấy tin mà tay này lại đi xe ôm… chà chà có điều gì không ổn đây. Nhưng thây kệ, ai kêu mình chở rồi lấy tiền chứ hơi đâu mà để ý những chuyện ngoài lề?
Thấy Bằng nhìn mình hơi lạ, Văn hỏi:
– Sao ông nhìn tôi lạ thế, ngoài viết báo tôi còn viết văn nữa…mà nhà văn nhà báo gì đều phải thâm nhập thực tế mới có tư liệu để mà viết!
Bằng nhướng mắt lên như muốn hỏi nhưng rồi im lặng bưng ly cà phê lên uống. Văn cũng không nói nữa, anh nhà báo lấy máy ra xem lại mấy tấm ảnh, dường như anh quên mất Bằng đang lặng lẽ nhìn ra đường. Một lúc sau như không chờ được nữa Bằng lên tiếng:
– Anh hỏi gì thì hỏi đi chớ?
Văn quay qua nhìn Bằng. Hóa ra tay xe ôm này cũng không đến nỗi lãnh đạm quá lắm, hắn vẫn còn tính tò mò. Văn hỏi:
– Ông Chín đến ở ngã ba hồi nào anh biết không?
Bằng đáp:
– Chắc hồi đó tôi chưa ra đời….
Bằng dừng lại, anh ngẫm nghĩ một chút rồi nói tiếp:
-Mà thôi tôi không biết cách kể chuyện đâu, để tôi giới thiệu với anh chú Tuất, chú đó biết nhiều chuyện ở ngã ba cây số sáu này còn hơn cả ông Chín, muốn hỏi gì anh hỏi ổng!
Đúng lúc đó Bằng có điện thoại:
– A lô con nghe chú…
-Dạ, bốn giờ hả chú, con đang chở khách về nhà… mà chú ơi có anh nhà văn muốn gặp chú để hỏi chuyện ngã ba mình, con dẫn đến nhà chú nghe?
Bằng đâu biết bên kia đầu giây ông Tuất đang thắc mắc trong lòng. Chiều nay ông hẹn Bằng qua nhà lai rai chút đỉnh rồi ông kể chuyện xưa cho Bằng nghe vậy mà nó nói cái gì lạ quá, ông nghe không rõ. Nó nói cái gì mà về nhà, rồi nhà ván nhà xây lung tung quá. Ông Tuất hỏi:
– Mày nói cái gì vậy Bằng, nhà ván nhà xây cái gì…thôi mày cứ về đây rồi nói chuyện.
Ông Tuất cúp máy, chắc chiếc điện thoại cùi bắp bắt sóng chập chờn quá nên ông không nghe rõ thằng Bằng nói gì. Thằng Bằng cứ càm ràm ông hoài về vụ điện thoại, nó hối ông dồn tiền mua một cái đường được một chút với người ta chứ khách gọi đến đặt hàng mà điện thoại cứ rột rẹt thì làm ăn cái nỗi gì? Ông chỉ cười trừ bởi cũng chẳng quan tâm đến điện thoại mới hay cũ, ngày nào cái điện thoại còn hoạt động thì ngày ấy ông còn xài chưa cho nó “nghỉ hưu”.
Bằng quay qua Văn nói:
– Chú Tuất nói bây giờ tôi chở anh về nhà gặp chú rồi nói chuyện. Anh đi được không?
Mắt Văn sáng lên, anh cười tươi:
– Được chứ… mà anh yên tâm tiền xe ôm tôi trả đủ!
5. Cuộc rượu 4 người – 2003
Văn đang tìm cơ hội thâm nhập thực tế để lấy tư liệu viết bài, may quá gặp tay xe ôm này giới thiệu ông Tuất nào đó không biết ra sao nhưng cứ gặp cái đã, biết đâu mình hên gặp được người biết nhiều chuyện lạ.
Ông Tuất nheo mắt đón Bằng. Ông ngạc nhiên nhìn người đi theo Bằng vào nhà. Quái lạ sao hồi nãy nó không nói gì về việc này? Ông Tuất niềm nở chào trước:
– Chào cậu… mời cậu vào nhà!
Văn nhìn ông Tuất:
– Chú là chú Tuất phải không, cháu tên Văn. Cháu nghe anh Bằng nói chú là người biết nhiều chuyện ở ngã ba lắm!
Bằng không nói gì bởi tính Bằng ít nói hồi giờ. Bằng để một mình ông Tuất tiếp khách còn Bằng vào bếp coi thử ông Tuất chuẩn bị được thứ gì cho bữa nhậu chiều nay. Bằng thấy trên bàn ăn một nồi lẩu bò còn đang bốc khói đặt trên bếp lò, rau đã sắp ra dĩa, hai bộ chén đủa đã sắp sẳn trên bàn. Bằng lấy chiếc đĩa cạn lòng sắp gói thịt heo quay và mấy chiếc bánh mì ra bàn và dọn thêm chén đủa. Trên nhà không biết có chuyện gì mà ông Tuất và Văn cười rất to ra vẻ vui lắm!
Bằng đi lên phòng khách, thấy cặp mắt Bằng như dò hỏi, ông Tuất cười khà khà:
– Hồi nãy mày nói chở khách về nhà rồi nói chở anh nhà văn này mà tao nghe không ra tưởng mày nói nhà ván nhà xây gì đó. Nãy giờ nói chuyện mới hay cậu Văn đây là nhà báo mà lại viết cả văn nữa! Bằng nè, mày chạy ra ngã ba mua thêm cái gì về làm mồi, mấy khi nhà tao tiếp một người viết lách, để thiếu mồi là coi không được!
Bằng mời:
– Mời anh Văn và chú vô bàn… con mua đủ mồi rồi chú!
Cuộc rượu bắt đầu. Ba cái cốc nhỏ ông Tuất rót thứ rượu trong như mắt mèo, lấm tấm trong chai là mấy cái bọt nhỏ li ti đang bay từ dưới đáy lên. Ông Tuất mời:
– Mời cậu nhà báo, ly đầu mình làm cái trót nghe, người ta nói trà tam rượu tứ, mình có ba người thì từ ly thứ hai uống hai hớp cũng được!
Ông Tuất vừa dứt lời thì nghe tiếng xe hơi tắt máy trong sân nhà. Một lát sau, Kim đẩy cửa xuống bếp:
– Chào chú, a lại gặp cả Bằng nữa, quay qua Văn, Kim chào tiếp:
– Chào anh…
Kim nhìn ông Tuất nói tiếp:
– Hôm nay chở sếp vô trại cá người ta biếu mấy con cá tầm, con gởi chú một con ăn lấy thảo!
Con cá tầm còn đang ngáp ngáp khi Kim lôi từ trong cái túi xách ra, ông Tuất trách:
– Mày chỉ bày vẻ, đem về cho vợ con ăn!
– Dạ, chú yên tâm con còn một con để ngoài xe mà.
Kim cười cười. Kim quen ông Tuất qua anh Luông, nhậu với ông mấy lần Kim thấy mến người đàn ông đứng tuổi này. Ở ông Tuất toát ra một vẻ rất gần gũi, trước kia khi chưa quen ông Tuất, Kim nghe ông Thường kể chuyện ông Tuất hay giúp bà con lối xóm, khi đã qua lại với ông Tuất, Kim thấy lời thiên hạ quả không sai. Bây giờ không còn làm vườn ở ngã ba này nhưng Kim vẫn giữ mối quan hệ với những người ở ngã ba như Bằng hay ông Tuất.
Ông Tuất đứng dậy lấy thêm chén đũa:
– Ngồi xuống đây nhậu rồi tao giới thiệu mày một người, bảo đảm mày chưa gặp bao giờ!
Thấy Kim ngạc nhiên nhìn mình, ông Tuất cười lớn:
– Mày gặp nhà văn bao giờ chưa?
Kim quay qua Văn:
– Anh là nhà văn à? Tôi tên Kim hiện là tài xế!
Văn có vẻ không được tự nhiên:
– Tôi cũng có viết lách đôi chút. Tôi tên Văn, nghề chính là viết báo. Mà chú ơi giờ mình có đủ bốn người rồi nè chú!
6. Sài Gòn – 1978
Cuộc rượu đang vui. Quả nhiên người xưa nói không sai, trà uống cần ba người còn uống rượu thì phải bốn. Ông Tuất quá biết chuyện này, ngày trước người ta không uống rượu như bây giờ, người trẻ nhìn chai ba xi đế bằng một cái nhìn không mấy thiện cảm. Rượu đế dành cho mấy ông già, những người nhìn cuộc đời bằng một cặp mắt bàng quan, dường như thế sự đang trôi qua không liên quan gì đến họ.
… Hồi đó Tuất không uống rượu, thứ mà anh ghiền ngoài thuốc lá là cà phê. Một ngày Tuất có thể uống tới ba bốn ly cà phê mà đêm về vẫn ngủ ngon lành. Một lần Tuất về Sài Gòn chơi, thăm người cậu ruột đang ở một xóm lao động. Hôm đó như thường lệ, anh ra đầu hẻm vào quán gọi một ly cà phê đá thì thấy một cảnh va quẹt xe. Ở một thành phố lớn như Sài Gòn, cảnh va quẹt xảy ra như cơm bữa nên anh không mấy quan tâm, Tuất đang bận ngắm cô chủ quán. Cô chủ với mái tóc đen tuyền cộng với nước da trắng và cái lúm đồng tiền khiến bao chàng trai hàng ngày ngồi quán chỉ để kiếm một nụ cười trên môi người đẹp. Mới nhận ly cà phê chưa kịp uống ngụm nào bỗng tiếng cãi vã nổi lên khiến anh phải quay đầu lại xem có chuyện gì. Người thanh niên lái chiếc 67 đang đôi co với người phụ nữ đi xe đạp vừa máng vào xe anh:
– Tui không biết chị phải hốt hết chỗ đậu này vào bao cho tui, lỗi chị không chịu quan sát mà!
Người đàn bà cũng không vừa, chị bắt thường anh xe 67 vì quần của chị bị rách. Cuộc cãi vã đang hồi gây cấn bởi không ai chịu nhường ai thì một người đàn ông xuất hiện. Người đàn ông nói với anh chạy xe 67:
– Thôi Hải, mày hốt lẹ chỗ đậu rồi chở liền vô trỏng cho tao, tụi nó đang chờ để rang mẻ nữa đó!
Quay sang người phụ nữ, ông nói:
– Còn cô nữa, chạy xe phải cẩn thận ngó trước ngó sau, may mà chỉ rách cái quần chớ người ngợm không việc gì là tốt rồi. Thôi cô cũng đi đi!
Người đàn bà ấm ức:
– Chỗ trầy xước con không nói…nhưng cái quần con mới may chú ơi!
– Thì đây, cô cầm lấy – người đàn ông lấy từ trong bóp ra mấy tờ giấy bạc rồi tiếp:
– Cô qua chỗ kia kìa…đó đó… gần bà bán cam, chỗ đó người ta sang sợi, cô đem đến nửa giờ sau cái quần của cô như mới thôi!
Đám đông giải tán, ai cũng nghĩ trong bụng người đàn ông khéo cư xử nên tránh được một trận cãi vã không đâu. Một ông đứng tuổi ngồi cạnh bàn Tuất nói với người ngồi cùng bàn:
– Ông đó là chủ xưởng cà phê Sương Mai trong hẻm!
Người bạn hỏi:
– Cà phê sao? Hồi nãy tôi thấy cậu thanh niên chở đậu nành mà?
Ông lớn tuổi cười lớn:
– Bộ chú không biết à, làm gì có cà phê thiệt mà uống? Tui có chú em trên Bảo Lộc nói cho biết, cà phê chỉ riêng nhà nước được phép thu mua để xuất khẩu thôi, tư thương miễn đi! Vì vậy ông Hai mới thay cà phê bằng bắp và đậu nành rồi ướp với hương liệu cà phê, ăn nhau là chỗ hương liệu đó!
Nghe đến đó ngụm cà phê trong miệng Tuất bỗng nhiên đắng nghét, Tuất thấy như mình bị xúc phạm, anh nuốt vội ngụm nước xuống bụng như nuốt một cục tức to đùng….
7. Coi mắt vợ – 1916
Văn cắt ngang dòng tư tưởng của ông Tuất:
– Chú nghĩ gì mà cháu thấy chú đăm chiêu vậy? Chú coi Bằng và Kim đã bắt cặp “tâm sự” rồi kìa, mình cũng “dô” cái chú!
Văn đưa cốc rượu ra mời, đó là một cái cốc có màu nâu thường thấy ở những quán cà phê bình dân để dân ghiền cà phê uống nước trà. Thật ra trong mấy cái quán đó làm gì có trà, người ta dùng xác cà phê pha loãng ra thành một thứ nước gọi là trà bởi nước đó cũng có màu vàng như màu trà vậy! Ông Tuất cũng bưng cốc rượu của mình lên cụng một cái cốp vào cốc của Văn, ông cười khà khà nói:
– Tôi thích những người nói được làm được, nào trăm phần trăm nghen?
Văn “dạ” một tiếng, anh đưa cốc rượu vào miệng rồi dốc ngược thứ nước trong veo nhưng bên trong ẩn chứa một thứ lửa khiến máu chạy nhanh, mặt nóng rang và tâm hồn điên đảo vào miệng của mình. Ông Tuất cũng vậy, không bạo liệt như Văn ông uống một cách nhẹ nhàng như vừa gặp tri kỷ, đó là cách uống từ tốn nhấm nháp chừng chút một nhưng dòng rượu liên tục chảy vào bao tử ông đem đến cho ông cảm giác thân thích đến nao lòng. Cạn xong cốc rượu, ông Tuất đặt cốc không xuống bàn:
– Nào, cậu muốn biết điều gì về cái ngã ba cây số sáu của tôi?
Văn cười cười:
– Điều gì cháu cũng muốn biết hết trơn chú ơi?
– Khó hè, tôi biết nhiều thứ chuyện lắm không biết cậu hạp với loại chuyện nào để mà kể cho cậu nghe đây ta?
Ngẫm nghĩ một chút, ông Tuất nói tiếp:
– Thôi thì như vầy, tôi cứ bạ đâu kể tới đó nghe!
… Ấp này nguyên lai người Điện Bàn vô lập nghiệp nhiều nhất. Ông Bốn Chuột là một trong những người khai đất lập vườn ở đây sớm nhất. Tôi chọn chuyện ông Bốn Chuột để kể cho cậu nghe đầu tiên không phải vì ông Bốn là người đi tiên phong cho cuộc làm vườn ở xứ này mà vì ông Bốn có tới …3 bà vợ. Sao, cậu ngạc nhiên à? Hồi tôi còn trẻ tôi cũng ngạc nhiên như cậu nhưng đến bây giờ ngẫm lại thấy thường!
Ông Bốn Chuột dĩ nhiên là người con thứ ba trong nhà, ông sinh năm Tý nên có tên gọi là Chuột để… dễ nuôi như quan niệm của người miền Trung. Nhà ông Bốn có tới 5 mẫu ruộng nên ông biết làm nông từ hồi còn nhỏ, cha ông là một người nông dân thứ thiệt, cả cuộc đời ông chăm bẳm lấy mảnh ruộng để nuôi con. Khi Chuột được 5 tuổi, một hôm ông Hai Quý dẫn Chuột đi coi mắt vợ. Bộ quần áo màu cánh gián, đôi guốc mộc Chuột đang đi, Chuột không thích bằng chiếc quần đùi lên mốc trắng mà nó mặc hàng ngày nhưng vì sợ cha nên thằng nhỏ đành phải mặc theo ý cha, vừa đi nó vừa hỏi:
– Mình đi đâu vậy cha?
– Thì đi coi mắt vợ cho mày chớ đi đâu?
Chuột không biết đi coi mắt vợ là đi đâu, Chuột không để ý đến câu trả lời của cha, cậu mải đuổi theo mấy con bướm bà sặc sỡ bay lên bay xuống bụi thù đâu ven đường. Ông Hai Quý thì vừa đi vừa nghĩ. Cũng may ông gặp ông thầy tướng số vân du qua làng mới biết chuyện phải lấy vợ sớm cho thằng Chuột. Ông thầy tướng phán:
– Thằng này mà không lấy vợ sớm nó sẽ bỏ ông bà mà đi!
Ông Hai ngạc nhiên:
– Thằng con tui còn nhỏ quá sao đi đâu được hả thầy?
– Là tôi nói nó sẽ theo về với ông bà ông vãi đó!
Ông Hai sửng người, hai thằng con đầu lòng ở với ông bà chưa được 3 năm đã chết non, còn thằng Bốn này mà cũng vậy thì đau lòng lắm! Ông thầy chào ông Hai rồi tiếp tục cuộc vân du sau khi bỏ vào tay nãi một gói xôi được gói bằng miếng lá chuối bẻ sau vườn bên trên có khúc thịt ba chỉ luộc tươm mở và một dúm muối. Ông Hai sai bà Hai qua nhà thím Sáu mời qua nhà có chút chuyện. Thím Sáu chuyên nghề mai mối, mà làm rất mát tay. Trong cả tổng này không phải mình thím làm cái nghề này nhưng những cặp được thím làm mai đều sinh con đẻ cái liền liền. Ông Hai thầm cám ơn ông thầy tướng. Lâu nay ông chỉ chí thú làm ăn, cộ bò, gánh phân rải ruộng, gặt lúa, tát nước gì cũng phải qua tay vợ chồng ông, nay lão thầy nói phải lấy vợ cho thằng Chuột như một tia sáng lóe ra trong đầu óc tăm tối của ông. Khi bà Sáu đánh tiếng con nhà Tư Sỏi đã 16 tuổi chưa có đám nào định dạm hỏi, ông Hai ưng liền. Ông Tư bị bệnh phổi nằm một chỗ, nhà đang cần tiền để đưa ông lên tỉnh khám ông đốc tờ người Pháp nên ra cái thách cưới cũng hơi cao, ông Hai suy tính một hồi rồi gật đầu với thím Sáu. Bên đàng gái còn đòi hỏi dù sao cũng phải đủ 6 lễ như tục ông bà xưa để lại. Điều gì ông Hai cũng đồng ý hết bởi ông nghĩ đến cái lợi thêm người mà nhà ông được hưởng. Hôm nay ông dẫn Chuột đi coi mắt vợ, sau khi trả lời con, ông sợ Chuột làm mình làm mẫy ông Hai giải thích thêm:
– Đi coi mắt vợ giống như đem về cho mày… chị gái vậy mà, tối tối nó rửa chân, rửa khu cho mày, nó úm mày ngủ không thích sao?
Thằng Chuột thích ngủ với mẹ, lớn rồi mà nó còn măng vú mẹ mới ngủ được, Chuột hỏi:
– Chị gái có vú như mẹ không hả cha?
Ông Hai cười:
– Sao lại không, vú chị gái còn… ngon hơn vú mẹ mày nữa đó!
Thím Sáu đế thêm:
– Cha con nói đúng đó, hễ con thấy là… mê liền!
Vậy là Chuột chịu. Quả nhiên sau đám cưới tốn kém, Chuột ngủ với chị gái không thấy kêu ca gì, còn chị gái sáng hôm đầu tiên về nhà chồng mặt cứ cúi gằm xuống không dám dòm ai! Bảy năm sau chị gái nói với Chuột sau nhà:
– Cậu ở lại mạnh giỏi chị gái đi đây!
Chị gái đi thiệt, không ai nói với Chuột chị gái đi đâu nhưng cha thì cứ gắt om lên khi ai đó nhắc đến chị gái, những lúc đó cả nhà cứ len lét như rắn mùng năm!
8. Bỏ quê – 1923
… Văn ngắt lời ông Tuất:
– Sao chú biết rõ như chuyện trong nhà vậy?
– Sao không, ông Bốn Chuột là ông nội tôi mà!
Đoạn văn trên Văn về nhà viết lại sau khi nghe lại băng ghi âm lời kể của ông Tuất. Kể cũng lạ, Văn nghĩ, vú của người phụ nữ đôi khi lại là tài sản vô giá của người đàn ông. Lúc nhỏ ông Bốn Chuột mê vú đàn bà, một điều chắc chắn vú của đứa con gái mười sáu tuổi phải đẹp hơn nhiều vú một bà nạ dòng đã có mấy đứa con, ông Bốn Chuột lúc đó đã có cặp mắt hơn người! Văn mỉm cười một mình, nhiệm vụ của anh là phải đặc tả lại một ông Bốn Chuột nhiều sắc thái nhưng có lẽ nỗi ám ảnh trong suốt cuộc đời ông là bộ ngực của người phụ nữ? Bỗng nhiên Văn chợt nhớ tới câu ngạn ngữ “lưng chữ cụ, vú chữ tâm”. Chữ tâm thư pháp dường như đang là thời thượng nhiều nhà treo để ra vẻ ta đây là người “có học”, chữ ấy vễnh lên như bộ ngực của người thiếu nữ đương xuân mời gọi, Văn không lạ, còn chữ cụ Văn chưa biết mặt mũi chữ ấy ra sao? Không tìm được đáp án trên mạng, Văn gạt ngang rồi tập trung viết tiếp chuyện nhà ông Bốn.
Năm mười hai tuổi, Bốn Chuột cũng bỏ quê đi, cậu đi sau chị gái chừng hai tháng. Lần này Chuột ra đi vì bị cha đánh cái tội ham chơi để bò ăn lúa ruộng người ta. Ông Hai quất đúng 5 roi vào mông Chuột bằng cái roi mây lên nước đen bóng ông vẫn giắt trên vách nhà trên. 5 “con lươn” hằn lên lớp da đen tươm máu!. Bà Hai lén nhìn con qua khe cửa nhưng không dám can chồng bởi ông Hai nổi tiếng là gia trưởng, léng phéng bà cũng bị ăn đòn như thằng Bốn! Khi ông Hai bỏ đi bà mới vội vô bếp đem muối xát lên vết thương cho con, vừa làm bà vừa chửi lén chồng:
– Tổ cha…cái thằng, đánh con rứa mà không xót!
Nước mắt bà ràn rụa nhỏ xuống vết thương trên mông Chuột khiến cậu ngước lên nhìn mẹ, hình như nước mắt cậu chảy nhiều hơn khi nhìn vào mắt bà Hai. Đó cũng là lần cuối cùng Chuột thấy mẹ khóc! Chuột giận cha, cậu bỏ đi lang thang dọc bờ sông, mùa này dòng sông nước trong xanh lặng lờ trôi trong trưa nắng chang chang. Chuột vẫn đi miết không có ý định dừng, không ngờ lần này Chuột ra đi là xa mãi làng quê thân yêu không bao giờ trở lại. Lúc đó trong lòng cậu chỉ muốn bỏ đi thật xa để không bị cha đánh vì những lỗi lầm mà cậu vấp phải. Trưa đói lòng, Chuột lân la vào một cái quán bên đường, dường như là số phận đưa cậu đến đây để nhập với một đoàn đi phu vào Nam Kỳ. Ông trưởng đoàn đang cần một thằng nhỏ để sai vặt, vậy là Chuột được chọn một cách đương nhiên!
Nhưng số phận lại không để cậu ở luôn với đám thanh niên trai tráng trong vùng, năm mười tám tuổi tình cờ Chuột gặp được người đồng hương và theo về làm coolie (phu) đường sắt ở Tháp Chàm với người này. Nhớ đến đoạn này ông Bốn thường nói với bọn trẻ:
– Tao mà không gặp được ông Năm chắc đã bỏ mạng ở mấy cái đồn điền cao su của người Pháp ở Nam Kỳ rồi!
9. Xứ sương giăng – 1929
Không bỏ mạng nên ông còn sống tới giờ, ông làm phu đường sắt rồi gặp bà Chơn, người vợ thứ hai của ông. Bà Chơn lớn hơn anh Bốn mười tuổi nhưng có hề gì, anh gặp bà được bà lo cho anh từng bữa cơm, từng giấc ngủ. Hai người về sống chung với nhau một cách tự nhiên không cần đến tờ giấy hôn thú hay cưới hỏi gì cả! Ông Năm thay hết những thứ đó, ông Năm cười hà hà nói như vậy và anh Bốn cũng tin như vậy. Những tưởng yên ổn với gia đình mới nhưng được hơn năm anh Bốn Chuột bị…đòi vợ. Số là chị Chơn đã có chồng ở quê nhưng vì bị chồng đánh quá chị chịu không đặng trốn nhà đi. Khi đến nấu ăn cho đám phu làm đường sắt, chị giấu chuyện này, nhìn tấm căn cước màu nâu hai mảnh của chị, thầy cai không hỏi thêm và cho chị vô làm ngay. Nay anh chồng dò ra chỗ làm của vợ, anh đến đòi! Ông Năm hỏi (dù sao ông cũng rành hơn anh chàng mới lớn mặt còn lông tơ):
-Anh nói rứa mà có giấy hôn thú không?
Nhìn tờ giấy ngả màu cháo lòng in chữ đen bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt, ông thở dài đánh thượt:
– Pháp bất vị thân, mày trả vợ cho nó đi tìm đứa khác mà cưới!
Nói xong ông quay đít đi liền. Chị Chơn nhìn hai người đàn ông, đôi mắt chị sợ hãi nhìn ông chồng đen đúa. Đôi mắt đó lại ánh lên một nỗi đam mê khi chị quay qua Bốn. Bốn không biết nói gì cũng lẳng lặng theo chân ông Năm trong lòng anh như có cái gì đó vỡ vụn mà anh không sao hiểu được! Đúng lúc đường sắt Tháp Chàm – Đà Lạt làm xong, Bốn xin được ở lại xứ cao nguyên này. Không biết thầy ký nói gì với cấp trên, Bốn được cấp licence (giấy phép) liền. Hôm đem đồng bạc Đông Dương có vẽ hình bộ lư hương mà người ta hay gọi là đồng độc lư, có giá trị 5 piastre (đồng) qua nhà thầy ký để tạ ơn, thầy ký nói:
– Thôi, chú đem tiền về, tôi giúp chú vô vụ lợi cũng bởi chú có nhân thân tốt, quan lớn công sứ Chasaing cấp licence không làm khó dễ gì! Mà nè, tôi nói cho chú biết, tôi đã đổi tên cho chú, từ nay chú không còn tên Chuột nữa đâu, tên mới của chú là Trương Vĩnh Thuận!
Anh Thuận xin vào làm bồi khách sạn Palace – ngôi khách sạn lớn như một cung điện ngự trên một ngọn đồi soi bóng bên hồ nước trong xanh, thơ mộng. Ông Năm cũng xin vào làm ở đây nhưng với tài nấu ăn mà ông học lóm khi lưu lạc bên Tàu, ông được vào làm bếp. Bồi hay bếp gì cũng đều là những người có vị trí thấp nhất trong khách sạn, nhà hàng sang trọng này, họ là những người hầu hạ các vị quan người Pháp, các ông thông ông ký người Việt và những người giầu có khác!
Viết đến đây Văn lại bí, anh đi xuống nhà dưới uống một ly trà, tiếng vợ Văn từ trên lầu vọng xuống:
– Anh ơi khuya rồi lên ngủ đi!
Vợ nào mà chẳng chăm sóc cho chồng từ miếng ăn đến giấc ngủ, Văn cảm động nói “anh lên liền, em ngủ trước đi vợ yêu” nhưng chân anh lại đi đến bàn để cái laptop màu đen, những chữ đang dụ hoặc Văn khiến anh không còn thấy buồn ngủ và quên hết mọi thứ chung quanh.
– Vậy là 3 bà vợ của ông nội tôi đều tụ về ở với nhau mới độc chứ!
Lời bình của ông Tuất hôm đó như thúc giục Văn viết tiếp. Làm bồi ở khách sạn Palace được mấy năm, anh Thuận quen dần với cuộc sống của một thị dân. Hôm đó đi làm về anh bị trúng gió nằm ở một bụi cỏ ven đường. May làm sao một người đàn bà đi bán rau về qua đường thấy anh nằm xụi lơ bèn bỏ cả dóng gánh đỡ anh vô một nhà ven đường cạo gió. Bà còn nấu cho anh một tô cháo hành giải cảm và giục anh ăn ngay khi còn nóng. Quả nhiên ăn xong anh vả mồ hôi như tắm, anh Thuận khỏe lại ra về sau khi cảm ơn người đàn bà tốt bụng. Thi ân bất cầu báonhưng người thọ ơn thì phải tìm cách trả. Anh Thuận qua lại với người cứu mình và anh quyết định nhờ ông Năm tác chủ cho mình cưới bà bán rau tuy bà hơn anh khá nhiều tuổi. Ban đầu bà ra vẻ không chịu ưng anh Thuận, lý do bà đưa ra là bà lớn hơn anh, nói thì nói vậy nhưng dường như bà có nỗi khổ tâm riêng! Anh Thuận không biết điều đó, anh vẫn gặp bà đều và kiên trì đưa ra lời đề nghị. Cuối cùng thì cuộc hôn nhân cũng thành, cả hai không người thân gặp nhau nơi đất khách tổ chức tiệc cưới chỉ vài người quen dự. Đêm tân hôn, Thuận khóc lên rưng rức, anh cảm động quá vì rất lâu rồi anh mới được cạnh một người đàn bà. Bàn tay anh vô thức đưa lên bầu vú người nằm cạnh….
Nửa đêm, không gian thanh vắng, tiếng rì rầm trong căn nhà ván:
– Tui có chuyện này nói với mình…
– Tui nghe, mình nói đi!
– Tui đã có một đời chồng trước khi đến với mình?
-…?
-… Hồi đó cha tui bị bịnh phổi, nhà không có gạo ăn, cha không được chữa bệnh…hức…rồi thím Sáu đến làm mai cho tui lấy một thằng nhỏ, nó nhỏ hơn tui mười một tuổi…hức….Ban đầu tui không chịu, mẹ dỗ dành tui, nói con phải cứu cha mà đằng nào con cũng phải lấy chồng. Nhà mình nghèo không ai dám lấy, về nhà ông Hai con được no đủ không phải khổ sở như ở nhà cha mẹ…hức…mẹ có tiền đưa cha đi khám ông đốc tờ người Pháp trên tỉnh….
– A… chị gái, đúng là chị gái rồi… Chuột đây, Chuột đây….
Hai người nhận ra nhau trong đêm tân hôn, đời vẫn có những bất ngờ không ai lường trước được! Sáng hôm sau anh Thuận đi làm, gương mặt anh còn trùng trùng tâm sự. Ông Năm không biết điều đó, thấy Thuận ông nói liền:
– Thằng Thuận hả, con Chơn vô tìm mày, chồng nó chết rồi!
Hạ giọng, ông Năm nói thêm:
– Mày tính sao, nó còn đem theo một thằng nhỏ giống mày như tạc!
…Ông Tuất cười ha hả:
– Ông nội tôi dẫn 2 bà vợ về ngã ba cây số sáu này làm vườn mà lạ thiệt nghen, 2 bà nội tôi thân nhau như chị em ruột cho đến khi chết, mộ ông nội tôi nằm giữa, 2 bà hai bên. Tôi chắc dưới suối vàng họ vẫn lo cho nhau như trên thế gian này!
Nhìn Văn bằng một tia nhìn dọ hỏi:
– Cậu thấy sao, chuyện này cũng “đượm” chớ hả. Tôi còn biết nhiều chuyệnở xứ sương giăng này lắm hôm nào rảnh cậu cứ lên đây tôi kể cho nghe chuyện nhà ông An với ông Vinh chồng bà Hóa, hấp dẫn lắm nghe.
Xứ sương giăng, Văn chưa kịp hỏi thì ông Tuất đã cười khà khà:
– Cậu ngạc nhiên hả, là vì ở xứ này sương mù nhiều lắm nó giăng khắp thiên địa từ chiều cho tới khoảng tám chín giờ sáng hôm sau mà!
10. Vườn dâu – 2004
Bằng chở Văn ra thăm vườn trên chiếc xe Future màu xám bạc. Xe đã cũ nhưng máy còn êm lắm bởi Bằng tưng tiu xe, rơ nhão chỗ nào là tìm cách xử lý ngay. Cần câu cơm mà, Bằng thường nói với mọi người như vậy khi có ai đó khen xe chạy “ngọt”. Bằng có nghề sửa xe trong tay tuy không hành nghề nhưng nguyên lý vận hành Bằng nắm rõ. Hôm nay Văn rảnh, Bằng chở Văn ra vườn xem cho biết. Văn đi nhiều hiểu rộ.
Xứ sương giăng: Ông già bán xôi ở cây số 6 – Truyện ngắn của Võ Anh Cương
16 Tháng 12, 2022
364
CHƯƠNG 4
Người xưa – 2008
Bằng trở mình, lúc mới mở mắt ra Bằng không nhận thức được mình đang ở đâu. Có lẽ là trời đã sang chiều từ lâu rồi, Bằng nhắm mắt lại khi một tia nắngxiêng chiếu trúng mặt mình. Một lát sau Bằng mới mở mắt ra, chính lúc này anh nhận rằng chiếc giường mình đang nằm được đặt trong một căn phòng xa lạ. Mũi Bằng ngửi được một mùi hương phảng phất rất lạ và cũng rất quen trong phòng càng làm cho anh xác định được rằng mình ngủ trong căn phòng không phải phòng mình.
Nhà văn Võ Anh Cương.
Phải chừng năm phút trôi qua trong tâm trạng bất an Bằng mới từ từ nhớ lại những gì xảy ra. Sáng nay Bằng lấy xe ra chợ Liên Nghĩa tìm mối bán bơ. Mùa bơ đã đến, nhìn những trái bơ đầu dòng lúc lỉu trên cành Bằng vừa mừng vừa lo. Mừng thì rõ rồi, làm vườn ai mà không vui khi nhìn thành quả của mình nhưng niềm vui qua mau y như một áng mây hồng trôi nhanh qua bầu trời mùa xuân. Năm ngoái vườn bơ nhà Bằng mới ra trái bói, mỗi cây độ hơn chục trái mà không phải cây nào cũng ra trái, Bằng thu hoạch kha khá. Năm nay khắp vườn hơn héc ta của Bằng cây nào cây nấy cũng trĩu quả, Bằng phải mua cây chống phụ để khỏi gẫy cành. Bằng không thể hái bơ ra ra ngã ba bán lẻ như năm ngoái được vì bơ đến lứa hái nhiều gấp cả chục lần. Phải tìm mối bán thôi, Bằng nghĩ. Chợ Liên Nghĩa là nơi Bằng chọn. Thiệt ra chính Văn mới là người tình cờ gợi ý cho Bằng. Hôm đó Văn lên nhà Bằng chơi, Bằng và Văn lai rai với nhau như nhiều lần trước. Người ngoài khó hình dung được giữa một ông nhà văn và một ông làm vườn lại tâm đầu ý hợp như vậy. Nhưng Văn thì rất rõ tình bạn của họ hợp với nhau vì tính cách. Văn hay nói, dường như nghề nghiệp tạo nên tính cách con người. Đúng vậy, Bằng nhớ lời sư phụ dạy sửa xe:
– Mày ít nói lại để tâm vô tiếng nổ của xe đi, nó cho mày biết chiếc xe đang bị bệnh gì!
Điều đó hợp với tính của Bằng, quả nhiên khi để ý Bằng nghe ra được tiếng xe của khách đem vào sửa. Lửa không đều, xe nổ lụp bụp nhưng xăng bị lẫn nước xe cũng lụp bụp như vậy có điều tiếng nổ để ý thì nghe giọng trầm đục hơn….
Lúc nói chuyện với Văn hay bất cứ ai, Bằng thường im lặng lắng nghe và chỉ mở miệng lúc cần thiết, điều này rất hợp với Văn! Vả, xét cho cùng người nói phải có người nghe chớ sao?
Bữa nhậu đó câu chuyện đưa đẩy đến…huyện Đức Trọng. Văn nói:
– Ông thấy không, huyện Đức Trọng là nơi hội đủ địa lợi để làm trung tâm của một vùng. Lâm Hà, Đơn Dương, Di Linh và cả Đà Lạt nữa đều cách Đức Trọng vài chục cây số nên nơi này là trung tâm là lẽ đương nhiên. Hôm nào ông xuống chợ Liên Nghĩa xem, nếu ông mua sỉ chắc chắn sẽ rẻ hơn nơi khác nhiều, đó là chợ đầu mối….
Bằng nhớ lời ông bạn nhà báo khi nghĩ đến vườn bơ nhà mình. Bất ngờ chờ anh ở Liên Nghĩa không phải là một cái chợ hoàng tráng, hàng hoá gì cũng có mà lại là… Thuỷ!
…Bằng đang ngơ ngác dạo qua mấy hàng trái cây thì nghe tiếng gọi:
– Anh Bằng…anh Bằng!
Bằng quay về tiếng gọi, khuôn mặt tươi cười của Thuỷ xuất hiện trước mắt Bằng khiến anh giật mình, Bằng ấp úng:
– Cô là…
Thuỷ cười, cô khoe cái lúm đồng tiền trên khuôn mặt tròn rạng rỡ:
– Em Thuỷ đây mà, anh không nhận ra em sao?
Sao vụ chồng Thuỷ bất thình lình xuất hiện khi Bằng từ phòng ngủ của vợ chồng Thuỷ bước ra, Bằng thầm hứa với lòng rằng hãy tránh xa phụ nữ, nếu như Văn sẽ nói chữ rằng thì là “kính nhi viễn chi” thôi. Rồi thời gian trôi qua, Bằng hầu như quên mất chuyện xưa và cũng không để tâm tìm hiểu chuyện Thuỷ trôi nỗi những đâu sau khi cô bán nhà dọn đi sau khi trả hai chục triệu cho Bằng….
Khi cả hai ngồi trong quán nước góc chợ, nghe chuyện Bằng đi tìm mối bán bơ Thuỷ tròn mắt ngạc nhiên:
– Bây giờ anh đã thành “đại gia” rồi à?
– Đại gia, tiểu gia gì tui…có điều tui không chạy xe ôm nữa!
Thuỷ không chịu hỏi tới về cuộc sống của Bằng hiện tại, bắt buộc lắm Bằng mới nói:
– Khi nào rảnh tui mời cô lên vườn tui thì biết, giờ chắc tui phải đi tìm mối bán bơ!
Nói xong Bằng dợm đứng dậy, Thuỷ níu áo Bằng:
– Anh đừng đi đâu hết, chuyện bơ của anh để em lo. Nói thiệt với anh nếu vườn bơ của anh rộng gấp chục lần em cũng “cân” hết! Em và con bạn hiện kinh doanh trái cây ở chợ đầu mối này, mối lái tụi em có khắp trong Nam ngoài Bắc, anh chớ lo….
Không để cho Bằng nói thêm câu nào, Thuỷ quyết liệt:
– Em mời anh đi ăn trưa với em, anh không được từ chối!
Nhìn thẳng vào mắt Bằng, Thuỷ nói tiếp:
– Anh để cho em nói một câu cám ơn mới phải đạo chứ, phải không?
Mắt Thuỷ ánh lên một tia nhìn khó hiểu.
2. Xin con – 2008
Bằng vùng dậy. Anh nhìn đồng hồ đeo tay, đã bốn giờ chiều. Dư âm của xị rượu buổi trưa phảng phất trong đầu Bằng. Mình đã làm gì, anh nghĩ khi chập choạng bước ra phòng khách. Bằng gọi to:
– Thuỷ, cô Thuỷ ơi!
Dường như Thuỷ không nghe Bằng gọi, Bằng lập lại một lần nữa. Lần này thì có tác dụng, cánh cửa ngăn phòng khách và nhà bếp mở ra nhưng người xuất hiện trước mặt Bằng không phải Thuỷ mà là một người khác. Người phụ nữ nhìn Bằng cười tươi:
– Anh dậy rồi à?
Bằng ngơ ngác nhìn người đàn bà anh hỏi:
– Cô là….
Người phụ nữ giơ tay chỉ bộ sô pha:
– Anh ngồi xuống đi. Em là Hương bạn của Thuỷ.
Bằng hỏi:
– Cô Thuỷ đâu rồi, tôi cần gặp!
Hương mĩm cười:
– Thì anh cứ ngồi xuống đi đã, chuyện đâu còn đó mà!
– Không…cô phải cho tôi biết sao tôi lại ở đây?
Thấy vẻ mặt căng thẳng của Bằng, Hương nói:
– Đây là nhà của em, trưa nay Thuỷ nó chở anh về….
Hương chưa nói hết câu Bằng nôn nóng ngắt lời:
– Nhưng mà Thuỷ đâu rồi, tôi cần gặp cổ!
Đây là lần hiếm hoi Bằng nói nhiều như vậy, Hương không biết điều này nhưng khi cô nhìn vào mắt anh Hương thấy rõ sự bức bối biểu lộ hết mức. Dường như để chia sẻ tâm trạng của Bằng, Hương ôn tồn nói tiếp:
– Em là chị em kết nghĩa với Thuỷ, anh cứ an tâm để từ từ em sẽ nói rõ đầu đuôi cho anh nghe.
Hương rót tách nước trà đẩy về phía Bằng rồi tiếp:
– Anh bình tỉnh nghe em nói từ đầu. Thuỷ đã kể chuyện của nó và anh ngày trước cho em nghe, nó rất ân hận vì nó mà anh mang tiếng. Sau chuyện đó, nó chia tay chồng và bán nhà về ở với em, hai chị em cùng buôn bán trái cây. Trưa nay em thấy Thuỷ chở anh về, anh thì quắc cần câu ngồi phía sau ôm eo Thuỷ….
… Thuỷ giơ ly rượu ra mời Bằng:
– Mời anh trăm phần trăm mừng ngày gặp mặt này. Nói thiệt với anh em không ngờ có ngày gặp lại anh, em vui quá!
Uống thì uống sợ gì, Bằng nghĩ. Cùng lắm chỉ một xị thôi, Thuỷ là đàn bà làm sao qua mặt người trải qua trăm trận chinh chiến như mình? Mà thứ rượu gì ngon thiệt, nước rượu màu hỗ phách như thể khêu gợi con tỳ con vị, vị đậm đà khó cưỡng còn hương thì phảng phất mùi gì đó khó tả nhưng Bằng thấy rất thân quen, anh thả sức hít thứ hương vào lồng ngực vạm vỡ của mình.
Thuỷ nhìn Bằng uống rượu, cô chỉ nhắp môi như thể trợ hứng cho Bằng. Cái miệng tô son hồng trên gương mặt tròn, làn da trắng khiến đôi mắt trở nên lúng liếng, cái lúm đồng tiền…như một thứ “mồi” khiến Bằng không thể nào từ chối ly rượu cô mời. Thuỷ ép Bằng ăn một miếng thịt gà, cô gắp cái cánh bỏ vào chén của Bằng:
– Anh ăn chút đi nãy giờ uống hoài, coi chừng say đó!
Thằng Bằng này mà say à, chưa bao giờ Bằng say bởi anh biết dừng đúng lúc. Vả chăng bạn rượu của Bằng không có ai ép rượu như cách người ta hay nói “ép dầu ép mỡ ai nỡ ép…rượu?”. Hôm nay nghe Thuỷ nói mình say, Bằng thấy mình bị chạm tự ái quá chừng, Bằng quên bẳng sáng nay đi vội Bằng chưa kịp bỏ bụng thứ gì. Và Bằng càng không biết thứ rượu nước màu hỗ phách ấy có tên là Càn Long đệ nhất tửu, loại rượu đặc sản “ông uống bà khen” chỉ có ở quán Cây dừa chợ Liên Nghĩa! Đến nửa xị thứ hai Bằng quắc cần câu, Bằng không thấy nụ cười nửa miệng của Thuỷ khi cô nói:
– Anh ôm chặt em, coi chừng sút tay té đó. Đàn ông đàn ang chi mà chỉ hơn một xị đã say! Em cám ơn anh chủ quán, em chở chồng em về đây!
Thuỷ giơ tay làm dấu “bái bai” với ông chủ Cây dừa, còn ông chủ đứng ngẩn nhìn theo cô gái. Ông khẽ lắc đầu:
– Thằng đó làm sao chịu nỗi với…chân dài đó! Ha ha….
Bằng không biết chuyện đó, Bằng loáng thoáng nghĩ rằng mình đang ngủ trưa, nằm bên cạnh Bằng là một người khác phái. Chắc là Thắm thôi, chỉ có vợ mới rúc đầu vào cổ Bằng như vậy. Như một thứ quán tính, tay Bằng đưa ra vừa đụng tới bộ ngực để trần đầy sức sống! Hơi chút ngạc nhiên, Bằng nghĩ sao vú vợ lại tràn khỏi tay mình vậy nhưng cơn say và cơn nhục dục khiến đầu óc Bằng mụ mị, Bằng không còn sáng suốt để tìm hiểu vì sao chỉ trong một buổi mà vú vợ mình lại to gần gấp đôi như thế?
Quả nhiên Càn Long đệ nhất tửu danh bất hư truyền!
… Hương nói như thể kết luận:
– Thuỷ yêu anh từ lâu, hôm nay tình cờ gặp lại anh nó chỉ xin anh một đứa con thôi. Anh đừng nghĩ lăn tăn, anh không có chút trách nhiệm nào trong chuyện này!
Nói xong câu đó bỗng nhiên Hương thở dài:
– Giá gì em cũng được như vậy….
Hương nhìn ra khung cửa, bên ngoài bỗng dưng trời đổ một cơn mưa.
3. Nỗi lòng – 2008
– Sao dạo này tôi thấy ông khang khác?
Văn mở đầu câu chuyện khi hai người ngồi uống trà ở cái chỏng tre đặt trước hiên nhà. Nghe Văn hỏi, Bằng hơi biến đổi sắc mặt, vẻ khác lạ chỉ thoáng qua nhưng lập tức Văn nhận ra ngay. Không có gì là khó hiểu cả, da mặt Bằng đen quá nên khi anh biến sắc bởi câu hỏi của Văn màu đỏ xuất hiện liền. Bằng lắc đầu để trả lời Văn như trước giờ vẫn vậy nhưng Văn đâu chịu để yên:
– Có khó khăn gì thì nói ra để bạn bè còn biết đường giúp chớ để trong lòng là không được đâu!
Câu nói đó rơi vào khoảng không, Bằng không trả lời bạn mà hỏi gọn lỏn:
– Làm xị được không?
Văn cười phá lên:
– Vậy là có chuyện rồi…chiều nay tôi bận không nhậu với ông được, hẹn ông khi khác vậy.
Văn đi một lúc lâu rồi mà Bằng vẫn còn ngồi thừ trên cái chỏng tre. Phải chi nói ra được thì lòng thấy nhẹ nhưng làm sao Bằng có thể mở miệng cho được? Lâu nay Bằng thấy mình có lỗi với Thắm, nhiều khi anh ước giá gì đừng có buổi trưa định mệnh đó thì anh đâu phải mang một cục đá to tướng trong lòng! Cục đá mà mang trên người nếu có chỉ cần vứt đi là xong nhưng cục đá trong lòng Bằng dường như xuất hiện từ ruột gan phèo phổi, không cách gì Bằng vứt đi đâu cho được.
Những đêm chợt thức giấc Bằng lại nhớ đến cái mùi đó, chỉ một lần thôi nhưng nó theo Bằng suốt từ ngày ấy đến nay. Bằng không thể nào hiểu được tại sao mỗi người đàn bà đều có một thứ mùi riêng biệt, không ai giống ai mới thật lạ lùng. Trong cơn say hôm ấy, Bằng cứ chắc mẫm mùi người khác phái nằm bên là Thắm, anh hành động theo bản năng của giống đực đến thời điểm cao trào mới nhận ra rằng có cái gì đó sai sai nhưng sự kích thích làm mụ mị đầu óc của Bằng. Đến khi Bằng nằm vật ra giường anh lại chìm vào giấc ngủ mê mệt. Khi mở mắt ra, người nữ không còn nằm cạnh Bằng nhưng phảng phất trong chăn gối mùi hương ấy vương vấn bên anh, nó đeo đẳng bên Bằng khiến anh không làm sao quên được!
Mùi hương của Thuỷ theo Bằng từ bấy đến nay, mỗi khi anh ngồi thừ một mình hay bất chợt thức giấc nửa đêm lập tức nó xuất hiện liền. Bất giác Bằng nhớ đến câu ca dao “kim đâm vào thịt thì đau/thịt đâm vào thịt nhớ nhau suốt đời”. Bằng bàng hoàng, mình có nhớ Thuỷ không? Thật tâm anh không biết.
Nhưng sự dằn vặt thì Bằng biết rõ. Bằng mắng nhiết mình đã phản bội Thắm, cô ấy một mực lo cho chồng cho con nay Bằng lại ngủ với người đàn bà khác. Là sao? Là chẳng ra gì chứ sao nữa, chú Tuất nếu mà biết chuyện sẽ rất giận Bằng cho xem. Bằng rất sợ làm ông già buồn.
Nghĩ đến ông Tuất Bằng lại thấy nghi ngờ. Không hiểu sao đã nhiều lần Bằng đặt vấn đề cha con với ông Tuất nhưng ông già đều né tránh. Mà ông Tuất né tránh rất tài, ông cứ để câu chuyện trôi dần theo mạch đến một lúc nó biến mất tăm mất tích. Đã nhiều cuộc rượu Bằng chắc mẫm mình sẽ được ông Tuất nhận cha con nhưng rốt cuộc rượu tàn ông Tuất vẫn là ông Tuất.
Vậy là sao?
4. Bởi cậu là nhà báo nhà văn… – 2008
Ông Tuất cầm một trái bơ trên tay, trái bơ thon dài màu xanh bóng bắt mắt. Đây là số bơ Bằng biếu ông ba bữa trước, ông chưng trên bàn thờ hôm nay bơ chín ông thỉnh xuống dùng. Trái bơ này áng chừng một ký cầm trên tay chắc nịch. Ông Tuất chưa kịp ăn trái bơ thì đã nghe ngoài cửa tiếng của Văn:
– Chú Tuất ơi, chú có nhà không?
– Cậu Văn hả, vào đây đi cửa không khoá.
Văn ập vào nhà như một cơn lốc, ông Tuất chưa thấy mặt người đã nghe thấy tiếng:
– Chú đang làm gì vậy cháu sợ chú không có nhà, may quá….
Ông Tuất mời Văn ăn bơ, cầm trên tay miếng bơ góc tư Văn vừa ăn vừa nói:
– Chắc bơ của Bằng biếu chú phải không, quả nhiên bơ đầu dòng chất lượng khác hẳn. Năm nay có lẽ Bằng thu hoạch cũng kha khá, bơ lại đang có giá!
Ngừng một chút Văn nói tiếp:
– Mừng cho vợ chồng Bằng…nhưng cháu có chút thắc mắc trong lòng?
Ông Tuất dường như không chú ý đến câu hỏi dò của Văn, ông lái qua chuyện khác:
– Hôm nay rảnh hay sao mà cậu lại ghé thăm tui?
– Cháu có chút chuyện đi ngang qua ngã ba nhớ chú ghé nhà trước thăm chú sau hỏi chú mấy chuyện!
Ông Tuất không lạ gì cánh nhà báo, sục sạo tìm kiếm là cách của họ để tìm ra đúng sự thật. Văn cũng vậy, anh đang viết một bài ký sự về kỷ niệm những năm 75, 76 lúc đó ông Tuất còn đang là một thanh niên. Chuyện ấp NS huy động thanh niên bạt một đỉnh đồi làm sân banh đang tiến hành thì một người phát hiện chiếc máy ủi đất của tên chủ người Pháp Ni Cô La bỏ lại ở một cánh rừng hoang cách ngã ba chừng hai mươi cây số, vậy là một toán gồm 5 du kích và 3 thợ máy được điều lên lấy chiếc máy ủi về làm phương tiện san lấp. Ai dè bọn Phun Rô phát hiện, trận tao ngộ chiến xảy ra và kết quả 3 thợ máy bị chết, từ đó công trình thanh niên bị bỏ dỡ…tất cả chi tiết ông Tuất kể lại cho Văn tuần rồi.
Tuất hỏi:
– Cậu hỏi chuyện gì, hay là lại hỏi về vụ chiếc máy ủi của thằng Tây Ni Cô La?
Văn cười:
– Dạ nó đã trở thành một bài báo rồi, con định hỏi chú chuyện khác kia nhưng chuyện đó thì hôm nào rảnh lai rai ba sợi chú kể cho con nghe, được không?
Tưởng Văn muốn biết chuyện làng trên xóm dưới gì chứ ai dè nó lại quan tâm đến chuyện của ông Vinh chồng bà Hoá và ông An, ông Tuất nghĩ. Chắc tay nhà báo nhà văn này lại muốn biết thêm tình tiết của mối quan hệ giữa hai người. Ông Tuất định hỏi nhưng chưa kịp lên tiếng thì Văn đã nói:
– Hôm qua con có ghé vườn nhà Bằng, gặp lúc Bằng đang cân bơ cho người mua sỉ. Mùa này vợ chồng Bằng bán hết lứa bơ cũng rủng rẻng tiền, mừng cho cậu ấy. Nhưng con thấy Bằng dường như gặp chuyện gì đó mà nhìn thấy Bằng có vẻ lo lo. Con ghé qua chú thử xem chú có biết chuyện gì không?
Ông Tuất ngạc nhiên lắc đầu, ông không nghe hai vợ chồng Bằng to tiếng cũng không nghe chuyện gì lạ xảy ra với vợ chồng Bằng. Mà Văn đã nói chắc là có chuyện, nhà báo nhà văn thường có cái nhìn thấu đáo hơn người thường, ông Tuất biết vậy.
Thấy ông Tuất lắc đầu, Văn ngạc nhiên. Hồi giờ chuyện gì xảy ra với Bằng ông Tuất đều biết cả, ông Tuất cứ như là cha của Bằng tuy cho đến giờ ông không xác nhận hay phủ nhận về chuyện này. Văn tiếp:
– Kể ra vợ chồng Bằng cũng giỏi, tay không bắt giặc mà giờ có đến cả mẫu bơ!
Ông Tuất nhìn Văn tủm tỉm cười, không biết ông nghĩ gì mà Văn thấy trong cặp mắt già nua của ông loé lên một tia sáng tinh quái. Hơn ba năm trước, Bằng nghe lời ông Tuất mua lại miếng vườn trồng cây tạp của một người muốn bán đất để về Bắc với giá khá hời, Bằng kể với Văn tuy có nợ nhưng cũng như những lần trước người cho Bằng mượn tiền là ông Tuất nên Bằng rất an lòng. Lúc đó nghe giá đất Bằng mua, Văn đã cảm thấy có điều gì đó không bình thường nhưng Văn xem giấy tờ đều đầy đủ, hợp pháp nên cũng không lấy đó làm điều. Nỗi hồ nghi Văn vẫn để trong lòng, nay vô tình anh bắt gặp ánh mắt tinh quái của ông Tuất anh mơ hồ nhận thức dường như có uẩn khúc gì đó trong câu chuyện này. Văn hỏi dò:
– Chắc có câu chuyện đằng sau chuyện Bằng mua vườn phải không chú?
Ông Tuất cười:
– Cậu nghĩ vậy à?
Nghe ông Tuất hỏi ngược như vậy Văn quả quyết rằng có bàn tay ông Tuất trong chuyện này, anh nhìn ông Tuất cười cười:
-Cha lo cho con là phải đạo rồi nhưng con thấy cô đã mất thì chú cũng nên công khai chuyện cha con với Bằng để cậu ấy vui. Danh có chính thì ngôn mới thuận phải không chú!
Ông Tuất cười to:
– Cậu cũng nghĩ như mọi người sao, lời khuyên của cậu tôi nghe quen tai từ lâu lắm kìa. Bởi cậu là nhà báo nhà văn, mà tui nói cậu đừng giận nhà văn nói láo còn nhà báo nói thêm cậu có cả hai thứ thì cậu có biến con kiến thành con voi cũng là chuyện…bình thường, còn bây giờ cậu muốn biết việc mua miếng vườn của thằng Bằng ra sao phải không?
Văn chỉ còn biết cười gượng.
5. Giấc mơ về đất – 2004
Người nông dân bao giờ cũng nuôi một giấc mơ về đất. Giấc mơ này truyền từ đời cha ông, dường như nó có trong máu của họ. Bây giờ đất vườn đã thuộc về những người làm vườn sau khi tập đoàn sản xuất tan rả, dân vườn đổ mồ hôi trên miếng vườn của mình những mong kiếm miếng ăn và để dành chút đỉnh phòng khi hữu sự. Nói vậy không có nghĩa là người làm vườn không biết làm giầu, ai chẳng mong muốn giầu có nhưng mấy ai đạt được?
Bằng mướn đất của ông Hương, khi nghe Văn nói về giống bơ 034 trong cuộc nhậu ở nhà ông An anh ước ao giá gì miếng đất mướn là của mình thì Bằng sẽ trồng cây này ngay, nghe Văn nói Bằng mê quá. Nhưng muốn sống được với nghề trồng cây ăn trái, Bằng biết mình phải có đất rộng rộng một chút, cỡ trên một mẫu mới có thể làm ăn. Một mẫu đất, đó là một con số trong mơ!
Khi ông An ươm giống bơ nước để trồng trên miếng đất sau nhà, lúc nào rảnh Bằng đều ghé qua ngắm nghía, ngay lúc đó giấc mơ về đất liền xuất hiện trong đầu Bằng. Mình mà có đất như ông An hay thằng Phúc thì hay biết mấy, Bằng nghĩ.
Giống bơ nước ông An ươm trong bịch ny lông “lên” rất mạnh, mới 3 tháng mà nó đã cao hơn gang tay. Đúng mùa mưa ông An đào hố trồng ngay số bơ ươm bằng hột này. Cây cách cây chừng năm mét, hàng cách hàng cũng chừng đó. Ông An đào hố sâu cả mét, ông đổ phân bò trộn phân dê ủ chung với thân lá cây quỳ thành một loại phân hữu cơ bốc lên mùi thum thủm nhưng ẩn chứa bên trong là những chất dinh dưỡng cho cây trồng, ông An giải thích với Bằng như vậy.
Mùa mưa vừa hết, những đọt bơ vươn lên trong nắng, cây nào cũng phơi phới xanh một màu non tơ. Ông An theo Văn đi Bảo Lộc mua đọt bơ về ghép. Văn cẩn thận dẫn theo ông chủ vườn bơ lên nhà ông An ghép giống bơ đầu dòng này cả ngày trời mới xong. Hơn ba tuần sau những đọt bơ non lú ra khỏi mắt ghép giống y như hy vọng nẩy mầm trong lòng ông An. Ông An thuê người đóng một cái giếng trên miếng đất này, phải đến vị trí thứ hai dòng nước ngầm mới phụt lên khỏi cái ống đóng thẳng từ mặt đất sâu đến gần ba mươi mét.
Bằng không nói với ai giấc mơ có một vườn bơ như của nhà ông An, vậy mà chuyện bất ngờ lại đến với anh trong một ngày nắng đẹp.
Ông Tuất điện thoại kêu Bằng về gấp, lúc đó Bằng tranh thủ nông nhàn – là cách nói của Văn, anh chạy một cuốc xe ôm đến tận Tuý Sơn. Một tiếng đồng hồ sau Bằng mới có mặt ở nhà ông Tuất. Trong phòng khách ông Tuất và một người đàn ông nói giọng miền Bắc đang trò chuyện coi bộ tâm đắc lắm. Thấy Bằng bước vào, ông Tuất nói ngay:
– Chú Thử đây có miếng vườn ở Tà Nung định bán để về quê, bay muốn mua không?
Bằng sửng người, trong lòng Bằng một thứ tình cảm mới mẻ xuất hiện. Đó là sự cộng hưởng giữa lòng biết ơn ông Tuất và giấc mơ về đất mà Bằng giấu kín trong lòng. Phải một chặp sau Bằng mới nói được:
– Con muốn lắm nhưng biết lấy tiền ở đâu?
Ông Tuất cười:
– Bay chớ lo, chú Thử đây để rẻ cho bay thôi bởi chú cần tiền gấp vả chăng miếng vườn chú nằm trên triền đồi lại là vườn tạp. Với giá chú đưa ra người ta biết là lấy ngay nhưng chú nhớ tới tao nên mới hỏi trước đó!
Ngừng một chút như để lấy hơi ông Tuất mới nói tiếp:
– Tao tính như vầy, số vốn tao gom tới giờ cũng gần bằng với cái giá chú Thử đưa ra, bay nói với con Thắm chạy vạy một ít nữa là đủ. Sao, lấy không?
Bằng muốn khóc quá, cha đối xử với con chưa chắc đã được như vậy, đằng này ông Tuất đối xử với Bằng còn hơn cả thằng Tuấn con ruột ông nữa. Dường như biết tâm sự của Bằng, ông Tuất cười sởi lởi:
– Bay đừng nghĩ lung tung chi cho mệt, là chú biết con có trách nhiệm và sòng phẳng nên chú mới cho con mượn tiền, vả cũng chẳng bao nhiêu so với người ta!
Bằng nghẹn lời chỉ biết gật đầu, anh nói:
– Con không biết nói sao nữa…
Ông Tuất hối:
– Con về biểu con Thắm xoay hai chục triệu đi, để tao chỉ cho, bay biểu con Thắm qua nhà bà Hoa dì nó hỏi mượn chắc là có!
Bằng quay mặt bước ra ngoài làm như vội lắm nhưng ông Tuất vẫn thấy được giọt nước mắt ứa ra từ đôi mắt một mí của Bằng.
6. Ganh tỵ – 2005
“Tui biểu nó phá hết vườn tạp đào hố trồng bơ như ông An đi, khi cây bơ còn nhỏ cứ lên vồng trồng khoai lang Nhật chớ để đất ở không làm gì, cậu thấy tui tính có đúng không?”.
Văn cười nói con biết rồi không có chú chống lưng thì Bằng khó tạo nên miếng vườn như vậy. Ông Tuất cười, thì tui chỉ việc nói thôi, còn nghe lời hay không là tuỳ vợ chồng nó chớ, cậu thấy tui nói có đúng không?
Không đúng mới lạ, Văn nghĩ. Ông Tuất hàng ngày ngồi ở ngã ba, đúng như người ta nói ngã ba như là một hãng thông tấn có điều chỉ là thông tấn…vỉa hè nên chuyện gì ông cũng biết cả. Thật ra người mua xôi của ông Tuất thấy ông già hay chuyện nên trong khi ăn hay chờ ông gói xôi, họ muốn có câu chuyện làm quà. Chuyện khoai lang Nhật ông Tuất cũng nghe được như vậy, ông nghe cậu thanh niên mua xôi còn nói rằng bên Nhật khoai lang mắc lắm, khi khan hiếm người ta còn tổ chức đấu giá để bán nữa kìa. Ông Tuất nghe vậy bán tin bán nghi, củ khoai lang Nhật ông không lạ gì, lúc trước người ta gọi là khoai lang Như Ngọc, chẳng biết sao lại có cái tên đẹp như vậy nhưng giống khoai này dưới Bồng Lai huyện Đức Trọng người ta trồng chừng hơn 3 tháng là thấy củ trồi lên mặt đất….
Bằng nghe lời ông Tuất, anh chạy xe qua Đắc Nông mua dây khoai Nhật về trồng. Khoai đất lạ, mạ đất quen, ông bà ta nói cấm có sai. Năm đó Bằng trúng lứa khoai cũng kha khá. Lái từ Đắc Nông qua mua khoai chở đi đâu Bằng không rõ nhưng tiền bạc sòng phẳng. Cầm sấp bạc trên tay, Bằng trả ngay cho bà Hoa và trả cho ông Tuất một ít.
Ông Tuất nhìn Văn:
– Thằng Bằng chịu khó lắm nên chi cho nó mượn tiền tui cũng yên tâm!
Văn cười nhìn ông Tuất:
– Con đoán cái gút ở chỗ tiền bạc này phải không chú?
Ông Tuất cười ha ha:
– Chịu nhà văn nhà báo các cậu, cậu đoán đúng lắm!
Văn nghĩ thầm, chỉ có người ruột thịt mới lo cho nhau như thế, đằng này ông Tuất lại không công nhận cũng không bác bỏ chuyện cha con với Bằng nhưng hành động lại khác hẳn lẽ thường. Hành động của ông Tuất khiến người ngoài bàn tán huống chi là người trong nhà. Sau khi Bằng mua đám đất chừng một tháng, thằng Tuấn về nhà gặp cha, hắn hỏi mượn tiền. Ông Tuất không lạ gì thằng con ông hỏi cặn kẽ Tuấn mượn tiền làm gì?
– Thì tui định mua con xe SH chạy với người ta!
– Mày tưởng loại xe đó ít tiền à, tao không có tiền!
Tuấn hỏi ngược lại:
– Ba nói không tiền sao lại cho thằng Bằng mượn mua vườn được?
Tuấn nhìn cha với cặp mắt ganh tỵ không che giấu, trong đôi mắt đó câu hỏi đọng lại thành một tia nhìn “bộ ba coi người dưng hơn con cái trong nhà sao?” như muốn bật ra cặp mắt có những tia máu đỏ. Ông Tuất trầm ngâm một lúc rồi mới trả lời con:
– Mày cứ chạy chiếc xe cũ đi, nó cũng ngon lành chứ có hư hỏng gì đâu? Mà nếu có tiền tao cũng không đồng ý cho mày mua loại xe đó đâu. Mày có biết đi loại xe đó là mang án tử chưa thi hành không?
Tuấn nhìn cha lộ rõ vẻ không hiểu ông Tuất muốn nói gì, ông Tuất tiếp tục câu chuyện:
– Tụi trộm, cướp ưa loại xe SH và Air Black vì dễ tiêu thụ lại được giá. Mày nghe chuyện đi xe SH ban đêm bị cướp chém thẳng vào tay để cướp xe chưa? Đã có người mất mạng rồi đó con ơi!
– Nhưng sao ba cho thằng Bằng mượn tiền được, còn tui thì không?
Tuấn tức tối hỏi, ông Tuất thủng thẳng trả lời:
– Vì nó mượn mua vườn, chịu khó làm ăn gom góp trả nợ liền, còn mày biết bao nhiêu lần tao và mẹ mày hồi còn sống đưa tiền cho mày mượn mà có thấy đồng tiền trả nợ từ tay mày mặt tròn mặt méo ra sao đâu?
Tuấn cứng họng.
Văn nghe ông Tuất kể chuyện Tuấn anh cười ha hả. Văn nói:
– Chắc còn chuyện thú vị hơn ở chỗ này phải không chú?
7. Tiểu thuyết hả, dữ à nhen… – 2008
Chuyện thú vị ở ngã ba này thì “khối”, ông Tuất nhìn Bằng như chờ đợi anh nhà báo nhà văn ngõ ý là ông kể liền. Biết ý ông già Văn cười:
– Chuyện của chú có chuyện nào không thú vị đâu, con đang lắng nghe đây!
– Làm xí chớ?
– Chiều nay con rảnh nên hóng chuyện của chú được. Chú cần gì con phụ một tay?
Bữa nhậu đột xuất của hai chú cháu không đơn giản quá mà cũng chẳng cầu kỳ gì. Ông Tuất xắt miếng thịt bò xào hành tây, đĩa bò xào được ông trang trí bằng mấy lá xà lách lô lô trông khá bắt mắt. Văn giúp ông làm món nước. Anh xắt bò viên, thứ này ông Tuất mua sẳn trữ trong ngăn đá tủ lạnh nấu chung với hai viên bún bò Huế và gia thêm củ hành tây xắt mỏng nêm thêm chút gia vị cho đậm đà. Món này ăn với bún gạo khô Tùng Nghĩa, Văn giải thích với ông Tuất:
– Nhà có thứ gì con nấu thứ đó, món này con cũng chưa làm bao giờ chú đừng có chê nghen!
Ông Tuất cười khà khà:
– Từ hồi trẻ đến giờ tui thích những chuyện bất ngờ. Có bất ngờ mới vui, cậu thấy đúng không?
Ông Tuất vừa dứt lời, từ nhà trên vọng xuống tiếng của Kim:
– Chú thích bất ngờ là có bất ngờ liền, “chời” ơi cái mùi gì mà thơm điếc mũi vậy ta?
Văn cười ha hả đón Kim:
– Ruồi kêu ông hay sao mà mỗi lần sắp nhậu ông có mặt liền, là sao hả?
Kim với vẻ vui tươi hiện rõ trên gương mặt, anh sà vào nhà bếp lấy chén dĩa sắp trên bàn, miệng nói:.
– Là tui có lộc ăn ông ơi, nói chơi thôi tui vừa về quê với anh Luông ghé qua gởi chút quà cho chú Tuất. Còn ông với ông Bằng tui để ở nhà bữa nào gặp lại sẽ đưa sau!
Hai gói kẹo dừa trong túi ny lông được Kim đưa tận tay ông Tuất:
– Con biết chú không thích của ngọt nhưng quà quê con có kẹo dừa là tình nghĩa nhứt. Hãng này trước kia là cơ sở sản xuất nơi má con làm khi mới dọn ra thị xã!
Ông Tuất mĩm cười:
– Chú thích chớ sao không…lâu lâu ngậm một cục kẹo để nhớ lại ngày xưa ăn đường tán, sao hồi đó khổ mà vui quá kìa!
Câu nói của ông Tuất rơi vào thinh lặng. Kim nhớ má những ngày hai mẹ con bao bọc nhau sống ở thị xã Bến Tre, mắt Kim đượm buồn. Còn Văn anh cảm động với câu nói của Kim và ông Tuất. Không gian bỗng nhiên trầm lắng, ông Tuất phá tan sự im lặng:
– Thôi hai cậu ngồi vô, đây là rượu linh chi rừng Đà Lạt tui ngâm mấy tháng rồi và có gia thêm ít táo khô, kỹ tử. Cái thứ này tốt cho sức khoẻ nếu uống vừa phải, mà hai cậu tính coi tui chừng này tuổi rồi nên xin một ly riêng còn hai cậu cứ thả ga đi!
Thả ga thì Văn không dám, Kim cũng vậy nhưng rượu tình rượu nghĩa cả hai cứ nâng lên đặt xuống theo đà câu chuyện. Kiểu này chuyện thú vị ở ngã ba của chú Tuất chắc để lại bữa khác mất. Văn nghĩ thầm trong bụng như vậy trong khi nghe Kim kể chuyện Bến Tre. Làm báo đi nhiều Văn không lạ gì đất Bến Tre và con người tình nghĩa trước sau như một nơi này. Hơn chục năm mới về thăm chốn cũ nhưng bà chủ vẫn nhận ra Kim, số kẹo dừa là của bà chủ biếu “cho bà con Đà Lạt thử kẹo dừa Bến Tre ngon ra sao, đeo bám lắm tui mới lấy lại được xuất xứ địa lý kẹo dừa Bến Tre từ tay người Trung quốc đó!”.
Văn gợi chuyện:
– Ông có gặp ông dượng không?
– Tui ghé nhà được một tối, nhậu với ông dượng vui quá xá vui.
Dường như chuyến đi Bến Tre khiến Kim thoả lòng. Kim kể nhiều chuyện với một giọng rất vui. Không vui sao được khi trở lại nơi mình sinh ra, gặp bạn bè bà con cô bác? Văn hiểu tâm trạng của Kim nên lắng nghe bạn, thỉnh thoảng bình luận mấy câu nên không khí cuộc rượu rất thân tình. Ông Tuất mời:
– Hai cậu ăn món cậu Văn nấu thử coi?
Kim cười:
– Nhà văn giống như đầu bếp, đầu bếp thì phải biết chế ra món ăn phải không Văn? Để tôi thử coi món chưa đặt tên của ông ra sao?
Kim gắp một đũa bún khô, chan nước dùng, Kim vắt một ít chanh và mấy miếng ớt đỏ bỏ vào chén của mình. Nhìn cách Kim ăn Văn biết rằng bạn mình để hết tâm hồn vào món ăn anh nấu. Kim gật gù:
– Vị được, nếu là tôi thì tôi thêm ít sả món này sẽ dậy mùi hơn. Ông biết còn thiếu gì không, đó là rau sống!
Nhìn bạn Kim nói tiếp:
– Tôi để ý thấy món ăn từ vùng miền nào du nhập về đây cũng đều được biến hoá thành hương vị riêng nhờ vào rau, điển hình là phở. Ông nhà văn thấy có đúng không?
Nhận xét của Kim khiến Văn suy nghĩ. Ai ngờ một tay tài xế mà cũng tinh tế dữ, mà Kim nói đúng, nhà văn thì phải sáng tác là lẽ đương nhiên nhưng so nhà văn với đầu bếp thì hơi buồn cười nhưng ngẫm đi nghĩ lại Văn thấy bạn mình so sánh…đúng!
Bỗng nhiên Văn thấy mình nợ ông Tuất khi nhớ tới trang viết về ông Trương Vĩnh Thuận, ông nội ông Tuất. Văn hỏi:
– Chú ơi hôm trước chú kể chuyện ông nội chú ở với hai bà vợ có phải là nhà này không?
Ông Tuất ngạc nhiên:
– Không phải đâu… là ở Suối Cát Nam Thiên kìa, mà sao tự nhiên cậu lại hỏi chuyện này?
Văn ngập ngừng:
– Con chỉ hỏi vậy thôi!
– Chắc là cậu đang “kể” về họ phải không?
Văn cười, thay vì xác nhận anh rót đầy ba ly rượu mời ông Tuất và Kim:
– Con mời chú và Kim ly rượu này…coi như con chưa hoàn thành được nhiệm vụ của mình!
Ông Tuất nói ráng lên đi, khi kể cho cậu nghe chuyện của ông nội tôi, tôi cũng muốn cậu “biên” thành cuốn sách. Kim thì nói:
– Tiểu thuyết hả, dữ à nhen…hay là ông viết về chuyện ông già tui đi? Tui thấy chú Tuất có mấy viên bò viên, hai cục bún bò, bún khô…mà ông biến chế thành một món ăn cũng được thì giờ ông lấy chuyện nhà chú Tuất, chuyện của tui và chuyện của thằng Bằng…xào nấu thành một cuốn tiểu thuyết, được không?
Văn chưa kịp trả lời bạn, cánh cửa nhà bếp bật ra. Bằng lách vào:
– Chào chú, ủa…cả hai ông nữa sao?
8. Trăng khuyết – 1965
Sự xuất hiện của Bằng khiến cuộc rượu vui vẻ hẳn, người ta hay nói trà tam rượu tứ. Ông Tuất đứng dậy định chắt thêm chai rượu khác, Bằng ngăn lại nói “chú để con lấy rượu cho”. Ông Tuất trầm ngâm nhìn đĩa bò xào vơi đi một nửa, ông nói với Văn và Kim:
– Để tui chiên thêm mấy cái trứng như quán bia bà Tàu cho mấy cậu lai rai nghen?
Quán bia lạnh bà Tàu nằm gần nhà thờ Tin Lành đường Nguyễn Văn Trỗi. Quán đông vào buổi trưa và buổi chiều kéo dài đến chín, mười giờ đêm. Đủ thành phần vào quán uống bia, những tiếng “dô” như một thứ kích thích khiến người ta hưng phấn và vui vẻ. Ông Tuất đập bốn quả trứng gà đánh đều lên với một củ hành tây xắt lát. Khi trứng chiên vừa chín tới ông để nguyên cái chảo nhỏ mang ra bàn nhậu:
– Các cậu ăn đi coi tui làm có giống bà Tàu không? Bằng, mày làm chén xì dầu ớt cho cậu Văn và cậu Kim chấm!
Ông Tuất cầm ly rượu của mình nhấp một hớp nhỏ. Lúc nãy ông nghe Kim đề nghị Văn viết chuyện của ông, của Kim và chuyện của thằng Bằng thành tiểu thuyết. Nghe Kim đề nghị như vậy ông Tuất hơi tư lự!
Chuyện của thằng Bằng thì đành một lẽ, chuyện cậu Kim cũng vậy còn chuyện của nhà ông chỉ là chuyện ông nội ông với hai bà vợ thì có gì là đặc sắc?
***
Vầng trăng khuyết treo trên trời cao bàng bạc. Một cơn gió nhẹ thoảng qua khiến mấy cành thông cạ vào nhau phát ra tiếng rì rào. Cây thông có hai thân cao cỡ ba mươi mét, tàng cây vừa phải không rậm cũng không thưa lắm. Cây thông này có lẽ sống gần trăm năm, chắc nó chứng kiến lắm cuộc bể dâu. Chuyện về cây thông nhiều lắm nhưng “ớn lạnh” nhất là chuyện… ma. Những năm thập kỷ sáu mươi thế kỷ trước, người làm vườn thường gánh rau đi chợ Mới bán. Đường xa, lại chỉ trông chờ vào sức con người nên họ phải lên đường từ rất sớm. Bà Năm Thẩm thức dậy lúc ba giờ sáng, ba giờ rưỡi bà gánh năm chục ký khoai tây trên đôi dóng gánh được đan bằng mây và tre. Khi lên hết dốc ông Năm Tần, bà đặt gánh khoai xuống đất nghĩ mệt. Thình lình bà nghe một tiếng hát ru con, giọng hát tha thiết buồn “ầu ơ…dí dầu cầu ván đóng đinh, cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi…”.
Bà nhìn quanh trong lòng lấy làm ngạc nhiên, ai lại ru con vào giấc này? Bà ngước mắt lên cây thông hai thân, một thiếu phụ mặc quần áo trắng lưng tựa vào một thân cây, hai chân đạp vào thân cây còn lại, thân hình người đàn bà lưng lửng giữa trời. Mái tóc thiếu phụ thả dài bay trong gió, hai tay ôm một đứa nhỏ đòng đưa như nằm võng. Một dòng điển hay là nỗi sợ thâm nhập vào bà Năm, bà thấy cơn lạnh đột nhiên phủ kín con người bà khiến bà như bị đông cứng lại, đôi mắt bà nhìn trân trân vào cây thông còn tai bà vẫn nghe tiếng hát ru như vọng lại từ nơi đâu xa thẳm. Tình hình đó không biết kéo dài bao lâu, bà không ý thức được cho đến khi con ki chạy theo bà sủa một tràng bà Năm mới tỉnh, cây thông lặng như tờ nào có thấy điều gì khác lạ? Đận đó bà Năm Thẩm nằm liệt đến cả tuần. Dân xóm bảo bà gặp ma, con ma này là hồn của con bà Xâm chết vì băng huyết khi sinh con, ông Năm phải làm một mâm cúng cô bác trước sân nhà và một con gà luộc dưới gốc thông hai thân bà Năm mới hết bệnh…đó là Tuất nghe nói như vậy.
Bây giờ nhớ lại chuyện bà Năm gặp ma tại con dốc này, Tuất cảm nhận được một cơn ớn lạnh đang xâm chiếm lấy mình. Hương dặn Tuất mỗi khi một mình đi đêm thấy điều gì kỳ lạ:
– Mày mà gặp ma, cứ bắt ấn tý tay trái nghĩa là lấy ngón cái đặt vào gốc ngón áp út, nắm chặt tay lại rồi hít một hơi thật chậm thì sẽ lấy lại bình tĩnh ngay!
Tuất lấm lét nhìn lên chỗ thân cây, bỗng nhiên vầng trăng khuyết chui vào một đám mây, mường tượng trên hai thân cây thông có cái gì đó đung đưa, đung đưa khiến anh hết hồn. Tuất chưa kịp bắt ấn tý như lời Hương dặn thì đã nghe tiếng người lao xao.
Tuất ngay lập tức quên hết mọi chuyện, từ vầng trăng khuyết treo trên trời cho đến con ma trong tưởng tượng. Anh chuẩn bị tư thế cho thiệt đàng hoàng rồi bước ra khỏi bụi ngũ sắc mọc ven đường dưới chân dốc. Tuất biết sáng sớm nay cô Loan gánh rau đi bán với thím Hai, anh nghĩ mình chờ sẳn chỗ này để đưa hai người đi cho họ khỏi sợ ma và biết đâu cô Loan “chịu đèn” anh? Bà Hai Thị thình lình thấy một bóng người hiện ra bà quăng đôi dóng gánh hét lên:
– Mèn đét ơi…ma…ma!
Cô Loan là cháu bà Hai, cô cũng quăng gánh rau, cô la lên “má ơi…ma…ma…”, cô ôm cứng lấy bà Hai, cô khóc hu hu! Tuất vội vàng lên tiếng:
– Con đây mà thím Hai, con là thằng Tuất đây!
Khi đã bình tĩnh trở lại, bà Hai Thị chửi:
– Thằng quỷ làm tao hết hồn…mà bay làm gì ở chỗ này vậy?
Tuất cười cầu tài:
– Thím Hai và cô Loan đừng giận, con đi uống cà phé sáng nghe tiếng người con đứng đây chờ …chỗ này ma hay hiện lên nhát người lắm!
Cô Loan đã hết khóc và buông bà Hai ra giờ nghe Tuất nói như vậy cô lại ôm chầm lấy bà Hai:
– Là anh Tuất hay là m…a….
Hai tiếng.
Xứ sương giăng: Ông già bá xôi ở cây số 6 – Truyện dài Võ Anh Cương
26 Tháng 12, 2022
346
Chương 5
(Vanchuongphuongnam.vn) – 1. Một con đường – 2009 – Từ nhà ông Tuất ra về, Văn sực nhớ lâu quá mình không gặp ông An. Không biết ông già làm ăn ra sao, Văn nghĩ khi cho xe chạy về phía nghĩa trang. Qua nghĩa trang xổ xuống con dốc là đến nhà ông An, con đường được đổ bê tông nên bằng phẳng, dễ đi. Chắc con đường mới được làm, màu bê tông còn mới lắm. Thỉnh thoảng Văn gặp một cái gờ giảm tốc, có lẽ khi thi công làm gờ này hơi cao nên đi xe máy tới chỗ này phải chạy thật chậm chứ không là té, dường như cái gờ này hơi thừa. Văn chưa kịp đến nhà ông An thì nửa đường gặp Bằng chở một người phía sau.
Nhà văn Võ Anh Cương
Hai chiếc xe máy đối đầu nhau giữa đường nhưng chẳng gây chút trở ngại giao thông nào. Bằng hỏi:
– Ông đi đâu mà vô đây?
– Lâu quá không ghé nhà chú An, không biết dạo này ổng ra sao?
Người ngồi sau xe Bằng lên tiếng:
– Ông An à, giờ thì ổng khẩm rồi!
Văn hỏi:
– Chú An trúng hàng à… mà tôi thấy anh quen quen?
Bằng giới thiệu:
– Đây là Phúc, bộ ông quên rồi sao? Hôm nhậu nhà chú An có ông Long đó, Phúc cuối biền mới vô!
Văn vỗ đầu:
– Ái chà…cái đầu này, xin lỗi ông nhé!
Phúc cười:
– Có gì đâu, anh vô nhà chú An trước đi, chút tui với thằng Bằng ghé sau. Tui đi lấy cái xe sửa ngoài ngã ba.
Khi Phúc và Bằng đến nhà ông An họ thấy anh nhà báo đang nói chuyện gì đó với ông An mà ra vẻ rất say sưa, Phúc hỏi ngay khi vừa bước vào phòng khách:
– Chú và ông Văn đang nói chuyện gì đó?
Ông An trả lời:
– Anh nhà báo nhà văn hỏi về con đường dẫn vô xóm mình thôi mà!
Phúc nhìn Văn:
– Ông muốn hỏi gì thì hỏi tui nè, tui là người của dân hai tổ trong này bầu làm giám sát!
Nãy giờ Văn hỏi thăm ông An về con đường, con đường đổ bê tông xi măng trông khá chắc chắn, bề mặt chừng gần 5 mét. Ông An cho biết từ ngày có con đường dân vùng làm vườn trong này đi lại dễ dàng, họ thật sự thoát khỏi cảnh mưa thì lầy lội còn nắng thì bụi mù trời. “Toàn bộ do dân đóng góp đó cậu ạ, cử bổ theo đầu sào đất vườn mà thu, cũng phải gần hai năm mới đủ”, ông An cho hay. Với một người làm báo, Văn cảm nhận bên trong câu chuyện làm đường này có cái gì đó…không bình thường như cách nói của ông An. Bây giờ anh nghe Phúc xưng là giám sát thì hay quá, Văn “bập” liền:
– Ghê chưa, ông là giám sát cơ đấy!
– Tui chỉ là thành viên, còn 4 người nữa.
Rồi không đợi Văn hỏi, Phúc nói liền một mạch:
– Bà con trong này mong được một con đường đổ bê tông từ lâu lắm rồi, đường đất thì có từ thuở mở đất làm vườn kia. Nghe mấy ông già lớn tuổi kể lại, vùng này trào ông Diệm ty canh nông cho trồng thử lúa nước nên cán bộ xây dựng nông thôn hồi đó đi xe Jeep đến đây tạo thành một đường mòn. Đến khi bà con mua lại vùng này của người Lạch để làm vườn, bà con không làm đường mới theo con đường mòn bởi vì đường mòn chạy qua đỉnh đồi tạo nên độ dốc lớn. Bà con làm đường men theo thung lũng tuy có dài hơn nhưng đường mới vợi hàng rất tiện. Hồi đó ông già tui đi làm theo sự huy động của xóm hoài, cứ một cái cuốc chỉa hay cái vá là a lê… lên đường.
Ngừng một chút nhấp ngụm nước trà ông An rót nãy giờ, Phúc tiếp:
– Tui nói vậy để ông nhà báo biết con đường này giống như vận mạng dân xóm trong này nên bao năm nay hai mùa mưa nắng bà con lại được huy động để đi sửa đường cũng là cách đào đất lấp ổ voi ổ trâu thôi. Mùa mưa đường trơn trợt tui té hoài, nhứt là mỗi lần…sỉn!
Văn cười:
– Chắc bà xã cự dữ?
– Còn phải nói, mấy bà ghét nhậu lắm nhưng hễ có món ngon là làm… đồ nhậu, ai mà chịu được chớ hả? Mà muốn làm đường ngọt xớt như mấy bà làm đồ nhậu thì ông tổ phải xin ý kiến phường, nếu được đồng ý mới làm còn không… khó à nghen!
– Văn hỏi:
– Phường có đồng ý không?
– Họ ủng hộ bà con quá xá, nói bà con thông cảm nhà nước, đúng ra nhà nước phải làm nhưng hiện kinh phí kẹt nên ưu tiên chỗ khác trước…. Rồi ông phó chủ tịch lại hướng dẫn ông tổ về làm phương án, lên dự toán trình phường, phường trình lên cấp trên nếu được thì nhà nước và nhân dân cùng làm, kinh phí cưa đôi!
Kinh phí cưa đôi có nghĩa là dân một nửa nhà nước một nửa. Đã là nhà nước dù cũng chỉ chi như dân nhưng đó tiền ngân sách rót nên ông nhà nước làm chủ dự án, dân chỉ giám sát thi công thôi! Phường sẽ lo tất cả, dân cứ yên tâm sẽ có con đường ngon lành cành đào! Đa số bà con nghe ông tổ trưởng báo vậy thì gật gù nhưng có mấy người thì hơi nghi nghi. Họ nghi bởi vì họ đã từng đi trên những con đường do công ty XYZ mà phường giới thiệu sẽ thi công cho họ. Họ nêu ý kiến, đa số giật mình vì cái gật đầu của mình. Vậy là bà con kéo lên khảo sát con đường được các ông dân phát hiện. Thiệt là tệ, con đường đổ bê tông mới nửa năm mà xuống cấp trầm trọng, tổ báo phường, phường gật, mải sau mới cử người xuống coi… rồi im luôn tới giờ. Bà con tại chỗ nói vậy.
Dân kéo về bàn nhau rằng ta xin phường tự làm, số tiền nhà nước hỗ trợ dành cho chỗ khác khó khăn hơn, “đó là cách nói khéo”, ông An đệm theo chuyện kể. Ban đầu phường ứ chịu, sau nhờ ông bí thư tổ có chưn trong cấp uỷ làm việc sao đó, cuối cùng phường cũng lơ để cho dân vùng này tự làm.
Phúc nói “tụi tui ghi chép đàng hoàng từng mẻ bê tông, cứ theo lời của thằng con ông Bảy Xị, nó là kỹ sư xây dựng: xi măng bao nhiêu, cát, đá 1×2 bao nhiêu, đổ dày bao nhiêu đúng theo tiêu chuẩn, không ai có thể ăn gian lấy một ký xi măng nào hết. Ông yên tâm con đường này dùng phải hơn chục năm là ít nhất!”.
Con đường hoàn thành đúng y như bà con mong đợi nhưng nó không có trong báo cáo thành tích của phường năm đó, trong văn bản nó vẫn là con đường đất!
Đó là những gì Văn biết khi rời nhà ông An. Cái này làm phóng sự điều tra được đây, nhưng thể loại đó dường như…đã không còn đất sống?
2. Gia phả – 2010
Cầm trên tay cuốn gia phả ông An đưa, Văn chưa vội đọc. Anh đang nghĩ về nghề của mình, một nghề mà hồi nhỏ anh không bao giờ nghĩ tới. Dường như nghề làm báo chọn Văn chứ không phải Văn chọn nghề làm báo nhưng dù gì đi chăng nữa nghề báo cũng cho anh nhiều cung bậc càm xúc trong những năm qua. Văn đã trải qua nhiều thử thách và đã vượt qua, có điều đôi khi cũng bị u đầu mẻ trán!
Thử thách trước mắt Văn giờ là gia phả học. Văn chưa được học hay nghiên cứu về bộ môn này, chỉ biết qua loa đại khái rằng một gia phả, phả ký hay phổ truyền đôi khi cung cấp nhiều tư liệu quý cho nhiều nhà xã hội học, sử học về sau cho dù được viết súc tích hay đơn sơ nhất.
Hôm qua sau khi hỏi về con đường “làm lụi” xong, bất thình lình Văn nhớ tới ông Tuất với câu kết luận “Cậu thấy sao, chuyện này cũng “đượm” chớ hả. Tôi còn biết nhiều chuyện ở xứ sương giăng này lắm hôm nào rảnh cậu cứ lên đây tôi kể cho nghe chuyện nhà ông An với ông Vinh chồng bà Hóa, hấp dẫn lắm nghe”. Ký ức giống như một con quái vật, thoắt ẩn thoắt hiện không biết đâu mà lường. Lúc nãy khi gặp Phúc, Văn không nhận ra anh làm vườn đã cùng uống rượu với mình mà giờ gặp ông An, chi tiết câu chuyện mấy năm về trước lại xuất hiện mới thật là kỳ. Hồi Văn mới quen ông Tuất ở ngã ba cây số sáu anh chưa biết ông An, Văn nghe ông Tuất hứa kể chuyện ông An bà Hoá thì biết vậy chứ chưa có ý gì. Sau cuộc rượu bất ngờ khi Bằng dẫn Văn lên nhà ông An rồi gặp đại tá Lê Chí Long, Văn quen ông An, gặp lại ông nhiều lần, lúc thì ở nhà ông Long, lúc trong nhà hàng hay tại ngôi nhà cấp 4 rộng trên trăm mét toạ lạc trên một ngọn đồi nhìn qua Thung lũng tình yêu. Từ lúc đó Văn trở thành người thân của hai anh em ông Long!
Văn hỏi:
– Nghe nói chú đồng hương với bà Hoá, ông Vinh phải không?
Ông An ngạc nhiên:
– Ai nói cho cậu biết?
Văn cười không đáp, thấy vậy ông An nói “chắc ông Long nói chứ gì…quái lạ làm sao ông Long biết bà Hoá, ảnh đi tập kết từ hồi nhỏ mà?”. Ông An vẫn thấy anh nhà báo nhà văn cười cười và lắc đầu, ông tiếp:
– Chịu cánh nhà báo nhà văn các cậu, cái gì các cậu cũng biết…nhưng mà cậu muốn biết điều chi?
– Thì đất mới gặp người đồng hương là vui rồi, mà bà Hoá lại bán hàng phục vụ nông nghiệp nữa, cháu nói có đúng không?
Ông An cười:
– Cậu nói cũng có phần đúng. Nếu mà ở ngoài quê thì không bao giờ tui ngó tới nhà đó…nhưng bây chừ ở đây, chuyện cũ như nước chảy mây trôi mất rồi!
Văn rắn mắc hỏi:
– Sao vậy chú?
– Cậu sinh sau đẻ muộn không trải qua nhiều cảnh ngộ thời chiến. Tui chứng kiến cảnh cha tên Vinh dẫn dân vệ vào nhà bắt cha tui, từ đó đưa đi đâu không biết…sống chết ra răng không biết! Phận làm con mà đến chừ không biết ngày chết của cha là ngày nào để cúng chén cơm, dĩa muối cậu thấy có… đau không?
Mắt ông An bỗng nhiên sụp buồn khiến Văn thấy ái ngại. Anh tự trách mình khi không lại lôi chuyện cũ ra làm gì để ông An buồn. Như nắm bắt được ý nghĩ của Văn, ông An nói tiếp:
– Mua bán thì tui cũng mua bán bình thường với chỗ bà Hoá, sau này là cô Chi… nhưng thân cận thì không bao giờ!
Ngừng một chút ông An nói tiếp:
– Nguyên nhân không chỉ chừng đó đâu cậu à, uyên nguyên của nó thì dầy dặn hơn nhiều. Để tui cho mượn cuốn gia phả nhà tui cậu đọc sẽ thấy… mà nó liên quan đến một phần lịch sử đó cậu Văn à!
Rồi ông An nhìn Văn cười cười:
– Nhân tiện thì tui nhờ cậu đánh máy vi tính cho gia phả nhà tui chớ cuốn chép tay này tui e để lâu không được…mà cậu là nhà báo nhà văn nên tui nhờ cậu “dò” cho kỹ thiệt kỹ chứ không đời sau hiểu sai thì phải tội!
Ông già “bản lãnh” thiệt, Văn nghĩ. Một hòn đá mà chọi được hai con chim mới khéo chứ. Nhưng là người vật lộn với chữ nghĩa anh thấy ông An chọn…đúng người, vả chăng Văn rất vui khi giúp ông An. Văn nói:
– Chú yên trí, chú chọn đúng người rồi. Cháu sẽ in cho chú mấy cuốn gia phả tuyệt đẹp để đến trăm năm hay hơn nữa cũng không xi nhê gì!
Sau lời cám ơn, ông An bắt qua chuyện khác không đá động gì đến bà Hoá ông Vinh nữa. Ông lục trong tủ trà ra một củ giống như củ gừng nhưng vỏ sần sùi, ông đưa cho Văn:
– Tui định biếu cậu thứ này lâu rồi nhưng không có dịp đưa. Đây là một thứ ngải, cậu uống rượu có say quắc cần câu chỉ cần nhai một lát củ này, dăm phút sau tỉnh như chưa từng uống rượu. Tui tặng cậu bởi cậu là nhà báo nhà văn!
Văn hỏi:
– Thiệt vậy hả chú?
– Nói nào ngay, thứ ngải này tui được mấy người Lạch quen biết cho lâu rồi, tui đã từng dùng kết quả thì khỏi nói. Vừa rồi tui phát hiện một cây củ này ở sau nhà….
3. Thung lũng tình yêu – 1970
Ông An mời:
– Trưa nay mời cậu ở lại dùng cơm với nhà tui, lâu quá không được nâng chén với cậu!
Nâng chén nghĩa là uống rượu, rượu mà uống buổi trưa nếu say thì mệt lắm, Văn thoáng nghĩ. Nhưng không, rượu ông An mời trưa nay chỉ đúng một chén con con mà thôi:
– Thứ rượu ni tui ngâm bằng trái dứa dại miền biển, nó có giá trị như thuốc nếu dùng đúng liều.
Cơm nhà nấu ngon quá. Gạo dẽo, ngọt. Thức ăn ngoài món cá rô phi chiên còn lại là sú luộc mềm chấm hột vịt dầm nước mắm, lấy nước thêm vô hai trái cà chua thành canh. Trên bộ xa lông nhìn ra một thung lũng, ông An rót nước chè tươi vào hai cái bát mời Văn:
– Mời cậu thời…. Bầy tui vô trong ni lâu rồi dưng mà vẫn thích uống nát trong cái bát đất thôi!
Bỗng dưng ông An nói giọng quê khiến Văn lấy làm ngạc nhiên, anh hỏi:
– Chắc chú nhớ quê?
Ông An nâng bát chè xanh lên nhấp một ngụm:
– Chuyến về thăm quê với anh Long khiến tui nhớ lại nhiều thứ, còn bây chừ tui lại nhớ chuyện ở đây. Hồi tui mới vô đây ở, vùng này đồi núi còn hoang sơ lắm không như bây giờ.
Ông An giơ tay chỉ xuống một thung lũng:
– Hồi đó Thung lũng Tình yêu ở dưới quả đồi trước mặt chứ không phải chỗ bây giờ đâu. Chỗ đó hồi trước bầy tui gọi bằng hồ Đa Thiện… nhưng mà vật đổi sao dời cũng là chuyện bình thường. Chiều chiều từng cặp nam nữ đến đây tình tự, ngày chủ nhật thì thanh niên nam nữ đến đây chơi đông hơn, họ cắm trại, ca hát rồi xuống hồ chữ S tắm. Vui lắm!
Ông An như chìm vào ký ức, Văn tôn trọng khoảng lặng của người già anh bâng quơ nhìn thung lũng tình yêu đích thực như lời kể của ông An. Cái hồ chữ S giờ không biết nằm đâu trong đoạn suối dưới lòng thung?
Ông An tiếp:
– Hồi đó tui quen với hai người, đó là một cô gái và một chàng trai. Cô gái chắc nhỏ hơn tui nhưng chàng trai thấy cứng cáp hơn tui. Anh ta có lẽ là một người lính qua cách đi đứng, nói chuyện của anh ta. Tui cũng có một thời đi lính nên không lạ gì tác phong này. Nhưng lúc đó tui lại trốn lính nên hơi ngại, người thanh niên thấy vậy nháy mắt với tui rồi nói:
– Trốn lính hả, kệ, hồn ai nấy giữ!
– Người thanh niên tên Đệ, người con gái tên Loan, họ chở nhau trên chiếc Honda S66 đến đây tình tự. Không như những người khác, Đệ và Loan đến thung lũng tình yêu hướng bên đất mới chứ không phải từ trên đồi đi xuống. Họ hay qua trại tôi ở xin nước uống, thỉnh thoảng cô Loan biếu tôi ít mận Trại Hầm hay vài trái ổi xá lỵ….
Một hôm không hiểu sao họ đến thung lũng tình yêu khá muộn, mây đen kéo kín trời. Họ chạy vội qua trại của tôi xin trú mưa, cô Loan đã ướt áo rồi. Mưa càng lúc càng hung, có lẽ mưa cả đêm không chừng. Tôi nấu cơm mời cô Loan và cậu Đệ ăn. Cơm dưa cà cá mắm thôi nhưng họ ăn ngon lành. Họ đành ngủ lại nhà tôi vì không thể về, mà qua 9 giờ tối là đến giới nghiêm…. Thời buổi chiến tranh, tuy ở đây chưa có gì là ác liệt nhưng tiếng súng cũng là một thứ tiếng quen thuộc. Nhà có mỗi cái giường tui định nhường cho khách nhưng anh Đệ nhứt quyết không chịu, họ xin ngủ trên bộ phản tôi dùng làm nơi ăn uống. Mưa đến khuya mới tạnh, sáng ra họ về sớm.
Từ đó tui không thấy họ lên thung lũng tình yêu nữa, không biết họ gặp chuyện gì….Trưa ni tui sực nhớ đến ông Đệ, cô Loan, tui kể cho cậu nghe cũng vì cậu là nhà báo nhà văn….Tính đến giờ cũng tròm trèm 40 năm mà tui thấy như mới ngày hôm qua!
4. Truyện ngắn Thung lũng Tình Yêu – 2010
Truyện ngắn Thung lũng Tình yêu Văn viết trong một đêm mưa….
Không biết ai cho địa chỉ của tôi mà anh tìm đúng phóc nhà tôi khi vừa về nước. Trông anh trẻ hơn tuổi sáu mươi của mình. Tôi ngắm anh trong chiếc quần jean, chân mang giầy thể thao, áo phông bỏ thùng. Còn anh thì nhìn tôi tủm tỉm cười. Anh nói:
– Trông cậu cũng vậy, không khác ngày trước mấy, có điều mập hơn một chút!
Tôi mời anh vào nhà, chưa vội ngồi ngay, anh nhìn quanh quẩn phòng khách rồi hỏi:
– Vậy chớ nhà cậu không treo ảnh gia đình hay bạn bè à?
Tôi trả lời trước kia em có treo nhưng năm rồi quét sơn lại em cất mấy tấm hình vào tủ không treo nữa. Anh hỏi sao vậy, treo hình gia đình mình cũng là một nét đẹp của người Đà Lạt mà, sao cậu lại cất đi, tiếc thật. Anh chậm rãi ngồi xuống bộ sa lông, tay anh mân mê tách trà nóng tôi vừa rót, anh nhấp một ngụm nhỏ rồi nói:
– Tôi có đem cho cậu một chút quà, để trong một cái túi xách nhưng xuống phi trường lại bị thất lạc mất, về đến mấy ngày mà vẫn không nghe hãng hàng không thông báo gì cả, cậu thông cảm.
Tôi nói anh về thăm quê là quý rồi còn quà cáp làm gì, của một đồng công một lượng. Tôi hỏi tiếp anh về được bao lâu, anh thấy quê mình giờ ra sao? Anh trả lời cậu cứ coi tôi như người xa lạ, cứ hỏi y như một công thức vậy, sao lại thế? Tôi ngạc nhiên anh ơi, ai về lại quê hương đều được người ta hỏi vậy mà, đâu riêng gì em? Anh cười, cậu biết không bên đó tôi tìm được hãng truyền hình có kênh VTV4, tôi không lạ thời sự trong nước đâu. VTV4 cũng chiếu cảnh Đà Lạt hoài, nhất là mấy kỳ Festival Hoa Đà Lạt, chà coi hoành tráng dữ. Mà thôi, tôi muốn rủ cậu đi chơi với tôi một chút được không? Tôi nói ô kê, anh chờ em xíu, em thay quần áo, anh em mình đi liền.
Con đường Thánh Mẫu trải bê tông nhựa nóng vòng vèo đưa tôi và anh đến Thung lũng Tình yêu. Anh cứ đòi đi chơi Thung lũng Tình yêu trước, các chỗ khác đi sau hoặc không đi cũng được, nhứt định phải đi Thung lũng Tình yêu thôi cậu. Tôi mua 2 chiếc vé, anh theo tôi đi qua cánh cổng và vào khu du lịch. Anh ngắm những loài hoa trồng trong những tiểu cảnh, anh nói ở Chicago hoa trên phố nhiều và đẹp hơn ở đây, họ trồng cũng nghệ thuật lắm nhưng hoa ở bên nhà thân quen hơn. Tôi hỏi thân quen là sao anh? Anh đáp như là của mình vậy mà, tôi ngắm hoa không thấy xa lạ, còn bên kia hoa đẹp đó nhưng khi nhìn tôi thấy cứ như người dưng! Về lại Đà Lạt, anh nói thêm, tôi muốn cậu chỉ cho tôi vài loài hoa dại được không? Tôi nói em cũng biết vài loài hoa dại tỷ như Bồ công anh. Anh ngắt lời hoa Bồ công anh màu vàng phải không, tôi biết hoa này, nhưng tôi muốn cậu tìm cho tôi mấy loài hoa không tên kia. Tôi ngạc nhiên hoa không tên ở Đà Lạt cũng nhiều nhưng anh muốn biết loài hoa nào?.
Anh kể “ngày trước, tôi hay lang thang trên đồi cỏ bằng chiếc xe 67, lúc mỏi tay lái tôi tắt máy ngồi xuống bãi cỏ xanh, bên dưới là Thung lũng Tình yêu. Cậu biết không tôi thấy nhiều loài hoa dại mọc rải rác trên đồi. Có một loài hoa màu vàng, cánh hoa chỉ nhỏ bằng móng tay út trẻ con, tôi hỏi một cậu chăn bò đi ngang qua đó là loài hoa gì? Cậu nhỏ nói chú không biết sao, cây này có củ ăn được nó dẻo lắm, tụi cháu kêu là củ dẻo. Tôi chỉ một loại hoa khác, màu trắng, thằng nhỏ trả lời chú nhổ lên đi củ này ăn cũng được nó giống như củ sắn vậy. Tôi nhổ cây hoa lên, quả vậy củ này ăn hơi giống củ sắn, nhưng nó nhỏ chỉ bằng hột đậu phụng. Thằng nhỏ nói chú coi, nó giống hột mưa đá, tụi cháu kêu là cây mưa đá. Còn chú thấy cây ăn ruồi không? Thằng nhỏ chỉ vào một cây, hoa của nó tựa như cái lạp xưởng, màu đỏ có nắp đậy. Thì ra là cây ăn thịt. Tôi nhìn vào bên trong thấy một số bộ phận của ruồi và kiến đang bị tiêu hóa”. Anh tiếp:
– Đó, tôi muốn hỏi cậu mấy loại hoa đó?
Cũng là người Đà Lạt, nhưng tôi chịu chết không biết mấy thứ hoa lạ như anh kể. Anh và tôi đi lên đồi rồi theo con dốc xuống hồ, vừa đi chúng tôi vừa nhẩn nha ngắm cảnh, thỉnh thoảng anh lại bình luận vài câu. Đến cửa đập nước, hồ này nguyên là một con suối bị chận lại, nước dâng lên thành một cái hồ, anh ngừng chân:
– Tôi e cậu lầm mất rồi, đây là hồ Đa Thiện, còn Thung lũng Tình yêu bên kia kìa!
Tôi giải thích anh nói đúng, bây giờ hồ Đa Thiện nhập vào Thung lũng Tình yêu rồi, người ta gọi chung khu vực này là Thung lũng Tình yêu. Anh ngỏ lời muốn tìm lại Thung lũng Tình yêu ngày xưa kia. Tôi ngẫm nghĩ, muốn vậy anh và em phải qua Đất mới, mà chỗ đó giờ người ta làm vườn cả rồi anh ơi.
Anh ngồi xuống bãi cỏ xanh. “Hồi đó chiều thứ bảy tôi thường ra Thung lũng Tình yêu chơi. Tôi dựng xe trên đồi và đi bộ xuống Thung lũng. Tôi còn nhớ dưới thung lũng có một con suối nước trong veo thấy cả mấy con cá lòng tong đang bơi. Lau sậy mọc ken dầy ở một vài đoạn, trên bờ là những bãi cỏ xanh, trên đồi thông vi vu, khung cảnh hữu tình lắm….”. Tôi hỏi ngang anh đi một mình hay hai mình hả? Anh cười:
– Tôi đi chơi với bồ, ai lại đi một mình ra Thung lũng Tình yêu bao giờ, mà thôi cậu để tôi kể tiếp cho cậu nghe.
… Bữa đó tôi dựng chiếc 67 trên đồi khóa cẩn thận rồi dìu Hương đi xuống Thung lũng. Hương người Sài Gòn lên đây trọ nhà người bà con đi học, em học trường nữ trung học Bùi Thị Xuân, còn tôi học trường nam trung học Trần Hưng Đạo. Chiều thứ bảy Hương mới được phép ra ngoài chơi. Tôi hay đưa Hương đi chơi và chở em về tận nhà trước bữa cơm chiều. Bấy giờ tôi mười chín tuổi, Hương thua tôi hai tuổi. Hai đứa tôi quen nhau từ năm tôi vào lớp đệ tam, tôi tình cờ gặp Hương tại nhà một người bạn. Đó là mối tình đầu của tôi và cũng là cuối cùng. Cậu ngạc nhiên ư? Bên Mỹ tôi cũng có bạn gái nhưng chỉ là bạn thôi, đến giờ tôi vẫn sống độc thân, ráng đi làm thêm mấy năm nữa rồi về hưu, chắc là lại nhờ cậu kiếm cho tôi một căn nhà nhỏ để tôi có chốn đi về.
Anh cười héo hắt nói tiếp “Cóc chết 3 năm quy đầu về núi, ông bà ta nói cấm có sai cậu à?”. Anh im lặng một chút, bỗng đâu tiếng chim hót véo von vang lên, một đôi chim te te tờ huýt vừa bay vừa hót. Anh nói tiếp, tôi kể đến đâu rồi nhỉ? Phải, bữa đó tôi dẫn Hương ra Thung lũng Tình yêu chơi, buổi chiều nắng vàng, trời trong mây xanh mà lại vắng người, rất hợp ý tôi. Cậu biết tôi rắp tâm làm điều gì không? Ai mà biết được, tôi nghĩ, trong đầu tôi xuất hiện một cảnh phong tình. Chắc là ổng lại rắp tâm làm hại đời cô thiếu nữ tên Hương chăng? Trong đầu tôi xuất hiện liền tù tì mấy tình huống. Chẳng là tôi ám ảnh bởi biết bao chuyện xấu xa diễn ra. Báo chí nói đầy, các ông nhà báo kể chi tiết những chuyện hảm hại đời con gái người ta cứ như là đang chứng kiến vậy. Chớp mắt thôi mà sao tôi lại nghĩ được nhiều chuyện đến vậy chứ? Chắc anh cũng vậy, chẳng là anh đang rắp tâm đó sao?
Anh hắng giọng. “Tôi rắp tâm tỏ tình với Hương bên bờ suối, chỗ con suối lượn lờ hình chữ S, chúng tôi gọi là hồ chữ S”. Chỉ vậy thôi sao, tôi nghĩ, có ghê gớm gì đâu, nhưng tôi không lộ ra mặt. Anh tiếp “tôi mất đến hai năm trời để nghiền ngẫm ba chữ thôi mà không nói được, chiều nay nhất định tôi phải nói với Hương, tôi nghĩ như vậy. Khi hai đứa ngồi xuống bờ suối, Hương đung đưa chân nghịch nước, nước bắn tung tóe ướt cả áo tôi. Tôi hít một hơi dài, nắm bàn tay em rồi nói:
– Hương, anh muốn nói với em một điều?
Hương ngước mắt nhìn tôi:
– Anh nói đi, em nghe?
Tôi nói:
– Anh…anh yêu em!
Hương cười:
– Em tưởng anh nói điều gì khác kia chứ chuyện ấy em biết từ lâu rồi!
Tôi sửng sốt nhìn Hương không nói tiếp được một tiếng nào. Hương lại cười, nụ cười của em làm tôi chết mệt. Em nói:
– Em đọc trong mắt anh điều đó từ lâu rồi, anh không tin sao?
– Không, anh tin chứ, có điều em…em có….
Hương nghiêm mặt:
– Em chưa biết, nhưng em đang chờ anh chứng tỏ tình cảm của mình đối với em!
– Anh phải làm sao để em hiểu tình cảm anh dành cho em?
Hương nói:
– Em không biết!”
5. Tiếp tục Thung lũng Tình yêu – 2010
Anh ngừng ngang câu chuyện đang kể. Nãy giờ tôi chú ý đến chuyện tình của anh, nó không nhạt phèo như cách vào chuyện. Cô Hương ấy cũng cá tính dữ, tôi nghĩ. Đề bài cô dành cho anh không hóc lắm nhưng chắc là phải có nhiều lời giải, tôi đâu biết được tính cách con người của cô Hương? Tôi giục:
– Anh kể tiếp đi?
“Cậu biết không, tôi dìu Hương lên đồi, chiếc 67 tôi khóa cẩn thận vậy mà không cánh mà bay. Tôi vừa tiếc của vừa bực tức và tội nghiệp Hương vì phải đi bộ về nhà, đâu ít gì gần bảy cây số! May mà tụi tôi vẫy được chiếc xe lam chạy từ Đa Thiện về phố. Xe ngừng ở bến đường Tăng Bạt Hỗ, tôi đưa Hương về nhà tận Xuân An cách bến chừng hơn cây số rồi lội bộ về nhà. Mới đi qua rạp Ngọc Hiệp, một toán cảnh sát áo trắng chặn tôi lại. Sau cái chào là màn hỏi giấy. Tôi làm gì có giấy Hoãn dịch nên méo mặt leo lên chiếc xe GMC chờ sẳn. Tụi nó tập trung đám thanh niên bị bắt lính ở một ngôi nhà to gần ngã ba chùa, đâu như trước kia là Hợp tác xã rau gì đó. Bọn cảnh sát phát cho mỗi người một ổ bánh mì và nói sáng mai sẽ thanh lọc, ai có giấy tờ gì thì nhắn người nhà mang xuống. Tôi nhìn ngang nhìn ngửa, cố tìm người quen qua cánh của chớp của ngôi nhà. Tin lành đồn xa, tin dữ cũng đồn xa, thân nhân của đám thanh niên bị bắt kéo đến tìm người nhà mình. Người thì đưa giấy tờ, người thì tiếp tế thức ăn hoặc đưa quần áo, chăn màn…. May quá, tôi nhìn thấy chú Sáu bạn của cậu tôi, chắc chú cũng có con bị bắt như tôi vậy! Sau này nghĩ lại, nếu hôm đó tôi đừng gặp chú Sáu thì đời tôi có lẽ không phải lang bạc tận xứ người….”
Tôi ngạc nhiên với lời tự sự của anh, định hỏi nhưng thôi. Đúng vậy, sau một chặp im lặng anh nói tiếp. “Tôi biết chắc mình dính chấu rồi, tôi 19 tuổi đang học lớp 12 thì ai cấp cho tôi Giấy Hoãn dịch chứ? Nếu chỉ có cái căn cước, tôi sẽ bị hốt xuống Trung tâm Huấn luyện Quang Trung ở Hóc Môn, 3 tháng sau thì ra trường tôi sẽ bị tống ra sư đoàn 22, 23 gì đó. Cậu à, tôi biết làm thằng lính khổ như chó, nên khi gặp chú Sáu tôi mừng lắm, tôi nhắn chú nói mẹ tôi tìm cho tôi cái bằng Tú tài 1 để mai tụi nó thanh lọc, tôi đưa ra chắc là được đi học Thủ Đức. Ở Thủ Đức tôi gởi thư cho Hương có đề địa chỉ KBC 31….đàng hoàng, vậy mà không nhận được hồi âm của em. Sáu tháng ở quân trường, tôi ra trường với cái lon chuẩn úy rồi bị đưa ra sư đoàn 23. Cậu phải biết, vùng Bình Định nơi tôi đóng quân chiến tranh ác liệt lắm, tôi chẳng muốn đánh đấm chút nào, nhưng guồng máy chiến tranh nó lôi nghiến tôi đi. Tôi cũng bị thương vài lần may mà nhẹ, còn mạng mang về. Mấy năm ở lính tôi biên thư cho Hương nhưng vẫn biệt vô âm tín. Hết chiến tranh tôi rã ngũ chạy về Đà Lạt, ra trình diện rồi đi Sông Mao học tập mất mấy năm. Cậu biết rồi đấy, những năm đó khó khăn quá, tôi không có một chút tin tức nào của Hương. Ra trại, tôi về nhà, làm nghề tự do. Tôi mua mấy cái tăng phô đèn nê ông đôi của Mỹ tháo ra mang xuống Nha Trang bán cho mấy tàu đi đánh cá đêm. Cứ vậy tôi sống cũng không đến nỗi nào. Hàng tháng tôi lên Đồn Công an trình diện, may gặp được ông Trưởng đồn thông cảm không làm khó. Rồi có chương trình HO, tôi đăng ký đi HO5, trước khi đi tôi có qua nhà chào cậu, nhưng cậu lại đang đi học ở Sài Gòn. Qua Mỹ, tôi đi học lại lấy được cái bằng kỹ sư cơ khí rồi đi làm đến giờ. Lần lữa mãi, năm nay tôi mới về…”.
Anh ngừng ngang câu chuyện, tôi cũng im lặng và nhớ lại cái lần quen anh cách đây cũng rất lâu. Chiều hôm đó tôi đang trên đường về, tôi đi băng ngang con đường xuyên mả thánh số 4 gần ấp Hà Đông. Tôi dắt chiếc xe đạp cà tàng vừa đi vừa dòm hai bên đường. Trời mới mưa xong, cơn mưa đầu mùa xua đi bao nóng nực. Tôi không chú ý đến cái chuyện mát mẻ của không khí đầy hơi nước chung quanh, tôi chú ý đến…những con bọ rầy. Đầu mùa mưa, bọ rầy sinh sôi rất nhiều, chiều chiều chúng ưa bám vào những ngọn thông non để kiếm ăn. Kia rồi, một cây thông non bị bọ rầy bu kín. Tôi vứt chiếc xe đạp mặc cho nó ngã chỏng chơ, tôi bắt bọ rầy bỏ vào chiếc túi ny lông tái sinh màu xám nhờ nhờ tôi mang theo và cất trong cái túi vải treo trên đòn dông xe đạp. Tôi mê mải bắt bọ rầy, hết cây thông ngày đến cây thông khác, hết chỗ nhốt bọ rầy trong túi ny lông, tôi không ngần ngại mở nắp lon ghi gô đựng cơm trưa ra bỏ bọ rầy vào. Khi tôi ngẩng lên tôi thấy anh. Anh cười làm quen:
– Cậu bắt bọ rầy làm gì vậy?
Tôi cũng cười với anh, tôi nói “em đem thứ này về nuôi vịt”. Tôi giải thích thêm, bầy vịt của em tăng gia khoản chừng ba chục con, thứ này đem về cho vịt ăn, chúng mau lớn lắm. Anh biết không, em còn đi đào trùn cho vịt ăn nữa đó, đầu mùa mưa, trùn nhiều lắm. Vui miệng tôi nói “vịt cũng như người vậy anh à, lâu lâu cũng phải có chất tanh chúng mới lớn. Thỉnh thoảng chừng hai ba tuần, em mần một con để cải thiện”. Anh nói vậy sao, cậu có vịt ăn là nhất rồi. Tôi cười lặng lẽ không đáp, không lẽ tôi lại kể anh nghe cùng lắm tôi chỉ gặm được cặp chân, còn phần thịt lóc ra băm nhỏ dành cho thằng con ăn dần, nó cần thịt để lớn chứ trông vào 3 lạng thịt hàng tháng của tôi mang về sao được? Anh nói hay là cậu ghé nhà tôi, nhà tôi có cái hồ đang bỏ hoang cỏ mọc đầy nhưng rất nhiều ốc, cậu bắt về cho vịt ăn, mà món ốc bươu luộc cũng ngon lắm đó. Câu chuyện tôi quen anh chỉ có vậy, tôi đến nhà anh bắt ốc về nuôi vịt, có một lần anh và tôi cũng lựa những con ốc to hấp xả lai rai với nhau ly rượu khoai mì. Rượu nấu từ khoai mì nặng và uống xong thì nhức đầu kinh khủng, nên tôi không uống thêm với anh lần nào nữa, vậy là bầy vịt được hưởng lợi. Quả chúng có chất tanh nên mau lớn lắm, thằng con tôi cũng vậy, nó phổng phao nhờ bầy vịt tôi nuôi chứ cái thứ sữa con chim toàn đường là đường là tiêu chuẩn của trẻ con đâu làm cho nó lớn? Mới đó mà đã mấy chục năm, thằng con tôi đã vào đại học, ra trường, đi làm, có vợ và sắp có con. Vài năm nữa tôi cũng về hưu, vui tuổi già. Già rồi sao, nhanh quá vậy, đôi khi tôi tự hỏi mình như vậy. Tôi nhớ, có lần tôi ghé thăm anh, nói thăm cho ra vẻ chứ tôi muốn bắt ốc là chính. Tôi còn mang vài cái trúm trong đó đựng trùn thối, biết đâu trong cái hồ hoang của anh có lươn? Tôi tìm quanh không thấy anh đâu, cửa nhà không khóa, gọi anh không trả lời. Tôi đẩy cửa bước vào nhà. Anh nằm trên bộ phản, mắt nhắm nghiền. Tôi lay gọi, anh không trả lời, người anh lạnh ngắt. Anh bị trúng gió. Tôi lục tủ tìm chai dầu gió đánh gió cho anh. Lưng anh bầm đen, anh mở mắt nói “cám ơn cậu”. Tôi nấu cho anh nồi cháo hành, hối anh ăn nóng cho ra mồ hôi mau hết bệnh. Nhìn anh ăn nhỏ nhẻ như một đứa trẻ con tôi phì cười. Anh hỏi sao cậu lại cười. Tôi nói lý do, anh trả lời lắm khi tôi muốn mình là trẻ con mà cũng không được, trẻ con là khoảng thời gian sung sướng nhất đời đó cậu.
Vậy mà mấy chục năm trôi qua, giờ anh về, anh và tôi đã qua cái tuổi tri thiên mệnh. Tôi hơn anh một chút, tôi có một gia đình, không giầu gì nhưng cũng không đến nỗi. Còn anh, trơ trọi một mình, nghĩ cũng tội. Chúng tôi ra về, khi đi ngang qua cổng khu du lịch, tôi gặp chị Sáu, chị họ tôi đang bán củ bông huệ. Tôi chào chị, chị hỏi:
– Cậu đi đâu vậy, chà sung sướng dữ ra khu du lịch chơi à?
Tôi nói đâu có em đưa ông bạn bên Mỹ về thăm lại chốn xưa thôi chớ mấy khi mình ghé vô khu du lịch hả chị, Bụt chùa nhà không thiêng mà! Chị chép miệng:
– Cậu nói đúng ít ai ở thành phố du lịch mà đi chơi mấy khu du lịch, toàn người ở xa tới không hà!
Lúc đó anh đang hỏi mua cái mũ cao bồi bằng da, hình như anh thích thứ mũ này lắm. Lúc nãy anh mượn mũ của tay cho thuê ngựa rồi hối tôi chụp cho anh tấm hình. Giờ thì anh mua mũ chắc là đem về Mỹ. Anh đang chọn màu, anh lưỡng lự giữa mau đen và màu cam. Anh gọi tôi cậu ơi màu nào hợp với tôi? Bất ngờ anh buông cái mũ, anh hối hả bước tới chỗ tôi:
– Hương, Hương….
Anh nhìn sửng, bà chị Sáu của tôi mặt như hóa đá. Chị Sáu cũng nhìn lại anh, đôi mắt chị long lanh, long lanh….Trong một cái chớp mắt, tôi vụt hiểu tất cả. Anh và chị Hương, câu chuyện trùng phùng của hai người yêu nhau xưa như trái đất! Tôi để mặc hai người, tôi ra về trước, sự có mặt của tôi giờ vô duyên quá. Bà chị Sáu của tôi chồng chết từ lâu, không con tự kiếm sống bằng nghề buôn củ bông ngoài cổng Thung lũng Tình yêu. Chị chắp nối lại với anh cũng là chuyện bình thường. Còn anh trở về Mỹ một mình cũng là chuyện bình thường hay anh có lấy chị Hương cũng là chuyện bình thường. Bình thường, bình thường….vừa chạy xe tôi nghĩ bình thường về họ như vậy đấy.
Vậy mà chuyện của họ không bình thường chút nào. Anh không về Mỹ, không lấy chị Sáu, anh chết vì một cơn nhồi máu cơ tim! Anh rời xa Đà Lạt từ lâu, lang bạt kỳ hồ rồi về chết tại nơi anh sinh ra đúng như câu nói gỡ của anh “Cóc chết ba năm…”. Hôm mở cửa mả cho anh, chỉ có tôi với chị Sáu. Ngồi bên đống lửa trong chiều tà ở nghĩa trang Thánh Mẫu, chị Sáu và tôi chắc là ủ dột lắm. Bây giờ chị mới hỏi tôi:
– Em ơi, giờ mọi chuyện đã kết thúc, cái số chị vậy, không sống đời với ai được lâu, chị hỏi khi không phải, có phải thím không đưa thơ của anh cho chị?
Tôi lặng lẽ gật đầu, tôi kể, mẹ em nói để cho con Hương nó học, yêu thương sớm không tốt. Mẹ đâu biết em cũng đang yêu, em rình mẹ đi vắng lấy thư anh viết cho chị ra đọc. Ban đầu chỉ là tò mò, sau em chép lại gần như nguyên văn thư của anh gởi chị. Thư tình anh viết hay quá, Hương cứ như mất hồn khi đọc thư tình em viết, cô ấy đâu biết nỗi nhớ nhung ấy là của anh gởi chị. Mà em cũng mới biết chuyện hôm rồi ở Thung lũng Tình yêu, em ân hận quá!
Chị Sáu quay qua tôi nói:
– Thôi cậu, cái số chị nó vậy mà, cậu chép thư tình của anh gởi cho mợ phải không? Rồi chị tiếp:
– Cuối cùng bức thư cũng có người đọc, mà không phải chị. Bây giờ bọn nhỏ yêu nhau có viết thư tình không cậu?
Làm sao tôi biết được, tôi đâu phải là “bọn nhỏ”. Câu hỏi của chị lọt thỏm vào cái không gian hoang hoải của buổi chiều tà.
7. À à… được được – 2010
Đại tá Lê Chí Long nhìn đống bản thảo để trên bàn gương mặt lộ rõ vẻ ưu tư. Công việc “bếp núc” của một tờ tạp chí văn nghệ ra hàng tháng chiếm hết thời giờ của ông. Tuy đã về hưu nhưng bạn bè, nhất là giới văn nghệ sĩ vẫn gọi ông là đại tá, cấp hàm cuối cùng ông mang sau mấy chục năm phục vụ quân đội. Ông Long nhận được điện thoại của nhà báo Văn Văn xin gặp ông một lát. Ông thầm trách “anh em văn nghệ với nhau chứ có phải quan chức đâu mà cậu ấy giữ kẽ thế không biết”. Văn lại nghĩ khác, ông Long tuy là văn nghệ sĩ nhưng ông xuất thân từ quân đội nên nền nếp, tác phong của ông vẫn giữ như hồi ở lính, giờ nào việc đó rõ ràng. Còn Văn nhiều khi sa đà, hay chuyện nên nhiều khi anh tự nhận mình khá…vô duyên!
Nghe tiếng Văn gõ cửa, ông Long lên tiếng:
– Cậu Văn à…mời vào!
Ông pha bình trà mới tiếp khách với từng cử chỉ cẩn thận, động tác tráng ấm, châm nước vào các chén rất thuần thục khiến Văn thích thú, anh mở lời:
– Mỗi lần vào phòng anh là được uống chè Thái, còn ở nhà em “chơi” toàn nước lọc, lên nhà chú An lại được chú mời nước chè tươi, đúng là phong vị mỗi nơi mỗi khác!
Ông Long cười:
– Tôi quen uống trà Thái từ hồi còn ở miền Bắc, hôm nào không uống là thấy nhạt mồm nhạt miệng. Sao cậu gặp tôi có chuyện gì?
Văn nhìn ông Long:
– Em định hỏi xin anh một cuốn tạp chí Lâm Viên số tháng rồi không biết có được không?
Mặt ông Long lộ rõ vẻ ngạc nhiên:
– Tưởng cậu có ý gì chứ chuyện đó nhỏ mà, cậu biết đấy kinh phí cấp ngày càng khó, tạp chí in ra chủ yếu biếu cho hội viên và các đồng chí lãnh đạo ngành nên số lượng tạp chí đưa ra ký gởi ở các nhà sách, sạp báo ít lắm! Tôi cứ tưởng cậu đề xuất một phương án nâng cao chất lượng và đẩy mạnh việc phát hành tạp chí văn nghệ của tỉnh đến người đọc rộng rãi chứ!
Văn cười:
– Anh ơi chuyện “quốc gia đại sự” đâu đến phần em? Nhưng em xin được chia sẻ với các anh tâm nguyện đưa văn học thâm nhập vào đời sống của đông đảo người dân. Chắc ta chưa tìm ra đúng “chìa khoá” để mở cánh cửa đến với bạn đọc chứ không lẽ văn hoá đọc đã…chết như một số ý kiến bi quan trước sự lớn mạnh của mạng phải không anh?
Rồi anh tiếp:
– Số tháng rồi các anh cho cái truyện ngắn Thung lũng Tình yêu của em “đi”, tác giả có một cuốn tạp chí biếu nhưng em xin thêm một cuốn để tặng cho chú An, người kể em nghe một câu chuyện giúp em lấy cảm hứng viết nên truyện ngắn này!
– Tôi nghe anh Chu nói có truyện của cậu khi duyệt nhưng mải đến khi đem tạp chí từ nhà in về tôi mới rảnh để đọc!
Nhìn Văn với ánh mắt lạ, ông Long hỏi:
– Cậu quê ở đây sao, hồi trước tôi ở miền Bắc nên không biết được những chi tiết cuộc sống trong này, anh Chu thường trao đổi với tôi một truyện ngắn hay phải có tình tiết hay, tôi thấy tình tiết trong Thung lũng Tình yêu giống như cậu là người trong cuộc?
Văn cả cười:
– Quê của em có thể nói là Đà Lạt cũng được mà không phải cũng được. Còn như anh nói em giống người trong cuộc thì một phần do em nghiên cứu, một phần do mẹ em kể…mà thôi, chuyện này dông dài lắm, em định hỏi anh một ít chi tiết về dòng họ nhà anh, được không anh?
Ông Long lộ rõ vẻ ngạc nhiên:
– Dòng họ nhà tôi?
– Đúng vậy anh ạ!
Văn đem chuyện cuốn gia phả ông An cho anh mượn xem đồng thời nhờ anh đánh máy vi tính và in giúp ông kể cho ông Long nghe. Văn kết luận:
– Em mới đọc sơ qua, thực ra đây là cuốn phả ký khá vắn tắc, đôi chỗ còn pha trộn một chút huyền thoại nữa anh ạ!
Ông Long cảm động:
– Chú An giỏi quá, bỏ quê vào đất mới lập nghiệp mà còn mang được cuốn phả ký theo. Tôi là nhánh trưởng nhưng lại không có những tư liệu đó, chỉ có một số ký ức mà thôi!
Ông nhấp một ngụm trà rồi nói tiếp:
– Cậu in xong tặng tôi một cuốn được chứ?
– Tất nhiên rồi, em xin đại diện chú An tặng anh chị và các cháu một cuốn Phả ký dòng họ Lê!
Bây giờ em xin hỏi anh số ký ức dòng họ nhà anh, được chứ?
Ông Long vui vẻ ra mặt:
– À à…được được, cậu muốn hỏi điều gì trước?
8. Nhà nông đọc truyện – 2010
Ông An lạ lẩm cầm cuốn tạp chí Lâm Viên trên tay. Sáng nay anh nhà văn nhà báo Văn chạy lên nhà ông rất sớm để biếu ông cuốn tạp chí này rồi đi liền sau khi nói:
– Cháu biếu chú cuốn tạp chí mới nhất đọc chơi, trong này có cái truyện ngắn Thung lũng Tình yêu cháu mượn chuyện chú kể viết thành truyện ngắn này!
Ông An bận xuống vườn bơm thuốc đám cải thảo nên để cuốn tạp chí trên bàn phòng khách, ông định trưa nay ăn cơm xong sẽ đọc. Vườn cải thảo đang “trải” trông khá bắt mắt vậy mà những con sâu tơ tự nhiên xuất hiện. Làm vườn trồng rau chữ thập (loại rau có gân lá ngang và dọc giống chữ thập– tác giả) mà mắc loại sâu này nhiều khi vô phương cứu chữa. Đó là chuyện ngày trước, khi thuốc sâu hoá học xuất hiện trên đồng đất Đà Lạt. Nông dân mừng vui khi bơm những loại thuốc hiệu Mytox thấy sâu tơ chết thảm sầu trên những miếng vườn rau cải. Niềm vui dài chẳng tày gang, chừng một năm sau, gặp mùa sâu nở trên vạt sú đang “vô khuôn” (cuốn), nhà vườn bơm liền tay cũng loại thuốc sâu đó nhưng sâu…không chết mà dường như nó còn mập mạp hơn trước! Họ đâu biết rằng sâu lờn thuốc, hãng chế tạo phải tìm ra loại thuốc sâu hoá học mạnh hơn thì mới diệt được đám giặc tàn phá mùa màng. Và cứ thế vòng luân hồi phát triển, ngày càng tăng tốc làm nhà vườn chóng mặt khi phải chạy theo nhà sản xuất!
Ông An nhớ lại ngày xa xưa, ông nghe ông Hai Phong kể rằng hồi chưa có giống sú NS Cross của Nhật, dân Đà Lạt trồng giống sú nồi của Pháp, sâu cũng có nhưng chỉ là loại sâu xanh, to bằng cọng đũa nên dân làm vườn vạch lá bắt sâu hàng ngày. Giống sú nồi còn gọi là sú “tuya”, cây con được chiết ra từ gốc cây mẹ rồi “dâm” thành cây giống mang ra rò (luống, rộng cỡ 1, 2 – 1, 4 mét, dài theo lô đất) trồng. Bây giờ giống sú NS gieo bằng hột, tiện lợi vô cùng nhưng giống phải mua của nước ngoài. Và đồng thời sâu tơ xuất hiện, giống sâu này chỉ nhỏ như hạt gạo Mỹ dài ngày trước, thả một sợi tơ tòn teng chính là lúc sâu đẻ trứng, nhìn rò sú hay cải thảo bị sâu “đánh” tơi tả ai chẳng đau lòng?
Nay chuyện sâu lờn thuốc hoá học đã trị được phần lớn. Người làm vườn đã biết sử dụng thuốc sinh học không độc khi đến tay người ăn, lại có thứ thuốc làm từ bào tử khi bơm vô cây nó sẽ sinh ra một loại “trùng” chuyên tấn công sâu. Ông An thán phục các nhà khoa học vô cùng, ngay cả máy bơm bây giờ cũng khác xưa, dùng sức cơ bắp để tạo thành áp lực là “xưa” rồi, người ta chế máy chạy bằng mô tơ phun ra những hạt nước chứa thuốc nhỏ li ti thành một làn sương bám vào tất cả ngóc ngách của cây trồng. Con sâu có chạy đằng trời….
Buổi trưa ăn cơm xong ông An lên nhà trên uống chè xanh đọc sách. Cái này lạ nghen, vợ ông dòm lén lên nhà rồi nghĩ thầm như vậy. Ông An không để ý đến chuyện gì khác, ông uống một ngụm nước chè xanh rồi tìm ngay đến trang thứ 12 đọc truyện ngắn Thung lũng Tình yêu mà anh nhà văn nhà báo giới thiệu. Ông đọc một lèo hết 6 trang giấy trắng tinh, chữ màu đen khá nhỏ, trang 18 có vẻ hình một cặp tình nhân ôm nhau ngồi bên bờ suối, nét vẻ sinh động như cảnh thật!
Nếu tính từ hồi ông rời ghế nhà trường, đây là lần đầu tiên ông An đọc truyện, một truyện ngắn đàng hoàng. Ông An lấy làm lạ, hôm trước khi Văn ghé chơi nhà, ông đã kể chuyện cặp đôi Đệ Loan cho Văn nghe. Đó là sự thực, ông không thêm thắt chút nào. Đêm đó, trong tiếp mưa rơi lộp bộp trên mái tôn khu nhà trại, nơi ông ở tạm để chờ thời, ông nghe tiếng thở dồn dập của anh chàng Đệ và cô nàng Loan. Chuyện gì đã xảy ra với họ, ông không nghĩ ra nhưng sáng hôm sau ông thấy cô Loan hơi …dị dị. Cô Loan dị chuyện gì với mình, lúc đó ông chịu không hiểu được cho đến khi ông lấy vợ thì mỗi khi nhớ lại chuyện này ông vỡ vạt hẳn ra những nghi vấn ngày xưa….
Tự nhiên khi không lại xuất hiện một tay xưng tôi, là sao? Ông không bao giờ xưng tôi, tiếng tui nghe đằm thắm hơn nhiều. Rồi ông Việt kiều ở đâu lại xuất hiện, hay là anh chàng Đệ sau này vượt biên hay đăng ký đi diện HO? Đúng rồi, cảnh tả trong truyện giống như những gì ông thấy hồi đó, chỉ khác Đệ Loan đến thung lũng tình yêu tình tự bằng lối đường Đất mới chứ không phải từ trên đồi đi xuống để bị mất chiếc xe 66. Cái tay này hay thiệt khi tả cảnh bị bắt lính. Hồi đó mình cũng bị bắt như vậy, nhưng ông không có mảnh giấy tờ lận lưng nên “người ta” cho ông đủ 18 tuổi rồi bắt đi học quân trường….
Ông lại nghĩ đến cô Loan. Quái, chắc cậu Văn lộn chứ sao lại là Hương? Ông Việt kiều không thấy cậu Văn nhắc tên, chỉ có cô bồ cũ của ổng sau mấy chục năm mới gặp lại, mà sao lại tên Hương?. Thiệt là tội nghiệp, mà cô cũng có chồng nhưng chồng cổ chết, con thì không…tội thiệt! Bỗng nhiên một tia sáng loé lên trong đầu ông An, đúng rồi cô đó tên là Hương Loan, cậu Văn ác thiệt tự nhiên bỏ mất chữ Loan để ông phải đoán già đoán non mới phát hiện ra….
Cô Hương Loan đang bán củ bông ở trước cửa khu du lịch Thung lũng Tình yêu, hôm nào rảnh mình phải ghé qua thăm cổ mới được, bốn mươi năm rồi còn gì, mình rủ cổ đưa mình lên nghĩa trang đốt cho anh Đệ một nén nhang….
Cái cậu Văn này, quen hai người mà lại không kể đi viết ra chi vậy cho mất thì giờ. Hôm nào Văn lên chơi phải phạt hắn ba ly mới được.
Ông An chìm vào giấc ngủ trưa, trong mơ ông thấy mình cỡi chiếc xe 66 màu đen dũng mãnh lướt trên những ngọn thông ở Thung lũng Tình yêu!
9. Ký ức – 1970
Đọc xong truyện ngắn Thung lũng Tình yêu trong lòng ông An bỗng nhiên nhớ lại một thời tuổi trẻ. Tuổi trẻ và tình yêu luôn gắn vào nhau nhưng tuổi trẻ của ông An lại chưa hề thưởng thức những phút giây tình tự như cặp đôi Đệ Loan. Khi ông An kể cho Văn nghe chuyện của họ, trong lòng ông xuất hiện một thứ cảm giác lạ lẫm. Nay cảm giác đó càng đậm nét hơn sau khi ông đọc xong chuyện của họ và sau giấc ngủ trưa ngắn ngủi….
… Thằng nhỏ An ở nhà có tên là Tộ ngày ngày theo mạ đi xúc chắt chắt nên đen nhẻm. Tộ không để ý đến chuyện này, ngoài giờ đến trường Tộ còn giúp cho mạ nhiều chuyện khác. Tộ rất thương em gái, con Tích cũng thương anh không kém, hai anh em thường chơi chung với nhau những trò chơi mà bọn con trai con gái trong làng hay tụ tập tại khoảng đất trống trước sân đình.
Cuộc sống nghèo khó nhưng tràn ngập tiếng cười không kéo dài được lâu. Chiến tranh như con quỷ khát máu xuất hiện tại làng quê thanh bình với nhiều bộ dạng, đôi khi lại là những khuôn mặt cười. Danh sách người bị chính quyền Quốc gia bắt ngày càng dài với đủ thứ tội danh, cha Tộ chỉ là một trong số những người không thấy trở về. Xóm làng càng trở nên vắng vẻ khi có nhiều người bỗng dưng biến mất để lại sau lưng họ những lời rì rầm to nhỏ của dân làng, họ bỗng trở thành…huyền thoại. Trên gương mặt của bất cứ người nào, cảnh giác là thái độ thường trực bởi tai bay vạ gió có thể đến với họ bất cứ lúc nào….
Tộ lớn lên trong bầu không khí ngột ngạt với tiếng súng đì đùng bất kể đêm ngày, tiếng súng như biểu tượng của Thần Chết mang lưỡi hái tử thần đi lục lạo khắp làng. Một hôm Tộ mà bây giờ đủ lớn để được gọi là An đi qua chợ quê như thường lệ, anh thấy dân làng bị chận lại họ túm tụm ở một phía. Phía bên kia ngoài mấy anh dân vệ mặc quần áo màu đen, vai mang khẩu Ga răng dài thượt – ở nhiều người bá súng còn chạm tới đất, là toán cảnh sát áo trắng đang khám xét từng người. Vài người đàn ông lạ mặt mang kính đen đứng xa đám cảnh sát một chút, họ quan sát đám đông với một thái độ xét nét.
An tính bỏ đi lối khác nhưng đã muộn. Anh dân vệ người làng bên lấy súng cản An khi anh vừa dợm bước đi. An không có bất cứ một loại giấy tờ nào, ông cảnh sát hỏi ông Liên gia trưởng được điều động “thi hành công vụ”. Ông Liên gia trưởng trả lời “đâu như hắn mười tám tuổi!”.
An bị đưa lên một chiếc GMC có hai băng ghế đặt dọc thân xe cùng với đám thanh niên còn vương mùi rơm rạ, gương mặt ai nấy thất thần. Tiếp theo là những ngày khốn nạn. Ba tháng quân trường, bộ trây di màu cứt ngựa biến vẻ ngoài của An thành một người khác hẳn. Đời lính trơn khổ như chó, An phải tuân lệnh cấp chỉ huy cho dù lệnh ấy phi lý đến thế nào. Mùi chiến tranh với anh thanh niên mười tám là một thứ mùi ám ảnh, anh không thể nào quên. Đó là hỗn hợp của mùi thân thể lâu ngày không được tắm gội với mùi tử thi bị chương sình ruồi bọ bu đầy. An nhiều lần lộn mửa khi phải đối diện với chết chóc….
Ba ngày phép đầu tiên của anh lính trẻ được đánh dấu bằng một nỗi đau không gì thê thiết hơn! Một tráo ô buýt từ một trận địa pháo ở nơi nào xa thẳm rơi đúng căn nhà tranh của An đêm trước khi anh về đến nhà. Mạ và em Tích chết không toàn thây, máu vương vất lên tận ngọn tre bên hông nhà. An không nhỏ được một giọt nước mắt bởi đau thương này làm tê liệt mọi cảm xúc của con người. Đau thương biến thành sự căm thù, An căm thù vô bờ bến tất cả những gì liên quan đến chiến tranh. Anh tởm lợm bộ trây di mình đang mặc, đôi giầy lính mình mang.
An theo lời dặn của mạ từ ngày trước, dường như bà linh cảm điều bất hạnh sẽ giáng xuống gia đình mình, bà dặn con trai lấy lên khỏi cái hố cuốn gia phả bà bọc ni lông cẩn thận và 5 lượng vàng bà chôn dưới gốc cây sung bên trong hộp đạn đại liên nếu bà có mệnh hệ gì. Vừa làm An vừa nhỏ những giọt nước mắt âm thầm xuống cái hố mới đào.
Trở về đơn vị, anh đem tâm sự của mình nói với người bạn thân. Hắn khuyên An khi có cơ hội thì cao chạy xa bay chỗ khốn kiếp này. Và cơ hội đến khi hắn rủ An mua một Sự vụ lệnh giả giống như thật. An đọc đi đọc lại tờ giấy pơ luya mỏng tang được đánh bằng loại máy chữ không có dấu “VIET NAM CONG HOA – QUAN LUC VIET NAM CONG HOA – QUAN KHU 1…,
SU VU LENH
Cap cho: Chuẩn uý Lê minh Thái…”
Bãi bằng với trại bò của ông Hai Phong rộng mở đôi tay đón An. Bầu trời cao nguyên trong xanh trong mắt chàng trai xa xứ dường như cao hơn, xanh hơn!
10. Ký ức 2 – 1970
Trong lúc ông An mơ màng với những ký ức xám màu, ông Tuất cũng đang nhớ lại những ký vãng không thể nào phai trong lúc ông đang chuẩn bị cho nồi xôi ngày mai. Người ta thường nói người già hay nhớ chuyện cũ y như cái băng cát sét, những chuyện càng lâu lại càng rõ nét mới thật là kỳ….
Ngày Tuất dẫn “ông thầy” về cho biết nhà là một ngày nắng đẹp. Khi chiếc xe Jeep lùn dừng trước nhà anh, như một số phận định sẳn, cô Loan cháu bà Hai Thị thường tránh mặt Tuất lại xuất hiện bất thình lình trước cửa nhà. Nhà ông bà Hai và nhà Tuất cách nhau một khoảng đất trống không trồng đến cả một “giậu mồng tơi” để hai người có “nỗi buồn giống nhau”! Mắt cô Loan hướng về chiếc xe, đại uý Đệ vừa bước xuống bỗng nhiên ông chỉ huy như hoá đá khi thấy người con gái mặc chiếc áo vàng nhạt nhà bên. Phải một lúc lâu cả hai mới hoàn hồn, họ trở lại hoạt động bình thường nhưng dường như trong lòng họ một cơn gió mát thổi qua hay sao mà trông họ vui hơn mức độ thường ngày….
Tuất nghiền ngẫm chuyện của ông thầy mình và cô hàng xóm với tâm sự ngổn ngang, anh ước giá gì nàng cũng nhìn mình một lần như vậy thì cho dù có…ăn đạn của Vi Xi anh cũng vui lòng. Nhưng chưa bao giờ nàng nhìn anh như vậy, nàng trốn anh như thể trốn một ám ảnh kinh hoàng. Anh không thể chấp nhận một thực tế hiển nhiên rằng Loan coi anh đồng nghĩa với gương mặt
Xứ sương giăng: Ông già bá xôi ở cây số 6 – Truyện dài Võ Anh Cương
7 Tháng 1, 2023
297
Chương 6
(Vanchuongphuongnam.vn) – 1. Tiệm xôi Lá chuối – 2012 – Thắm đang ngồi trước quầy hàng, trên tay Thắm là cuốn sổ ghi chép những chuyện hàng ngày. “Thím Út dặn 10 hộp xôi gấc, in cho đẹp một chút để thím cúng cha”, “Nhớ mua thêm đậu phộng miền Trung, ngày mai con Viên mang hàng lên bán”, “Xôi gà nấu thêm một chút chớ tuần trước hơi ít, bán hết sớm”…
Nhà văn Võ Anh Cương
Thắm ít chữ mà trí nhớ lại kém nên chi cô phải ghi chép công việc hàng ngày để khỏi quên. Hồi nhỏ đang học lớp 7, Thắm nghe lời bạn bè bỏ học. Thấy con gái không đi học nữa, ba Thắm chỉ hỏi chiếu lệ, hàng ngày ông thường nói con gái mà học nhiều làm gì, lấy chồng xong rồi là thôi. Còn mẹ Thắm dường như cũng đồng ý với ba, bà thấy Thắm ở không bèn rủ con đi nhổ cỏ cà rốt với bà.
Nghề quét rác, nếu quét rác được gọi là nghề, chọn Thắm chớ Thắm đâu có tơ tưởng gì đến việc làm này. Chẳng là dì Tư, dì ruột của Thắm làm công nhân vệ sinh, một hôm dì bận việc mà không xin nghỉ được nên dì qua nhà năn nỉ Thắm giúp dì một ngày thôi. Một lần, rồi hai lần Thắm quen tay hồi nào không biết, vả chăng đồng tiền có sức mạnh vạn năng, nó lôi Thắm vào vòng xoáy của nó. Con gái mới lớn thích làm đẹp, mỗi lần đi chợ ngang qua hàng bán mỹ phẩm Thắm muốn đi mà đôi chân như đóng đinh, đôi mắt như bị thỏi son môi cột lại. Phải chi mình có tiền, cô nghĩ, mình sẽ tha hồ mua sắm theo ý mình chứ không phải xin tiền mẹ. Vậy là Thắm về làm đơn gởi công ty, nhằm vào lúc thiếu người ông giám đốc Bùi Đường quyết định tiếp nhận ngay cái rột.
Thắm đi làm, tiếng chổi tre vang trong đêm vắng hay sáng sớm đồng vọng vào hồn cô thiếu nữ. Thắm bịt mặt bịt mày để nắng không ăn da mặt và cũng là để không ai nhận ra được mình, dù sao nghề quét rác cũng khiến nhiều người mủi lòng cho một cô gái vừa mới lớn. Vậy mà như một định mệnh, khi Thắm vừa mở khẩu trang ra để lau mồ hôi thì Bằng vừa trờ xe tới. Anh thanh niên rậm râu nhìn sửng Thắm, không hiểu anh nghĩ gì mà tia mắt của anh khiến Thắm thấy nao nao. Bằng ít nói, anh chỉ thốt lên mấy tiếng ngắn ngủi khi nhận ra cô gái:
-…Ai như cô Thắm?
Đúng ra Bằng định nói “Ơ kìa ai như cô Thắm” như lời bản nhạc Cô Thắm về làng nhưng anh nuốt kịp hai tiếng đầu vào bụng. Làm sao Thắm không biết Bằng cho được, hai người ở cùng ấp, cái ngã ba nhỏ xíu đó đâu có rộng rãi gì? Cô cười:
– Anh Bằng đi đâu vậy?
Bằng ngượng ngập trước câu hỏi của Thắm. Chẳng là Bằng…nhát gái, chưa gì mà đã đỏ mặt tuy anh có bộ râu rất chi là nam tính! Bằng nhìn chiếc xe:
– Tui sửa xe cho khách chạy thử đến đây thì hết xăng, xui thiệt!
Biết xui biết hên hay ông trời cột hai người lại với nhau dưới gốc thông đường Hồ Tùng Mậu? Hai tháng sau Bằng ngỏ lời với Thắm, giọng Bằng run run:
– Thắm nè, tui có “chiện” muốn nói với Thắm!
Thắm cười:
– Anh nói đi, Thắm nghe?
Phải một lúc lâu Bằng mới thốt lên mấy tiếng:
– Là tui… tui… thích Thắm!
Thắm nguýt Bằng, cô nghĩ cái tiếng yêu sao không nói ra mà lại là thích? Bằng vào sự nhạy cảm của mình, Thắm biết tỏng Bằng yêu Thắm. Nhưng đến cao trào Bằng lại chỉ nói thích, thôi thì… thích cũng có nghĩa là yêu chứ sao? Thinh không cây thông tặng cho hai người một trái thông…
Nhớ đến chuyện đó Thắm cười mỉm một mình. Cô ngước mắt lên nhìn ra ngoài sân khi nghe tiếng xe ngừng lại. Một người phụ nữ cỡ tuổi Thắm bước vào, chị lột khẩu trang để lộ gương mặt khá xinh. Thắm đứng dậy chào:
– Dạ chị cần gì ạ?
Người phụ nữ chưa vội trả lời ngay, chị nhìn quanh như thể thầm đánh giá căn phòng, chị nói:
– Chà… tiệm bán xôi mà trang trí bắt mắt quá!
Thắm cười:
– Dạ, mình cũng phải trang trí một chút cho khách thấy vui mắt, hễ làm gì được cho khách hài lòng thì tiệm em sẽ cố chị à!
Người phụ nữ ngồi xuống chiếc ghế tựa theo lời mời của Thắm, chị hỏi:
– Cô là Thắm phải không, tôi được người quen giới thiệu tiệm xôi Lá chuối nấu ngon lắm. Ngày mai nhà có giỗ, tôi đặt cô hai mươi phần xôi hạt sen được không?
Thắm cười sởi lởi:
– Dạ được chị, chị cần bao nhiêu em phục vụ bấy nhiêu!
Người đàn bà đặt cọc tiền chị nói:
– Ngày mai cô giao cho tôi đúng tám giờ, tiền tôi sẽ trả đủ. Tôi tên là Hương số điện thoại 0909090xxx, nhà ở tận Đức Trọng có phiền cô không?
Thắm cười:
– Dạ không sao đâu chị, xa mấy em cũng giao chỉ có điều xin chị thông cảm cho nếu có chậm năm mười phút!
– Không sao đâu cô, trưa tôi mới cúng!
Bà Hương này nhìn mình sao lạ quá, Thắm thầm nghĩ khi nhìn theo người đàn bà rồ ga chiếc xe máy lao lên con dốc cho đến khi không thấy nữa mới thôi.
Từ ngày thụ giáo nghề của ông Tuất, ban đầu Thắm định ngồi bán xôi chỗ của ông Tuất từng ngồi mấy chục năm nhưng thằng Minh không chịu:
– Mẹ tính coi, bây giờ là thời nào mà mẹ ngồi ở chỗ đó? Con nói thiệt cho dù xôi mẹ nấu có ngon cách mấy mà bụi bặm bám đầy thì có ai dám sà vô ngồi ăn?
Thắm ngớ người ra, cô nghĩ lời thằng Minh cũng có lý, bây giờ vệ sinh an toàn thực phẩm được đưa lên hàng đầu, hơn cả cái sự ngon hay dở. Nếu không ngồi ở ngã ba thì ngồi ở đâu để bán bây giờ, Thắm chưa nghĩ ra thì thằng Minh đã nói:
– Nhà mình cách ngã ba có bao xa đâu, sao mẹ không về nhà sửa chữa đôi chút để làm một cái tiệm bán xôi?
Thắm nhìn con, cô không nghĩ thằng con mình lại có ý đó, như vậy là…nó lớn rồi chứ có nhỏ nhít gì nữa? Thằng Minh bồi thêm:
– Nếu mẹ đồng ý, cứ giao cho con, con sẽ designe một tiệm bán xôi có 102!
Một tuần sau, tiệm xôi Lá chuối ra đời đậm chất teen, đó là Thắm nghe bạn bè của thằng Minh nói vậy, cô chẳng hiểu chất teen là chất chi chi?
2. Trà pha bằng sữa à, ai mà uống hả con? – 2013
Ông Tuất ở không mấy năm riết rồi cũng quen. Thiệt ra ông cũng có việc những công việc đó vụn vặt chẳng ra tấm ra món gì cả nên không kể là công việc. Sáng sáng ông dậy sớm pha một bình trà uống xong vắt chân ngồi ngoài hàng hiên để “điểm danh” cư dân xóm trọ. Ai chưa đi làm mà đã tới giờ ông sẽ vô phòng kêu, đứa con nít nào khóc vang nhà trọ làm náo loạn sự yên tĩnh buổi sáng ông sẽ mang quà cho nó, lúc thì cái bánh, trái banh nhựa hay trái bóng bàn tuỳ thuộc vào việc ông lục trong tủ đồ của ông có thứ gì.
Sáng nay sau khi khu nhà trọ trọ nên yên tĩnh, đó là thời điểm học sinh đã đến trường, người lớn đã đi làm, trong dãy phòng chỉ còn lại nhà Lai ngủ bù vì lái xe trung chuyển ca tối cho nhà xe Thành Bưởi, ông Tuất chậm rãi xuống ngã ba coi “thế sự” có gì xảy ra không? Nhà ông trên đầu con dốc cách ngã ba chừng trăm mét nếu không cập nhật thông tin từng ngày coi như lạc hậu. Đã mấy chục năm lê lết ở ngã ba này, nơi mà tin tức trong làng ngoài xóm được phổ biến sớm nhất, ông có thói quen mỗi sáng để ý coi thử có cái gì “mới” không?
Sáng nay chỉ có mỗi việc con chó nhà bà Mừng bị đánh bả chết. Mới 5 giờ còn chưa rõ mặt người vì sương mù đang ngự trị, bà Mừng cho con chó ra ngoài đi vệ sinh. Thường ngày nó đi xong sẽ chạy vào nhà gọi bà đi thể dục nhưng sáng nay chờ hoài bà không thấy con Ki đâu. Bà ra cổng tìm chó thì vừa lúc đó một chiếc Honda dừng lại trước cổng nhà bà, tên ngồi sau nhảy xuống ôm con chó chết rồi cả hai lên xe rồ ga chạy mất. Chuyện xảy ra trong vòng…một nốt nhạc như cách bọn trẻ hay nói. Bà Mừng đứng như trời trồng, bà không nói được tiếng nào và từ từ gục xuống. Cơn đau tim cấp làm bà nằm liệt mấy ngày, cũng may hàng xóm phát hiện kịp chứ không thôi bà Mừng đã ra người thiên cổ!
Ông Tuất chép miệng, thế sự đảo điên. Ở ngã ba cây số sáu này trước giờ trộm cắp rất hiếm, nay xảy ra cả đánh bả chó thì thiệt là hết biết. Không biết từ bao giờ món thịt chó du nhập vào vùng này, tại chợ chồm hỗm tự phát có cả hai quầy bán thịt chó sống. Chiều chiều bợm nhậu ghé mua miếng thịt, họ trăn qua trở lại con chó thui vàng nhe hàm răng nhọn hoắc để tìm miếng ngon, đúng ý nhất. Bây giờ mà ông Tuất qua chỗ bán chó thì không được rồi, nơi này buổi sáng bán rau, chiều rau dọn đi nhường chỗ cho thịt chó. Vả, ông Tuất có ghé qua cũng vô ích, chó thui vàng thì còn lông đâu mà phân biệt được con Ki hay con Vàng?
Ông Tuất buồn tình đi dần xuống dốc, ngôi nhà xưa của ông giờ không còn nữa. Chủ mới đập ra xây thành một dãy nhà cho thuê mặt bằng buôn bán. Bây giờ ngã ba cây số sáu người đâu mà hội tụ về nhiều quá, ông Tuất nghe đủ giọng Nam, Trung, Bắc nên việc buôn bán phát đạt hơn trước rất nhiều. Ngôi nhà thằng Bằng cũng thay đổi, nhà cũ vợ chồng Bằng đập ra xây nhà mới một trệt một lầu được mấy năm rồi. Mặt bằng phía dưới Thắm làm tiệm bán xôi đặt tên Lá chuối. Ông Tuất cười thầm, xôi phải gói bằng lá chuối mới ngon, điều này ai chẳng biết mà lại lấy tên đó đặt?
Thấy ông Tuất đi ngang qua nhà, thằng Minh là con trai út của Bằng chào:
– Con chào ông nội, mời nội vô nhà chơi!
– Mẹ cháu có nhà không?
Thắm nghe tiếng ông Tuất, cô bỏ dỡ việc đang làm chạy ra chào ông. Ông Tuất thỉnh thoảng cũng ghé qua nhà cô coi thử Thắm làm ăn buôn bán ra sao. Thắm mời ông Tuất ăn xôi nhưng ông từ chối nói đã ăn rồi. Thiệt tình nói ra thì bội bạc chứ già rồi mà sáng ăn xôi dễ bị nghẹn, buổi sáng ông Tuất thường đặt một nồi cháo đậu xanh, lúc thì ăn với đường, muối hay cá cơm kho mặn.
Ông Tuất khoát tay nói:
– Bay làm gì thì cứ làm đi, để chú coi cái tiệm này một chút!
Thằng Minh nghe ông nói vậy, vẻ mặt nó háo hức:
– Nội thấy được không?
Ông Tuất ngắm một hồi, tiệm xôi này vừa bán hàng vừa làm nơi giao dịch đặt hàng. Bàn ghế trông có vẻ thanh mảnh với màu sáng, trên tường vẽ các bức tranh ngộ nghĩnh kèm các câu chữ Tây ông không rõ nghĩa. Có chỗ đặt hai cái ghế đối nhau, có chỗ bốn cái ghế, lại có chỗ chỉ một ghế kèm một cái bàn nhỏ ai ngồi vào thì mặt dòm vô tường.
Thằng Minh chờ đợi nhận xét của ông, nó thấy ông mải mê ngắm căn phòng mà không nói gì, Minh hỏi lại một lần nữa “được không hả nội?”.
Ông Tuất thủng thẳng hỏi:
– Ông nghe người ta nói phòng này con trang trí theo kiểu hiphop, tin tiếc gì đó phải không?
Thằng Minh cười, nó giải thích một hồi mà ông… không hiểu gì cả. Ông Tuất nhìn sửng thằng nhỏ, trong lòng ông dâng lên một cảm xúc khó diễn tả bằng lời. Thấy ông nhìn mình với cặp mắt lạ, Minh ngạc nhiên hỏi:
– Nội ơi, nội có bị sao không?
Thấy ông lắc đầu, Minh tiếp:
– Con định xin mẹ buổi chiều cho con bán trà sữa tới tối, còn buổi sáng mẹ bán xôi!
Ông Tuất nghe vậy lắc đầu:
– Trà pha bằng sữa à, ai mà uống hả con?
3. Quất ngựa truy phong – 1971
Trong khoảnh khắc thằng Minh cười, ông Tuất vụt nhớ lại chuyện xưa. Thật là kỳ lạ, ký ức thình lình xuất hiện không báo trước bằng bất cứ điều gì….
… Đang định về nhà kiếm cái gì ăn để tối về đơn vị, Tuất bị Hương chặn lại:
– Mới về à?
Tuất xuống xe, đá chân chống bên rồi trả lời bạn:
– Nè, không sợ cảnh sát “hốt” sao?
Chẳng là Hương trốn lính, Hương dọn vô trại trong đất mới làm vườn, thấy cảnh sát đi lùng là anh chạy vô trong hố 1 hay xa hơn nữa là hố 2 – là hai thung lũng nhỏ, sâu cây rừng mọc ken dầy dưới chân núi Bà, Hương chờ đến khi trời sụp tối hay cảnh sát rút thì về. Nay thình lình thấy Hương xuất hiện ở ngã ba, Tuất không ngạc nhiên sao được?
Hương cười:
– Lâu lâu dù một phát, mấy thằng áo trắng làm sao biết tao giờ nào về nhà mà lần?
Nói xong Hương cười khơ khớ, chưa hết tràn cười Hương nói:
– Nghe nói mày làm cho con Loan có chửa phải không?
Tuất ngạc nhiên nhìn bạn, trong bụng Tuất nghĩ chắc thằng Hương cà rởn chơi nên nhìn bạn cười và cũng cà rởn trả lời:
– Chờ nó đẻ xong coi giống ai là biết liền!
Hương đanh giọng:
– Người ta nói mày chơi rồi quất ngựa truy phong, cái đó là không được, tội chết!
Nói xong Hương bỏ đi thẳng không thèm chào bạn. Tuất đứng chình ình giữa đường mà lòng ngổn ngang trăm mối. Câu nói của Hương còn hơn cả sự thật mà còn là một lời chửi rủa, thiệt là tệ! Đây là lần đầu Tuất nghe người ta đồn về mình, cũng phải thôi, Tuất nghĩ. Ai ở ngã ba này mà không biết Tuất “trồng cây si” cô Loan? Hai người lại ở cạnh nhau rất dễ để Tuất “tò te tút tít” với cô Loan lắm chớ!
Cơ sự bắt đầu từ lúc bụng Loan lúp xúp dưới lớp áo, chị Xíu bán cá là người đầu tiên phát hiện ra chuyện này. Hôm đó Loan đi mua cá, nghe mùi cá tanh chịu không nỗi cô chạy vội vào bụi trúc sau quán bà Hoá nôn khan. Chị Xíu nhìn theo nghi hoặc, đến khi Loan trở lại lấy cá chị thấy mặt Loan sường sượng, lông mày dựng ngược cả lên. Với một người đàn ba đã qua bốn lửa, chị Xíu không lạ gì chuyện bầu bì. Chị không dám hỏi thẳng Loan, Loan chưa có chồng mà hỏi kiểu này nhiều khi bị ăn chửi chứ chẳng chơi. Chị Xíu chỉ nói:
– Chà coi kìa, cô có bị trúng gió không mà sao tui thấy cô oẹ oẹ giống hồi tui có mang thằng cu quá!
Loan đỏ mặt lắc đầu, cô chụp ngay lý do trúng gió mà chị Xíu gợi ra:
– Dạ chắc trúng gió quá chị, em thấy ớn lạnh từ hồi tối tới giờ!
Hì hì… ớn lạnh từ tối tới giờ mà chỉ mới ngửi qua mùi cá đã ói muốn lôi cả ruột gan ra, chị Xíu nghĩ trong bụng. Với chị Xíu chuyện đó để lâu trong bụng khó chịu lắm nên chi chỉ trong buổi sáng tin cô Loan không chồng mà chửa lan khắp trong làng ngoài xóm.
Tin tức nóng hổi như có chân chạy nhanh như ngựa lại được các thông tấn viên hãng thông tấn vỉa hè ngã ba cây số sáu tô điểm để thêm “lộng lẫy”. Cái tên Tuất được xướng lên như là tác giả cái bụng lúp xúp của cô Loan. Người thì dè bĩu, kẻ thì lấy đó làm quà kể với người quen, chỉ có Tuất là không biết. Anh đang ở lính thì làm sao có mặt ở ngã ba để nhận thông tin?
Bây giờ nghe Hương quy kết mình là kẻ quất ngựa truy phong sau khi “chơi” cô Loan, Tuất vội chạy về nhà ngay để hỏi cho ra lẽ. Bà Sáu nhìn con nói:
– Má biết con không làm chuyện thất đức đó, còn con Loan chỉ khóc mà không nói cha đứa nhỏ trong bụng là ai cho dù má và bà Hai Thị dỗ dành hết sức!
Loan vẫn đi làm trại gà như thường, đến nước này cô không cần giấu giếm chuyện mình mang thai và cũng rất khó khăn để đối phó với miệng thế gian. Ông bà Hai Thị vẫn đối xử tốt với cô, ông Hai thường nghiêm mặt khi có người nhiều chuyện xía vô chuyện nhà ông:
– Dù sao con Loan cũng là đàn bà, bộ hết chuyện lo rồi sao?
Đúng vậy, thời buổi chiến tranh, tin tức chiến sự ngày càng dồn dập đổ về tới ngã ba. Nào là đôn quân, bắt lính, nào là chết trận, pháo kích… rồi cơm áo gạo tiền là nỗi lo của nhiều gia đình, ai cũng phải trử cả tạ gạo trong nhà lỡ mà có chuyện gì thì có cái ăn, còn rau dưa thì thiếu khối gì ở ngoài vườn. Dân ngã ba đã trải qua cái đận năm 65, 66 lúc đó các “ông nội” đắp mô ở đèo Chuối, gạo không chở về được dân tình xôn xao một thời….
Lần đầu tiên Tuất thấy mặt thằng nhỏ là lúc nó lên một tuổi, bà Hai Thị bồng cháu qua nhà bà Sáu chơi. Thằng Bằng lần đầu thấy Tuất nó không sợ mà lại mỉm cười. Bây giờ nụ cười lại nở trên môi thằng Minh, cũng cái miệng đó không lẫn vào đâu được!
4. Ủa… vậy là sao? – 2014
Bằng kéo cổng, bóp ổ khoá rồi lên xe chạy theo Văn. Chiều nay Văn ghé qua vườn nhà Bằng chơi khá lâu. Bằng rủ Văn về nhà mình, lâu quá hai người không có dịp “nâng lên đặt xuống” với nhau. Văn điện thoại kêu thêm Kim và hẹn với bạn ở nhà ông Tuất anh sẽ đem mồi lên. Ông Tuất chưa bao giờ từ chối bữa rượu của bộ ba tuy ông chỉ uống vừa với sức mình nhưng lại ngồi đến cuối biền. Ông thích nghe bọn họ nói chuyện, nhất là Văn, bởi là nhà báo nên Văn đi nhiều biết lắm. Kim cũng vậy, tay tài xế này chạy khắp trong Nam ngoài Bắc, gặp lắm chuyện lạ lùng lại có tài kể chuyện khá có duyên.
Chiều nay bốn người “hội” với nhau tại phòng bếp nhà ông Tuất. Thiệt lạ, hồi giờ họ chỉ nhậu ở nơi này chứ không phải là phòng ăn hay phòng khách. Dường như tại bếp, tuy có chút chật chội nhưng lại thấm đẫm tình thân.
Ông Tuất mở đầu câu chuyện sau khi nâng ly đầu tiên lên làm cái trót:
– Nè, tui hỏi mấy cậu lâu nay đi nhiều, biết lắm có cái gì lạ và hay kể ra nghe chơi?
Văn cười:
– Chú ơi, đi nhiều biết lắm đôi khi cũng… bể cái đầu. Có chuyện mình thấy vậy nhưng thiệt ra không phải vậy!
Không biết tay nhà báo nhà văn này muốn ám chỉ điều gì, ông Tuất nghĩ. Còn Bằng như thường lệ anh ngồi im nghe mọi người nói chuyện. Đám tóc rậm của Bằng mà có lúc ông Tuất kêu bằng giống cây xà lách cô rôn đang lắc lắc. Không ai để ý đến cử chỉ đó của Bằng, đơn giản ba người kia đều nhìn Văn chờ anh nhà báo nhà văn nói tiếp. Văn cười:
– Con đi tác nghiệp thường không dám kết luận ngay một sự kiện hay công việc nào đó mà phải xem xét kỹ. Bút đã phóng xuống rồi thì chữ còn đó chứ không như lời nói theo gió bay đi, vậy mà đôi khi cũng bị tổ trác như thường!
Văn nghĩ không biết ông Tuất có ý gì khi biểu mình kể chuyện lạ? Nếu là chuyện chốn quan trường làm nghề báo Văn cũng biết ít nhiều những chuyện thuộc loại “thâm cung bí sử” không biết đúng sai tới đâu nhưng những mưu mô thì là có thật. Người Tàu có câu chơi với quan như chơi với cáo còn chơi với vua như chơi với hổ, buồn buồn bị hổ “tát” là chuyện bình thường. Còn làm quan mà không thủ đoạn thì trước sau gì cũng rớt đài…mà ông Tuất chỉ là “thứ dân” thứ thiệt có nói ra ông cũng không hiểu và chắc cũng chẳng quan tâm. Những chuyện đó Văn cũng không viết thành báo được, bản thân mình muốn sống với nghề thì phải tự duyệt bài trước khi sếp tổng duyệt. Văn rắp tâm ghi nhận những chuyện đời này để về sau đem viết tiểu thuyết.
Vậy thì ông Tuất hỏi chuyện lạ là chuyện gì, Văn tự hỏi. Còn Bằng đang ngẫm nghĩ mấy tiếng thấy vậy mà không phải vậy của ông nhà báo nhà văn. Anh đang “ốt dột” nói theo kiểu mấy mụ Huế khi nghĩ về mình. Lâu nay ám ảnh về mùi hương lạ từ thân thể Thuỷ thỉnh thoảng vẫn trở về với Bằng, chuyện xảy ra thì đã xảy ra rồi, Bằng cũng đã nguôi ngoai, thôi không tự dằn vặt mình nữa, tất cả đã trở thành vết sẹo thời gian. Đó là trong tâm thức Bằng cảm thấy như vậy nhưng không thể diễn ra bằng lời. Còn hành động của Bằng thật là đầy trách nhiệm, Hương bạn Thuỷ nghĩ như vậy về Bằng, có điều không bao giờ Bằng nghe lời nhận xét đó. Đơn giản, thỉnh thoảng Bằng vẫn ghé nhà Hương thăm con gái, đứa con bất đắc dĩ Bằng góp sức tạo ra. Người ta hay nói rằng con rơi thường giống cha như tạc. Quả nhiên là vậy, không cần phải giới thiệu khi gặp Bằng và bé Bơ người ta nhận định ngay rằng hai người chắc có quan hệ huyết thống, bé Bơ là bản sao của Bằng. Bằng chỉ đến nhà gặp bé Bơ khi Hương báo cho biết Thuỷ đi vắng….
Còn anh tài xế thì lại khác. Lâu nay Kim chuyển qua chạy xe hợp đồng, anh mua một chiếc xe 7 chỗ chuyên chạy đám cưới, chở khách đi chơi… nên gặp chuyện lạ chuyện hay không ít. Nhưng chuyện lạ, chuyện hay ở nơi khác đâu bằng chuyện tại nơi này, trong nhà ông Tuất?
Từ ngày quen ông Tuất đến nay kể cũng khá lâu, Kim biết chuyện người ngã ba cây số sáu dị nghị về chuyện ông Tuất là cha của Bằng nhưng ông Tuất không xác nhận mà cũng chẳng phủ nhận chuyện này. Hôm nay mình phải “thiết kế” sao cho sự thật từ miệng ông già nói ra, Kim nghĩ như vậy. Anh nói:
– Chuyện lạ thì đầy ngoài đường chú ơi, con có quen một ông tài xế chạy đường dài, ổng kể có tới mấy chục vợ. Tỉnh nào đi qua ổng cũng có một bà nhưng cuối cùng chú biết sao không, cuối đời ổng ra một cái đảo ở Kiên Hải sống một mình…. Đời này ai cũng có số hết phải không chú?
Không để ông Tuất kịp phản ứng, Kim nói tiếp:
– Chuyện con kể lạ thì có lạ nhưng đâu có lạ bằng chuyện ở đây?
Ông Tuất ngạc nhiên:
– Chuyện ở đây là chuyện gì?
Kim cười:
– Con nói ra chú đừng có la nghen?
Ông Tuất cười gật đầu, đến đây Kim mới nói huỵch toẹt:
– Chuyên ở ngã ba này ai cũng nói chú là ba ruột Bằng, nhiều lần tụi con hỏi rồi nhưng chú chỉ cười cười. Hôm nay đủ mặt, vậy chú nói đi, có phải chú là ba của Bằng không?
Nghe Kim nói vậy, Bằng chấn động trong lòng. Anh ngồi thẳng dậy chăm chú nhìn cái miệng của ông Tuất.
Ông Tuất cười thủng thẳng nói:
– Tưởng chuyện gì… chuyện tui với thằng Bằng nói là cha con cũng đúng mà không phải cha con cũng không sai!
Cả ba người không hẹn mà cùng thốt:
– Ủa… vậy là sao?
5. Cha con tự nguyện – 1972
Ông Tuất nói tiếp:
– Là vầy: tui không sinh ra thằng Bằng nhưng tui với thằng Bằng “tự nguyện” trong chuyện nhận cha con!
Bằng không hiểu ý ông Tuất muốn nói điều gì, cái gì là “tự nguyện”?. Cả Văn và Kim cũng vậy, họ đang chú ý nghe ông Tuất giải thích thêm. Đúng vậy, đây là lần đầu ông Tuất xác nhận mình không phải là cha đẻ của Bằng chứ những lần trước ông chỉ cười cười rồi lãng qua chuyện khác.
Mắt ông Tuất bỗng nhiên vương một nét buồn nhưng ngay lập tức ông lấy lại vẻ tự nhiên như chưa hề biểu lộ điều gì. Đó là nhận xét của Văn nhưng anh không nói gì chỉ im lặng lắng nghe. Ông Tuất giải thích:
– Hồi đó lúc thằng Bằng khoảng hơn một tuổi, một hôm mẹ tui qua nhà bà Hai ẳm thằng Bằng về nhà chơi….
… Buổi sáng mặt trời chưa lên dù đã hơn bảy giờ, sương mù giăng giăng tứ phía. Tuất cho xe chạy chậm, bật đèn pha mà chỉ thấy con đường trước mặt chừng vài mét. Tuất đang về thăm nhà, trung tá Đệ cho Tuất biết ngày mai cắm trại trăm phần trăm, nội bất xuất ngoại bất nhập, ai ra đường không có sự vụ lệnh bị QC (quân cảnh) hốt ráng chịu. Tuất chạy ngang trường tiểu học, lác đác vài đứa học trò đã mang cặp táp đến trường. Tuất cười mỉm khi nhớ lại những ngày mình còn đi học, buổi sáng đến trường học từ tám giờ đến mười một giờ, buổi chiều học từ hai giờ đến năm giờ. Khi nghe tiếng trống in phoa (un foid – trống báo sắp vào giờ học, thường đánh trước 15 phút) Tuất mới bắt đầu đi học bởi nhà Tuất cách trường chỉ vài trăm mét. Một tay Tuất xách cặp táp, trong đó đựng sách vở, cây viết ngòi lá tre, cục gôm, cây thước bằng gỗ có khắc đến từng mi li mét và…mấy hòn bi, tay kia thằng học trò thò lò mũi xanh mang bình mực. Không hiểu sao lúc đó Tuất chỉ thích màu mực tím cho dù có năm thầy cô chỉ cho học trò sử dụng mực xanh. Chuyện làm đổ mực trên sách vở, tay chân hay quần áo là chuyện thường xuyên xảy ra, nhất là với đám con trai….
Vừa dụng xe chưa kịp bước vô nhà, Tuất đã thấy bà Sáu từ nhà bà Hai Thị bước ra, trên tay bà ôm một bọc gì đó màu trắng. Tuất bước vội về phía mẹ miệng nói:
– Má ơi, má ôm cái gì đó để con ôm cho!
Bà Sáu nhìn lên thấy con trai, bà mừng rỡ nói:
– Tuất hả con, con về thăm nhà hay được nghỉ phép?
– Chiều con đi liền má ơi, để con ôm cái gì đó cho?
Bà Sáu vội quay qua một bên kịp khi Tuất giơ tay ra:
– Ấy không được đâu, con ẳm không được thằng Đùng đâu?
Tuất ngạc nhiên:
– Thằng nhỏ à, nó ở đâu ra mà má ẳm nó vậy?
Hai mẹ con vô nhà, bà Sáu đặt thằng nhỏ nằm lên giường, nó đang ngủ ngon lành trong một đống khăn lông màu trắng tinh. Bà Sáu vừa cho thằng nhỏ ngủ vừa nhỏ giọng nói với Tuất:
– Con con Loan, thằng con trai “dễ ghét” lắm!
Hai mẹ con đi ra nhà ngoài, Tuất nghe bà Sáu nói vậy trong lòng anh nẩy lên một cảm giác khó tả. Cảm giác đó trộn lẫn giữa nỗi buồn và sự bùi ngùi, Tuất thấy như có cái gì đó vỡ vụn trong lòng mình nhưng chính xác là cái gì thì anh chịu. Bà Sáu nói tiếp:
– Sáng nay con Loan đi làm, bà Hai gởi cháu cho má coi giùm một chút bị bà phải đi quán mua đồ!
Lâu nay Tuất cố quên cô hàng xóm nhưng hình như càng muốn quên thì hình ảnh Loan càng hiện diện trong hồn anh. Mãi mãi Tuất không thể nào quên Loan, Tuất hứa với lòng mình như vậy. Bây giờ thì thôi rồi, Tuất không còn tơ tưởng một chút gì đến cô gái ấy….
Đang nghĩ ngợi như vậy Tuất bỗng giật mình khi thấy bà Sáu giơ tay quơ quơ trước mắt mình, Tuất hỏi:
– Má làm gì vậy?
– Lạy trời con tỉnh rồi, má cứ tưởng con bị làm sao…khi không lại ngồi đực mặt ra vậy? Hay là con đói, để má nấu cho con một gói mì cua con ăn nghen?
– Má ơi con không sao đâu, thằng nhỏ là con của ai với Loan hả má?
Bà Sáu lắc đầu ra vẻ không biết. Thật vậy chuyện Loan có bầu rồi sinh ra một thằng con trai kháu khỉnh đã trở thành câu chuyện nóng hổi ở ngã ba cây số sáu này một thời gian dài. Người ta bàn ra tán vô đủ thứ mà trọng tâm ai cũng muốn biết cha đứa nhỏ là ai? Cô Loan không “khai” ra ai là tác giả cái bầu của cô, khi sinh con lại càng im lặng ai là cha đứa nhỏ. Vài người mặt dầy hỏi thẳng bị ông Hai mắng cho tối mặt. Cũng phải thôi, nó là cháu ông bà, ông bà không có con đem nó từ quê vô nuôi nay lại bị người đời dè bỉu không tức mới lạ. Ông Hai không cần biết cha đứa nhỏ là ai, ông tuyên bố thẳng như vậy, miễn là ông có đứa cháu bồng là ưng bụng rồi. Ai ở không soi mói ông sẽ cho biết tay, là ông hăm như vậy. Quả nhiên sau khi ông Hai có thái độ chính thức dư luận xẹp dần rồi dứt hẳn….
Bà Sáu kể đầu đuôi cho Tuất nghe, nghe xong anh con trai thở dài đánh thượt….Thằng nhỏ oẹ oẹ thức giấc, bà Sáu và Tuất cùng đứng dậy vô phòng ngủ. Bà Sáu nựng:
– Bà đây… bà đây, cục cưng thức rồi à?
Đang mút tay thằng Đùng bỏ tay ra nhìn Tuất bỗng nhiên nó nở nụ cười, cái miệng nhỏ xíu bi bô:
– Ba…ba…ba!
Tuất nghe thằng nhỏ kêu ba, bỗng nhiên anh thấy dậy trong lòng một niềm khoái cảm dâng lên, Tuất nói:
– Ê cu, mày nhận tao làm ba hả, vậy thì tao có con trai rồi, hè hè….
Thằng Đùng vẫn toét miệng ra cười khoe hai cái răng sữa nhỏ xíu, hai tay hai chân nó dãy đành đạch làm như nó hài lòng lắm lắm….
…Ông Tuất kết luận:
– Là như vậy đó, mới đó mấy chục năm như một cái chớp mắt, các cậu thấy có đúng không?
Không ai trả lời ông cả, dường như mỗi người trôi theo cảm xúc của mình!
6. Nước mắt đàn ông – 2014
Nãy giờ Bằng ngồi im nghe chuyện của mình, gương mặt Bằng thất thần ngơ ngác nhìn tận đẩu tận đâu. Không biết Bằng nghĩ gì, Văn nghĩ, có lẽ sự thật làm bùng nổ cảm xúc của Bằng cũng nên. Văn nghĩ có phần đúng, trong lòng Bằng đang xáo trộn dữ dội. Lâu nay Bằng vẫn ôm mối hy vọng rằng cha mình là ông Tuất, rằng ông Tuất vì một lý do tế nhị nào đó chưa thể nhận cha con với mình. Từ hồi nào đến giờ trong lòng Bằng vẫn coi ông Tuất là cha ruột, đôi khi Bằng so sánh khuôn mặt mình với ông Tuất anh thấy mình cũng có đôi nét của ông. Và anh thầm hảnh diện với điều đó tuy ông Tuất chỉ là một người bình thường, thậm chí tầm thường với gánh xôi mỗi ngày bán cho bà con lao động.
Nay mọi thứ đã rõ trắng đen, ông Tuất không phải là cha ruột của Bằng, Bằng thấy trong lòng mình sự đổ vỡ ngày càng lớn. Sự hụt hẩng trong lòng Bằng khiến tâm anh chao đảo, niềm tin mỗi khi bị “mất cắp” hậu quả sẽ khó lường nhưng ngay trong lúc này Bằng không nhận ra niềm tin mình bám víu bấy lâu sụp đổ như toà lâu đài cát gặp sóng biển tan tành! Bằng đang bối rối với trăm ý nghĩ đan xen vào nhau, trong lúc nhất thời anh không làm chủ được cảm xúc của mình. Bằng ôm mặt, dòng nước mắt chảy qua kẻ tay nhỏ xuống bàn ăn đọng thành một đốm nước trên chiếc bàn tròn
Văn là người phát hiện ra chuyện này đầu tiên, anh làm một cử chỉ như thể ngăn không cho mọi người hỏi han hay chia sẻ, cứ để Bằng khóc cho vơi đi những mất mát trong lòng!
Ông Tuất sau khi kết thúc câu chuyện ông lại trầm ngâm, vẻ bí hiểm lộ rõ trên gương mặt già nua khắc khổ. Đó là cảm nhận của Văn khi nhìn ông Tuất, anh nghĩ chắc là còn có ẩn tình gì khác đằng sau câu chuyện cha con với Bằng. Đó là dự cảm của một người cầm bút đã từng chứng kiến nhiều câu chuyện cuộc đời của kiếp người, dự cảm đó ngay lúc này Văn không nhận ra. Cảm xúc nhất thời che mờ hết những ý nghĩ tỉnh táo nhất.
Kim thì im lặng, tâm ý anh chỉ mong nhận được câu trả lời sự thật từ miệng của ông Tuất. Anh cứ nghĩ rằng Bằng chính là kết quả mối tình giữa hai người ở cạnh nhà nhau nhưng vì lý do nào đó mà họ không được phép nói lên sự thật. Kim khá lúng túng khi thấy Bằng khóc, giọt nước mắt đàn ông không dễ dàng gì mà tuôn ra như vậy. Kim cảm nhận được sự thất vọng của Bằng, anh nhè nhẹ thở ra như thể không muốn cảm xúc chi phối tình cảm của mình lúc này. Và trong lòng Kim cảm giác ân hận mỗi lúc một lớn dần, Kim tự dày vò mình và cho rằng cũng bởi vì mình gợi ra chuyện này một cách bốc đồng, đầy cảm tính nên mới sinh ra cớ sự!
Bất ngờ Bằng lên tiếng:
– Vậy chú ơi, cha cháu là ai?
Câu hỏi của Bằng lọt vào khoảng không hoang hoải của buổi chiều tà!
7. Hôm nay không hết chuyện không về – 2014
Bỗng nhiên Bằng lấy tay chùi nước mắt trên gương mặt đen thui rồi rót rượu uống liên tiếp 3 ly đầy. Ai nấy đều ngạc nhiên nhìn Bằng nhưng không ai ngăn anh cả. Ai cũng hiểu trong giây phút này chỉ có rượu may ra làm dịu những ẩn ức của Bằng.
Ông Tuất nhìn Bằng:
– Từ hồi đó tới giờ tao luôn coi mày là thằng con, hơn bốn mươi năm chưa bao giờ tao xao nhãng chuyện làm cha… như vậy đủ chưa?
Câu nói của ông Tuất vang lên trong căn phòng nhỏ khiến lòng Bằng dịu lại. Đúng rồi, Bằng chưa bao giờ kêu ông Tuất một tiếng cha nhưng anh luôn coi người đàn ông gần gũi với mình là cha, gặp chuyện đại sự gì Bằng cũng đều xin ý kiến ông Tuất, tất nhiên trừ cái chuyện Thuỷ “xin” con! Và ông Tuất luôn giúp đỡ Bằng từ vật chất đến tinh thần, ông xứng đáng là người mà anh tôn kính. Nay Bằng nghe ông Tuất nói như vậy khiến anh chàng rậm râu cảm thấy ấm áp trong lòng!
Bằng ấp úng:
– Con coi chú là cha từ lâu rồi …nhưng con muốn biết ai là cha ruột của con?
Ông Tuất chưa kịp trả lời Bằng thì Kim đã lên tiếng:
– Tui hồi trước cũng giống như ông, cũng muốn biết cha mình là ai, tại sao lại để mình mẹ tui nuôi tui còn ổng thì không thấy? Tui giận ổng chuyện đó, đến khi nghe ổng giải thích thật xuôi tai, ban đầu tui cũng không chấp nhận sự vô trách nhiệm của cha mình nhưng rồi sau này nghĩ lại tui thấy cũng nên tha thứ cho ổng. Cuộc chiến tranh khốc liệt gây ra đủ thứ tai ương, không lẽ bây giờ mình vẫn đeo đẳng chuyện ngày xưa sao, chiến tranh cũng đã lùi xa lâu lắm rồi mà? Cho nên tôi để cho chuyện đó đi vào quên lãng!
Bằng nhìn Kim:
– Chuyện của ông khác tui… là tui muốn biết cha ruột mình là ai kìa!
Quay qua ông Tuất, Bằng hỏi:
– Chú… chú nói đi?
Tính Bằng vốn ít nói, hôm nay có chút rượu trong bụng cộng với tâm sự tràn đầy Bằng mới nhiều lời như vậy, nói là nhiều lời chứ thật ra chỉ có bấy nhiêu! Ông Tuất là người đầu tiên vượt được xúc động, ông châm rượu vô 4 cái ly rồi nói:
– Chuyện đâu còn có đó, các cậu uống đi rồi mỗi người dằn bụng một chén lẩu. Hôm nay không hết chuyện không về!
Vậy là đánh bài ngửa rồi, Văn nghĩ. Anh nâng ly:
– Con chúc chú sức khoẻ, công nhận chú đầy bản lĩnh nghe!
– Bản lĩnh gì cậu ơi, chẳng qua là tui không muốn nói ra thôi!
Bằng cũng đã bình tĩnh trở lại, quả nhiên mấy ly rượu đã phát huy tác dụng. Bốn người nhanh chóng ăn hết phần của mình, hình như ai cũng nóng lòng chờ câu trả lời từ ông Tuất!
Hôm nay ông Tuất phá lệ, ông uống ngang ngửa với Văn, Kim và Bằng nhưng ông ép mọi người phải ăn no, ông Tuất nói:
– Ráng ăn đi mấy cậu, lỡ có say thì hôm sau cũng đỡ mệt, nếu mấy cậu chỉ để mồi “làm chứng” mà sụp say thì lúc tỉnh dậy một ngón tay nhúc nhích cũng không nỗi!
Văn thử phản bác:
– Ăn no uống rượu mất ngon, chú có thấy vậy không?
– Hồi trẻ tui cũng nghĩ như cậu vậy nhưng sau mấy lần thử “đổ bê tông” khi uống rượu thấy không bị mệt, tui tập dần, vậy là quen. Bây giờ có tuổi rồi, không còn nhậu say được nữa!
Văn nói:
– Khi uống rượu vừa đủ, chú có công nhận với con không, người ta sẽ nói rất thực?
Ông Tuất nhìn anh nhà báo nhà văn:
– Cậu muốn hỏi gì thì cứ việc, hôm nay tôi thử uống tới bến một bữa đó, lát nữa say quá không nói thiệt đâu! Ha ha…
Văn nhìn vào mắt ông Tuất:
– Chú biết cha ruột của Bằng, đúng không?
Trong cặp mắt của ông Tuất, Văn bắt gặp một tia nhìn phức tạp. Chính dự cảm báo cho anh nhà báo nhà văn biết như vậy! Ông Tuất như một thói quen, ông e hèm một tiếng rồi mới lên tiếng:
– Cậu Văn à, hồi giờ tui chưa đi đâu xa cả, chỉ quanh quẩn ở tại xứ này kể cả mấy năm đi lính, tui cũng chưa cầm súng bắn ai. Hồi nãy cậu nói đúng, nhiều chuyện thấy vậy mà không phải vậy cho nên tui thường không dám nói chuyện này đúng chuyện kia sai nếu không rành rẻ mọi sự. Cậu muốn biết cha thằng Bằng à, mà tui biết thằng Bằng cũng vậy…thôi thì biết tới đâu tui kể tới đó nghen!
8. Những trang viết của Văn – 1974
Một: Thằng cu Đùng.
Trời sụp tối. Thình lình một tiếng “víu” vang lên, đó là lúc đầu đạn M79 rời khỏi nòng bay theo một đường vòng cung, chạm tới đích và nổ một tiếng đanh gọn phá tan vẻ êm ả của buổi chiều tà. Tiếp theo tiếng M79 là hàng tràng đạn M16 liên thanh vang lên, đạn đi như xé không khí mang đến sự chết chóc cho những sinh vật đang vận động bất cứ lúc nào!
Hạ sĩ Trương vĩnh Tuất chuẩn bị lên đường về đơn vị. Anh đang là quân nhân phục vụ cho Trung tá Võ đình Đệ, là sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn yểm trợ trường Võ bị Quốc gia Việt Nam. Hôm nay anh được phép về thăm nhà một ngày và sẽ trình diện chậm nhất là vào lúc 20 giờ, không thể nào trễ hơn!
Đúng lúc anh dắt chiếc xe 66 ra sân, tiếng nổ đầu tiên của trái đạn M79 vang lên, bà Sáu mẹ anh giục con:
– Vô nhà đi con, chút nữa hẵng đi, nguy hiểm lắm!
Tuất nghe ngóng bằng giác quan của một người lính. Chắc là đụng độ trên dông Đình, không lẽ “mấy ổng” về sớm như vậy sao? Hay là mấy ông Nghĩa quân thần hồn nát thần tính, bắn bậy bắn bạ vào bất cứ cái gì đang cục cựa vì cứ nghĩ đó là VC (Việt cộng). Tiếng súng im bặt, có lẽ nhận định của mình là đúng, Tuất chào mẹ rồi nổ máy xe lên đường.
Mùa này Đà Lạt thường có mưa cuối mùa, mà mưa rất lớn như thể ông trời mưa cho đã trước khi thực sự bước vào mùa nắng. Hoa quỳ vàng đã lác đác nở ven đường, những đoá hoa màu vàng rực nắng nổi bật trong đám lá xanh chính là sứ giả báo tin mùa nắng đã bắt đầu. Hạ sĩ không lo trời mưa vì đầu chiều trời đã đổ một cơn mưa lớn rồi, những vũng nước mưa trong những ổ gà loang loáng dưới ánh sáng của đèn xe 66 mà anh đang chạy về hướng trường Võ bị.
Tuất cho xe chạy chậm, đường dẫn đến trường Võ bị đi xuyên qua phố, những con đường nhỏ đầy ổ gà quanh co theo triền đồi, mà đồi ở xứ này giống như bát úp liên tiếp nhau kéo dài đến tận dãy núi phía xa xa. Bóng tối âm thầm phủ xuống thị xã một vẻ huyền bí cộng với cơn gió cuối mùa thu mang hơi lạnh của núi rừng về với phố. Tuất kéo phéc mơ tuya cổ áo Field Jacket màu cứt ngựa ngăn gió lùa vào cơ thể, hơi ấm dần tích tụ trong người anh hạ sĩ.
Hạ sĩ Tuất nhớ lại chuyện sáng nay, anh mỉm cười một mình trên đường đi, bất giác anh cảm thấy ấm lòng. Chiến tranh là sự huỷ diệt, hơn ai hết anh hiểu rõ điều này. Trò chơi của Thần chết chính là súng đạn mà súng đạn mang đến cái chết ẩn chứa trong lòng nó sự phản trắc không che giấu. Vẻ tự đắc của việc phô diễn sức mạnh, tước đoạt mạng sống con người được biểu lộ bằng sự tối tân của súng ống từ cái vẻ bên ngoài cho đến tính năng của thứ vũ khí giết người đến xứ này từ một nơi rất xa trên trái đất!
Trái với sự huỷ diệt của chiến tranh, sinh linh vẫn xuất hiện trên mặt đất bất an bằng vẻ mặt của một thiên thần. Cuộc sống vẫn tiếp diễn bất chấp nổ lực của thần Chiến tranh mang chết chóc đến cho con người, từ cọng cỏ nhú lên khỏi mặt đất khi mùa mưa đến cho đến con gà kêu chíp chíp nho nhỏ khi vừa chui ra khỏi trứng và trên hết là những gương mặt hài nhi đỏ au vừa ra khỏi bụng mẹ!
Một niềm hạnh phúc vô bờ bất thần xuất hiện sáng nay với hạ sĩ Tuất khi bất chợt thằng cu Đùng kêu lên mấy tiếng ba ba ba….Tuất tự hỏi sao mẹ nó đặt tên con như vậy? Nghĩ đến đó bỗng nhiên trong lòng Tuất xuất hiện một cảm giác đau đớn vô hình, nó giống như anh vừa bị một con dao đâm suốt trái tim!
Hạ sĩ Tuất lắc lắc đầu như thể xua tan những ý nghĩ hắc ám trong đầu, anh cố tập trung nghĩ về nụ cười của cu Đùng. Thằng nhỏ cười thiệt ngộ, nó khoe hai cái răng cửa nhỏ xíu ngộ nghĩnh bằng một đôi môi hồng thơm mùi sữa mẹ!
Bỗng nhiên Tuất phát hiện ra một điều thú vị, thằng cu Đùng có nét giống một ai đó mà trong nhất thời Tuất không kịp nhớ ra. Nó giống ai? Tuất không có đáp số nhưng rõ ràng người cu Đùng giống là có thực.
Dù gì mình cũng nhận làm cha thằng nhỏ, tuy anh buột miệng nói ra nhưng niềm vui trong anh là sự thực. Đó là ý nghĩ cuối cùng của hạ sĩ Tuất khi chiếc 66 trờ tới cổng gác khu gia binh tiểu đoàn yểm trợ.
9. Cũng là anh Tuất mặt ma – 1972
Ông Tuất trở mình thức giấc, có lẽ bây giờ đã qua nửa đêm, ông Tuất xuống nhà bếp tìm nước uống. Chiều nay trong cuộc rượu ông bốc đồng uống ngang bằng với bọn trẻ, may mà không say. Đã từ lâu ông không uống rượu bạt mạng như hồi trẻ nữa, tuổi già khiến cho con người ta chậm lại, ông Tuất biết rõ điều đó.
Ông Tuất nhớ lại câu chuyện mình kể với bọn trẻ hồi chiều. Ừ, tại sao khi không đem chuyện xưa nói ra làm gì không biết. Chỉ tại cậu Kim cứ khơi mào, mà thằng Bằng nhìn ông rất lạ, đôi mắt nó vừa hy vọng lại vừa thúc giục ông.
Còn anh nhà báo nhà văn thật là tỉnh táo, hình như cậu Văn cố ý để ông nói ra chuyện xưa? Lâu nay cho dù chơi thân với mấy người này, uống rượu với nhau cũng không ít nhưng ông Tuất thường lãng tránh những chuyện ông không muốn nhớ. Điều gì mình không muốn, trong thực tế thường xảy ra ngược lại. Thôi thì một lần nói ra để cho thằng Bằng biết sự thật ông không là cha nó chứ để trong lòng hoài cũng thấy nặng nề.
Ông Tuất biết Bằng đinh ninh ông là người sinh thành ra nó, chắc nó sẽ thất vọng nhưng biết sao được? Ông đối xử với Bằng giống như cha với con, chính điều này khiến Bằng càng tin vào dư luận ở ngã ba. Dư luận luôn dai dẳng. Đúng vậy khi cô Loan có bầu người ta dị nghị cô không chồng mà chửa. Đến khi cô sinh con, lại rộ lên một đợt dư luận nữa đến nỗi ông Hai Thị vốn là một người hiền lành cũng phải nêu ý kiến rằng ông sẽ cho những người ăn không ngồi rồi biết tay nếu còn xỉa xói vào chuyện riêng của nhà ông. Dư luận lắng xuống một thời gian thiệt, rồi lại bùng phát một “chu kỳ” mới!
Lần này là tại bà Hai. Hôm đó Tuất về thăm nhà, bà ẳm thằng Đùng băng ngang khu đất trống về nhà mình, bà coi giùm thằng nhỏ cho bà Hai để bà Hai đi quán mua ít đồ dùng. Bất ngờ thằng cu Đùng bi bô mấy tiếng ba…ba…ba và mỉm cười với Tuất khi vừa ngủ dậy. Trong lòng bà Sáu vui quá, bà cho rằng đó là điềm tốt, lâu nay bà rất mong Tuất có vợ sinh con nhưng Tuất chưa ưng đám nào mà bà gợi ý. Nay điềm lành diễn ra trong nhà bà, bà tin rằng Tuất sẽ có vợ có con, trong lòng bà Sáu như nở hoa.
Bà Sáu không thể để lâu chuyện vui trong bụng được. Ngay sáng hôm sau khi bà mua gạo ở quán bà Hoá, bà đem chuyện này kể với bà Hoá và mấy người hàng xóm đang mua hàng.
Người ta nói “tam sao thì thất bổn”, tin Tuất là cha thằng Đùng như có chân chạy khắp làng trên xóm dưới. Bà Hoá còn đệm:
– Tui nói có sai mô, con nít con nôi là hay lắm, máu mủ ruột rà là hắn nhận ra liền!
Tin đó đến tai bà Hai Thị, bà Hai nửa tin nửa ngờ. Bà qua nhà hàng xóm hỏi rõ để biết thực hư. Bà Sáu xác nhận với bà Hai rằng đúng là thằng cu Đùng kêu ba ba ba khi vừa gặp con trai bà. Bà chưa kịp nói tiếp rằng đó là điềm lành thì bà Hai đã vội vã chào về. Bà Sáu nhìn theo dáng đi hấp tấp của bà Hai mà trong bụng ngạc nhiên.
Bà Hai vừa vô nhà đã gọi to:
– Ông đâu rồi, tui muốn bàn với ông chút chuyện!
Bà thì thào kể chuyện thằng Tuất con bà Sáu là cha thằng cu Đùng, bà giục ông phải qua nhà bà Sáu nói phải quấy để cho con Loan và thằng Tuất sống chung. Bà dự tính làm mâm cơm cúng tổ tiên để xin lỗi cửu huyền thất tổ về chuyện không tổ chức lễ vu quy cho con Loan về nhà chồng….
Ông Hai tỉnh táo hơn bà, ông nói:
– Để tối con Loan về hỏi cho rõ ràng, nếu đúng vậy tui sẽ qua nhà bà Sáu nói khó một tiếng chắc là xong!
Tối Loan về nhà, cơm nước xong cô định cho cu Đùng đi ngủ, bà Sáu biểu lên nhà ông Sáu hỏi chuyện. Khi nghe thủng câu chuyện, Loan nghiêm nét mặt:
– Anh Tuất rất tốt với con nhưng ảnh không phải ba cu Đùng, người ta đồn vậy tội ảnh lắm!
Ông nhìn bà, bà nhìn ông. Bao nhiêu là dự tính trong lòng bà Hai tan tành như bọt biển. Bà vớt vát:
– Nhưng bà Sáu nói rõ ràng mà, thằng Đùng kêu ba ba ba khi vừa gặp cậu Tuất, con nít con nôi nó đâu có nhận lầm người?
Đến nước này Loan không thể nín cười, cô nói:
– Con là người biết rõ cha thằng Đùng mà….
Ông bà Hai lại loé lên hy vọng cô cháu sẽ nói ra tên cha thằng Đùng, lần này ông bà sẽ coi cho kỹ trước khi qua nhà người ta nói chuyện phải quấy với nhau!
Bất ngờ Loan quay mặt đi nhưng bà Hai kịp nhận ra giọt nước mắt ứa ra từ đôi mắt cháu. Loan nói:
– Con xin dì dượng cho con giữ riêng chuyện này…anh Tuất bao giờ trong lòng con cũng là anh Tuất… mặt ma!
10. Những trang viết của Văn (2) – 1974
Hai: Lời thú nhận muộn màng
Vừa cất xe xong, Tuất được lệnh lên gặp Trung tá Võ đình Đệ. Tay trung uý đại đội trưởng địa phương quân, đơn vị trực thuộc tiểu đoàn yểm trợ chuyên canh gác cho trường Võ bị, người trực tiếp báo tin cho hạ sĩ Tuất nói:
– Không biết có chuyện gì mà trung tá từ chiều đến giờ hỏi hạ sĩ hoài, ổng dặn tôi hạ sĩ về thì phải lên ngay phòng riêng gặp ổng?
Y dương cặp mắt ốc nhồi nhìn Tuất, chắc trong lòng y đang nghi ngờ Tuất làm “áp phe” gì đó cho trung tá Đệ. Tuất cười nhẹ:
– Cám ơn trung uý, tôi sẽ lên liền… chẳng là tôi nghe tin bà già bị bệnh nên trung tá cho nghỉ một ngày về thăm nhà!
Hạ sĩ Tuất giơ tay lên vành mũ chào trung uý Tín trước khi đi đến phòng của trung tá Đệ.
Đúng như viên trung uý nói, trung tá Đệ chờ anh trong phòng. Hạ sĩ Tuất giơ tay chào thượng cấp như điều lệnh nhưng ông trung tá ngăn lại:
– Cậu không phải thực hiện quân phong, quân kỷ đâu. Bây giờ đang là ngoài giờ hành chánh!
Trung tá Đệ mời Tuất ngồi xuống chiếc ghế tựa Mỹ chân sắt có nan bằng gỗ màu vàng, ông hỏi:
– Ở nhà cậu có chuyện gì không?
Xứ sương giăng: Ông già bán xôi ở cây số 6 – Truyện dài của Võ Anh Cương
8 Tháng 1, 2023
309
Chương 7
(Vanchuongphuongnam.vn) – 1. ”Thế mạnh” của Bằng – 2019 – Cây số sáu không biết từ lúc nào người ta không gọi là ngã ba nữa. Cái tên đó đã lùi xa vào quá khứ. Bây giờ người ta gọi nơi này là vòng xoay số sáu hay bùng binh số sáu. Con đường cũng thay tên, không còn mang tên đường Dankia như ngày trước. Vật đổi sao dời là quy luật muôn thuở của tự nhiên huống chi chỉ là một địa danh?
Nhà văn Võ Anh Cương.
Có biết bao nhiêu sự thay đổi ở nơi này, cái mới thay cái cũ và theo thời gian rồi sẽ bị thay thế bởi cái mới hơn. Tiệm xôi Lá chuối là kế thừa của gánh xôi ông Tuất. Xôi là một món ăn sáng phổ biến và cũng là một món luôn có mặt trong các đám giỗ, đặc biệt là đám đầy tháng và thôi nôi xôi và chè là hai món lễ vật để cúng ba vị Tiên nương và mười hai bà Mụ luôn là món người ta nghĩ đến đầu tiên. Món ăn do con người nghĩ ra lẽ dĩ nhiên cũng do con người phát triển thêm. Ngày trước ông Tuất chỉ bán vài loại xôi còn bây giờ ở Lá chuối có cả chục loại xôi để đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của khách hàng.
Thắm ngày càng già đi, ở cái tuổi sắp lên bà người ta hay nghĩ đến cháu. Phải chi Thắm có được đứa cháu ẵm bồng thì hay biết mấy? Khi Thắm hỏi dò hai thằng con trai thì cả hai đều trả lời na ná như nhau:
– Chuyện đó chưa đâu mẹ ơi, người yêu chưa có lấy đâu ra để cưới làm vợ?
Thắm thầm ngạc nhiên, không lẽ nó không để ý đến đứa con gái nào hay sao. Cái thằng Thông hồi lớp năm làm giúp bài toán cộng trừ nhân chia tiền phân bón, nhân công, giống má… rồi tính ra lời lỗ cho ba nó một cách nhanh chóng cũng khá đẹp trai và men lỳ như chúng bạn nó nói với nhau mà không kiếm nỗi một đứa con gái để yêu?
Còn thằng Minh đang học lớp mười một tối tối bán trà sữa con gái bu quanh nó cũng nhiều nhưng mỗi khi Thắm hỏi vụ bồ bịch nó đều cười phá lên và nói:
– Mẹ ơi mấy con ranh đó mà xứng với con sao?
– Bộ con tưởng con là thiếu gia đại gia chi chi hả?
Minh cười:
– Con không phải đại gia “đa dại” gì nhưng bọn đó con không lấy đâu, con gái gì mà vừa lười vừa hỗn… thôi, chừng nào con lấy vợ mẹ biết liền!
Thắm đem chuyện này kể với chồng, Bằng lắc đầu nói kệ nó, vợ chồng là chuyện duyên số. Nói xong Bằng im lặng mặc cho Thắm cứ càm ràm hoài. Sáng sáng Bằng vẫn đi vườn, anh chăm chút xăm soi từng cành cây và cả thân cây bơ bởi loài sâu đục thân ưa gỗ cây bơ lắm, phát hiện ra con sâu nào là anh tìm cách diệt bằng được. Mười mấy năm trồng bơ, Bằng đã có ba giống bơ đang “ăn khách”, kiếm tiền cũng khá hơn hồi xưa nhiều. Vậy mà thằng Thông đòi chặt bớt một ít để nó trồng xà lách!
Thông học được, tuy không giỏi vượt bậc nhưng cũng là đứa thông minh. Nó học một lèo từ tiểu học lên đại học, chọn ngành nông lâm để học. Bằng không rành chuyện học hành nhưng cũng như ông Tuất, Bằng muốn con ra đời làm bàn giấy, nói theo kiểu ông Tuất là làm “sĩ quan” với người ta. Nay thấy con đòi ở nhà làm vườn, Bằng khá sốc! Không đủ lý lẽ để nói “chiện” với con, Bằng thực hiện quyền im lặng, vả chăng đây cũng là “thế mạnh” của Bằng!
2. Cơ hội – 2019
Hôm đó Thắm bán xôi sáng xong, Thắm đang chờ bà Chi ra lấy xôi đặt trước thì Hương xuất hiện. Hương không đi một mình mà còn dẫn theo một đứa con gái chừng mười hai, mười ba tuổi. Con bé rất lanh, đó là nhận xét đầu tiên của Thắm, nó cúi đầu khoanh tay chào Thắm rất lễ phép:
– Con chào cô ạ!
Thắm chào lại:
– Cô chào con!
Rồi Thắm đưa mắt ngầm hỏi Hương. Từ ngày giao “làm quen” 20 phần xôi hạt sen cho Hương, Thắm gặp Hương nhiều lần và dần dà cả hai trở thành bạn của nhau. Thật ra hôm đầu tiên lên nhà Thắm, ý của Hương thử coi mặt bà xã ông Bằng “đen” ra sao, Hương thấy Thắm xởi lởi nên trong lòng có cảm tình với Thắm rồi. Thỉnh thoảng Hương đánh chiếc Mazda 2 từ Đức Trọng lên nhà Thắm, cô rủ Thắm đi chơi. Đàn bà ai mà không thích shopping, bây giờ Thắm cũng rủng rẻng tiền, tuy không nhiều như người ta nhưng muốn mua thỏi son là có thỏi son hay hộp mỹ phẩm O Hui mà Hương giới thiệu, là Thắm có Ô Hui. Thắm cũng không phải lăn tăn so thiệt tính hơn như hồi con gái đứng đóng đinh ở hàng mỹ phẩm, thấy cái gì cũng ưng nhưng tiền thì hẻo!
Hương cười:
– Con bé Bơ, cháu chị. Tên đi học của nó là Võ Đông Giao.
Nói xong Hương quay qua chuyện khác, cố giấu một nụ cười nơi khoé miệng. Con bé Bơ ban đầu hơi bỡ ngỡ nhưng chỉ một lát sau nó “hội nhập” ngay với thằng Minh. Không biết nó nói gì đó với Minh mà thằng nhỏ cười phá lên ra vẻ khoái chí lắm. Nói chuyện với Hương mà Thắm thỉnh thoảng vẫn đánh mắt nhìn con bé, tự nhiên cô quan tâm đến bé Bơ dù chỉ mới gặp lần đầu. Thắm thấy con bé dường như có chuyện gì đó buồn buồn, tuy nó nói cười với anh Minh nhưng trong đuôi mắt nó nét buồn vẫn hiển hiện! Chắc có lẽ mình quá mẫn cảm, Thắm nghĩ, rồi cô tiếp tục nói chuyện với Hương.
Hương hỏi thăm:
– Thằng Thông bây giờ làm gì?
Như gãi đúng chỗ ngứa, Thắm thao thao kể chuyện thằng con:
– Tốt nghiệp xong nó về liền, không chịu ở lại Sài Gòn tìm việc làm. Chị coi, nó nói như vầy, đi xin việc là làm công cho người ta, nhà mình có đất sao không làm ông chủ, tuy chỉ là chủ nhỏ? Ông Bằng giận lắm nhưng không nói ra, ổng nói với em nuôi con ăn học hết hơi nay nó về đòi làm vườn, không chịu làm phòng máy lạnh! Chị biết sao không, bạn nó xin cho nó một việc phù hợp với ngành học ở Sài Gòn mà nó không nhận, chị thấy có tức không?
Nhấp một ngụm nước ép trái thơm, Thắm tiếp:
– Thằng Thông nói ba nó chặt bớt đám cây bơ trên cao cho năng xuất thấp chừng hai sào để nó trồng rau xà lách thuỷ canh, một nửa trồng theo kiểu cái gì canh đó, à… khí canh, em mới nghe nó nói lần đầu!
Hương hỏi:
– Rồi ông Bằng có chặt không?
– Ông Bằng nhà em chị biết rồi, ổng chăm bơ còn hơn chăm con nên đâu có chịu? May mà chú Thận hàng xóm muốn bán mấy sào cà phê cỗi nên ổng mua cho thằng Thông làm vườn.
– Cô chú cũng khá hả, chúc mừng nghen!
Thắm chỉ cười, nói cảm ơn chị mà không giải thích gì thêm. Chuyện ông nội thằng Thông để lại một số vàng cho Bằng với 6 chữ “tự thắng, cần kíp, cơ hội” không lẽ đi nói với người ngoài cho dù cũng khá thân? Bằng áp dụng ngay hai chữ “cơ hội” mua miếng vườn chú Thận như ông Tuất hồi trước mua vườn cây tạp của ông Thử vậy.
3. Má Hai – 2019
Hương nói:
– Thắm nè, chị gởi con bé Bơ ở lại chơi với thằng Minh, chị chở em đi với chị một lát được không?
Thắm cười:
– Đi đâu hả chị… mà thôi đi với chị là em yên tâm rồi, sao lại gởi bé Bơ ở nhà em, chị dẫn nó theo cho vui?
Thắm ngước nhìn Hương chờ câu trả lời, Hương cười mỉm ra vẻ bí hiểm:
– Không, để con bé ở nhà chơi với anh Minh đi, chuyện phụ nữ với nhau có mặt nó không tiện, em hiểu không?
Có gì mà không hiểu nhưng trong lòng Thắm nẩy lên một thoáng nghi ngờ. Bà Hương “ù” này hôm nay sao sao á, Thắm nghĩ, có gì bí mật mà phải cách ly con bé vậy. Thắm ngại bé Bơ lạ nhà nhưng khi Hương hỏi nó, nó vui vẻ nói:
– Con chơi với anh Minh được mà, anh Minh dạy con pha trà sữa!
Hương chở thắm đi… cà phê. Tưởng đi đâu chứ lại cà phê, Thắm nghĩ. Hương nói:
– Quán này nhỏ nhưng ấm cúng, chị có chút chuyện muốn nói với em!
Thắm thấy lòng mình gờn gợn, cô linh cảm có chuyện gì sẽ đến bới mình. Quả là như vậy, khi mới nghe Hương nói bé Bơ là con của chồng mình, cô như lọt thỏm xuống một…hố băng! Thấy vẻ mặt thất thần của Thắm, Hương hốt hoảng:
– Em làm sao vậy, chị đã nói hết chuyện đâu!
Thắm không ngăn dòng nước mắt tủi nhục:
– Em đã nghi rồi, hồi đó người ta đồn ổng ngủ với con Thuỷ bị chồng nó bắt tại trận. Thằng Trung ra giá bắt ổng phải chung cho nó hai mươi triệu thì nó để yên cho… ai dè giờ lại lòi ra con bé Bơ này! Đồ phản bội, em là em ly dị, mà chị ơi sao em khổ thế này hả chị?
Hương vừa cười vừa vuốt vuốt ngực Thắm:
– Em hiểu lầm rồi, tuy chị biết chồng em sau này nhưng lại là người biết rõ mọi chuyện liên quan tới chú Bằng! Em coi, con bé Bơ mới mười hai, mười ba tuổi còn chuyện kia đã hơn hai chục năm rồi mà, mà em hãy bình tĩnh, chị chưa nói hết đâu!
Thắm ngớ người, chị Hương nói đúng. Chuyện kia nếu tính ra thì con bé đã có thể lấy chồng mà bé Bơ mới dậy thì, hai cái vú mới chỉ nhú lên như hai quả cau, vậy là sao? Hay con bé này là con của bà Hương “ù” với ông chồng bội bạc của mình? Cô quắc mắc nhìn Hương như thể muốn nuốt trộng “địch thủ” của mình vào bụng. Đàn bà là giống ưa độc quyền, chỉ muốn chồng mình ăn nằm với mình, chồng mà lang chạ với người nữ khác thì dù có hiền như ma soeur khi biết sự thật cũng sẽ trở thành hổ dữ!
Như đoán được tâm lý của Thắm, Hương cười:
– Em đừng nghĩ lung tung có được không, đời chị ước ao được làm mẹ mà ông trời có cho đâu?
Thắm đỏ mặt, Thắm đã nghi ngờ Hương. Câu nói của Hương vang lên trong căn phòng vắng của quán cà phê nghe mới đau đớn làm sao! Hương nuốt nước bọt rồi tiếp câu chuyện dỡ dang:
– Mẹ nó đúng là Thuỷ, con bé chị coi như em mà giờ em có ghen với Thuỷ cũng không được đâu….
Sao lại không được, ai ngăn cấm Thắm gọt đầu bôi vôi cái con người cướp chồng cô? Ngay ngày mai, mà không chiều nay thôi Thắm sẽ tìm đến nhà con Thuỷ để xé xác nó ra hả giận…. Hương không để Thắm phải chờ lâu, cô nói:
– Mà em ơi, con Thuỷ nó chết mất rồi!
Rồi Hương kể lại toàn bộ câu chuyện ra đời của bé Bơ, lúc này Thắm thôi không giận dữ ra mặt nữa, cô im lặng nghe Hương nói. Trong lòng Thắm bây giờ đang ngổn ngang trăm mối, cô giận chồng mình thì đã đành nhưng Thắm cũng mủi lòng trước cái chết thương tâm của Thuỷ. Hương nói:
– Đàn bà em ạ, ai cũng muốn mình có được đứa con chăm sóc, nuôi nấng nó lớn lên. Con Thuỷ cuộc đời nó thiệt là tội, từ Nha Trang nó nghe lời đường mật của thằng chồng lên Đà Lạt sống. Nó gặp phải thằng chồng không ra gì, bài bạc, gái gú, hút sách đủ cả. Khi ly dị chồng rồi nó về sống với chị, nó nói định ở vậy cho tới già tới chết. Ai ngờ đâu trời sui đất khiến nó gặp lại chồng em, nó nẩy lên ý định “xin” một đứa con để hủ hỉ cho đỡ buồn. Cái này chồng em không biết, nó cho uống rượu bổ dương… mà thôi chị đoán chồng em lâm thế không cưỡng lại được dục vọng của mình… và bé Bơ ra đời. Thuỷ giữ lời hứa không bao giờ nó gặp lại chồng em, mọi chuyện buôn bán với chồng em đều qua tay chị….
Hương rất khéo, cô một tiếng “chồng em” hai tiếng “chồng em”, cơn giận trong lòng Thuỷ cũng nguôi quá nửa nhưng nói rằng cô bỏ qua cho chồng chắc là…không bao giờ!
Hương kết luận:
– Chuyện xảy ra thì đã xảy ra rồi, điều chị muốn nói với em là tương lai con bé Bơ. Chị xin em cho anh em nó nhận mặt nhau, đi lại với nhau để nó có một gia đình, nếu em mà để bụng chuyện của người lớn thì con bé sẽ không có người thân. Chị hứa với em là chị sẽ chăm con bé cho đến khi nó trưởng thành, chị coi nó như con nhưng không muốn nó gọi chị bằng mẹ vì chị chỉ chờ cái ngày này!
Đàn bà hay mềm lòng, mà trong trường hợp này chuyện Thắm nhận con riêng của chồng lại làm bùng nổ một câu chuyện làm quà ở bùng binh số sáu, dân bùng binh dựng lên một câu chuyện có đầu có đuôi đến nỗi Bằng nghe cũng…giật mình!
Trở về nhà, Hương kêu con bé Bơ lại nói:
– Dì đã nói chuyện với má con rồi, con chào má đi con?
Bé Bơ vòng tay cúi đầu:
– Dạ, con chào má Hai!
4. Cơn bão trong… ly nước – 2019
Đêm đó Bằng không ngủ được. Thắm đay nghiến chồng từ lúc lên giường đến nửa đêm, Bằng chỉ nói được một câu “anh bị con Thuỷ gài độ” rồi im lặng giống như bản tánh hồi giờ của Bằng. Thắm bắt nọn:
– Hừ… gài độ à, tui biết tỏng ông mà, chê gái già này đi tìm của lạ chứ gì. “Một cái lạ bằng một tạ cái quen” người ta nói cấm có sai!
Bằng nghe nói vậy giật mình, chuyện tưởng chìm vào quên lãng giờ bỗng nhiên nổi dậy, mà người ta còn biết nữa mới chết chứ. Nhưng oan cho Bằng quá, Bằng chỉ… có một lần ấy chứ đâu có nhiều mà người ta lại “phăng” ra cả… 100 cái, ở đâu ra vậy hở trời?
– Anh nói thiệt mà anh bị gài độ chỉ một lần, làm gì tới cả trăm cái?
Thắm buồn cười nhưng cố mím môi để tiếng cười không bật ra, Thắm la:
– Ông nói nhỏ nhỏ một chút, con nó nghe bây giờ!
Nhắc chồng như vậy nhưng trong lòng Thắm chữ “con” khiến cô dịu lại. Một tình cảm lạ lẫm xuất hiện trong tâm hồn Thắm khi bé Bơ vòng tay thưa “dạ, con chào má Hai”, tình cảm đó ngoài cảm giác lạ Thắm còn thấy… đằm thắm nữa. Hồi mang bầu thằng Minh, Thắm những mong mình có thêm đứa con gái thì… quá đã. Ai mà không mơ như vậy, trừ những kẻ làm ra vẻ lạ thường không thèm con gái khi không sinh nỗi đứa con gái mong muốn hay ngược lại, Thắm sắm dần vài thứ quần áo con gái nhưng ai dè sinh ra một thằng cu. Nay bỗng dưng bé Bơ xuất hiện, nụ cười con nhỏ thiệt đẹp giống y ba nó lại một điều má Hai hai điều má Hai khiến Thắm nhớ nó khi nó chào cô theo dì Hương ra xe về Đức Trọng. Thắm chạy theo nhắn “chị Hương ơi hôm nào rảnh chị chở bé Bơ lên chơi nghen!”.
Thắm nói tiếp:
– Tui nói cho ông biết, con bé Bơ nó kêu tui là má Hai rồi đó, nói vậy chớ tui không tha tội cho ông đâu!
Bằng thở phào tạ ơn Trời Phật, Thắm đã có vẻ nguôi rồi, Bằng quay qua nắm tay vợ bóp nhẹ. Thắm la lên:
– Bỏ tay em ra, người gì đâu mà tay cứ như sắt á!
Một trường dông bão tưởng làm lung lay ngôi nhà của Bằng ai ngờ tan biến nhờ một đứa con gái!
Sáng ra thằng Thông hỏi mẹ về bé Bơ khi ngồi ăn xôi. Thông về hồi tối nghe thằng Minh kể chuyện đứa em gái từ trên trời rơi xuống, Thông hào hứng nói:
– Mẹ ơi bé Bơ giống ai hả mẹ?
Thắm ngạc nhiên:
– Ai nói cho con biết?
– Ai ngoài thằng Minh hả mẹ, hoan hô ba, ba dắt về một đứa em gái, chuyện mà mẹ không làm được!
Thắm tức tối, quắt mắt nhìn con:
– Con nói cái gì, ba mày mà dắt về à, còn khuya, là nó tự lên nhận anh em với tụi con, biết chưa?
Rồi Thắm say sưa kể tỷ mỉ chuyện bé Bơ với Thông, cô còn dự định sắm cho con bé mấy bộ đồ mô đen một chút chớ dì Hương của nó nói phải tội, dù sao cũng là dân huyện nên sắm sanh gì mà nhuốm màu… huyện quá, tội con nhỏ!
Thằng Thông nói:
– Mẹ à, con cũng thích có một đứa em gái từ lâu, nay khi không lại có con bé Bơ thì quá đã. Nhưng mẹ này mẹ cũng đừng càm ràm ba nữa, dù sao chuyện cũng xảy ra rồi!
Thằng Thông mắc sai lầm mà nó không biết, từ nửa khuya tới giờ Thắm đã hơi nguôi ngoai, nay cô nghe con nói vậy, cơn tam bành lục tặc trong lòng cô nổi dậy:
– Con nói xảy ra rồi là bỏ qua à, mẹ là còn hiền đó chớ gặp người dữ tỷ như cô Vân con bác Bảy ba mày chết từ bảy đời vương!
– Là sao hả mẹ?
– Là cắt cái “của nợ” của ba mày quăng cho chó ăn!
Thông tròn mắt nhìn mẹ, người mẹ hiền lành thương con trong nó giờ biến đổi quá nhiều, mắt long sòng sọc, môi mím chặt như thể sẳn sàng tung chiêu “sát thủ” vào kẻ bội bạc và người tình! Thông doạ:
– Mẹ mà làm vậy là phạm luật hình sự tội cố ý giết người, đi tù chí ít cũng chục năm…mà cô Thuỷ đã chết rồi, ba con cũng đâu có tơ vương gì?
Thắm nhìn con:
– Con thì chỉ được cái binh cha thôi!
Thông biết cơn bão trong lòng mẹ bắt đầu tan, đó cũng chỉ là cơn bão trong… ly nước. Dù sao mẹ mình cũng thích con bé Bơ, mình phải đi coi mặt nó sớm mới được, Thông nghĩ. Điện thoại reo, Thông đưa máy lên tai nghe và trả lời:
– Anh đón tui ở số… đường Nguyễn Siêu… đúng rồi, bùng binh số sáu chạy xuống dốc!
Thông nói với mẹ:
– Con đi gặp chú Văn, nếu không về kịp con không ăn trưa nghe mẹ, con sẽ báo cho mẹ biết!
Thắm ngạc nhiên nhìn theo con, thằng này bấm bấm cái điện thoại nãy giờ tưởng vừa nói chuyện vừa chơi điện tử, ai dè nó gọi xe. Hôm trước Thông nói với mẹ:
-Con làm vườn để mẹ coi chỉ cần ngồi một chỗ bấm điện thoại là muốn làm cái gì trong vườn cũng được, thời buổi công nghệ bốn chấm không mà!
Thắm ngơ ngác nhìn con, bốn chấm không với không chấm bốn Thắm biết được….chết liền!
5. Tối bác nhớ đến nhé, em chờ – 2019
Đại tá Lê Chí Long về đến nhà liền điện thoại cho Văn. Lúc ấy Văn vừa bước ra từ phòng tổng biên tập, anh bắt máy và phi xe liền đến nhà ông đại tá. Đại tá Lê Chí Long niềm nỡ đón anh nhà báo nhà văn từ ngoài cửa:
– Vào đây chú, tôi mới xuống máy bay bắt tắc xi về đến nhà là điện ngay cho chú!
Ông Long đổi tông, từ cậu sang chú chắc là đã xem mình như người em trong nhà sau chuyện phả ký nhà họ Lê, Văn nghĩ. Văn cười hỏi thăm:
– Anh khoẻ không?
Ông đại tá trả lời:
– Ơn giời… tôi vẫn ăn được ngủ được. Chú vào nhà ta đàm đạo nhiều!
Văn theo ông Long vào phòng khách. Đó là một căn phòng không rộng lắm, bộ sô pha màu xám được đặt chính giữa phòng. Ông đại tá pha trà mời khách, đó là thứ trà Thái Nguyên ông mang từ Bắc vào trong chuyến công tác này, ông mời:
– Chú dùng trà, đây là trà Tân Cương loại hạng nhất đấy!
Văn nhắp một ngụm nhỏ, quả là trà Bắc có khác, vị đậm lại có hậu, uống vào một lúc mới cảm nhận được vị ngọt trong cuống họng. Văn hỏi thăm ông Long về chuyến đi họp ở Liên hiệp hội, ông Long trả lời:
– Thì cũng là một cuộc họp hàng năm thôi, chủ tịch Hữu Thỉnh đọc báo cáo, vài ba tham luận như mọi khi. Tôi cũng góp vào một bài… mà này bộ chú không định nghe lý do tôi mời chú thăm nhà sao hay lại chú ý đến thời sự văn nghệ hả?
Ông đại tá cười ý nhị, Văn cũng cười đáp:
– Ấy, thì cũng phải mào đầu vài câu chứ anh, em chuyên nhập đề lung khởi từ hồi còn học phổ thông anh ơi!
Cả hai cười xoà. Chẳng là nghe tin ông bạn vong niên đi họp ở Hà Nội, Văn nhờ ông đại tá, một người có mối quan hệ rộng trong quân đội hỏi giúp anh chuyện ba của Bằng.
Hôm ấy trong cuộc rượu, với sự gợi ý khá thẳng thắng của Kim, ông Tuất lần đầu tiên nói ra sự thật. Có lẽ rượu là tác nhân quan trong trong chuyện này nên ông Tuất không đưa đẩy như những lần trước nữa. Nghe xong câu chuyện đời, tối đó Văn về viết mấy trang để làm tư liệu. Văn dự tính lấy chuyện của ông Võ Đình Đệ để xây dựng một đề cương tiểu thuyết viết về tình báo quân đội trong chiến tranh nhưng rất tiếc người kể lại là một anh hạ sĩ quèn, lại bị tình cảm chi phối nên nhân vật chính không mấy rõ nét. Có lẽ mình sẽ hư cấu thêm, và nhất là tìm hiểu xem cuộc đời thật của viên trung tá Võ Đình Đệ, có phải là điệp viên không và sự thật ông là ai, lập được chiến công gì? Văn chợt nhớ đến ông đại tá và một ý loé lên: sao mình không nhờ anh Long với mối quan hệ rộng thử tìm hiểu về chuyện này? Nghĩ là làm, Văn tới nhà ông đại tá, anh kể toàn bộ câu chuyện từ góc nhìn của ông Tuất cho ông Long nghe và nhờ ông Long xác minh sự thật. Ông đại tá lấy làm thú vị qua chuyện của cha con nhà Bằng, chàng thanh niên có bộ râu quai nón ông có dịp uống rượu cùng. Ông Long là một nhà văn nên chia sẻ ngay với ý tưởng của chàng phóng viên, ông hứa sẽ cố gắng hết sức…
– Họp xong tôi đến Tổng cục tình báo quân đội, tại đây tôi có quen đại tá trưởng phòng E. Cậu này là em con cô của nhà tôi nên tôi nghĩ chắc là tôi sẽ giúp được chú trong chuyện này. Cậu Tiệp tiếp tôi khá thân mật, anh em lâu ngày mới gặp nhau nên hàn huyên nhiều chuyện. Khi nghe yêu cầu của tôi, cậu Tiệp lộ vẻ khó xử, thấy vậy tôi hỏi. Cậu ấy đáp:
– Anh ạ, em xin chia sẻ với anh và anh bạn của anh về chuyện này. Quả thật chiến tranh thường để lại nhiều hệ luỵ với cả xã hội và gia đình, nhiều khi không thể bù đắp được. Thú thật với anh, tàng thư tổng cục có lưu trữ đầy đủ thông tin về các cán bộ tình báo của ta, có hồ sơ đã giải mật, có hồ sơ hạn chế người truy cập, có hồ sơ chưa hết hạn giải mật…nhưng nói chung muốn tiếp cận với loại hồ sơ này phải có giấy phép của Bộ Quốc phòng!
Nhìn vẻ mặt áy náy của đại tá Tiệp ông Long đành nói:
– Cậu ạ, cái gì đã có quy định thì ta cứ thế mà thi hành. Đây cũng chỉ là câu chuyện riêng cậu cũng không nên áy náy làm gì. Tôi không quen Bộ trưởng, vả lại nếu có quen chăng nữa chắc cũng không xin được giấy phép bởi có phải là chuyện công đâu?
Tiễn ông Long về, đại tá Tiệp nhắc đi nhắc lại hai, ba lần:
– Nhất định tối nay bác phải đến nhà em dùng cơm đấy, họ hàng mấy khi có dịp gặp nhau, bác nhớ nhé!
Khi ông Long đã ngồi hẳn vào trong chiếc xe tắc xi, đại tá Tiệp còn gõ cửa nhắc lại:
– Tối bác nhớ đến nhé, em chờ!
Ngồi trên tắc xi đại tá Lê Chí Long ngẫm nghĩ về lời mời cơm của Tiệp. Thực ra trong cuộc sống hiện đại, mời cơm khách nhằm ngày thường là một việc… xa xỉ! Ai cũng quay cuồng với công việc của mình đến nỗi số người bị xì trét ngày càng tăng. Ông Long mơ hồ nhận ra lời mời của đại tá Tiệp có ẩn ý nhưng ông Tiệp muốn nói gì với mình, có lẽ cậu ấy không tiện nói chỗ làm việc?
6. Chỉ tiếc cái đề cương tiểu thuyết của chú sẽ không ra đời được – 2019
Văn vẫy tay với Thông. Từ xa Thông đã cười chào Văn:
– Cháu chào chú, chú chờ cháu có lâu không?
– Chú cũng mới đến thôi. Cháu ngồi xuống đi, uống gì nào?
Khi cả hai yên vị với ly cà phê phin trên bàn, Văn mới bắt đầu câu chuyện anh cần gặp Thông:
– Thông này, chắc cháu đã biết chuyện ông nội cháu rồi phải không, hôm nay chú muốn gặp cháu có liên quan đến chuyện đó….
Thông hơi ngạc nhiên khi nghe ông chú phóng viên đi nhiều biết lắm nói như vậy. Chuyện này xảy ra hai năm rồi, Thông có nghe mẹ to nhỏ cho biết chứ ba thì không bao giờ hé răng, tính cha mình Thông biết rõ. Khi nghe đến 6 chữ phương châm để lại của ông nội, Thông thầm thán phục. Nay nghe ông chú nói về chuyện này không biết có chú Văn có ẩn ý gì, Thông nghĩ.
Như nắm được ý nghĩ của Thông, anh nhà báo nhà văn cười mỉm:
– Chắc cháu nghĩ chú có ý gì phải không? Đúng là chú có ý định tìm hiểu xem sự thật từ những lời kể khá mơ hồ của chú Tuất, muốn xem thử toàn bộ hoạt động của ông nội cháu ra sao nên hai năm nay chú để tâm tìm hiểu…
Văn kể câu chuyện anh nhờ đại tá Lê Chí Long nhân dịp ông đi họp ở Hà Nội cho Thông nghe, anh nói tiếp:
– Tối ấy khi anh Long đến nhà ông đại tá Tiệp, sau khi cơm nước xong xuôi ông Tiệp mời ông Long lên trên sân thượng nói chuyện…
… Đêm Hà Nội trời đầy sao, một cơn gió mát từ phía sông Hồng thổi về tạm thời xua tan oi bức. Thành phố bên dưới vẫn sôi động với những dòng xe cộ chạy như bất tận, ông Long ngồi trên sân thượng nhìn xuống con đường đầy ánh sáng ông không thể nào nhận ra con đường hồi thanh niên mình thường xuyên đi qua. Bỗng nhiên trong lúc này ông nhớ lại ngày mình còn là sinh viên ông hay hẹn cô người yêu dân Hà Nội gốc đi dạo ven hồ tây. Con đường Thanh Niên lúc đó rất yên tỉnh, tràn ngập trong bóng râm của hàng cây cổ thụ tạo nên một vẻ đẹp khá cổ kính. Lúc đó chiến tranh bắt đầu ác liệt, chàng sinh viên tạm gát bút nghiên lên đường ra mặt trận. Cuộc hẹn hò giữa anh Long “miền Nam” với cô sinh viên khoa văn ngoài vẻ bịn rịn là tâm sự hai trẻ yêu nhau kẻ ở người đi còn vương vất chút lãng mạn. Cô tặng anh chiếc khăn tay thêu hai con chim chụm đầu vào nhau như thầm nhắn nhủ anh hoàn thành nhiệm vụ trở về để cô được cùng anh chụm đầu như đôi chim này vậy. Đêm đó anh sinh viên cũng chụm đầu vào cô gái nhưng không như đôi chim chỉ so mỏ anh khẽ khàng đặt lên môi cô một nụ hôn của mối tình đầu. Anh ra trận mang theo mùi vị của nụ hôn trong tâm khảm nhưng không bao giờ anh nghĩ ra được rằng đó là nụ hôn cuối cùng của họ, cô gái biến mất giống như chưa bao giờ có mặt trên cõi đời này sau trận bom trút xuống phố Khâm Thiên Nô en 1972…
Đại tá Long giật mình trở về thực tại khi nghe ông Tiệp mời nước:
– Mời anh xơi nước, chà… hình như anh đang nghĩ ngợi gì?
Ông Long cười:
– Cậu tính, tôi từ bé sống ở Hà Nội nên lần nào về thủ đô cũng có cảm giác như trở về nhà!
Đại tá Tiệp trầm ngâm:
– Em thì không có cảm xúc nhạy bén như nhà văn các anh nhưng đôi khi sự trở về cũng khiến cho em trăn trở. Anh ạ, buổi sáng mời anh về nhà dùng cơm em còn có chuyện muốn trao đổi riêng với anh về chuyện anh nhờ vã….
Nhấp ngụm nước trà, đại tá Tiệp nói tiếp:
– Đúng là em có tiếp xúc với hồ sơ của thượng tá Võ Đình Đệ, về nguyên tắc của tổ chức em không được phép tiết lộ với anh nhưng những chuyện ngoài lề về con người này em có thể cho anh biết vài chuyện.
Ông Long ngồi im tập trung nghe ông Tiệp:
– Ông này hoạt động đơn tuyến, sau giải phóng được đưa đi học tập cải tạo như chính sách đối với sĩ quan từ cấp uý trở lên. Mãi 3 năm sau ta mới xác minh và cho ông ta ra khỏi trại. Năm 1980 ông vượt biên qua Mỹ định cư với vợ và hai cô con gái. Ông tên thật là Trương Biên Hoà hiện nay hai ông bà đã về nước sống những ngày cuối đời sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Đây, em cho anh địa chỉ của thượng tá Hoà và điều cuối cùng em có thể tiết lộ với anh là dường như vị thượng tá đang mắc phải căn bệnh của người già là bệnh Alzheimer!
…
Văn nói tiếp sau khi kể cho Thông nghe chuyện của ông nội nó:
– Có địa chỉ chú tìm đến nhà nhưng rất tiếc ông thượng tá không nhớ gì cả. Bà vợ thì vẫn bình thường nhưng lại không biết hoạt động của chồng.
Tin ông nội của mình còn sống khiến Thông sửng sốt, Thông hấp tấp hỏi:
– Thiệt vậy hả chú, chú cho con địa chỉ ông bà nội đi?
Văn đáp:
– Tất nhiên là chú sẽ cho cháu biết nơi ở của ông bà con nhưng Thông này, việc làm gì ta cũng cần phải cẩn thận để tránh hậu quả đáng tiếc. Về lý thì chú thấy ông ấy đúng là ông nội của con nhưng điều này cần phải được kỹ thuật gene chứng thực. Đúng ra chú phải nói chuyện với ba con nhưng chú biết ba con ít nói, cục tính lại không hiểu xét nghiệm ADN là gì nên chú quyết định gặp con là vậy. Khi gặp ông Hoà chú thưa thiệt với ông bà chuyện ông có người con trai ở Đà Lạt, ông không nhớ gì cả còn bà thì rất mừng dòng họ Trương có người nối dõi nên ông bà cho phép chú lấy mẫu để làm xét nghiệm. Bây giờ cháu cần bí mật lấy mẫu tóc, móng tay của ba cháu và của cháu với thằng Minh đưa chú để chú mang đi xét nghiệm. Chừng nào có kết quả chính xác chú sẽ báo chính thức cho ba mẹ cháu. Ok chứ hả?
Thông cười, nói:
– Yeah! Con cám ơn chú nhiều!
Văn đưa tay ra chạm với tay Thông, anh nói:
– Chỉ tiếc cái đề cương tiểu thuyết của chú sẽ không ra đời được!
7. Đây là cơ hội chớ còn gì nữa…- 2019
Thấy Thông tỏ vẻ ngạc nhiên, Văn liền giải thích cho nó hiểu ý định của anh viết cuốn tiểu thuyết về cuộc đời ông nội nó bất thành như thế nào, thằng Thông ra vẻ thông cảm:
– Ra vậy, làm cha thì phải sinh con, sinh không được thì khổ tâm, con hiểu chú!
Văn ngạc nhiên với lời phát biểu của thằng cháu, anh cười:
– Cuộc sinh đẻ nào cũng đau đớn cả, cháu nói đúng đã vướng vào nghiệp viết như chú thì phải có tác phẩm, còn việc tác phẩm đó ra sao lại là chuyện khác. Thôi thì chú để đó về già viết tiểu thuyết còn bây giờ thì viết truyên ngắn cho có “con” với người ta chứ phải không?
Thông nhìn anh nhà báo nhà văn với ánh mắt hơi là lạ, thấy vậy Văn hỏi:
– Bộ cháu muốn nói gì sao?
Thông gật đầu xác nhận:
– Nếu chú cho phép con mới dám nói?
Văn khích lệ:
– Cháu cứ nói đi, mày trở nên khách sáo hồi nào vậy?
– Bởi con sợ bị chú giận. Chú Văn nè, cho con nói lên ý nghĩ của mình chút nghen, về mấy ông nhà văn nhà thơ đó mà. Con thấy mấy ông nhà văn, đặc biệt là nhà thơ rất… khác người! Các ông ấy mặt mũi thì lúc nào cũng đăm chiêu, tóc tai dài thậm thượt, quần áo lôi thôi lếch thếch. Dường như ngoài chuyện viết là quan trọng còn ngoài ra không chuyện gì đáng để quan tâm. Con công nhận với chú, có nhiều nhà văn nhà thơ sống trong nghèo khổ mà viết được những tác phẩm để đời. Nhưng hiện giờ con thấy phải có cuộc sống đàng hoàng cho bản thân mình mới tính đến chuyện văn chương, chữ nghĩa! Cơ hội chia đều cho mọi người mà chú!
Văn ngạc nhiên:
– Những chuyện đó ai nói cho cháu biết?
Thông cười:
– Một phần con đọc sách, phần khác do…chú nói, con hóng chuyện!
Văn nhướng mày, hoá ra là vậy. Những lần lên nhà Bằng, trong câu chuyện anh thường kể chuyện vui mấy ông văn nghệ sĩ, thằng Thông ngồi nghe lóm. Văn ngẫm nghĩ xét theo khía cạnh nào đó thằng Thông cũng… có lý. Như mình, anh nghĩ, đầu óc nhiều khi nghĩ đến chuyện đâu đâu trong tác phẩm đã viết hoặc định viết hơn là chăm lo cho chuyện cơm áo gạo tiền của nhà mình. Văn giật mình, lâu nay anh không để ý đến cảm xúc của vợ mình, nhiều khi bỏ mặc cho cô ấy tính toán sao thì tính để anh toàn tâm làm… chuyện lớn! Anh an phận với số tiền nhuận bút mình nhận được hàng tháng và không nghĩ mình phải đầu tư sao cho sinh lợi để điều kiện sống tốt hơn?
Nhưng sĩ diện một nhà văn nổi dậy, Văn nói:
– Như nhà văn Nguyễn Nhật Ánh một truyện dài của ổng tiền nhuận bút tính bằng…
Văn chưa nói hết ý thằng Thông đã ngăn lại:
– Chỉ là con nói cái ý riêng của con thôi, con không định tranh luận với chú nên chú cũng đừng phản biện hay dẫn chứng gì…. Chú ơi, điều mà con muốn bàn với chú trong lần được ngồi cà phê nói chuyện với chú là điều khác kia!
Câu trả lời của thằng Thông khiến Văn ngẩn người ra, anh chưa kịp nắm vấn đề thằng cháu định nói. Thông nói tiếp:
– Là con định mời chú cùng cộng tác làm một cú start up nông nghiệp với con!
Không để ông chú hỏi, Thông trình bày liền:
– Con phát thảo mấy ý như vầy. Ba Bằng sang lại 6 sào đất cà phê cỗi của chú Thận ở Nam Bang để con làm vườn và cho phép con muốn làm gì thì làm chỉ cần phải làm theo ý ông nội sao cho nó nở ra như bột làm bánh mì chớ không được phép mất vốn. Con lên kế hoạch trồng xà lách công nghệ cao, 3 sào thuỷ canh còn 3 sào khí canh. Về kỹ thuật con nắm vững, con đã được học, trải nghiệm qua các lần đi thực tế, tiếp cận được nguồn tài liệu, nắm được các phương tiện kỹ thuật… cái con không có lại là nơi tiêu thụ, nói thẳng là con trắng tay ở chỗ này!
Văn nhìn Thông hỏi:
– Vậy cháu cần chú giúp chuyện gì?
– Ba bạn con giới thiệu siêu thị City mart cho con nhưng kinh nghiệm thương thuyết kinh doanh con yếu. Con mời chú tham gia giúp con khâu tiêu thụ, nghiên cứu thị trường, tiếp thị, ký kết hợp đồng với khách hàng, trước mắt với siêu thị City với tư cách là cổ đông của một công ty, con mời chú góp vốn cùng tham gia kinh doanh với con?
Văn khá bất ngờ với đề nghị của Thông, anh nói:
– Chú cảm ơn cháu đã mời chú, để chú suy nghĩ thêm đã!
Thằng Thông cười:
– Suy nghĩ thêm gì nữa hả chú, chú đã từng viết thành văn chương chuyện ông nội con ra phương châm hành động là Tự thắng – Cần kíp – Cơ hội. Đây là cơ hội chớ còn gì nữa hả chú?
Thằng cháu láu quá, Văn nghĩ, nhưng sao nó biết? Văn hỏi:
– Sao cháu biết chuyện đó?
Thông cười:
– Ông nội kể cho cháu nghe mà, tối tối khi về nhà cháu đều lên nhà ngủ với ông nội!
Văn cười và bất ngờ giơ tay ra:
– Yeah!
Hai chú cháu cười to khiến vài người uống cà phê đưa mắt nhìn. Thông nói tiếp:
– Để cháu nói thêm, chú đồng ý là cổ đông rồi thì cháu sẽ mời chú Kim cùng tham gia chuyên lo vận chuyển cho công ty, đúng nghề của chàng rồi phải không chú?
8. Xứ sương giăng – 2020
Xứ sương giăng nơi anh nhà báo nhà văn sinh sống vẫn vô tư như vốn có. Thiên nhiên dưới bàn tay vun đắp của con người ngày càng xinh đẹp hơn và điều đáng nói nhất là nó có “hồn”. Người nghệ sĩ thổi hồn vào một khúc gỗ biến nó thành một pho tượng sinh động cũng giống như chuyện hàng vạn bàn tay vun đắp tô vẻ cho một vùng đất ngày càng khởi sắc hơn.
Năm 1893, Xứ sương giăng chỉ là một vùng đất hoang sơ khi ông bác sĩ Yersin xác định vị trí xây dựng nơi này thành một thành phố và định hướng cho vùng đất này phát triển. Lúc ấy sương mù là “đặc sản” của tự nhiên, phải 9 giờ sáng bà chúa sương mù mới rút lui để lộ ra khuôn mặt xinh đẹp của người thiếu nữ, chính là đồi cao lũng thấp, là tiếng reo vi vu bất tận của ngàn thông, là hương hoa thấm đẫm, là nơi hội tụ của những người dũng cảm…. Đến nay sương mù có ít đi nhưng vẫn hàng đêm và sáng sớm sương vẫn giăng giăng che phủ những thung sâu cho đến lúc mặt trời chiếu xuống mặt đất ánh sáng và sức nóng sương mù mới rút lui.
Xứ sương giăng ngày càng nở nồi đúng như quy luật phát triển của một sinh thể. Vùng đất này là nơi sinh sôi của nhiều sản vật trong nước và trên thế giới. Đó là rau, là hoa, là cà phê, là trà, là tơ tằm, cá nước lạnh…
Bây giờ người ta đang hướng tới một thành phố rộng hơn nhiều lần với những tên gọi gợi cảm. Xuân Hương, Liên Khàng, Dran, Lạc Dương, Lâm Hà.
Nhưng đó là chuyện vĩ mô của các công chức có trách nhiệm, còn với người bình thường sương giăng vẫn là sương giăng. Anh nhà báo nhà văn lại nghĩ khác hơn một chút, khuôn mặt thật của một người con gái sẽ lộ ra sau khi tẩy trang giống như mặt đất xinh đẹp xuất hiện khi sương mù không còn che khuất. Cái đẹp từ bên trong mới thật sự là đẹp và điều đó cứu rỗi chúng ta trong thế giới ta bà này!
Văn bây giờ vẫn là anh nhà báo kiêm thành viên công ty TNHH VTK chuyên cung cấp xà lách cho các siêu thị, nhà hàng, khách sạn 5 sao và anh vẫn viết truyện ngắn, anh đang gom “vốn” viết tiểu thuyết khi về già.
Hôm đó đại tá Lê Chí Long điện thoại cho Văn:
– Chú Văn à, “Về sứ sương giăng” “đi” trong tạp chí Lâm Viên số tháng tới, tôi báo cho chú biết. Hôm nào mời chú ghé nhà thưởng trà, tôi mới có gói trà ô long Ha Yih bạn biếu, tôi chờ chú đến mới khui. Thôi nhé tôi đang vội, chúc chú vui!
Văn mỉm cười nhớ lại truyện ngắn của mình….
9. Về xứ sương giăng
Khi tôi dọn đến chung cư này, thằng bé đã ở với bà ngoại nó từ lâu. Thiện có gương mặt sáng sủa, mới học lớp hai nhưng nó to con hơn bạn bè đồng trang lứa. Thiện là một thằng bé ngoan, sau giờ học nó quanh quẩn chơi ở công viên nội khu với đám trẻ con. Nhà chỉ có hai bà cháu, bà ngoại nó làm nghề môi giới nhà đất nên bận tối ngày nhưng bà vẫn bỏ thời gian nhất định để chăm sóc cháu, ít nhất tôi nhận thấy như thế.
Chung cư Hưng Vượng là một chốn bình yên, tôi nghĩ như vậy sau hơn một tháng thành dân ngụ cư. Hì, thì là ngụ cư đứt đuôi con nòng nọc rồi còn gì: bỏ nhà cửa ở Đà Lạt để về xứ nóng ở trông cháu giúp con. Ai cũng nói “Đà Lạt không ở, sao uổng thế?”. Biết nói thế nào mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh mà!
Chung cư nhỏ, tầng thấp lại là trung tâm một quận nên người Việt dễ quen biết nhau. Nói vậy bởi người nước ngoài vào đây thuê nhà nhiều lắm, những ngày đầu nhiều lúc tôi cứ tưởng một cô gái đi trên phố là gái Việt dè đâu không phải. Sau một thời gian lân la với anh chàng bảo vệ hay cười, tôi mới biết nơi này là nơi “trung chuyển” của nhiều người Việt. Ấy là số người sống ở đất nước mình mà mộng để ở trời tây. Trời tây đây là Mỹ, là Úc… chí ít cũng là Sing! Khi công ty PMH bắt đầu xây dựng, nghĩa là cách đây mười mấy năm, nhà giầu xuống quận này mua liền tay. Mà không dễ mua đâu nhé, chuyện kể rằng lúc mở bán bạn chỉ cần đi sớm bốc được một cái số thứ tự gần với số 1 nhất là có thể sang tay cầm chắc dăm chục triệu. Bây giờ thì khác rồi, họ – người giầu chuyển qua những khu phố quy hoạch đâu ra đấy và sống trong những biệt thự có giá mấy chục nhiều khi cả trăm tỷ đồng còn một số khác thì qua bên trời tây như mộng ước!
Không sao cả, đời là một cõi vô thường, chẳng phải Phật đã dạy như vậy sao? Đó là một chút suy tư của tôi khi sáng sáng đi ngang qua những con đường râm mát bóng cây, nghe tiếng chim ríu rít chuyền cành, không gian im ắng tĩnh lặng để đến với công viên Cảnh Đồi cũng trong lành không kém. Trong một sáng như vậy tôi quen một ông bác sĩ về hưu người Hà Nội chính gốc, ông chở cháu bằng chiếc xe đạp có cái ghế nhựa chuyên chở em bé đặt trên yên sau. Sau vài ba lần trò chuyện tôi biết ông từng là quân y, lúc ấy chiến tranh ác liệt lắm, ông nói vậy. Rồi ra quân, rồi làm bác sĩ ở một bệnh viện lớn, rồi về hưu… cuộc đời bình lặng trôi qua, giờ an phận sống trong ngôi biệt thự yên tĩnh chỉ có ông và bà. Con cái ư? Ông bà đủ nếp đủ tẻ nhưng đến tuổi hưu chỉ còn họ với nhau, nay lại phải trông cháu nhỏ nữa! Số là con gái ông ôm mộng trời tây và rồi mộng cũng thực hiện được, cô theo chồng qua “bển” dù phải học lại để lấy cái bằng dược sĩ mà bên này cô đã có và đã làm ra tiền với nghề cô được đào tạo. Chồng cô cũng như cô vì cả hai là bạn học lại là đồng nghiệp của nhau. Vậy thì cô nhóc “An nì”, một công dân Mỹ thứ thiệt được gởi về quê nhờ ông bà chăm sóc vậy. Thỉnh thoảng nhớ con quá mẹ bé về rồi lại bay qua xứ ấy. Cứ thế… cứ thế, “có lẽ khi bố mẹ cháu ra trường đi làm gia đình cháu mới ổn định được”, ông bác sĩ nói.
Tôi hỏi “sao anh chị không qua luôn bển có tiện hơn không?”. Ông bác sĩ trầm ngâm sau câu hỏi của tôi, thấy vậy tôi nghĩ hay là mình chạm vào nỗi niềm của ông rồi chăng? Tôi nói “xin lỗi anh…” chưa kịp nói hết câu ông đã khoát tay. “Không có gì đâu ạ… là tôi chợt nhớ chỗ tôi và anh đang ngồi trong chiến tranh là vùng oanh kích tự do, tôi không chiến đấu ở đây nhưng có đi ngang qua. Vùng này trước kia chỉ có sình lầy và cây dừa nước là nhiều nhất, chính loại cây này cứu tôi mấy lần hút chết đó”. Người già hay hồi tưởng, tôi im lặng nghe ông bác sĩ kể chuyện trong chiến tranh mà ông là nhân vật chính. Chiến tranh tất có máu, máu của ông, của đội phẫu và của cô du kích dẫn đường. Cuối cùng thì tôi cũng nhìn thấu được điều ông muốn nói, lời hứa sẽ về nhà cô giao liên ấy ra mắt cha má và nói lời xin lỗi…. “Thằng nhỏ chắc giờ trên bốn mươi tuổi rồi mà tôi chưa biết mặt, không biết giờ này má con nó ra sao?”. Trời ạ, hơn bốn mươi năm mà chiến tranh còn để lại một chuyện nặng lòng đến vậy, tôi chỉ biết im lặng nghe ông bác sĩ nói tiếp. “Tôi không đổ cho hoàn cảnh, dù sao thì tôi cũng có lỗi khi không tìm cô ấy ngay mà vùi đầu vào học đại học, cậu ạ lúc ấy nhà tôi không có nỗi trăm bạc làm lộ phí vào Nam…”. Ông bác sĩ đổi tông, gọi tôi bằng cậu thay cho tiếng anh khách sáo.
Đàn bà bao giờ cũng thua thiệt, tôi cay đắng nghĩ nhưng không nói ra mà quay qua hỏi về cậu con trai ông bác sĩ. “Nó ở luôn bên Pháp sau khi đi du học, giờ thành công dân…Mỹ rồi!”. “Nó cũng bảo con bảo lãnh bố mẹ qua sống với con, nó nói bên này cái gì cũng tốt, cũng hơn Việt Nam mình…. Này, tôi hỏi cậu nước người ta gần hai trăm năm không biết chiến tranh là gì, người ta xây dựng đất nước của họ mà không hơn mình mới lạ chứ, phải không?”. Tư lự một lúc ông bác sĩ tiếp “giáo dục của chúng nó chuẩn….Đấy, cái chính là điều ấy!”.
“Tôi không qua Mỹ sống với chúng đâu, nếu có sức khoẻ qua du lịch rồi về”, ông bác sĩ nói như kết luận.
Hôm nay là ngày bà Tám hay sao mà khi về đến chung cư tôi lại được nghe chuyện ba mẹ thằng Thiện. Là bà Dư tâm sự với vợ tôi khi cô ấy hỏi mẹ cháu đâu mà bà phải nuôi? Chuyện đời nay cũng đau lòng như chuyện đời xưa vậy. Con gái bà Dư là một đứa đẹp người lại giỏi giang, “một tay cháu gầy dựng lên một công ty xây dựng cũng khá tên tuổi, nó chết vì ung thư…”. Bà Dư kể với vợ tôi như thế. “Bố cháu đâu?”. “Tôi vô phước gặp thằng rể không ra gì. Khi con gái tôi còn sống không hiểu thằng đó nói thế nào mà nó sang tên một căn hộ cho nó, tháng sau con bé chết. Thằng rể tôi đi tới giờ luôn bỏ mặc con chúng cho tôi nuôi…”.
Tôi thở dài ngao ngán khi nghe bà xã kể chuyện người ta. Tôi thầm trách người bố vô tâm, con mình đã không có mẹ giờ lại không có cả bố. Còn vợ tôi thì hoài nghi “bây giờ ma ma phật phật… biết đâu thằng Thiện không phải con của thằng Tài rể bà Dư?”. “Không lẽ lại có người vô lương tâm đến độ bỏ luôn con mình, nếu không nuôi nỗi thì thỉnh thoảng cũng phải ghé thăm con chứ?”, vợ tôi bình luận tiếp. Làm sao biết được hết chuyện đời, chỉ có con gái bà Dư mới biết rõ ai là bố đứa bé nhưng cô ấy đã chết rồi…mà thôi, có vậy mới ra chuyện đời, tôi nghĩ thầm như vậy.
Và cuộc đời vẫn trôi theo thời gian với vẻ bộn bề vốn có. Tôi cũng không bỏ Đà Lạt được như nhiều người ở chung cư tiếc rẻ hộ tôi, tôi vẫn đi đi về về trên cung đường giờ được đầu tư khá bài bản. Đó là sự kết hợp giữa cao tốc với quốc lộ, giá gì tất cả đường về Đà Lạt của tôi đều là cao tốc bảo đảm chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ bạn có mặt ở xứ sương giăng, tôi thích gọi Đà Lạt với danh xưng ấy. Đó là những ý nghĩ vụn trên đường về, tôi mỉm cười tự thưởng cho ý tưởng của mình. Ấy vậy mà khi vừa đến xứ sương giăng tôi được bà vợ báo tin nóng sốt ở chung cư.
“Ba thằng Thiện mới về thăm nó, chị Dư mời vợ chồng mình ăn bữa cơm mừng sum họp mà anh lại không ở dưới này!”. Tôi mừng cho gia đình họ, qua điện thoại không tiện hỏi nhiều vì sao mà bẳn đi từng ấy năm ba nó giờ mới về thăm con. Thôi thì chuyện đâu còn đó, tôi phải ngủ sớm để hai giờ sáng mai đi với ông bạn hoạ sĩ ngắm sự sương giăng ở Tuý Sơn. Tuý Sơn, mới nghe tên thôi đã muốn… say. Tôi “say” nơi này không phải vì rượu mà vì sương. Sương sớm Tuý Sơn ngoài sự bàng bạc bao khắp chốn – những ngôi nhà cửa kính như chụm lại với nhau vì lạnh, rau hoa trong nhà kính dường như cũng run rẩy theo, Tuý Sơn còn cho tôi biết thế nào là sự tinh khôi của…cà phê! Tôi và ông bạn hoạ sĩ sáng sớm được cô em họ mời ly cà phê. “Cà phê mô ka thứ thiệt, mời hai anh uống thử!”. Không thể nói là “uống thử” mà chính xác tôi đắm hồn mình trong hương cà phê. Bên trong thứ nước nâu nhạt ẩn chứa sự bí hiểm của mùi hương vừa dụ hoặc lại vừa kích thích gần giống như hương thơm con gái dậy thì đánh thức nam tính của gã trẻ trai mặt đầy mụn bọc. Tôi suýt cười với một sự so sánh… vớ vẩn nhất trong sớm mai như thế!
Tôi mang theo mùi sương giăng – phải, chính là sương giăng từ ba bốn giờ chiều đến khi mặt trời mọc cao tầm ngọn thông mới khiến cho cà phê Tuý Sơn và cả vùng Cầu Đất đượm hương như thế – về lại chung cư nơi cháu tôi bi bô trông chờ ông và trong hành lý mang theo có ký cà phê Tuý Sơn cô em ông bạn hoạ sĩ biếu. Cà phê tôi chưa kịp uống thì vị đắng của nó tôi được nếm qua chuyện của Tài. Chẳng là vừa biết tôi về, bà Dư lên nhà mời vợ chồng tôi xuống nhà bà “dùng bữa cơm thân mật, mai bố con nó đi sớm rồi”, bà Dư mời khách mà cặp mắt thì hoe đỏ. Tài là một người thân thiện, qua dăm ly bia Tài kể cho tôi nghe cuộc đời của mình.
Câu chuyện làm ăn thời nay na ná giống nhau, tôi nghĩ vậy khi nghe Tài kể chuyện. Ừ, nếu muốn làm ăn lớn phải có thế lực “chống lưng” mới giành phần thắng, rồi thì “biết điều”… các kiểu! Tôi gật gù làm bộ chăm chú nghe. Cuối cùng rồi Tài cũng kể đến việc tôi quan tâm. “Cô ấy mất nên được đình chỉ điều tra, còn cháu thì không. Bảy năm trong tù cháu không báo cho bà ngoại, cháu mang ơn bà ngoại nhiều lắm…”.
Tôi rót đầy ly bia mời Tài cạn trăm phần trăm “để quên những chuyện ấy đi, nhớ làm gì cho nặng lòng. Giờ tập trung lo cho thằng Thiện!”. “Cháu phải nói lắm bà ngoại mới cho mang thằng Thiện đi, cũng may sắp vào năm học mới, mấy hôm nay cháu xin rút hồ sơ của thằng Thiện để chuyển về Tuý Sơn”. Tôi thật sự ngạc nhiên vì sự trùng hợp kỳ lạ này, thấy nét mặt tôi mang hình dấu hỏi Tài giải thích “sau khi ra tù cháu lên thôn Tuý Sơn làm vườn, trồng rau hoa và cà phê với một người bạn, giờ tạm ổn mới tìm về bà ngoại…, cháu mê Tuý Sơn chú ơi, đó là xứ sương giăng đẹp lạ lùng”.
Tôi chợt hỏi “cháu người đâu ta?”. Tài hơi ngẩn người, tôi bắt gặp một vẻ gì đó rất lạ nơi mắt nó. Tài đáp “nếu tính đúng thì quê cháu là Hà Nội, còn giấy tờ là Đồng Tháp”. Tôi chưa kịp hỏi Tài đã nói tiếp “cháu sinh năm 75, đúng vào ngày thống nhất đất nước… nghe nói bố cháu là người Hà Nội”. Sao lại nghe nói? Chẳng là người bố không vào Nam như đã hứa với má nó, má Tài không biết chuyện gì đã xảy ra, bà ẵm con lên Sài Gòn sống từ bấy đến nay. Lại chuyện con rơi, tôi nghĩ. Nhưng không phải vậy, anh y tá đó hứa với má thằng Tài sẽ vào Nam ra mắt cha má vợ. Chờ hoài chờ huỹ không chút tăm hơi, má nó chỉ biết bố thằng Tài người Hà Nội, vậy thôi!
Tôi cụng với thằng Tài ly nữa, rồi ly nữa. Chuyện của nó sao tôi thấy quen quen nhưng sự hưng phấn bia rượu cộng với mồi bén khiến tôi không để tâm đến cái sự quen quen ấy là chỗ nào. Tài nói “hôm nào rảnh chú lên Tuý Sơn chơi nữa đi, hỏi thằng Tài râu là người ta chỉ nhà cháu cho chú!”. Tài đã mua được nhà, không cần tôi hỏi nó giải thích liền “cháu bán căn hộ mới có tiền mua đất mua nhà đó chú”.
Đêm đó tôi hơi say, bà xã giục mấy lần tôi mới chịu về. Sáng hôm sau tỉnh giấc thì đã tám giờ, tôi đi bộ ra công viên Cảnh Đồi tập vẫy tay.
3/11/2023
Võ Anh Cương
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét