Thứ Bảy, 15 tháng 3, 2025

Sương khói quê nhà

 Sương khói quê nhà

Ông Hai Phong đang ngồi ngoài hàng hiên nhìn xuống vườn, đôi bàn tay ông đút vào túi áo bành tô màu cứt ngựa may bằng vải nỉ để ngăn cái lạnh đang len lỏi vào người. Cái áo này dày lắm, là áo ba-đờ-suy mùa đông của chính phủ Pháp trang bị cho lính Com-măng-đô đóng trên cao nguyên lạnh lẽo này, ông xin được của ông bếp Tư Bổn khi còn làm cho khách sạn Palace. Dưới vườn, cạnh bên con suối nhỏ là một đám sú nồi (bắp cải tròn, chou – tiếng Pháp) đang vào khuôn với màu xanh đậm bắt mắt. Đám sú này ông trồng đã hơn bốn tháng chuẩn bị cuốn, khoảng hơn một tháng nữa là có thể chặt được khoảng 3 ton (tấn, tiếng Pháp), thường người buôn chuyến báo trước để chủ vườn chặt sú, đến giờ hẹn xe của người buôn sẽ đến cân rồi họ sẽ chở về Sài Gòn bán.
Đây là giống sú đem từ nước Pháp qua hơn mười năm trước thường được người ta gọi bằng sú “tuya” bởi muốn có cây con trồng cho mùa sau, người ta phải “nuôi” gốc sú sau khi thu hoạch để lấy giống cho mùa sau. Chừng hơn một tháng, từ gốc cây mẹ sẽ nứt những chồi con gọi là “tuya”. Người làm vườn như ông Hai Phong thường chọn mỗi gốc cây mẹ một đến hai cây con, phần còn lại bỏ hết để được những cây con khoẻ mạnh. Khi thấy cây đủ lớn họ sẽ chiết những cây con này đem dâm vào một luống đất tơi sốp bên trên được phủ một lớp cỏ mỏng cho đến khi cây con ra rễ. Người ta chăm sóc cây con đến khi cây xoè mấy cái lá cỡ bàn tay, lúc này dân vườn sẽ bứng cây rồi mang ra trồng thành từng luống mà người ta gọi là rò. Một rò rộng chừng một mét hai dài hết thửa đất được trồng hai hàng cây so le nhau, mỗi cây cách nhau chừng sáu mươi xăng ti mét. Cây sú lớn dần, khi lá chân (lá dưới cùng) rộng cỡ một cái quạt nan nhỏ cũng chính là lúc sâu xanh xuất hiện, những con sâu to bằng đầu đủa với thân mình màu xanh nổi lên những cái mụt giống như cái gai, loại sâu xanh này ăn không chừa chút lá nếu không bị phát hiện sớm. Sâu xanh do một loại bướm có đôi cánh trắng đẻ trứng bên trong lá non, từ trứng biến thành sâu ăn lá sú, nếu không bị diệt sâu sẽ làm kén và một lứa bướm mới ra đời không lâu sau đó. Bà Hai Phong lúc rảnh thường xuống vườn vạch từng lá sú một, bà bắt sâu bỏ vào chiếc lon sữa bò và đem đổ vào con suối nhỏ nước róc rách chảy suốt ngày.
Sáng nay ông Hai Phong ngồi ngắm công sức lao động của mình sau khi gánh đúng một trăm hai mươi đôi nước tưới cho đám sú từ lúc mặt trời chưa lên. Một cơn gió chợt nổi lên khiến hàng chè xanh ông trồng trước nhà khẽ đung đưa. Cơn gió cũng mang theo cái lạnh mùa đông len lỏi vào căn nhà gỗ của vợ chồng ông Hai. Tiếng bà Hai vọng ra từ nhà bếp:
– Mình ơi…vô ăn cơm.
Ông Hai Phong uể oải đứng lên, ông thôi không nghĩ về đám sú và những hy vọng từ đó. Ông kéo cái ghế gỗ thông ngồi đối diện với vợ:
– Mình à, tui định bán đám sú xong sẽ gieo một lứa cà rốt, mình thấy sao?
Bà Hai đưa mắt nhìn chồng, bà trả lời:
– Mình tính sao cũng được nhưng chỉ sợ ra giêng suối kiệt không đủ nước tưới mà cà rốt không có nước củ sẽ móp méo không ra cái hình thù gì cả!
Ông Hai cười:
– Chuyện đàn ông mình đừng có lo mà làm gì, chiều qua tui moi thử vách hồ phía bên trong thấy được một cái mạch ngang to gần bằng cái ống điếu cày nhà ông Giám, nước cứ ùn lên lôi theo cả cát mịn, nước trong lắm mình à. Sáng nay tui tưới một rò được bốn đôi nước lận đó!
Mùa nắng, con suối nhỏ nước chảy rất ít không đủ nước tưới cho cây rau, người làm vườn thường phải đào một cái hồ, tìm nước mạch trong lòng đất để có thể tự túc được khoản nước không phải lệ thuộc vào con suối mùa nước kiệt.
Bà Hai nghe ông Hai Phong báo cho biết như vậy, bà đưa mắt nhìn chồng vẻ mừng rỡ hiện rõ trên gương mặt:
– Vậy hả mình, cái hồ nhà mình mà có mạch nước thì hay quá.
Ông Hai vừa bưng chén cơm và một miếng vô miệng vừa nói:
– Tui định mai kêu anh em thằng Gần thằng Xa vét hết bùn đất trong hồ để lấy chỗ chứa nước, mình liệu liệu cơm nước và bữa lỡ cho anh em nó.
Bà Hai trả lời chồng:
– Chuyện cơm nước là của đàn bà mình đừng bận tâm.
Bà Hai nghĩ ngay đến chuyện bếp núc ngày mai. Bà sẽ nấu cơm trong cái nồi số 6 mới đủ cho 4 người ăn. Cái nồi bằng gang miệng rộng cỡ hai gang tay được nhiều người gọi bằng cái “cốt” bắt nguồn từ chữ cocotte (nồi gang – tiếng Pháp) mà bà đâu có hay, thấy người ta gọi vậy bà cũng gọi theo. Nồi gang dùng nấu cơm ngon lắm, khi cơm vừa cạn bà Hai gắp mấy hòn than đặt lên nắp, cơm nở đều nhờ giữ được hơi nóng cho tới cuối bữa ăn.
Anh em nhà Gần Xa là chỗ cùng quê với ông Hai Phong, họ vô đất này làm thuê làm mướn. Thường thì họ làm “la tách” hay còn gọi là làm khoán nhưng chỗ ông Hai là người cùng làng, Gần và Xa sẵn sàng làm giúp không lấy tiền nếu công việc ít. Có điều họ ăn nhiều lắm. Năm ngoái anh em Gần Xa giúp đổ đất cho miếng sú mới “vô chân”, bà Hai nấu sáu lon sữa bò gạo trong cái cốt số 6 mà hai anh em ăn không còn một hột. Nói phải tội, thức ăn bà Hai nấu cho anh em họ ăn chẳng có gì, chỉ là dĩa sú luộc chấm nước mắm tỉn dầm hai trái trứng vịt, canh là nước sú luộc bà Hai xắc hai trái cà chua nấu sôi lên rồi nêm vô chút muối. Bữa đó thấy anh em Gần Xa làm thiệt tình, bà Hai chạy ra quán mua thêm mấy con cá nục khô và chén mắm ruốc Huế để cho bữa cơm thêm món mặn.
Bây giờ nghe chồng dặn chuẩn bị cho bữa trưa ngày mai, bà Hai tính ngay đến chuyện thức ăn. Bà nghĩ anh em Gần Xa đang tuổi thanh niên, lại sống xa gia đình họ tự lo cơm nước thiệt là tội nghiệp. Mà thức ăn thì chẳng có gì, chỉ là ăn quấy quá cho qua bữa miễn có cơm cho chắc bụng là được rồi. Bà định sáng sớm mai theo chuyến xe lam đầu ngày của ông Hồ Hải, bà sẽ xuống chợ mới mua nửa con vịt đem về kho gừng để anh em tụi nó ăn cho có chất thịt trong người. Còn bữa lỡ, bà biết vét hồ là công việc nặng, bà sẽ mua mấy cái bánh ú cho anh em tụi nó…
Ăn sáng xong ông Hai bưng tô nước chè tươi lên phòng khách ngồi uống để rảnh chỗ cho bà Hai dọn dẹp chén dĩa, lau bàn. Một con gà mẹ dẫn đàn gà con lục tục kiếm ăn trên mảnh sân trước nhà. Đến gốc cây chè xanh, con gà mái bươi đám đất hồi sáng ông Hai mới vun, nó tục tục gọi con đến chia phần con trùn chỉ nhỏ xíu mà nó vừa cào ra từ trong đống đất. Lũ trẻ tranh giành nhau miếng ăn, một con coi bộ lớn tướng nhất trong bầy, đã mọc vài cái lông đuôi có vẻ sẽ là một con gà trống, nó tha miếng mồi vừa chạy vừa ngưỡng cổ cố nuốt gọn con trùn mặc cho đám lau nhau chạy phía sau tìm cách cướp miếng mồi.
Ông Hai Phong nhìn hoạt cảnh đó, một cảnh diễn ra thường xuyên trong thế giới động vật, bỗng nhiên ông thở dài một tiếng. Không biết ông nghĩ gì nhưng nhìn khuôn mặt ông người ta thấy ông nghĩ lung lắm. Bà Hai dọn dẹp dưới bếp xong cũng lên ngồi cạnh chồng, bà không uống chè xanh bao giờ, chỗ chè bà hãm chỉ dành cho ông Hai uống. Nhìn chồng trầm ngâm nhìn ra sân, bà hỏi:
– Mình nghĩ gì mà tui thấy mặt mình sượng trân như vậy?
Nghe vợ hỏi, ông Hai vẻ mặt có dịu lại một chút, ông không trả lời ngay câu hỏi của bà Hai mà lại hỏi lại bà:
– Mình à, mình về sống với tui bao nhiêu năm rồi?
Bà Hai ngạc nhiên hết sức khi nghe chồng hỏi như vậy. Sáng nay bà thấy ông ngồi ngoài hè nhìn đăm đăm xuống miếng sú trồng dưới vườn, bà đã biết ông đang tính điều gì đó trong lòng. Bây giờ nghe ông Hai hỏi như vậy bà nhìn chồng thoáng lo âu:
– Ủa, sao hôm nay mình lại hỏi tui như vậy, tui theo về sống với mình gần chục năm rồi, mà có chuyện gì vậy hả mình?
Ông Hai Phong nhìn bà Hai đăm đăm, một lát sau ông mới e hèm một tiếng như thể đã suy nghĩ kín kẽ lắm rồi:
– E hèm… nói khi không phải, có gì mình bỏ quá cho tui. Mình về sống với tui gần chục năm rồi mà tui lại có lỗi với mình, tui không thể làm cho mình bụng mang dạ chữa như bao người đàn ông khác để cho mình được ẵm bồng đứa con mình đẻ ra! Hay là cái số của tui không có con… mà mình ơi, tui biết đàn bà không có con thì đời buồn lắm, bà cứ lủi thủi một mình nhiều khi tui thấy tội cho mình quá!
Bà Hai nghe chồng nói như vậy bà cảm động đến không thốt nên lời. Bỗng dưng nước mắt bà ứa ra chảy dài thành hai dòng xuống cái miệng đang mếu xệch.
Ông Hai nói tiếp:
– Mình à, là tui có ý bàn với mình về quê đem thằng Khôi vô nuôi cho có mẹ có con?
Không ngăn được nữa, tiếng khóc nãy giờ bà kìm hãm trong lòng vỡ oà thành tiếng. Nỗi đau giằng xé trong lòng được dịp trào ra không có gì ngăn cản được. Ông Hai để yên cho bà khóc, ông biết mình không thể dỗ dành cho bà nín, có lẽ ông cũng không rành mấy vụ dỗ dành này cho lắm. Bà Hai khóc đã đời rồi mới nói:
– Khi theo về làm vợ mình, tui chưa nói với mình, là tui bị chị lớn đuổi khỏi nhà khi thằng Khôi mới 6 tháng, lúc đó tui bị mất sữa… giờ mà về quê chắc nó cũng không nhận ra tui mà cha má nó cũng không cho tui gặp mặt con mình!
Ông Hai Phong gặp bà Hai mười năm về trước tại nhà ông Tư Bổn. Số là hôm đó đi làm về, ông Tư Bổn là bếp chính khách sạn Palace rủ ông về nhà chơi và ăn phở mà vợ ông nấu “đúng kiểu phở Hà Nội”. Bữa đó vô tình bà Tư cũng mời một người bạn ở ấp Cao Bá Quát đến chơi, bà này dẫn theo cô cháu họ mới từ quê vô.
Không biết vô tình hay hữu ý ông bà Tư Bổn trong bữa ăn có ý gán ghép Hai Phong với cô Mai, dường như họ ngầm bàn với nhau chuyện mai mối này thì phải. Hôm ấy xem ra cô Mai cũng có cảm tình với Hai Phong, cô nghe ông bà Tư có ý cặp đôi cô với người em nuôi cô bẽn lẽn lén nhìn người thanh niên ngồi trước mặt cô một cái rồi cúi đầu xuống, mặt cô thoáng đỏ.
Hai Phong còn gặp cô Mai nhiều lần nữa, những lần sau anh đến ấp Cao Bá Quát tìm gặp cô Mai tại nhà bà Thu nơi cô Mai ở.
Mấy tháng sau Hai Phong cậy anh nuôi làm một bữa tiệc nhỏ mời mấy người quen đến dự. Bữa tiệc được bếp Tư Bổn nấu tại nhà mình gọi là lễ ra mắt của đứa em nuôi Hai Phong, ông thưa với bạn bè bà con rằng Hai Phong và cô Mai gá nghĩa với nhau. Sau bữa tiệc Hai Phong dẫn vợ về nhà mình. Lúc này ông không còn làm phụ nếp nữa, ông xin phép Sở điền địa khai hoang một miếng đất ở cây số 6 để làm vườn… vậy mà đã được chục năm rồi!
Bây giờ nghe vợ khóc và kể đầu đuôi câu chuyện, ông Hai Phong thầm trách mình vô tâm. Khi đưa bà Hai về chung sống, ông chỉ biết bà đã có một đời chồng và một đứa con nhưng chồng bà đã “thôi” bà và giữ lại đứa con. Bà Mai bỏ quê vô nhà người chị họ làm dâu ở ấp Cao Bá Quát, ông chỉ biết vậy và không để tâm chuyện quá khứ của bà.
Ông Hai an ủi vợ:
– Thôi, mình cũng đừng buồn mà làm gì, tui nghĩ ông trời đã sắp xếp hết rồi, ai cũng có số riêng thôi!
Rồi ông lái qua chuyện khác:
– Nè mình, hôm qua tui ra ngã ba có gặp ông Giám thầu khoán, ổng kêu tui quay lại làm nghề đá, tui muốn hỏi ý mình?
Nghe chồng nói vậy, bà Hai kéo cái khăn trùm đầu chùi nước mắt, bà hỏi:
– Chuyện ra sao hả mình?
– Ông Giám có thầu một mỏ đá ở Cam Ly, ổng biết tui có thời gian đi làm sở đá nên có ý kêu tui về làm cho ổng.
Ngừng lại một chút để uống ngụm chè xanh ông Hai mới nói tiếp:
– Mà không phải làm công, ổng nói tui cứ làm đi sau khi ra đá ba lông hay đá 4×6, kể cả đá 1×2 mình sẽ ăn chia với ổng theo cách tứ lục! Hiện tại mỏ đá có ba người đang làm nhưng họ nay làm mai nghỉ lại không biết ra đá cho nên hình nên ông Giám mới nghĩ tới tui.
Chia tứ lục là người làm hưởng bốn phần, người chủ hưởng sáu phần. Thường như vậy là cao bởi người chủ bao thầu hết tất cả các khoản chi phí, thuế má. Bà Hai không biết những chuyện như vậy, bà chỉ lo ông Hai mà đi làm mỏ đá sẽ gặp nguy, hòn đá to lớn nặng nề bà sợ chồng mình phạm Sơn thần Thổ địa cùng với nổi lo bị nhiễm sương lam chướng khí nguy hiểm đến mạng sống của chồng. Bà nói ra những ý nghĩ của mình, nghe xong ông Hai cười hà hà:
– Mình không biết đó thôi, đá nó to lớn nặng nề như vậy nhưng cũng phải thua trí thế con người. Hồi tui đi làm thợ đá ngoài quê, ông thầy dạy nghề cho tui bắt đầu bằng cách nhận ra thớ đá. Cứ theo thớ đá mà đục chung quanh tảng đá rồi chỉ cần một cú chót là tản đá dù to tới mấy cũng nứt đôi… mà thôi, những chuyện đó không có gì nguy hiểm lắm đâu. Còn chuyện Sơn thần Thổ địa thì ở đâu cũng có, mình ý tứ đừng làm điều gì phạm vào các ngài thì không lo bị quở!
Rồi ông nhỏ giọng nói tiếp:
– Tui nghĩ bây giờ tui cũng rảnh, đất đai thì có thể khai phá tiếp lên trên nhưng lại thiếu nước vả lại có trồng nhiều sợ khó bán… chi bằng tui đi làm nghề kiếm ít vốn lận lưng phòng tuổi già không làm được còn có chỗ nhờ cậy. Mình ở nhà làm những việc vặt còn những việc nặng tui sẽ nghỉ vài ngày làm là xong thôi. Thằng Gần và thằng Xa đã chịu chuyện nước nôi với tui rồi, buổi sáng anh em nó tưới chừng 30 phút là xong, mình không phải lo chuyện đó!
Bà Hai xuôi tai khi nghe ông chồng nói như vậy. Ông Hai nói cũng phải, ông đã gần năm mươi tuổi mà hai vợ chồng chỉ chăm chăm vào miếng đất cận suối sợ sẽ không đủ tiền ăn chớ nói gì đến để dành cho tuổi già. Phần bà, dù nhỏ hơn ông đến mười tuổi nhưng phận đàn bà chỉ quanh quẩn miếng vườn với con gà con vịt, ngày ba bữa lo chuyện ăn uống cho chồng con cũng đã hết giờ rồi.
Mấy năm trước bà Hai kêu chồng cất một cái chuồng heo sau nhà, ban đầu bà đập con heo đất vừa đủ tiền để “bắt” cặp heo con đem về thả. Ngày ngày bà xuống bờ suối, ông Hai xin giống chuối chát của người quen về trồng để giữ đất, bà chặt một cây chuối vát về nhà xắt rồi bằm nhuyễn nấu chung với cám cho cặp heo ăn. Lúc rảnh bà lại lấy đôi dóng gánh với cái liềm quầy quả lên ngọn đồi sau nhà cắt cỏ bỏ chuồng lấy phân cho chồng trồng sú, trồng lơ hay khoai tây, cà rốt…những loại rau này đều ưa phân heo hoai mục. Nhưng chỉ với một cặp heo con thường thì không đủ phân bón cho vườn, cũng giống như những nhà vườn khác, vợ chồng bà còn phải mua thêm phân cá bón cho cây rau. Mùi thum thủm nồng nàn của phân cá ủ hay mùi tanh tưởi của phân cá tươi vươn vất quanh nhà, sống như vậy cũng đã quá quen nên vợ chồng bà không lấy gì làm khó chịu.
Bà hỏi chồng:
– Vậy chớ chừng nào mình mới làm mỏ đá?
– Ông Giám nói ngay sau tết tây mới bắt đầu, giờ tới lúc đó tui sẽ kịp chăm lứa cà rốt để mình có thể nhổ tỉa đợt đầu.
Chỉ vài tuần nữa là đến lễ Nô en là lễ trọng của người theo đạo Công giáo. Mùa đông trời lạnh lắm.
Trời tối hẳn. Bà Hai quẹt que diêm thắp ngọn đèn Huê Kỳ ăn cơm tối. Hôm nay ông Hai Phong về trễ, ông phải ráng chẻ cho xong chỗ đá ba lông để ngày mai chiếc xe Dodge của ông thầu khoán Giám vô chờ về xây bờ ta luy cho một ngôi biệt thự ở Cité de Cou. Ngôi biệt thự này ông Hai cũng đã ghé qua. Đó là một biệt thự kiểu xứ Normandie miền bắc nước Pháp với mái ngói khá dốc, điểm xuyết vào đó là một ống khói cao càng làm cho ngôi biệt thự rất duyên dáng trong một sân vườn trồng cả chục loại hoa hồng, ai đi ngang qua cũng trầm trồ khen ngợi.
Ông Hai dựng chiếc xe đạp đòn dông vào vách nhà đánh tiếng:
– Mình ơi, tui về rồi!
Giọng xứ Quảng của ông Hai dù đã phôi pha nhiều nhưng vẫn còn nặng âm sắc quê hương, qua giọng nói ẩn chứa tình cảm của ông dành cho bà vẫn nồng nàn y nguyên như ngày đầu hai người về chung sống với nhau. Bà Hai từ trong bếp lên tiếng:
– Mình về rồi à, sao hôm nay mình về trễ khiến tui lo quá!
Ông Hai giải thích cho vợ rồi ra sân sau múc nước rửa tay chân mặt mũi. Với tay lấy cái khăn lau mặt treo trên sợi dây kẽm ngoài sân, ông Hai hỏi bà Hai:
– Ở nhà có chuyện gì không mình?
Bà Hai nói:
– Thì cũng không có gì nhưng mà mình ơi, tui nghe người ta đồn sắp tới người di cư đến đây ở với người mình?
Hồi sáng bà Hai ra ngã ba mua ít đồ dùng bà nghe chuyện này. Con đường cái dẫn ra ngã ba là một con đường đất, từ nhà bà Hai đi một đoạn bằng thẳng rồi leo lên một con dốc tới tận đỉnh đồi tiếp giáp với đường Vòng Lâm Viên, từ đây con đường chạy xuống một con dốc nhỏ, đoạn đường kế tiếp khá bằng trước khi đổ xuống một con dốc dài khác là tới ngã ba.
Từ trên con đường cái nhìn xuống là một thung lũng, ở giữa là một con suối hai bên bờ lau sậy và cây bông trắng mọc um tùm. Sáng nay khi vừa ra tới ngã ba, bà Hai thấy một xe ủi đất màu vàng nhạt đang từ từ thả cái càng có gắn một bảng thép sáng bóng xuống mặt đất. Chiếc xe như một con quái vật bất ngờ gào lên bằng một giọng hổn hển dữ dội như thể nó lấy sức dồn xuống đôi bánh xích để bậm môi tiến tới. Đất cuồn cuộn dồn ứ trước cái lưỡi thép trước khi đổ sang hai bên để lộ một mặt đường tươi rói màu đất sét vàng.
Chiếc xe ủi chạy lui, cái càng được kéo lên, lúc nó dừng cái càng lại hạ xuống rồi tiếng máy gầm rú dồn đất về hai phía. Bà Hai đứng coi say sưa, cảnh trí này trong đời bà chưa thấy bao giờ. Không riêng gì bà, mấy người ăn mặc lịch sự ra vẻ là thầy thông, thầy ký cũng chụm đầu vào một tờ giấy khổ to rồi giơ tay chỉ chỏ về phía trước.
Bà Hai hỏi một người đứng coi chiếc xe ủi đất bên cạnh:
– Thím Lục, họ làm cái gì vậy thím?
– Cô không biết sao, người ta ủi đường để đón dân di cư lên đây lập nghiệp!
Bà Hai không hiểu lắm bèn hỏi lại:
– Dân di cư là dân làm sao hả thím?
Người đàn bà tên Lục lắc đầu:
– Con cũng không biết cô à, chỉ nghe ông Xã Thảo nói là người chạy nạn cộng sản, họ là người theo Công giáo, Chúa bỏ vào miền Nam nên họ chạy theo tới tận đây.
Bà Hai càng mù tịt sau giải thích, bà chỉ biết một điều là những người sắp đến đất này lập nghiệp là người miền Bắc, họ là những người theo đạo Công giáo, còn Công giáo khác đạo thờ cúng ông bà như thế nào bà không biết.
Bữa cơm tối bà Hai đem chuyện này nói với chồng, ông Hai không nói gì, ông chỉ bưng tô nước chè xanh lên uống. Thấy vậy bà Hai cũng không nhắc đến chuyện này nữa.
Ngoài trời tối nhanh, mới đó mà bóng đêm đã đậm đen, ngoài sân tiếng côn trùng bắt đầu rên rỉ, chúng cùng nhau hoà tấu khúc nhạc của tự nhiên theo một nhịp điệu của đất trời. Bên trong nhà, bà Hai thắp lên ngọn đèn hột vịt, bà chụm môi thổi phụt một cái vào chiếc đèn Huê Kỳ, vùng ánh sáng toả rộng khắp gian bếp nhường chỗ cho cái đèn nhỏ được bà Hại vặn thấp tim đèn xuống thành một đốm sáng nhỏ như hột đậu.
Vợ chồng ông bà Hai sắp đi ngủ.
Bất ngờ trong giây phút đó ngoài nhà có tiếng đập cửa khiến lũ côn trùng im bặt, một giọng nam cất lên:
– Cho tui hỏi thăm…có phải là nhà của chú Hai Phong không?
Hai vợ chồng ông Hai Phong đưa mắt nhìn nhau, dường như ai cũng thắc mắc trong lòng. Ông Hai Phong tiếp lấy cái đèn từ tay vợ, ông từ từ tiến ra ngoài phòng khách:
– Ai đó, tui là Hai Phong đây hỏi tui có việc gì?
Tiếng ông Hai lộ rõ vẻ ngạc nhiên trong giọng nói, ngoài sân tiếng gọi cửa hồi nãy trả lời bằng một giọng xứ Quảng đặc sệt lộ rõ vẻ mừng rỡ:
– Chú Hai, con là Trần Hành đây mà!
Ông Hai vừa mở cửa vừa hỏi tiếp:
– Trần Hành nào, phải thằng Hành con anh Bốn Tỏi không?
– Dạ đúng, con là thằng Hành đây chú ơi!
Cánh cửa bật mở, ông Hai Phong gọi với vào bên trong:
– Mình ơi đốt cho tui cây đèn Huê Kỳ, vô nhà đi con, cứ để chiếc xe đạp đó chút nữa đem vô sau cũng được.
Bà Hai Phong bưng cây đèn Huê Kỳ lên phòng khách, ánh sáng của ngọn đèn soi rõ bóng hai người lạ, một nam và một nữ ôm một túi đồ nhỏ. Người nam cất tiếng:
– Trình thím, con là Trần Hành kêu chú Hai bằng chú!
Người nữ lí nhí trong miệng:
– Dạ, con chào chú thím!
Ông Hai Phong nhìn người cháu:
– Chu choa…hồi chú về thăm quê con còn nhỏ, vậy mà bây giờ lớn bộn rồi.
Ánh sáng ngọn đèn Huê Kỳ soi rõ gương mặt anh thanh niên, đó là một người chừng ba mươi tuổi, gương mặt anh góc cạnh và có nét của ông Hai Phong qua cái mũi và cặp mắt. Ông Hai quay qua bà Hai nói:
– Thằng Hành này là con anh Bốn Tỏi, cha tui với cha Bốn Tỏi là anh em ruột.
Quay qua người con gái ông Hai hỏi:
– Ai đây….
Trần Hành hơi lúng túng nhưng chỉ một thoáng anh lấy lại bình tĩnh:
– Trình chú thím, đây là… vợ con!
Người được Trần Hành gọi là vợ khẽ cúi đầu dường như cố ý tránh cái nhìn của bà Hai. Bà Hai hỏi:
– Hai cháu đi đường xa chắc là đói bụng, xuống nhà dưới rửa tay chân mặt mũi rồi ăn bậy chén cơm thím nấu hồi chiều!
Bữa cơm trôi qua trong bầu không khí vui vẻ, ông Hai hỏi cháu đủ thứ chuyện về quê nhà, bà Hai ngồi bên cái cốt bới cơm cho hai người cháu. Thường thường vào bữa cơm chiều bà nấu dư một chút để sáng mai hâm nóng lên ăn và bới cho ông Hai đem theo ăn bữa trưa. Tối nay có khách nên bà đem chỗ cơm đó ra mời vợ chồng đứa cháu. Nhìn hai người ăn cơm với chén mắm ruốt ớt tỏi và dĩa sú luộc bà đem từ gát măng giê (tủ đựng thức ăn, phiên âm chữ garde manger) ra, họ ăn ngon lành như thể bị đói từ lâu. May quá cơm cũng còn bộn nên hai đứa cháu chồng không phải để bụng đói đi ngủ.
Ông Hai lên tiếng sau khi vợ chồng đứa cháu ăn cơm xong:
– Cháu lên nhà trên uống nước, để đó thím bay rửa chén cho.
Vợ Trần Hành nói:
– Thím để con, ai lại bắt thím rửa chén bao giờ?
Ông Hai không cản, ông cùng đứa cháu đi lên nhà trên và biểu Trần Hành xách giùm ông cái ấm nước chè xanh, còn phần mình ông lục trong gát măng giê lấy ra hai cái chén.
Sau khi hai chú cháu ngồi đối diện nhau trên cái bàn gỗ thông phòng khách trước chén chè xanh còn khá nóng, ông chưa kịp hỏi gì thì Trần Hành đã lên tiếng:
– Trình chú thím, ngoài quê tụi con làm ăn khó quá nên con nghĩ đại hay là vô trong này xin ở nhờ chú thím một thời gian để kiếm công chuyện mà làm, biết đâu lại được. Con đèo nhà con bằng chiếc xe đạp ra Châu Ổ rồi lần hồi xin đi quá giang mấy lần xe hàng mới tới đước xứ này chiều nay. Đạp xe hỏi thăm miết mới tìm ra nhà chú!
Ông Hai Phong nhìn thằng cháu thưa chuyện, có lẽ trong lòng ông vui lắm, niềm vui thể hiện qua nét mặt đầy dấu vết thời gian của một người từng trải. Hàng năm ông Hai Phong gởi “măng đa” (gởi tiền bằng đường bưu điện) về quê để giỗ quảy tổ tiên, ông nhờ cô thư ký Nhà dây thép ghi thêm mấy chữ ngắn gọn mà chủ yếu là về sức khoẻ. Ông nói:
– Bay tìm được nhà chú qua cái địa chỉ ghi trên măng đa phải không?
Không đợi đứa cháu xác nhận ông nói tiếp:
– Nhà chú thì chừng này thôi không đủ sức chứa chục người nhưng với vợ chồng con thì dư sức. Để chú tính, ăn thì thêm bát thêm dĩa có gì ăn nấy miễn là có cơm ăn chắc bụng được rồi, còn ở chú thím ngủ một phòng, còn dư một phòng hai đứa bay vô đó mà ngủ. Còn chuyện làm ăn, con đừng bận tâm, trong này người ta cần công dữ lắm miễn là con có sức khoẻ mà đặc biệt là phải chịu thương chịu khó. Chú tính như vầy: buổi đầu con cứ theo chú làm nghề ở mỏ đá, cực một chút nhưng lại có việc làm quanh năm. Còn vợ bay, cứ ở nhà với thím nó chăm con heo con gà, tập làm những việc như nhổ cỏ, gánh nước tưới rau hay có sức thì đi nỉa đất, xúc rò… chừng chục ngày là rành rẽ, tới đó ai kêu công thì đi làm… cái ăn là chuyện không phải lo!
Ít khi ông Hai nói dài như hôm nay, ông nói như thể ông đã suy nghĩ lâu lắm. Thực ra ông Hai không phải suy nghĩ gì nhiều về những điều vừa nói, những chuyện đó là những chuyện diễn ra hàng ngày chung quanh ông. Cái điều ông lo lắng và bây giờ lộ vẻ mừng rỡ là chuyện bà Hai cứ lủi thủi ở nhà một mình, nay có thêm đứa cháu dâu ở cùng thì còn gì hay hơn nữa? Bà Hai có bệnh trong người, bà có thể lăn đùng ra xỉu bất cứ lúc nào nên chi đi làm mà lòng ông lo lắm…
Trần Hành nghe ông chú nói chuyện, gương mặt anh dãn ra trông thấy, nói nào ngay anh không nghĩ công việc lại trơn tru như vậy, lòng anh vui lắm.
Ông Hai Phong nói tiếp:
– Thôi, cứ như vậy, vợ chồng con đường xa chắc là mệt mỏi lắm rồi, con vô trong buồng ngủ đi, sáng mai theo chú đi làm liền, được không?
Trần Hành mừng rỡ:
– Dạ được, chú!
Buổi sáng mặt trời chưa lên Trần Hành đã thức dậy, anh rón rén mở cửa buồng để vợ anh đang ngủ trong giường không bị ảnh hưởng. Trần Hành đẩy cửa phòng khách bước ra sân đưa mắt nhìn cảnh vật nhưng sương mù giống như một tấm màn khổng lồ ngăn cản tầm mắt của anh.
Trần Hành quay lại khi nghe tiếng mở cửa, ông Hai Phong xuất hiện trong cái áo bành tô màu cứt ngựa dầy cộm. Ông hỏi:
– Con dậy sớm như vậy bộ không ngủ được sao, có lạnh lắm không?
Trần Hành nhìn chú:
– Dạ, con dậy giấc này quen rồi, định bụng đi một bài quyền cho ấm người.
Ông Hai Phong ra vẻ chú ý đến chuyện này:
– Đâu, con thử đi một vài bài thảo cho chú coi ra sao?
Trần Hành cười cười:
– Dạ, con chỉ biết chút ít chỉ sợ chú cười!
Ông Hai Phong nhìn cháu:
– Hồi thanh niên, cha con được một ông già họ Trương từ Bình Định ra nhận làm đệ tử môn Ngọc Trản quyền, có phải cha con chỉ dạy cho con môn quyền pháp này không?
Trần Hành thưa:
– Con tối dạ chỉ học được nơi cha con chút ít thôi, chú đừng cười!
– Ừ, con múa quyền đi?
Trần Hành xuống tấn, đôi tay anh thu vào trước ngực làm động tác khởi thức bắt đầu cho bộ quyền Ngọc Trản.
Nhìn chàng thanh niên múa quyền, ông Hai Phong như nhớ lại ký ức quê nhà. Ngày đó ông cũng mon men tới sân tập võ trong làng nhưng sau một hồi xem xét cẩn thận, vị sư phụ họ Trương từ chối dạy môn quyền Ngọc Trản cho ôngmà không nói ra lý do. Nay thấy đứa cháu múa quyền đôi tay dẽo dai, uyển chuyển đầy sức mạnh, đôi chân lướt êm trên mặt đất ông bỗng nhớ lại nỗi thất vọng ngày nào….
Tiếng bà Hai cắt đứt dòng tư tưởng của ông:
– Mình ơi vô ăn cơm, mình kêu thằng Hành giùm tui!
Bữa cơm sáng được bà Hai chuẩn bị cho bốn người, sau khi ăn xong ông Hai nhận từ tay bà Hai hai cái lon guigoz đựng cơm trưa dành cho hai chú cháu. Ông Hai còn mang thêm một bình bi đông của lính Pháp đựng nước chè tươi, thứ nước uống ông dùng hàng ngày.
Sáu giờ sáng hai chiếc xe đạp nối đuôi nhau chạy trên con đường đất sau nhà, lên đến đỉnh đồi hai chú cháu thả cho xe chạy xuống con dốc nhỏ cho đến khi xe chạm mặt con đường được trải một lớp dầu hắc ở ngã ba mà không phải đạp một vòng nào.
Ngã ba đang hồi đông đúc nhất. Nơi này gọi là ngã ba cũng do thói quen từ trước, lúc con đường chạy từ thị xã lên đập thuỷ điện Ankroet, đến đây gặp con đường từ cây số bốn chạy tới hình thành nên một ngã ba, từ đó dân cư tụ tập sống quanh cái ngã ba này. Hồi ông Hai Phong xin Sở điền địa khai hoang đất trồng la ghim (rau – tiếng Pháp là léghumes, là âm đọc trại của người làm vườn ở Đà Lạt) ông đã thấy một con đường đất nối từ ngã ba đến con đường trên đỉnh đồi nhà ông mà người ta gọi bằng đường Vòng Lâm Viên. Bây giờ ở đây đích thị là một ngã tư và đang hình thành một ngã năm với sự góp mặt của con đường đất mới mở sáng hôm qua dẫn vô xóm đạo.
Bên một góc đường một cây nước viện trợ Mỹ đang được các cô các bà thay phiên nhau lấy nước bằng cách kéo một cái cần bằng gang theo chiều từ trên xuống dưới. Dòng nước từ vỉa nước ngầm bên dưới mặt đất hào phóng cho cư dân một thứ nước trong vắt chảy ra từ cái vòi xuống đôi thùng thiếc mà người ta đang hứng.
Cạnh bến xe lam, thứ xe của hãng Lambretta nước Ý được mấy người mua về dùng làm xe chở khách chạy từ ngã ba đến chợ mới và ngược lại phục vụ việc đi lại cho người dân vùng ngoại ô này, là một quán phở của một ông già người Bắc. Đây là quán phở duy nhất trong vùng, phở là món ăn chơi đang chinh phục khẩu vị của người tứ xứ đang quần tụ ngày một đông chung quanh ngã ba có con đường nhựa dẫn lên đến đập thuỷ điện Ankroet Suối Vàng.
Khi hai chú cháu vừa mới đến bến xe lam, một người đàn ông từ trong quán phở bước ra, ông ta thấy ông Hai Phong bèn gọi lớn:
– Chú Hai… ghé lại tôi có chút chuyện.
Ông Hai bóp thắng, chiếc xe chạy thêm một đoạn ngắn rồi dừng hẳn, ông cười tươi chào người vừa gọi mình:
– Chào ông thầu khoán, có việc gì mà ông kêu tui dừng lại?
Ông thầu khoán Giám là một người tầm thước, ông ăn mặc giống như một viên chức làm việc cho chính phủ. Chiếc áo sơ mi trắng được bỏ trong quần cẩn thận, bên ngoài là chiếc áo veste màu cà phê sữa, ông mang đôi giầy cure da sầnmũi gồ hợp thời trang. Ông tươi cười giơ tay ra bắt tay ông Hai Phong:
– Bonjour (chào) ông Hai, ông khoẻ chứ?
– Tui khoẻ, có việc gì không ông thầu khoán?
Ông Giám cười khoe chiếc răng nanh bọc vàng như những người thành đạt thời nay, ông nói:
– Tôi mới nhận một contrat (hợp đồng) xây dựng cần lượng đá hộc và đá 4×6 khá gấp, chú Hai lo được không?
Ông Hai Phong hỏi số lượng và thời gian ông thầu khoán cần rồi chào ông Giám và tiếp tục lên đường.
Con đường trải nhựa đưa chú cháu ông Hai Phong về phố thị rất thuận tiện cho các loại xe cộ chạy, vừa ít bụi lại bằng phẳng nên ông đạp xe không tốn sức là mấy. Hai bên đường thỉnh thoảng có những ngôi nhà ván nằm lọt thỏm trong một khu vườn vừa mang dáng dấp của một vùng quê vừa lại ra vẻ một vùng nông thôn sắp lên thành phố. Ông Hai nhớ lại hồi mới lên đây, ông nhìn thấy cái gì cũng lạ, từ thứ không khí trong lành đến cây thông vươn lên trời chìa ra những nhánh trông tựa đuôi con công… đều khiến ông ngẩn người ra!
Đạp xe chạy theo người chú, trong đầu Trần Hành cũng mang cảm xúc tươi mới như vậy. Hôm qua anh chạy xe tới nhiều nơi để tìm ra nhà chú Hai nên không có tâm trí đâu để mà ngắm cảnh. Sáng nay là buổi đi làm đầu tiên, nhìn thấy cái gì cũng lạ bỗng dưng trong lòng anh dâng lên một cảm giác bình an. Trong đầu anh nỗi lo lắng đeo đẳng mấy lâu nay dường như biến mất, càng ngắm cảnh anh càng nhận ra nắng lung linh hơn, bầu trời trong xanh hơn miền quê anh vừa từ giã.
Vùng đất cao nguyên này là một vùng đồi núi, những ngọn đồi thoai thoải mới được khai phá một phần để làm vườn, dân cư còn thưa thớt. Trần Hành đạp xe theo chú đi làm ngày đầu tiên không biết anh nghĩ gì mà gương mặt anh coi bộ tươi tắn lắm.
Đến mỏ đá Cam Ly Hai Phong ngừng xe lại rồi dựng vào vách một cái lán trại mái lợp tôn, vách làm bằng ván. Ông nói với cháu:
– Kể ra chú cũng may mắn, hôm qua thằng Sau Ri lại xin nghỉ việc về quê, nó là đứa làm từ hồi ông thầu khoán Giám giao lại cho chú. Trước nó thì hai đứa anh của nó nghỉ từ tháng trước, chú định hôm nay bỏ thời gian đi tìm người làm thời may cháu lại vô tìm chú, thôi thì hai chú cháu mình cố gắng làm, ít người có cực một chút nhưng tiền bạc lại rủng rẻng, Hành à!
Trần Hành cười tươi nhìn chú:
– Con chịu cực được mà chú!
– Vậy là tốt rồi, thôi để chú chỉ cho con cách đục đá.
Ông Hai Phong lấy từ trong lán trại ra hai cây búa, hai cây xì rô bằng sắt đã toe đầu, ông nói với Trần Hành:
– Đây là cái búa năm ký, cái kia mười ký, con làm theo chú để chẻ chỗ đá này thành đá hộc xây nhà.
Nói xong ông làm mẫu cho Trần Hành làm theo, tiếng búa đập xuống xì rô tạo thành những tiếng động phá tan sự yên tỉnh của núi rừng. Công việc nặng nhọc này cũng không khó lắm, chỉ hơn nửa tiếng đồng hồ là Trần Hành có thể chẻ được những viên đá có mỗi cạnh chừng hai mươi xăng ti mét.
Vừa làm ông Hai Phong gợi chuyện:
– Hành à, tối qua con ngủ có được không?
Không đợi đứa cháu trả lời, ông tiếp:
– Chẳng là hồi hôm lúc đi giải, chú nghe hai đứa bay rì rầm nói chuyện. Con nhỏ người đâu ta?
– Dạ, cổ người Đức Phổ, con nghe cổ kể cha mẹ đều còn hiện đang sống với người anh đầu, cổ còn hai đứa em trai họ đều đang ở quê.
Ông Hai Phong lấy làm ngạc nhiên, ông hỏi lại:
– Con nói “nghe kể” là sao, bộ bay chưa về quê vợ hay sao?
Gương mặt Trần Hành bỗng dưng đỏ lên trong ánh nắng đã bắt đầu gay gắt. Anh ngần ngừ một hồi rồi mới nói:
– Chẳng giấu gì chú, quả thiệt là con chưa về nhà cô Hai bao giờ nên cha mẹ, anh em cô Hai con đều không biết mặt!
Ông Hai Phong đưa mắt nhìn Trần Hành, ông không hỏi nữa nhưng trong ánh mắt của ông loé lên một nét vừa nghiêm khắc lại vừa dò hỏi khiến Trần Hành bối rối, anh ngần ngừ một chút rồi mới nói:
– Thưa thiệt với chú con mới biết cô Hai gần hai tháng….
Trong đầu Trần Hành những hình ảnh của quá khứ chưa xa như hiện trở lại… Bữa đó như thường lệ, anh đạp xe đi làm công ở xã Sơn Đông thuộc quận Sơn Tịnh. Xã Sơn Đông trước kia gọi là Tịnh Đông đang mùa làm đường muỗng, nhà nào cũng trồng mía Đài Loan là loại mía có thân màu tím, đến khi mía chínnhà nhà làm “che” ép mía nấu đường nên rất cần người làm. Trần Hành từ hồi còn nhỏ đã theo cha là ông Bốn Tỏi phụ việc nấu đường muỗng, những công đoạn ra nước chè một, chè hai phải sử dụng vôi và dầu phộng ra sao anh đều rành rẽ. Mùi phân bò cộng với mùi mật mía thành một mùi khó tả, nhiều năm sau dù xa quê Trần Hành vẫn nhớ như in cái mùi này. Những muỗng đường làm bằng đất sét, bên dưới đáy lót rơm rạ để mật rút nhanh khỏi muỗng đường là những hình ảnh không thể nào quên…..
Chiều hôm đó Trần Hành xin nghỉ sớm về nhà có chút việc, anh đạp xe dọc con sông Trà Khúc, ngang qua một bụi rậm anh dừng xe đi giải. Bất ngờ Trần Hành thấy một người con gái dợm nhảy xuống sông, không kịp cài nút quần anh chạy lại chụp tay cô gái, miệng hét to:
– Cô kia… cô làm gì vậy, cô có biết chỗ này nước chảy xiết lắm không?
Cô gái mặt vô thần cố vùng khỏi tay anh nhưng không được, cô khóc:
– Anh kệ tui… tui muốn chết phứt cho rồi… hu hu….
Trong đầu Trần Hành loé lên một ý, cô gái này định trầm mình dưới sông Trà Khúc, chuyện này nhất định không thể được. Bất thình lình Trần Hành buông tay cô gái ra và tát một cái khá mạnh vào má cô gái. Trên gương mặt xám xanh xuất hiện liền mấy dấu ngón tay thô bạo của Trần Hành. Cô gái vừa đau vừa giận dữ nhìn anh:
– Sao anh lại tát tui?
– Để cho cô tỉnh ra, cha mẹ cô cho cô một tấm thân sao cô lại muốn tự huỷ như vậy chớ?
Trần Hành giận dữ nói, bất ngờ cô gái nhìn anh rồi vừa khóc vừa nói:
– Sao anh biết tui có một tấm thân, lỡ tui có… hai thì sao?
Trần Hành ngơ ngác một lúc rồi chợt hiểu gương mặt anh anh dịu lại. Trần Hành dịu giọng:
– Thôi được… nếu cô không chê tui thì theo tui về nhà, ai hỏi thì nói tui là chồng cô!
Cô gái đứng ngẩn nhìn Trần Hành, gương mặt cô lúc này thay đổi liên tục, dường như cô phân vân khó xử trong lòng. Trần Hành nói tiếp:
– Bắt cô trả lời liền thì là ép cô quá, về tới nhà tui một thời gian cô trả lời cũng được!
Sau một lúc do dự, cô gái leo lên cái bóc ba ga hai tay vịn vô yên xe để Trần Hành đèo về nhà….
– Con ở riêng từ lúc cha mẹ con mất, cái nhà là con cất trên đất của cậu Bốn chonên con chở cô Hai về nhà hàng xóm hỏi con đều nói đó là vợ con. Ban đầu người ta cũng dị nghị ghê lắm nhưng con để ngoài tai, được hai tháng như vậy rồi con chở cổ ra Châu Ổ quá giang xe hàng vô đến xứ này!
Trần Hành kết thúc câu chuyện với ông Hai Phong như vậy, dường như anh không muốn nói đến một điều nào khác nữa. Tối qua anh đã đưa ra cái lý do rằng ở quê làm ăn khó quá, anh đánh liều vô xứ này thử kiếm việc làm…, ai ngờ ông Hai Phong lại nghĩ khác:
– Con chưa vợ, con nhỏ đó lại đang mang bầu lại không phải con của con, vậy sao con lại dang tay cưu mang nó chớ?
Trần Hành nhìn chú:
– Dạ… tại vì con thấy cổ tội nghiệp quá chú à!
Ông Hai Phong nhìn cháu nói như răn dạy:
– Cứu một mạng người còn hơn xây mấy cảnh chùa, con đã có duyên với con nhỏ đó mà đã dang tay giúp người ta thì phải sống với người ta cho trọn nghĩa tình, con phải nhớ nằm lòng chuyện đó, nghe chưa?
Trần Hành cảm động nhìn chú:
– Dạ… con xin nghe lời chú!
Đám mây đằng đông rất thấp cho biết cơn mưa sắp tới là một trận mưa to. Mùa nắng đã chấm dứt hẳn với cơn mưa chiều hôm qua, chiều nay lại tiếp tục một trận mưa to nữa và chắc chắn ngày mai sẽ cũng như vậy, kinh nghiệm dân gian cho người ta biết rằng ba cơn mưa đầu mùa là những cơn mưa to, nhiều khi rất to.
Trần Hành gánh hai bao bố đầy than vừa kịp đến nhà thì những hạt mưa như hạt đậu đã bắt đầu rơi xuống mái nhà, gây ra những tiếng động như ai đó ném một nắm sạn lên mái tôn. Chỉ chừng một phút sau trên mái tôn vang lên tiếng động vô hồi kỳ trận như hàng ngàn con ngựa cùng một lúc phi nước đại. Bà Hai Phong vừa mở cửa cho cháu vừa hỏi:
– Đã lấy hết than chưa hả con?
– Dạ, may quá thím, con gom vừa đủ hai bao bố đầy chỉ còn chút ít than vụn, con định mai vô gom tiếp nhưng kiểu này chắc nước mưa trôi hết rồi!
Hầm than Trần Hành đốt nằm dưới chân một ngọn núi dân cây số 6 thường gọi là núi Bà hay Hòn Bà, ở đây loại dẻ cau mọc khá nhiều, anh chỉ cần chặt gom lại rồi chất vô một cái hầm lấp đất nửa chìm nửa nổi chừa mỗi cái miệng hầm,sau đó anh dùng những khúc củi thông chứa đầy nhựa màu vàng nhạt hay đỏ thẩm làm mồi dẫn lửa, một tuần sau củi sẽ cháy hết và biến thành than.
Trần Hành xin ông Hai Phong nghỉ mấy ngày để đi đốt than dành cho ngày nằm ổ của vợ anh, hôm nay anh đã gánh chỗ than cuối cùng về nhà trước cơn mưa như trút nước xuống mặt đất mùa khô. Trần Hành ngồi xuống cái ghế gỗ thông dưới nhà bếp, anh với tay lấy ấm nước chè tươi còn hơi âm ấm rồi rót một bát to và uống một hơi ngon lành để giải cơn khát trong lòng.
Bà Hai Phong nói tiếp:
– Chỗ than hồi hôm qua con đem về hơi bị ướt, sáng nay thím đem ra phơi khô rồi. Thiệt là loại dẻ cau cho than chắc lắm và lại đượm nữa. Con Hai tháng sau là nằm ổ rồi, thím định bàn với vợ chồng con chuyện sinh nở của nó?
Hai đi từ nhà trên xuống, cái bụng cô mang phía trước kéo chằng ra hai bên khiến dáng đi của cô trở nên nặng nề. Nghe thím chồng nói như vậy, Hai hỏi:
– Thím ơi… là thím tính sao?
Gương mặt của cô toát lên vẻ lo âu với ánh mắt ngời ngời, loại ánh mắt này người ta hay thấy xuất hiện nơi các bà vợ trẻ đang mang bầu con so, bà Hai nhìn cháu:
– Cái gì cũng phải tính trước Hai à, khi con sinh phải nằm than để lấy hơi ấm cho đứa trẻ và cả cho con nữa.
Chuyện sinh nở Hai chưa trải qua lần nào nên cô chăm chú nghe bà thím giảng giải. Bà Hai Phong dù không có thời gian dài nuôi con nhưng dù sao qua sáu tháng bà cũng tích luỹ được khá nhiều kinh nghiệm, nay bà có dịp đem áp dụng cho cô cháu chồng.
Thật ra hồi đó ở ngoài quê bà là phận lẽ mọn lại sinh cho nhà chồng một đứa con trai nên chuyện chăm sóc đứa nhỏ bà không được dự phần. Bà lớn giành lấy việc này, bà chỉ có nhiệm vụ ăn cho thật nhiều để làm sao có nhiều sữa cho thằng nhỏ bú.
Sau một thoáng do dự, bà Hai Phong mới nói:
– Ông bà xưa nói rằng khi nằm ổ, người mẹ ngoài chuyện nằm than trong ba tháng sau khi đẻ còn phải xông hơ để cho mẹ và con khoẻ sau này. Chuyện này xưa bày nay bắt chước, con Hai cũng phải làm theo thôi. Còn chuyện ăn uống người xưa chỉ cho bà mẹ đẻ ăn những món mặn, không được ăn canh với lại trái cây sợ đứa nhỏ đi chảy. Nhiều bà chỉ ăn ròng rã ba tháng cơm với muối tiêu, nghĩ mà thương!
Ngừng lại một chút như thể để vợ chồng Trần Hành có thể thấm lời của mình, bà Hai mới nói tiếp:
– Hơ háp tụi con đừng lo, còn chuyện ăn uống thím lại nghe cô Hiền Chi nói khác!
Khác là khác ra sao bà Hai lại không chịu nói ngay cho vợ chồng Trần Hành đang nóng ruột, bà lại ngưng ngang.
Cô Hiền Chi mà bà Hai nhắc tới là một người theo Tây học, cô mở một nhà bảo sanh tư lấy tên mình đặt tên cho nhà bảo sanh này.
Nhà bảo sanh Hiền Chi ở cuối đường Cầu Quẹo, đường này giáp với con đườngdẫn lên nhà máy thuỷ điện Ankroet ở Suối Vàng được đặt tên là đường Nguyễn Hoàng, nơi đây đã ra đời nhiều đứa trẻ khoẻ mạnh, mẹ tròn con vuông. Được như vậy là bởi cô Hiền Chi rất mát tay, có nhiều kinh nghiệm lại được học hành đàng hoàng không giống như các bà mụ vườn chỉ đỡ đẻ theo kinh nghiệm dân gian.
Khi Hai mang thai tới tháng thứ bảy, bà Hai đích thân dẫn Hai đi xuống nhà bảo sanh “để coi cô Hiền Chi khám ra sao?”. Hôm đó Hai vui lắm, cô về kể với Trần Hành:
– Cô Hiền Chi nói ngôi thai em ngay ngắn, mà mình ơi cô nhìn bụng em cô nói em sẽ sinh con gái!
Trần Hành vui lắm khi nghe Hai nói vậy, anh nói:
– Vậy hả mình, được con gái thì tốt quá, anh hồi giờ chỉ thích con gái thôi!
Vẻ mặt Hai bừng lên cảm xúc hạnh phúc tràn đầy, cô vui vẻ kể tiếp:
– Cô Hiền Chi nói khi mang bầu con gái thì cái bụng sẽ xề xuống tràn qua bên hông như em nè, còn có mang con trai bụng sẽ nhọn mình à!
Chuyện này Trần Hành mù tịt nhưng khi nghĩ đến Hai sẽ sinh một đứa nhỏ khi nó lớn chạy theo anh bi bô gọi cha, cha ơi… khiến anh cảm thấy thinh thích. Cho dù đứa nhỏ không phải con mình nhưng khi đã cưu mang mẹ nó thì anh cũng coi nó như đứa con ruột của mình, anh nghĩ bụng.
Nay nghe bà thím nhắc đến chuyện cô Hiền Chi anh lo lắng hỏi lại:
– Cổ nói ra sao hả thím?
– Là cổ nói người mình cho ăn uống kham khổ như vậy là phản “pha học”. Người Tây họ không có chuyện xông hơ, ăn uống kiêng khem như người mình, sau khi sinh chỉ vài ngày là bà mẹ đã đi ra ngoài chớ không cấm cửa mấy tháng ròng trong phòng kín, mặt xoa đầy nghệ vàng khè! Cô Hiền Chi còn nói nên cho bà mẹ ăn đủ chất, có thịt, có cá, có rau và cả trái cây nữa mới là đúng. Chuyện ăn thịt cá, rau… thím nghĩ thì cũng được đi nhưng chuyện ăn trái cây thì chắckhông nên, sợ đứa nhỏ bú sữa đau bụng đi ngoài thì khổ cả mẹ lẫn con! Thím tính như vầy, khi con Hai đau bụng thím sẽ kêu xe lam của chú Hồ Hải chở xuống nhà bảo sanh cô Hiền Chi, thím đã nói trước với cổ rồi. Thằng Hành con đừng lo, chuyện đẻ đái là của đàn bà con gái, để thím lo hết nghe con!
Trần Hành cảm động nhìn thím nhưng anh không thốt ra được tiếng nào, anh chỉ ngước cặp mắt đong đầy vẻ chịu ơn nhìn người thím dâu mà lâu nay trong lòng anh coi như người mẹ.
Trần Hành vô buồng, lát sau anh đi ra với một nắm tiền, không biết là bao nhiêu, anh kính cẩn cầm hai tay đưa cho bà Hai Phong:
– Trình thím, vợ chồng con mang ơn chú thím không biết đâu mà kể, nay vợ con sắp nằm ổ, lâu nay con dành dụm được chừng này xin thím nhận cho để lo cho vợ con!
Bà Hai Phong gạt phắt:
– Con mới vô để dành như vậy là tốt rồi, con cứ để đó còn nhiều chuyện phải lo, chuyện tiền nong sinh nở thím nói thiệt, lâu nay mỗi lần bán heo thím dành dụmnay có chỗ xài rồi!
Vợ chồng Trần Hành đồng thanh:
– Không được, thím….
Bà Hai ngước mắt lên nhìn họ:
– Sao lại không được, bộ “bà quại” lo cho cháu không được sao bay?
Hai người, vợ nhìn chồng, chồng nhìn vợ, cả hai không ai nói được tiếng nào nhưng nếu nhìn kỹ người ta sẽ thấy một giọt nước mắt đang ứa ra từ đôi mắt họ.
Bên ngoài trời đang mưa, những giọt nước mát lạnh hào phóng đổ xuống mặt đất đang háo nước dệt thành một màn nước khổng lồ.
Sau khi uống no nê thứ nước bổ lành, mặt đất bắt đầu xuất hiện một số dòng chảy, đó là những nơi có đất sét còn miếng vườn nhà ông Hai đất “phin”, loại đất đen tơi sốp vẫn đang háo hức uống nước cho đến cành hông. Nhìn thấy cảnh đó, Trần Hành nói với thím:
– Thím à, con tính nghỉ thêm một ngày nữa để tỉa đám bắp trên dông, chỉ chừng vài cơn mưa nữa thôi là bắp sẽ mọc. Còn đám đất trên cùng con định mưa già mới trồng khoai lang, tính làm sao đến cuối tháng mười một, qua mùa nắngmình giở khoai rồi xắc phơi khô để dành. Thím thấy có được không?
Đám đất trên dông chỉ trồng bắp khoai trong mùa mưa, cuối mùa nắng ông Hai và Trần Hành đã dành một ngày ròng rã cuốc đất lên phơi ải cho rể cỏ chết hết, chờ vụ mùa khi mùa mưa đến.
Nghe cháu hỏi vậy, bà Hai trả lời:
– Thôi chết, con nhắc thím mới nhớ. Mai thím phải qua nhà dì Thu xin giống bắp nếp, dì hứa rồi mà thím lại quên mất!
Ngoài trời mưa đã ngớt sau mấy tiếng sấm vang và chớp loé bầu trời.
Tháng sau vợ Trần Hành sinh một bé gái, khi nghe bà thím từ nhà bảo sanh Hiền Chi về báo tin, Trần Hành nở một nụ cười thật tươi.
Trần Thị Lượm là thành viên thứ năm trong nhà ông Trần Phong mà người dân cây số 6 thường gọi là ông Hai Phong, năm đó mưa thuận gió hoà, duy chỉ cuối mùa mưa trời nổi dông như thầm báo hiệu một tương lai không êm thắm như bấy lâu nay.
5. Xứ Thánh Mẫu là một giáo xứ toàn tòng, cả xứ có trên hai trăm gia đình ngụ cư trên một thung lũng tạo thành bởi hai ngọn đồi, tính từ ngã ba (mà thực tế bây giờ đã là ngã năm) tới một khoảng cách chừng cây số, chúng ta sẽ thấy lòng thung bị chia hai, một leo lên dốc, một quẹo về phía trái vẫn là đất bằng ở giữa có con suối nhỏ. Thung lũng phía trái dành cho xứ Thánh Mẫu không trọn vẹn bởi trước khi họ di cư đến đây, Sở Điền địa nay là Ty Canh nông đã cấp đất cho một số gia đình khai phá phía bên trái con suối nếu ta đi ngược lên thượng nguồn, khoảng đất đó dài khoảng chừng gần một cây số đụng đến đoạn cua tay áo của con đường Vòng Lâm viên, nơi ấy không biết ai đặt tên là góc Sở, đoạn cua tay áo ôm lấy một khoảnh rừng thưa, toàn là cây thông xen kẻ với lùm bụi sim mua, ngũ sắc.
Đất của ông Hai Phong nằm giữa đoạn thung lũng tiếp giáp với đất cấp cho dân di cư từ miền bắc chuyển vô. Đúng ra xứ Thánh Mẫu định cư ở Cái Sắn, đâu như dưới Cần Thơ vào năm 1954 nhưng không hiểu vì sao người ta lại đưa họ lên cao nguyên này lập nghiệp đầu năm 1956. Khi cán bộ canh nông đến đo đạt cấp đất cho người di cư bên kia con suối, ông Hai Phong mới ngớ người ra. Lâu nay ông khai phá thêm một miếng vườn bên kia suối nay lại thấy người ta đo đạt phần đất của mình, ông giận lắm chạy đến hỏi mấy người cán bộ. Ông nạt:
– Mấy người làm gì mà đo đất của tui?
Một người tay cầm sấp giấy ra vẻ là người đứng đầu hỏi lại:
– Đất nào là đất của ông, chúng tôi đang thi hành công vụ chia đất cho dân di cưtại chỗ này!
Tay cán bộ canh nông nói như đinh đóng cột, ông Hai tức tối chạy lên nhà lục tủ lấy bằng khoán Sở Điền địa cấp cho ông ngày ông khai hoang miếng vườn này. Tay cán bộ cầm giấy tờ của ông Hai chỉ vào sơ đồ:
– Đây nè, ông coi, chính phủ chỉ cấp cho ông khai phá bên này con suối, ông lại khai phá thêm như vậy là bất hợp pháp. Chính phủ cấp chỗ này cho dân di cư làm kế sinh nhai, ông không có quyền phản đối!
Nhìn vẻ mặt ỉu xìu của ông Hai Phong, tay cán bộ canh nông dịu giọng:
– Nể tình ông già cả chúng tôi sẽ trình cấp thẩm quyền cho phép ông chăm sóc đến khi thu hoạch xong đám rau mới phải giao lại lô đất này cho người được cấp!
Nghe như vậy ông Hai có tươi hơn một chút nhưng nét mặt vẫn còn dàu dàu, vị cán bộ canh nông nói tiếp:
– Không riêng gì nhà ông bị thu hồi đất đâu, ở vùng này ai khai phá qua bên con suối đều là bất hợp pháp hết và tất cả đều bị thu hồi, trừ mỗi trường hợp đặc biệt là nhà bà Sáu do cha xứ can thiệp bởi xét hoàn cảnh của bà mẹ goá nuôi bầy con côi!
Ông Hai không chào đám đo đạt, ông bỏ lên nhà tay cầm cái “lập lăng” mà lòng buồn vô hạn. Những ngày chủ nhật nghỉ làm ở mỏ đá Cam Ly, ông dành thời gian này khai hoang đám đất có bề dài bằng với miếng vườn ông bên này consuối nhưng bề rộng chỉ chừng hơn chục mét bởi thế đất chạm phải chân đồi khá cao. Coi vậy chớ ông tốn khá nhiều mồ hôi trên miếng đất này. Ông dùng cái cuốc chỉa hiệu Peugeot của Pháp với bốn cái răng nhọn hoắc cuốc bấu vào bờ taluy lôi ra thứ đất vàng mơ giống tựa mỡ gà. Ông xúc đất bằng cái vá cổ cò của Mỹ hất từng vá đất lên cái xe cút kít, ông đẩy xe đất đổ vào chỗ thế đất thấp nhằm tạo thành một miếng vườn bằng phẳng….Nay mọi thứ coi như đổ sông đổ biển ông không buồn sao được?
Bà Hai và vợ chồng Trần Hành đón ông trên nhà với sự hồ nghi bởi vẻ mặt ông Hai Phong lộ rõ vẻ bí xị không che dấu. Bà Hai hỏi:
– Bộ có việc gì hả mình?
Ông Hai nhìn vợ, bất giác một nổi thất vọng ùa ra thành giọng nói khàn khàn:
– Tui tức lắm, thôi không làm vườn nữa!
Bà Hai Phong gặng hỏi, phải một hồi lâu bà mới vỡ vạt chuyện xảy ra dưới suối, bà an ủi chồng:
– Thì cũng tại mình ẩu tả, không chịu đi hỏi ai mà lại tự làm, bây giờ ra cớ sựnhư vầy thì phải chịu chớ biết tính sao?
Ông Hai Phong rầu rầu nhìn vợ:
– Lâu nay tui cũng đã nghĩ đến chuyện này rồi mình à nhưng phải đến hôm nay xảy ra cớ sự như vầy rồi thì tui cũng nói luôn ra cái ý nguyện của mình. Thôi thì đám đất đó tui trả lại cho dân di cư, họ bỏ quê hương bản quán lưu lạc vô đây cũng y như ngày xưa tui bỏ xứ vô xin làm bồi khách sạn Palace vậy mà, hay cũng như vợ chồng thằng Hành cũng đến xứ này với hai bàn tay trắng. Tui quyết rồi, nghĩa là cái duyên làm vườn của mình đến đây là hết, nói thì nói vậy chớ tui không bán vườn đâu. Bán được mấy đồng hả mình, còn đất là còn tất cảtui để dành giao lại cho con cháu sau này. Tui xem ra thằng Trần Hành cũng không ham gì chuyện vườn tược, nó là chân chạy tìm việc tự do để làm không khó. Cái tui tính là chuyện dài hơi, sau này con bé Lượm lớn lến có miếng vườn làm của hồi môn cũng không bị nhà chồng khinh khi. Nhưng trước mắt tui để miếng vườn cho anh em Bốn Gần Năm Xa làm rẻ, tui theo mỏ đá mấy năm nữa rồi nghỉ. Còn mình cứ lăng xăng hết nhổ cỏ lại bắt sâu, hết bỏ phân lại gầy heo kiếm phân, lúc lượm phân bò bỏ thêm cho đủ số…lúc nào cũng tất bật khốn khó tui thấy tội cho mình quá. Hay là mình gói ba cái bánh ú bánh chưng gánh ra ngã ba chào ông đi qua chào bà đi lại bán kiếm chút tiền lời, mình nghĩ coi có phải hơn không?
Ông Hai Phong nói một hơi dài. Điều này chứng tỏ chuyện đổi nghề cho vợ chồng ông, ông đã nghĩ chín rồi chớ không phải là chuyện bột phát do bất mãn với đám cán bộ Ty Canh nông lúc nãy. Bà Hai Phong im lặng lắng nghe chồng nói, vợ chồng Trần Hành ẵm con bé Lượm trong lòng cũng im lặng không dám hé răng. Trần Hành và vợ không dám lên tiếng cũng phải thôi bởi họ chỉ là con cháu, chú thím chưa hỏi tới thì đã đâu đến lượt?
Bà Hai Phong lặng ngắt một hồi lâu, cuối cùng bà cũng lên tiếng:
– Mình nghĩ cũng phải, tui thấy đám dân di cư thiệt là tội nghiệp. Hồi họ mới đến, chính phủ cấp cho mỗi nhà một cái trại để ở, lương thực chi dùng hàng ngày. Tui thấy họ tới từng vườn đang chặt sú xin mấy lá già. Hỏi xin làm gì họ nói trớ là về nuôi “con lợn” nhưng thật ra là để ăn. Tiếng nói của họ trọ trẹ khó nghe quá mà lại nói nhanh với thứ tiếng lạ hoắc khiến tui không hiểu gì hết nhưng thấy họ tội lắm, nhìn họ tui sực nhớ đến ngày tui chưn ướt chưn ráo đến xứ này… Mà hồi đó tui còn có dì Thu chớ người di cư người thân cũng khôngcó một ai, chỉ có họ với nhau thôi.
Ngừng lại như thể để lấy hơi bà Hai Phong nói tiếp:
– Hồi ngoài quê ngày tết tui hay giúp mẹ tui gói bánh ú, bánh tét nên ba cái chuyện vút nếp, xào nhưn, lau lá tui không lạ gì. Mình nói phải, thím cháu tui sẽ gói bánh đem ra ngã ba bán. Tui thấy dạo này dân miền ngoài vô xứ này xin việc cũng nhiều, mà làm vườn thì hay đói bụng có cái bánh ăn bữa lỡ bữa xế chắc bụng hơn thứ bánh mì của Tây hay những món ăn khác của người mình.Mình cứ yên tâm đi, tui chưa buôn bán ngày nào nhưng chuyện buôn bán tui cũng không lạ lẫm gì đâu!
Ông Hai Phong nhìn vợ, ông không ngờ bà Hai mau mắn đồng ý với ông. Từ ngày về sống chung với nhau ông bà chưa bao giờ làm trái ý nhau dù chỉ là chuyện nhỏ. Bây giờ nghỉ làm vườn là chuyện lớn mà bà Hai cũng không trái ý ông, ông nghĩ càng thương vợ hơn bao giờ hết.
Trần Hành nãy giờ ngồi im bây giờ mới cất tiếng:
– Con thấy chú thím tính chuyện như vậy là phải, chú đã làm quen ở mỏ đá có đồng tiền ổn định cộng với thím bán bánh thì cũng chắc ăn lắm rồi. Phần vợ con ở nhà phụ việc cho thím tiện việc giữ con bé Lượm con thấy cũng ổn, con thì chuyện gì cũng biết một xí nhưng lại không biết làm vườn, thôi thì đi chẻ đá kiếm ba hột cơm cũng không đến nỗi nào.
Hai tháng sau, ông Hai Phong và Trần Hành ở nhà một bữa để thu hoạch đám khoai tây, đó là vụ mùa cuối cùng trong đời làm vườn của ông Hai Phong. Nhìn những củ khoai giống Cosima tròn vo to như cái chén ăn cơm nằm phơi dày trên luống đất, trong lòng ông Hai Phong vừa vui xen lẫn vào đó có chút ngậm ngùi.
6. Con bé Lượm lớn nhanh như thổi. Thật là trời thương người lương thiện chịu khó làm ăn như vợ chồng Trần Hành, con bé Lượm không đau ốm gì cả trừ những bệnh thông thường như ho, sổ mũi… mà đứa con nít nào cũng mắc phải. Hai thương con bé lắm, bà mẹ nào mà chẳng thương núm ruột mình đẻ ra? Cha nó cũng thương con nhỏ mới là điều đáng nói. Đi làm về bao giờ Trần Hành cũng ghé đâu đó mua cho con nhỏ, lúc thì miếng chả lụa bán ở hàng giò chả Bắc Hương do một bà cụ người Bắc răng đen, đầu quấn khăn mỏ quạ làm chủ, lúc khác lại là một món đồ chơi nào đó. Thế cho nên bé Lượm trông cha về lắm, chiều chiều nó cứ đứng tựa cửa dòm ra đường dưới, con đường mới mở tiếp nối với đường Thánh Mẫu dành cho dân di cư làm phương tiện chở rau, hoa, Lượm muốn mình là người đầu tiên đón cha về.
Chiều nay cha về, Lượm mừng lắm với món quà là con “cúp bê” bằng nhựa đang cười mà cha đưa cho nó. Lượm nói:
– Con cám ơn cha!
Nó vòng tay lại trước ngực cúi đầu xuống một hồi mới ngửng lên, Trần Hành bế bỗng con gái bằng đôi tay mạnh mẽ của mình, anh thơm một cái vào đôi má bầu bĩnh của bé Lượm. Anh đặt con gái xuống rồi nói với nó:
– Con lên nhà trên chơi đi, để cha nói chuyện với má con.
Con bé Lượm ngoan ngoãn vâng lời Trần Hành, nó ôm con cúp bê vào lòng, vừa đi lên nhà trên vừa ê a hát một khúc ca, có lẽ là một đoạn hát ru em. “Chiều chiều ra đứng cửa sau, trông về quê mẹ ruột đau chín chiều…”. Chẳng là má nó, Hai hát ru con từ hồi con bé mới vừa tròn tháng tuổi, sau khi bà ngoại cúng đầy tháng với lễ vật là xôi chè, bông trái…, bà khấn mười hai bà mụ và ba vị tiên nương cho con bé Lượm hay ăn mau lớn, Hai hát liền bài hát ru Phạm Công Cúc Hoa mà Hai thuộc nằm lòng để ru con bé ngủ nên đến giờ con bé Lượmthuộc những bài hát ru giống như má nó hồi xưa.
Trần Hành kéo cái ghé gỗ thông ngồi xuống. Đây là lần thứ bao nhiêu không rõ anh ngồi trên cái ghế này từ bữa tối đầu tiên anh đến nhà chú Hai Phong, đến nay gian bếp, cái bàn, cái ghế vẫn y nguyên ngoại trừ chuyện càng lúc mọi đồ vật càng cũ theo sự bào mòn của thời gian.
Bà Hai Phong và Hai đang gói bánh ú, thấy chồng bước vô nhà Hai tỏ vẻ ngạc nhiên:
– Ủa, sao hôm nay mình về sớm vậy?
Trần Hành rót nước chè xanh ra chén và uống một hơi ngon lành, đặt cái chén không xuống mặt bàn anh nói:
– Trình thím, con đã xin phép chú rồi, mai con về quê mấy ngày.
Quay qua vợ, Trần Hành nói tiếp:
– Anh về sớm ghé qua chú Năm Nghĩa nhà xe Thuận Đức dặn xe đặng mai đi sớm, vả, anh cũng phải ghé chợ mua ít khoai tây, cà rốt và sú lơ về làm quà cho gia đình!
Mấy năm nay vô Đà Lạt làm ăn, chưa bao giờ Trần Hành về thăm quê. Nay nghe anh nói về thăm nhà, bỗng đâu gương mặt Hai biểu lộ vẻ sửng sốt trong đôi mắt đượm buồn. Hai cúi đầu xuống lấy ông quần chùi giọt nước mắt đang ứa ra và sắp chảy thành dòng, cử chỉ đó không qua được mắt Trần Hành.
Còn bà Hai Phong nghe thằng cháu báo tin về thăm quê, vẻ bùi ngùi khiến gương mặt người đàn bà như già thêm mấy tuổi. Dường như bà nghĩ sao đó mà vẻ mặt bà một lúc sau hằn lên một nét đau không hề che giấu.
Trần Hành không biết những cảm xúc của bà thím dâu, sự chênh lệch tuổi tác giữa hai thế hệ là một hàng rào vô hình, anh chỉ chú ý đến giọt nước mắt của Hai vừa lăn ra khỏi đôi mắt bỗng chốc đượm nét buồn.
Đêm đó dưới ánh đèn hột vịt vặn nhỏ như hột đậu, Trần Hành nằm bên vợ thủ thỉ:
– Anh đi mấy bữa rồi vô, mình ở nhà chăm con nhớ giữ gìn sức khoẻ.
Hai quay qua con bé Lượm, chị đặt lên trán con một nụ hôn rồi mới quay qua nói với chồng:
– Để sáng mai em dậy sớm nấu nồi xôi đậu phộng mình ăn sáng rồi bới đem theo!
Trần Hành cảm động:
– Chắc không ai nấu xôi bằng mình, mà lại là xôi đậu phộng nữa mới thiệt là ngon!
Dường như sực nhớ tới chuyện gì, Trần Hành ngồi nhỗm dậy nói với vợ:
– Để anh về quê ghé nhà bên cha, mình nói lại đi để anh tìm cây viết chì ghi lạiđịa chỉ?
Hai giật nẫy mình khi nghe Trần Hành nói như vậy, chị cũng ngồi bật dậy giọng hốt hoảng:
– Thôi… không được đâu anh!
Trần Hành hỏi lại:
– Sao lại không, anh sẽ tự nói là chồng mình thì có khó gì?
Hai vẫn không chịu:
– Em nói không được là không được…mình ơi, mình hứa với em đứng ghé nhà cha nghe mình?
Trần Hành trầm ngâm một hồi rồi mới trả lời Hai:
– Thôi được, anh chỉ ghé qua làng làm bộ hỏi thăm bà con cô bác cho biết tin tức của cha mẹ, anh Hai và hai đứa em trai mà không nói mình là ai, mình bằng lòng chưa?
Đáp lại câu hỏi của Trần Hành là tiếng nức nở của Hai, chị khóc cho cuộc đời con gái buồn thảm của mình hay khóc vì thương cha nhớ mẹ?
Không ai biết cả.
7. Tháng 11 năm 1960, một vị đại tá và một vị trung tá quân lực Việt Nam Cộng hoà tổ chức một cuộc đảo chánh lật đổ chính phủ do tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Trần Hành biết được tin này khi vừa đến nhà sau mười ngày về Quảng Ngãi thăm quê.
Hai đón chồng bằng một nụ cười tươi hết cỡ:
– Mình về rồi à, có mệt lắm không mình?
Quay sang đứa nhỏ đi sau lưng Trần Hành chị hỏi:
– Ủa, ai đây mình?
Trần Hành nhìn vợ nói:
– Nó là thằng cháu kêu anh bằng chú ruột, tên là Trần Mây!
Thằng nhỏ vòng tay cúi đầu:
– Dạ, con chào thím!
Hai nhìn thằng nhỏ với một cặp mắt nghi hoặc, đúng lúc đó ông Hai Phong cũng vừa về tới, bà Hai cũng từ dưới vườn đi lên, tay bà ôm một bó lá chuối. Bé Lượm trong nhà chạy ra kêu lên mừng rỡ:
– Cha mới về… con chào cha!
Trần Hành cất tiếng chào chú thím rồi chỉ thằng nhỏ đứng đằng sau lưng anh nói với vợ chồng ông Hai Phong “trình chú thím, thằng nhỏ này là thằng Mây con anh Hai Gừng”, quay qua Trần Mây anh tiếp “con chào ông chú bà thím đi con”. Trần Hành giơ tay xoa đầu con bé Lượm, anh lấy từ cái túi vải đeo bên vai ra một miếng đường đen đưa cho con bé Lượm, miệng nói “đường muỗng cha chặt ra đó, con ăn thử coi sao!”. Con bé mừng rỡ cầm miếng đường mà mắt nó nhìn cha như muốn khóc!
Cả nhà kéo vào gian bếp, nơi này là chỗ tụ hội hàng ngày của cả nhà ông Hai Phong. Vừa ngồi xuống cái ghế gỗ thông, Trần Hành giơ tay ẵm con bé Lượmđặt nó ngồi trên đùi, ông Hai Phong đã báo tin đảo chánh:
– Con về tới nhà chú thím mừng quá, sáng nay quân đội làm đảo chánh lật đổ chế độ ông Diệm. Không biết thời cuộc xoay vần ra sao nữa chú lo quá, chỉ mong mọi chuyện được bình yên để người dân làm ăn sinh sống nhưng e rằng khó quá!
Nhìn gương mặt lo lắng của người chú, Trần Mây trả lời:
– Hèn nào trên đường vô Đà Lạt con thấy lính tráng rải ra khắp các nơi, người nào người nấy súng đạn trên tay, đầu đội mũ sắt cứ như là ra trận. Chiếc xe Thuận Đức của chú Năm Nghĩa bị xét không biết bao nhiêu lần trước khi về tới bến!
Hai chú cháu trao đổi với nhau về cuộc đảo chánh đang diễn ra ở Sài Gòn, tin tức mới nhất cho biết phe đảo chánh chưa đạt được mục đích, chẳng biết thời cuộc diễn biến ra sao nữa. Điều ông Hai Phong lo là sinh kế bị ảnh hưởng, rối ren như vầy ai mà xây nhà, nghề chẻ đá của ông và Trần Hành không biết ra sao? Trần Hành nói với chú:
– Chú cũng đừng lo lắng nhiều làm gì, chú cũng tới tuổi nghỉ ngơi rồi, còn con không làm nghề này thì xoay qua nghề khác, ban đầu bỡ ngỡ nhưng mình cố gắng thì chắc cũng vượt qua thôi!
Rồi như sực nhớ ra điều gì đó, Trần Hành thưa với ông Hai Phong:
– Hồi nãy con chỉ nói qua với chú về chuyện của thằng Mây, nó là con của anh chị Hai Gừng mà bây giờ cha nó không có ở quê, còn mẹ nó thì… cũng bận bịu nên con xin thưa với chú thím cho thằng cháu nó ở cùng với ông bà và vợ chồng tụi con, không biết chú thím có chứa nó được không?
Ông Hai Phong nhìn Trần Mây đôi mắt ông ra vẻ dò hỏi nhiều hơn lời nói:
– Sao vậy, con nói rõ chút nữa cho chú thông?
Bà Hai và Hai lúc này đang gói bánh, từng cặp bánh ú đều tăm tắp được gói bằng lá chuối hột. Trước khi đi ngủ bà Hai sẽ sắp bánh vào nồi, nửa đêm bà thức dậy luộc, sau chừng bốn năm tiếng đồng hồ bánh chín nhừ sẵn sàng cho buổi bán sáng ngày mai. Nghe đứa cháu thưa xin được nuôi thằng Mây, bà Hai trong lòng mừng lắm. Bà vọt miệng nói liền không chờ ông Hai có ý kiến như thường lệ:
– Hành à, thằng nhỏ dễ thương quá, nhà mình ít người có thêm nó càng vui hơn chớ sao con!
Hai vẫn im lặng gói bánh phụ thím Hai nhưng chị dường như không bỏ sót chútchi tiết nào trong câu chuyện của chồng. Ban đầu khi nghe Trần Hành nói đứa nhỏ là cháu ruột, chị tin ngay nhưng một lúc sau khi nhìn nét mặt thằng nhỏ, chị thấy sao nó giống chồng mình quá, gương mặt chị liền thay đổi. Đa nghi vốn là tính của đàn bà, chị không biết điều này nhưng bản năng phụ nữ dường như đang vận hành hết cỡ trong lòng chị….
Bỗng dưng chị nhớ lại ngày đầu về nhà của chồng, mới đó mà nay con bé Lượm đã lớn bộn rồi…
… Hồi đầu nghe Trần Hành biểu mình leo lên cái bóc ba ga để anh đèo về, ban đầu chị không chịu. Trong đầu chị những hình ảnh của hiện tại trộn với quá khứ quay mòng mòng khiến cho đầu chị muốn nổ tung. Đêm hôm đó Hai kể với Trần Hành câu chuyện đời chị.
Sau bữa cơm chiều, Hai bụm miệng chạy ra bụi chuối sau hè, chị ói tất cả những thứ mình vừa ăn, vậy mà cơn ói vẫn không dứt. Chị ngồi ôm gốc chuốinước mắt chị chảy đầm đìa trên mặt, bà Bốn Chạy đứng trong cửa bếp nhìn rõ hết. Tối bà lôi con gái vô buồng tra hỏi. Ban đầu Hai chỉ khóc không chịu trả lời nhưng bà Bốn là một người đàn bà đã chứng kiến biết bao chuyện thị phi giữa chợ, bà học được nhiều thủ đoạn nên đứa con gái mười tám tuổi sao thoát được tay bà?
Khi Hai thú nhận khoảng hơn tháng trước Hai đi coi hát bội ở sân đình làng bên, Hai nghe lời rủ rê của Năm Chiến đi ra bờ sông ngồi “tâm sự”, Hai tin lời bỏ tuồng hát bội giữa chừng đang hồi gây cấn, Hai theo Chiến ra ngồi dưới bụi tre….
Đêm đó Hai không chợp mắt một phút nào. Bà Bốn chì chiết con gái đến tận nửa đêm bà mới ngủ thiếp đi, khi gà gáy lần thứ hai bà thức dậy và tiếp tục chửi đứa con gái làm “ô uế gia đình”. Bà còn doạ:
– Cha mày mà biết thì sẽ xởn tóc đuổi ra khỏi nhà, nhà này đâu có thứ con gái hư gái thúi như mày!
Không thể chịu đựng được nữa, Hai bỏ ra khỏi buồng, chị cứ nhắm cánh đồng mà chạy…đến khi chị định lao xuống dòng sông Trà Khúc để kết thúc mọi chuyện thì gặp Trần Hành. Hai nói:
– Đó, chuyện của tui là như vậy, hồi chiều mà không gặp anh thì giờ chắc tui nằm dưới đáy sông!
Trần Hành trầm ngâm ngồi nghe Hai nói bên ánh đèn dầu hôi, mặt anh ra vẻ suy nghĩ rất lung, cuối cùng anh nói:
– Tui đã nói hồi chiều rồi, cô mà ưng bụng thì cứ coi nhà này là nhà cô.
Hồi chiều khi Trần Hành và Hai vừa đến nhà, Trần Hành xô cửa khép hờ rồi nói với Hai:
– Đây là nhà tui, cô vô ngồi nghỉ một chút rồi phụ tui nấu cơm chiều!
Ngôi nhà mái tranh vách đất cửa tre đơn giản như chủ nó, nhà chỉ có một cái buồng ngủ, gian ngoài để một cái bàn và một bộ phản ghép bằng những miếng gỗ tạp. Nhà bếp mạng nhện giăng đầy, một đống chà để cạnh hai cái nồi đất và một cái ấm đất lọ nghẹ đóng đen thui. Mấy cái chén dĩa được chủ nhà sắp trên một cái kệ tre bốn chân chôn dưới đất, tất cả đều đơn giản giống như nhà mình, Hai nghĩ thầm trong bụng. Trần Hành nói:
– Để tui ra dí con gà làm thịt nấu cháo cho cô ăn cho lại sức!
Hai định ngăn anh nhưng chưa kịp lên tiếng cái thân hình to con của Trần Hành đã len ra ngoài khung cửa. Một lát sau Hai nghe tiếng gà kêu lên một tiếng thảm thiết, cô vịn cái bàn đứng lên xuống bếp bẻ chà nhen lửa phụ Trần Hành. Hôm đó món cháo gà có lẽ là món ngon trong cuộc đời của một cô gái vừa tới tuổi mười tám như Hai. Ăn xong Hai dọn rửa, là những việc cô thường làm ở nhà, Trần Hành bỏ lên nhà trên uống nước, anh coi đó là một chuyện tất nhiên: việc bếp núc là của đàn bà!
Chuyện cũ Hai nhớ lại diễn ra trong tích tắc, chị lại lắng tay nghe câu chuyện của chồng trình với chú thím.
Thấy Trần Hành chưa trả lời câu hỏi của mình, ông Hai Phong cau mặt, ông hỏi lại thằng cháu một lần nữa:
– Con kể lại đầu đuôi cho chú thím nghe, câu chuyện ra sao?
Lúc này thằng nhỏ Trần Mây đã lén ra ngoài sân chơi với con bé Lượm. Lượm từ lòng cha tụt xuống hồi nào Trần Hành không hay. Nó là đứa nhỏ duy nhấttrong nhà, lần đầu nhà nó có thêm một đứa con trai cùng trang lứa nên con béLượm vừa tò mò vừa thích thú. Đến bên Trần Mây, Lượm nói nhỏ:
– Anh ra sân chơi với em đi, cha hay bắt em lên nhà trên chơi để người lớn nói chuyện!
Trần Mây nhìn con bé Lượm rồi nó ngước mắt nhìn chú Ba, nó thấy người lớn không ai để ý đến nó cả nên nó thì thào với con bé:
– Ừ… nhưng tao không chơi trò con gái đâu đó!
Hai đứa nhỏ len lén chạy ra ngoài sân, chúng không biết trong gian bếp đang diễn ra câu chuyện liên quan đến chúng!
Trần Hành thưa với chú thím:
– Thưa thiệt với chú thím, thằng Mây đích thị là con của Hai Gừng. Chắc chú thím ở lâu trong này không biết chuyện ở quê, hồi chín năm anh Gừng có tham gia công tác nên đến năm năm lăm, ổng đi tập kết chuyến cuối cùng, bỏ lại thằng Mây cho chị Hai nuôi. Hồi nãy con nói trớ là mẹ nó bận bịu nhưng thiệt ra chị Hai không chờ được ông Gừng nên giao con lại cho bên nội để bả đi lấy chồng, mà ác nghiệt lại là lấy đúng cái ông hồi trước nhờ người đánh tiếng xindạm hỏi nhưng cha mẹ chị Hai không chịu gả. Sau này ông đó ra làm cuộc trưởng cảnh sát, con nghe kể lại không biết ông đó nói gì mà chỉ gởi thằng Mâycho bên nội rồi dọn áo quần về nhà ông cuộc trưởng. Con về thấy tội nghiệp thằng nhỏ, cha mẹ con thì đã qua đời, nó sống với chú Tư Nghệ mà nhà chúthím Tư con đông lại nghèo quá nên con đem đại nó vô trong này mà không hỏi trước ý kiến chú thím, mong chú thím bỏ quá cho con!
Đến đây thì Hai tin thằng Mây là cháu của chồng mình, chị yên tâm cột hai chiếc bánh lại với nhau bằng sợi dây lạc ngâm nước mềm èo.
Ông Hai Phong trầm ngâm một hồi rồi nói:
– Chú nghĩ dòng họ nhà mình chắc đang hồi gặp vận rủi, chú thím thì con cái không có may mà có vợ chồng con vô ở, lại thêm con bé Lượm, nhà có tiếng con nít nên vui hơn trước nhiều. Điều chú thím trông ở vợ chồng con là sao lâu quá mà con bé Lượm chưa có em, thím con là người mong điều này nhất. Thôi thì ông Trời không phụ người có tâm, con đem thằng nhỏ con Hai Gừng vô nuôi, con nghe thím con nói rồi đó, chú thím bao giờ cũng một lòng với nhau mà!
Trần Hành cảm động nhìn vợ rồi trả lời:
– Con lo bị chú thím quở, con xin thay mặt anh Hai Gừng cám ơn chú thím!
Ông Hai Phong cười:
– Bay lại tào lao rồi, ơn với huệ gì, nhà mình ráng đùm bọc nhau mà sống, đời bây giờ sao khó quá!
Hai nghe ông chú nói lời như răn dạy, chị cúi gằm mặt xuống đôi tay như thể lần đầu tiên chị thấy tay mình đang gói bánh ú vậy. Bao đêm rồi Hai ra bàn thờ ông Thiên khấn xin ơn trên cho chị một đứa con, vậy mà….
Quả nhiên thời buổi quá khó khăn như ông Hai tiên liệu, nghề chẻ đá của ông có nguy cơ bị thất nghiệp sau biến cố đảo chánh bất thành của đám lính dù. Lâu nay ông thầu khoán Giám nhận thầu xây nhà cho những nhà giầu, nay thời buổi nhiễu nhương ai còn dám xây dựng, người ta giữ vàng trong nhà để phòng thân. Còn người nghèo ai mơ đến chuyện ở nhà xây? Thông thường người làm vườn ở trong những căn nhà cất bằng ván gỗ thông, còn được họ kêu bằng gỗ ngo, phía vách sau và nhà bếp, để tiết kiệm tiền đa số nhà đều làm bằng ván bìa, dù có trống trước hở sau cũng che chở cho họ có chỗ chui ra chui vô miễn trong nhà lúc nào cũng có tạ gạo là họ yên tâm lắm rồi!
Trần Hành cuối cùng cũng chuyển nghề. Nửa năm sau ông Hai Phong giả từ cái nghề nặng nhọc bằng một cặp mắt bạc màu nhìn về mỏ đá Cam Ly, nếu tính từbuổi chiều ngày đầu tiên của cuộc đảo chánh thất bại của hai ông sĩ quan cấp tá quân lực Việt Nam Cộng hòa…
8. Đường Minh Mạng là một con dốc khá cao và ngắn, con đường được đặt tên một vị vua của triều đình Huế từ hồi thị xã vừa mới hình thành. Những biệt thự kiểu Pháp được xây hai bên đường với khoảng cách khá gần nhau tạo cho người ta cảm giác gần gũi và ấm cúng. Tuy là đường dốc nhưng tại đường Minh Mạng lại có hai đoạn đường nhánh dẫn vào con đường chạy quanh Hội trường Hoà Bình, tiền thân là chợ Cây nổi tiếng một thời được gọi tên là đường Marché.
Trần Hành cho xe vào bến, bến xe lam Cây số sáu nằm trên một đoạn đường nhánh bằng phẳng tạo với đường Minh Mạng một góc vuông. Khi khách xuống xe hết, Trần Hành cũng bỏ xe nằm đó anh lân la tới xe của các đồng nghiệp chuyện trò.
Ông Hồ Hải là một người nhỏ con, ông để bộ râu dê trên chiếc cằm nhọn càng khiến khuôn mặt ông lúc nào cũng mang một nét hài hước vui vẻ. Thấy Trần Hành ngồi ghé một bên băng trước là một chiếc ghế dài theo đúng bề rộng của xe dành cho bác tài ngồi lái nhưng nếu thiếu chỗ ở thùng xe phía sau, tài xế sẽ tận dụng hai vị trí cạnh mình để chở thêm khách. Đôi khi trong thùng xe còn trống chỗ, nhiều người mà đa số là nam thanh niên cũng leo lên ngồi cạnh bác tài, họ thích chỗ đó vì sẽ ngắm được phố xá qua tấm kính chắn gió. Khi Trần Hành vừa ngồi xuống ông Hồ Hải liền hỏi:
– Sao, xe chạy tốt chớ?
– Cảm ơn chú, máy mạnh mà lại “dọt” nữa. Cũng nhờ chú chỉ cho cháu may mắn mua được chiếc xe còn tốt quá!
Chiếc Lambretta mà Trần Hành mua để hành nghề chở khách còn rất mới, xe màu vàng nhạt, hai bên hông hàng chữ Lambro 550 dập nổi tạo cho người ta cảm giác chiếc xe cứng cáp và dũng mãnh. Bên trong thùng xe đặt hai băng ghế bọc da simili, nhiều khi khách này chạm đầu gối vào khách đối diện là chuyện thường tình. Chiếc xe này Trần Hành mới mua hồi tháng trước thay thế cho chiếc xe Lambretta già nua anh mua lại của một bác tài khi mới ra nghề.
Ông Hồ Hải cười:
– Chú mày được như vậy là khoẻ hơn tao hồi trước nhiều, khi mới ra nghề bọn tao chỉ có chiếc xe ngựa chớ đâu dám mơ tới chiếc xe lam!
Từ ngã ba đến chợ, trước đây là chợ Cây và nay là chợ Mới đều có khoảng cách chừng hơn 5 ki lô mét, nếu tính tới cây xăng Kim Cúc nằm trên đầu dốc Nguyễn Trường Tộ thì khoảng cách này vừa đúng 6 ki lô mét nên Ngã ba còn có tên là Cây số sáu. Trước kia thông thường muốn ra chợ người ta phải đi bộ, ai khá hơn thì sắm chiếc xe đạp là bảnh lắm rồi.
Thuở sơ khai, dân làm vườn phải gánh rau ra chợ bán, những đôi dóng gánh bằng mây tre kẽo kẹt trên vai họ mỗi sớm mai, lúc mặt trời vừa rạng da cam ở phương đông như một khúc nhạc vui ngày mới. Nhưng gánh rau như vậy thì chẳng được bao nhiêu, không ai đủ sức gánh hơn nửa tạ đi những năm, sáu cây số xuyên qua đồi cao lũng thấp, đến khi chiếc xe ngựa kéo xuất hiện làm thay cho sức người trong chuyện vận chuyển hàng rau từ vườn ra chợ, dân vườn thở phào nhẹ nhõm. Đây là loại xe dùng bánh xe hơi bằng cao su có hai cái càn buộc vào con ngựa dùng để chở hàng hoá hay hành khách đều được, sự có mặt của xe ngựa làm giảm đáng kể sự khổ cực của dân vườn.
Ông Hồ Hải khi ra nghề cũng cố tìm mua một con ngựa kéo dưới Đơn Dương về đóng chiếc xe chở khách hay bất kỳ hàng hoá gì khi có người kêu. Ban đầu nghề xe ngựa đáp ứng được nhu cầu của cư dân nhưng dù sao ngựa cũng là súc vật, dù nó khoẻ hơn con người nhưng lượng hàng hoá nó kéo cũng chỉ có chừng. Mỗi khi lên dốc, mà dốc ở thị xã này nhiều lắm, người xà ích phải xuống xe, phụ với con vật đẩy xe tiến lên phía trước. Gặp đoạn dốc được rải nhựa đường thì dễ thở, nếu con dốc là một đoạn đường đất mà đụng phải trời mưa thì đúng là cảnh xe bị sụp lầy, tiến thoái lưỡng nan. Lúc đó hàng hoá được giở xuống hết, con ngựa như thoát được cực hình hí một tràng trước khi bậm mõm gồng mình tiến tới thoát khỏi đám đất đỏ sình lầy dẽo quánh cứ như giữ rịt bánh xe khiến con vật bực mình.
Rau xứ lạnh mang xuống xứ nóng bán được giá, dân tình ưa chuộng nên nghề vườn ngày một khá. Bây giờ đã có những chiếc xe vận tải chạy bằng dầu cặn, mỗi xe chở năm, sáu tôn (tấn) là chuyện thường, dân buôn cho xe đến tận vườn chở thẳng rau về đất Sài Gòn nên nghề xe ngựa đi vào bế tắc. Nói như vậy vì cùng lúc với những chiếc xe Thames chở rau đưa hàng hoá vùng đất lạnh đi tứ xứ, những chiếc xe của hãng Lambretta chở khách cũng xuất hiện với dòng xe Lambro 550 dũng mãnh. Đến đây thì người ta bỏ đi xe ngựa như một chuyện hiển nhiên, với mấy đồng bạc, ngồi trên xe chừng mười lăm phút người ta đã đến chợ thì ai mà không dùng xe lam chứ?
Ông Hồ Hải cũng phải theo thời như bao người xà ích khác, ông thả bầy ngựa bây giờ đã bốn con cho chúng “tự túc lương thực”. Ngựa thích gặm thứ cỏ xanh thường mọc rất mạnh ở nơi đất ẩm mà người làm vườn gọi là cỏ bờ hay bất cứ nơi nào chúng tìm thấy thức ăn miễn là đến chiều tối bầy ngựa trở về chuồng, thường được cất ở miếng đất sau nhà, để ngủ. Loài ngựa chuyên ngủ đứng, khi con ngựa nào đã nằm xuống nền chuồng nghĩa là con ngựa đó sắp chết. Nhưng khi còn sống nhiệm vụ của chúng tại nhà ông Hồ Hải giờ đây là “ị” cho thật nhiều phân để mẹ con bà Hải làm vườn. Nói cho cùng, thứ phân ngựa màu đen, to như hai tán đường gộp lại, chẳng tốt bao nhiêu. Chúng ăn cỏ, mà đa số là cỏ đồi xác xơ thì phân chúng thải ra tốt nỗi gì?
Khi đã nghĩ chín về dự tính mua chiếc xe lam thay xe ngựa, ông Hồ Hải hối vợ về nhà ngoại hỏi mượn số vàng ông bà cất làm của với lời hứa trả lại trong vòng ba năm, lời năm phân cho đủ số tiền mua một chiếc Lambro mà ông tích góp được bấy nay. Ngày đón chiếc xe, ông Hồ Hải run run đứng quay lưng về phía trước, tay trái nắm tay ga, chân trái đạp cần khởi động…giống như lời hướng dẫn của một người bạn đồng nghiệp, là ông Năm Thỷ, hướng dẫn. Phải đến lần đạp thứ tư, chiếc xe lam mới chịu nổ, tiếng nổ dòn tan của nó phá tan cái không gian yên tỉnh của buổi chiều xóm vắng như một tràng pháo làm bầy trẻ nhỏ đứng chung quanh coi vỗ tay rần rần. Chúng hít thật sâu thứ khói màu xanh xám từ chiếc ống pô của xe thải ra rồi bỏ chạy tứ tán với tràng ho sặt sụa.
Nhớ lại tình cảnh hồi mình mới mua xe, bây giờ ngồi với người lối xóm lại là chỗ đồng nghiệp chạy cùng một bến, ông Hồ Hải cười hà hà nhắc lại chuyện ngày xưa:
– Chú mày biết không, tao gặp nhiều chuyện nhớ đời trên cái xe này. Hồi đó khi mới ra nghề, tao phải tập chạy cho cứng tay lái trên con đường từ nhà ra góc Sở. Chừng năm hôm tao nghĩ chắc là được rồi nên chạy ra ngã ba mở hàng. Ai dè đâu khi tập chỉ đi đường bằng mà muốn ra ngã ba phải xổ xuống một con dốc, lúc đó quên béng mấy lời dặn của ông Năm Thỷ là phải đạp thắng, tao thấy nó chạy mỗi lúc một nhanh hoãn quá mới dồn số về số một may mà không bể hộp số, cái thằng Ý sản xuất ra xe này tốt thiệt!
Ông cười một hồi rồi nói tiếp:
– Còn chuyện đẻ rớt trên xe tao phải làm bà mụ bất đắc dĩ đến những hai lần, cũng may hai lần đó đều mẹ tròn con vuông hết!
Ông Hồ Hải tiếng là ở vùng chuyên làm vườn nhưng chưa bao giờ người ta thấy ông bước xuống vườn cầm cái nỉa, cái vá hay gánh đôi nước tưới. Điểm này ông rất giống Trần Hành, từ ngày ngoài xứ chân ướt chân ráo đến nhà chú Hai, anh chưa bao giờ phải đụng đến dụng cụ làm vườn, trừ chuyện phụ cuốc miếng đất trên dông khi mùa nắng bắt đầu, những cục đất to phơi cho thật nỏ chờ đến mùa mưa được đập ra thành thứ đất mịn và sốp rồi trỉa bắp, trồng khoai lang là hai thứ sản phẩm gắn bó với người nông dân mình dù ở nơi đâu.
Trần Hành nghe ông Hồ Hải nhắc lại chuyện ra nghề, anh cũng góp vô:
– Cháu thiệt là có duyên với cái nghề chạy xe này. Hồi mới vô xứ này cháu đi chẻ đá với chú Hai, đến khi đá ế chưa biết làm gì thì gặp chú chỉ cho nghề này, thiệt tình cháu mang ơn chú nhiều lắm lắm!
Ông Hồ Hải cười khà khà:
– Ơn nghĩa gì chú mày ơi, hồi đó ông Bốn bán xe về quê, tao không chỉ cho chú mày mua thì cũng có người khác mua thôi. Nhưng mà nè sống ở đời như chú mày cũng có ít người!
Trần Hành đưa mắt nhìn ông Hồ Hải lộ vẻ ngạc nhiên:
– Chú nói sao cháu chưa hiểu ý?
Ông Hồ Hải cười khà khà:
– Tao hỏi thiệt chú mày đừng giận, người ta đồn con nhỏ Lượm không phải con ruột của chú mày, đúng không?
Ông Hồ Hải nhìn sâu vào mắt Trần Hành, dường như ông muốn thăm dò sự thật qua ánh mắt của anh. Nhưng ông khá ngạc nhiên khi nét mặt Trần Hành không thay đổi, anh cười to:
– Người ta đồn đúng đó chú ơi, nhưng cháu coi nó giống y như con ruột của mình, mà con bé cũng thương cha nó lắm!
Ông Hồ Hải dường như có ý phục cách hành xử của Trần Hành:
– Chú mày đúng là dân xứ Quảng, tao chịu chú mày rồi. Nhưng sao bấy lâu nay tao không thấy vợ chú mày chửa đẻ gì hết, dù sao có được một thằng con của mình cũng có đứa đội khăn tang, quấn dây rơm mũ bạc khi mình chết chớ?
Là hàng xóm nên ông Hồ Hải không lạ gì cảnh nhà Trần Hành, ông nói huỵch toẹt ý nghĩ của mình giống như bao người lao động khác. Lần này Trần Hành sụp buồn:
– Chắc cái số vợ chồng cháu không có con, hai vợ chồng cũng đi cầu xin ơn trên ban cho một đứa con ở nhiều cảnh chùa nhưng đến giờ vẫn không được chú ơi. Mà cũng may có thằng cháu ruột con ông anh, thôi thì coi nó là con chớ sao hả chú?
Ông Hồ Hải nghiêm nét mặt, người ta không còn thấy vẻ bỗ bã trên nét mặt đượm chất hài của ông, ông nói:
– Thôi thì không có con cũng tốt, thời buổi bây giờ có con trai lớn lên là bị bắt đi quân dịch, biết sống chết ra sao với hòn tên mũi đạn?
Trần Hành giật mình với lời cảnh tỉnh của ông Hồ Hải. Phải quá, thời buổi gì mà ngày càng rối ren, đêm đêm tiếng súng vọng về khiến cho tim mỗi người thót lên, vẻ bất an hiện rõ trên gương mặt mọi người.
Trần Hành nói:
– Cháu ráng chạy vài bữa nữa đủ tiền mua tạ gạo trữ trong nhà, không biết hôm nay gạo bà Sơn Hà có lên không nữa?
Sơn Hà là một đại bài gạo cung cấp cho các đại lý trong thị xã và các quận chung quanh, là các quán tạp hoá bán đủ thứ nhu cầu thiết yếu của cư dân.
Ông Hồ Hải đồng tình:
– Nhà tao tới chục miệng ăn, mỗi tháng “sực” hết gần tạ gạo, tháng trước bà xã mua hai bao bố chỉ xanh mà nay thấy hụt hơn một bao rồi.
Bao bố chỉ xanh được những hãng buôn dùng đựng gạo, bao loại nhỏ chứa chừng tám chục kí lô, bao lớn hơn thì khoảng một trăm ky lô gam. Đó là những bao được dệt bằng sợi bố, loại sợi to như cây kim đan áo len số 1 được đánh dấu bằng những sợi nhuộm xanh bên hông bao, người ta hay gọi là bao chỉ xanh và mặc nhiên bao chỉ xanh được dùng làm đơn vị đo lường.
Bây giờ xe tải chở hàng ngày càng xuất hiện nhiều, những chiếc xe Thames chở chừng năm, sáu tấn đã cho về vườn, hiệu xe Desoto chở tới, tám, mười tấn đang được người buôn rau ưa chuộng. Từ xứ rau, những chiếc xe này chở xuống đồng bằng loại rau có nguồn gốc ôn đới, khi về lại chở đủ thứ hằm bà lằng cho cuộc sống của cư dân. Dĩ nhiên gạo là một mặt hàng không thể thiếu, nhiều khi người ta mua phải bao gạo bốc mùi thum thủm của loại phân cá ủ, đó là do bác tài chở hai mặt hàng này cùng một chuyến xe!
Trần Hành và ông Hồ Hải tiếp tục câu chuyện, lần này là “chính sự”. Ông Hồ Hải bắt đầu:
– Tao tiếc cái thời ông Diệm, cuộc sống lúc đó không giầu có gì nhiều nhưng yên bình hết sức!
Lời nói của ông Hồ Hải lọt thỏm vào khoảng không im lặng. Cả hai người, một già một chưa già lắm nhưng cũng ngấp nghé tuổi xế chiều, không ai nói với ai thêm điều gì nữa. Thời ông Diệm đã qua, giờ ông tổng thống thân xác đã về với cát bụi cùng với bào đệ, ông cố vấn Ngô Đình Nhu. Thời cuộc càng ngày càng rối ren, ban đầu dân thường cũng quan tâm đến chuyện “chính chị chính em” nên lo lắng lắm nhưng riết rồi cuộc sống với những diễn biến bất thường họ cũng quen dần. Đảo chính, chỉnh lý đó là việc các ông tướng trong quân đội làm, còn biểu tình, bãi thị, cảnh sát dã chiến bắn phi tiễn, sinh viên học sinh bãi khoá… là việc của người dân, họ đi biểu tình hay bãi thị ủng hộ học sinh, sinh viên bãi khoá, tất nhiên không phải ai cũng tham gia những việc này nhưng bầu không khí u ám bao trùm xã hội. Dường như tính tò mò của người dân được kích hoạt đúng lúc đúng nơi mang tính nghệ thuật lôi kéo đám đông mà người trong cuộc nào có hay. Cuộc sống ngày càng khó khăn khiến những người làm việc tay chân như Trần Hành hay ông Hồ Hải lo lắng, họ phải lo cho sự an toàn của gia đình mình trong đó cái ăn là mối lo đứng đầu, và gạo bao giờ cũng là thứ lương thực ưu tiên được mua khi họ có tiền bởi họ biết rõ rằng nhiều khi có tiền cũng chưa chắc có gạo để mua!
Trần Hành mang cảm xúc đó về lại xe mình khi ông Hồ Hải đến tài, ông đạp nổ máy dù trên xe mới có 6 người, ông sẽ “lượm hoa rơi” dọc đường. Nhìn gương mặt sạm đen của anh người ta thấy dường như phảng phất một nỗi ưu tư truyền kiếp.
Tối đó Hai nói với chồng:
– Mình à… chắc em có nghén!
9. Năm một ngàn chín trăm sáu mươi tám theo âm lịch là năm Mậu Thân, đây là một cái tết đặc biệt, người người miền Nam ăn tết trễ hơn người miền Bắc một ngày. Cho dù ra sao thì người dân Cây số sáu vẫn bận rộn chuẩn bị cho ngày tết theo hoàn cảnh của mỗi nhà nhưng chuyện gói bánh tét và trang hoàng bàn thờ, quét dọn nhà cửa sạch sẽ là những việc phải làm.
Cây đào đầu hồi nhà ông Hai Phong nở rộ đúng vào dịp tết, những cánh hồng phai lung linh trong gió xuân phô phang vẻ đẹp của tự nhiên lay động lòng người.
Trần Hành bây giờ là chủ gia đình, ông Hai Phong chú anh đã về với tổ tiên sau khi bị bệnh phổi, dù anh và bà thím đã gom góp hết tiền bạc trong nhà để lo cho ông Hai nhưng ông vẫn không qua khỏi.
Bà Hai nối gót theo chồng chỉ bốn mươi chín ngày, đúng ngày chung thất ông Hai. Bà bị “trúng gió”, người bà tím ngắt, khi Hai vô buồng thăm chừng thím thì bà đã ra đi từ hồi nào, miệng bà dường như đang nở nụ cười mãn nguyện.
Dân Cây số sáu đồn thôi là đồn về cái chết của bà Hai, người nói ông Hai về đưa bà đi để hủ hỉ cùng nhau dưới cõi âm. Người khác lại nói rằng ông Hai chết nhằm giờ trùng, họ dẫn chứng sau ông Hai là đến bà Hai, người kế tiếp sẽ là… ai? Không ai nhắc đến Trần Hành, hình như hàng xóm lo lắng cho bác tài xe lam hiền lành, chịu thương chịu khó nuôi nấng gia đình.
Gia đình Trần Hành giờ thêm người, con bé Lượm đã có em, Trần Hành đặt tên là cu Mót, anh giải thích với vợ đặt tên xâu xấu để những vị khuất mày khuất mặt không quở vì thằng Mót… đẹp quá. Nước da Mót trắng bóc, mũi cao, cặp mắt một mí nhưng mà rất to, tròng đen tròng trắng phân minh.
Lượm càng lớn càng xinh, nó phụ với má chiều chiều gói bánh để nửa đêm má thức dậy luộc, đến chừng khoảng gần sáu giờ sáng má kẽo kẹt gánh bánh ra ngã ba bán. Hai ngồi ké bên hông quán phở không tên của ông già người Bắc, nơi đó thuận lợi cho việc bán hàng bởi kế bên là bến xe lam, nơi Trần Hành vẫn ngồi đợi tài.
Hai không chịu bỏ gánh bánh lên xe chồng chở ra bến dù Trần Hành nói gì thì nói. Hai nại cớ rằng Hai đi bộ quen rồi, vả, khi đi ngang qua xứ Thánh Mẫu nhiều khi gặp người kêu mua bánh, Hai phân bua với chồng. Trần Hành cũng phải ra bến, ở cái bến tự lập này ai ra sớm thì đương nhiên là tài nhứt, người kế sẽ đậu xe bên cạnh không ai giành giựt với ai cả. Trần Hành thường ra bến sớm để chạy được nhiều tua, nhiều khi gà gáy lần thứ hai anh đã có mặt ngoài bến nên Hai gánh bộ cũng là chuyện phải đạo.
Người dân xứ đạo Thánh Mẫu làm ăn ngày càng tấn tới tuy đất vườn họ được chia ít hơn những cư dân đến xứ này trước đó. Miếng vườn mỗi nhà chừng chục mét chiều ngang kéo dài từ trên đường đến tới con suối nước róc rách chảy suốt ngày. Làm vườn thì biết bao nhiêu là việc, những việc cần nhiều người làm để kịp thời vụ như nỉa đất, xúc rò… đều bằng cơ bắp của con người nên chủ vườn phải kêu thêm “công”. Thường thì người chủ vườn mua bánh chưng cho người làm ăn bữa xế lấy sức mà làm tới tận trưa. Người dân xóm đạo này là người di cư từ miền Bắc, họ không bao giờ mua bánh ú cho dù nhưn bánh Hai vẫn dùng đậu xanh đánh nhuyễn, xào với hành phi thơm lừng, ở giữa cục nhưn, Hai thêm mấy miếng thịt ba chỉ ướp với tiêu, muối và hành tím để bánh thêm hấp dẫn. Người Thánh Mẫu chỉ thích bánh chưng, vậy nên ngoài bánh ú Hai phải gói thêm bánh chưng, lúc mới gói cái bánh không vuông vứt cho lắm nhưng coi cũng tàm tạm. Hai tắc lưỡi nghĩ thầm miễn sao bánh thơm ngon là được. Gói riết thì quen tay, bánh chưng của Hai ngày càng được người xóm đạo khen từ vẻ bên ngoài đến ruột bánh xanh màu lá chuối hột và đặc biệt là rất thơm ngon, vừa miệng.
Trước tết Hai bận tối mày tối mặt. Người ta đặt bánh tét bánh chưng bởi tin tưởng tay nghề của Hai nhưng Hai không dám nhận nhiều, Hai liệu sức mình như lời Trần Hành thường dặn.
Trần Mây và Trần Thị Lượm cũng giúp cho Hai những công việc như luộc lá, lau lá hay thêm nước vô nồi nấu bánh, thêm củi….
Xe lam cũng tăng chuyến để đáp ứng việc đi lại cận tết của bà con, thường thì vừa về tới bến ở ngã ba dù chỉ một vài người khách xe vẫn chạy khi đến tài, vậy mà chỗ ghế trống cũng nhanh chóng được lắp đầy trên cung đường từ Cây số sáu đến bến xe đường Minh Mạng với số khách đón dọc đường. Thiệt là tiện lợi, chỉ cần vẫy tay là chiếc xe tấp liền vô lề, nếu thùng xe chật cứng thì xin mời khách ngồi ké bên bác tài, khách đi xe vẫn vui vẻ, ngồi đâu chẳng được miễn là đi đến nơi về đến chốn….
Chuyến cuối cùng Trần Hành về đến nhà lúc nhá nhem mặt người. Trong nhà Hai cũng vừa giao đợt bánh tét cuối cùng cho khách. Dưới ánh đèn dầu Huê Kỳ, Hai vừa mệt mỏi vừa vui vẻ đếm những tờ tiền giấy in hình Đức Thánh Trần có chữ ký của hai người, là những ai Hai không biết mà chỉ thắc mắc thầm trong bụng và cũng không biết hỏi ai, có hỏi cũng chẳng để làm gì…
Thấy vợ đếm tiền, Trần Hành cũng móc túi gom hết tiền đưa cho vợ:
– Mình coi đếm giùm cho tôi, hồi chiều tôi mua tạ gạo đặng ra giêng còn có cái để ăn.
Hai ngước mắt nhìn chồng:
– Mình nhớ mua nếp và đậu cho em không, ra giêng em định qua rằm mới gói bánh lại nhưng trữ trước thì vẫn hơn.
– Có, tôi mua năm chục ký nếp Tùng Nghĩa với ba ký đậu xanh như mình dặn.
Trầm ngâm một chút Trần Hành nói tiếp:
– Thời buổi bây giờ không biết đâu mà lần, lúc nào cũng nghe tiếng súng, đám lính tráng thiệt là tội nghiệp, cứ vài bữa là thấy xe chở quan tài kẽm quàng xác lính chết trận… thôi thì mình ráng ăn ở có trước có sau thì Trời Phật cũng sẽ phù hộ độ trì được yên lành!
Hai không trả lời chồng, sự im lặng của Hai đồng nghĩa với việc Hai tán thành ý của chồng. Không biết nghĩ gì Trần Hành buột miệng nói tiếp:
– Trữ tạ gạo…nếu tôi có bề gì thì nhà mình cũng có cái ăn!
Hai nguýt chồng:
– Mình nói gì lạ vậy, người ta cữ lắm đó!
– Thì nói phòng xa vậy thôi, là tôi nghĩ đến chuyện thím Hai, ai biết được chuyện gì ngày mai hả mình?
Đúng vậy, bà Hai Phong vẫn bình thường sau buổi cúng chung thất của ông Hai, cho đến xế chiều bà kêu nhứt đầu, ê ẩm trong người bỏ vô buồng nằm không thiết ăn uống cái gì. Hai lo lắng, bà thím chồng chưa bao giờ bỏ ăn nên Hai đi bắt nồi cháo, Hai định bụng ra vườn hái lá tía tô, xắt mỏng hành tím để làm cho bà thím tô cháo giải cảm. Ai dè cháo chưa kịp nhừ bà thím đã ra đi!
Hai cúng rước ông bà về ăn tết từ trưa ba mươi, Hai chuẩn bị đầy đủ mâm cúng chờ Trần Hành về, anh sẽ thay bộ đồ kaki xanh màu cứt ngựa mà anh xin của đám lính nghĩa quân bằng một bộ áo dài đen, khăn đóng trước khi đốt nắm nhang thì thầm khấn vái trước bàn thờ.
Ảnh ông bà Hai Phong từ trên bàn thờ nhìn xuống đứa cháu với nét mặt trầm lặng phảng phất vẻ hài lòng.
Đêm trừ tịch, Trần Hành cúng giao thừa, trong nhà Hai cũng vừa ra khuôn bánh thuẫn cuối cùng, mấy đứa nhỏ ngồi quanh bên Hai phụ làm những việc vặt. Mùi bánh thơm lừng trong không khí khiến Trần Hành nhớ quê mỗi khi tết đến, bánh thuẫn không thể thiếu được trong nhà người Quảng….
Khi Trần Hành cắm nhang vào bát thì tiếng pháo bắt đầu nổ. Mở đầu là một tràng pháo hình như từ nhà ông Tám cách nhà Trần Hành chừng dăm chục mét, tiếng cuối cùng là một trái pháo tống nổ đanh gọn khiến cửa kính nhà Trần Hành cũng rung rinh.
Cứ như vậy ba bên bốn bề tiếng pháo râm ran, xen lẫn vào đó là tiếng súng của đám lính cũng phụ hoạ theo. Trần Hành dễ dàng nhận ra tiếng súng M 16, là kiểu súng đời mới của khẩu AR 15, tiếng nổ của loại súng này nhanh, cứ roèn roẹt một tràng dài.
Trần Hành cũng đốt một phong pháo anh mua hồi đầu tháng chạp. Dường như tiếng pháo không thể nào thiếu khi đón năm mới, mùi thuốc pháo nồng đậm trong đêm trừ tịch mang một chút thiêng từ ngàn năm cũ đến hiện tại cho dù chiến tranh cũng mang khuôn mặt của tiếng nổ đe doạ sinh mạng con người….
Đến hơn ba giờ sáng ngày mùng một Trần Hành vẫn nghe tiếng súng vọng về từ nơi nào đó trong thị xã. Ngoài tiếng nổ oành của lựu đạn hay mìn Claymore, tiếng súng M16 xoèn xoẹt liên miên bất tận xen kẽ vào đó là tiếng “cắt bụp” đanh gọn. Trần Hành giật nẫy mình khi nghe tiếng “cắt bụp” đầu tiên. Không thể lầm tiếng súng này với các loại súng khác, nó vừa dõng dạc lại vừa đe doạ khiến người ta liên tưởng đến tiếng gầm của chúa sơn lâm mỗi khi lên tiếng… Đó chính là tiếng súng AK!
– Đánh nhau rồi mình ơi!
Trần Hành lay vợ, lúc này Hai đã ngủ sâu bởi quá mệt trong những ngày cuối tháng chạp. Hai hỏi:
– Gì vậy mình… để em ngủ chút đi!
Phải một lúc sau Hai mới ý thức được tình trạng hiện tại trong tết Mậu Thân này.
Sáu giờ sáng ngày mùng một, Trần Hành mở radio dò tìm đài BBC, tiếng phát thanh viên loan báo “đêm giao thừa tết Mậu Thân Việt Cộng tấn công trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Cộng hoà….”.
Nhà Trần Hành tiếp đoàn người chạy nạn chiến tranh từ trong nội ô thị xã vào ngày mùng ba, anh nhường nhà dưới cho một gia đình đến chín người lớn nhỏ. Họ đến Cây số sáu này trên hai chiếc Honda 67 và một chiếc xe đạp đòn dông. Đồ đạt đi theo người là một ít gạo, bánh tét, nồi niêu soong chảo còn đen màu lọ nghẹ. Trần Hành nói:
– Thời buổi chiến tranh ông anh cứ ở tạm nhà tui, chỉ tội tụi nhỏ và hai ông bà già bị lạnh, thôi thì tôi có hai tấm chiếu nhà ông anh trải nằm tạm.
Hai đem từ nhà xuống hai tấm chiếu được dệt bằng những sợi cói nhuộm phẩm xanh đỏ, hai dòng chữ “Loan phượng hoà minh, sắc cầm hoà hiệp” còn lờ mờ trên tấm chiếu bạc màu thời gian. Đó là một cặp chiếu tân hôn!
Hai còn đem xuống nhà ông Nghĩa hai cái mền rách, Hai lộ rõ vẻ mặt khó xử nhưng lại bắt gặp đôi mắt biết ơn của vợ chồng ông Nghĩa.
Chiến tranh không phải là chuyện giỡn chơi, chuyện cơm ăn hàng ngày là một chuyện hàng đầu. Tuy có tạ gạo trong nhà nhưng ai biết được chừng nào thì tình hình mới yên để những chuyến xe Desoto có thể về đồng bằng chở gạo lên bán cho người xứ núi?
Hai nói với chồng ý nghĩ đó, hai người bàn bạc một hồi lâu trong đêm mùng ba tết không yên tĩnh, tiếng súng vẫn rộ lên từng hồi, bất ngờ tất cả lại chìm trong im lặng để một lúc sau những hoa lửa lại vẽ trên nền trời những quỹ đạo của Thần Chết.
Hai bắt đầu cắt giảm phần ăn, mỗi bữa ăn chỉ còn nửa phần gạo, chỗ thiếu lấy rau bù vô. Những đám sú không kịp bán trong tết bây giờ mằm khô khốc trong vườn, chủ vườn cho không ai muốn lấy bao nhiêu thì lấy.
Ông Tám hàng xóm với nét mặt hớt hơ hớt hải đẩy mạnh cánh cổng gỗ khép hờ nhà Trần Hành, lúc này Trần Hành đang ngồi bó gối trên bộ phản ở nhà trên. Ông Tám kêu to:
– Chú Hành ơi có nhà không?
– Có chuyện gì không bác Tám, bác vô nhà uống chén nước cái đã?
Ông bà H.H. là một gia đình giàu có, họ có cả đoàn xe Desoto chở rau về miền đồng bằng bán và chở nhu yếu phẩm về thị xã Đà Lạt bỏ mối cho các đại bài.
Ông bà H.H. xây một ngôi biệt thự trên đường Bạch Đằng giáp với Cây số bốn là một khu dân cư đông đúc. Ngôi biệt thự ngạo nghễ nhìn xuống con đường tráng nhựa, vẻ hào nhoáng bên ngoài như được tôn lên gấp nhiều lần vì nhà cửa của dân chung quanh vốn đa phần là nhà ván, ai khá hơn một chút thì xây nhà bằng những viên ất lô chưa tô còn lộ rõ mạch hồ đầy cát.
Gia đình ông bà H.H. dọn về nhà mới cuối tháng chạp, họ dọn đúng ngày ông thầy Mười Hiệu chọn. Năm cùng tháng tận, ông bà H.H. chưa kịp làm tân gia mừng nhà mới như tục lệ, có lẽ ông bà định ra giêng ngày rộng tháng dài sẽ mời thân hữu, bà con lối xóm một bữa tiệc mừng nhà mới thiệt là rôm rả?
Nhưng người tính không bằng trời tính. Đêm ba mươi đúng ra là đêm hưu chiến nhưng chiến sự lại nổ ra đúng vào giây phút thiêng liêng trong dịp tết.
Cây số bốn trong năm Mậu Thân bị bỏ bom tan thành bình địa. Nhà ông bà H.H. cho dù cách Cây số bốn mấy trăm mét cũng bị vạ lây, một trái bom thả trúng ngôi biệt thự tạo thành một hố hình nón lộn ngược, ngôi biệt thự đẹp đẽ mới xây chỉ còn trơ lại một bức vách và cái cầu thang dẫn lên tầng hai.
Người dân Cây số bốn và Cây số sáu bàn tán hoài về chuyện ngôi biệt thự bị biến mất trong tết Mậu Thân với vẻ thảng thốt còn nguyên trên gương mặt cho dù chuyện họ bàn tán xảy ra cũng khá lâu rồi. Một chi tiết càng khiến cho câu chuyện thêm phần bi thảm: ngay lúc trái bom chạm đất, một chiếc xe Lambro chạy ngang qua, trong xe ngoài tài xế còn có một sản phụ và một người đi cùng.
Trong khói bom cay xé mắt, thân xe bay xa rớt xuống lòng thung dưới đường chổng vó lên trời, bảng số xe EC – 2367 trên cái dè phía trước vẫn còn rõ ràng màu đen trên nền sơn trắng!
Chiếc Lambro của Trần Hành.
Hai khóc đến không còn nước mắt với cái chết của chồng. Bây giờ Trần Hành đã vùi thân xác vào cát bụi, một chút hình hài của anh cũng không tìm thấy. Hai đau đớn với điều này nhứt, Hai chỉ biết đem cái dè xe còn in mấy chữ số EC – 2367 về nhà để trong cái tủ buffet đặt trên phòng khách cạnh bàn thờ.
Mỗi tháng vào ngày rằm và mùng một, Trần Mây đều lau dọn bàn thờ. Bao giờ Hai cũng đi lên phòng thờ để coi đứa cháu làm công việc của người đàn ông trong nhà, đó là cái quy định bất thành văn từ ngày ông Hai Phong còn sống. Hai nói:
– Mây à, hồi chú con còn sống chú hứa ra tết sẽ dẫn nhà mình về thăm quê mà bây giờ thì…
Hai khóc.
Quê nhà giờ chỉ còn là sương khói.
26/11/2021
Võ Anh Cương
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thi pháp mảnh vỡ và tâm thức cội nguồn trong thuồng luồng mắt biếc của Nguyễn Minh Nữu

Thi pháp mảnh vỡ và tâm thức cội nguồn trong thuồng luồng mắt biếc của  Nguyễn Minh Nữu Trăm năm cuộc lớn nguyên là mộng Một ngọn đèn con bi...