Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2025

Chuyện kín bên núi Vân Yên

Chuyện kín bên núi Vân Yên

Giai nhân lạc địa ủy kim điền
(Nhữ Công Chân)
Đức vua cho rằng cung nhân trong hoàng cung không ai thông tuệ bằng Điểm Bích. Thượng hoàng Anh Tông khi làm thơ, thường gọi nàng đến mài mực, viết xong lại đọc cho nàng nghe. Chữ Điểm Bích cũng đẹp. Có lúc, Thượng hoàng mải nghĩ thơ, sai nàng chép luôn bài thơ cho mình, rồi khi về đến phòng ngủ mới xem lại, sửa chữa rồi chép lại trong tập Thủy Vân tùy bút. Một bữa, cao hứng, làm xong bài thơ Vân Tiêu Am, Anh Tông đọc cho Điểm Bích nghe:
Am Vân Tiêu
Vòi vọi núi vươn như lọng hoa
Bụi trần đâu vướng động tiên sa.
Đỉnh cao chót vót người nương đạo,
Gió mát trăng thanh, bạn đó mà...
Gió mát bốn mùa lay lá biếc,
Trăng thanh lãng đãng tưởng băng nhòa.
Trăng đây, gió đấy, người đây nữa,
Tuyệt diệu càn khôn, xứng cả ba...
Vua đọc xong hỏi:
- Điểm Bích thấy thế nào?
- Thần thiếp cảm thấy Thượng hoàng lại yêu cảnh Thiền hơn triều đình bá quan rồi.
- Nàng nói thế có ý gì?
- Nhà Trần ta, đức Thái Tông là một bậc minh quân từng chiến trận ở vùng Tam Đái thấy máu chảy thành sông mới ngăn nổi được vó ngựa của Ngột Lương Hợp Thai. Vậy mà cuối đời Ngài Ngự lại viết Khóa Hư Lục, bàn về thuyết Sắc Thân, tưởng đến chân kinh, văn khí, diệu đế cũng chỉ đến thế. Ngài Điều Ngự Giác Hoàng Nhân Tông từng có câu thơ khắc lên trời xanh: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã. Sơn hà thiên cổ điện kim âu”, vậy mà sau khi đất nước thanh bình lui về Yên Tử say thiền, nghiền ngẫm về chân thân, phép nhiệm mầu của đạo Phật, lập ra Tây phái Trúc Lâm, các vị cao tăng, đại đức, hòa thượng, tỳ khưu, sa môn đều nể trọng. Gần đây, thần thiếp thấy Ngài Ngự thường khuyên nhủ các cung nhân ăn chay, nay được nghe thơ, càng thấy Hoàng thượng lại muốn học theo ý của cha ông thuở trước.
Anh Tông thở dài:
- Ta sợ không có cái duyên với đức Phật như các vị tiền bối. Nhưng biết thế nào. Có đứng trước am Vân Tiêu này mới thấy, có gần trời mới hiểu thêm trời, gần gió mới hiểu thêm gió, gần trăng mới hiểu thêm trăng, gần núi suối mới hiểu thêm núi suối. Thế là người có gần vũ trụ mới thấy hết được vẻ đẹp tuyệt vời của vũ trụ. Ta thèm được như thế, mà chắc duyên nợ trần gian cũng còn nặng.
Ngừng một lát, Anh Tông nói:
- Nàng có nghe tiếng sư Huyền Quang chưa?
Điểm Bích thưa:
- Đó có phải là thiền sư ở chùa Vân Yên?
Anh Tông gật đầu:
- Đúng vậy. Người này họ Lý, tên là Đạo Tái, chín tuổi đã biết làm thơ văn, rất thông tuệ, học một biết mười, đương thời coi như Nhan Hồi của Đại Việt. Năm hai mươi tuổi Đạo Tái thi hương, thi hội hai khoa đều đậu cao, nhưng chỉ thích làm học quan, san nhuận kinh sách để ban bố dạy học trò. Sau treo ấn từ quan, muốn xuất gia. Đạo Tái được ban pháp danh Huyền Quang, theo học thiền sư Bảo Phác. Năm ta đến chùa Vĩnh Nghiêm nghe Pháp Loa thuyết pháp, qua chùa Bảo Phác có đem Huyền Quang theo. Lúc này ông ta đang chiêm nghiệm về kinh kệ nên rất ít nói.
Điểm Bích hỏi:
- Huyền Quang thi cử chỉ là để cho thiên hạ biết tài học của mình. Thuần nhuần giáo lý đạo Nho mà không theo đường của Mạc Đĩnh Chi, Đoàn Nhữ Hài. Thần thiếp nghe nói, khi tại triều, có tước vương đã yêu quý, định làm mối cho công chúa Liễu Nữ, cháu gái xa An Sinh vương Trần Liễu, ông cũng từ chối. Người thanh cao, phong nhã mà chẳng hề nghĩ đến việc lập tổ uyên ương. Hay là tiền kiếp tu chưa viên thành, nên kiếp này Phật độ, muốn đưa về nương cõi Phật.
Anh Tông hỏi:
- Nàng nghĩ việc này thế nào?
- Thiền, Nho, Lão là ba thứ đạo luôn luôn được những người thức giả đắm đuối học hỏi và đào tìm nghĩa lý. Có lúc say Nho, chê Thiền, chê Lão. Có lúc lại thấy Thiền mới là chỗ để mở lòng đến với cõi người và trả oán trả ân với kiếp sau kiếp trước. Có lúc thì thấy Lão mới thật là hiểu hết nhẽ nhiệm mầu của Tạo Hóa...
- Nàng khoe chữ nghĩa với ta đó ư?
- Thần thiếp thật đắc tội, song ý thần thiếp muốn nói Huyền Quang từ Nho chuyển sang Phật, nhưng tâm nào đã hết Nho. Mùi đời lắm lúc cũng quyến rũ lắm.
Anh Tông, mắt sáng lên, thoáng có một ý nghĩ độc đáo.
- Ta muốn mượn cửa Phật để thử Huyền Quang. Nàng có giúp ta chăng?
- Xin Ngài Ngự ban ý chỉ!
- Nàng hãy đến chùa Vân Yên, thử xem Huyền Quang là một thiền sư hay một văn nhân tao nhã, chưa tìm được ý trung nhân. Ta muốn nàng đến xem Huyền Quang có xiêu lòng không?
- Thần thiếp đang chẳng là cung tần của hoàng cung sao? Sự việc vỡ lở ra, thiên hạ nghĩ thế nào?
Anh Tông nói:
- Ta sai nàng đi kia mà! Nàng phải cải trang, còn ai biết là Điểm Bích nữa. Vả lại, nếu Huyền Quang đã là một bậc chân tu, thì nàng chỉ làm sáng danh cho ông ấy. Hơn nữa, để được giai thoại cho đời sau, há chẳng hay ư. Nhược bằng, nàng quyến rũ được Huyền Quang thì cũng là bậc trai tài, gái sắc. Ta sẵn lòng nhường, nếu quả như thế thì phải tìm cách, để một Điểm Bích sẽ biến đi trong hoàng cung mà mọi người đều tin theo thôi. Ý nàng thế nào?
Điểm Bích thấy vua đã hào hứng, vả lại nàng củng muốn rời hoàng cung đi ngao du một chuyến, liền dịu dàng nhận lời.
Chia tay với nàng Điểm Bích ở bến đò Bình, viên đội trưởng và toán thị vệ quay về triều. Nàng vào một bụi cúc tần, thay quần áo. Lúc sau đã thành một thôn nữ, khoác tay nải màu đà, vội vã đi về phía Yên Tử.
Phải đến tối giáp mặt, nàng mới đến chùa Vân Yên. Nghe tiếng chó cắn, một ni sư đứng tuổi ra mở cửa thiền. Điểm Bích thưa:
- A di đà Phật! Con từ xa đến, xin nhà chùa nhón tay làm phúc, cho nghỉ lại được chăng!
- Mô Phật! Nhà chùa đâu dám từ chối khách thập phương, chẳng hay cô có việc gì mà lần mò vào chỗ tre trúc rậm rì, người ở cùng rắn rết muông thú này.
Điểm Bích trầm mặt xuống, buồn rượi. Ni sư thở dài:
- Cõi trầm luân mỗi người một cảnh. Sầu não, đau khổ nào có chờ ai. Đêm khuya mất rồi. Phận đàn bà bước ra khỏi nhà một bước chân là nguy hiểm lắm. Thôi con vào đây!
Điểm Bích vào chùa. Nàng nghỉ lại đêm, hôm sau buồn bã, bịa ra một biệt cảnh mà thân phận mình phải gánh chịu, ni sư cả tin, mủi lòng. Sư nói:
- Ta xem con là người khuê các, đẹp người, đẹp nết, nông nỗi nào đến nỗi phải rời bỏ giàu sang, phú quí mà đi.
Điểm Bích thưa:
- Con yêu một người. Chàng là một bậc phong lưu công tử, thông minh, tài cao, học rộng. Con hy vọng chàng sẽ thương mình hết lòng, như đã thề dưới vầng trăng vằng vặc. Chẳng dè khi chàng đạt tới đỉnh vinh quang, giàu sang, chàng lại chọn nơi quyền quý để sánh đôi. Chàng bắn tin chỉ cưới con làm thiếp. Cha mẹ con thấy chàng là tột bậc quí hiển, ép con lấy chàng. Nhưng con vốn là người tự trọng, nên quyết tìm nơi cửa thiền xuống tóc, quên hết lẽ đời. Con xin thầy thưa với sư thầy ngôi cao, cho con được thụ giáo.
Ni sư càng tin. Gần nàng, thấy tính tình đoan trang lại thông tuệ, chữ đẹp, xem kinh hiểu nhanh, không cần giảng thêm, sư quý lắm, liền thưa chuyện với Huyền Quang. Sư ông liền cho đến tiếp kiến. Tuy nàng đã ăn mặc áo nhà chùa, nhưng nhan sắc vẫn sáng rực giữa nơi lều tranh, giường gỗ, ghế mây, trên án chỉ toàn kinh kệ. Huyền Quang thoáng nhìn nàng, rồi vội nhắm nghiền mắt lại không nói gì nữa. Điểm Bích thưa:
- Bạch thầy, bữa qua ni sư có cho tiện nữ đọc lời của đức Trần Thái Tông, có bàn thêm về việc Đức Thích Ca Mâu ni thuyết pháp ở Bàn Sơn, con đọc thấy lời văn bừng bừng trong huyết quản.
Huyền Quang vẫn nhắm mắt hỏi:
- Con thích đoạn nào?
- Dạ đoạn này ạ!
Rồi Điểm Bích đọc to lên: “Hoa vàng rờ rỡ, không đâu không là tâm-bát-nhã, tre tím xanh xanh, không đâu không là lý-chân-như. Nhổ cỏ dại hiện bản lai diện mục. Hồi đầu cưỡi ngựa sắt mà về, xỏ mũi trâu bùn đi bước một. Không lấy một pháp trong vạn pháp làm bạn thi đâu còn sở đắc nào? Phật cũng không, tâm cũng không. Chân cũng đúng mà giả cũng đúng. Ngoài cửa tam yếu dù hét “Hai” cũng là “Ba”, đầu đường thập tự có hò “Chín” cũng là “Mười”. Lấy sáo không lỗ tấu khúc vô sinh, dùng đàn không dây, gảy bài khoái hoạt.
Ai ai mà không là tri âm
Đâu đâu lại chẳng là bè bạn!
Một con đường hướng thượng ấy, làm sao ta hiểu được. Hãy nghe kỹ, nghe kỹ. Ai nghe lọt được thiền ngữ ấy thì tai sẽ bị ba ngày điếc đặc. Nếu nghe lọt, há lại bỏ đi hay sao? Bài vì nơi nào cũng có cây dương xanh có thể buộc ngựa, nhà nào cũng có con đường dẫn về kinh đô.
Đường về dưới nguyệt ít ai đến,
Một ánh trăng khuya lạnh khắp miền.
Điểm Bích nói:
- Bạch thầy, lời thuyết pháp như thông reo, suối chảy, trăng sáng đầu non, mặt trời hồng sau núi.
Huyền Quang nói, mắt vẫn nhắm nghiền:
- Mô Phật. Ta thì ta thích đoạn này khi Đức Phật Tổ bàn về hướng thượng. Đó là lời thùy ngữ cùa Bàn Sơn: “Một con đường hướng thượng, ngàn thánh cũng không truyền; học giả vì vậy mà khổ công nhọc mình như con vượn tìm bắt bóng của nó. Này các thầy sa môn, hãy hướng về đầu nẻo ấy mà tham thủ, hớp lấy ý thiền. Mà các thầy làm sao tham thủ được thiền ý ấy? Nếu có chủ tâm tham thủ và trở thành đối tượng tham thủ thì cũng như anh chàng gàn điên kia, trên đầu lại muốn có thêm một đầu, sau lưng lại muốn có thêm một đuôi, trong mắt lại muốn có thêm một con ngươi, trên da thịt lại muốn có thêm một cục bướu”.
Điểm Bích thành thực hỏi:
- Bạch thầy, con chưa hiểu!
- Giác ngộ phải chân tâm. Muốn tham thủ được thiền ý ở núi Bàn Sơn, thì lòng phải không tơ bợn chút gì, thì mới ngộ được. Ngay cả thích sớm hiểu hơn người cũng tức như trên da thịt mọc thêm bướu vậy.
- Bạch thầy, con đã hiểu!
Điểm Bích vái thầy rồi lui. Huyền Quang vẫn nhắm nghiền mắt.
Sư đã tin cậy Điểm Bích. Huyền Quang đã trao cho nàng chép những lời thầy giảng về kinh Tam Tạng, kinh Kim Cương. Một bận thấy tập thơ Thiền của Huyền Quang đặt trên chõng tre, Điểm Bích đánh bạo nói:
- Con đã nghe tiếng văn chương của thầy lưu truyền ở kinh thành. Xin thầy cho phép con được thưởng thức những vần thơ bên suối, dưới chân khe, vui cùng non xanh nước biếc của thầy.
Huyền Quang lưỡng lự, sau cũng trao cho Điểm Bích rồi nói:
- Ở đây kinh kệ đã sẵn nhưng thơ trước thì ta chẳng còn đem theo tập nào. Lắm lúc lòng người cũng cần đến thơ như phật tử nương vào kinh kệ, do đó, ta tự làm, tự đọc thôi. Con muốn xem thì xem.
Điểm Bích đem về đọc hết, rất phục tài Huyền Quang, lại chép hết vào trong quyển sách riêng của mình. Một tháng sau mới đem trả.
Sư hỏi:
- Con thích những bài nào?
- Bạch thầy, về thơ thiên nhiên con thích các bài Sơn vũ (Mưa núi) Chu trung (Trong thuyền). Còn về thơ họa thì con thích thơ mai và thơ cúc.
- Mai và cúc cũng có nhiều bài. Con thích cả ư?
- Mỗi bài hay một vẻ. Nhưng bài để lại nhiều âm vang là hai hài này. Con đã dịch sang Nôm, xin được đọc thầy nghe.
Hoa Mai
Muốn hỏi trời xem quê xứ hoa! Non xanh, muôn cánh tuyết bừng ra. Hái về, đâu để nhìn không chán! Muốn mượn hương xuân chữa bệnh già!
Hoa Cúc
Quên thân, quên thế đã rằng quên! Giường thô, thanh thản cứ ngồi bền. Năm tàn, đất núi, đâu ra lịch. Đến tết Trùng Dương, cúc nở bên.
Huyền Quang khen:
- Lời dịch thoát lắm.
Nhân lúc thấy sư cao hứng, Điểm Bích gặng:
- Con nghe nói, thầy từng ngâm thơ ở vườn thượng uyển, lúc vinh qui. Bây giờ, xin thầy ban cho con được nghe giọng thầy qua một bài thơ thầy thích!
Huyền Quang nhìn Điểm Bích rồi nhắm mắt lại, cất tiếng ngâm:
Vằng vặc trăng mai ánh nước, Hiu hiu gió trúc ngâm sênh. Người hòa tươi tốt cảnh hòa lạ. Mâu Thích Ca nào thuở hữu tình!
Điểm Bích cảm động ngước nhìn sư. Huyền Quang đã chìm đắm trong cõi Hư vô để tìm cõi Giác.
Ni sư vào bạch với Huyền Quang:
- Bạch thầy, tín nữ Điểm Bích nhà có việc buồn. Mấy bữa nay kinh kệ biếng, ủ rũ, âu sầu, chỉ ngồi khóc.
- Hay là cô ta muốn trở lại kinh thành. Sư ni hãy mời cô ấy đến gặp ta!
Điểm Bích đến, chào thầy, cúi mặt có vẻ ngượng ngùng. Huyền Quang nói:
- Con muốn quay về với chỗ trần gian hỗn độn ư?
- Bạch thầy, số con vẫn chưa tròn công quả. Con cũng muốn ở đây theo học thầy, nương nhờ cửa Phật song bữa nọ xuống núi, được thư nhà, thấy cha mẹ con từ lúc con bỏ đi, thương con ngã bệnh, nhà lại bị hỏa hoạn, gia sản mất sạch sành sanh. Hiện nay không biết phiêu bạt nơi đâu? Do đó, bồn chồn không yên... Nghĩ đến chữ hiếu chưa trọn, nghĩ đến chuyện người đứt ruột sinh ra mình, không thể đừng được. Do tâm không được tĩnh nên lòng đã thác loạn. Con xin thầy lượng thứ!
Huyền Quang nhìn Điểm Bích mà nói:
- Tu hành đâu phải muốn là được, âu cũng là duyên giác. Đạo huyền diệu khó hình dung, không thể dùng văn tự mà lĩnh hội được.
Điểm Bích bối rối thật sự. Thời hạn của Anh Tông hẹn cho nàng đã hết. Những câu chuyện nàng đã đến gần được Huyền Quang, sư đã ân cần với nàng, đưa cả thơ cho nàng dịch, ngâm thơ cho nàng nghe, khéo kể, vua dẫu nghe, chưa hẳn là chứng lý tốt với “trò chơi của vua và nàng” để lôi kéo Huyền Quang về cõi tục. Cần phải có vật riêng quý của sư tặng cho nàng, lúc đó thì Anh Tông mới không thể không tin nổi. Nàng nói:
- Bạch thầy, đường xa thân gái, lộ trình về kinh thì xa. Thầy thương con, thầy có thể giúp con chút bạc vụn hay tiền gạo ăn đường được chăng?
Sư nghĩ một lát rồi nói:
- Ta đã xa sự nổi chìm phiền não của sự đời, nên mượn mây, núi mà tìm học theo chân Phật Tổ. Khi đi, trên mình ngoài vài bộ quần áo thiền, không mang theo chút gì. Song có một vật vua ban ngày trước, nhớ những ngày luyện chữ, tìm câu, soạn sách, bình văn để được đứng đầu sĩ tử, dạo phố xem hoa, đó cũng là những ngày thanh sáng. Nay đã giác ngộ được thiền học, giữ làm gì nữa, ta sẽ ban cho con.
Nói rồi đưa tay lên hốc cột, lấy nén vàng vua ban, đưa cho Điểm Bích.
Điểm Bích mừng lắm, ngày đêm đi về kinh đô. Nàng được gọi vào chầu ngay. Điểm Bích lên chùa Vân Yên mấy tháng, dáng vóc lời nói đã dè dặt, điềm đạm của người thiền, song khi gặp vua, nàng không khỏi cảm động và hồi hộp.
Điểm Bích đã sẵn lời tâu để vua vui lòng. Khi nàng đặt nén vàng vua ban cho Huyền Quang lên trên án, Anh Tông sửng sốt thốt lên:
- Ta đùa hại sư tổ mất rồi! Bởi tin sư tổ là người hơn đời, bởi để thử Điểm Bích có yêu ta, vì ta làm tất cả những điều khiến ta vui lòng, ngờ đâu kết quả ngược lại. Ta mắc tội “giăng bẫy bắt chim”, và sắc đẹp đã làm nao núng một bậc cao tăng ư?
Điểm Bích đã trót dựng ra câu chuyện rồi, ngồi im không nói một điều gì nữa! Vua vẫn chưa tin, liền cho triệu Huyền Quang về để chủ trì lễ hội Vô Già.
Huyền Quang phụng mệnh về ngay. Khi đến đàn tràng sắp vào cúng thì thấy đồ lễ bày hương, hoa, quả mới, xen với cỗ mặn. Cạnh cờ phướn lại có cả màn gấm, quạt là... Trên đĩa công đức lại có nén vàng, đúng là nén vàng mình đã cho Điểm Bích. Huyền Quang thông tuệ, hiểu ra sự việc: Điểm Bích lên chùa Vân Yên chính là do vua sai đến thử mình.
Sư nhắm mắt, nhập thiền, lòng hướng về Trời, Đất, Thần, Phật, thanh sáng như mình hằng có, điềm nhiên hành lễ. Sau khi tụng hết kinh bổn, sư mặc áo cà sa, cầm thiền trượng ngửa mặt khấn trời đất. Sẵn trên đàn có cành dương xanh, bình ngọc trắng, liền nhúng cành dương vào nước trời trong bình, vẩy lên khắp đàn tràng, miệng tự buột ra hai câu kệ:
Mạc giáo mộng trung tầm trí thức
Tương lai diệu thượng đỗ sư nhan
(Cần chi tìm lại mình trong mộng
Phật của tương lai, ấy kiếp mình).
Lòng thành của sư đã cảm hóa Trời Phật. Giông tố ở đâu đùng đùng kéo đến. Sau những phút hỗn độn, sấm rung sét nổ, những cỗ mặn, thoi vàng, màn gấm, quạt là bị cuốn đi đâu mất, chỉ còn trên đàn tràng, hương nồng của nhang, vị tinh khiết của hoa thơm quả tịnh.
Anh Tông biết là Điểm Bích để đẹp lòng mình, đã dựng chuyện vu cho sư. Đức vua đến, tạ lỗi với Huyền Quang và xin sư tổ đại xá. Huyền Quang tạ ơn vua, chỉ nói:
- A di đà Phật!.
1998
Ngô Văn Phú
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tôi học Tiếng Việt

Tôi học  Tiếng Việt Năm 1977, ở Mỹ mới được hai năm, nhà thơ Cao Tần, trong bài “Chốn tạm dung”, đã lo: “Tiếng Việt trong ta ngày mỗi héo”. ...