Bên tách trà Xuân, cảm thức
thời gian trong thơ Lê Vĩnh Thái
Qua từng câu thơ, Lê Vĩnh Thái không chỉ kể câu chuyện của riêng mình, đồng thời mở ra những cánh cửa dẫn vào tâm thức của một thế hệ lưu lại dư âm đầy cảm xúc cùng nỗi niềm suy tư trong lòng người yêu mến thơ ca.
Xứ Phú Bài, đất Thủy Phù thuộc Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế
(nay là thành phố Huế, trực thuộc Trung ương), nơi chôn nhau cắt rốn của Lê
Vĩnh Thái – người thầy dạy học và cũng là thi nhân, – lúc vừa tròn 17 ngày tuổi,
quê hương ông chấm dứt chiến tranh, tái lập hòa bình. Sông Hương, núi Ngự nuôi
dưỡng và hun đúc khí chất Huế – rất Huế trong tâm hồn Lê Vĩnh Thái: trái tim
yêu thương và tấm chân tình đầy quả cảm đối với tha nhân. Ông lớn lên và trưởng
thành thời hậu chiến – những được mất, sự đổ vỡ và đứt gãy trong mọi mặt đời sống,
thử thách cả con người lẫn xã hội.
Trong bối cảnh ấy, Lê Vĩnh Thái đã tìm thấy nguồn cảm hứng
sáng tạo, lặng lẽ chưng cất nỗi niềm và ký ức của mình thành những thi phẩm
mang đậm dấu ấn riêng. Những tác phẩm của ông đã xuất bản, như Ký ức xanh (2004), Ngày
không nhớ (2010), Trôi cùng đám cỏ rẽ (2013),… đã khắc họa một
tâm hồn trăn trở với thời cuộc, với đời sống, và đầy ắp tình yêu đối với cõi
nhân sinh.
Gần đây nhất, tập thơ Khúc rời những con chim quên tổ (NXB Thuận Hóa, 2024) ra đời như sự hun sâu đúc lắng bằng kết tinh tâm hồn và tư duy nghệ thuật của thi nhân họ Lê. Đây không chỉ là dấu mốc khẳng định bước tiến trong thi pháp của anh, còn là lời thì thầm sâu sắc về những nỗi niềm, khát vọng vượt thời gian, chạm đến trái tim người đọc. Qua từng câu thơ, Lê Vĩnh Thái không chỉ kể câu chuyện của riêng mình, đồng thời mở ra những cánh cửa dẫn vào tâm thức của một thế hệ lưu lại dư âm đầy cảm xúc cùng nỗi niềm suy tư trong lòng người yêu mến thơ ca.
Cảm thức thời gian: cái tôi trữ tình và sự phản tư
Thời gian vừa đặc điểm tư duy vừa phương diện nghệ thuật được nhận thức và theo đó, phản ánh đời sống ngoại tại. Song, thời gian không phải một phương diện trương độ khách quan. Nhất là, với người nghệ sĩ, thời gian là cảm thức – đúng hơn, cảm thức thẩm mỹ. Đồng thời, sự cảm ứng của người nghệ sĩ về thời gian biểu hiện lối tư duy nghệ thuật và cũng biểu hiện một cảm quan về thế giới xung quanh. “Thời gian nghệ thuật trong văn học không phải giản đơn chỉ là quan điểm của tác giả về thời gian mà là một biểu tượng, một tượng trưng, thể hiện một quan niệm của nhà văn về cuộc đời và con người. Cuộc đời có thể như chớp mắt, như giấc mộng. Cuộc đời có thể chỉ là cuộc đày ải vô tận. Cuộc đời có thể chỉ như con thoi đưa mà không có sợi chỉ, hoàn toàn vô nghĩa. Cuộc đời có thể là cuộc hành quân đi tới tương lai hoặc dẫm chân tại chỗ…Như vậy ý thức về thời gian là ý thức về sự tồn tại của con người, phát hiện về thời gian giúp người ta nhận thức sâu hơn về cuộc sống”[1]. Cảm thức thời gian đồng thời nói đến hai chiều kích phóng vượt: về phía tự thân và về phía đời sống, trong đó có tha nhân. Do vậy, nhìn từ phương diện cảm thức thời gian, bạn đọc có thể nhận diện thế giới nghệ thuật của thi nhân.
Như sự phóng chiếu vào tự thân, trong thơ Lê Vĩnh Thái, hiện
tại là khoảnh khắc cô đơn đến tận tuyệt – tận tuyệt, nơi con người lặng lẽ ngồi
đối diện chính mình trong sự tĩnh lặng tuyệt đối. Không gian thơ như lắng đọng
để thời gian chìm sâu vào tâm khảm – nỗi cô độc không chỉ là cảm giác thoáng
qua mà đã trở thành bản chất của tồn tại. Thời gian ấy, như Maurice Blanchot từng
nói, là thời gian con người có thể nhìn sâu vào bản thể mình, chạm đến những
góc khuất sâu nhất của tâm hồn – nỗi cô đơn bản chất[2]. Nhưng, bản thân sự
cô đơn này là nghịch lý, bởi cũng như Blanchot, khi người cầm bút trú ngự hồn
mình trong cô độc và bắt đầu viết, người ấy đã thực hiện dự phóng giao tiếp,
nghĩa là không còn cô độc nữa[3]. Nghịch lý này nằm ở hình bóng người đọc
tiềm ẩn nào đó mà trang viết phóng vượt tới. “Rượu một mình” trong đêm không chỉ
là vị cay nồng trên đầu lưỡi mà còn là giọt đắng được chưng cất từ những tháng
năm cô độc, từ những suy nghiệm âm thầm – những suy nghiệm dự phóng sẻ chia, gặp
gỡ. Đó là một hành trình nội tâm, nơi mỗi khoảnh khắc đều thấm đượm sắc màu của
nỗi niềm và sự tự tại trầm lắng. “tôi về/ đêm nay/ trên ngọn đồi cả gió/ trăng
vẫn tròn đầy như thuở tuổi em xưa/ dưới tán phượng già râm ran câu chuyện/ mơ hồ
lần đi/ hai mươi năm/ tôi, con thuyền ngược/ ngọn nguồn thác dốc tháng năm dài/
như ai vừa đi qua giữa đời phấn bảng/ rơi theo cơm áo dị thường/ vẫn đầy tay những
ngọn đồi níu kéo/ bạc phơ dốc trơn mà truột/ trong đêm chờ bình minh sấp mặt/
đêm/ tôi ngồi kể chuyện mình/ hàng cây đầy dấu tay/ khoảng không đầy giọng nói/
hơi thở ấm/ nắm tay tròn/ giờ xa ngàn ngút mắt/ đêm của hai mươi năm sau/ giấc
ngủ ngon sâu như lúc đầu/ râm ran điệu cười tự giễu/ rượu một mình dài dại giữa
đêm” (tr.42-43). Đêm tỏ ra là khoảng thời gian hữu hiệu để tâm hồn tự phản tư,
quay về với chính mình. Thời gian của Lê Vĩnh Thái trong tập Khúc rời những
con chim quên tổ phần nhiều là thời gian đêm với thời tính cô độc,
khi hồn thơ tự phóng chiếu vào bản ngã – ý hướng quay ngược vào bên trong để thực
hiện hành trình truy tìm bản ngã.
Cũng vì vậy, thơ Lê Vĩnh Thái tựa như một vùng áp thấp lặng lẽ
trong tâm tưởng, nơi những dòng cảm xúc không trôi theo dòng chảy tuyến tính mà
vỡ òa, bung tỏa giữa các chiều thời gian. Ở đó, quá khứ, hiện tại và tương lai
không rành mạch mà hòa quyện, như những mảnh ghép ký ức chắp vá, những mảnh
vụn cảm xúc lặng thầm. Mỗi câu chữ như mang theo vết xước của đời, thấm đẫm
những hoài niệm xa xăm, những suy tư cô độc, và cả nỗ lực đầy day dứt để đối diện
với hiện thực. “câu ngụ ngôn vụt chết/ bầy thiêu thân vụt chết/ trong ánh sáng
huy hoàng cuối chiều/ loài dã thú chưa với tới bầy thiêu thân/ và đã chết trong
khi đang sống/ vòng xoáy/ phù du/ dã thú/thân/xoay/quay/ hướng nào rồi tới/ tỉnh
thức nào mê/ hồi chuông ủ mộng/ phù du/ đầy/ về …” (tr.105). Những ý niệm
về thời gian, đôi khi mơ hồ, lại trở thành nhịp thở của thơ, khơi dậy trong
lòng người đọc một cảm giác bâng khuâng, sâu lắng. Ta nghe ra tiếng kêu từ xa
xăm, lời gọi hồi vọng uyên nguyên.
Càng đi vào cõi thơ, bạn đọc càng thấy thời gian bỗng chốc đứt
gãy, tao loạn trong từng khoảnh khắc. Chính những đứt gãy ấy trong hồi tưởng
lại sinh ra cái phi tuyến tính, như những con chim bay qua đường cắt, tạo nên
những vết cắt xé toang giữa hiện tại và quá khứ. Mỗi ý thơ như nhát dao sắc
bén, cắt cứa làm sụp đổ thực tại, khiến quá khứ bỗng vỡ òa, hỗn loạn. Hồn người
như lạc vào dòng xoáy… vòng xoáy đó, giữa một đêm đột ngột lạc bước vào miền
quá vãng. Cảm giác ấy như giấc mộng trưa hè, khi thần hồn nhập nhoạng, tan
loãng giữa xưa và nay, giữa thực và ảo, như một bức tranh nửa mờ nửa tỏ của thời
gian. “những con chim mặt cắt/ những con chèo bẻo/ nhát cắt ngang đường bay xoẹt/
giòng hồng hoang vụt khỏi vệt bay quen/ những con chim bay đường cắt/ gieo rắc
sinh trưởng bằng cái chết đồng loại/ ngày ảm đạm khuôn mặt dật dờ bóng tối/ giấc
mơ đăng quang trên bầu trời hư danh ảo vọng/ quẩn quanh mùa đông/ những con
chim cánh đã mỏi mòn/ đồng xa lây lất trú giấc phù du chao liệng quanh/ mơ hồ sợi
dây vô hình lửng lơ trên bầu trời/ ký sinh tao nôi kẻ khác/ tận diệt ảo tưởng
chếnh choáng” (tr.66-67).
Theo dòng thời gian, bạn đọc tìm thấy trong thơ Lê Vĩnh Thái
thấm đẫm nỗi hoài niệm về những gì đã mất, những đau thương chẳng thể nguôi
ngoai – thời tính đau thương. Thời gian trôi đi như dòng nước không thể
níu giữ, để lại trong hồn thơ những vết hằn sâu lắng. Thiên nhiên hiện lên, đôi
khi xô lệch, không chỉ là chứng nhân thầm lặng của thời gian mà còn là nơi nhà
thơ gửi gắm những nỗi đau chồng chất qua năm tháng. Tuổi trẻ, tình yêu, và cả nỗi
buồn thoảng qua trong thơ, gần gũi như hơi thở của mỗi tâm hồn, chạm vào những
ký ức đã lùi xa nhưng mãi còn rung động. “người đàn bà nhúm lửa/ tím lên dòng
sông ngậm thạch xương bồ/ chiều phủ đệ hoang lạnh lãnh cung/ bầy tâm thần nghĩ
về kiếp trước/ vàng son và đêm tối/ người đời màng chi cung nữ/ lửa luênh lang
thếp son vào bóng” (tr.99). Từng câu thơ thi nhân họ Lê hình như có ma lực, nhẹ
– rất nhẹ cuốn và hút mạnh tâm khảm người đọc vào cảm thức siêu hình, rơi vào từ
trường nhập nhoạng thời gian, mơ hồ giữa xưa và nay với niềm đau năm tháng, như
ở thời không nào vừa thực vừa hư. Bằng ánh lửa và bóng đêm, ông xây dựng từ trường
hoài niệm. Ngoài bài thơ “Khúc rời những con chim quên tổ”, thì có lẽ bài “Người
đàn bà đốt lửa qua đêm” có thể được chọn như bài thơ tiêu biểu cho tập thơ này.
Biểu tượng thơ, ngôn ngữ thơ và thế giới nghệ thuật đều tiêu biểu cho phong
cách thơ Lê Vĩnh Thái. Nhất là bao hàm trong bài thơ này cả các chiều kích tâm
thức đan cài trong các chiều kích thời tính.
Vì vậy, khi nhận diện cảm thức thời gian trong thơ Lê Vĩnh
Thái, người đọc như bước vào hành trình nội tâm miên viễn, nơi dòng
chảy của thời gian không đo bằng khoảnh khắc mà bằng nhịp đập trái tim và rung
động của tâm hồn. Dường như, có dòng chảy cảm thức nào đó cuốn ý thức bạn đọc
trôi theo. Dòng chảy thời tính cứ hững hờ, nhưng đủ sức quyến dụ, đưa bạn đọc
vào cõi tinh thần vừa ma mị vừa huyền bí vừa ăm ắp xúc cảm. “điệu hát mang mang
phả vào đêm mấy mươi năm về giữa khuya bất chợt xao xác chiếc lá rời cành thời
gian đi-đi-trôi-trôi câu hát run môi ký ức từng mảng rời làm sao về lại hỡi gã
trai trẻ ơ hờ hát bên kia sông đưa ta đi thêm đoạn dài khi người đã rời xa đêm
đặc quánh những câu chuyện” (tr.65). Thời gian ấy khởi đi từ những cảm nhận chủ
quan, tựa như những đợt sóng lòng của chủ thể trữ tình trước thực tại. Với Lê
Vĩnh Thái, thời gian không chỉ là dòng chảy bề mặt mà là một cuộc hành trình đi
sâu vào cõi lòng, khoan vào tận những ngóc ngách sâu thẳm nhất của tâm hồn. Ở
đó, ẩn hiện những nỗi buồn thao thiết, những xót xa lưu luyến chẳng dễ gọi tên,
và cả những giằng xé khôn nguôi vẫn âm thầm vang vọng. Có lẽ, do vậy, thi nhân
họ Lê ví von “thời gian như chiến tranh/ xâm lăng tuổi trẻ chúng mình” (tr.63).
Thời gian, qua lăng kính của ông, trở thành một dòng chảy tâm tưởng dẫn lối đến
tầng sâu vô thức, nơi cảm xúc và ký ức giao thoa thành những nốt nhạc không lời.
Cảm thức về cuộc hành trình đi vào tâm lõi hồn người là biểu hiện hầu như dàn
trải toàn bộ tập thơ.
Thế nên, có thể nói, thời gian trong tâm tưởng gợi lên những suy nghiệm sâu xa, khác nào một dòng chảy lặng lẽ đưa con người đối diện với chính mình, mở ra những câu hỏi đậm chất bản thể, cứ thế vén màn bí ẩn của cuộc đời. Những câu hỏi ấy, như những bóng ma ám ảnh, không ngừng vờn quanh hồn người, khiến người đọc không thể nào dứt ra. Có lẽ, đó là, niềm khát khao vĩnh cửu, luôn thúc giục ta đi tìm kiếm ý nghĩa đích thực của sự tồn tại. Hành trình ấy, qua những con đường ký ức, vừa hoang lạnh vừa cô liêu, như cuộc lưu đày không thể quay đầu lại, nhưng cũng chính là con đường duy nhất để ta hiểu được chính mình. Vòng xoáy phản tỉnh, thi nhân Lê Vĩnh Thái như gợi mở cảm thức vô hình nào đó về sự luân chuyển không ngừng của tồn sinh. “Trả nợ ân tình” hay “hóa thân vào nỗi nhớ” cơ hồ cho thấy hồn thương vương vấn, còn lưu luyến đi lại trong miền quá khứ, trong tâm khảm của chữ của thời gian của cõi giới không thể mường tượng rõ ràng.
Cảm thức thời gian và ký ức về một vùng văn hóa
Thời gian, trong ý niệm thân quen nhất, chính là dòng chảy vô
hình nhưng mãi mãi hiện hữu nơi cuộc sống gắn mình vào từng khoảnh khắc liên tục,
có độ dài, có nhịp điệu, có hướng đi và nhất là không bao giờ quay ngược. Hơn
thế, cảm thức thời gian qua sự cảm nhận chủ quan của người nghệ sĩ luôn gắn liền
với thời không nhất định, nó thường truyền dẫn đến và gợi mở ra trường văn hóa
của vùng văn hóa nhất định. Thông thường, đó là những cảm thức về vùng văn hóa
đã từng gắn với tuổi ấu thơ. Với Lê Vĩnh Thái, cảm thức này được chưng cất từ
những “lời mạ ru nôi mặn mòi máu thịt”. Trong ngọn nguồn “thủy tổ” của tâm hồn,
bạn đọc sẽ nhận ra cảm thức thời gian về một Huế xưa – vùng văn hóa xứ Huế của
Lê Vĩnh Thái và những người con của đất thần kinh. “con dập đầu thắp nén linh
hương/ lạy tứ phương ngọn nguồn thủy tổ/ u u anh anh minh minh/ cho con màu da
hình hài/ đượm hương đất mạ Huế mình” (tr.8). Thi nhân họ Lê nhóm lửa lòng gợi
và khêu lên những ký ức về một khu vực văn hóa bằng cách kết nối nhịp điệu thời
gian – như thói quen hàng ngày, sự thay đổi theo mùa hoặc thời đại lịch sử – với
trải nghiệm sống, truyền thống và hiện vật của vùng văn hóa đó (dòng sông quê nội,
chiều Huế, chiều phủ đệ, lãnh cung, mạ Huế, hương thơm thanh trà, …). Và ông,
như thể kéo tấm lòng bạn đọc vào những ấn tượng giác quan cũng nhờ đó đánh động
tâm hồn bạn đọc, gợi lên mối hồi tưởng mông lung; như thể có phần Huế trong tâm
hồn mỗi người. Với mỗi bạn đọc, xứ Huế sẽ hiện lên theo cách thế rất riêng và
khác nhau.
Ẩn sâu trong những dòng thơ của thi nhân họ Lê là một chiều
sâu văn hóa thấm đẫm hơi thở trầm mặc của vùng đất cố đô. Với trái tim rộng mở,
ông lắng nghe tiếng vọng từ quá khứ, nơi từng giọt thời gian mang theo hương đất
mạ của Huế, thân thương và thiêng liêng đến lạ. Trong những hoài niệm dịu dàng ấy,
thi nhân họ Lê đột nhiên dừng lại thật lâu bên “chiều Huế/ ủ ê mấy vòng mưa nhớ”
nơi ký ức như thấm đẫm từng giọt nước mắt. Huế hiện về trong thơ với vẻ đẹp
riêng không lẫn vào đâu được – một Huế của cảnh sắc, con người, và cả những nét
văn hóa đậm đà và chỉ cần nhắm mắt lại là có thể cảm nhận được. “ngoài kia bạn
bè rất đông đến gọi con chơi mỗi ngày, tuổi thơ của con hiền hòa như dòng Bạch
Yến qua An Hòa rẽ về sông Hương xanh ngát lời ru mặn môi của mẹ” (tr.22). Những
ký ức ấy không chỉ gợi lên hình ảnh quê hương, mà còn đưa ta trở về với vòng
tay thân thuộc của mẹ cha, với những người thân yêu máu thịt, nơi thời gian
không chỉ là dòng chảy mà còn là sự hòa quyện của văn hóa và tình cảm gia đình.
Thơ Lê Vĩnh Thái ví như một nhịp cầu, đưa bạn đọc về với cội nguồn yêu thương,
với những âm hưởng dịu dàng của quê nhà. Đọc thơ ông, bạn đọc như được sống lại
trong từng khoảnh khắc tuổi thơ, thấy lại dòng sông Hương, núi Ngự dưới bầu trời
xanh lẫn tiếng ru ngọt ngào của mạ, cùng cảm nhận hơi ấm của một miền ký ức mãi
mãi không phai.
Trong không gian văn hóa ấy, con người đã sống và gặp gỡ. Xứ
Huế – chốn giữ gìn ký ức thanh xuân của những người con xứ Huế sống chết cùng đất
quê hay tha phương. Lê Vĩnh Thái – vô tình hoặc hữu ý, đã sử dụng văn chương
bươi mớ than tàn tìm chút lửa đêm thâu khuya khoắt làm cay mắt những ai dò dẫm
bước lại những con đường xưa trong ký ức nhớ quê. Vẫn là thời đêm tối, khuya và
xa rất xưa, những biểu hiện thời gian được ông sử dụng để dệt nên không gian
tâm tưởng. Bạn đọc tìm thấy trong đó nét Huế cũng là dấu vết tâm hồn, về “anh”
về “em” và bên đường một khúc tình ca “vỡ giọng”. “giờ em đã xa sau mấy vòng
nhìn không nhau/ chiều Huế/ ủ ê mấy vòng mưa nhớ/ như từng đêm nhớ em/ những lời
nói có cánh không đưa đường dẫn lối/ thọc tay vào gió lặng/ gào trong hoang tưởng/
nhớ em” (tr.13). Nhà thơ cá nhân hóa không gian văn hóa, đong đầy vào đó những
vết tích riêng. Trong cơn mưa Huế là con mưa đời người.
Xứ Huế, hiện lên quê hương yêu dấu, như đoạn ký ức đời người,
như mảnh hồn còn vương lại. Vùng văn hóa cũng là vùng tâm hồn mãi mãi còn tồn tại,
và hồn người, thỉnh thoảng trở đi trở lại trong nhiều lúc tỉnh thức hoặc mơ hồ.
Cảm thức thời gian trong thơ Lê Vĩnh Thái phần nhiều phân mảnh, xô gấp, chồng
và lấn “đêm rời rạc về đường hoang hoải phố” (tr.14); song nhờ đó, ông đi sâu
vào tầng tiềm thức, vô thức. Bức tranh phụ bản của họa sỹ Nguyễn Thiện Đức
(tr.15) có lẽ cụ tượng hóa cảm thức thời gian trong thơ Lê Vĩnh Thái. Gợi lên xứ
Huế, thi nhân họ Lê rơi vào “nỗi nhớ nhà quày quả”, và cũng rơi vào “những giấc
mơ sông”. Đó là, dòng sông “mờ nhân ảnh” của vô thức. Bạn đọc cùng nhà thơ ngụp
lặn vô thức, rồi cảm nhận một xứ Huế chung nhưng cũng một xứ Huế riêng của hồn
thơ Lê Vĩnh Thái. “con sông nuôi bao dòng chảy phận người/ nơi ba tắm, ngụp lặn
ấu thơ, tuổi thơ ba, tuổi thanh xuân của nội, cả xóm phường nơi ấy/ quen thêm
tiếng gà gáy sau vườn nhà mình” (tr.19). Bài thơ “những giấc mơ sông” có thể gắn
với dòng Bạch Yến, có thể là sông Hương; nhưng cũng là dòng đời của ông nội của
ba của chính nhân vật trữ tình. Thế nên, nó là sông đời của phận người và nó trở
nên dòng sông xuyên thời gian, nối kết những thời tính đời người khác nhau.
Từ thơ Lê Vĩnh Thái, người đọc nhận ra thêm yếu tính nghệ thuật.
Nghệ thuật chính là phép màu để kéo dài hay thu ngắn thời gian, cho ta cảm nhận
được sự kỳ diệu của một khoảnh khắc bé nhỏ trong một chuỗi năm tháng rộng lớn.
Trong một tích tắc, nghệ thuật có thể mang lại trọn vẹn bức tranh đầy màu sắc của
cuộc đời, hoặc cô đọng hàng thế kỷ chỉ trong một giờ để chúng ta thấy rõ sự
chuyển mình thầm lặng của thời gian. Qua nghệ thuật, người đọc có thể sống giữa
dòng sự kiện dồn dập để cảm nhận nhịp đời bão tố, song cũng có thể đồng thời chạm
vào cả ba chiều thời gian – hôm qua, hôm nay, và ngày mai – ngay trong hiện tại.
Thời gian trong nghệ thuật, vì thế, không chỉ là dòng chảy, mà là nhịp đập của
trái tim con người, là lời thì thầm của những giấc mơ và ký ức, là ánh sáng len
lỏi giữa bóng tối u linh huyền mặc.
Cùng Lê Vĩnh Thái đi sâu vào cuộc hành trình tâm thức với thời gian chồng chập đan dệt, bạn đọc nhận ra xứ Huế vừa quen vừa lạ, vừa chung vừa riêng. Huế với mưa nắng úa màu, hương thơm thanh trà, tiếng gà sau vườn, cây mai nội trồng, cái rét thấu da, … Huế xưa… có thể rất xưa, nhưng hình như Huế đã ở sẵn lòng mình rồi hoặc cũng có thể, lòng mình vừa du hành vào cõi Huế của Lê Vĩnh Thái.
Từ cảm thức thời gian đến những suy nghiệm triết lý
Lần sâu tâm khảm, Lê Vĩnh Thái có lẽ mang nặng mối giao cảm
sâu thẳm với thời gian, như thể mỗi vần thơ viết ra đều chạm vào dòng chảy vô
hình nhưng bất tận ấy. Trong thế giới thơ, thời gian luôn hiện hữu, khi mờ nhạt
như tiếng vọng xa, khi rõ nét như ánh sáng lấp lánh, và luôn gắn bó chặt chẽ với
thiên nhiên. Thời gian thiên nhiên trong thơ Lê Vĩnh Thái là hình ảnh vũ trụ
vĩnh hằng, là dòng chảy không ngừng của triệu triệu năm ánh sáng, là tiếng thì
thầm của thuở “u u anh anh minh minh“, là nguồn cội linh thiêng của “thủy tổ”
mà ta như nghe được nhịp đập của trời đất thuở nguyên sơ. “con lạy mạ sông thơm
ơ nước từ tâm/ đăng điệu cổ ca sơ diếp hồng hư ha ha hào sảng/ bình yên sông
trên lòng sâu/ chảy miết không hư hao/ phơi phới tảng rêu rau dòng cạn/ đòng
đòng trôi hư ảo à dòng chìm trầm cúng nước/ đòng đòng buông hương tay mẹ quẫy
bóng mình/ đòng đòng nguyên khai linh thủy/ hư hư thiên linh cổ tự linh/ ruộng
xanh đầu bến bãi” (tr.6). Cảm thức thời gian ấy, khi đắm mình trong thiên nhiên
và vũ trụ, gợi lên trong lòng người đọc một nhãn quan đầy thiêng liêng, như dắt
ta bước vào miền suy tưởng thâm sâu của Đạo giáo (“nguyên khai linh
thủy”, “minh minh hà thủy tổ tiên thiên thánh”). Ngôn từ diễn tả thời gian
của Lê Vĩnh Thái rất gợi cảm, hướng tâm hồn bạn đọc đến không-thời gian hồng
hoang cổ xưa, giữa mơ và thực, giữa phàm và thiêng. Từng câu chữ của ông không
chỉ vẽ lên hình ảnh thời gian nó còn mở lối cho tâm hồn bước vào không-thời
gian xa xưa, nơi giấc mơ và hiện thực giao hòa, nơi cái phàm tục và cái thiêng
liêng gặp gỡ. Đọc thơ Lê Vĩnh Thái, người đọc chẳng khác được trở về với thời đại
hồng hoang cổ xưa, cảm nhận sự sống qua từng hơi thở của đất trời, để nhận ra rằng
thời gian không chỉ là dòng chảy đơn thuần còn là chốn tâm hồn tìm về cội nguồn,
nơi lòng người lặng im trước vẻ đẹp trường cửu của vũ trụ bao la.
Với chiều kích tâm thức như vậy, thời gian trong thơ Lê Vĩnh
Thái không bị gò bó bởi những con số lạnh lùng cứng đọng. Nó mềm mại, sống động,
và được đo bằng nhịp điệu của chính cuộc đời – bằng những chuỗi lặp lại không
ngừng của sự sống và sự chết, của gặp gỡ và chia ly, của những mùa nối tiếp
nhau trong một vòng quay bất tận. Thời gian ấy không chỉ là một khái niệm trừu
tượng mà là hơi thở, nhịp đập của sự hiện hữu, giai điệu ngọt ngào của đời sống,
mỗi người đều cảm nhận theo cách riêng. Trong dòng thơ của ông, thời gian luôn
mang một âm hưởng hiện sinh, là “dòng chảy phận người” chảy mãi không ngừng
(như bài những giấc mơ sông). Nhưng, thời gian ấy, không đẩy người đọc vào
nỗi hoang mang, trống rỗng. Ngược lại, nó nhẹ nhàng xoa dịu, mở ra những lối
thoát thanh thản. Như câu thơ Lê Vĩnh Thãi từng viết: “mùa đông sẽ qua đi như
những mơ hồ ảo tưởng đẩy nhau khép lại dòng sông hòa mình ra biển cả …”
(tr.25). Trong thế giới thơ Lê Vĩnh Thái, mọi bủa vây, ràng buộc đều được hóa
giải, để hồn người thong dong tìm thấy sự an nhiên, vượt lên trên những khắc
khoải của hiện sinh. Ý hướng thường vượt của hồn thơ khiến cho những bủa
vây hiện sinh được tháo gỡ, giải thoát. Đọc thơ ông, người đọc cảm nhận được một
sức sống mạnh mẽ song rất đỗi dịu dàng, nơi thời gian không phải là gánh nặng –
thời gian người bạn đồng hành, đưa người đọc đi qua những mùa đông lạnh lẽo để
rồi chạm tới biển cả bao la – biểu tượng của sự hòa điệu, giải thoát và
vĩnh cửu.
Ý hướng như thế, bạn đọc cũng ít nhiều nhận ra cảm thức
về sự vô thường trong thơ Lê Vĩnh Thái tựa như một cánh chim lặng lẽ bay
giữa dòng đời không ngừng đổi thay, nơi mỗi khoảnh khắc hiện tại chỉ là một hạt
bụi bay theo gió thời gian trong cõi nhân gian. Những chuyển động bất tận của đời
sống, thi nhân họ Lê dường như đã chạm đến được “tính không” – bản chất mong
manh và tạm bợ của mọi sự tồn tại. Thời gian trong thơ mang dáng dấp của một
hành trình hư huyễn, thoáng qua như giấc mộng, nhưng trong ánh nhìn của ông, sự
vô thường ấy không khơi lên thảm sầu; trái lại gợi lên một vẻ đẹp tĩnh lặng, an
nhiên và tự tại. Đó là, ánh mắt của người chiêm nghiệm đời, không bị cuốn theo
dòng chảy, bình thản đứng bên bờ, ngắm nhìn thời gian qua đi với sự tuệ giác. Cảm
thức ấy vừa phảng phất nét thanh thoát của tiên nhân, vừa sáng lên nét minh triết
của Phật Đà, soi rọi một vẻ đẹp trầm mặc và thâm sâu vào dòng thơ. “góc sân đầy
những giỏ hoa rơi rụng cuối mùa của cuộc vui trầm mặc xứ người/ tường vy, tỷ muội,
dã quỳ, cẩm chướng, hoàng anh, hải đường, lồng đèn và xác pháo/ cuối cuộc im
lìm buốt nhánh vô ưu, lòng đầy tục lụy/ tiếng chim cuối ngày chợt gieo những giấc
mơ xanh biêng biếc trong chiếc lồng đầy gió/ khi nỗi nhớ nhà quày quả cuối đường
vui” (tr.18). Hành đi ra đi của đời người khiến lòng người thao thiết muốn quay
về. Sự trở về đó sau những lăn lộn thăng trầm tục lụy khiến lòng người dâng lên
suy tưởng, như quay lại nhìn hành trình đã qua. Sự trở về nhà có lẽ cũng là ý
muốn trở về nơi chốn bình yên của tâm hồn – nơi vô ưu, không còn phiền não.
Quay cuồng trong cõi phù du, dã thú, tỉnh tỉnh mê mê, hồi chuông ủ mộng, váng động
đưa hồn quay trở về (tr.105).
Đến đây, hẳn bạn đọc cũng nhận ra thời gian thơ Lê Vĩnh Thái cũng là thời tính suy tư, chiêm nghiệm. Đó là, những giờ phút lắng đọng để thi nhân họ Lê chiêm nghiệm về sự tồn tại. Ý thơ vừa gợi lên dòng chảy thời gian, vừa gợi lên cảm thức thời gian, đưa bạn đọc vào sự suy tư về thân phận con người. Ôi những phận đời hụp lặn đoạn trường! “loài dã thú từ vũng bùn tăm tối/ hụp lặn trong chiếc lá rữa trôi/ ngoi lên chỗ của nhiều loài đã đẫm mồ hôi/ lên ánh sáng vàng/ ngụm từng giọt nước mắt đầy khổ lụy/ mơ giấc mơ bằng nụ cười của bầy thiêu thân/ trên chiếc ghế đoạn trường/ loài dã thú đoạn trường/ những câu nói bóng bẩy cám dụ/ đầy nhân bản sau nhát cắn/ đầy tai tương đoản hậu” (tr.104). Trong tiếng kêu than đẫm lệ khổ lụy của loài dã thú trên chiếc ghế đoạn trường, bạn đọc nghiệm ra từng khoảnh khắc thời gian đều chứa đựng nỗi đau và giằng xé, nhưng cũng mở ra cơ hội để suy tư về bản ngã, về sự mất mát và ý nghĩa của việc quay về – có lẽ, về với bản diện chân tâm – nhân bản trong thơ Lê Vĩnh Thái chính là ở chỗ như vậy. “Khúc rời những con chim quên tổ” không chỉ là gợi cảm thức thời gian, mà còn là một hành trình triết lý về sự sống, cái chết, và bản chất của sự tồn tại, nơi thời gian vừa là kẻ hủy diệt vừa là người dẫn lối tới sự giác ngộ.
Ở một số bài thơ khác, hồn thơ Lê Vĩnh Thái khiến bạn đọc có
cảm giác thời tính như cánh chim lặng lẽ bay vào thời gian. Thời gian lại có
khi như dòng sông lặng lẽ, trôi qua trong sự suy tàn, vô thường. Những cánh
chim bay vội vã qua cuộc đời, mỏi mòn và vô định, như những cánh chim thi ca lạc
lối trong giấc mộng phù du, nơi thời gian chỉ là những mảnh vụn phôi pha. Đời sống,
nặng trĩu bởi sức nặng của tâm thức, như tấm áo cũ rách nát thấm đẫm nước thời
gian. Tâm thức ấy, đôi khi, như lạc lõng giữa không gian mênh mông, hoang lạnh,
lạc bay vào vùng không-thời gian mờ ảo, nơi tất cả chỉ còn là huyễn hoặc, vương
vấn những bóng hình vô định.
“những con chim mỏi cánh bay trong ngày ẩm ướt/ những con tu
hú ngụ trên đầu chim sâu mang xác đại bàng hư danh ảo vọng tia nắng chiều hoàng
hôn nhạt thếch đi tìm tên của thời quá vãng khắc lên câu nói hàm ơn lũ ký sinh
quên cội nguồn nòi giống đẻ nhờ chờ hủy diệt ngày tháng vô ơn bóng bẩy tiếng
hót chàng làng/ ký sinh già nua thể xác trễ nải linh hồn bay trong chiều hoang
lạc mênh mênh chếnh choáng đôi mắt chết của buổi chiều dồn chân quả trứng tượng
hình khỏi tổ vong thân chưa nhận lại bóng mình đầy hoang dại của loài trả nợ ân
tình ảo vọng hư danh tia nắng chiều hoàng hôn nhạt thếch thời quá vãng bay đi/
hỡi con chim sâu mang xác đại bàng hỡi con chàng làng ảo vọng hư danh bay chưa
qua khỏi bóng mình, mơ hồ bắt bóng, âm vang đôi cánh đầy giông gió/ hỡi lũ chim
sâu mang xác đại bàng hỡi lũ chàng làng nhại tiếng hóa thân vào ngày vào nỗi nhớ
vào hơi thở vào đất thiêng cố kinh như chưa từng có trên cuộc đời sám hối dung
dưỡng đường bay” (tr.68-69).
Hình như, thi nhân Lê Vĩnh Thái đã chịu ảnh hướng ít nhiều
phong cách thơ siêu thực (ví dụ “đêm hạ huyền”, tr.99). Nhưng siêu thực, chính ở
chỗ đi sâu vào “chân thực” đằng sau hiện thực đời sống. Siêu thực, như thế,
chính là đi sâu vào bản diện hiện thực bề ngoài. Cảm thức thời gian, cũng chính
cảm thức về đời sống, cảm thức siêu hình về tồn tại, thơ Lê Vĩnh Thái mang hấp
lực của sự suy tưởng tìm đến căn nguyên hiện hữu. Bằng tư duy nghệ thuật đa chiều
đa diện, câu thơ Lê Vĩnh Thái lúc nào cũng ăm ắp hình ảnh. Hình ảnh thơ được kết
dệt trong mạng lưới thời gian liền biểu hiện ra như tấm lưới vây bủa tâm hồn
người đọc. Ta cảm tưởng như cái giang cánh của loài chim lớn, khỏa chiếc bóng
tâm hồn xuống mặt đất trần gian.
Đôi lời kết
Thông qua cảm thức thời gian và biểu hiện cái tôi trữ tình,
có lẽ bạn đọc cảm nhận thời gian không chỉ chiều kích tồn tại thời gian
còn biểu tượng nghệ thuật. Cảm thức thời gian trở nên đặc điểm thẩm mỹ thơ Lê
Vĩnh Thái. Nhờ biểu hiện thời gian, cái tôi trữ tình mang chiều sâu nội tâm, khắc
họa hành trình đi sâu vào tâm khảm con người. Bên cạnh đau thương, hoài niệm, bạn
đọc cũng nhận ra thời tính của sự cô độc; trong thời tính cô độc là thời tính
chiêm nghiệm. Cùng thi nhân họ Lê, bạn đọc suy ngẫm những lẽ tình và lẽ đời.
Sau chiêm nghiệm ấy, Lê Vĩnh Thái bao giờ cũng gợi mở sự giải thoát hoặc quy
nguyên. Trở về trong cõi sâu thẳm của tâm hồn, con người có thể tìm thấy chính
mình, hoặc chí ít, một cơ hội để mình đối diện với mình. Trong miền tâm tưởng
đó, bạn đọc phát hiện và đồng cảm cùng thi nhân họ Lê những hoài niệm chất chứa,
cảm nghiệm hành trình sống của đời người với những u uẩn, tàng khuất trong hóc
tối thời gian. Mỗi người hẳn có cơ hội dành cho sự chiêm nghiệm thời gian khác
nhau. Thời gian, nền tảng vô hình tâm tưởng. Biểu hiện cảm thức thời gian trong
thơ ca, Lê Vĩnh Thái đã đan xen những sợi chỉ hoài niệm và suy tư; trong đó,
nhà thơ kết dệt những trải nghiệm cá nhân thành thi ảnh có khả năng gợi tưởng
sâu xa.
Bên tách trà Xuân đọc thơ Lê Vĩnh Thái, là sự trở về và tìm lại
cảm thức thời gian, chất liệu nghệ thuật: những hình ảnh, biểu tượng, sự thay đổi
nhịp điệu, và cách dùng từ gợi cảm gây xúc động người đọc và người đọc, cảm nhận
họ đang ở cùng câu thơ của thi nhân họ Lê – vừa như từng hạt tâm hồn ngưng đọng,
vừa như dòng sông siêu hình luân chuyển không ngừng.
Chú thích:
[1] Trần Đình Sử (2017), Dẫn luận thi pháp học văn học,
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr.67.
[2] Hoppenot, E. & Milon, A. (dir., 2010). Maurice
Blanchot et la philosophie. Nanterre: Presses universitaires de Paris ouest,
p.94, 99, 132, 181, 215.
[3] Hoppenot, E. & Milon, A. (dir., 2010). Maurice
Blanchot et la philosophie. Nanterre: Presses universitaires de Paris ouest,
p.284.
Tài liệu tham khảo:
1. Hoppenot, E. & Milon, A. (dir., 2010). Maurice
Blanchot et la philosophie. Nanterre: Presses universitaires de Paris ouest
2. Trần Đình Sử (2017). Dẫn luận thi pháp học văn học. Hà Nội:
Nxb. Đại học Sư phạm.
3. Lê Vĩnh Thái (2024). Khúc rời những con chim quên tổ (thơ).
Huế: Nxb. Thuận Hóa.
11/12/2024
Trần Bảo Định
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét