Trải nghiệm nữ giới về chiến tranh
ở Việt Nam: Góc nhìn so
sánh
văn xuôi đương đại Việt - Mỹ
Trải nghiệm của nữ giới về chiến tranh đã trở thành một chủ đề quan trọng trong văn xuôi Việt Nam đương đại. Đây là mạch nguồn phong phú của văn chương Việt và vẫn đang tiếp tục được khai thác hiệu quả bởi nhiều cây bút thuộc các thế hệ khác nhau…
Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mĩ đã kết thúc
gần tròn 50 năm nhưng trong đời sống văn học, hiện thực cuộc chiến ấy vẫn luôn
là nguồn đề tài chưa bao giờ vơi cạn, vẫn tiếp tục truyền cảm hứng để các cây
bút khơi thênh hành trình sáng tạo. Có thể dễ dàng liệt kê tên tuổi các nhà văn
Việt Nam thuộc nhiều thế hệ mà văn nghiệp của họ được ghi dấu bởi những tác phẩm
quan trọng viết về đề tài chiến tranh và người lính như Nguyễn Minh Châu, Chu
Lai, Bảo Ninh, Khuất Quang Thụy, Trung Trung Đỉnh, Lê Minh Khuê, Nguyễn Bình
Phương, Sương Nguyệt Minh, Nguyễn Ngọc Thuần, Đỗ Tiến Thụy…
Bên cạnh đó, không ít nhà văn Hoa Kì cũng viết về cuộc chiến
tranh ở Việt Nam như một cách chiêm nghiệm, chất vấn về lịch sử, về lí tưởng đạo
đức, về chủ nghĩa anh hùng: David Halberstam, John Del Vecchio, Philip Caputo,
Tim O’Brien, Gustav Hasford, Stephen Wright, Ward Just, Lynda Van Devanter,
Winnie Smith… Nhìn riêng vào bộ phận văn xuôi đương đại Việt – Mĩ viết về trải
nghiệm nữ giới liên quan đến chiến tranh ở Việt Nam, có thể nói, mảng đề tài
này đã đem tới nhiều đóng góp mới mẻ cho diễn ngôn văn học chiến tranh.
Tại sao bài viết đặt vấn đề về những trải nghiệm nữ giới
trong văn học chiến tranh? Điều này xuất phát từ luận điểm của các nhà phê bình
nữ quyền trên thế giới nghiên cứu sự liên hệ giữa phụ nữ và chiến tranh. Họ bác
bỏ giả định cho rằng bạo lực giới là một vấn đề cá nhân hoặc riêng tư cần được
tiếp cận từ góc độ tâm lí. Sự phân chia hai phạm vi đối lập là riêng tư và công
cộng trở thành nguyên nhân dẫn tới tình trạng phi chính trị hóa lĩnh vực riêng
tư, tạo nên mối quan hệ quyền lực giữa nam giới và nữ giới, củng cố sự phụ thuộc
của nữ giới trong các vấn đề kinh tế, xã hội và chính trị. Phụ nữ xuống hạng với
các công việc gia đình, trách nhiệm của họ đối với hoạt động chăm sóc củng cố
tiêu chuẩn tham gia chính trị và nguồn lực kinh tế như một đặc quyền của nam giới.
Khái niệm chính trị được định vị trong phạm vi công cộng và vấn đề bạo lực được
liên kết với những trận xung đột vũ trang, những phong trào xã hội, những cuộc
chiến tranh.
Trong khi đàn ông và nam tính liên quan đến chiến tranh, xâm
lược thì phụ nữ và nữ tính gợi hình dung về cấu trúc xã hội thụ động, hòa bình.
Sự phân biệt nam giới là kẻ xâm lược và phụ nữ là nạn nhân thụ động dẫn đến
tình trạng chối từ tiếng nói và sự hiện diện của phụ nữ trong chiến tranh.
Susan Farrell chỉ ra rằng: trong những ghi chép về chiến tranh thế kỉ XX, các
nhân vật nữ hiếm khi tồn tại ngoại trừ các vị trí ngoại vi, được miễn khỏi bạo
lực chiến tranh và do đó, họ không biết gì về những trải nghiệm chiến tranh thực
sự cũng như hậu quả khủng khiếp của nó. Theo tác giả, quan điểm này đã đặt người
phụ nữ ra ngoài trải nghiệm chiến tranh trong các tác phẩm văn học kinh điển
như Huy hiệu đỏ của lòng dũng cảm (Red Badge of Courage, 1895) của
Stephen Crane, Phía tây không có gì lạ (All Quiet on the Western
Front, 1929) của Erich Maria Remarque. Tác giả nhận định: “Rất nhiều tác phẩm
văn học về chiến tranh ở Việt Nam đã sao chép các quan niệm truyền thống của
phương Tây về giới tính và do đó củng cố những niềm tin của thể chế gia trưởng”
(Farrell: 1). Tuy nhiên, từ ngữ chìa khóa của Farrell là “nhiều” – không phải tất
cả. Chối từ góc nhìn nam giới trung tâm luận, phê bình văn học nữ quyền gợi ý
cách tiếp cận đề tài chiến tranh như là một cấu trúc giới tính.
Trong một nghiên cứu về Tim O’Brien, Kinh nghiệm nữ giới
về chiến tranh trong “Những thứ họ mang” của Tim O’Brien, Katherine Dabrieo chỉ
ra rằng, không chỉ đàn ông mà cả những người đàn bà Mĩ bước ra khỏi cuộc chiến
tranh ở Việt Nam đều mang về những vết thương cùng những câu chuyện để kể. Theo
Dabrieo, mặc dù phần lớn văn học Việt Nam, và cả điện ảnh, được sản xuất bởi những
người đàn ông để quảng bá huyền thoại về những nam chiến binh nhưng “những người
phụ nữ tham chiến cũng đã viết những câu chuyện của họ, cố gắng tạo ra hình tượng
nữ anh hùng bên cạnh hình tượng nam anh hùng” (Dabrieo 8). Về khía cạnh này,
tác giả khẳng định: “Văn học Việt Nam đã làm theo [đưa người phụ nữ vào vị trí
trung tâm của văn học chiến tranh – ĐTBH chú thích] nhưng chỉ ở một mức độ hạn
chế” (Dabrieo 8). Văn học Việt Nam về đề tài chiến tranh dù không phải là đối
tượng nghiên cứu trong công trình của Dabrieo nhưng tác giả đã có những liên hệ
so sánh để cho thấy sự thay đổi ít nhiều lực lượng sáng tác cũng như đối tượng
phản ánh của văn học Việt Nam về phụ nữ và chiến tranh.
Tuy nhiên, nhận định đó là cái nhìn từ bên ngoài và chưa phản
ánh đầy đủ tình hình văn học Việt Nam đương đại liên quan đến trường chủ đề
này. Những nhận định theo hướng như vậy, có thể là, có căn nguyên từ quan điểm
Hoa Kì trung tâm luận, như Viet Thanh Nguyen đã chỉ ra rằng: “Văn học về chiến
tranh Việt Nam của người Mĩ hiện đang bị kẹt trong một thứ chủ nghĩa dân tộc hẹp
hòi chỉ nhấn tới trải nghiệm và đau khổ của nhóm người này mà làm mờ đi những
nhóm người khác” (dẫn theo Trần Đăng Trung 2018: 276). Tiếp cận văn xuôi đương
đại Việt Nam – Hoa Kì viết về những trải nghiệm của nữ giới liên quan đến cuộc
chiến tranh mà đế quốc Mĩ tiến hành trên lãnh thổ Việt Nam là cách để giải diễn
ngôn “chủ nghĩa dân tộc” của văn học Mĩ vốn được hỗ trợ để trở nên phổ biến và
chính thống bởi sức mạnh của nền công nghiệp văn hóa hùng hậu, làm đầy thêm xu
hướng diễn giải theo tinh thần “chủ nghĩa quốc tế” về đề tài chiến tranh ở Việt
Nam trong văn học Việt – Mĩ.
1. Văn học chiến tranh vốn là một chủ đề đáng chú ý bởi xu hướng
gạt bỏ các nhân vật nữ ngay cả khi họ thực sự hiện diện. Nhìn vào nền văn
chương Hoa Kì đương đại, có thể thấy, những trải nghiệm của phụ nữ Mĩ trong chiến
tranh ở Việt Nam vừa là mảng hiện thực nhiều sức hút đối với các nhà văn Mĩ, vừa
là một chủ đề nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả trên thế giới.
Thời điểm xảy ra cuộc chiến tranh ở Việt Nam cũng là lúc phụ nữ đang tạo ra những
thay đổi to lớn trong xã hội Mĩ để bước vào vị trí trung tâm. Do đó, văn học về
chiến tranh ở Việt Nam cung cấp nhiều thông tin thú vị để xem xét chân dung các
nhân vật nữ trong bối cảnh phong trào phụ nữ đang phát triển. Văn chương trở
thành một trong những phương tiện trả lại tiếng nói cho nữ giới. Có thể kể tới
những cây bút đã có nhiều đóng góp quan trọng ở mảng đề tài này như Lynda Van
Devanter, Winnie Smith, Tim O’Brien…
Vào cuối những năm 1960, Lynda Van Devanter trở thành tình
nguyện viên phục vụ tại cuộc chiến tranh ở Việt Nam với tư cách là nữ quân y.
Cuốn hồi kí Home Before Morning: The Story of an Army Nurse in Vietnam của
Van Devanter được xuất bản lần đầu tiên năm 1983, khi VWMP (Vietnam Women’s
Memorial Project) chưa được thành lập và điều đó đồng nghĩa với việc chưa có bất
kì một công nhận chính thức nào về sự hiện diện của Van Devanter nói riêng và
các nữ y tá Mĩ nói chung tại Việt Nam. Trở lại với lựa chọn trở thành y tá của
Van Devanter, hành vi này không chỉ xuất phát từ đam mê cá nhân mà còn liên
quan tới những huyền thoại cộng đồng phổ biến lúc bấy giờ, như Elizabeth Norman
(1990: 8) đã viết, điều dưỡng là một lựa chọn nghề nghiệp hợp lý cho những phụ
nữ trẻ vào cuối những năm 1950, bởi vì các cô gái vào thời điểm đó đã học cách
“xem bản thân mình trong mối quan hệ với người khác, như những người mẹ, người
chị và người bạn – không phải là những cá nhân”, và “nhiệm vụ chăm sóc người
khác là cốt lõi của nghề này”.
Cùng với đó, Van Devanter bước vào cuộc chiến trong tâm thế
hào hứng của những con người được trao sứ mệnh cứu lấy thế giới. Điều này bắt
nguồn từ lời thuyết phục về thứ “tình cảm cao quý” mà John Fitzgerald Kennedy
đã truyền tới những người trẻ: họ là “một phần của một quốc gia công bằng và
danh dự” (Van Devanter 2001: 29) với sứ mệnh giúp đỡ những con người “khốn khổ
hàng loạt” và “bảo vệ tự do [của họ]” vì “điều đó là đúng” (30). Người phụ nữ
trẻ tuổi khi ấy còn bước vào chiến tranh với một niềm tin ngây thơ rằng “y tá
không bị giết” vì họ đều ở “khu vực phía sau” và “bệnh viện vô cùng an toàn”
(49). Nhưng thực tế là, cuộc chiến không lâu sau đã khiến Van Devanter đổ vỡ niềm
tin, buộc bà phải đặt lại những câu hỏi. Không chỉ là những vấn đề liên quan đến
sự sống và cái chết, lành lặn và chấn thương, thực tế chiến trường còn buộc người
phụ nữ phải đối mặt với vô số tình huống phi tính nữ. Van Devanter chua chát nhận
ra rằng, trong khi các nhà lãnh đạo quân đội đòi hỏi kĩ năng chuyên môn của y
tá, họ lại không làm gì nhiều để đáp ứng nhu cầu cá nhân của y tá; những trạm
bán hàng quân đội của Mĩ dự trữ rất nhiều bao cao su cho nam giới, nhưng không
có băng vệ sinh hoặc đồ dùng vệ sinh cá nhân cho nữ giới; binh lính được chấp
nhận “quan hệ” với nhiều gái mại dâm trong khi quan hệ tình dục của y tá bị xem
là “không có nữ tính” (122)… Người phụ nữ từng cố gắng duy trì thái độ “cứng rắn”
khi thực hiện nhiệm vụ của một y tá đã buộc phải thú nhận: “Tôi mất kiểm soát
và trở nên cuồng loạn – tôi trở thành một người hoang dã, khóc nức nở và run rẩy
không kiểm soát được. ‘Tôi muốn cha tôi,’ tôi hét lên, ‘Tôi muốn mẹ tôi, tôi muốn
về nhà, Việt Nam thật tệ, chúng tôi không thuộc về nơi này. Điều này là sai
trái’” (Van Devanter 2001: 173). Và bước ra khỏi cuộc chiến, y tá “không được
tính” là những cựu binh thực sự. Van Devanter phát hiện ra rằng, không có tổ chức
nào lưu giữ hồ sơ chính thức về số lượng phụ nữ phục vụ [ở bất kì cương vị nào]
tại Việt Nam. Home Before Morning ghi lại chân thực những chấn thương
chiến tranh cùng hành trình dài đau đớn để phục hồi trong thời kì hậu chiến. Cuốn
sách vạch trần sự bất ổn trong các chính sách đối ngoại của chính phủ Hoa Kì tại
Việt Nam – thứ chính sách đã đẩy những người lính và cả những y tá trẻ tuổi vào
vòng nguy hiểm. Nó trở thành tiếng nói đại diện cho lớp người sống sót đang “viết
lại những sự kiện đau thương đã cắt đứt mối liên hệ của họ với phần còn lại của
xã hội” (Tal 1996: 122).
Cùng là tác phẩm hồi ký về quãng thời gian làm y tá trong cuộc
chiến tranh ở Việt Nam, cuốn American Daughter Gone to War của Winnie
Smith xuất bản vào năm 1992 đã chia sẻ với hồi kí của Van Devanter về một thực
tế nghịch lí là: các y tá thường xuất hiện như những nhân vật chính bị gạt ra
ngoài lề bên cạnh câu chuyện về chiến tranh của nam giới. Tuy nhiên, mỗi nữ nhà
văn đều tiếp cận quyền lực trong những câu chuyện mà họ là nhân vật trung tâm
theo một cách độc đáo: Van Devanter cung cấp những chi tiết của kí ức bị chấn
thương; Winnie Smith đồng nhất vị thế nữ giới và nam giới trên chiến trường.
Trong cuốn sách của mình, Winnie Smith thường xuyên mô tả mối liên hệ giữa nữ y
tá với những nam quân nhân bị thương mà tác giả gọi là các chiến binh. Đây là
cách để nhà văn thiết lập quyền lực cho những trải nghiệm của nữ y tá. Chiến lược
thiết lập thẩm quyền này đồng thời giải thích cho cách đặt phụ đề văn bản của
Winnie Smith: Trên tuyến đầu với một y tá quân đội tại Việt Nam. Theo
nghĩa đen, nhiệm vụ của một ý tá tại bệnh viện vốn không được đặt ở vị trí tuyến
đầu. Việc sử dụng cụm từ “trên tuyến đầu” (On the Front Lines) cho thấy ngụ ý
khẳng định vai trò của nữ y tá như là một người lính chiến đấu. Cuốn sách thể
hiện nỗ lực tháo dỡ những hạn chế về thẩm quyền tiếng nói nữ để kiến tạo bản sắc
nữ giới ngang hàng với bản sắc nam giới.
Trong bài viết Những cô gái nguy hiểm: Y tá Mĩ và bản sắc
giới tính trong chiến tranh thế giới thứ nhất và Việt Nam, Carol Acton thừa nhận
khoảng cách giữa nam giới và nữ giới trong kinh nghiệm về chiến tranh: “Văn hóa
đại chúng cũng như hầu hết các công trình nghiên cứu lịch sử và phê bình về Việt
Nam vẫn tập trung vào nam giới với tư cách là những người kể chuyện chiến tranh
vĩ đại” (Acton 2014: 87). Tác giả tạo ra mối liên hệ giữa việc “loại trừ văn
hóa và văn học” của phụ nữ với việc “chính thức loại trừ phụ nữ ra khỏi vùng
chiến sự theo định nghĩa của quân đội” (88). Mặt khác, Carol Acton khẳng định,
những câu chuyện của Van Devanter và Winnie Smith đại diện cho một bước quan trọng
của phụ nữ trong khu vực văn học này. Bài viết nhấn mạnh sự căng thẳng giữa
kinh nghiệm của phụ nữ về chiến tranh với khuôn mẫu về người phụ nữ truyền thống.
Là một y tá phục vụ trong cuộc chiến ở Việt Nam, Van Devanter lưu ý rằng những
người phụ nữ như bà, “nếu được nghĩ đến, thường được coi là thánh nhân hoặc tội
nhân” (Acton dẫn Van Devanter: 91-92): như là người mẹ chăm sóc hoặc như là
phương tiện giải trí tình dục cho nam quân nhân. Tuy nhiên, Van Devanter,
Winnie Smith và các nữ nhà văn viết tự truyện Việt Nam khác đã mở đường cho nỗ
lực đánh đồng kinh nghiệm chiến tranh của nữ giới với kinh nghiệm chiến tranh của
nam giới. Giống như các nhà văn nam cựu binh, câu chuyện của Van Devanter và
Winnie Smith cho thấy quá trình chuyển đổi khó khăn sau chiến tranh, trong đó,
“thay vì trở về với sự an toàn của gia đình và bản sắc tiền chiến tranh, cả hai
[phụ nữ] đều trải qua một sự xáo trộn sâu sắc khi trở về nhà” (Acton 2014:
104). Những người phụ nữ không thể quản lý quá trình thay đổi của chính mình
sau một loạt trải nghiệm khủng khiếp từ chiến tranh.
Trong số những nam cựu binh từng tham gia chiến đấu ở chiến
trường miền Nam, Tim O’Brien trở thành nhà văn Mĩ nổi tiếng với các tác phẩm
khai thác đề tài cuộc chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam. Farrell khẳng định, Tim
O’Brien là một trong những tác giả cựu binh điển hình đã thách thức những tác
phẩm viết về chiến tranh từ góc nhìn truyền thống để xây dựng hình tượng những
người phụ nữ năng động. Pamela Smiley cũng cho rằng, tác phẩm của Tim O’Brien
đã bất chấp giới tính và mời phụ nữ tham gia những trải nghiệm chiến tranh. Bà
gọi Những thứ họ mang là dự án trung tâm của của Tim O’Brien để làm
cho [phụ nữ] hiểu những người anh em, những bạn bè và những người yêu của họ đã
bước vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam như thế nào. Thông qua hệ thống các nhân vật
nữ, Tim O’Brien hoàn thành “giải giới tính chiến tranh, kiến tạo kiểu độc giả
(nữ) lí tưởng và tái định nghĩa nam tính của người Mĩ” (Smiley 2002: 602). Theo
Smiley, Tim O’Brien đã đưa người phụ nữ vào tác phẩm của mình bằng một cách mới
và thú vị: nhà văn không giả vờ rằng phụ nữ hoàn toàn được tham gia vào chiến
tranh ở Việt Nam, nhưng ông nỗ lực để đưa những trải nghiệm nữ giới vào câu
chuyện của mình và từ đó, thế giới các nhân vật nữ được hiện lên một cách phong
phú, công bằng và sáng tạo.
2. Trở lại với nhận định của Katherine Dabrieo về xu hướng
đưa người phụ nữ vào vị trí trung tâm của văn học chiến tranh với những luận điểm
rằng “văn học Việt Nam đã làm theo” nhưng “chỉ ở một mức độ hạn chế” (Dabrieo
8), bài viết này sẽ đặt lại và trả lời hai câu hỏi tương ứng: Các nhà văn Việt
Nam có “làm theo” các nhà văn Mĩ để kể câu chuyện chiến tranh của phụ nữ Việt
Nam? Những trang viết về trải nghiệm chiến tranh của phụ nữ Việt Nam có phải
“chỉ ở một mức độ hạn chế”?
Trước hết, phải khẳng định ngay rằng, đề tài chiến tranh có một
vị trí đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam, nói như tác giả Đinh Xuân Dũng:
“Đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam có độ dài ngang với chính độ dài của
lịch sử văn học dân tộc. Nếu tính từ truyền thuyết Thánh Gióng, chúng ta
có thể nghĩ rằng, đề tài chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc là nguồn chủ
lực, là nguồn mạch phong phú nhất, không bao giờ vơi của văn học Việt Nam từ
khi hình thành đến nay” (2004). Từ năm 1986, khi đất nước bước vào thời kì đổi
mới, chiến tranh vẫn được đánh giá như một “siêu đề tài” (chữ của PGS.TS. Bùi
Thanh Truyền). Từ đó đến nay, các nhà văn thuộc nhiều thế hệ khác nhau đã tiếp
tục khai thác, khám phá những câu chuyện liên quan đến chiến tranh. Có thể kể đến
lớp nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ như Chu Lai, Khuất Quang Thụy,
Bảo Ninh, Lê Minh Khuê, Nguyễn Trí Huân; lớp nhà văn trưởng thành trong chiến
tranh biên giới như Sương Nguyệt Minh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Tham Thiện Kế;
lớp nhà văn lớn lên trong hòa bình như Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Thị Kim Hòa, Huỳnh
Trọng Khang… Sau 1986, các nhà văn Việt Nam một mặt kế thừa thành tựu của văn
chương cách mạng, tạo nên những tác phẩm văn xuôi đậm màu sắc sử thi như Tư
Thiên (1994) của Xuân Thiều, Trong vùng tam giác sắt (1995) của
Nam Hà, Một ngày và một đời (1997) của Lê Văn Thảo, Những bức tường
lửa (2010) của Khuất Quang Thụy, Khúc bi tráng cuối cùng (2010)
của Chu Lai, Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 (2014) của Trần Mai Hạnh…
Bên cạnh đó, nhiều tác phẩm văn xuôi Việt Nam đương đại được viết theo khuynh
hướng giải sử thi như Chim én bay (1987) của Nguyễn Trí Huân; Nước
mắt đỏ (1988) của Trần Huy Quang; Không phải trò đùa (1988) của
Khuất Quang Thụy; Nỗi buồn chiến tranh (1990) của Bảo Ninh; Ăn
mày dĩ vãng (1991), Ba lần và một lần (1999), Mưa đỏ (2014)
của Chu Lai; Tàn đen đốm đỏ (1994) của Phạm Ngọc Tiến; Lạc rừng (1999)
của Trung Trung Đỉnh; Thoạt kì thủy (2004) của Nguyễn Bình
Phương; Màu rừng ruộng (2006) của Đỗ Tiến Thụy; Cơ bản là buồn (2014)
của Nguyễn Ngọc Thuần; Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9 (2023) của Nguyễn Một…
Cùng với đó, nhiều tác phẩm của nhà văn nữ viết về trải nghiệm
chiến tranh đã tạo ra được những tiếng vang như Người sót lại của rừng cười (2003)
của Võ Thị Hảo, Đàn sẻ ri bay ngang rừng (2005) của Võ Thị Xuân
Hà, Ở đất kẻ thù (2007) của Lê Lan Anh, Tiểu thuyết đàn bà (2008)
của Lý Lan, Nhiệt đới gió mùa (2012) của Lê Minh Khuê, Đỉnh
khói (2015) của Nguyễn Thị Kim Hòa… Trong bài viết Chiến tranh qua cảm
thức nữ giới, Lê Thị Hường nhấn mạnh: “Tác phẩm viết về chiến tranh và hậu chiến
của các nhà văn nữ có sự mở rộng, chuyển hoá các phạm trù thẩm mĩ (cao cả và thấp
hèn, bi và hài, cái đẹp và cái nghịch dị, kệch cỡm…). Chạm đến mảnh đất này,
các nhà văn nữ gặp gỡ nhau ở một điểm chung: nỗi đau của những thân phận đàn bà
trong và sau chiến tranh” (2014). Lê Hương Thủy trong bài viết Chiến tranh
nhìn từ truyện ngắn của một số cây bút nữ nhất trí với nhận định rằng:
“Tác phẩm của các nhà văn nữ viết về chiến tranh tất nhiên cũng có những đặc điểm
khác với tác phẩm của một nhà văn nam giới. Lẽ dĩ nhiên là nó ít tiếng súng ùng
oàng hơn, ít đi vào những vấn đề có tính trọng đại, to tát (!). Các chị thường
chú trọng khai thác “giới tính” của mình, đi vào khai thác những mảnh đời thầm
lặng, những số phận cá biệt, những đau thương mất mát người phụ nữ phải gánh chịu
trong chiến tranh” (2020). Như vậy để thấy rằng, viết về chiến tranh nói chung,
phản ánh cảm thức nữ giới liên quan đến bối cảnh chiến tranh nói riêng là một
nhu cầu tự thân, tất yếu của văn học Việt Nam đương đại. Nó xuất phát từ thực
tiễn lịch sử Việt Nam với những cuộc đấu tranh trường kì để bảo vệ nền độc lập
dân tộc. Nhu cầu tự thân ấy không chỉ thể hiện qua số lượng các nhà văn thuộc cả
hai giới đã khai thác câu chuyện của nữ giới trong và sau chiến tranh mà còn thể
hiện ở sự phong phú, sâu sắc về tư tưởng trong những biểu đạt văn học liên quan
đến trải nghiệm chiến tranh của phụ nữ Việt Nam.
Thứ nhất, văn xuôi đương đại Việt Nam đã phản ánh sinh động
những kì vọng về vai trò nữ giới trong chiến tranh. Người phụ nữ có thể hiện
diện trong các lực lượng quân sự và dân sự, thuộc hai vùng không gian chiến trường
và hậu phương. Ở đó, họ được mô tả là những nữ quân nhân dũng cảm trong tình huống
chiến tranh, những nữ ý tá tận tâm hay những người đàn bà hậu phương một lòng
thủy chung chờ đợi. Các tác phẩm: Mùa chim én bay (1988) của Nguyễn
Trí Huân, Nỗi buồn chiến tranh (1990) của Bảo Ninh, Bến không chồng (1990)
của Dương Hướng, Ăn mày dĩ vãng (1991) của Chu Lai, Hai người
đàn bà xóm Trại (1992) của Nguyễn Quang Thiều, Ở đất kẻ thù (2007)
của Lê Lan Anh… đã mô tả người phụ nữ ở những vai xã hội khác nhau: là người nữ
chiến sĩ anh hùng, người chăm sóc ân cần nơi chiến trường hoặc là người đàn bà
tần tảo, thủy chung nơi hậu phương.
Nói về bối cảnh xã hội Việt Nam trong những năm chiến tranh
chống Mĩ, Hồ Khánh Vân chỉ ra rằng: các phong trào chính trị xã hội đã ghi nhận
sự góp mặt của những người phụ nữ tiến bộ, sẵn sàng đồng hành cùng nam giới
trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tình thế lịch sử đó khiến cho ý thức nữ quyền mang màu sắc chính trị hóa. Đây
có thể là yếu tố làm nên sự tương đồng trong cách phản ánh hình tượng người phụ
nữ Việt với chiến lược tự sự của Winnie Smith mà bài viết đã phân tích ở trên:
chiến lược kiến tạo bản sắc nữ giới ngang hàng với bản sắc nam giới. Thực tế,
xu hướng này đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm nghệ thuật Việt Nam ngay từ thời
kì cuộc chiến đang diễn ra khốc liệt. Người mẹ kiêu hãnh nhất là khi “người mẹ
cầm súng”, hạnh phúc lớn của mẹ là chứng kiến “con gái mẹ đã trở thành chiến
sĩ”, người con gái sông La đẹp nhất khi “đạp trên cái chết dáng em hiên ngang”…
Phụ nữ thời kì ấy ít được chú ý ở những trăn trở, băn khoăn về giới. Bản thân họ
cũng có nhu cầu muốn khẳng định mình như là nam giới. Tuy nhiên, xu hướng này
có liên hệ rất lỏng lẻo với tinh thần khẳng định nữ quyền mà chủ yếu xuất phát
từ nhiệm vụ chính trị lớn của đất nước: nhiệm vụ thống nhất non sông.
Trong Ở đất kẻ thù, Lê Lan Anh mô tả phẩm chất của những nữ dân quân anh
hùng quả cảm như Mi, như Hoa, như Hiền… – những cô gái trẻ không quản gian khó,
hi sinh để góp sức lực vào công cuộc kháng chiến chung của toàn dân tộc. Nhìn
“những khuôn mặt bầu bầu căng tròn sức sống, những ánh mắt rạng rỡ đầy ắp tiếng
cười của các cô gái, nếu không có mấy khẩu súng và cái mũ rơm đội đầu thật khó
ai có thể đoán rằng họ đang đi đến nơi có cái chết rình rập” (Lê Lan Anh 2007).
Nhưng bất chấp thực tế “cái chết rình rập”, họ vẫn lạc quan cất cao tiếng
hát: Hò ơi hò là hò ơi hò…/ Trăm tấn sắt trên vai cô gái/ Vượt băng qua đỉnh
đá tai mèo/ Tiếng hò át tiếng bom rơi/ Mấy sông cũng vượt mấy đèo cũng qua!!!
Hò ơi hò, là hò ơi hò (Lê Lan Anh 2007). Đó là cách mà những người phụ nữ
tự tạo nên sức mạnh để vượt lên trên hiện thực chiến tranh đầy nguy hiểm gian
lao, để một lòng hướng về ngày toàn thắng. Từ điểm nhìn đặc biệt về nữ giới
này, có thể khẳng định lại một lần nữa rằng: con người Việt Nam nói chung không
vì gian khổ hi sinh mà nhụt chí sờn lòng. Ngược lại, tình thế chiến tranh như một
thứ lửa thử vàng để từ đây ánh lên chất vàng ròng của đức kiên trung. Đó là
cách kiến tạo hình ảnh cộng đồng dân tộc Việt thống nhất – sự thống nhất của
tinh thần yêu nước, của khát vọng hòa bình.
Trong không khí toàn dân tập trung lực lượng cho công cuộc
kháng chiến, một hệ quả tất yếu là những khoảng lặng cá nhân riêng tư có xu hướng
mờ đi. Mọi người đồng lòng hòa tiếng nói cá nhân cá thể vào tiếng nói chung của
cộng đồng dân tộc. Cho nên, viết về những phụ nữ ở lại hậu phương, các nhà văn
nhấn mạnh vào phẩm tính thủy chung sự chờ đợi. Điều này được mô tả như mạch nguồn
sức mạnh cho chính họ và cho cả người đàn ông ngoài tiền tuyến. Trong Hai
người đàn bà xóm Trại, sự chờ đợi của người đàn bà hậu phương là điểm tựa tinh
thần cho những người lính nơi chiến trường. Người lính xông pha và hẹn ước: “Đến
tết, kháng chiến thành công chúng tôi về” (Nguyễn Quang Thiều 2011: 144). Người
lính chiến đấu và đinh ninh: “Sắp hòa bình rồi. Chúng tôi sẽ về cả thôi” (Nguyễn
Quang Thiều 2011: 148). Qua ngôn ngữ nhân vật, Nguyễn Quang Thiều nhấn mạnh viễn
cảnh chiến thắng bao giờ cũng song hành với khát vọng trở về. Nhà văn từ đó cho
thấy sự đan bện giữa tình yêu đất nước và tình cảm vợ chồng trong hành trang
người lính khi ra trận. Viễn cảnh hòa bình và sự trở về liên quan trực tiếp tới
một động lực tinh thần to lớn, đó là sự đợi chờ của người đàn bà chốn hậu
phương.
Thứ hai, văn xuôi đương đại Việt Nam đã khắc họa thấm thía những
kinh nghiệm nữ giới về chấn thương do chiến tranh. Trong văn học chiến tranh, lịch
sử và kinh nghiệm nữ giới vốn ít khi xuất hiện ở vị trí trung tâm. Thực tế này
có thể xuất phát từ quan niệm rằng, người phụ nữ đang ở “nhà” và được an toàn
chứ không phải ở “chiến trường” và không có trải nghiệm đau thương về chiến
tranh như những nam quân nhân trực tiếp chiến đấu. Tuy nhiên, lịch sử cũng đã
cho thấy: có nhiều hơn một cách mà con người bị tổn thương bởi chiến tranh.
Trong vùng chiến, người phụ nữ phải chịu đựng nhiều hình thức bạo lực, đặc biệt
là bạo lực tình dục, tra tấn và cái chết. Họ cũng không ngừng phải đối mặt với
những sang chấn tâm lý vô hình và thậm chí có thể rơi vào tình trạng rối loạn
thần kinh. Ngay cả những người được coi là không tham chiến đều có trải nghiệm
đau thương của riêng họ, trong đó phải kể đến tình trạng khủng hoảng giới
tính. Miền đời quên lãng (1989) của Nguyễn Tham Thiện Kế, Nỗi buồn
chiến tranh (1990) của Bảo Ninh, Bến không chồng (1990) của
Dương Hướng, Vĩnh biệt mười chín con gà trống (1990) của Nguyễn Quang
Lập, Ăn mày dĩ vãng (1991) của Chu Lai, Người sót lại của rừng
cười (2003) của Võ Thị Hảo, Tiểu thuyết đàn bà (2008) của Lý
Lan, Người về bến sông Châu (2016) của Sương Nguyệt Minh… đã cho thấy
những “mảnh vỡ” thân phận cá nhân trong tình huống chiến tranh và hậu chiến.
Nơi không gian “tuyến đầu”, rừng thiêng trở thành chốn “vật
hóa” con người mà nhiều phụ nữ sống trong rừng là nạn nhân ám ảnh. Trong Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh, sự “vật hóa” ấy được mô tả với những ấn tượng
kinh hãi qua chi tiết người – vượn: “khi ngả ra, cạo sạch bộ lông thì hóa
ra: con vật hiện nguyên hình là một mụ đàn bà béo xệ, da sần lở, nửa xám, nửa
trắng hếu, cặp mắt trợn ngược…” (2007). Và ở chiều kích khác, cũng nghịch cảnh
không kém, rừng vừa “vật hóa” con người, vừa “người hóa” con vật, khiến người
ngỡ khỉ, khỉ ngỡ người, như Nguyễn Tham Thiện Kế tái hiện trong Miền đời
quên lãng. Câu chuyện liên quan đến số phận của một người lính từng bị lãng
quên nơi miền rừng có con với một người đàn bà luống tuổi, đến lượt mình, người
đàn bà ấy làm thất lạc đứa con vào tay khỉ độc. Và rồi, chính khỉ độc đã bao bọc,
nuôi dưỡng đứa trẻ bằng tất cả sự chu đáo, ân cần của một người mẹ. Chị trở nên
dở điên dở dại, gặp bất kì người thợ săn nào vác súng vào rừng cũng hớt hải chạy
theo van nài: “Ông ơi, ông đừng bắn khỉ nhé, khỉ nó là con tôi, đừng vì chút
xương nấu cao mà ông giết con tôi, ông nhé” (1989). Cùng mạch chủ đề về tình trạng
nhiễu căn tính người – vật, Người sót lại của rừng cười của Võ Thị Hảo
kể về cuộc đời những cô gái trẻ làm nhiệm vụ giữ kho quân nhu trong rừng Trường
Sơn. Một mặt, điều kiện sống khắc nghiệt nơi rừng thiêng nước độc làm mai một vẻ
đẹp nữ tính, biến mái tóc óng mượt dài chấm gót của Thảo trở thành “một túm sợi
mỏng mảnh xơ xác”. Mặt khác, “nỗi cô đơn đặc quánh” chốn rừng già khiến những
người đàn bà dần trở thành hoang dã: hoang dã trong điệu cười man dại, trong
vóc dáng trần truồng xõa tóc như một con vượn trắng. Họ tham gia cuộc chiến
nhưng gần như bị lãng quên trong chính cuộc chiến ấy, và kết cục, người thì
vĩnh viễn nằm lại nơi rừng cười, người sống sót trở về thì lạc lõng và bị xem
như một kẻ điên giữa thời bình. Câu chuyện khép lại trong nỗi đắng cay nghiệt
ngã về một thân phận nữ bước ra từ chiến trường khốc liệt: “Em là người sót lại
của rừng cười, nhưng hạnh phúc chẳng còn sót lại nơi em” (2005). Chiến tranh dù
đã kết thúc nhưng người đàn bà ấy chẳng thể nào thoát ra khỏi sự bủa vây của những
kí ức đau buồn.
Ở phía khác, chốn hậu phương, nhiều người phụ nữ Việt Nam
trong và sau chiến tranh đã phải gánh chịu những nỗi đau tinh thần tan hoang.
Có bao nhiêu người con trai ra trận thì (gần như) có bấy nhiêu người mẹ khóc
mong con, bấy nhiêu người vợ khóc mong chồng. Trong tản văn Bên ô cửa những
toa tàu thời chiến, Nguyễn Quang Thiều viết về sự chờ mong khắc khoải của người
mẹ đến hóa thành điên dại: “Ở ga Tía, thuộc huyện Thường Tín của Hà Nội mở rộng
bây giờ, người ta thường thấy một người đàn bà mắc bệnh tâm thần. Ngày ngày bà
lang thang trên sân ga. Cứ mỗi khi có một chuyến tàu dừng lại, bà lại hỏi những
hành khách xem có ai thấy thằng Đức con bà đâu không? Đó là một người lính đã
xa mẹ mình năm 18 tuổi đi vào mặt trận” (2012: 50). Câu chuyện liên quan đến một
số phận, một nỗi đau mà Nguyễn Quang Thiều tận chứng trên quê hương mình, nhưng
câu chuyện cũng là đại diện cho hàng trăm ngàn số phận, trăm ngàn nỗi đau của
những người mẹ khác ở khắp các miền quê trên dải đất hình chữ S. Đất nước yên
tiếng súng, nhưng nỗi đau của bao người mẹ mất con thì không khi nào yên lắng.
Hình ảnh những chuyến tàu, trong ngữ cảnh này, trở thành một biểu tượng. Nó gợi
nhắc nỗi ám ảnh về sự chia lìa, mất mát – một thứ chứng tích đau thương mà chiến
tranh để lại cho dân tộc Việt Nam.
Nếu với những người đàn ông bước vào chiến trận, “chẳng ai
còn nguyên tác mà cha mẹ đã sinh thành” (Ngắm bóng mờ, Nguyễn Tham Thiện Kế),
thì với những người phụ nữ ở lại hậu phương, bi kịch bị đánh mất quyền làm vợ,
làm mẹ biến họ trở thành những hòn vọng phu đầy cam chịu và thương tổn. Nói về
tác động của chiến tranh tại Việt Nam lên trải nghiệm của phụ nữ Mĩ, Carol
Acton lưu ý rằng: “khuôn mẫu điển hình về người phụ nữ của những ngôi nhà đẹp,
những người chồng và những đứa con yêu thương” (2014: 96) đã bị phá hủy. Khuôn
mẫu ấy cũng đổ vỡ hoàn toàn khi nhìn vào số phận những người phụ nữ Việt Nam
trong và sau chiến tranh. Trong Hai người đàn bà xóm Trại, Nguyễn Quang
Thiều viết về những người phụ nữ nông thôn Việt Nam qua hai tầng chịu đựng. Chiến
tranh đã buộc người đàn bà hậu phương đi qua tháng năm thanh xuân trong vò võ
cô độc. Đạo đức xã hội một lần nữa trở thành áp lực vô hình buộc họ phải kìm
nén những ham muốn về thể xác. Hai người phụ nữ trong câu chuyện của Nguyễn
Quang Thiều đã lựa chọn một lối sống khắc kỷ ở không gian xóm bãi chật hẹp bên
bờ sông Đáy. Nhưng cảm xúc của con người, đặc biệt là nỗi khao khát bản năng
trong vô thức vốn có những mạch ngầm nằm ngoài sự kiểm soát của lí trí. Nguyễn
Quang Thiều đã khơi trúng cái mạch ngầm ấy để cho thấy đời sống tâm lí đàn bà đầy
ẩn ức. Trong giấc mơ của bà cụ Mật, người lính trở về là một người đàn ông khác
không phải chồng bà. Đó là diễn biến tâm lí thành thực nhất thuộc vùng vô thức
bất tuân lí trí. Hóa ra, bà cụ Ân và bà cụ Mật đã cùng mong ngóng một người đàn
ông. Dù niềm mong ngóng ấy, với bà cụ Mật, không phải là tiếng nói được dễ dàng
thừa nhận/ chấp nhận, thậm chí bởi chính bà. Nhưng xét cho cùng, hé lộ vùng ẩn ức
nén sâu chôn chặt chính là cách nhà văn từ chối thánh hóa con người để chia sẻ
tận cùng những mảng khuất lấp nhân bản của cảm xúc người. Gián đoạn huyền thoại
về người đàn bà hậu phương trong vai những người vợ, người mẹ như là “thánh nữ”
hi sinh cho chiến thắng, Nguyễn Quang Thiều kiến tạo một tiểu tự sự về chân
dung phụ nữ như một “con người”.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, trải nghiệm của nữ giới về chiến tranh đã trở thành một chủ đề quan trọng trong văn xuôi Việt Nam đương đại. Đây là mạch nguồn phong phú của văn chương Việt và vẫn đang tiếp tục được khai thác hiệu quả bởi nhiều cây bút thuộc các thế hệ khác nhau: lớp nhà văn sinh ra, lớn lên trong thời chiến, trực tiếp/ gián tiếp can dự vào nó, lớp nhà văn hậu sinh chiêm nghiệm về nó. Nhìn lại những thành tựu văn chương viết về trải nghiệm của nữ giới liên quan đến chiến tranh ở Việt Nam trong cả hai nền văn học Việt Nam và Hoa Kì, phải thấy rằng, cuộc chiến ấy đã trở thành mạch nguồn khởi sinh một lượng tác phẩm vô cùng đồ sộ và đa dạng chiều kích tư tưởng. Nghiên cứu so sánh văn học Việt – Mĩ về trải nghiệm nữ giới trong chiến tranh ở Việt Nam là con đường cần thiết để nhận diện những thành tựu, đặc trưng cơ bản của dòng chủ đề này trong nền văn học mỗi quốc gia cũng như xác lập những giao điểm chung giữa các trang viết, hướng tới những tiếng nói tôn trọng, hiểu biết, đồng cảm lẫn nhau trên tinh thần phổ quát quốc tế.
Tài liệu tham khảo:
1. Acton Carol (2014). “Dangerous Daughters: American Nurses and Gender
Identity in World War One and Vietnam”, in War, Literature, and the Arts: an
International Journal of the Humanities 13/1&2(2001): 87-113. Web. 31
January.
2. Bảo Ninh. 2007. Nỗi buồn chiến tranh. Hà Nội: Nxb Văn học.
3. Đinh Xuân Dũng (2004). Văn học văn hóa tiếp nhận và suy nghĩ, Nxb Từ điển
Bách khoa, Hà Nội.
4. Hồ Khánh Vân. 2020. Phê bình nữ quyền và văn xuôi nữ giới Việt Nam, Trung Quốc
đương đại (nghiên cứu trường hợp Dạ Ngân và Thiết Ngưng). Luận án Tiến sĩ. Trường
ĐHKHXH&NV-ĐHQGTPHCM, tr.71-72.
5. Katherine Dabrieo (2014). The Female Experience of War in Tim O’Brien’s “The
Things They Carried”, Master of Arts, Salem State University.
6. Lê Hương Thủy. 2020. “Chiến tranh nhìn từ truyện ngắn của một số cây bút nữ”
http://vannghequandoi.com.vn/binh-luan-van-nghe/chien-tranh-nhin-tu-truyen-ngan-cua-mot-so-cay-but-nu_11007.html
7. Lê Lan Anh. 2007. Ở đất kẻ thù. NXB Văn học.
8. Lê Thị Hường (2014). “Chiến tranh qua cảm thức nữ giới”, Tạp chí Văn nghệ
quân đội, Số 792.
9. Nguyễn Quang Thiều. 2011. “Hai người đàn bà xóm Trại”. Nguyễn Quang Thiều
Tác phẩm chọn lọc. Nxb Phụ nữ.
10. Nguyễn Quang Thiều. 2012. “Bên ô cửa những toa tàu thời chiến”. Có một kẻ rời
bỏ thành phố. NXB Hội Nhà văn.
11. Nguyễn Tham Thiện Kế. 1989. Miền đời quên lãng. NXB Lao động.
12. Norman, Elizabeth. 1990. Women at War: The Story of Fifty Military Nurses
Who Served in Vietnam. Philadelphia: University of Pennsylvania Press.
13. Pamela Smiley (2002). “The Role of the Ideal (Female) Reader in Tim
O’Brien’s The Things They Carried: Why Should Real Women Play?”, Massachusetts
Review 43.4 (Winter 2002): 602- 613. Literature Resources from Gale. Web. 19
June 2011.
14. Smith, Winnie. 1992. American Daughter Gone to War: On the Front Lines with
an Army Nurse in Vietnam. New York, NY, William Morrow and Company, Inc.
15. Susan Farrell. 2003. “Tim O’Brien and Gender: A Defense of The Things They
Carried.” CEA Critic 66.1 (2003): 1-21. Literature Resources from Gale. Web. 30
May 2011.
16. Tal, Kali. 1996. Worlds of Hurt: Reading the Literatures of Trauma.
Cambridge: Cambridge University Press.
17. Trần Đăng Trung. 2018. “Nghiên cứu văn học ở Mỹ viết về chiến tranh Việt
Nam”. Tự sự về chiến tranh trong văn học Việt Nam đương đại (Đỗ Hải Ninh biên
soạn). NXB Lao động. tr.265-279.
18. Van Devanter, Lynda. 2001. Home Before Morning: The Story of an Army Nurse
in Vietnam. Boston: University of Massachusetts Press.
19. Võ Thị Hảo. 2005. “Người sót lại của rừng cười”. Tuyển tập truyện ngắn. Hà
Nội: NXB Phụ nữ.
15/12/2024
Đặng Thị Bích Hồng
Theo https://vanvn.vn/
.gif)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét