Nguyễn Tuân - Người thi sĩ tài hoa
trong Vang bóng một thời
Trên đường đi tìm cái đẹp của thời xưa yêu dấu như những
áng mây cách xa chừng vài chục năm thôi, từng trang của Vang bóng một thời được
viết nên bởi một tâm hồn thi sỹ tài hoa – Nguyễn Tuân…
Không phải ngẫu nhiên mà cậu Sen kẻ Bưởi – cái biệt danh thân
thiết người đời gọi Tô Hoài, lại chọn Nguyễn Tuân làm nhân vật chủ chốt trong
thiên hồi ký Cát bụi chân ai nhiều dí dỏm, chua cay và không biết bao
nhiêu là não nùng trần ai của ông. Thảo nào mà tôi cũng như bao người khác đã
và đang mê đọc Nguyễn Tuân, đặc biệt là Vang bóng một thời ngay từ
khi còn trẻ. Nhưng càng về già, khi thấu hiểu lẽ đời và ở cái tuổi người ta ai
nấy đều muốn tìm lại sự thanh bình của quá khứ giữa thời buổi ồn ã của xã hội thị
trường, lại càng muốn đọc. Sự trải nghiệm dư vị đắng cay của lòng trung thực
cũng như sự thật phũ phàng về tráo trở của người đời thì càng yêu thêm những
giá trị nhân bản trong văn chương Nguyễn Tuân tỏa ra từ cái ánh sáng lấp lánh
yêu thương và nhiều khi mờ tỏ của cái ngày xưa dường như mới xảy ra ngày hôm
qua và cái ngày nay của lương tâm con người, làm nên vẻ đẹp kỳ lạ có một không
hai trong văn chương Việt Nam hiện đại.
Tôi đọc sách Tùy viên thi thoại của Viên Mai ở quyển 2 thiên thứ 28 thấy ông ấy kể lại trong mơ một kẻ ăn mày bận áo mão đời xưa nói rằng: Văn các đời Ngụy, Tấn là thơ trong văn. Thơ các đời Tống, Nguyên là văn trong thơ. Nhiều nhà văn lớn cổ kim đông tây, trong văn của họ có thơ và họ là nhà thơ trữ tình đích thực trên chiếu trải văn xuôi mọi thời đại. Nguyễn Tuân là một người như thế trong Vang bóng một thời.
Nghe nói lúc sinh thời, ông Nguyễn Tuân cũng làm thơ. Kịp khi
người bạn vong niên tóc trắng da đồng của tôi – nhà thơ Ngô Thế Oanh có chép
tay cho ba bài thơ của ông Nguyễn lên trên mặt sau của mấy tờ lịch cũ.
Bài Say và Khúc tương tư viết theo thể lục bát, song thất lục bát
đăng trên tờ An Nam tạp chí số 5 ngày 1 tháng 12 năm 1932. Và bài Giăng liềm viết
về sự hồi sinh của Điện Biên Phủ theo thể thơ tự do đăng trên báo Văn học số 22
ngày 25 tháng 12 năm 1958. Cách nhau đúng 26 năm! Tôi giật mình sửng sốt vì
không nghĩ đó là Nguyễn Tuân. Nếu như ông Nguyễn lấy nghiệp viết thơ làm chính
thì không biết có được ngồi gần cùng chiếu với ông Tản Đà để mà nợ men gấp mấy
nợ tình, cõi trần ướm hỏi Lưu Linh mấy chàng hay không? Nhưng sự đời lại không
bao giờ có chữ nếu như thế xảy ra. Cái mệnh của ông Nguyễn là làm thơ trên những
dòng văn xuôi chải chuốt vô tiền khoáng hậu mà tôi được thấy.
Trên đường đi tìm cái đẹp của thời xưa yêu dấu như những áng
mây cách xa chừng vài chục năm thôi, từng trang của Vang bóng một thời được
viết nên bởi một tâm hồn thi sỹ tài hoa. Nguyễn Tuân viết truyện ngắn của ông
không phải bằng sự lạnh lùng thường thấy của người viết văn xuôi mà bằng cảm
xúc thiết tha hòa quyện tự nhiên với nghệ thuật lựa chọn ngôn từ điêu luyện vốn
là đòi hỏi nghiêm cẩn và trước tiên của thi ca đã làm nên chất thơ vừa dạt dào
cảm xúc vừa kiêu bạc sang trọng mà trang nhã một cách quý phái. Người ta thường
nhấn mạnh cái chất khinh bạc cùng với biểu hiệu ông vua tùy bút. Nhưng trong
văn ông còn đậm đà cảm xúc trữ tình say đắm của một thi nhân. Hãy xem một đôi
dòng ông viết trong truyện Thả thơ: Và trên trần, có một gia đình đang lúng
túng vì sự hiu quạnh…
Trời đất ôi! Trên mấy gốc tre cằn không đủ gây thành bụi ấm,
trận gió thanh bạch cứ lào rào thổi mãi và cảnh cô quạnh ấy của cha con quan phủ
vào buổi xế chiều bên cạnh cái lâu đài quyền lực với tường thành, lầu canh đang
phai tàn giống như chính cuộc đời của họ. Tiếng trống phủ trên lầu canh cứ điểm
những tiếng vô vị vào một tư thất lạnh lẽo… Có những đêm mưa to gió lớn làm
nhòe đi tiếng trống phủ cầm canh. Vâng. Nhòe đi tiếng trống phủ cầm canh. Đã
như một câu thơ nguyên vẹn mất rồi.
Văn chương Nguyễn Tuân là sự trang trải giữa cái sang trọng với
sự tràn ngập của cảm xúc trữ tình được đặt trên nền tảng và sự soi sáng của chủ
nghĩa nhân văn.
Có người chê Bạch Cư Dị hồi ở Hàng Châu, thơ nhớ
nhung kỹ nữ nhiều hơn là thơ nhớ nhân dân. Lời bàn người xưa cho là thô lậu ấy
chẳng thể cản trở được sự trường tồn của văn chương Hương Sơn cư sỹ! Văn của
Vang bóng một thời cũng thế. Nghệ thuật thi ca của Nguyễn Tuân là đi tìm cái đẹp
thanh cao ở những kiếp đời trần tục cay đắng nhất. Nguyễn Tuân nâng niu trân trọng
với cảm xúc về cái đẹp thanh nhã và sự lương thiện ở những phận người thất thế,
đen bạc và cùng cực. Người hỏng thi. Lại là của Khoa thi cuối cùng. Thấy dặm
hòe vùng Sơn Nam Hạ ngả màu vàng thì lòng bắt đầu bận bịu. Dưới mảnh trời sụt
sùi hoa hòe nở đều, làm ấm lại lòng người sỹ tử đi thi trên những con thuyền nhỏ
li ti đi về như lá tre rụng mùa thu giữa xứ đồng chiêm nước ngập nuốt hẳn bờ. Cảnh
sắc tựa như san sẻ, neo về nỗi buồn không lấy lại. Tại nhà trọ ở thành Nam, người
hỏng thi vẫn chơi sang bằng việc uống hết ba bình rượu cúc vào một đêm dài nhất
trong một đời người…
Với người tử tù chờ thi hành án chết thì hỏi còn vương vấn và
khí phách nỗi gì? Vậy mà Nguyễn Tuân đã tìm ra vẻ đẹp vừa ngang tàng vừa khoáng
đạt của một bậc nho gia. Chữ viết đẹp lắm, vuông lắm như nhân cách của ông Huấn
Cao vào lúc đời thường thường rất khảnh. Chỉ viết chữ cho người tri kỷ. Mà có
chữ ấy treo lên là một vật báu trên đời. Tôi đọc nhiều lần Chữ người tử tù, chẳng
hiểu sao lại bâng khuâng nhớ nhà thơ được đời gọi là bậc thánh Cao Bá Quát mà
cách đây đã lâu tôi về tận quê ông ở làng Sủi, bên kia sông Hồng, trèo lên bệ
cao đánh chiếc khánh đá cổ phát ra cho đủ 9 tiếng trầm buồn, cũng như leo lên
núi Sài Sơn tìm bài thơ Cao Chu Thần đã viết. Nguyễn Tuân dựng lại cảnh người tử
tù Huấn Cao viết chữ mang một giọng điệu sử thi: Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh
Sơn chỉ vẳng tiếng mõ trên vọng canh, dưới ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu,
Người tử tù đã viết chữ trên khuông lụa trắng để viên cai ngục phải chắp tay
vái với dòng nước mắt nghẹn ngào cảm phục về tài năng và nhân cách. Người tử tù
trở thành người bề trên dạy bảo kẻ đương quyền kia hãy tìm nơi lương thiện mà sống.
Chữ người tử tù là bài thơ hay nhất về chữ tượng hình.
Cũng như thế, ông Nguyễn Tuân dựng lên khung cảnh huyễn hoặc
trong sự chuẩn bị và đối thoại hết sức bình thản của những kẻ cướp giang hồ với
những cái tên dân dã: bọn Huần, Cai Xanh, Phó Kinh, Lý Văn… mà ông thân ái gọi
là Những kẻ bất đắc chí được gói gọn trong 3 chữ Nghèo – Cực – Khái đi lấy chỗ
tiền bạc của bọn bất nghĩa đem chia cho anh em khác nghèo như mình. Cả những thứ
vũ khí cũng được gọi bằng những tên thật nhã: bút chì, bút chùng… Nguyễn Tuân
không mô tả trực tiếp vụ cướp mà chỉ muốn người ta nhìn thấy cái vẻ đẹp tình
người của tiếng bạc ấy.
Tìm ra cái đạo lý làm người và vẻ đẹp dung dị mà cao sang của
những việc sinh hoạt đời thường như uống trà, đúng hơn là uống trà tàu và việc
đánh bạc bằng thơ; cảm hứng thi ca của Nguyễn tìm thấy vẻ đẹp của những kẻ hết
thời, thất thế. Những chiếc ấm đất, Chén trà trong sương sớm. Đánh Thơ, Thả
Thơ… Những quan viên đang tại vị bây giờ, những người mà Nguyễn Tuân gọi là cái
xã hội đàn ông mặc áo xanh ẩm ướt, không hiểu có giật mình và đỏ mặt khi đọc những
truyện ấy trong sự thích thú ngấm ngầm hay không?
Có người so sánh Edgard. A. Poe với Nguyễn Tuân và cho rằng
văn của Poe cảm xúc sơ sài thôi. Văn của Nguyễn Tuân cảm xúc lại vô cùng tinh tế.
Tôi không dám chắc điều này. Bởi sự kinh dị đầy linh ứng của Poe trong nguyên bản
tiếng Anh. Có điều rõ ràng là hầu hết các câu chuyện của Vang bóng một thời thật
giản dị. Nguyễn Tuân tựa vào cái cốt chuyện giản dị không khêu gợi bằng những
tình tiết éo le ấy để từ đó dọc theo con đường đi tìm cái đẹp phần nhiều trong
nỗi hoài nhớ ngày xưa nhằm bày tỏ và đôi lúc dâng lên như lên đồng cảm xúc thi
ca về vẻ đẹp muôn thuở của con người mà ta lại dễ dàng nhận thấy đó là cảm xúc
và tình yêu đôi khi thiên vị cho văn hóa của cả một vùng đất với những đặc
trưng riêng không gì pha trộn được. Vì lẽ ấy, văn của Nguyễn Tuân sẽ còn lại
mãi.
Tôi đọc Vang bóng một thời thấy dường như phảng phất
văn hóa xứ Đoài ở đâu đây. Cái xứ sở nghèo túng nhàn nhạt pha trộn giữa cái xưa
cũ của mới ngày hôm qua với cái bóng dáng nghìn năm chưa mất của sông núi và
cõi đời đâu đó vẫn còn ẩn hiện tới bây giờ. Đó là bài thơ ẩn chứa một tiếng thở
dài của nơi tôi sinh ra và bị nhiễm vào cái đó từ buổi thiếu thời. Không có ở
đâu nhiều đình chùa cổ và sự tích làm người như ở nơi đây. Đó là nơi muôn năm của
cái cũ. Cái tàn lọng của quá khứ cứ che bóng người đi ở xứ sở này. Nguyễn Tuân
thật kỳ tài khi viết về điều đó. Mặc dù ông không phải là người Sơn Tây. Văn hiến
xứ Đoài chính là cái tàn lọng của quá khứ ấy che cái bóng nhiều huyền thoại và
lãng tử trong văn chương Vang bóng một thời. Trên đỉnh non Tản. Chữ người tử tù
và nhất là Ngôi mả cũ.
Hồi năm 1940, nhà văn Thạch Lam coi Ngôi mả cũ là
truyện hay nhất của tập. Tôi không đồng với ý đó của ông. Nhưng rõ ràng câu
chuyện ấy mang đậm phong vận xứ Đoài, trên cái chiếu đất dằng dặc mùi côi cút ở
rừng Hưng Hóa. Ở thành Sơn Tây, người ta vẫn thường nghe thấy tiếng kèn tàu,
loa đồng và trống trận nổi lên trong thành xây đá tổ ong của tỉnh Sơn, nơi quân
cờ đen tế cờ thu quân. Rồi thì cái đoạn đường vỏn vẹn chừng trên dưới 30 dặm
bây giờ vẫn còn đó mà xa xôi hoài niệm quá chứng với những cái tên xóm tên làng
đến giờ còn chưa đổi. Làng Vòng. Làng Nhổn. Trạm Trôi. Phủ Hoài. Sơn…
Qua con mắt thi sỹ Nguyễn Tuân mà hình dung ra cái đằng đẵng
của con đường xứ Đoài cát bụi và xiêu diêu ấy. Cả cái bến đò sông Hát cổ xưa đã
bị đất và cỏ vùi kín tự bao giờ mà sao Vang bóng một thời còn cho các
nhân vật của mình đi qua thật là chậm chạp trong thấp thoáng bóng nước, bóng
mây của thời xưa cũ. Cũng phải thôi. Vì cách thời ấy không xa, trong một cuốn
du ký có tên là Một chuyến du hành đến đàng ngoài của một người phương Tây –
William Dampiere viết năm 1688 nói rằng từ phố Hiến phải mất 2 ngày mới lên được
Kẻ Chợ. Có người bảo với tôi truyện ngắn Trên đỉnh non Tản là thiên tùy bút, là
bài thơ đặc sắc nhất về đồng đất xứ Đoài, nơi con người trong mỗi thôn làng sống
chung với huyền thoại ngấm vào giọng nói của họ còn lại mãi từ ngàn xưa. Là bởi
vì theo Nguyễn Tuân, trong bốn vị tứ bất tử của nước Nam ta thì người hay biến
hóa nhiều nhất và tàng hình lẫn vào đám người trần mắt thịt là thánh Tản Viên.
Và ông Phủ Quốc chỉ lỡ miệng nói mấy câu: đứng ở mái Nam đền Thượng nhìn xuống
trông được cả khói của kinh thành Thăng Long… mà thánh phạt vì lộ thiên cơ phải
lăn đùng ra chết. Viên đá cuội vô tri đã hai lần mang sứ mệnh con người trong
Vang bóng một thời. Lần trước là Hương cuội làm cái cớ cho mấy vị hàn nho uống
rượu ngâm thơ. Lần này đá cuội mang trộm từ đỉnh núi Tản về trong tay viên Phủ
Quốc vừa lăn ra chết đập ra có mùi hương đượm của quả men rượu ủ trấu… Vỏ đá cuội
còn lại đem thả vào bát nước mưa kinh niên uống thấy say ngát vô cùng! Rõ thật
là Nguyễn Tuân. Và tôi biết trong mỗi người đàn ông xứ Đoài bây giờ vẫn còn giấu
một mảnh vỏ đá như thế, mỗi khi họ bước vào một cuộc thành bại ở đời.
Chao ôi! Bóng dáng thời xưa của văn hiến xứ Đoài cứ như che lọng
trong Vang bóng một thời. Văn chương của thi sỹ Nguyễn Tuân đã bảo tồn giá
trị văn hóa của cả một dải đất phía tây Kinh thành Thăng Long giờ đã ít nhiều
mai một. Sực đến khi Cát bụi chân ai ra đời, ông Tô Hoài viết: Cuộc đời phóng
túng và nếp nhà quan các cụ nội đại thần trị nhậm đất Sơn Tây, đã in đậm, đã mờ
chồng lên ngày tháng đời con đời cháu tự bao giờ… Chữ người tử tù, Đỉnh
non Tản và tất cả vang bóng của ông đều phảng phất Sơn Tây. Tôi không chắc
hẳn là như thế. Lúc sinh thời, không thấy nói cụ tú Hải Văn, tú tài khoa thi
sau cùng, thân phụ Nguyễn Tuân đã từng trị nhậm ở đất này…
Chỉ thấy Nguyễn hay cùng Tô Hoài, Nguyên Hồng lên Sơn, thường
ngồi bên hào nước của tòa thành đã đổ nát dưới thời gian và dưới gốc cây sữa đã
quá nhiều cằn cỗi quên cả nở hoa theo mùa ở nơi nửa tỉnh nửa quê. Nhưng tìm làm
chi cái nguồn gốc xa mờ đó của văn chương. Hãy để quá khứ yên lặng như thế.
Cũng giống như chúng ta không còn ai tìm nữa ai là người nguyên mẫu của Tóc chị
Hoài. Mặc dầu, ở Sà Goông, có người đàn bà nhận thầm qua bao nhiêu mưa nắng năm
trường trong đời người và trong cách trở Bắc Nam là bóng dáng ấy đấy thôi. Cũng
như thân phận của cô đào Chu Thị Năm, người cùng thời với ca nương Quách Thị Hồ,
dõi theo chàng Nguyễn lên chiến khu Việt Bắc thời kháng Pháp. Chàng đi đâu nàng
cũng biết và thường gửi vàng cho chàng tiêu pha… Người ấy đã mờ hẳn, đừng có mà
tìm ở phố Khâm Thiên vì cuộc bể dâu, ta chỉ còn tên phố bây giờ…?
Trở về với văn chương Nguyễn Tuân, đâu chỉ để yêu một thời đã
qua. Cuối thế kỷ 20 và tràn sang thế kỷ 21, một số người muốn đi tìm góc tối của
cái ban ngày. Vết sẹo sau lưng của bức tượng thờ muôn thuở. Mùi xú khí giả tưởng
của hoa tử đinh hương. Treo cái tục tĩu vào cổ tượng đài vốn được coi là thiêng
liêng… Tức là mỹ học của việc đi tìm cái xấu xí trong cái đẹp. Một con đường
khác ngược lại với con đường của Nguyễn Tuân. Mặc dầu con đường của Nguyễn
không phải lúc nào cũng êm xuôi cả. Ví như tôi hơi ngờ ngợ khi người ta cố gắng
gắn vào cái ý nghĩa xã hội nào đấy của Bữa tiệc máu hay Chém treo ngành.
Trong Vang bóng một thời, chỉ có một lần duy nhất, ông Nguyễn
Tuân đã để chủ nghĩa duy mĩ của mình đi hơi xa một chút. Xa đến mức thiếu chút
nữa người đọc cảm thấy cái đẹp của Chém treo ngành ở cái đoạn đao phủ Bát Lê tập
chém người bằng cách vừa chém chuối vừa hát, hay việc mô tả chẻ đôi cây tre đực
dài ra cặp cổ người tử tù như lối cặp gắp chả chim mà nướng… Nói thế để cho hết
nhẽ. Không ai phản đối và cũng không việc gì phải phản đối mỹ học đi tìm cái xấu
xí trong cái đẹp. Nhưng văn chương tuyệt đối không phải là nơi tôn thờ sự tục
tĩu tầm thường, đi ngược lại những giá trị nhân bản của con người. Người xưa từng
nói: Nhờ văn mà kinh luân được quốc gia. Chỉnh lý được pháp độ. Làm vẻ vang cho
sự nghiệp. Làm giàu đẹp cho văn tự… Sự tục tĩu tầm thường mang dáng vẻ của sự
phá cách, liệu có làm được những điều ấy chăng? Người viết văn chưa kịp làm được
việc góp phần chấn hưng đất nước mà có thể, rất có thể lại làm trầm trọng thêm
những tai ương của thời cuộc trong cơn bế tắc của chính người viết. Tất cả người
cầm bút không ai mong muốn điều đó.
Sang năm 2017, đúng 30 năm Nguyễn Tuân trở về giời. Cuộc đời ông xê dịch bốn biển là nhà mà lại còn thiếu quê hương nữa. Không biết giờ này ông đang ở đâu? Cái tín ngưỡng của người Việt chúng ta muôn đời quan niệm rằng: người cõi âm ở chung với người trên dương thế. Ngày tết lễ, họ ở ngay trong nhà ngày xưa. Nhưng Nguyễn Tuân có biết bao nhiêu nhà.
Nhà số 49 Hàng Bạc. Bao lâu rồi nó vẫn khép nép đứng ở góc
này bởi số 47 nhô ra một chút. Cạnh đó, nhà 51 lại được trùng tu bởi một dự án
giữa tỉnh Toulouse – Pháp với Ủy ban Hà Nội. Có treo biển đồng hẳn hoi. Không
hiểu họ có nhớ sát vách 51 là nơi sinh thành của một trong những văn tài đặc sắc
nhất của văn học Việt Nam hiện đại hay không? Phía trước tầng trệt của rìa bên
phải nhà 49 là quầy bán ngọc và sửa chữa đồ trang sức bằng bạc. Rìa bên trái là
lối nhỏ đi vào phía trong sâu lắm.
Một lối kiến trúc đặc sản của nhà phố cổ Hà nội. Có chừng 5 hộ
dân đang ở. Không một ai biết được cái vinh dự họ được ở trong ngôi nhà, cách
đây hơn 100 năm – năm 1910 – Nhà văn Nguyễn Tuân đã cất tiếng khóc chào đời ở
đây. Một đôi vợ chồng già ở ngay phòng đầu tiên của số 49. Như là nghiệp chướng
của chủ nghĩa xê dịch, chủ nhân của 12 thước vuông ấy nghe nói là người Nam Bộ.
Bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc từ 1954 – 1955; Giờ lại trở thành dân phố cổ của
kinh thành Thăng Long xưa, ngày ngày chắp nối quãng đời còn lại bắc cầu cho hai
thế kỷ mịt mù sương khói. Đối chính diện bên kia đường là đình Kim Ngân – Số 42
Hàng Bạc. Ngôi đình được lập ra mấy thế kỷ trước làm nơi thu bạc nén cho sinh
hoạt Hoàng Thành. Bây giờ ở ngôi đình này, cứ 20 giờ đêm thứ 4, thứ 6 và chủ nhật
hang tuần đều có hát ca trù – lối hát thơ đặc biệt của người Việt, bắt đầu xuất
hiện từ thế kỷ 15 gắn với sự ra đời của cây đàn đáy.
Người ta có hẳn một tờ bướm màu rượu vang đỏ giới thiệu ca
trù bằng tiếng Anh. Cái thứ tiếng không có dấu – phương tiện của mấy ông thực
dân, giờ đây rất quen thuộc với người phố cổ. Chẳng khác gì trẻ con mặc váy thổ
cẩm, đeo vòng bạc ở phố núi gần nhà thờ đức mẹ Mân Côi trên Sa pa nói sõi tiếng
Anh như tiếng Mèo. Catru – a form of Vietnamese traditional music, was
recognized by UNESCO in 2009 as a world intangible culture heritage. Dường như,
một lần nữa, trời đất lại chiều lòng cái xê dịch của ông Nguyễn mang tiếng tom
chát bị ngắt quãng đến mức xót xa bởi 3 dây đàn đáy, nghe như nhấc lên đặt xuống
của thân phận con người; cái thứ nghệ thuật vừa thượng lưu vừa trần tục đời thường
lúc sinh thời ông Nguyễn rất thích, về ngay trước cửa nhà nơi ông đã sinh ra.
Cách một ngày nữa là rằm tháng 8. Không khí tết trung thu đã
có mặt dểnh dang ở sân đình Kim Ngân. Người ta treo những chiếc nón quai thao với
quai nón là những rải lụa buông dài đủ màu mà phần nhiều là màu hồng và màu
thanh thiên. Đây đó, đặt một vài đầu sư tử nhiều màu theo kiểu truyền thống có
nhẽ có từ thời Nguyễn Tuân. Tôi bước vào trong đình đặt mấy đồng bạc lẻ lên bàn
thờ lễ, cầu may được thấy Nguyễn Tuân. Dường như, ở bên số 49, Nguyễn Tuân tay
cầm gậy song, mặc bộ áo cánh lụa màu cậy nhà Phật, vốn là quà tặng của một người
nhận thầm là Tóc chị Hoài tặng cho nhà văn sau năm 1975.
Trời mùa này ở phố cổ Hà Nội dâng lên một màn sương khói của
tiết thu se lạnh. Từ đình Kim Ngân này, sớm mai trời còn nhạt mặt người, nhà
văn của chúng ta có thể đi bộ ra Ô Quan Chưởng để đợi bóng những cô hàng rượu từ
bến Bồ Đề sang đây. Nhà văn sẽ nhập vai vào nhân vật của mình có tên gọi Bố Ô
làm người ăn mày rượu đáng yêu trong truyện Yêu Ngôn như ông đã viết. Bây giờ
ông không phải sang sông đến xóm Thượng Cát nghe đào nương hát ca trù trong những
quán bình dân rách rưới và ẩm ướt của Một đêm họp đưa ma Phụng nữa.
Uống rượu bằng bát gỗ ở Ô Quan Chưởng xong, lại về đình Kim
Ngân nghe con cháu Quách Thị Hồ hát ca trù nhấc lên đặt xuống phận người như những
ngày xưa. Có tiếng hỏi. Bốn biển là nhà. Ngài thường ngự tại đâu? Ông Nguyễn bảo.
Cũng tùy. Nhưng thường ở bên số 90 Trần Hưng Đạo. Ở bên ấy còn để chiếc va li
da cũ màu nâu nhạt trên nóc tủ sách. Dường như đó là chiếc va li trong thiên
tùy bút cùng tên viết tặng bà Tuệ, vợ Ông từ hồi ở tỉnh Thanh. Cả những chiếc ấm
đất đặt dưới sàn gỗ và trên những bức họa đang phôi pha dần theo năm tháng. Thi
thoảng đi taxi qua mặt hồ Hoàn Kiếm lên Hàng Bạc nghe hát ca trù.
106 năm. Kể từ khi ông sinh ra. Cuộc đời có biết bao nhiêu xê dịch – Cái con người có lúc đã không biết sợ thời gian nữa. Tự nhận là kẻ không có dĩ vãng. Lắm khi lặng lẽ nhìn vào buổi chiều trơ trẽn mà cảm thán hình như buổi chiều nào cũng đều không có hoàng hôn. Nhưng lại mắc bệnh chơi mưa như thiên tùy bút Chiếc va li mới đã viết: Mỗi lần ở đâu đó gặp mưa lại tưởng như mình già thêm một ít. Con người tưởng như sớm nắng chiều mưa ấy, lại là người ngay từ khi mới cầm lấy sự bút nghiên đã cảm nhận sâu sa cái cao cả và lương tâm của người viết văn đi tìm cái đẹp. Một người viết văn để yêu sống, để tìm nhân loại, đi tìm mình trong nhân loại, để được thấy nhân loại trong mình mình. Đó là lời tâm sự nghề văn say đắm và trang trọng nhất mà ông Nguyễn đã từng nói. Nguyễn Tuân đã ra đi xa lắm. Ba mươi năm rồi. Chỉ còn lại văn chương ghi dấu ấn nhà văn như là một thi sỹ trong Vang bóng một thời đã không mệt mỏi tụng ca và gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống như một phần nhân loại mang tên Việt Nam vẫn còn lại mãi cho muôn đời sau.
14/12/2024
Khuất Bình Nguyên
Nguồn:
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét