"Gốm lưu lạc" của Vân Phi:
Lên men từ xù xì cội đất
Gốm lưu lạc của Vân Phi mang điệu thức trầm
nâu, lặn vào đất đai mà bừng thức lửa nồng nàn. Đất hồn hậu thô tháp, lửa cháy
khát nồng men, hòa quyện trong 36 bài thơ để lại cho người đọc ấn tượng về một
loại gốm nung già. Già trong những ngẫm suy với độ sâu rộng của cảm xúc và tư
duy thơ, trong những trải nghiệm của hồn thơ ngoài ba mươi tuổi mà như đã đi hết
một cuộc người, trong những câu chữ được chắt lọc đủ tinh tế mà vẫn giữ được sắc
màu tự nhiên của đời sống.
Gốm lưu lạc của Vân Phi mang điệu thức trầm nâu, lặn vào đất đai mà bừng thức lửa nồng nàn. Đất hồn hậu thô tháp, lửa cháy khát nồng men, hòa quyện trong 36 bài thơ để lại cho người đọc ấn tượng về một loại gốm nung già. Già trong những ngẫm suy với độ sâu rộng của cảm xúc và tư duy thơ, trong những trải nghiệm của hồn thơ ngoài ba mươi tuổi mà như đã đi hết một cuộc người, trong những câu chữ được chắt lọc đủ tinh tế mà vẫn giữ được sắc màu tự nhiên của đời sống.
Tác giả dụng tâm sắp đặt tập thơ thành ba phần: Theo dấu
thời gian, Đường biên ngẫm ngợi và Điều không định nghĩa, hẳn
không ngẫu nhiên khi mỗi phần vừa chẵn 12 bài, như thể 12 con giáp, vừa chẵn 3
vòng xoay nung ngọn lửa nhân quần. Theo chân chàng thi sĩ chuếnh choáng những
cơn say, người đọc được dẫn dắt qua những vùng miền lưu dấu tích lịch sử – văn
hóa, những đắng đót thế sự, dần đi vào cõi riêng tây. Tất cả được gắn kết, hòa
quyện bởi men – trong ý nghĩa song sinh: men gốm nung chảy
bởi lòng yêu thương chân thật như đất, men say hết mình như trạng
thái thường trực của hồn thơ.
Người thơ nặng lòng với cái đẹp quá vãng, mất dấu, tha hương,
với phận người nổi nênh, những câu hỏi cuộn xoáy muốn bóc đến tột cùng để tìm
ra bản chất tồn tại, thảng thốt trong cuộc đối thoại tha nhân – tự ngã. Gốm
lưu lạc từ đó cũng trở thànhbiểu tượng kép: mảnh gốm thật lưu giữ dấu tích
văn hóa mang dòng nước xứ Đồ Bàn – mang ngọn lửa nung đỏ góc trời Chiêm tự
– mang dáng dấp người xưa sau lũy tre làng – vùi mình hun hút biển sâu – cô đơn
nơi bảo tàng ngoại quốc (Gốm lưu lạc), mà cũng là mảnh-gốm-người trong cuộc
lưu lạc nhân sinh Đôi khi – ta thấy mình lưu lạc – qua đồi thông, qua lăng
tẩm đền đài – qua cánh đồng vụ mùa chín rộ – chảy vào hương tro trấu nghe trần
gian ở đợ – len vào tóc đêm (Trôi), bất giác thấy mình như gió – lưu
lạc lũng khuya (Đường về).
Đọc thơ Vân Phi, người đọc như đi vào những thiên kí sự – những
ghi chép nhanh mà tinh từng chi tiết nhỏ nhặt của đời sống, gửi vào đó những hiểu
biết sâu rộng của người thích dò đến ngọn nguồn lạch sông. Bao nhiêu người đi
chợ Gò của vùng quê Tuy Phước – Bình Định, có chăng tìm chút duyên vừa
nhóm – chút lộc đầu năm – hạt muối chùm cau lá trầu gió chớm, mấy ai kể lại
vanh vách câu bài chòi con Bảy Liễu – Tám Dừng, Năm Dựng, Sáu Ghe – nghe kể
chuyện ai về Trường Úc gieo hạt mai vàng – mấy trăm năm cửa sông ngó về Thị Nại.
Và muối – thứ được anh gọi là “phù sa biển” vốn từng trù phú cánh đồng Diêm
Vân, nay chẳng còn vết dấu. Chỉ còn lại câu hỏi xoáy vào hiện thực như đã sẵn một
sự trả lời với bao tiếc nuối: đi chợ Gò nhớ phù sa biển – bấy nhiêu gian
bày biện – muối nào là muối Diêm Vân…
Không gian văn hóa trong thơ Vân Phi rất rộng, trải dài dọc đất
nước, vang vọng những địa danh thung lũng Công, Thập Tháp, La Vuông, xuôi vào
Nam đến dòng Cửu Long đầy vơi con nước – còn đâu đây chiếc thuyền ngược về
Tonle Sap, ngược ra bắc mà thấy Đêm trên đò vắng – sào khuya treo một ánh
nhìn – qua rồi lưỡi gươm mài sắc – sóng gợn lên dáng dấp đền đài – dòng Hương
trôi, đến Ninh Bình ngắm Mưa lần vết tích mùa thu – phố cổ ướt dầm trong
tranh vẽ, ngược lên Tây Nguyên để băn khoăn Người gùi hơ’ mon về đâu, lắng tiếng
hơ’ mong tăm sủi phía hồn làng, lênh đênh sóng biển Đông trong niềm suy
tư giọt nước tượng hình tự phía nào hơn hai trăm hải lý – phỏng rộp nỗi nhớ
ruộng đồng… Nhưng kí sự, ống kính lia nhanh trong Gốm lưu lạc là kí-sự-thơ,
hiển lộ tính chất thơ của đời sống, nung chảy từ thô tháp đời sống là những vệt
men kỳ diệu đến từng chi tiết, chỉ đôi mắt thơ mới nhìn ra: Phía sau ngọn
đồi, nơi ngọn cỏ ủ giấc mơ làng – con nhện nhả tơ – hạt mưa làm tổ – con tò vò
cõng hạt đất nâu ủ mùa thu bên ngạch cửa – trong giọt giọt nước trời chiêm bao
vũng núi – nghe vọng về tiền sử thâm âm (P-rah Jớ biên niên).
Ký ức văn hóa tan chảy trong những câu thơ giàu sức nặng, âm
vang những trăm năm, nghìn năm, mất còn, xoáy sâu những dấu hỏi: ai, nào,
đâu… thoáng hiện những gương mặt không tên: dấu tích nào thung lũng, dấu
tích nào ngun ngút bờ xưa (Mắt hồ), chiều nào tiếng chuông cổ tự – vọng
vào tháp cổ, ngàn năm mây trắng vẫn bay – đền đài nào lặng dưới đất sâu nghe
loài côn trùng trẩy hội (Giấc cổ tự), Ai về dưới chân núi Chúa – lửa
đỏ lên gian bếp cuối ngày (La Vuông), ai thả trăng vào giấc mơ?,ai về
cuối mùa trăng? – phố xưa khuyết một dáng ngồi (Trên những nét cọ)… Đây
cũng là mảng thơ dày dặn nhấtvới một ngòi bút thơ trẻ, theo nét bút khai phá,
dò tìm đến mạch nguồn cội đất quê hương xứ sở, gương mặt thời gian đau đáu hiện
hình.
Tính chất đất hiện hình trong mảng thơ quê xứ của
Vân Phi, cũng in dấu rõ rệt trong mảng thơ suy nghiệm về đời sống và thân phận.Cảm
hứng thơ anh hướng rõ rệt về những bãi bờ, cánh đồng, dòng sông mang bản chất cội
nguồn, lấm láp, ấm hổi hơi thở nguyên sơ, những điều nhỏ nhoi, bình dị: Ba
muốn ở lại nhà xưa – đã quen rồi hơi ấm – của đất sành quánh quện phù sa – của
vách tường táp lô hằn lên ngấn nước (Trong ngôi nhà ký ức). Anh yêu đến thắt
lòng mùi thơm rơm rạ, hạt lúa thơm bùn bãi, mùi rượu gạo khê nồng, mùi cơm quá
lửa… để đời người nổi nênh, ly hương có chỗ tìm về nương náuCon hồi hương tìm về
đất mẹ – trốn những tai ương chẳng rõ hình hài (Trên từng bước chân quê).
Bức chân dung đời sống trong thơ anh đầy những mảnh vỡ, sứt sẹo,
lẹm khuyết, là đời sống giữ nguyên sự sần sùi nguyên thủy, đời sống mang bản chất
gốm không tô vẽ: Áo anh hụt một bên tay – lẹm khuyết nụ cười đồng đội, ký ức
nào lậm vào khuya – chảy mòn bức vách, gió vạt lõm một bên chiếc bóng (Gió
ăn trăng), Tiếng thở dài của rừng già – vón cục trên cây chò cụt ngọn – tuổi
thơ em cháy sẹm mùi thuốc súng – mắt em vết tích nỗi buồn (Đêm gỗ mục)… Sứt
mẻ đến cả chiếc bóng: Chúng ta đi qua những ngày mòn cũ – đi qua cái bóng
sứt mẻ đời mình – đi qua hơi thở hình những vết khâu (Trôi). Đẹp và đau,
như bản chất trụi trần nhất của đời sống.
Thơ ngập đêm, đêm lầm lũi khâu vá những rách nát tâm hồn, đêm
với những cơn say bất tận, để rồi ban mai tỉnh dậy tự thắp cho lòng đốm
sáng: Buổi sáng thức dậy – thêm một bông hoa đã nở đàn kiến hành
quân qua cửa sổ – chúng thồ trên lưng những mùi hương – thơm mùi nắng ngọt – và
em, cũng kịp treo lên ban công – một nụ cười (Ban mai). Nụ cười hiếm hoi đến
vô giá trong cõi thơ ngập đêm và nỗi buồn, cũng đủ nhen ấm một cõi lòng chưa
bao giờ hết nồng nàn, thèm được rót đầy: em rót gì như rót lửa vào tim, ta
rót cho nhau – mình rót vào phía kiệt cùng trước sau tháng ngày tha thủi (Rượu
hoàng thành). Thơ nồng men theo những cuộc đầy vơi.
Ngôn ngữ thơ Vân Phi, cũng là ngôn ngữ ấm hơi thở chân mộc của
đời sống, khi anh cố tình dùng từ đậm chất thổ âm như vọng âm của đất: xạc
xào, dời dợi, cháy sẹm, quánh quện, đỏ rọc, lụi hụi, và vội… nhưng không vì thế
mà kém tinh tế, sáng tạo. Gốm lưu lạc không ít những từ ngữ giàu sức
gợi, những tổ hợp độc đáo, những suy tưởng mới mẻ: Tóc mẹ đã quện vào ráng
chiều đỏ rẫy, lửa nung nênh trên sóng nước rùng rình, người cõng giõ về khuya,
nghe dư âm vâm váp đường cày trên từng hạt gạo khuya, gió ăn trăng, biển chở một
chiêm bao…
Đó là ngôn ngữ thơ mang tính chất gốm,qua tinh luyện vẫn không mất đi vẻ đẹp chân chất. Từ Ngày mắc cạn (Nxb Hội nhà văn, 2020), đến Gốm lưu lạc (Nxb Hội nhà văn, 2024), Vân Phi đã có một bước nung lửa ngôn ngữ thơ của chính mình. Thể thơ lục bát, những câu thơ đều đặn du dương, câu chữ có phần dễ dãi gần như biến mất, anh hướng đến tổ chức bài thơ, câu thơ theo hướng tự do mà gai góc hơn, dài ngắn co duỗi, nhịp điệu biến hóa theo những suy tư sâu sắc giàu tầng bậc. Có thể nói, với Gốm lưu lạc, Vân Phi đã đi xa hơn chính mình trong cuộc hành trình gian nan mà đầy ủi an của thơ ca.
Chùm thơ của Vân Phi
Sông ly hương
Lặng lẽ đời sông
âm thầm trong đục
trăm năm nghe nhịp đập phố phường
nghe đời cát bụi
nghe bóng cây gáo già trầm ngâm đếm tuổi
đã xa xưa dáng một con đò
Những chiều rơi vụn xa xôi
người cúi mặt soi bóng mình đã cũ
nhớ mẹ đò đưa khách trú
người Bắc người Nam biền biệt xứ nào
mẹ và vội những hạt ca dao
bao năm nhớ một mùi cơm quá lửa…
Đêm trên đò vắng
sào khuya treo một ánh nhìn
qua rồi lưỡi gươm mài sắc
sóng gợn lên dáng dấp đền đài
dòng Hương trôi
tuổi thơ trôi
sao vẫn âm âm một dáng ngồi cây cỏ
đã xao xác rồi, tôi, một gốc cây buồn
ngả vào chiều phố thị
đã bện nương cội rễ dòng Hương
Tôi hành khất nắng mưa bên trời chạng vạng
ly hương từ độ dại khờ
hơn ba mươi năm chẳng còn nghe câu hò điệu lý
chỉ nhớ mùi chớm khê rượu gạo
nhớ tiếng em ca câu mái đẩy mái nhì
và ngày đi, hành lý một dòng sông
Dòng sông ly hương
róc rách trong tôi, thầm thĩ trong tôi, ghì đôi chân tôi bên
bờ huyền mộng
sông rồi sông chẳng phố thị ồn ào
sông rồi sông nghe mẹ hát ca dao
sông rồi sông – nước mắt – rỏ vào mây viễn xứ
và cơn mưa
nơi ngõ cũ ngọt ngào…
Giấc hải trình
Những ngọn gió về phía cánh buồm nào
chao chát chân mây
cánh hải âu chở một bầu trời
biển chở một chiêm bao
người mơ giấc cá tôm trở về
Phía hừng đông, những ngôi sao còn cài lên cúc sóng
bầy rêu lang thang
con phù du dang dở một hành trình
nghe đâu đêm qua chúng mắc câu vào một vì sao lạc
Cồn Cỏ, Chân Mây, Cù Lao phía nào xuôi Nam ngược Bắc
sóng chất đầy khoang thuyền
người neo vào một giấc khơi xa
Đêm đêm, phía ngoài vũ trụ
dường như ai đó đang ngoái nhìn
lo những chiếc thuyền sắp rơi ra khỏi biển
rơi ra khỏi những quỹ đạo
Thuyền vẫn đó
như biển vẫn đính vào vòng xoay quả đất
hấp lực nào giữ chúng ở lại
như mắt em chẳng then cài
sao nhốt mãi một tôi…
Điều không định nghĩa
Em bước ra từ giấc mơ màu gỗ lim
khẽ cúi xuống đặt lên tay anh bật lửa
mình đốt gì để sưởi một chiêm bao?
Em không gọi tên anh như một danh từ
cũng không nắm lấy một bàn tay ghì chặt
chỉ có những lọn hương đã ngập trong lồng ngực
cắp ban mai của chúng ta bay đi
Em ví mình như rượu
say hết tiếng thở dài
ban tặng anh ngút ngàn thinh lặng
Em bước ra từ trong khoảnh khắc
khi giấc xuân chểnh mảng phía vô cùng
anh cố nói một điều gì vô nghĩa
Em đã khua mái chèo trên sóng trắng
vẫy vào anh trùng trùng
anh cứ ngỡ giọt mồ hôi là bể mặn
Em, ánh nắng của ngày chưa hiện hữu
ta cố dò lấy một đường biên…
Vân Phi
17/12/2024
Duyên An
Theo https://vanvn.vn/
.gif)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét