Trang Thanh - Giấc mộng lửa
trong cơn khát mùa thu
Trang Thanh hiện sinh sống tại Hà Nội, gốc gác ở Nam Định,
là một cây thơ nữ mang lại nhiều ấn tượng trong thời gian gần đây qua lối thơ mới,
giàu nội cảm, nhiều sáng tạo và hơn hết, cô đã thể hiện được “đặc tính nữ” một
cách hiên ngang và kiêu hãnh.
Những táo bạo, những đi, những ngã, những đứng dậy bật lên một cá tính, một tư duy độc lập của một nhà thơ nữ. Xuất hiện với những bài thơ rải rác từ 2003, cho đến nay, Trang Thanh đã cho ra mắt 3 tập thơ và Thanh không (Nxb Hội Nhà văn, quý III – 2023) là tập thơ mới nhất của Trang Thanh sau hai tập Bay lặng im và Mây trắng. Cô cũng nhận một số giải thưởng về thơ.
Có khoảng 4 năm ngừng bút cuộn tròn trong tổ ấm gia đình,
Trang Thanh bứt khỏi thơ, nơi với cô từng có khi u thẫm, lấp đầy sự buồn phiền
và cô độc. Và đó là quãng thời gian cô vực dậy, giã tan những đau đớn, cân bằng
lại thế sống. Nó không dễ dàng, nó cho cô một quá trình nặng nhọc và một ranh
giới mơ hồ… Đường biên ấy có khiến cô phải lưỡng lự hay không? Sự trở lại với
thơ sau một thời gian dài cũng cho thấy một Trang Thanh từng lưỡng lự, nghi ngại,
nhưng rồi đã trở lại mới mẻ, mạnh mẽ, nội lực, năng lượng. Cô chịu khó tìm mới
mọi ngóc ngách trong thơ từ ngôn ngữ đến cấu trúc… ngoài ra cô còn cho thấy khả
năng bộc bạch phần linh của mình và phương thức thâm nhập đến vực giới vô thức
của mỗi cá nhân, sự vật khác.
Cách kể chuyện trong thơ của Trang Thanh dựa trên sự cấu triển
ngôn ngữ thông minh và khác lạ, hiện diện mập mờ những mấu xích ngoắc sâu giữa
trọng tâm vô thức. Mỗi câu thơ cho thấy sự khỏe khoắn, vững chãi, tính hàm ẩn
được đề cao và coi trọng. Xuyên suốt tập thơ Thanh không, có thể đối với bạn
đọc nói chung sẽ tựa như một thách thức, nhưng ở một khía cạnh nào đó của một
người khi đau đáu, trăn trở làm thơ thì họ luôn nghĩ đến yếu tố Mạch kỵ thẳng,
ý kỵ lộ, lời kỵ nông, thi vị kỵ ngắn. Chắc chắn điều này sẽ dễ dẫn thơ đến một
góc kín và trốn kỹ trong ấy, lúc này thơ đòi hỏi nhiều hơn, mặc nhiên người đọc
phải nghĩ, phải tư duy, nhiều khi không thể thẩm thấu và bước đến hồi kết.
Thanh không chia làm 3 phần (trong cơn khát của mùa thu;
chữ chữ gọi mùa; bài thơ khóc nhà thơ), tổng cộng 55 bài, tất cả nén dồn từ những
tâm trạng, vui vẻ, muộn phiền… trong suốt 8 năm đã được khai mở và giải thoát.
Cô viết về những cuộc buồn, những mũi nhọn làm cô đau, những khó khăn của một
người vừa là mẹ vừa là cha… đầy kiêu hãnh, đầy chấm sáng của hy vọng vào ngày
mai và sau chót. Không những vậy, Trang Thanh ngoài sự tỏ bày tinh tế ở cách dụng
ngôn, cô còn khẳng định được “đặc tính nữ” qua thơ. Có lẽ không cần nhắc đến cụm
từ “nữ quyền” trong cách nghĩ của Trang Thanh. Cô cho thấy sự cân bằng giữa giới
với giới. Không gồng lên thể hiện rằng tôi là nữ, tôi chỉ khao khát, mơ ước được
vượt qua những gò bó, bí bách… mà tôi là tôi, tôi là Trang Thanh, tôi sẽ làm những
gì mình hướng tới.
Nguồn năng lượng của thế giới cô độc
Bề sâu mỗi con người đều sở hữu không gian kín tuyệt đối
không thể phô ra ngoài, đó gọi thế giới riêng tư, cũng như là phần linh, phần
khuất lấp. Biết là thế, nhưng tựu chung, cõi vô thức này luôn hàm chứa đa chiều
hệ thống tâm trạng. Buồn, vui, sướng, khổ, đắng, cay, ngọt, bùi mang đến cảm
giác; tâm hồn và thể xác, âm và dương, sống và chết, khổ đau hay hạnh phúc, trời
hay đất lại ký thác chiêm nghiệm, từng trải, hiểu biết. Đọc Thanh không của
Trang Thanh không thể phủ nhận rằng hiện thực tinh thần phải trải qua những chặng
cực kỳ khốc liệt rồi thai nghén, rồi nở sinh. Một cái tôi vùi ở rãnh vực, bao
dày vò, cào cấu, gào thét được cô rút ra bằng từng hơi thở, tâm hồn. Có lẽ sau
nhiều lần vượt khỏi buốt đau tinh thần và thể xác thì tiếng nói của Trang Thanh
đã xác lập nên những cấu trúc hơi thở đặc biệt, những câu thơ cứ thế tươi ròng,
sống sót, phất tỏa ra nguồn năng lượng bên trong mạnh mẽ, đôi khi quá sức đối với
một nhà thơ nữ mong manh về vẻ ngoài nhưng ắp đầy sức mạnh về tinh thần để nhấn
chìm khổ cùng, đứng dậy, hiên ngang và sống tiếp.
Trang Thanh lăn lộn qua những vệt sẹo, vết cứa, mất mát,
trong đó tình yêu siết cô giữa lốt vỡ tim mình. Với thơ, cô nói về nỗi đau thật
khác, không biểu thị sự thất vọng, kể lể, kêu than mà ung dung, kiêu hãnh, chớp
lấy một sức mạnh đủ lớn, thấu được bờ ranh của cá nhân, của cuộc đời mà chậm
rãi bay trên chữ, bay trên những cánh đồng nghệ thuật của vạn vật xa lạ. Bốn
năm là một khoảng thời gian không ngắn mà cũng chẳng dài, nhưng nó vẫn là sự di
biến dĩ nhiên của mỗi sinh thể. Trang Thanh hi sinh thời gian này để lấy về một
khoảng lặng bằng an, ngẫm, nghĩ. Có lẽ cô cũng từng coi thơ là nguyên nhân khiến
cô vật vã với đời, nhưng cũng chính thơ gọi cô sống sót để rồi những thương yêu
khác được nở bung tươi tắn. Thanh không cho thấy Trang Thanh vượt khỏi mình, từ
thi pháp, ngôn ngữ, cấu tứ cho đến tinh chất bản thể đều rẽ sang một hướng mới
so với hai tập thơ trước đó là Mây trắng và Bay lặng im. Trang
Thanh biến hóa ngôn ngữ qua những hồi tưởng quá khứ, ký ức, vùng vẫy rõ nét hơn
ở thực tại. Tình yêu vẫn mang đến cho cô nhiều thi hứng và năng lượng, có lúc cực
chân thật, có khi cực siêu hình. Có trúc trắc hay không? Không, nó không trúc
trắc như lớp trên của chữ khi chúng ta đọc nó, mà như một liên văn bản, có thể
mờ ở điểm nối nào đó nhưng tinh ý sẽ thấy được khao khát của cô hướng đến một
tương lai thơ chưa phát hiện, tìm thấy. Ở Thanh không ngôn ngữ không thiên về
việc làm khó, lý trí bị lấn át, những câu thơ đậm chất thơ nhưng để mà ngồi
nghĩ thì cực khó. Thơ Trang Thanh như một dải sáng liền mạch, đâu đó cũng xuất
hiện điểm mờ: anh đi về nơi xa rất xa/ thiên đường mộng du những gương mặt/
cất tiếng sa mù// đêm nay ai đang yêu đang say?/ ai đang mơ, ai thao thức/
còn có ai khóc không (khe khẽ cỏ hoa).
Khoảnh khắc hồi tưởng reo lên nhẹ nhàng, chậm rãi như một biệt
khúc chia xa, một biệt khúc sẽ không nhấn chìm ai, mà đánh thức những tế bào
tinh thần. Những khúc nhịp hồn cốt đẫm dần trong tiếng thì thầm của đêm, của
lay bay hoa cỏ, tiết tấu ấy, âm sắc ấy lộng màu sắc, vọng âm thanh, sinh động,
nhiều sức sống. Bằng thức điệu đó, lộ thiên một bầu trời phía trước hoài bão,
mơ khát, phía sau đầy cuồng say, yêu, thương,… dẫn tạo luồng sinh khí tràn đầy
nhựa sống. Trang Thanh sở hữu những cái nhìn tiềm thức, nhiều liên tưởng nhưng
vẫn hằn dấu với hiện thực.
Đối với cô, bản chất thơ có hồn đuốc thắp sáng, giúp cô vẽ
rõ, phân định rạch ròi bản thể, tư chất, tẩy xóa khổ đau và hiển nhiên hướng tới
cái đẹp của tâm hồn, kết tạo những mồi lửa nuôi sống bản thể vô thức ấy: chúng
ta xiết chặt tay nhau hơn/ soi trong mắt đau nỗi ly biệt của mùa đông âu
lo sợ hãi/… em ơi đừng day dứt nữa/ chúng ta sẽ mang theo/ trước mặt chúng
ta còn bí ẩn những khu vườn (trong cơn khát của mùa thu); hay sự hồi ức về
những dấu vết kỉ niệm thật thanh tân: chúng mình dịu dàng đan tay cầu nguyện/
đêm ấy trăng xanh lắm/ và anh còn ngại ngần chưa hôn em (mùa mưa);
cái ban công nhà mình nắng không đến được hoa không nở/ em chỉ dám thở khẽ/
sợ cây thêm sầu muộn/ sẽ bỏ đi một sớm mai buồn (giới hạn).
Yếu tính và bản chất của thơ Trang Thanh vượt qua cái khung
thử nghiệm, mà hướng tới tìm tòi khai phá giá trị mới của ngôn ngữ, của năng lượng
tinh thần. Vì thế, cái đẹp của những vết thương, nỗi đau, suy tư lại khuếch lên
và dẫn đến những ưu thế và nguồn sống mới cho chính mình.
Những chuyển động độc lập của bản thể thi ca nữ
Có hay không sự khác biệt giữa tư duy, góc nhìn viết nữ giới
và nam giới? Có hay không tâm hồn khác nhau về giới giữa nhà văn nữ và nhà văn
nam? 55 bài thơ trong tập thơ Thanh không của Trang Thanh, hoàn toàn
là những diện mạo mới về cấu trúc, mỗi cấu trúc là một lát cắt, mỗi lát cắt
liên kết dựng thành một hệ. Cô dẫn dắt và dứt khoát, thanh thoát và nhẹ nhàng,
tự do và sáng tạo.
Chúng ta không còn thấy phụ nữ không được tư duy, không được thể hiện quan điểm của mình, bị gò bó trong những quy tắc, tập tục xưa kia. Giữa Thanh không Trang Thanh không bị tự ám bởi những định kiến giới mà tự mình làm nên một ý chí kiêu hãnh. Cô được phiêu cùng chữ nghĩa, dám làm và làm được những điều mà cô muốn. Trong thơ, Trang Thanh mở ra những hướng đường khác biệt, có thể cảm nhận được cách nghĩ mới đối với thơ:
Trong thơ ít nhất phải có một chữ mới, một câu thơ mới, hoặc
càng tốt hơn nếu có thi ảnh, một tứ thơ mới. Một điều nữa, khi sáng tác, đó là
làm lạ, phá vỡ những cấu trúc ngôn ngữ đã hiện diện để hướng đến những cấu trúc
ngôn ngữ mới. Những điều này chụm lại, cộng thêm một số yếu tố khác sẽ cấu nên
một hình thái khác biệt của một tác giả. Đắm giữa Thanh không, Trang Thanh
như bị cuốn theo một nguồn năng lượng nào đó, bí ẩn, không biết sẽ dẫn tới đâu…
Những cảm nhận về một sự việc, con người,… nó đã có sẵn. Cô chờ và chờ nguồn
năng lượng ấy đến, đẩy những suy nghĩ, hơi thở, hình ảnh của mình đến nơi sáng
nhất.
Chạy theo tập thơ, mạch cảm xúc cũng chia thành khúc đoạn,
hình như có những khi hàng tháng trời cô không viết câu thơ nào, và có ngày cô
làm được một lúc nhiều bài thơ, do đó, việc khó nắm bắt được nguồn năng lượng đều
đặn là thuận lẽ: trong giấc mộng của lửa/ nó có muốn cháy không?/ nó
có biết/ khả năng thiêu rụi vô biên tất cả/… tôi không còn giấc mộng nào nữa/
đang nói lung tung vu vơ/ bên hành lang tâm hồn (giấc mộng lửa).
Với một bản thể nữ, cô bộc lộ nhiều hơn về những riêng tư,
kín kẽ, nhưng cũng có khi thật vô tư, tự nhiên nói đến những cuộc yêu ngụt lửa:
từ lâu lắm chúng ta gặp nhau như thói quen/ làm tình vội vã như thói quen/
nhưng cũng từ lâu không nắm tay tôi người không còn nhớ/ bông mẫu đơn bật
khóc trong mùa lũ (mẫu đơn bật khóc). Nam giới thường xuyên là chủ thể,
hình tượng xuất hiện trong nhiều bài thơ của Trang Thanh, phần lớn là chỗ dựa
tinh thần, nơi bản thân có thể tin tưởng và dành hết con người mình dâng hiến
cho tiếng lòng, phần nhỏ lại đem đến đớn đau, buồn khổ,… từ đó dẫn đến những
trang thơ đa dạng về ý nghĩa, câu chuyện…
Trang Thanh nghĩ: mỗi ngày/ ta đều tìm cách nói với nhau
những điều vô nghĩa/ để che đậy một sự thật/ ta đã nhớ thương nhau biết nhường
nào…/ mỗi ngày trông chừng quỷ ma/ ta không dám sống cho chính mình, khổ
đau đem giễu nhại (mỗi ngày). Có nghĩa rằng, nghĩ cho mình một khoảng
không – thời gian rộng rãi, một thế đứng tự do để hướng vào trong những kỷ niệm
luyến tiếc.
Một lối diễn đạt khác biệt, một phương thức tự sự cứng rắn chống
lại, nhấn bẹp những chặng buồn đã qua. Cũng như trong bài thơ khúc hát đêm cuối
cùng, Trang Thanh một lần nữa giải thoát phần linh của mình: đêm chỉ còn một
chút/ một chút thôi/ những mầm cây còn đang cuộn nhau trong đất kia/ sông vẫn
chảy một đời trăng lơi lả/ chúng ta còn một đêm này/ những hoa quỳnh không
biết có ngày mai. Cô không cho phép mình đứng bên lề để ngậm vào những cay
nghiệt, và oán hờn được cô trút ra dưới một lớp ngôn ngữ vững chãi, dứt khoát,
cứng rắn. Một quan giác về sự rời rã, xa biệt, nguyên do chính yếu hạ gục hiện
thực tinh thần của người phụ nữ yếu mềm.
Trang Thanh có những phân đoạn hồi ức về nỗi đau đáu trong
lòng, những cảm quan ngày mai hướng tới sự dâng hiến và tái sinh tâm hồn. Cô nhập
cuộc vào thơ bằng cái tôi hiện tại và cái tôi vô thức. Do đó, thơ cô, cụ thể là
nhiều điểm ở tập thơ Thanh không trở thành khối ký hiệu phức tạp, người đọc khi
thâm nhập văn bản cần phải tuân theo luật chơi của chữ nghĩa.
Giải mã thơ Trang Thanh cũng như giải mã tâm trạng, suy tư, nỗi
ẩn ức bên trong để tìm ra sự sống, sự vượt thoát, sự khai mở một bình minh. Thế
giới phía trước không hẳn sẽ đẹp nhưng làm đẹp, nghĩ đẹp, sống đẹp: thỉnh
thoảng lại câm/ để giật lại mình/ khỏi nỗi đắng chát/ thỉnh thoảng nhìn ra
ngoài khung cửa/ những đám mây bay qua/ hỏi trời cười gì ta (trống); tôi
là con chim, nhà của tôi bằng lá/ bay khắp muôn nơi, tôi cũng quên nhiều
màu hoa/ nhưng dãy núi thì tôi nhớ rõ/ chỉ không biết từ đâu mà tôi nhìn thấy
nó/ trong một buổi mai lạc bầy (những cánh chim bay tìm mây ấm). Thân phận
người cũng như thiên nhiên, sống – chết – sống là quy luật tuần hoàn, vậy sự
hòa nhập và quen sẽ dẫn đến bản năng. Thơ Trang Thanh cũng thế, cũng toát lên
những quy luật dẫn người chơi vào cuộc chơi có chiêm nghiệm, có hồi kết thông
qua từng hình ảnh, chi tiết để say mê tìm những vẻ đẹp toàn bích.
Đi theo mạch sáng tạo của Trang Thanh, có thể thấy cô là một
tay chơi ngôn ngữ vừa tự tin vừa kiêu hãnh: thế gian cơm sôi lửa lặng/ trời còn
hờn mưa ghen nắng/ một bài thơ tang trắng/ khóc bài thơ tro hồng/ hỗn độn
bay im/ lưỡi lửa liếm vòng/ lời nối lời máu cháy/ trên da thịt bầm đau vực
đáy/ ngôn từ đốt nỗi mây mây (bài thơ khóc nhà thơ). Từ những hành động
dành cho thơ ca của Trang Thanh, luôn hiện diện những ánh quang hoàn toàn cân bằng
tư duy, phong cách. Cô đã tự mình xác tín, tìm ra những vẻ đẹp, không gian mới,
lối đi khác nhưng vẫn vẹn giữ những điểm then chốt, chính yếu của chân – thiện
– mỹ. Một không gian của Trang Thanh hiện lên độc đáo, lạ lùng. Một ý tình dành
cho phái nữ, hoài bão đến quyền tự do tuyệt đối của con người.
13/12/2024
Nguyên Như
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét