Hương Mai, tình chết một mùa đông...
Hình: Pixabay.com
Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai?
(Vũ Hoàng Chương)
1.
Tôi gặp nàng lần đầu, khoảng giữa 1970, cách đây đúng bốn
mươi tám năm, khi đang là Trung đội trưởng Chính Huấn của Đại đội 204 CTCT, Nha
Trang. Một buổi sáng, Thiếu Úy Cường, Trung đội phó, vào văn phòng gặp
tôi, cùng với một thiếu nữ rất đẹp, vẻ hiền thục, tuổi độ đôi mươi. Cường nói:
- Xin giới thiệu với Trung Úy, đây là cô Hương Mai, đến xin
việc.
Tôi ngừng viết, đứng lên, chào nàng. Thấy gương mặt thanh tú,
môi thắm tự nhiên, tóc huyền rẽ đường ngôi ở giữa, buông xuống hai bờ vai, mắt
to đen, mũi cao, trong bộ quần jeans và áo pull tím ôm dáng cao thon, đầy đặn,
tôi chịu ngay. Tất cả nơi nàng biểu hiện một vẻ đẹp có phần cổ điển, như trong
tranh của Raffaello (Raphael), hoạ sư người Ý, tràn đầy sức sống, và dưới mắt
tôi đã đạt quá tiêu chuẩn của một ca sĩ, dù ca sĩ chính huấn –hay nữ huấn đạo,
theo tên gọi chính thức. Hương Mai ngồi xuống, và bắt đầu tự giới thiệu, giọng
nhỏ nhẹ, nửa Huế nửa Nha Trang:
- Thưa Trung Úy, gia đình em ở Ninh Hoà.. Ba em là sĩ quan phục
vụ tại Tiểu Khu Phú Yên. Em còn mẹ và ba đứa em nhỏ. Em thi rớt Tú Tài I, chán
quá, bỏ học luôn...
Tôi ngắt lời, nói một câu khá vô duyên:
- Thi rớt là chuyện thường. Đừng vội nản, nhất là mới rớt lần
đầu. Tôi khuyên cô nên tiếp tục việc học. Nghề nữ huấn đạo ba chìm bảy nổi lắm,
không có tương lai đâu. Trừ phi, sau này, nếu cô trở thành một ca sĩ hoặc diễn
viên nổi tiếng. Nàng tỏ vẻ ngạc nhiên, đăm đăm nhìn tôi, rồi ngập ngừng hỏi:
- Trung Úy nói thế có nghĩa là Trung uý không muốn nhận
em?
- Không đâu. Tôi không có quyền quyết định. Về dung mạo,
riêng tôi đã chọn cô rồi, chắc Thiếu Úy Cường đây cũng đồng ý với tôi. Về
tài, thì cuối tuần này Trung đội sẽ tổ chức văn nghệ để các thí sinh vào thi phần
hát. Tôi hy vọng cô sẽ có điểm cao.
Câu này, dĩ nhiên, tôi cũng đã nói với những cô thí sinh
khác, trước nàng.. Buổi văn nghệ thuộc loại bỏ túi được tổ chức tại hội
trường đại đội. Như thường lệ, tiếng đàn tiếng trống xập xình vừa trổi lên đã
thu hút một số đông khán giả từ khu gia binh và đồng bào quanh vùng Bình Tân
–nơi chúng tôi trú quân, không xa Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân bao nhiêu. Dưới
ánh đèn màu lấp lánh, bốn nữ huấn đạo của đại đội bỗng biến dạng, son phấn điểm
tô, đẹp lộng lẫy trong những chiếc áo dài thướt tha, sặc sỡ, thay cho bộ đồng
phục thường ngày tôi đã quen mắt, quần jeans và áo sơ-mitrắng pha màu xanh xám
nhạt. Sáu cô thí sinh cũng thế, cũng đều yêu kiều, lả lướt như tiên giáng trần.
Nhận ai, bỏ ai, là cả vấn đề làm điên đầu! Y như thi hoa hậu bây giờ.
Tôi ngồi hàng ghế khán giả, bên cạnh Đại Úy Đại đội trưởng
204 Phạm Văn Tải (hiện sống tại Portland), khoá 15 Thủ Đức, đã đi tu nghiệp Tâm
lý chiến Dân sự vụ ở Mỹ –một sĩ quan nổi tiếng bay bướm, chịu chơi hết
mình, một đơn vị trưởng có tài lãnh đạo và tổ chức, từ thời còn ở Ban Mê Thuột,
Kon Tum, ai cũng mến. Đặc biệt, ông còn là một nhạc sĩ hào hoa với ngón đàn
dương cầm và phong cầm điêu luyện tại các vũ trường, sau giờ làm việc. Còn tôi,
lúc ấy và hiện tại, vẫn là con số không to tướng về âm nhạc, thỉnh thoảng nổi hứng
hát vớ vẩn vài bài, nhưng giọng faux quá cỡ và luôn sai nhịp, và nếu cực chẳng
đã phải ra sàn nhảy tôi chỉ biết có hai điệu tủ: slow, mà tôi thích nhất, vì
không hao sức, và rumba, mà tôi đã quên, vì thiếu thực tập. Nhưng không hiểu
sao Đại Úy Tải, cũng như Trung Úy Phan Nhơn, đại đội trưởng 202 CTCT
(Qui Nhơn), trước đó, lại bổ nhiệm tôi, một người mù tịt về văn nghệ văn gừng,
trông coi trung đội Chính huấn. Sau này, mới vỡ lẽ, đó bởi vì các ông không muốn
giao trứng cho ác, nghĩa là đặt tôi vào kỷ luật và trách nhiệm nặng nề của một
ông “thần giữ cua”? giùm cho cha mẹ các nữ huấn đạo, đa số còn rất trẻ, theo
giao ước bất thành văn với họ: tạo bầu không khí gia đình thân ái giữa các nhân
viên và ca sĩ trong trung đội, nhưng đồng thời bảo vệ tối đa các cô khi đi công
tác nhất là ban đêm, không để rủi ro nào xảy ra, không để sĩ quan và quân nhân
thuộc đơn vị khác, hoặc ngay trong đại đội, đến ve vãn, dụ dỗ, gây tai tiếng.
Mỗi thí sinh sẽ hát hai bài tự chọn, một tình cảm, một hùng mạnh,
và trước ngày thi, được phép đến tập thường xuyên với ban nhạc của Trung đội
Chính huấn. Điểm số dựa trên phong cách trình diễn và nhất là giọng ca. Phong
cách có thể tập luyện, nhưng giọng ca là thiên phú, cũng như hồn thơ và óc hài
hước, như ai đã nói. Đêm ấy, cả sáu cô thí sinh đều rất xuất sắc. Hương Mai hát
bản “Serenata”, nhạc Enrico Toselli, lời Việt Phạm Duy –bài ruột của tôi từ dạo
được nghe dĩa thâu của Tino Rossi. Viens, le soir descend, et lheuré est
charmeuse. Viens, toi si frileuse, la nuit dejá comme un manteau sétend'... Lắng
trong tiếng chiều ngân, nhạc dặt dìu ái ân... Nhạc và lời đã hay, và nàng
diễn xuất tuyệt vời, như một ca sĩ chuyên nghiệp, với dáng điệu lúc tha thiết,
si mê, lúc kiêu sa, hờ hững, với giọng buồn, trầm bổng, lên xuống cung bậc một
cách tự nhiên, dễ dàng, theo tiếng kèn clarinette nức nở của Trung Úy Quân
Nhu, tên Nhuệ, một sĩ quan bạn, được mời đến tăng cường giúp vui. Tôi ngạc
nhiên, sung sướng, nghe xôn xao bao nhiêu là mộng cũ và lời yêu gọi mời, giục
giã. Cảm giác ngất ngây hiếm hoi đưa hồn xa rời cõi đời ô trọc và khói lửa chiến
tranh, trở về những bến mơ thiên đường diễm ảo, cũng như mỗi lần nghe danh ca
Kim Tước hát bản “Tiếng Thời Gian” của Lâm Tuyền và Juliette Greco ca bài “Les
Feuilles Mortes”, phổ thơ của Jacques Prevert'. Tôi vốn yêu những ca sĩ, và thi
sĩ, đích thực. Vì muốn hát, hoặc viết ra, những ngôn ngữ mượt mà, quý phái, trữ
tình như thế, họ phải có một tâm hồn rất thanh cao, trong sáng, luôn hướng về cội
nguồn Chân Thiện Mỹ từ trời phản chiếu xuống Nghệ Thuật trần gian.
Một tuần sau, Trung đội Chính huấn và Ban Giám khảo họp bàn về
kết quả thi tuyển. Chỉ lấy hai trong sáu thí sinh, để thay cho hai cô nữ huấn đạo
xin nghỉ vì lý do gia đình, nên việc chọn lựa không dễ. Hương Mai đứng nhất với
số điểm tối đa, gồm phiếu của Đại đội trưởng, ban nhạc và tất cả sĩ quan và ca
sĩ trong Trung đội Chính huấn.
2.
Mấy tháng sau, nàng đã quen công việc. Như những nữ huấn đạo
khác, mỗi ngày nàng đến đại đội tập dượt đều đặn, và không bao giờ vắng mặt vào
những đêm công tác. Gặp tôi, nàng luôn chào hỏi vui vẻ, lịch sự, khác với Thiên
Ân, một ca sĩ cơ hữu, cũng đẹp và hát rất hay, thấy tôi đâu là tìm cách né
tránh. Thiếu Úy Cường bảo tôi: “Cô ấy giận Trung Úy vì đã cấm các cô
không được giao du thân mật riêng lẻ với bất cứ ai trong khi công tác và tập dượt”.
Trong buổi văn nghệ Tết của Đại đội, Thiên Ân lên hát một bản
tình ca, và mắt hướng về phía tôi, nói: “Bài này em xin riêng tặng
Trung Úy Trung đội trưởng Chính huấn độc tài và hắc ám của lòng em”. Cả hội
trường cười rộ. Tôi cũng bật cười theo.
Một lần, Hương Mai đến xin Đại úy Tải cho đi hát tại vũ
trường Nha Trang Hotel ngoài giờ để kiếm thêm tiền. Ông chấp thuận, với điều kiện
khi cần đi công tác là phải nghỉ. Còn tôi khuyên nàng không nên cho ai biết
đang làm việc với Đại đội 204 và đổi tên khi hát cho vũ trường, bởi lý do an
toàn cá nhân. Dần dần, cảm tình của tôi dành cho nàng tăng trưởng vì tính tình
khả ái, tấm lòng chân thật, cử chỉ dịu dàng, cộng với tài nghệ, sắc đẹp tự
nhiên và nét duyên dáng trong lời ăn tiếng nói đã làm nàng trở thành ca sĩ hoa
khôi, ít ra là đối với lòng tôi. Nhưng may mắn, tôi đã dừng lại được ở đó. Quả
vậy, tôi không phải là nhà tu hành cũng không đạo đức giả, mà vì đã lỡ tự đặt
cho mình một nguyên tắc bất di bất dịch qua thời gian và cuộc đời thăng trầm,
là tự cấm không bao giờ được tơ tưởng đến, huống chi là đem lòng yêu thương,
các nữ sinh học trò của mình và ca sĩ dưới quyền. Lý do thật đơn giản: tôi còn
trẻ, và họ là những đối tượng tương đối dễ chinh phục, đã đặt hết lòng tin và
kính trọng vào tôi. Tôi không muốn lợi dụng vị thế của mình, làm thất vọng mọi
người.
Hương Mai, cũng như Thiên Ân, không hiểu điều đó.
Một buổi chiều cuối tuần, để tưởng thưởng thành quả công tác
Tâm lý chiến - Dân sự vụ tốt đẹp, sau khi tổ chức một tiệc vui chung cho cả Đại
đội, Đại Úy Tải mời riêng các sĩ quan và nữ huấn đạo ra quán Gió Khơi Số Một,
lộ thiên, ở bãi biển Nha Trang ăn bò nhúng giấm chấm mắm nêm, món ngon nổi tiếng
của quán. Hương Mai đến trễ, vẻ mặt buồn hiu. Tôi mang theo một chai rượu mạnh,
đãi anh em. Nàng ăn ít, nhưng cứ nốc Cognac của tôi, ly này sang ly khác, khiến
tất cả ngạc nhiên, không ngờ tửu lượng của nàng cao như vậy, ăn đứt đám nam
nhi, nhưng không ai dám cản, sợ bị hiểu lầm là kỳ thị nữ giới. Đến khi chai
Courvoisier gần cạn và mặt nàng tái nhợt, Thiếu Úy Cường mới giật lại ly
rượu của nàng, không cho rót tiếp, và ôn tồn bảo:
- Cô say rồi, nên ngưng là vừa.
Nàng không nghe:
- Không sao đâu, cho em một ly nữa! Em đang vui mà!
Cường và các cô lựa lời khuyên nhủ. Ai cũng đoán nàng thất
tình hoặc buồn chuyện gia đình. Còn tôi nghĩ khác: một người đẹp như nàng khó
thất tình lắm, trái lại làm người ta thất tình thì có. Chắc một chuyện gì kinh
khủng đã xảy ra cho nàng. Khi chai rượu cạn sạch, nàng đứng dậy, lảo đảo đến
bàn tôi, nói với tôi, như ra lệnh, tỉnh bơ:
- Trung Úy đưa em đi tiểu!
Mọi người há hốc mồm kinh ngạc. Còn tôi không thể tưởng tượng
Hương Mai bình nhật rất đoan trang hôm nay có rượu vào lại “chơi bạo”. đến thế.
Sau mấy giây sửng sốt, các sĩ quan vỗ tay rào rào tán thưởng. Đại Úy Tải
thì cười cười, nhìn tôi chờ đợi.
Tôi vẫn ngồi yên, chưa biết phải làm sao. Thấy thế, Đan Tâm,
cô ca sĩ trẻ nhất, chuyên hát nhạc kích động, đứng lên, nắm tay dắt nàng đi ra
phía sau quán. Trở lại bàn, Hương Mai mệt lắm, tựa đầu vào vai Cường, lim dim mắt.
Đại Úy Tải nói tôi đưa nàng về trước, vì tối hôm ấy tôi lái xe nhà –chiếc
Peugeot 203 của ba mẹ tôi cho mượn. Tôi bảo Thiên Ân, người rất kỵ tôi, theo
cùng.. Hai cô ngồi băng sau. Tôi hỏi Hương Mai về đâu. Nàng đáp, giọng chán chường:
- Về đâu cũng được. Em khổ lắm. Em không muốn sống nữa!
Rồi thiếp đi trong tay Thiên Ân. Không ai biết địa chỉ nhà
nàng. Thiên Ân đề nghị về khu gia binh Đại đội, bề nào cũng còn có sĩ quan trực
trại và lính gác. Cô dìu nàng vào phòng tôi, hầu như trống trơn, chỉ có một bàn
viết, vài quyển sách, và chiếc giường nệm –mà tôi chỉ đặt lưng xuống vào những
đêm cấm trại thôi. Khi tôi ngỏ ý không nên để nàng ngủ một mình trong tình trạng
đó tại một nơi xa lạ, nhưng đồng thời tôi cũng không thể ở qua đêm canh nàng,
Thiên Ân nói:
- Em sẽ ở lại đây với Mai, vì em cũng sống một mình. Không
sao đâu. Em sẽ ngủ trên chiếc ghế bố kia kìa.
Chờ đến khi các sĩ quan khu độc thân ồn ào kéo về, ghé thăm,
tôi mới bàn giao hai cô cho ông phó Cường, đã có vợ hai con, cho chắc ăn. Lúc
này Hương Mai đã ngủ mê, hơi thở mệt nhọc. Cường chu đáo lắm, lôi ở đâu ra được
một lô mền gối, khăn mặt, ca cóng, bàn chải và kem đánh răng còn nguyên trong hộp,
mang đến cùng với hai thùng nước lớn, và đặc biệt hai bộ pyjama đàn ông mới
tinh, chắc là vừa trưng dụng được của anh chàng sĩ quan độc thân tốt số nào.
Trong lúc giúp Thiên Ân căng ghế bố, Cường cười nói với tôi:
- Hôm nay tôi trực, ngoại trừ Trung Úy, đứa nào muốn đụng đến
hai cô phải bước qua xác chết của tôi. Trung Úy cứ yên tâm về nhà.
Tôi và Thiên Ân cùng cười. Tôi bảo:
- Anh phải nói như thế này: kể cả Trung Úy, đứa nào muốn đụng
đến sẽ từ chết tới bị thương...
Sáng hôm sau, tỉnh dậy, Hương Mai nhớ chuyện đã xảy ra, bèn
đi xin lỗi mọi người. Riêng tôi, cho mãi đến bây giờ vẫn không biết chắc đêm ấy
nàng buồn chuyện gì để đến nỗi “em không muốn sống nữa”.
Những quân nhân và nữ huấn đạo trong Trung đội Chính huấn hiểu
rõ công việc của mình. Giúp vui cho binh sĩ tại những quân trường và những đơn
vị tác chiến về hậu cứ dưỡng quân, trong đó thỉnh thoảng có cả lính Kam-pu-chia
được gửi qua Việt Nam “học”, thời Lon Nol và Sirik Matak, đồng thời trau dồi
cho họ kiến thức chính trị, hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng yêu nước, thương
dân, vv.... bằng những buổi “lên lớp” ngắn, gọn, dễ hiểu do các sĩ quan trung đội
đảm trách và chương trình mini văn nghệ gồm những bản hùng ca, vở hài kịch ngắn,
màn ảo thuật, hoặc những trò chơi vui, lành mạnh được giao cho Trung Sĩ trưởng
ban văn nghệ sắp xếp. Đó là binh vận, tương đối dễ dàng và có kết quả mỹ mãn.
Đại đội 204 CTCT đôi khi được vài toán chính huấn từ Sài Gòn ra phối hợp công
tác, trú ngụ trong doanh trại đại đội. Tôi nhận thấy những ông trưởng toán này
còn “giữ gà" kỹ hơn chúng tôi, hoặc “giấu nghề" thái quá, vì nói là
phối hợp, mà chả bao giờ họ chịu cho các nữ huấn đạo tập dượt hay sinh hoạt
chung, trao đổi kinh nghiệm với trung đội chúng tôi, làm Đại Úy Tải vốn rất
xã giao, bặt thiệp cũng phải lắc đầu, khó chịu. Công tác tại những đơn vị gần
thành phố, như Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế, chúng tôi trở về nhà ngay trong đêm. Ở
nơi xa, như Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ, phải ngủ lại. Những lần
đi xa, tôi nhường xe jeep cho Cường và các sĩ quan, các quân nhân khác ngồi xe
đoge, còn tôi lái Peugeot, chở theo được bốn cô nữ huấn đạo. Tất cả trang bị
súng ống đầy đủ, để tự bảo vệ, khi cần. Đi ngang Ninh Hoà, Hương Mai thường xin
ghé thăm nhà, gần quốc lộ. Đoàn xe dừng lại, vẫn nổ máy, trước nhà nàng chỉ độ
năm, mười phút, nhưng khi trở ra, nàng lộ vẻ vui mừng, biết ơn, một lần còn giới
thiệu mẹ nàng với tôi.
3.
Một tối, sau buổi sinh hoạt tại Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ,
cả trung đội chúng tôi và toán Sài Gòn được chỉ định nghỉ đêm trong một phòng học
rộng ở khu gia binh, trên những chiếc bàn lớn xếp lại với nhau. Riêng tôi, liên
toán trưởng, được cấp một chiếc giường tại văn phòng trường. Vì lịch sự với
khách, tôi định xin thêm ghế bố cho hai sĩ quan Trung ương, nhưng hai ông Thiếu Úy
trưởng toán từ chối, bởi không muốn xa rời các cô ca sĩ của mình. Tôi ngồi chuyện
trò, uống trà với anh em trong trung đội cho tới nửa khuya. Lò mò về phòng, vén
màn tính chui vào giường, tôi đụng phải một thân người mềm mại đang nằm chờ. Bật
đèn pin lên thì hoá ra Hương Mai, trong bộ đồ ngủ, rất khêu gợi. Tôi giật mình,
suýt kêu lên. Nàng bật ngồi dậy, lấy tay bịt miệng tôi, rồi mỉm cười, khẽ
nói:
- Suỵt... Em đây, chứ không phải ma. Đừng sợ. Anh cho em ngủ ở
đây với anh đêm nay.
Tôi đứng chết trân, á khẩu, nhìn nàng không chớp, căng mắt định
thần xem có cái đuôi chồn liêu trai nào lấp ló sau lưng nàng không, hoặc nàng
có say như tối nọ? Tình thế thật khó xử và nguy hiểm. Một đàng nỗi khát khao
thèm muốn bị ức chế bấy lâu thôi thúc, một đàng danh dự và trách nhiệm của một
sĩ quan chỉ huy đè nặng lên vai, không đùa được. Lại còn cái nguyên tắc bất di
bất dịch của tôi! Lại còn Thơ Thơ và mảnh trăng thề bỏ lại ở Qui Nhơn! Sau mấy
giây vật vã với chính mình, cuối cùng lý trí thắng.. Nhưng từ chối thế nào để
nàng không bị tổn thương, tự ái, tri hô cho mọi người nghe? Đoán được sự dằn vặt
trong tôi, nàng đứng lên, nắm lấy tay nhẹ nhàng kéo tôi xuống ngồi bên nàng. Và
ôm tôi, thủ thỉ:
- Hãy hôn em đi, một lần thôi, cho em biết rằng anh cũng đáp
lại tình yêu của em...
Tôi nói, thầm thì như năn nỉ:
- Tôi không thể làm gì được bây giờ, cô..., em hiểu cho. Tôi
hứa sẽ yêu em, sẽ hôn em, hoặc nếu em muốn, sẽ van xin tình yêu em ở một dịp
khác, một hoàn cảnh khác, hay một kiếp khác, biết đâu, khi em không còn là ca
sĩ trong trung đội của tôi nữa. Bây giờ thì tôi không thể, em hãy hiểu giùm
cho...
Một giọt nước mắt rơi nhanh xuống cánh tay tôi. Nàng thút
thít:
- Anh càng trốn chạy tình yêu em chừng nào, em càng đuổi bắt
anh chừng nấy, dù từ bên kia cõi đời. Em hiểu nỗi khổ và cái nguyên tắc kỳ quặc
của anh. Nhưng anh đâu có hiểu nỗi khổ của em. Anh tàn nhẫn lắm, anh biết
không? Thôi em đi, để Trung Úy nghỉ.
- Không, em cứ ở đây. Tôi xuống lớp học.
Tôi đặt nàng nằm lại ngay ngắn trong giường, đắp chăn cho
nàng. Rồi bước ra giữa trời khuya. Làn gió mơn man trên mặt, trên tóc, và tôi
thấy người nhẹ thở hẳn. Bỗng nhiên, lại nghĩ đến chuyện anh mục đồng, trong
truyện Les etoiles' của Alphonse Dauet, đã để cô chủ nhỏ xinh đẹp ngồi dựa vào
vai anh ngủ vùi suốt đêm thâu trên núi, dưới bầu trời đầy sao, mà không dám động
tĩnh gì hết. Tôi bước vào gian phòng của trung đội. Hạ Sĩ Thảo còn thức. Thảo
là một trong những hạ sĩ quan và binh sĩ thuộc cấp dễ thương nhất của tôi, mà
tôi không bao giờ quên, bởi thái độ hiền hoà, tinh thần trách nhiệm, và nhất là
sự thuỷ chung -luôn dành cho tôi, trong mọi cảnh đời.
Thảo hỏi tôi, “Trung Úy chưa nghỉ sao”?
Tôi lắc đầu, và hỏi lại, rất khẽ, “Anh đi ngủ đi chứ! Các nữ
huấn đạo nằm đâu”?
Thảo chỉ tay về một góc phòng. Các cô chắc đã say giấc ngủ,
màn buông kín mít. Cách đó không xa là ông phó Cường và hai ông bầu Sài Gòn. Cuối
cùng, tôi nói với Thảo:
- Tôi đến ngủ với anh em cho vui.
Cả trung đội không ai để ý Hương Mai đêm ấy vắng mặt vì số ca
sĩ của hai toán Nha Trang và Sài Gòn lên tới tám cô, một kỷ lục, và cũng không
ai biết nàng đang nằm trong giường của tôi và chuyện gì đã xảy ra giữa hai người.
4.
Ba tháng sau, nàng đột ngột xin nghỉ việc, lấy lý do muốn làm
ca sĩ toàn thời gian cho nhà hàng Nha Trang Hotel. Lúc từ giã, nàng nói với
tôi, có sự hiện diện của Cường và một số quân nhân:
- Bây giờ em không còn là ca sĩ của Trung đội nữa. Em sẽ nhớ
nó lắm!
Chỉ một mình tôi hiểu câu nói ấy. Từ đó, nàng không bao giờ
trở lại Đại đội dù để thăm bạn bè, và cũng chỉ một mình tôi hiểu vì sao. Rồi đầu
năm 1973, tôi phải đổi về trường Đại Học CTCT Đà Lạt. Đêm cuối cùng trước khi rời
bỏ Nha Trang, tôi đến vũ trường, tìm nàng. Trên sân khấu, Hương Mai đang hát bản
Besame Mucho, lời Việt, giọng buồn não nuột, và phía dưới sàn nhảy, những cặp
tình nhân đê mê dìu nhau vào cõi mộng. Xong bài hát, nàng tiến nhanh đến bàn
tôi, cười tươi, nét mặt rạng rỡ, nhưng đôi mắt long lanh như có ngấn lệ, hỏi dồn:
- Anh... Trên sân khấu, em thấy anh vào. Em chờ anh từ một thế
kỷ rồi. Sao đêm nay anh mới đến? Anh đã quên em rồi sao?
Khi biết tôi đến từ biệt nàng đi xa, nàng nói sẽ xin nghỉ hát
sớm để “sống với anh cho hết đêm nay”. Lên xe, tôi đề nghị ra biển. Chúng tôi
ngồi trên bãi cát còn ấm nắng chiều, có bóng thuỳ dương hắt xuống từ những ngọn
đèn đường, chở che, đồng loã. Sóng vỗ, tràn vào bờ, xoá hết dấu chân của những
tình nhân chia cách, như lời thơ Prevert' ngày nào. Et la mer efface sur
le sable les pas des amants desunis'. Trăng mơ chiếu những tia lẻ loi, vàng vọt
trên biển vắng. Chân trời tối mờ, xa tắp. Nàng nhắc lại chuyện cũ, chuyện chai
Courvoisier, chuyện “Trung Úy đưa em đi tiểu”, và tự trách “sao bữa đó
em... cà chớn dữ vậy”. Rồi cả hai cười vui. Rồi tựa đầu vào ngực tôi, như trong
đêm Dục Mỹ, nàng khẽ nói, lời nhẹ tơ vương:
- Hãy hôn em đi, một lần thôi, cho em biết rằng anh cũng yêu
em. Hãy ôm em nhiều, thật nhiều. Besame mucho. Mucho, mucho. Em đâu còn là ca
sĩ trong trung đội của anh nữa mà anh phải sợ?
Rồi từ đêm đó, tôi không còn gặp lại nàng. Vì bận bịu công việc
và vài hình bóng khác len nhẹ vào đời, chiếm chỗ của nàng, tôi không về Nha
Trang bao giờ nữa. Thỉnh thoảng nhớ Hương Mai và những kỷ niệm có nàng, tôi thở
dài, lòng thấy xót xa và buồn vô hạn.
5.
Cho đến sau năm 1983. Từ những trại tù cải tạo, tôi trở về
quê cũ với mảnh đời vỡ nát và tâm hồn trống vắng. Đến Nha Trang Hotel tìm Hương
Mai và dĩ vãng nào xanh như mắt em (Đinh Hùng) mới biết vũ trường đã đổi thành
phòng trà, cà phê, có tên mới, chủ mới. Người ta không biết “ca sĩ Hương Mai
trước 75, tóc có đường ngôi rẽ ở giữa” là ai. Một hôm, tình cờ, gặp lại Thiên
Ân bán vải tại chợ Đầm. Trông cô vẫn còn trẻ đẹp, thách đố thời gian tàn nhẫn
và cuộc đổi đời bi đát, nhưng trong đôi mắt cô –cũng như các giai nhân
Nha Thành một thời vang bóng còn kẹt lai–. tôi đọc được, ôi, mênh mông là nỗi u
hoài khôn nguôi của những nàng tiên bị đoạ đày. Thiên Ân ôm chầm lấy tôi, khóc
ròng, rồi kể lể:
- Từ ngày anh đi, bao nhiêu chuyện đã xảy ra. Em nghỉ làm ở Đại
đội, hát cho Nha Trang Hotel được một năm thì mất nước. Sau 75, Phương Hoa lấy
một Dược sĩ Quân y “nguỵ” vừa ra trường, nghe nói bây giờ đang ở Mỹ. Đan Tâm
vào Sài Gòn sinh sống. Mấy cô nữ huấn đạo khác thì mỗi người một ngả. Đại đội
tan tác hết. Đại Úy Tải, Thiếu Úy Cường chắc cũng đi cải tạo, em không biết
ở đâu. Đôi khi có việc đạp xe ngang qua Bình Tân thấy không còn dấu vết gì của
Đại đội cũ, nhất là căn phòng ngủ trống trơn của ông “Trung Úy độc tài và
hắc ám của lòng em”, em buồn muốn rơi nước mắt. Em lập gia đình với một Thiếu Úy
Lực Lượng Đặc Biệt, có một đứa con trai năm nay được mười tuổi. Chồng em tử trận
trên đèo Khánh Dương hai tháng trước khi Nha Trang mất.
Thiên Ân kể đủ thứ chuyện, mà không một lời nhắc đến Hương
Mai. Tôi sốt ruột lắm, nhưng tự chế, không hỏi. Cuối cùng, cô cũng nói:
- Hương Mai chết rồi. Trong tay em...
Tôi hoảng hốt, ngắt lời:
- Thật vậy sao?
- Chuyện dài lắm. Mời anh tối nay đến nhà em chơi, ăn cơm, em
sẽ kể anh nghe... Mấy tháng sau ngày anh lên Đà Lạt, Hương Mai cặp bồ với một
thương gia giàu sụ, khách hàng thường trực của Nha Trang Hotel, có vợ con, vừa
mập vừa hói vừa xấu, lớn hơn nàng gần hai mươi tuổi. Bà vợ chằn lắm, đã mấy lần
đến bắt ghen tại vũ trường. Nhờ em và nhân viên an ninh can thiệp, Mai không việc
gì, nhưng mang tai tiếng phải bỏ hát và bỏ luôn lão ta. Sau 75, nàng giấu kỹ lý
lịch, đổi tên, đổi họ, được đi hát lại, và xin học lớp kịch nghệ, và trở thành
một diễn viên sân khấu có hạng, rất được ái mộ. Thời gian này nàng chung sống với
một nhà văn soạn kịch trẻ, đang lên, tên Lân, nghe nói là một Thiếu Úy trường
CTCT vừa mãn khoá đầu tháng Tư 1975, mới đeo lon, nên trốn cải tạo, từ nơi khác
đến Nha Trang mua được hộ khẩu ở Xóm Mới, khai là cựu sinh viên Đại Học Đà Lạt,
ban báo chí, và như thế tưởng qua mặt được bọn Công an địa phương. Lân và Hương
Mai không hề biết là họ bị theo dõi và canh chừng gắt gao. Nàng cũng không hay
rằng Lân lén viết gửi ra ngoại quốc bài vở có nội dung chống Cộng.
Một lần tình cờ nàng bắt gặp anh ta đang loay hoay giấu một
lô giấy tờ trên trần nhà. Lân biết bị lộ, nhưng rất tin tưởng nàng, nên ỷ y.
Lúc này nàng ghiền sì ke, và vì say mê danh vọng và mong được đãi ngộ thêm, đã
một lần phải trao thân cho tên Trưởng Ty Văn Hoá tỉnh cứ đeo đuổi, sách nhiễu
nàng. Thấy tình thế đã chín muồi, Công an bắt đầu ra tay.
Đầu tiên, chúng gài bẫy bắt nàng về tội sử dụng ma tuý. Dùng
lời ngon ngọt, chúng dụ dỗ nàng khai ra chỗ Lân giấu tài liệu, để đổi lại những
ưu đãi dành cho các ca sĩ, diễn viên thượng thặng. Rồi đe doạ, nếu ngoan cố,
nàng sẽ bị đuổi khỏi đoàn kịch. Cuối cùng, nàng chấp thuận làm cộng tác viên,
khai hết, và lập tức được thả ra. Trưa đó, trở về, nàng thấy công an đứng chật
nhà hai người, và một ô vuông gỗ trên trần bị tháo xuống, và Lân đang bị còng
tay, mặt mũi sưng vù, ngước lên nhìn nàng, vẻ khinh bạc, không nói một lời.
Nàng hiểu, và chạy bay ra khỏi nhà, lao vào chiếc xe vận tải đang phóng ngược
chiều...
Trong cơn hấp hối, lúc tỉnh lúc mê, tại bệnh viện, Hương Mai
thều thào nhờ em xin Lân tha thứ, nếu sau này còn gặp anh ta. Nàng thầm gọi tên
anh, khóc nức nở, lo sợ một ngày anh biết được những chuyện tồi tệ nàng đã làm
và sẽ hết yêu nàng. Vì, nàng nói, anh vẫn là tình yêu duy nhất của nàng. Trước
đó lâu lắm, khi tụi em trở thành bạn thân, Hương Mai có kể em nghe chuyện đã xảy
ra trong đêm công tác ở Dục Mỹ giữa anh và nàng. Nếu anh ở lại với nàng tối hôm
ấy, thì mặc dù nàng tự dâng hiến, em tin rằng Hương Mai đã quên anh ngay, như một
trong nhiều người đàn ông khác đi qua đời nàng sau này, mà nàng rất ghê tởm.
Cũng như em, phải sau một thời gian dài cách xa và sau bao giông tố và cạm
bẫy trong cuộc đời, mới hiểu con người trung hậu của anh, qua vẻ ngoài mà anh cố
tình làm ra nghiêm khắc và hiểu rằng tận đáy hồn em, nói ghét anh không có
nghĩa là ghét anh. Phụ nữ tụi em bị quyến rũ ở người đàn ông bởi nhiều cái khác
hơn, cao quý hơn vẻ ngoài, tiền tài, địa vị.. Đó là sức mạnh tinh thần, tâm hồn
cao thượng, đối xử tế nhị, phong thái trượng phu, lưng thẳng như thân cây trúc,
đồng thời sự khổ đau, dằn vặt, và nhất là dũng cảm, trước những chọn lựa khó
khăn. Đối với Hương Mai và em, tình yêu như đoá hoa, hái xuống sẽ úa tàn đi,
nhưng nếu được giữ lại trên cành, nó sẽ vĩnh viễn sống trong tim, dù qua bao
gió mưa tơi tả. Anh đã giữ đoá hoa tình yêu của nàng còn mãi trinh nguyên. Nàng
nói hẹn gặp lại anh để cùng anh sống nốt những ngày hạnh phúc dở dang ở cõi
khác, chắc chắn tốt đẹp hơn cuộc đời này. Nói xong, nàng chết trong tay em, vẻ
mặt rất thanh thản, không còn thấy đớn đau nữa. Bấy giờ là giữa mùa đông 1981,
chắc anh còn đang bị lưu đày cải tạo ở nơi nào trên đất Bắc...
Thiên Ân ngừng kể, đưa mắt buồn rầu nhìn qua song cửa. Mưa
rơi tự khi nào, giăng kín khung trời mờ tím. Đêm xuống càng thêm lạnh trong hồn
người quả phụ –một cựu ca sĩ chính huấn tài sắc vẹn toàn một thuở. Tôi đứng lên
từ biệt, hôn má Thiên Ân, ôm đứa nhỏ vào lòng, và ngậm ngùi nói:
- Cám ơn em thật nhiều đã kể cho anh nghe câu chuyện thương tâm này. Giống như Anna Karenine, nhân vật của León Tolstoi, chắc em còn nhớ, Hương Mai đã chọn cái chết để chuộc những lỗi lầm. Chắc nàng đã tìm được sự cứu rỗi, tha thứ và bình an ở bên kia thế giới, nơi không còn bất hạnh, hận thù, gian dối. Hôm nào, em hãy dẫn anh đến thăm mộ nàng. Anh mới là người cần được nàng tha thứ.
15/12/2025
Kim Thanh
Nguồn: https://vietbao.com/
Theo https://www.tongphuochiep.com/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét