Thứ Hai, 22 tháng 12, 2025

Giọng hát Y Phương trong "Tiếng hát tháng Giêng"

Giọng hát Y Phương
trong "Tiếng hát tháng Giêng"

Từng trải Đông Đoài Nam Bắc, từng ném cái giận vào mặt thù khô quắt… từng “mang trong mình cơn sốt cao nguyên – mang trên mình vết thương”, Y Phương – cái “người đàn ông ở làng Hiếu Lễ” ấy – giờ đã trở về để sống tiếp những phương diện khác của con người mình trước đây chưa từng sống, trải tiếp những cái mừng, cái lo của hạnh phúc làm cha, cái khó, cái khổ khi nhóm lửa trên mặt nước, cái đắng, cái buồn khi sứ sành rạn nứt bởi những va chạm đời thường…
Những suy tư đậm đặc mà người đọc đã thấy trong “Tiếng hát tháng Giêng” chính là sự kết tỏa của những vị đời anh từng nếm trải trên những bước đường ấy. Giờ đây, với “ý nghĩ khôn lên, nỗi buồn thấm tháp” được đảm bảo bằng những trải nghiệm của bản thân, anh đã có thể nói với con những điều gan ruột nhất:
Xa đo nỗi buồn/ Cao nuôi chí lớn/ Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn/ Sống trên đá (đừng chê đá gập ghềnh)/ Ở trong thung (không chê thung nghèo đói)/ Ta như sông như suối/ Lên thác xuống ghềnh không kêu cực nhọc/ Người đồng mình thô sơ da thịt/ Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con/ Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương…
Và đó cũng chính là điều gan ruột của “Tiếng hát tháng Giêng”. Vâng, tôi muốn nói: sự tha thiết với xứ sở dân tộc mình chính là nhịp tim thầm kín bền vững nhất trong từng bài thơ Y Phương, là cốt lõi của giọng hát Y Phương.
Trên hành trình ra ngoài xứ sở, qua bao miền quê xa, anh đã biết đến bao nhiêu thứ lửa. Nhưng anh chỉ nuôi giữ duy nhất một thứ: ngọn lửa rừng sâu cháy bằng thứ củi riêng. Anh thừa nhận củi quê mình sần sùi cứng cáp nhưng anh quả quyết “đã cháy lên là chẳng lụi bao giờ” (Ngọn lửa rừng).
Nếu ngọn lửa là tài sản của xứ sở, thì bài ca là di sản của tổ tiên. Một khi nó đã là sự kết tinh thành lời, thành điệu của tâm hồn dân tộc mình, thì cho dù “Bài hát ấy đã già lắm rồi”, anh vẫn cứ thủy chung giữ gìn, bởi “Câu hát này thiêng liêng lắm chứ/ Hát bây giờ còn để hát mai sau” (Tiếng hát tháng Giêng). Thực ra, muốn bảo tồn và phát huy văn hóa của bất luận dân tộc nào, không thể thiếu một ý thức tự trọng như thế, một bản lĩnh văn hóa như thế. Thái độ tự trọng ấy của tác giả đã khiến cho người đọc “Tiếng hát tháng Giêng” phải nể vì.
Đi ra ngoài xứ sở cũng là một dịp cần thiết để nhận thức về dân tộc mình. “Tiếng hát tháng Giêng” là lời tự hát, tự nhận thức như thế, mà trước hết và căn bản nhất là nhận thức về con người. Bây giờ Y Phương đã có thể vẽ chân dung những người con của dân tộc mình, quê mình bằng những đường nét chắc chắn của nhận thức và tin yêu. Đây là hình tượng khái quát:
Da thịt người da thịt đất đai/ Cùng một màu đồng hun lặng lẽ/ Nặng nhọc cười/ Nặng nhọc người đàn bà đeo gùi/ Nặng nhọc hai bầu vú mọng căng như nước/ Nặng nhọc hai bầu vú phì nhiêu như đất/ Đất nước/ Sinh ra từ ngực người đàn bà
Bên trong cái màu đồng hun – thô sơ của vóc dáng người đàn bà vùng cao kia là cả một vẻ đẹp kỳ vĩ của sử thi!
Trong tập thơ này, ta còn gặp những bà mẹ lầm lì như lửa chiều Mường Khương, những người trên phòng tuyến Khau Liêu, những người đi chân đất mà khai sinh những bài ca, những cô gái trên nương, những chàng trai sông Hiến… Những gương mặt vùng cao ấy, cố nhiên, rất khác nhau, nhưng lại thống nhất bởi nét chung ấy: thô sơ da thịt mà cao quý tinh thần. Có thể thấy đây là đặc điểm lớn nhất quán xuyến mọi nhân vật của tác giả này. Đại diện chính thức cho họ có thể là Quế – “anh chiến sĩ áo chàm”. Ngay từ đầu, bằng cách ngắt dòng gọn, đanh, Y Phương đã tạo ra cái thô sơ da thịt ở Quế một cách thật kiêu hãnh:
Trán dô/ Mũi thô/ Môi dày/ Chân đi dép bốn hai vẫn thừa năm ngón…
Nhưng chính cái thô sơ ấy lại chứa đựng những tính nết rất quý: “nhịn đói không kêu – ốm đau không kêu – nhớ mẹ quá thì ngồi trên đá – nhớ rồi khóc không cho ai biết…”. Chỉ riêng chân dung những người lính ta cũng đã thấy một nét đẹp khác của người vùng cao: rất tha thiết với cuộc sống thanh bình nơi xứ sở. Y Phương thường tập trung làm nổi bật lên con người hậu phương như là vẻ đẹp thuần phác và chân chính nhất trong anh lính vùng cao. Hậu phương với toàn bộ kỷ niệm tuổi thơ, hạnh phúc tuổi trẻ, vẻ thanh bình rừng núi, cảnh ấm cúng gia đình… không chỉ lặn vào nỗi nhớ (Người vùng cao, Bài ca thứ hai…) hay bất ngờ hiện lên bên nòng súng (Chúng con đã lớn, Sông Hiến đang yêu…) mà còn thường xuyên đi về trong các cơn mơ. Trong mạch đề tài này, “Cơn mơ ban mai” là một bài thơ hay. Ở đó, chiến tranh, trong bản chất của nó, là thù địch với con người hậu phương đầy nhân tính của anh chiến sĩ – người đang ra mặt trận bằng khao khát hòa bình. Chính từ sự ý thức và niềm kiêu hãnh này mà Y Phương đã xác định một cách thật giản dị mà cũng thật tự hào về vị trí của người vùng cao trong đội hình chiến đấu của dân tộc:
Người vùng cao phải chốt trên cao
Sự tha thiết với xứ sở dân tộc đâu chỉ quy định thái độ đối với các giá trị văn hóa và với đồng bào của tác giả này. Trong “Tiếng hát tháng Giêng”, Y Phương còn chứng tỏ sự độc đáo của mình ở một mảng khác – thơ tình. Nhiều bài thơ tình yêu của anh đọc rất thích (Mát rượi cây đàn, Mùa hè, Em – cơn mưa rào – ngọn lửa, Tên em – dòng sông, Người không mang áo bông, Ngọn lửa rừng, Thư Nha Trang…) Không chỉ vì anh nói đến tình yêu, người yêu với tâm tình chân thực, chất phác của con người vùng cao, và thường gắn liền với những sự vật riêng của xứ sở mình (Cây đàn tính, Nương rẫy, Ngọn lửa rừng, Dòng sông núi…), cái độc đáo còn ở chỗ tình yêu, ở đấy cũng chính là một dạng biểu hiện tuyệt vời của niềm thiết tha với dân tộc xứ sở. Đối với anh, cô gái riêng của anh ấy là “mực trong ngòi, là cơm trong nồi, là gà gáy nhưng cũng là quả ớt”. Song, trước hết, người yêu anh đã thâu lượm vào nhan sắc và phẩm hạnh mình những đường nét riêng của dân tộc. “Em hiền lành/ Chậm chạp/ Em đội chum rượu đến với anh/ Người con gái có bàn chân to khỏe/  Đạp qua bao gian khổ/  Đến với anh”. Với hình ảnh người yêu như thế, ngòi bút tự trọng của Y Phương đã có thể hoàn tất ở tập này bức chân dung người vùng cao – Thô sơ da thịt mà cao quý tinh thần – của riêng mình.
Tuy nhiên, trong “Tiếng hát tháng Giêng”, tình yêu dân tộc xứ sở không chỉ biểu hiện ở nội dung và tư tưởng một cách trực tiếp như thế.
Nghe tiếng suối thấy như tiếng đàn, đó là cảm giác của nhiều người. Nhưng khi Y Phương thấy tiếng đàn ấy phải cụ thể là đàn tính và bản đàn kia phải là đàn Then – Con suối lên dây gẩy bài Then (Bếp nhà Trời) – thì tức là xứ sở đã nhập vào tiềm thức ấy, giác quan ấy. Và đây cũng là chỗ sâu kín nhất của cái mà nhiều người đọc đã thấy ở “Tiếng hát tháng Giêng” – tính dân tộc truyền thống của nó.
Tôi cứ hình dung Y Phương như người câu ngồi dưới bến sông Bằng Giang – Hòn thiên nhiên ngồi – lặng – yên – và – hát. Và như cái anh chàng Quế đó. Cách làm của Y Phương hệt như nhân vật của mình. Có tâm sự chất chứa trong lòng thì lặng yên trốn ra sông vầy nước và vẽ lên cát. Rồi cứ thế mà hình thù hóa, hình ảnh hóa, hình tượng hóa cái tình của mình ra câu hát, ra mặt cát, ra trang thơ: Vẽ lên cát hình thù dãy núi quê hương – vẽ lên cát mái trường phố huyện – vẽ lên cát người con gái cao cao – vẽ lên cát thằng bạn đen đen – vẽ lên cát con nai bú mẹ…
Cái thao tác này có nguy cơ triền miên bất tận mà chưa chắc đã nói được gì nếu như không tìm thấy chỗ dừng ở sự thấu hiểu rất tri âm, rất nhân hậu của cát:
Chỉ có cát mới hiểu được lời của Quế/ Cát ấm lên tơi xốp dưới nắng vàng
Thế là Quế dừng lại, và nói chung thì Y Phương cũng đã biết dừng lại như thế ở nhiều bài thơ của mình. Anh nhường lời cho sự lặng im. Cái duyên của Y Phương và của Quế trong lối thế hiện tâm tư chỉ là một.
Tôi đã đọc bản công bố lần đầu của của một số bài thơ bây giờ in vào tập này, dưới đây là vài trường hợp. Bài “Tiếng vó ngựa Đèo Heo” đã khác xa với nó khi còn là “Tiếng vó ngựa trên Đèo Heo”. Trước, anh tả con đường: Núi một bên/ Thác một bên/  con đường mòn nằm giữa, còn bây giờ nó không muốn nằm nữa, nó cựa quậy: – “Con đường mòn chảy giữa”. Nếu ngôi sao trên mũ người lính biên phòng trước đây vốn được so sánh với lửa: Các anh đi tuần/ ngôi sao trên đầu như lửa, thì lần này nó đã nhập làm một với lửa: Các anh đi tuần – trên đầu thắp lửa… Nó đẹp hơn, thơ hơn, và điều quan trọng là nó gần như cảm quan người vùng cao hơn. Cũng trong bài đó, đoạn các chiến sĩ trở về, vốn là “trán núi thu quân về” một cách… ngô nghê, thì bây giờ nó vẫn hồn nhiên nhưng không hề ấu trĩ: “gió hú thu quân về”. Ở nhiều bài khác, ta cũng có một sự so sánh tương tự. Hiện tượng này không chỉ nói về sự nghiêm túc trong lao động nghệ thuật vùng cao, đồng thời cũng khắc phục cái thô ráp, ngây ngô vốn là nhược tật của lối cảm đó. Chính nhờ đó mà hình ảnh, hình tượng thơ của “Tiếng hát tháng Giêng” có một chất lượng khác hẳn với thơ của không ít các cây bút vùng cao đi trước.
Thực ra, khi đề cập việc sử dụng nhuần nhị vốn truyền thống dân tộc của Y Phương, ta có thể nhắc đến lối nói sóng đôi, lối ví von vật thể, đến vốn mô-tip dân gian (của cả miền núi lẫn miền xuôi) trong thi liệu, thi từ… Nhưng tất cả những cái đó chỉ là các yếu tố châu tuần quanh một lối tư duy thơ ca nói trên mà thôi (có lẽ đây chưa phải lúc nói về một phong cách, một cá tính sáng tạo Y Phương).
Cũng như thế, khi nói về dáng dấp hiện đại của những bài thơ Y Phương, ta có thể kể đến cách ngắt dòng, ngắt nhịp, đến lối xuống thang, lối mô phỏng âm hưởng sự vật, lối gia tăng lí trí cho các tứ thơ, lối liên kết móc xích v.v… nhưng tôi thích nói đến cái giọng của anh, đến cách phát hiện chất thơ của anh.
Người ta thấy “Tiếng hát tháng Giêng” là thuộc về một chất giọng khá điềm tĩnh, cái điềm tĩnh của suy tư. Không phải lối sôi nổi giãi bày cảm xúc, kể lể sự kiện cho đã, cho thỏa mãn cái Tôi, tất cả đã lắng vào suy tư, suy tư lắng những câu gọn, chắc ngỡ chỉ thuần duy lý, ngỡ khước từ cả những vần nhạc thông thường.
Bao nhiêu trời ghé xuống/ Bao nhiêu rừng lội qua/ Bao nhiêu đá chắt ra/ Mới biếc xanh Bằng Giang
Hoặc:
Bao giờ yên như hồ/ Tĩnh lặng như hồ/ Đầy đặn như hồ/ Ăn ở như hồ…
Tuy nhiên không phải lúc nào anh cũng được như vậy. Người đọc có quyền đòi hỏi một sự rắn rỏi hơn nữa trong giọng điệu, một độ sắc sảo mạnh bạo hơn trong suy tư, và chúng cần hướng vào những vấn đề của hôm nay, của người vùng cao mà ở tập này anh mới kịp chạm đến trong một vài chỗ (Tên làng, Tay trái, Một cuộc bàn giao…)
Như đã nói ở trên, điều đáng mừng là ai đọc “Tiếng hát tháng Giêng” cũng thấy rất dân tộc. Điều đó có nghĩa là yếu tố hiện đại đã tìm thấy một cơ chế kết hợp hợp lí nào đó với yếu tố truyền thống. Điều khiển cơ chế ấy không thể là gì khác hơn lòng thiết tha với xứ sở, dân tộc.
Mặc dù vẫn còn một số bài loãng, lép (Một ngày bình yên, Kỷ niệm đội chiếu bóng, Hương thơm trái thị,…) nhưng tôi vẫn nghĩ phần thành công của “Tiếng hát tháng Giêng” có thể làm Y Phương tự tin vào hướng đi của mình. Chúng ta chờ đợi những độ chín mới của anh.
13/12/2025
Chu Văn Sơn
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

"Thơm từ nỗi đau" của Hoàng Thụy Anh: Hành trình hóa giải và hồi sinh

"Thơm từ nỗi đau" của Hoàng Thụy Anh: Hành trình hóa giải và hồi sinh Có những tập thơ khi mở ra, người đọc lập tức bị thu hút b...