Thứ Hai, 22 tháng 12, 2025

Nhân vật trong Đàn Đáy của Trần Thu Hằng: Khi phận người là nơi ký ức lên tiếng

Nhân vật trong Đàn Đáy của
Trần Thu Hằng: Khi phận người
là nơi ký ức lên tiếng

Với Đàn Đáy, Trần Thu Hằng đã không chỉ kể những câu chuyện về phận người, mà còn để những thân phận ấy trở thành nơi ký ức lên tiếng – những tiếng vọng sâu xa từ lịch sử, văn hóa của dân tộc. Nhân vật trong tác phẩm vì thế không còn đơn thuần là chất liệu để kể chuyện, mà chính là những “nốt nhạc sống”, làm nên bản tự sự trầm lặng và đầy dư âm.
Cùng sinh hoạt trong Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Đồng Nai, được đọc nhiều tác phẩm của chị, tôi biết Trần Thu Hằng là một cây bút nữ đầy nội lực và bản sắc trong dòng chảy văn học đương đại Việt Nam. Chị ghi dấu ấn không chỉ bằng ngôn ngữ chắt lọc, giàu suy tưởng mà còn bằng một tâm thế sáng tạo gắn bó sâu sắc với chiều sâu văn hóa dân tộc.
Tác phẩm tiêu biểu của chị – tiểu thuyết Đàn Đáy – là một tác phẩm nghệ thuật đậm tính nhân văn, nơi tiếng đàn dân tộc vang lên như tiếng vọng của lịch sử, bản sắc và những khúc trầm của phận người. Với văn phong tinh tế, giàu chất điện ảnh và biểu tượng, Trần Thu Hằng không chỉ viết văn mà còn như đang dẫn dắt độc giả bước vào một thế giới khác – nơi cái đẹp được hồi sinh trong những phận đời lặng lẽ.
Chị là một trong những gương mặt nữ văn chương đáng chú ý của văn đàn hiện nay khi kết hợp nhuần nhuyễn giữa chiều sâu tri thức, vốn sống trải nghiệm và một tâm hồn luôn đau đáu với văn hóa, con người Việt.
Trong thế giới của văn học, có những nhân vật không chỉ là sản phẩm của tưởng tượng, mà còn là nơi ký ức nhân loại tìm được tiếng nói. Đàn Đáy của Trần Thu Hằng không chỉ là một tiểu thuyết, mà là “bản hòa tấu trầm lặng giữa phận người và hồi âm của lịch sử, văn hóa, và bản thể”. Chính trong sự kết nối giữa thân phận và ký ức ấy, Trần Thu Hằng đã kiến tạo nên một hình thức tự sự đậm chất hậu hiện đại – nơi phận người là nơi ký ức lên tiếng. Đó là tiếng nói, là khát vọng mãnh liệt của người nghệ sỹ được hiểu, được tôn trọng, được đồng cảm, được sáng tạo và cống hiến.
Để hiểu rõ cách Trần Thu Hằng kiến tạo nên hệ thống nhân vật trong Đàn Đáy, không thể tách rời nhân vật khỏi mạch ngầm ký ức. Việc tiếp cận nhân vật không chỉ là phân tích tính cách hay hành động, mà là đi sâu vào quá trình kiến tạo nên tiếng nói của họ trong dòng tự sự đậm đặc chất ký ức. Nhân vật, vì thế, trở thành điểm hội tụ của ký ức cá nhân và cộng đồng, lịch sử và hiện tại. Chính ở điểm giao thoa ấy, những con người trong Đàn Đáy hiện lên không ồn ào nhưng đầy ám ảnh.
Đàn Đáy là tiểu thuyết lịch sử – văn hóa nổi bật, tập trung khai thác tâm lý sâu sắc của nhân vật nghệ sĩ trong khung cảnh Thăng Long thời Lê Trịnh. Trần Thu Hằng thể hiện rõ sự tỉ mỉ trong tái hiện văn hóa ca trù, nhạc khí, trang phục, ứng xử. Mỗi nhân vật trong tiểu thuyết là một biểu tượng nghệ thuật được nhà văn sáng tạo nên bằng ngôn ngữ mang tính biểu tượng và đại diện cho con người trong đời sống với tính cách, tâm lý, hành động, số phận và mối quan hệ xã hội.
Nó không chỉ là một nhân vật cụ thể trong truyện mà còn là nơi tập trung các giá trị nhân sinh, đạo đức, triết lý và lịch sử.
Mạch truyện của Đàn Đáy thiên về nội tâm giàu cảm xúc khiến người đọc đồng cảm với bi kịch “Tài hoa bạc mệnh” của người nghệ sĩ. Tác giả chủ yếu viết về những nghệ sĩ – những con người bé nhỏ – đôi khi chỉ như “bóng mờ” trong dòng chảy lịch sử nhưng lại mang trong mình lớp ký ức trầm tích đầy ám ảnh. Nhân vật trong tác phẩm của Trần Thu Hằng là nơi ký ức, khát vọng tập thể và văn hóa lên tiếng. Họ không chỉ là cá nhân mà còn là một “cộng đồng câm lặng”. Nhân vật trong Đàn Đáy không có hành động nổi bật. Mỗi ca nương, kép đàn đều là “người mang ký ức chứ không đơn thuần là người kể chuyện”. Họ đã làm sống lại ký ức văn hóa tập thể, qua đó phản ánh triết lý về sự bền vững của truyền thống ngay trong chính sự mong manh của phận người.
Có thể thấy nhà văn đã xây dựng được tổ hợp nhân vật đa tầng: Người già giữ nghệ thuật (Bạch Thuận), người kế nghiệp và nổi loạn (Bạch Vỹ), người trẻ đầy hoài bão (Bạch Vân, Bạch Trang). Mỗi nhân vật là một “nhạc cụ” trong “Giao hưởng” của ca trù, cùng xây nên một bức tranh văn hóa Thăng Long vừa sống động vừa nhân văn. Tác phẩm với tiếng đàn “Buông xả khinh khoái kỳ lạ” với cảm xúc mãnh liệt, qua đó, gợi mở nỗi trăn trở về nghiệp hát, về khát vọng sống và bền bỉ giữ nghề giữa tiếng đàn và tiếng người. Nó mở vào ký ức và bản sắc văn hóa dân tộc. Trần Thu Hằng như một nhạc sĩ chơi bản nhạc cổ mà ở đó mỗi nhân vật là một nốt nhạc, mỗi phận người, là một cung bậc âm thanh.
Hãy dừng lại ở những nhân vật điển hình trong Đàn Đáy.
Trước hết là Bạch Vĩ – nhân vật biểu tượng cho khát vọng và nổi loạn.
Trước khi lên sân khấu, anh xuất hiện với tâm trạng “Bồn chồn, mệt mỏi” trái ngược với vẻ hào nhoáng nghệ sĩ, cho thấy sự giằng xé của một tài năng trẻ không chỉ muốn được nghe mà còn mong được hiểu. Tim anh đập như muốn bật khỏi lồng ngực còn nốt nhạc đầu tiên vang lên trong nỗi lo sợ bị quên lãng khỏi thế giới ca trù”. Khi hát, “Vĩ gảy mạnh đầu dây, từng rung động truyền đến tận da thịt – như muốn chứng minh mình vẫn tồn tại, vẫn có thể nói, được nói bằng tiếng đàn”. Sau sân khấu là cảm giác khép chặt nỗi bất an “Tiếng vỗ tay lợt lạt, ánh mắt khán giả khiến Vĩ chợt nhận ra: Người ngưỡng mộ nhiều nhưng hiểu anh rõ anh thì rất ít” Bạch Vĩ – biểu tượng cho năng lực sáng tạo đầy tự hào, đầy khát vọng và đôi khi nổi loạn. Cá tính của Bạch Vĩ thể hiện mâu thuẫn giữa khát vọng của cái tôi nghệ sĩ và sức ép của xã hội. Người nghệ sĩ tài hoa vừa kiêu hãnh vừa cô đơn trong khát vọng và cảm xúc của chính mình. Nhân vật gợi liên tưởng đến hình ảnh Vũ Như Tô trong tác phẩm cùng tên của nhà soạn kịch Vũ Huy Tưởng.
Với ca nương Bạch Dung, người đọc cảm nhận rõ đó là người nghệ sĩ đam mê và cam chịu. Chưa đến phần hát, nàng run run nhưng vẫn sẵn sàng. Dung xưa giờ quen im lặng để tồn tại, nhưng giờ đứng trước quan khách, nàng thấy tim mình trống rỗng như đợi chờ một phép lạ. Trong lòng nàng giữa từng câu hát là tiếng gọi từ quá khứ, khao khát nghề và tiếng vọng tình yêu. “Mỗi tiếng hát như hơi thở, không chỉ tồn tại, mà là để khẳng định: Em hát vì ai? Vì chính mình hay vì cả một đời bị mang tiếng?” Khi kết thúc phần thi “Dung cúi gập người, môi mím chặt như sợ mở miệng mọi thứ sẽ vỡ tan, tài năng ước vọng, cả niềm tin trước ánh mắt thế gian”.
Bạch Thuận – không chỉ là người đứng lớp mà còn là người chỉ đường tinh thần, người giữ nghề.
“Thuận nhắm mắt lắng nghe, trong đó có bao nhiêu mồ hôi ngày xưa, có bao nhiêu giấc mơ bị vùi lấp- giờ đứng nơi sân khấu này, có đủ để nối tiếp dòng ca trù?”. Với những nỗi đau khi nghe các đào hát xong với định kiến “Thuận buông đôi đũa xuống, không phải vì mệt mà vì nhận ra: nghệ thuật kia đang bị thương chính bởi chúng ta nhìn nhận nó.”
Nếu Bạch Thuận là người giữ lửa, tuổi già và sự thất vọng thì thế hệ trẻ Bạch Vân, Bạch Trang lại là những tâm hồn trong veo và đầy hy vọng. Trước sân khấu: Họ bước ra như muốn tìm một chỗ đứng. “Vân chăm chú nhìn đôi mắt khán giả – lần đầu, cô cảm thấy mình thực sự sống chứ không chỉ là một hình bóng đứng giữa ánh sáng”.
Khi nhạc trỗi lên, cảm giác thanh khiết được thăng hoa “Âm thanh khẽ lan tỏa, bàn tay Vân run run nhưng ánh mắt rực lên niềm tin”- cô hát không chỉ cho bản thân mà còn cho cả tương lai không lầm lạc…
Mỗi nhân vật một tính cách, một hoàn cảnh, một nỗi niềm. Nó chính là “bi kịch cá nhân con người”.
Trong Đàn Đáy mỗi nhân vật bộc lộ tính cách qua chi tiết nhỏ nhất – một cử chỉ run rẩy, một giọt nước mắt, một khoảnh khắc lặng im – tất cả đều được khai thác rất tỉ mỉ và cảm động. Nhà văn đã sử dụng lịch sử như “vỏ bọc” để phơi bày đời sống nội tâm và bi kịch của người nghệ sĩ qua đó cho thấy Lịch sử thể hiện sinh động ở số phận, cuộc đời con người… điều này khiến cho Đàn Đáy mang hơi thở của thời đại, thấm đẫm giá trị nhân văn. Một nhà phê bình văn học đã cho rằng “Đàn Đáy là Bản độc tấu của thân phận và chiều sâu nhân vật. Nhân vật là con mắt và tấm gương của thời đại. Mỗi nhân vật đại diện cho một lát cắt của xã hội có khi là cả một tầng lớp, giai cấp hay tư tưởng”.
Qua các nhân vật ca nương, kép đàn – phận “xướng ca vô loài” bị coi rẻ – tiểu thuyết vẽ nên bức tranh xã hội Thăng Long thời loạn và thân phận con người, về âm nhạc và văn hóa truyền thống. Trần Thu Hằng đã viết về nỗi đau đáu khát khao được sáng tạo, được thấu hiểu và trân trọng của người nghệ sĩ. Thiết nghĩ đó là ước vọng muôn đời của những người biết trân trọng cái đẹp, cống hiến cho cái đẹp, cho văn hóa, cho cuộc đời. Tạp chí khoa học và công nghệ Việt Nam nhận định: Tiểu thuyết Đàn Đáy không những là cuộc đời trầm luân, éo le với chữ tình và chữ tâm, mà còn là những trang văn hóa đặc sắc…” đọng lại sau truyện là một sự thực về thái độ của con người đối với nghệ thuật và người nghệ sĩ cho thấy sự tôn trọng và rẻ rúng cùng tồn tại, đó là bi kịch muôn thuở của người nghệ sĩ. Được say mê nhưng không được thấu hiểu đồng cảm trọn vẹn. Mặc dù thế, mỗi nhân vật trong Đàn Đáy vẫn bước lên sân khấu với gánh nặng của quá khứ, khát vọng của tương lai và nỗi cô đơn hiện tại. Ca trù không chỉ là nghệ thuật mà là phương tiện cứu rỗi linh hồn, là đạo mà họ sống chết theo đuổi.
Qua nghệ thuật xây dựng nhân vật chứa chiều sâu, Trần Thu Hằng không chỉ kể chuyện đời mà còn khơi dậy những ám ảnh nhân sinh về giá trị sống. Nhà văn đã viết về các nhân vật trong một tâm thế tỉnh táo nhưng chứa chan rung cảm. Người đọc tìm thấy ở đó, lắng nghe ở đó tiếng đàn cất lên từ chiều sâu lịch sử vọng đến tận những khúc quanh lặng lẽ của tâm hồn.
Với Đàn Đáy, Trần Thu Hằng đã không chỉ kể những câu chuyện về phận người, mà còn để những thân phận ấy trở thành nơi ký ức lên tiếng – những tiếng vọng sâu xa từ lịch sử, văn hóa của dân tộc. Nhân vật trong tác phẩm vì thế không còn đơn thuần là chất liệu để kể chuyện, mà chính là những “nốt nhạc sống”, làm nên bản tự sự trầm lặng và đầy dư âm.
Paul Ricoeur từng khẳng định: “Ký ức chỉ thực sự tồn tại khi được kể lại; kể chuyện là một hành vi ghi nhớ.”
Và trong hành vi kể lại của Trần Thu Hằng, nhân vật không chỉ là người nhớ – mà còn là chính ký ức đang cất tiếng. Một tiếng nói không ồn ào, nhưng đủ lay động để ta lắng nghe mình – và lắng nghe cả một miền văn hóa đang lặng thầm ngân vang từ đáy sâu thời gian.
3/12/2025
Bùi Thị Biên Linh
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

"Thơm từ nỗi đau" của Hoàng Thụy Anh: Hành trình hóa giải và hồi sinh

"Thơm từ nỗi đau" của Hoàng Thụy Anh: Hành trình hóa giải và hồi sinh Có những tập thơ khi mở ra, người đọc lập tức bị thu hút b...