Thứ Hai, 22 tháng 12, 2025

"Thơm từ nỗi đau" hay là buồn như hạnh phúc

"Thơm từ nỗi đau" hay là
buồn như hạnh phúc

Nỗi đau và nỗi buồn trong thơ Hoàng Thuỵ Anh chính là nỗi đau hoan ca và nỗi buồn sáng tạo. Nữ sĩ giờ đây trở thành người trầm tư, chắt chiu nỗi buồn, biến nó thành niềm vui tái sinh trong khu vườn thi ca vĩnh cửu: “quả bắp lọn lúa đĩa xôi/ như bức tranh tĩnh vật của cánh khói/ bàn tay nụ cười các ý tưởng ngộ nghĩnh/ em làm sự trong suốt về anh”…
Nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, sinh thời, có phát biểu quan niệm của ông về thơ tưởng lạ nhưng vô cùng chính xác: “Một quyền của thi sĩ là quyền được buồn trong ngôi nhà tâm hồn của mình”. Đó có thể là đúc kết từ kinh nghiệm buồn của chính ông, cũng có thể là nhập vai vào kinh ngiệm buồn của người khác. Ứng vào thực tiễn cuộc đời và sáng tạo của nhiều thi sĩ lớn ở nước ta và trên thế giới, điều đó đã trở thành linh nghiệm và ứng nghiệm. Vâng, nhà thơ lớn là người nào biết đi từ nỗi buồn đau của chính mình và cõi người để thơ của họ kéo dài ra trong niềm vui và thăng hoa của người khác.
Đọc tập thơ ‘’Thơm từ nỗi đau’’ (NXB Hội Nhà văn, 2025) của nữ sĩ trẻ Hoàng Thuỵ Anh, tôi bất chợt liên tưởng đến những điều kỳ diệu của nỗi đau thơm như hoa cỏ và nỗi buồn đắng như hạnh phúc mà nơi tận cùng sâu thẳm lòng mình, người thơ đã kịp nhận ra trên hành trình tâm linh sự sống. Thơ Hoàng Thuỵ Anh, vì vậy, là mỹ học của nỗi đau toát ra từ một hồn thơ dạt dào thiên tính nữ. Đau buồn mà vẫn tin yêu, hy vọng và vẫn bao dung, nhân ái với cuộc sống và thiên nhiên: “mưa rót vào đêm/ đêm rót vào mưa/ như bóng rót vào bóng/ làm đầy nhau”. Đó chính là ngôn ngữ của thiên nhiên song hành với con người và cần cho con người từ bản chất:
khởi đầu để tận cùng/tận cùng để khởi đầu – (Song hành)
Từ thức nhận và quy chiếu như thế, Hoàng Thuỵ Anh đã thấy được: “mặt trời lăn vào bóng đêm/ ánh sáng sinh ra/ xanh từ mặt đất xanh lên”. Trái tim thiên nhiên luôn tươi xanh và trong suốt đến tận cùng sự sống để mọi sinh thể đều giao hoà trong khát vọng sống yên bình, dẫu có lúc, chúng không tránh khỏi tổn thương từ chính mình và từ mọi ngả: “trong vô tận vết thương môi sinh/ đừng bỏ ai lại phía sau/ / lời nói tôi và bạn/ sẽ ấm hơn/ trong tiếng vẫy chào muôn loài” (Sự sống). Do vậy, mọi sinh thể vẫn không ngừng sinh sôi và tái sinh từ chính mình trong mỗi ban mai đầy nắng:
biết bao thanh vắng lớn/ lên từ ban mai/ sân nhà buông óng ánh/ triệu triệu hạt giống gọi nhau/ vàng ươm tay mẹ/ thức dậy mỗi sớm mai/ thấy mình sinh ra lần nữa- (Ngời)
Mình sinh ra lần nữa và cỏ cây, hoa trái cũng sinh ra lần nữa và nhiều lần nữa để xoá sự trống rỗng trên mỗi gương mặt muộn sầu: “mỗi bước đi/ nở những hạt huyền diệu/ trong khu vườn gió nắng và bầy chim sâu”. Thiên nhiên trở thành ân huệ với con người: “lung linh/ như quà tặng thiêng liêng/ làm trong suốt bóng tối” (ánh sáng). Đó là thứ ánh sáng diệu kỳ để hoài thai những hồng hào sinh nở: “mùa vừa bay lên/ tự do sắc/ tự do hương/ bên hàng chuối vô ngôn” khiến con người rộn ràng giữa mùa xuân thanh tân trong ngần hương sắc để họ thắp lửa tin yêu: “ta cùng nâng ly cho nhau/ từng giây mật ngọt/ gọi quê về/ giữa làn khói bao dung” (Thắp). Mọi vật thắp lên những tơ non, con người tái sinh niềm yêu da diết:
từ đó tháng dần mọc lên/ từ đó những ánh nhìn xanh non/ từ đó những ý nghĩ ngọt lừng – (Tự nhiên)
Trong vòng tay mùa xuân, mọi hững hờ biết là vô nghĩa:
trong vòng tay tháng giêng/ giọt nắng rơi xuống/ bãi bờ biêng biếc tân hôn –(Tân hôn)
Nỗi đau và nỗi buồn trong thơ Hoàng Thuỵ Anh chính là nỗi đau hoan ca và nỗi buồn sáng tạo. Nữ sĩ giờ đây trở thành người trầm tư, chắt chiu nỗi buồn, biến nó thành niềm vui tái sinh trong khu vườn thi ca vĩnh cửu: “quả bắp lọn lúa đĩa xôi/ như bức tranh tĩnh vật của cánh khói/ bàn tay nụ cười các ý tưởng ngộ nghĩnh/ em làm sự trong suốt về anh”. Ở đó, anh được phiêu lưu và chuyển vị trên đôi cánh tưởng tượng kỳ diệu của em: “như đến mùa/ anh được phiêu lưu/ và  chuyển vị/ trong ngôi vườn đầy sáng tạo bởi em” (Tĩnh vật). Trong không gian hiện thực và giấc mơ vô thức ấy, giữa anh và em không còn khoảng cách: “bên này anh bên kia em ở giữa là giấc mơ/ rộn ràng nảy lộc”. Đến nỗi người tình của em phải thốt lên những lời thỉnh cầu nồng nàn như lửa:
người tình của anh/ xin em hãy nhen nhóm lòng anh bằng khoảng cách/ để anh được nhiệm màu/ trong bất tận ngôn ngữ tân hôn –(Khoảng cách)
Dẫu đã khép lại trong em mùa sen cũ, nhưng những búp sen và tâm sen vẫn thơm và đắng, nên em vẫn nguyên thuỷ trong tôi những mùa sen chúng mình đêm đêm hò hẹn: “đã khép lại một mùa sen trong em/ vẫn nguyên thuỷ một mùa sen trong tôi/ những mẫu tự mong manh viễn du theo làn tóc rối/ đêm đêm/ bay”. Dẫu số phận có ngẫu nhiên dừng lại trên tờ lịch như trò chơi phận số, thì: “ngày em đến/ lòng tôi hoá vô ưu & ban sơ/ ngay cả ngọn cỏ hoang dại trong vườn nhà cũng hân hoan/ thì làm sao tôi có thể/ mặc kệ chính mình”. Cho nên mùa sen tái sinh, tôi sẽ đặt linh hồn tôi nơi đó để được yêu em và hy vọng tâm sen luôn đắng như hạnh phúc:
tôi học sen
thơm
từ
nỗi
đau
(Thơm từ nỗi đau)
Tình yêu trong thơ Hoàng Thuỵ Anh diễn ra với hành trình mộng tưởng đẹp, buồn và xao động trong mơ. Gặp nhau trong mơ rồi chia xa, hình ảnh trong mơ trở thành vết thương nhung nhớ: “còn chiêm bao còn hạnh ngộ/ còn vết thương còn nhung nhớ/ thác tình mê mải rẽ ba ngôi” (Vơi đầy Bản Giốc). Vì vậy mà mỗi đêm bén rễ, giấc mơ cũng hiện về với vết nhàu vạt nhớ em mang đến cho anh, khiến anh phải tự thú: “tôi đã giấu ánh nhìn em trong bảo tàng/ bông hoa đăng đắng nhú lên/ tự thú trăng/ / cái bóng của em/ kịp hôn môi tôi/ trước khi những ngón tay chạm vào xa xăm”. Để rồi mọi nghịch lý trở thành thuận lý: “nhưng em ơi/ tôi không thể đi hết tôi/ nếu em còn ở lại” (Nghịch lý). Giấc mơ là để thoả mãn những mong ước không đạt được trong hiện thực nên nó giúp em có nơi nương tựa để xoa dịu nỗi buồn thoáng hương thơm và mật đắng: “không ai diễn trò giấc mơ/ vì giấc mơ là sự thật của bản ngã/ hà cớ gì/ em không tựa  vào đó/ mà/ lớn lên”. Niềm vui sáng tạo và thiên nhiên mưa, nắng đã cứu vãn tình thế qua từng con chữ viễn du tìm thời gian đã mất của em để rút gần khoảng cách chia xa:
thử treo ngược mình trên văn bản/ lũy thừa mưa/ lũy thừa nắng/ lũy thừa dỗi hờn/ tìm dấu ngấn thời gian/ tìm con chữ rút  ngắn khoảng cách về phía anh – (Là em)
Còn với anh thì sao? Có em, tôi có nơi nương tựa để thắp lên những mùa yêu nồng nàn như lửa: “theo tà áo em/ mượn bóng em/ mượn tiếng cười em/ thắp ấm nồng lên những diễn ngôn mùa”. Tôi được tái sinh từ em – hạt giống ân huệ huyền diệu của đời tôi để tình yêu không bao giờ xưa cũ:
tôi dành cả cuộc đời này chỉ để học cách yêu em/ vì em là hạt giống/ cho hồn tôi tái sinh – (Hạt giống em)
Vậy là từ đó, những diễn ngôn mùa ngày mỗi ấm nồng trên từng con chữ xoay tròn theo thời gian, dẫu có quạnh hiu, nhưng tận cùng nỗi đau là hương thơm và mật ngọt để hoài sinh những nỗi niềm đắng như hạnh phúc: “nhặt tàn chiều trên những cung đường ve vuốt chữ chi/ nghe tiếng quạnh hiu lăn trôi/ tối đến sáng/sáng đến tối/ chợt thèm bàn tay cư trú/ xuyên qua kẽ nứt đỉnh đau/ nghiệm/ giấc phục sinh” (Phục sinh). Hoàng Thuỵ Anh đã từ nỗi đau để nhìn ra mình và mọi đối tượng khác, không phân biệt chủ thể và khách thể: “ý nghĩ sở hữu em/ sở hữu lá cỏ/ về phía nhân loại/ chưa bao giờ tồn tại trong tôi/ như em hằng thấy”. Vì vậy, tận cùng của nỗi buồn đau là màu xanh hoa cỏ thì thầm và lá hát xôn xao: “đi tận cùng nguồn cội/ như em thấy đó/ chỉ mùa xanh trở về” (mùa xanh) để “hàng cau uống bầu trời/ ruộng đồng ngầy ngậy trong ngần”. Để nỗi nhớ cũng biến thành ngọn gió đi tìm thơm hương mái tóc và những nụ hôn hồng hào sinh nở bất tận trong nhịp điệu xanh: “nhặt lấy ngữ pháp của cỏ/ mai này nằm xuống/ biếc ngời nụ hôn” (Nhớ). Ở đó, cả hai tâm hồn và hai thân thể dồn lại, tan trong nhau và cạn cùng nhau, có giấc mơ đêm dẫn lối:
trải ẩn ngữ lên thân thể/ biến dạng đêm/ biến dạng giấc mơ/ phác thảo bức tranh người đàn/ ông có gương mặt cũ kỹ/ trải tôi/ người đàn bà đêm/ cạn mình – (Đối diện)
Đọc tập thơ ‘Thơm từ nỗi đau” của Hoàng Thuỵ Anh, tôi nhận ra một điều đặc biệt trong tâm lý sáng tạo của nữ sĩ, đó là sự ý thức về thời gian và cảm thức thời gian hiện hữu đậm đặc qua từng hình tượng thơ và ngôn từ thơ. Đó là kiểu thời gian hiện tồn hoang hoải trong từng sự vật và chứng tích u trầm; là thời gian hiện sinh ám ảnh, nhức buốt trong từng ý nghĩ và tế bào sinh học của chính người thơ: “tôi bơi trong thoả hiệp thời gian/ nhưng sắp đặt bản thảo cuộc đời theo cách của tôi/thênh thang ngữ âm cỏ hoa/ hoan ca lời lời nắng gió”. Và trong ý niệm của nhà thơ, thời gian được nhận diện qua tâm trí, ban đầu, có thể là một suy nghĩ trừu tượng, một ý tưởng ban sơ, nhưng càng về sau, nó biến thành những hiểu biết sâu sắc về tồn tại và hư vô, về hữu thể và yếu tính. Tất cả được cảm niệm qua cái nhìn hiện tượng luận mà E. Husserl đã đúc kết và Hoàng Thuỵ Anh – với tư cách là chủ thể đang tư duy đã nhận ra rất đa dạng và đầy sáng tạo khi đối diện với từng hiện tượng chung quanh: “trong bức tranh ý niệm của tôi/ không có gì thật thà/ ngoài mảnh ghép hoang dã/ / ở đó/ tôi đã định vị tôi như thế” (Định vị tôi). Định vị trong sự đứt nối, rời rạc như những sự vật trong không gian để thành những con chữ bậc thang, vắt dòng (enjambement) – biểu hiện của sự sống chậm, trầm tư và rong chơi trong hố thẳm tư tưởng khi đối diện với một sự vật và tình cảnh cụ thể, giúp người đọc nhận ra ý nghĩa tạo sinh mới mẻ cho thơ:
từ ly cà phê/ nơi này/ tôi khuấy tôi// tôi vẽ tôi/ tôi nhâm nhi tôi/ tôi vẫn thường rong chơi trong tôi// mỗi giọt đều nở bông hoa/ chuyển hóa các ý niệm/ liên tục trên nhành non tơ thánh thiện// tôi thỏa thích trong sự sóng sánh/ cùng nắng gió Tây Nguyên/ biếc lên những giai điệu rất lịch lãm- (Trữ tình của giọt cà phê)
Thời gian là ngục tù, nhưng thời gian cũng là ước khát và hy vọng mà ở đó sự sáng tạo có khả năng hoá giải mọi niềm vui và đức tin hằng sống: “tận cùng không có nghĩa là chấm hết/ con sóng vương triều/ con sóng tình yêu/ vẫn nảy mầm trên đôi cánh bình minh” (Thiên Cầm). Đó cũng chính là chứng tích u trầm của những viên gạch thời gian nơi trăm năm tháp cổ: “những viên gạch nghìn năm không ngủ/ ngọn lửa bập bùng hôn lên nỗi mơ hồ/ thời gian nằm ngoài cái chết”. Là vũ điệu của khát vọng vĩnh cửu và trinh tiết của sự sáng tạo:
dấu tích rươm rướm miền sương khói cát bụi cần mẫn dậy thì/ apsara nàng là trinh tiết của sáng tạo – (Vũ nữ)
Hoàng Thuỵ Anh đã nhận ra trong thời gian và qua thời gian tất cả những gì là gỉan đơn nhưng minh triết của sự sống, cội nguồn của sự hoài thai và tái sinh mầu nhiệm, như cánh chim tịnh độ tha hương trong chiều vẫn mong cầu được cất tiếng kêu vọng về từ cổ tích để gọi mùa an trú: “cánh chim tịnh độ/ bay cuối chiều khói sương/ giăng vàng tha hương/ tiếng kêu vọng từ cổ tích/ trĩu/ mùa mùa mùa” (Mùa). Còn với con người thì sao? Không hẳn là: “thời gian như chiếc tách/ rót đều quá khứ và tương lai” Bởi vì, có khi, con người đã đi qua cuộc đời mình, chưa kịp đến tương lai thì quá khứ vẫn còn đến từ phía sau như những hoài niệm đẹp:
bạn trôi qua bạn
không có nghĩa bạn đã rời khỏi vị trí của chính mình  sự thật sâu lắng nhất là sự thật đến từ phía sau
(Ý thức)
Vì vậy mà thời gian trong thơ Hoàng Thuỵ Anh luôn được cảm thức trong sự đối sánh với mọi sinh thể để mỗi chủ thể hiểu rõ mình hơn: “một mai bạn lấp đầy tôi/ chiếc lá vàng sẽ có một quá khứ”. Có khi là sự thoả hiệp với thời gian, giúp xua đi nỗi buồn đau để nhận về những hoan ca và bi ca từ ngữ âm và diến ngôn hoa cỏ: “tôi bơi trong thoả hiệp thời gian/ những sắp đặt bản thảo cuộc đời theo cách của tôi/ thênh thang ngữ âm cỏ hoa/ hoan ca lời lời nắng gió” (định vị tôi).  Và vì vậy, những phiên bản của mỗi chủ thể sẽ không ngừng phản chiếu từ những chủ thể khác (other subjects) và những đối tượng ngoài tôi (objects beyond me): “bắt đầu từ phiên bản của tôi/ chỉ cần chúng ta không ngừng rót vào nhau” (Nơi chốn). Đây là cách cảm nhận thời gian có tính hiện tượng luận rất mới, khác của Hoàng Thuỵ Anh. Cứ thế, mỗi phiên bản là mỗi ngạc nhiên, tiếp nối ngạc nhiên: “ngạc nhiên một nụ cười/ ngạc nhiên một nỗi đau/ ngạc nhiên cơn tẻ nhạt”. Đó chính là cách làm mới bản ngã của mỗi nhân vị:
không phải từ phiên bản cũ/ từ phiên bản sao chép/ ngạc nhiên ngay cả điều đang ngạc nhiên – (Làm mới bản ngã)
Thơ Hoàng Thuỵ Anh hay nói nhiều về cái bóng – cái bóng của chính mình và cái bóng của mọi đối tượng. Bài thơ phiên bản, nhiều hơn một, bóng tối và nước mắt… là những tường giải về cái bóng đầy bất ngờ và triết mỹ. Cái bóng chính là phiên bản của chính mỗi chủ thể hoặc mọi sự vật, nhờ nó mà phân biệt được chủ thể hoặc tha thể: “bóng cao hơn/ không có nghĩa bóng sâu hơn/ bóng không đổ xuống/ là thừa nhận bóng người khác”. Cái bóng nhắc thức con người nên là chính mình, không sống dựa vào cái bóng của người khác, nhưng cũng phải biết thay đổi hình dáng gốc để luôn làm mới mình, làm phong phú mình để được đẹp hơn, cao hơn: “những cái bóng sống một cuộc đời khác/ chẳng bao giờ lặp lại hẹn hò/ những cái bóng hệt đứa trẻ/ đòi lớn lên” (Phiên bản).
Suy cho cùng, cái bóng dù thế nào cũng chỉ là cái bóng. Nó không thật, nhưng nó là phiên bản của mỗi con người và mọi đối tượng thật khi được ánh sáng soi chiếu. Và mỗi chúng ta, ai cũng muốn cái bóng – phiên bản của mình chân thật và tốt đẹp, tròn đầy, không dài hơn và rộng hơn hoặc méo hơn để mãi mãi: “cái bóng dưới chân/ không ai có thể chạy ra ngoài cái bóng/ / dù bạn phủ lên hàng trăm hàng ngàn gương mặt/ hay lặn sâu vào giấc mộng phiêu lưu/ cái bóng vẫn màu chân thật/ riêng dáng hình” (Nhiều hơn một). Mỗi chủ thể nên soi vào cái bóng của mình để được an yên và không ngừng tái sinh nhiều phiên bản đẹp và chân thật, để “bạn và cái bóng một mà nhiều hơn một”. Và vì vây, bạn và cái bóng luôn soi vào nhau, phản chiếu cho nhau và trong nhau:
nếu bạn đoạn tuyệt cái bóng/ thế giới này sẽ tan biến/ nếu bạn soi vào cái bóng
tâm hồn bạn sẽ không ngừng tái sinh – (Nhiều hơn một)
Đến đây, tôi chợt nhớ đến câu nói vô cùng sâu sắc có liên quan đến hình mẫu/ mẫu gốc/ archétype nói về cái bóng mà nhà tâm lý học Carl Gustave Jung đã chỉ ra một cách thú vị: “Người ta không soi sáng tưởng tượng các hình ảnh ánh sáng, nhưng làm cho bóng tối có ý thức”. Cùng ý nghĩ này, Hoàng Thuỵ Anh đã luận về cái bóng rất bất ngờ và triết mỹ như thế: “đừng chạy/ đừng câm nín/ bóng tối chưa bao giờ già nua/ buộc bóng tối/ đốt thành ngọn đuốc” (Bóng tối). Hoàng Thuỵ Anh cho rằng “dài hơn thời gian/ ấm hơn ngọn lửa/ chỉ im lặng là thật”. Vậy, con người nên hoà nhập với cái bóng thật để được phát huy bản ngã chính mình: “hòa nhập với cái bóng/ không có nghĩa bạn lệ thuộc cái bóng/ bao nhiêu cuộc phân thân bấy nhiêu cuộc thử thách/ tiếng gọi bản ngã là thanh âm vô cùng”. Bởi vì: “sự thật luôn chòi đạp/ dù ai đó có phủ đầy lòe loẹt/ như sứ mệnh của lửa/ là tự cháy”, giống như:
những đứa trẻ bước vào xứ sở này/ chúng tự thắp ánh sáng cho mình/ trái đất căng tràn/ lăn mãi về phía nước mắt – Nước mắt)
Ở đây, ánh sáng đã thuộc về phía nước mắt và ngược lại, nước mắt có thể bắt sáng để bay lên không gian cao rộng và long lanh trong nắng trời.
Đến đây, tôi quay lại điểm xuất phát của bài viết để nói về triết lý của Hoàng Thuỵ Anh: Thơm từ nỗi đau. Tôi thêm: Buồn như hạnh phúc để hiểu về tâm hồn dạt dào thiên tính nữ của tác giả. Trước khi nghĩ về Mẹ trong quan hệ tình mẫu tử thiêng liêng, Hoàng Thuỵ Anh liên hệ đến người đàn bà Đông phương như một mẫu gốc (archetype) để hiểu về những biểu tượng và huyền thoại cao đẹp về họ:
lầm lũi đổ về phía biển/ trên vai người đàn bà Đông phương/ đôi quang gánh thiêm thiếp mùa rạ rơm//chuyển động trong tôi/ những bông cỏ những phận người/ lấp lánh theo con nước- (Người đàn bà Đông phương)
Từ hình tượng người đàn bà Đông phương như trên, khiến tôi liên tưởng đến những khái niệm Nguyên lý tính Mẫu và Nữ tính vĩnh hằng. Cả hai đều có liên quan đến việc tụng ca người phụ nữ và người mẹ với những phẩm chất huyền diệu, xuất phát từ tình cảm và hành vi sản sinh, nuôi dưỡng cùng những đức tính che chở, bao dung, thủy chung, hy sinh, lao động và dâng hiến. Họ trở thành biểu tượng của quyền uy và sự sống, biểu tượng của cái đẹp cứu rỗi, nhân đạo, được nâng lên thành thiên tính nữ vĩnh hằng. Hãy lặng nghe Hoàng Thuỵ Anh nói về người mẹ tần tảo, hy sinh của mình: “cả cuộc đời gói cho con/ thức quà mùa xuân/ mẹ còn lại/ riêng mình bời bời đêm đông/ / ước cùng mẹ đưa nôi/ lặn vào luống cày xa ngái/ lấm bùn lời ru/ mọc/ khúc khích tiếng cười” (Mẹ). Vậy mà giờ mẹ đã đi xa, xa mãi không về, trong con giờ đây chỉ là mặc cảm rỗng (empty complex): “cuộc đời này con thiếu mẹ/ là thiếu phúc âm một niềm yêu/ sáng hơn ánh sáng mặt trời”. Vắng mẹ, nỗi buồn nguyên uỷ hiện về nối bao ký ức vui buồn, con xin mang theo suốt chiều dài tâm linh sự sống để luôn nhận lấy phúc âm từ mẹ:
không có gì vô tận/ kể cả thời gian cũng biết mệt mỏi già nua/ con vẫn ước ao đòn roi tay mẹ/ xuyến chi trắng vườn/ đêm tháng bảy dài hơn chiếc bóng – (Nơi này con đã thuộc về)
Mẹ vẫn còn đây trong đồng hiện bóng mùa qua và kéo dài ra trong nỗi nhớ của con nơi bảo tàng xanh của khu vườn nhà mình đầy ánh nắng, rộn ràng hương thơm, trái ngọt và khói chiều vương trên mái tranh nghèo sương rét:
trên hiên nhà đầy rêu/ mẹ ngồi như thể bức tượng được làm từ mảnh bom
trong viện bảo tàng/ kí ức chắp vá qua ngày/ năm thứ bảy mươi tám mươi rồi đến tám chín/ người ta nói chiều dài trái tim mẹ dài hơn đường đi của ánh sáng –(Phận người)
Từ người đàn bà Đông phương và Mẹ, Hoàng Thuỵ Anh nhìn ra quanh đời, lại thấy những trái ngang và vụn vỡ trước sự thờ ơ, nguội lạnh của người đời, không ai kịp vá lành những vết thương nhân tính mà lẽ ra mọi người đều phải giữ gìn và chiu chắt: “cuống rau cuộc đời/ nỗi khổ đau/ và/ niềm hạnh phúc mà chúng ta hằng yêu quý”, khiến thiên nhiên như cũng thấy mình có lỗi trước bóng mình: “sáng nay trời rất chi là trong xanh// vỉa hè không hỏi bạn hỏi tôi/ cũng chẳng ai thèm chúi vào câu chuyện của người khác/ trước những mảnh vỡ  có hẹn giờ/ chỉ cây lộc vừng thừa nhận bóng mình quá nhiều thừa thãi”. Sự vô nghĩa và tẻ nhạt với con người, có lúc họ đã không theo kịp thiên nhiên và vũ trụ nếu bản thân mỗi người không nhận ra những chân lý giản đơn của cuộc sống:
nếu ánh sáng chỉ biết sáng bóng tối chỉ biết tối/ tẻ nhạt sẽ đánh cắp sự  sống/ đôi khi đánh đổi cái chết của trái tim/ để nhìn thấy trong bóng tối có ánh sáng/ trong ánh sáng có bóng tối – (Cái chết cuả trái tim)
Biết nỗi đau và thấy sự hoá giải nỗi đau từ cái nhìn so sánh và thực chứng với môi sinh chính là cái nhìn nhân đạo hoá của Hoàng Thuỵ Anh. Đó cũng chính là mơ ước để còn hy vọng, còn cảm nhận được trong nỗi đau đã hiện dần lên hương thơm nhằm xoa dịu tâm hồn, dẫu có khi đó là sự xoa dịu trong giấc mơ vô thức.
Để khép lại bài viết của mình, tôi mượn chính diễn ngôn thơ của Hoàng Thuỵ Anh qua thi phẩm: bài thơ đẹp nhất là bài thơ bạn không bao giờ chạm tới mà theo tôi đó là bài thơ khoá (key poem) minh chứng cho khát vọng thi ca và hành vi sáng tạo cao đẹp của chính tác giả: “sâu hơn quá khứ/ dài hơn tương lai/ bài thơ nghe tiếng vang của đêm/ lướt đi trong ánh sáng”. Trong không gian thị giác sinh động đó, bài thơ sẽ hiện lên nhiều bản thảo để nói về những khoảng lặng có thật của nhà thơ: “những con đường bay ngược/ những hàng cây ngửa mặt nhìn trời/ những đôi mắt rụng đầy lá/ những ngón tay quá nhiều lỗ rỗng/ chỉ bài thơ xanh lên”. Thơ, giờ đây, có quyền năng của riêng mình để được tự do hiện sinh con chữ khi tứ thơ dần tách vỏ trong ngôi nhà tâm hồn buồn đau và thương tổn:
bài thơ có quyền lên tiếng/ có quyền yêu
cái bóng chỉ là phác thảo ẩn dụ/ cào xóa ngập tràn bên trong
Khi ấy, không ai có thể ngăn cản sức mạnh tái sinh, ảo ẩn và bí mật của bài thơ đang dần dần tượng hình và tượng ngôn trong ý thức và vô thức sáng tạo của nhà thơ: “không ai có thể ngăn cản/ vô cùng của bài thơ/ không ai có thể đọc hết/ bí mật của bài thơ”. Và Hoàng Thuỵ Anh cho rằng, một bài thơ hay và đẹp là bài thơ luôn khác hơn và mới hơn so với bài thơ trước. Cứ thế, bài thơ đẹp nhất là bài thơ mang khát khao xé mình đi tiếp trong cuộc vượt cạn đau đớn để sinh nở ngôn từ thơm từ nỗi đau và buồn như hạnh phúc:
bài thơ ban đầu sẽ là trải nghiệm của bài thơ khác
sau cuộc sinh nở
bài thơ xé mình đi tiếp
(Bài thơ đẹp nhất là bài thơ bạn không bao giờ chạm tới)
Khi ấy, nhà thơ cũng đã phần nào làm tròn khát vọng thi ca và trọng trách thi sĩ cao cả của mình.
Vậy là tôi đã nương theo thơ của Hoàng Thuỵ Anh để hiểu về nỗi đau nhân thế và khát vọng sáng tạo thi ca của chính người thơ. Những câu thơ với hình thức vắt dòng, bậc thang là sự dẫn dắt theo nhịp cảm xúc và tâm trạng của tác giả, phản ảnh những trạng thái vừa ngập ngừng, bất an vừa nối tiếp, liền nghĩa để thông điệp đến người đọc những khúc mắc và tin yêu về con người, cuộc sống và thi ca. Những biện pháp tu từ nhân hoá, ẩn dụ, hoán dụ… là để nhân đạo hoá mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên trong khát vọng tương hỗ, giúp vươn lên điều bình sinh thái. Vì vậy mà trong tận cùng nghiệm sinh và suy tưởng của Hoang Thuỵ Anh, thơ đã cứu rỗi nhà thơ về tư tưởng và nghệ thuật để nhà thơ tiếp tục đi bên cạnh cuộc đời yêu thương và nhân hậu; để thơ mãi mãi là vọng âm từ nỗi buồn đau trong khát khao giao hoà, giao cảm cùng tự do và hạnh phúc của cõi người.
Vỹ Dạ, 9/9/2025
Hồ Thế Hà
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

"Thơm từ nỗi đau" của Hoàng Thụy Anh: Hành trình hóa giải và hồi sinh

"Thơm từ nỗi đau" của Hoàng Thụy Anh: Hành trình hóa giải và hồi sinh Có những tập thơ khi mở ra, người đọc lập tức bị thu hút b...