Thứ Hai, 22 tháng 12, 2025

Người kể chuyện Thơ 1-2-3 bằng linh khí đất trời

Người kể chuyện Thơ
1-2-3 bằng linh khí đất trời

Lặng lẽ mà vang vọng, âm thầm mà mãnh liệt, mạch nguồn văn hóa bật lên từ tâm hồn giàu thi cảm, Từ đất vọng lời thiêng của Mai Xuân Thắng khơi lên, gợi ra một miền tâm thức chủ đạo về lịch sử – truyền thống dân tộc. Không khởi đi từ cái tôi đơn độc, mà từ cái ta rộng lớn, từ những dòng chảy sâu thẳm của non sông, nơi đất là kí ức, nơi gió là lời ru, nơi từng khúc quanh lịch sử, từng miền đất, từng cánh đồng, từng bóng người đều hóa thành thi tứ.
Từ đất vọng lời thiêng được viết theo thể thơ 1-2-3, do nhà thơ Phan Hoàng khởi xướng, mang đến cho tác phẩm một phong cách độc đáo. Mỗi bài thơ có ba đoạn, dần hướng vào nội hàm sự vật, lại có tính hô ứng đồng điệu trước sau. Thể thơ cách tân này dù cấu trúc chặt chẽ nhưng không quá gò bó về niêm luật, vần điệu, vẫn đủ “đất” để đem đến sự tung tẩy, tự do.
Chính thể thơ 1-2-3 đã giúp tác giả thể hiện một cách trọn vẹn sự kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa lịch sử và huyền thoại, giữa tình yêu quê hương đất nước và những trải nghiệm cá nhân.
Ta bắt gặp chất giọng lãng phiêu, suy tưởng: “Xuân lãng du khoảng trời xưa thân ái/ nhành mai không chịu nở dỗi hờn/ mặc kệ nường xuân hấp hẩy”. Đoản khúc này là một gợi mở về giọng điệu, linh hồn của toàn bộ tác phẩm: trầm lắng mà không bi lụy, hoài niệm mà vẫn lấp lánh tinh khôi. Đó không phải là mùa xuân thông thường với sắc hoa, nắng gió, mà là mùa xuân của tâm thức – nơi kỉ niệm, đất trời, thời gian, và cái “dỗi hờn” của một nhành mai cũng trở thành cái cớ cho nỗi niềm thi nhân bung tỏa.
Có thể nói Từ đất vọng lời thiêng là một hành trình thơ. Hành trình ấy bắt đầu từ “ngã ba sông” nơi “con gió gọi ngày mở cõi”, hình ảnh lịch sử dày đặc chiều sâu: “Đồng vọng lời Lễ Thành Hầu cùng lưu dân tướng sĩ/ Linh khí cuộn trời Nam”.
Và từ đó, như con thuyền xuôi dòng sông sử thi, tác giả đưa ta về với những điều tưởng như bình dị, mà thiêng liêng nơi cội nguồn đất Bắc:
“Giếng nước chùa bao mùa cổ tích mát trong
Mây treo đỉnh núi tụ tên làng
Thảnh thót giọt chuông rung sóng nước Lèn giang đôi bờ tỉnh thức”
Trong Từ đất vọng lời thiêng, mỗi vùng đất không chỉ hiện diện như phông nền, mà trở thành nhân vật chính. Từ Vân Hoàn, Lang Biang, Tây Nguyên, Huế, Thăng Long,… tất cả được gọi tên bằng một nỗi niềm thương mến dịu dàng. Những câu thơ không ồn ào, mà như lời thầm thì của núi, của sông, của mái đình, giếng nước, cánh đồng:
“Ngắm đám mây hình rồng ngùi ngụi nhớ núi làng Vân”
“Mái đình xanh rêu náu nương hồn quê muôn thuở”…
Một mạch thơ nổi bật của tập này chính là chuỗi thơ về Tây Nguyên. Mỗi bài là một bức tranh sống động: có rượu, có cồng chiêng, có núi rừng, có tình yêu, có sử thi Đam Săn, có lễ hội, có nồng nã cà phê, có lời ru của gió. Tác giả dẫn người đọc qua những miền đất không chỉ được mô tả bằng cảnh vật, mà bằng hơi thở thiêng liêng:
“Tây Nguyên đâu chỉ có nắng gió hoa cỏ
thêm cái rét cuộn tròn giấc xuân lên men tình nghĩa
hương đời xoắn ly cà phê khói tri âm ché rượu nồng nàn”
hay:
“Đêm xuân Krông Păk ảo huyền
Rượu mềm môi A ma công
Gió ríu từng hồi cồng chiêng thâm u hồn núi
Em Ê đê ngực trần bung biêng mùa hội trẩy”
“Mùa dã quỳ Tây Nguyên chênh chao lối mộng
Dệt tấm lưới đại ngàn rực cháy hoàng hôn”
Cảm hứng Tây Nguyên trong Từ đất vọng lời thiêng không phải là sự chiêm ngưỡng từ xa, mà là một cái nhìn từ bên trong, thấm nhuần, giao cảm ngỡ như trở thành một phần máu thịt. Mai Xuân Thắng hòa vào nhịp sống Tây Nguyên không phải như một du khách, mà như một người đồng bào thấu hiểu từ trong huyết mạch để viết trong không gian đó, viết từ linh cảm sâu xa. Tây Nguyên trong thơ không buồn, không xa lạ, mà quyến rũ đến ngẩn ngơ, nguyên sơ mà vĩnh cửu, hoang hoải mà nhân văn. Đọc những bài thơ ấy, người ta không những muốn đến Tây Nguyên, mà muốn sống ở đó không chỉ một đôi lần.
Dù hồn sử, hồn đất là chủ đạo, nhưng Từ đất vọng lời thiêng vẫn dành chỗ cho những cơn mơ nhẹ của tình yêu, tuổi trẻ, và nỗi buồn đẹp: “Mưa mềm sợi tóc bay nồng nàn hương bưởi/ thuở tròn trăng kiếm lá nhuộm chiều/ thương thầm suối tóc về đâu?“. Thơ tình trong tập này là những hồi ức mềm, những hơi thở gợi nhẹ như sương mai, có khi chỉ là “hương tóc”, có khi là “giọt mưa đầu mùa ướt nhèm kí tự vấn vương”nhưng vẫn đủ đằm, đủ gợi.
Bên cạnh đó là dòng cảm thức về quê hương, gia đình. Tác giả đã dành ra một chương để thể hiện những điều thiêng liêng, cao đẹp, sâu xa ấy. Ta thấy có sự tự hào về nguồn gốc dòng họ: “ta tự hào ta Mai Thế – thế gia vạn thế kiên hùng”. Có cái đau đáu, tiếc nuối về những giá trị xưa cũ: “rồng phượng tao tác lạc về đâu?”. Có cái suy tư, chau mày, truy tìm minh triết về tên đất, tên làng tưởng như đã là điều hiển nhiên trong tâm thức người dân cố xứ: “Duyên cớ gì kết tên cánh đồng Bác học?”. Để rồi “nâng niu mỗi nét quê nhà”.
Từ đất vọng lời thiêng như một bức phù điêu chạm khắc từ chất liệu thơ – sử – đất – người – tình. Dẫu chưa phải là một bức chạm toàn bích, vẫn còn đó những gồ ghề, thô mộc nhưng cũng đủ để gieo vào lòng người đọc một làn gió bản sắc riêng đầy nỗi niềm hoài cảm.
Sài Gòn, 11/11/2025
Võ Thị Lệ Xuân
Theo https://vanhocsaigon.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cơn đau trong hành trình tìm cái đẹp

Cơn đau trong hành trình tìm cái đẹp Kể từ tập thơ “Chút sen còn lại” (2021), “Cỏ bạc triền đê” (2021), “Thắp lửa” (2023), những trong trẻ...