Phạm Ngọc Cảnh về
nơi ba con sông chảy đến
Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh ra đi vào một sáng mùa thu ngày
21 tháng 10 năm 2014. Có những con người khi họ nằm xuống, ta mới thấy thật sự
họ được yên nghỉ, ta mới biết những gì mất đi là vĩnh viễn không thể nào lấy lại.
Tôi đã mất đi những con người như vậy do mình vẫn hết do dự đến trù trừ như một
việc hẹn chưa làm. Rút cục là việc hẹn kia không bao giờ thực hiện được nữa.
Đó là việc hẹn một ngày nào đó vào Thanh Hóa thăm anh Phạm Ngọc
Cảnh, khi nghe tin bệnh tình anh Cảnh mỗi ngày một nặng. Nhưng rồi không thực
hiện được. Điều này, dù có biện hộ thế nào cũng trở thành vô nghĩa và càng làm
tăng thêm sự ân hận, dù trước đó, từ khi chị Tỵ ốm bệnh, cứ đôi ba tháng một lần,
chúng tôi vẫn thường sang thăm anh chị bên phía Cầu Đuống.
Vậy là đã yên nghỉ một cuộc đời tưởng như chẳng lúc nào được nghỉ ngơi. Vậy là đã ra đến khúc cuối cùng để hòa vào biển cả yên lặng của một dòng sông tưởng như không bao giờ được yên lặng. Khi tôi ngồi viết những dòng này, trong tâm trí hiện về ba con sông gắn với một đời người làm thơ như định mệnh: sông Cụt ở thành phố Hà Tĩnh, sông Đuống phía bắc Hà Nội và sông Mã ở Thanh Hóa miền trung.
1. Sông Cụt, như tên gọi của nó, chỉ là một khúc sông nhỏ còn
lâu mới không có tên trên bản đồ nước ta, bắt nguồn từ ngay trong lòng thị xã (
tôi muốn dùng từ thị xã thay cho thành phố ), ngay mép chợ Tỉnh, chảy lững lờ
loanh qoanh qua con phố nhỏ có cái cầu nhỏ mang tên Cầu Sở Rượu, tiếp theo một
con phố nhỏ khác có chiếc cầu nhỏ khác mang tên Cầu Mương, trước khi hòa vào
sông Phủ. Nói đến núi Nài và sông Phủ thì dân thị xã không ai không biết, nhưng
sông Cụt thì không phải ai cũng biết. Từ sông Cụt thẳng hướng đông nam đến núi
Nài rồi nhằm hướng tây qua sông Phủ, làm thành cái tam giác mỗi cạnh cách nhau
đâu dăm ba cây số, vậy nhưng khoảnh đất nhỏ hẹp này đã sinh ra những tên tuổi
Nguyễn Phan Chánh, Văn Linh, Cẩm Lai và Phạm Ngọc Cảnh. Mật độ khá cao của những
tài năng!.
Phạm Ngọc Cảnh sinh năm Tuất ( 1934 ) ngay bên bờ con sông Cụt,
giữa những ngày mưa lụt chưa từng thấy nhiều năm trước đó. Mang mệnh hỏa, lọt
lòng mẹ cạnh dòng sông giữa mùa thủy cường, ông trời khéo chọn một trường hợp để
thử thách ý chí của con người chăng? Ngỡ như mẹ muốn con là Sơn Tinh/ Năm ấy
lụt – (Năm Tuất mẹ sinh con )
Từ con sông nhỏ này, mười ba tuổi Phạm Ngọc Cảnh xa nhà gia
nhập Vệ quốc đoàn, bắt đầu cuộc đời binh nghiệp, rồi cuộc đời của một chiến sỹ
văn nghệ với những chuyến đi mút mùa không hạn định: Mẹ dìu con đi men qua
cầu sông Cụt/ Rồi một đời hun hút trông theo- (Năm Tuất mẹ sinh con)
Mẹ và khúc sông này, rộng ra, mảnh đất miền trung gió Lào cát
bỏng này rồi sẽ chiếm một góc lớn trong tâm hồn Phạm Ngọc Cảnh, sâu trong vô thức,
đầy trong ý thức và luôn trong trực giác: mắt quen nhìn rừng rực nắng miền
trung ( Những sân ga…, những chuyến tàu ). Quê hương Hà Tĩnh với cái nghèo
đeo đẳng, cái nắng héo tàn, cái cơ cực muôn đời, nhưng cũng cả với cái tình sâu
nghĩa nặng làm thành một chữ thương không phải miền quê nào cũng có được, đã
ngân nga trong tâm hồn biết bao thi nhân, nhạc sỹ. Một chữ thương trùm lên cả rẻo
đất từ bờ nam sông Lam (… qua huyện Nghi Xuân, Bâng khuâng nhớ Cụ thương
thân nàng Kiều) chạy suốt cho đến chân đèo Ngang, (nâng lên thành nhớ
nước thương nhà trong thơ Bà Huyện) làm nên những nét buồn thương đặc biệt
trong cốt cách của những Nguyễn Du, Xuân Diệu, Huy Cận…Chữ thương ấy là ngọn
nguồn của những khát vọng, trong đó có khát vọng sáng tạo, ngọn nguồn của trữ
tình trong câu chữ, lãng mạn trong tâm hồn, lắng sâu trong tình cảm, như thể
càng khó khăn càng phải rắn rỏi để lập thân, càng phải bay bổng để vượt thoát,
càng phải thương yêu để xử sự. Đấy là chỗ bắt đầu và là chỗ đến của thi ca và
âm nhạc.
Phạm Ngọc Cảnh cũng bắt đầu nơi chữ thương ấy: Tổ tôn bầm
cháy lưng trần/ Lum khum dáng cuốc mờ chân núi Nài/ Vại cà mặn thấm nương
khoai/ Nuôi nhau đủ tiếng thở dài mà đi – (Lục bát trước nhà thờ họ Phạm).
Phạm Ngọc Cảnh sớm nhận ra đạo lý của tình thương ấy ngay từ
thuở nhỏ: Biết thương sâu/ Chiều cũ trốn xa rồi/ Nhặt tuổi thơ mình thoảng
mờ sương trôi (Chiều).
Quê hương, đất đai tổ tiên không quên ai bao giờ, cho dù suốt
một đời đi hun hút ấy, đôi khi chúng ta vẫn thường lơ đãng: Cái
tội của con là ít về bên nội/ Sớm mai này cha lặn lội đường ra/ Tàu vừa dừng
xanh bóng nắng sân ga (Cha ra Hà Nội thăm con ). Cái vùng đất đai nắng nôi
kia là gì mà cứ trở đi trở lại trong Phạm Ngọc Cảnh như một vết cắt không lành
qua thời gian vậy? Cát hằn nguyên nếp cam go/ Nắng vô tư cũng tròn vo nỗi
niềm/ Vết da chém lỉa đôi miền/ Miền trung ơi thịt da liền vẫn đau (Tản mạn
miền trung ). Cái vùng đất mà mỗi chặng đường hành quân, mỗi đêm Trường Sơn nằm
trên võng bạt vẫn thấp thoáng hình bóng núi Nài sông Cụt quê nhà với bao nỗi niềm: chờn
vờn giấc ngủ/ Đối mặt với những khát khao là cái đói nghèo/ Trộn giữa bát cơm
đơm, nằm trong áo mặc (Đêm nằm võng bạt ). Nhưng Nuốt giọt nước mắt
vào trong…Suốt đời tôi cứ yên tâm/ Câu thơ đi là mình thầm biết ơn (Quà tặng
người lính). Phạm Ngọc Cảnh tâm sự: Như cả đời tôi lấy cái cầu bé nhỏ gọi
là cầu Mương bắc qua sông Cụt làm vật chuẩn, làm cột mốc để dù có nới rộng bán
kính lãng du tận đến đâu vẫn túc trực một tâm thức để hướng về -(Tác phẩm
tuyển chọn, tr.276 ).
Ân nghĩa ấy cho anh một đôi mắt nhìn từ linh cảm, đồng cảm: Em
không phải Thạch Hà/ Em cũng là Can Lộc/ Đi đến chóp cuối cùng của Trường Sơn
anh vẫn gặp/ Mặt trận mở trăm nhánh đường nghìn nghịt người vào ra anh vẫn gặp/
Nét riêng này quê hương (Nét riêng ). Điều này là chỗ bí mật khác người của
thi nhân: tựa như có lần Phạm Tiến Duật bị ám ảnh bởi các cô gái Thạch Kim, Thạch
nhọn: Áo em mặc hình như trắng nhất, ngày nào Hàn Mặc Tử dõi theo
khách đường xa: Áo em trắng quá nhìn không ra. Cho dù cái màu trắng kia ở
mức độ cảm nhận nào, hoặc hình như hoặc trắng quá, thì đối với
thi nhân cũng là một thực thể riêng tư, một đốm lửa riêng không hề lẫn với bất
cứ ai trong cảm nhận thi ca của họ.
2. Số phận gắn cuộc đời và sự sáng tạo của Phạm Ngọc Cảnh
với sông Đuống. Mọi buồn vui, hạnh phúc và đau khổ, sự sống bắt đầu sinh sôi và
cái kết thúc tịch diệt đều gắn với con sông này. Đây là khoảng thời gian anh từ
Đoàn Văn công TCCT về Tạp chí Văn Nghệ Quân đội, là giai đoạn thực hành chữ
nghĩa (trả nghĩa ) với những gì anh đã nhận từ cuộc đời, cái điều mà Phạm Ngọc
Cảnh vẫn tự nói về mình: Tôi mang phận kiếp con tằm/ Ăn xanh màu lá khuya
nằm nhả thơ (Tác phẩm tuyển chọn, tr.183). Ở cạnh sông Đuống có ngôi nhà
nhỏ trong khu tập thể cơ quan Nhà máy gỗ Cầu Đuống, che anh gần cả một đời người.
Nhà đầu hồi một gian, nhìn ra mấy thửa ruộng đủ để nghe lắng nhịp hải hà vẫn đi
qua màu sắc của đám lúa tưởng như giơ tay là với được. Xa kia là sông Đuống lấp
lánh trôi. Đêm nằm, xa là sóng vỗ óc ách bờ sông Đuống, gần là tiếng lá lúa khẽ
cọ vào nhau rì rào. Cái xa là tiếng gọi đi, cái gần là tiếng gọi về. Cái gần gọi
về với hạnh phúc giản dị trong ngôi nhà có ngọn lửa ấm, cái xa là để nối với những
rộng dài các con sông khác, những chân trời thi ca.
Tháng năm này giỗ mẹ, tháng chạp này giỗ cha/ Này lật ải đồng
gần, bừa ngấu đồng xa/ Quét sân phơi trang bùn gieo mạ…/ Này bơi thuyền sang
sông/ Về bên ngoại vay sắn khô ăn độn/ Này ngăn nắp từng đồng tiêu pha/ Như chiến
tranh không xáo trộn được/ Ngọn lửa bao đời ấp ủ bếp nghèo ta –(Cô Tấm trong
nhà )
Biết có cô Tấm đảm đang trong nhà, từ góc nhỏ con sông này,
Phạm Ngọc Cảnh như loài chim di cư, coi đây như cõi tạm, như chỗ dừng chân bất
chợt, như trạm giao liên những ngày chiến tranh. Anh về làm rể thầy
thương/ Mười năm, những chín năm thường đi xa ( Con rể làng Bưởi ). Lấy
sông Đuống làm tọa độ, làm điểm tựa rong chơi, lãng du gần như trọn một
kiếp người. Và đây là khoảng thời gian Phạm Ngọc Cảnh viết được nhiều nhất, thời
gian chủ yếu làm nên Phạm Ngọc Cảnh như một tác gia của thơ Việt Nam hiện đại.
Đi để viết là một lẽ sống, một triết lý sống. Đi như một đam mê, nghiệp chướng: Gần
hết đời thấp thỏm dọc rừng hoang (Đêm nay mình ngủ cuối Phong Châu). Đi đến
những nơi xa nhất tận ngọn nguồn sông từ Na Mèo, sang Viêng Xay, đến Sầm Nưa, tận
chóp núi khuất như Lũng Cú, Bản Phiệt, Mường Lò.Với một tác phong xuề xòa quảng
giao, quen biết hể hả với hầu hết mọi lớp người, tối đâu là nhà, ngã đâu là giường,
ăn nhờ ở đậu không biết bao nhiêu doanh trại, đơn vị, nhà dân, binh trạm, mắc
võng không biết bao nhiêu cánh rừng. Huyền thoại trốn trong rừng/ Cổ tích
ngầm đáy vực…/ Trong nhoáng nhoàng chớp bom…/Còn giấu đầy ba lô/ Bao điều chưa
kể được (Các nhà thơ quân đội ). Mười năm đi gió núi mưa ngàn/ Đi với
súng thô, đầu trần chân đất (Đêm xuân Huế đỏ cờ bay). Huế và Quảng Trị những
ngày chiến tranh ác liệt là nơi Phạm Ngọc Cảnh bám rất lì: Cả đời người, đặt
bàn chân lên mặt đất mà bước đi. Cao thì trèo. Lên đến bản Mèo trên Lũng Cú Hà
Giang. Xa như dốc cầu tầu ngoài Côn Đảo. Nhưng dấu bước tôi đi, dày nhất, đậm
nhất là ở Quảng Trị này ( Người muôn năm cũ, tác phẩm tuyển chọn, tr. 207
). Anh ngang dọc đi như không giữa bom đạn: Mỗi bước ta đi xoay chiều gió
nắng/ Dốc Miếu, La Văng, An Lỗ, Sịa, Niêm Phò…Bên bờ sóng Tam Giang rào rạt cát
Phong Chương/ Sóng bước cùng ta vào Huế đó (Đêm xuân Huế đỏ cờ bay). Phạm
Ngọc Cảnh sớm ở Sầm Nưa chiều về Pakxế ( Lăm vông ), vừa ở Ba Lòng
hôm trước đã lại có mặt ở Phong Lai hôm sau, vừa qua sông Pơ Lin rất xanh
như mắt Kan Lịch tuần trước lại về thăm bà mạ ở làng Cùa vùng sâu tuần
này, vừa ở Ấm Vách, A Sầu tháng trước, đã lại vượt thác Đăckrông tháng này.
Xông xáo, ngày vượt suối băng rừng đến các mặt trận, đêm cặm cụi viết: Câu
thơ bới bới đào đào trắng tinh bùn đất (Cây với người ). Với bút danh Vũ
Ngàn Chi, sau những ngày bám địa bàn đất lửa với ngọn bút ta cài trước cửa
tim (Điềm ơi), anh có tập thơ Đêm Quảng Trị ( NXB Giải Phóng,
1972) từ miền Nam gửi ra tươi tắn cảm xúc, nóng hổi hơi thở chiến trận. Kể từ
đó cần mẫn như một nhà nông thạo ruộng đồng, cứ vài ba năm sau hàng chục chuyến
đi về, anh lại gom in một tập và lần lượt hơn 10 tập thơ, văn xuôi và hàng trăm
lời bình phim tài liệu ra đời: Ngọn lửa dòng sông (1976), Xamaki (1981), Lối
vào phía Bắc (1982), Trăng sau rằm (1985), Đất hai vùng (1986), Miền
hương lặng (1993), Nhặt lá (1996), Khúc rong chơi (2000), Góc
núi xôn xao (1999), Cát trinh nguyên ( 2003), Bút ký (2006 ) …
Thơ Phạm Ngọc Cảnh là ký ức tinh thần của những ngày tháng
chiến tranh cực kỳ gian khổ, nhưng cũng rất đỗi hào hùng. Mở đầu bằng tập
thơ Gió vào trận bão ( Văn học, 1967 ), in chung với Ngô Văn Phú và
Hoài Anh. Phần thơ của Phạm Ngọc Cảnh có tên Hành quân như bắt đầu bằng
một chuyến đi lớn, chuyến đi của những Sư đoàn. Phạm Ngọc Cảnh trình diện một
giọng thơ rất hào sảng, cái hào sảng đặc trưng như đang trên những đại lộ với
những tình cảm lớn của thời đại không thể khác của thơ ca và âm nhạc thời ấy: Hành
quân, hành quân/ Trùng điệp những sư đoàn/ Đi lên phía Bắc/ Tràn về hướng
Nam…// Này đây/ Doi cát Cửu Long xanh/ Sư đoàn châu thổ/ Giữa bãi sú rừng tràm/
Vụt đứng dậy sư đoàn Nam bộ/ Sư đoàn Tây Nguyên/ Từ hầm chông, bẫy đá, cung
tên/ Này đây cực Nam Phan Rang, Phan Thiết…
Và anh khẳng định: Lại có một ngày/ Mọi cửa ô Sài Gòn hớn
hở/ Như Hà Nội mười năm trước đây/ Ba mươi sáu đường hoa tung sóng đỏ
Hà Nội mười năm trước và Sài Gòn mười năm sau đó, chiều dài một
cuộc chiến mà những lứa tuổi, sớm là Phạm Ngọc Cảnh, Ngô Văn Phú, Lê Anh Xuân,
Thu Bồn…, muộn là những Hoàng Nhuận Cầm, Vũ Đình Văn… phải đương đầu, bao nhiêu
nhà thơ đã ra trận cùng với những sư đoàn?. Cần một ghi chú: Sư đoàn viết
năm 1966, năm chiến tranh lan rộng khắp cả nước, năm Johnson, Tổng thống Hoa Kỳ
lúc đó ngạo mạn và dã tâm tuyên bố sẽ đưa miền bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ
đá. Nếu không có niềm tin vào sức mạnh của những sư đoàn, và nếu không tin vào
ngòi bút của mình, làm sao từ mười năm trước đó, giữa một hoàn cảnh gian nan
như thế, nhà thơ có thể viết như đinh đóng cột về cái ngày cờ hoa tung sóng đỏ
giữa Sài Gòn như vậy!
Thơ Phạm Ngọc Cảnh tràn ngập không khí chiến trận: Chớp
ngầm trong mây giăng/ Mưa tháng bảy rập rình ngoài Cốc – muộn/ Đêm cao điểm/
Vòng vây ta ép mỏng/ Rót vào giấc ngủ quân thù…, Đồng chí ta lật nắp hầm nổ
súng/ Trước giờ ngã xuống…Tiếng thét cả sư đoàn ép mỏng thời gian/ Mỗi đường đạn
xoáy vòng cao điểm (Nhật ký 935), Một lớp học em ta rung trong tầm đại
bác/ Gọi lòng ta vót nhọn mũi lê đâm…Đêm Quảng Trị dắt ta vào trận đánh (Đêm
Quảng Trị), Xốc lại đội hình/ hàm răng nghiến chặt/ Sáu viên đạn lao
đi (Chuyện không bao giờ dứt ở tiểu đội )…Súng đạn thay cho lời nói: Điều
muốn nói nằm trong bụng súng (Điềm ơi), thay cho ý nghĩ: Nghĩ về
tương lai đã có súng/ Những gì xốn xang, những gì lắng đọng/ trang trải mặt chiến
hào ( Giấc ngủ), Phủi bụi áo ra đi mắt ngầm lửa giận/ Đêm trên sông
Pơlin (Sông Pơlin rất xanh )…
Thơ Phạm Ngọc Cảnh cũng thấm thía những nỗi buồn thế sự: Đất
nước những năm tháng gian lao vô thường. Đó là những năm hòa bình, lửa chiến
tranh vừa tắt, thừa niềm kiêu hãnh mà thiếu cơm ăn, áo mặc, nông thôn thành thị
vắt kiệt cho chiến trường để lại những tháng ngày nhà cửa rộng rênh đến âu lo.
Nhưng chẳng bao lâu, phía bắc, phía nam lại tiếp tục đổ máu, một thế hệ nữa lại
áp sát chiến hào biên giới: Một nỗi buồn dâng lên từng câu chữ, tràn thấm uất
nghẹn giữa trang thơ, rù rì như máu đọng: Đường chia ba nhánh ngầm đau/ dồn
ba hút gió vò nhàu mép sông/ Gót chân chú lính biên phòng/ dẫm lên vết hận bềnh
bồng dưới mưa/ bao nhiêu máu nhuộm cho vừa/ ngàn lau cúi mặt bóng thưa hồn về (Ngàn
lau bản Phiệt). Đọc thơ Phạm Ngọc Cảnh không khó nhận ra cuộc đời anh không mấy
thanh thản. Lãng du và đa tình hình như là để cố vượt thoát cái vất vả lo toan
cứ muốn giằng níu số phận anh: Đôi đũa chúng ta cầm/ Gắp được cả tháng
ngày cay đắng/ Cả tháng ngày gian nan –(Anh ấy sẽ sang chơi)
Bài thơ viết năm 1982, năm mà lương tháng của những cán bộ
nhà nước, kể cả những ông giáo già về hưu như ở quê tôi được trả bằng một chục
ký phân đạm! Phạm Ngọc Cảnh đã từng về quê tôi những ngày tháng ba giáp hạt (thực
ra cũng chẳng có hạt để mà giáp), nắng xanh xao xóm đói. Kỳ lạ thay cũng đất ấy,
người ấy, bây giờ vừa làm vừa chơi cũng dư dả quanh năm, vậy mà những năm tháng
ấy, người cày nguy cơ gục xuống đám ruộng của mình vì đói khát là có thật. Đấy
là những năm đất nước Đối mặt với những khát khao là cái đói nghèo/ Trộn
giữa bát cơm đơm, nằm trong áo mặc/ ẩn náu suốt đời ta đánh giặc/ bây giờ nó rập
rình theo (Đêm nằm võng bạt ). Nỗi buồn trong thơ Phạm Ngọc Cảnh lại đóng
vai trò cất giữ ký ức của thế sự gian nan vô thường kia. Ngòi bút của anh ngậm
ngùi những điều cay đắng: Mưa nắng nhuộm mòn tóc râu (Buổi sáng
), Rong chơi chín khúc mà đau nỗi người (Khúc rong chơi). Nỗi bất an
cứ hiển hiện: Đã rình rập giữa hai ta/ Một tầng khí vặn phong ba dữ dằn (Dự
báo thời tiết). Nỗi cô đơn những đêm khó ngủ: Nước mắt lặng thầm đêm cuối
Chạp (Cháu nội II). Nỗi sầu muộn rộng, cao, sâu chất chứa không thể chia sớt: Nhưng
khi gió thổi lắm điều/ Tôi buồn hết cả ba chiều không gian (Lục bát cho
mình). Nỗi đau trần thế: Em một bên, một bên nữa là nỗi đau vô tận (Tác
phẩm tuyển chọn, tr. 127 ). Và cho đến gần cuối cuộc đời: Khi thương khi
giận/ khi đuổi khi mời/ khi cơn cớ thất thường thác đổ/ Khi nước mắt đắng vào
huyệt mộ/ Bát canh nghèo/ Em nuôi (Lá đắng nuôi chồng). Vẫn còn đó tình
thương, nhưng có cả những giọt nước mắt đắng đót, xót xa!
Trong cuộc đời Phạm Ngọc Cảnh, có khoảng gần hai mươi năm cuối
rất gian nan. Đấy là những năm chị Tỵ, vợ anh bị bệnh nằm một chỗ. Nhà có bốn
người thì ba người là đàn ông. Hai cháu Bảo và Quang còn nhỏ tuổi, một người suốt
đời lấy những chuyến đi làm lẽ sống là anh, giờ phải quanh quẩn vào ra bên người
ốm. Mọi việc từ viết để kiếm tiền thuốc men, chợ búa, tắm giặt cơm nước cho vợ,
nuôi dạy các con đều một tay anh đảm nhiệm. Vậy mà anh vẫn lạc quan, không hề
kêu ca, vẫn chọn được cho mình cách sống chung với gian khổ, vẫn nhận những đơn
đặt hàng viết cho phim này, lễ hội nọ, nói chyện thơ chỗ kia. Bao lần đến thăm
anh chị, nhà đầy vui tiếng cười, không nghe một lời về khó nhọc, chỉ nghe nhiều
những kỷ niệm, những dự định… Tuy thế trên vầng trán vốn nhô lên cương nghị, đã
in đằm những vết thời gian nhọc nhằn!
Đó là những năm cái mùa nước lên bên sông Cụt quê nhà năm mẹ
sinh ra anh, lại như tìm đến: Trăng mọc phía này cũng khó nhọc/ Duỗi
chân mình đo chân con đê/ Ngón chạm mùi bùn cơn lũ trước…Hơn nửa đời người
anh cật lực/ Nhưng mùa nước chảy thành sông Đuống/ Giọt nào không từ
mắt anh rơi (Sông Đuống). Đó là chưa kể biết bao giọt nước mắt lặn đã vào
trong!
Thơ Phạm Ngọc Cảnh cũng không giấu cất những lãng đãng gió
trăng, những khép mở đa tình. Tính nết người bờ nam sông Lam hình như trong khó
khăn và càng khó khăn lại càng phải ý chí, đã đành, nhưng cũng lại càng phải
lãng mạn, như một cách để không khuất phục: Thơ mộng và nghiệt ngã là vùng
quê lam lũ ( Em xa, em xa ). Vốn là một diễn viên sân khấu kịch nói có hạng
trước khi là một nhà thơ chuyên nghiệp, Phạm Ngọc Cảnh thường khi ăn nói, đi đứng
pha chút điệu đàng phi thực từ ánh đèn sàn diễn (hóa ra mình lại diễn vai mình/
từ mỗi sớm bước qua bậc cửa – Vai kịch diễn cho mình). Chính vì vậy, cùng
với chất giọng trầm hùng xứ Nghệ quê cha ( Quê mẹ, quê cha ), anh đọc
thơ (biểu diễn thơ) như hút hồn công chúng.
Anh đa tình nên cứ muốn lần theo/ xấu hổ gì đâu mà anh giấu
giếm/ đêm đánh giặc mịt mù cao điểm/ vạch lá rừng nhìn xuống quê em/ mặt đất ra
sao mà thúc vào điệu lý/ khuôn mặt ra sao mà suốt thời chống Mỹ/ lý ngựa ô hát
đến mê người/ mỗi bước bồn chồn về em đó em ơi – (Lý ngựa ô ở hai vùng đất
).
Đâu chỉ là một giọng nói: Một giọng Huế gọi: eng ơi/ Thế
thôi mà đủ suốt đời đa mang (Người yêu tôi ở Huế ), Huế còn là một mê đắm: Có
một người ở Huế/ Muốn trọn đời thương tôi…/ Tôi trốn vùi mép bể/ Huế vẫn tìm
thương theo ( Có một người ở Huế). Trên kia là Tôi đa tình nên cứ muốn
lần theo, còn ở đây Huế vẫn tìm thương theo. Và đâu chỉ một bóng hình
người đẹp xứ Huế: Nhưng vắng nhau một chiều tất tả/ Anh gọi em nôn nao
chân trời (Chuyện của hai ta). Ai đó nói, hình như chị Cao Hương (người mà
Phạm Ngọc Cảnh gắn bó những năm cuối đời bên sông Mã) thì phải, rằng: Anh
thật lãng mạn và đáo để (Tác phẩm tuyển chọn, tr. 527), thì cũng không phải
nói quá! Nhưng đó là mới thực là nói thật, nói đúng về Phạm Ngọc Cảnh. Ở đâu,
đi đâu và đến đâu nhà thơ cũng lắng xuống để nghe tiếng đập trái tim mình. Chẳng
phải chỉ có những bóng giai nhân, mà là cao rộng hơn, giai nhân đã hòa trong đất
nước, quê hương, vùng đất anh đã trải:
Em vắng… Cao Bằng lạnh/ Đắng nguồn mỏng mảnh thương dòng đơn
côi/ Em vắng…Cao Bằng lặng/ So dây đàn gẫy lạc quê người – (Cao Bằng – tự
bạch )
Từ Cao Bằng về xứ Nghệ: Một nửa Giang Đình xanh ngấn
cát/ Nam Đàn nửa ấy lòng chưa nguôi – (Sông Lam chia nước)
Từ xứ Nghệ đến Đồng Nai: Bao nhiêu sông nước Đồng Nai ấy/
Tuôn chảy vào sâu hóa giọt buồn- (Đêm rượu Biên Hòa)
Từ Đồng Nai về lại bến Tam Soa: Thuyền va chưa kịp vang
thành nhịp/ Gió đã âm u vạn cổ sầu – (Nhớ Huy Cận)
Rồi lại lãng du tận sông Hồng: Ta như tha thướt sông Hồng/
Ghé sang tìm khúc tang bồng lả lơi- (Sông Đuống )
Ta như vườn cải vun ngàn luống/ Lá xòe đón đợi phấn hương
sang – (Họa mi hót bên nhà hàng xóm)
Chỉ đến bao giờ ngừng đập trái tim mới thôi dào dạt!
3.Trong bài bút ký Sông Mã và tôi, Phạm Ngọc Cảnh viết: không
có con sông Việt nào mà tôi chưa từng qua (Tác phẩm tuyển chọn, tr.215).
Nhưng sông Mã là con sông Phạm Ngọc Cảnh nhiều lần đi qua và dừng lại. Nắng gió
bờ Nam Ngạn đã níu chân lãng du: Cảm ơn gió trời thổi mãi tóc em/ Mùi
hương dẫn dắt không bao giờ lạc…/Cảm ơn em yêu đã gọi anh về/ Cảm ơn chén nước
đầu tiên…rửa sạch quảng dài quên lãng – (Em xa, em xa )
Người đàn bà ấy trước vì mê thơ Phạm Ngọc Cảnh, sau vì thương
anh khó nhọc mà nguyện gắn bó và chia sẻ với anh những năm cô đơn cuối đời và
làm thành một khúc vỹ thanh của bản hòa tấu khi dòng sông ra đến cửa biển. Dòng
sông nào khi ra đến cửa biển chẳng hiền hòa, chẳng yên lặng!. Phạm Ngọc Cảnh về
đây lúc tuổi đã cao, sông cũng đã đến khúc hiền hòa. Anh đã có thể an nhàn sau
suốt gần tám mươi năm một cuộc đời sôi nổi. Nhưng với một kẻ lãng du lấy xê dịch
làm niềm vui sống ở đời thì hình như khó dứt hẳn những dư ba còn đâu đó xa thẳm:
Những im lặng trong anh còn ngún lửa (Em xa). Vậy là hình như vẫn chưa đến
hồi yên tĩnh, vẫn còn đó những lo âu của một tâm hồn đa cảm, đa sự, đa
nghĩ: nụ hôn cuối ngày gặp gỡ. Con đường là bão giông. Em gói kỹ một thời
thiếu nữ vào tấm áo mỏng. Lội qua chỗ cuối cùng ướt ngập (Em xa, em xa, em
xa ). Vẫn còn đó những cô đơn của một kiếp làm thi sỹ, nhất là đến tuổi bệnh tật,
ốm đau: Mùa đông tận ngoài sông xa/ Gió và cát thổi đêm mờ lạnh/ sóng cũng
hoang vu/ Bờ cây anh trút lá/ Vầng trăng bỏ anh vầng trăng đi rồi (Còn gì
cho nhau). Dầu sao, sự bù đắp cho những tháng ngày cuối cùng kia cũng đã làm
anh có lúc vui và trẻ lại: yêu em như gió hát sau vườn (Em xa, em xa,
em xa ).
4. Phạm Ngọc Cảnh là nhà thơ có cá tính sáng tạo rõ nét, đặc
biệt là ở phương diện ngôn ngữ. Không đi ra ngoài mạch trữ tình, nhưng ngôn từ
có độ căng trong giọng điệu khi diễn đạt những xúc cảm nội tâm. Những lúc ấy, nồng
là chính, đạm là phụ: anh muốn kéo căng tối đa biên độ của nghĩa tức là cái được
biểu hiện và sắc thái của lời, tức là cái biểu hiện để có thể đạt đến điều mình
muốn. Thường khi thao tác của Phạm Ngọc Cảnh là lựa chọn những từ gân guốc, mạnh
mẽ để gây ấn tượng, tăng sắc thái biểu cảm: Tiếng cuốc cha tôi băm
nát mặt đường Truồi/ Lật ngửa những đoàn tàu giặc Pháp/ Tiếng ô
nhục một triều vua/ Lăng miếu thu mình trơ tội ác ( Gửi chị
phát thanh viên Đài tiếng nói Việt Nam ), bầm cháy lưng trần/ lum
khum dáng cuốc…/ Gót mòn dáng vóc gan lì, cát hằn, chẻm lỉa…,
chém cái nghèo cái nợ/ nước mắt lặng thầm, đau như vực
tối huyệt mồ phủ che/ nước mắt đắng vào huyệt mộ, mũi dao vẹt đá bờ
nam/ không chém nổi triền sông ấp kín, vòng vây này ép mỏng/
rót vào giấc ngủ quân thù…, Đã rình rập giữa hai ta/ Một
tầng khí vặn phong ba dữ dằn…vv. Kiểu tạo từ lập ý như vậy rất
thường gặp trong tư duy thơ Phạm Ngọc Cảnh và là một đặc điểm của thi pháp thơ
chống Mỹ. Tuy nhiên, đã có những chỗ anh hơi lạm dụng, cầu kỳ, điệu đàng, và đi
liền theo đó là tối nghĩa ( Hát câu gì vít vổng với vít vổng đánh đu ư
?– Ngọn lửa dòng sông, tr. 60)…
Phạm Ngọc Cảnh cũng thường khi sử dụng ẩn dụ, biểu tượng như
một thủ pháp nghệ thuật thơ. Bài thơ thường kết thúc mở, mới đọc qua thấy có vẻ
như lơ lửng, nhưng chính chỗ bỏ lửng này nơi tác giả nhường quyền suy tưởng cho
người đọc. Chính Hữu từng có một kết thúc như vậy: hình tượng Đầu súng
trăng treo là nơi dừng lại của bài thơ, cũng là nơi đi tiếp trong liên tưởng
của người đọc. Phạm Ngọc Cảnh cũng có những kiểu tư duy tương tự: Điều muốn
nói nằm trong bụng súng…/ Nghĩ về tương lai đã có súng…/ cây bút ta cài trước cửa
tim…/ Trang sử này trăng lên…Sau những hình tượng này nếu cần diễn giải sẽ cần
phải mất nhiều câu chữ của văn xuôi. Quả là những chỗ thơ dừng lại thì văn xuôi
có thể phải đi tiếp. Người ta nói thơ là chỗ dừng văn xuôi là đi, thơ là múa
văn xuôi là đi (Paul Valery ), đi thì mục đích là đến, còn múa thì vì
cái đẹp, và cũng đến, nhưng đến sau, chính là như vậy chăng?
Một thể loại Phạm Ngọc Cảnh ưa dùng là lục bát. Ưu thế của thể loại lục bát là sự nhịp nhàng tạo ra êm mượt trong tiếp nhận, nhưng sở đoản của thể lại này cũng chính ở đó: câu lục, câu bát bằng bằng đều đều như nhịp chồng cày vợ cấy kia hình như không phù hợp với kiểu quen dùng những ngôn từ có độ chói gắt của Phạm Ngọc Cảnh, vì vậy anh cố ý bẻ gập nó, tạo ra trúc trắc để gây ấn tượng cũng có, mà để phù hợp với điều định trình bày, cũng có. Nhịp sáu tám của Phạm Ngọc Cảnh, vì vậy đọc lên thấy ngang ngang, vấp vấp một chút, mất cân bằng một chút đủ để làm thay đổi cái nhịp nhàng có nguy cơ nhàm chán kia: Hình như anh dại khờ hơn/ Thêm một tuổi rồi trống trơn một ngày…Lẽ ra mang án tử hình/ em bảo lãnh em thật tình em yêu ( Tặng ngày sinh của mình ), Ví von xưa tội lắm mà/ đòn triêng quẩy nước non ta đói nghèo ( Tản mạn suốt miền trung ), Bóng thông ấy Nguyễn không trồng/ vầng trăng ấy gió buộc lồng nhành cây ( Trăng trong vườn Nguyễn Du )… Nhưng đây là chút khác thường cần thiết để thay đổi. Chưa biết hiệu quả đến đâu, nhưng văn chương mà không khác người khác, không khác cái đã có thì hay mấy rồi cũng đến hồi nhàm. Vậy mà có người vẫn không thừa nhận cái khác, không chịu được cái khác, chỉ muốn ai cũng giống ai, chỉ muốn cái gì cũng phải như cái đã có!
5. Với tôi, nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh là người anh, là người thầy.
Là anh, Phạm Ngọc Cảnh hơn tôi gần một giáp, cách tôi một cuộc
kháng chiến. Anh vào Vệ Quốc quân tham gia kháng chiến chống Pháp khi tôi mới
chào đời. Những ngày được cùng anh làm việc trong một tập thể, thấy anh ân cần
với hết thảy mọi người, không hề to lời nặng tiếng với ai bao giờ, với tôi, điều
đó gây cảm giác gần chùa gọi bụt bằng anh, cảm thấy anh dễ gần, dễ tin như
người nhà. Tôi nhận ra sự tế nhị có thừa ở anh cộng với bản tính nhường nhịn
như một lẽ sống kể cả những khi có thể anh không vừa lòng trước một việc gì đó,
với một người nào đó, tuyệt nhiên không bao giờ Phạm Ngọc Cảnh làm mọi người phật
lòng.
Là thầy, năm 1973, lúc tôi mới cầm bút, anh đã là một nhà thơ nổi tiếng, là một cây bút khá mới mẻ của thế hệ những nhà thơ chống Mỹ. Những bài thơ đầu tiên của tôi được in trên Tạp chí Văn Nghệ Quân đội là do anh và nhà thơ Văn Thảo Nguyên, bấy giờ là biên tập viên Ban Thơ của Tạp chí lựa chọn và sửa chữa từ sổ tay của tôi. Đó là bài Rừng tràm cuối mùa đông, in số tháng 12 năm 1973 và bài Hát trong đêm hội Lim, in số tháng 6 năm 1974. Phạm Ngọc Cảnh thích âm điệu trữ tình trong sáng của Hát trong đêm Hội Lim và chất trầm lắng của Rừng tràm cuối mùa đông. Với bài thơ Rừng tràm cuối mùa đông, anh chỉ yêu cầu sửa ba chữ câu cuối. Trong nguyên bản: Rừng tràm ơi, nhìn rừng tràm thay lá/ Máu tim tôi hồng mười đầu ngón tay. Phạm Ngọc Cảnh sửa: Rừng tràm ơi, nhìn rừng tràm thay lá/ Máu lên mười đầu ngón tay. Chỉ thay đổi có thế thôi mà chặt chẽ, thi vị và hàm súc hơn hẳn! Đó chính là công việc của một người thầy!
Những ngày cuối cùng, như con từ quy nhớ nhà, anh muốn được
trở về sông Đuống và ra đi, chuyến đi dài nhất của đời mình tại đó. Đến đưa tiễn
anh một buổi sáng tháng mười, gió từ sông Đuống thổi đến se lạnh, trời như cũng
dâng một màu xám chì buồn thương. Bàn chân từng ngang dọc khắp thế gian giờ đã
đến lúc dừng lại, nghỉ ngơi thanh thản. Nhưng anh còn có một tâm nguyện khác, sẽ
được về yên nghỉ tại nghĩa trang núi Nài, sông Phủ xin thần tổ gọi con về/
Lắng cùng sông Phủ le the bóng chiều (Trước nhà thờ họ Phạm). Đến lúc đó
là xong vòng đi của một hạt bụi, từ tro bụi trở về tro bụi nhưng đó là tro bụi
của một đời đam mê lãng du và cần lao sáng tạo; từ sông Cụt trở về sông Cụt,
nhưng đó chắc chắn là nơi ba con sông chảy đến. Đấy là nơi trở về hạnh phúc.
15/10/2024
Lê Thành Nghị
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét