Thứ Sáu, 19 tháng 12, 2025

Tinh thần khai phóng trong "Ca tụng thân xác" của Nguyễn Văn Trung

Tinh thần khai phóng trong "Ca tụng
thân xác" của Nguyễn Văn Trung

Hầu như cả cuộc đời Giáo sư Nguyễn Văn Trung không ngừng hiện thực hóa tinh thần khai phóng bằng chữ nghĩa. Trang sách của giáo sư họ Nguyễn xuyên suốt nhất quán với một tinh thần khai phóng, khởi đi từ ưu tư căn bản của cuộc hiện hữu. Sự truy vấn nghĩa lý Thiên Chúa, sự bí nhiệm của tôn giáo và sự hiện hữu bằng xương bằng thịt của con người, … là những nguyên động lực góp phần hình thành tinh thần khai phóng trong sự nghiệp trứ tác của ông.

Khai phóng tỉnh thức hay vỡ mộng lầm lạc

Trước nay, đã có không ít người bàn luận về hành trình trí thức – trường hợp Giáo sư Nguyễn Văn Trung, nhà trí thức tiêu biểu của thời kỳ văn hóa Việt giai đoạn 1954-1975 ở miền Nam Việt Nam. Một thời kỳ đất nước chia cắt, phân ly; nhưng với Giáo sư Nguyễn Văn Trung, trí thức Việt không phân ly, chia cắt. Bởi lẽ, thay vì một số ý kiến trái chiều trong nội bộ giới trí thức cả hữu lẫn tả, Giáo sư vẫn có cái nhìn công tâm về hoạt động trí thức của các bậc tiền bối (ở lại miền Bắc hay vô Nam) cũng như những người đương thời. Hơn thế ông còn có cái nhìn cảm thông, song vẫn đủ cương quyết đối với trách nhiệm thời đại của người trí thức.

Và, để thực hiện trách nhiệm – sứ mệnh của người trí thức, Giáo sư Nguyễn Văn Trung trước hết, định vị một tâm thế trí thức, một phong cách trí thức – hình tượng người trí thức thời đại. Ở đó, đặc trưng tiêu biểu là hệ tư duy mở với tinh thần phản biện, cảnh thức, giúp người trí thức nhận ra điều phi lý trong cái hợp lý của đám đông. “Ca tụng thân xác” trước hết, cũng bắt đầu bằng lối cảnh thức nhằm tỉnh ngộ như thế. Ấy là, sự tự cảnh tỉnh, tự thức tỉnh, tự phản biện cái biết – thấy xung quanh mình. Giáo sư Nguyễn Văn Trung cho rằng:

“Nhưng kể cũng phi lý và oan ức cho xác thịt. Một tu đức dựa trên sự miệt thị thể xác bao hàm một quan niệm nhị nguyên về con người: phân biệt hồn, xác, tinh thần, xác thịt. Nếu xác thịt chỉ là tổng số những tế bào, bộ máy sinh lý, công cụ của tinh thần, thì tại sao lại quy trách nhiệm cho nó và trừng phạt nó? Có bốn điều kiện xác định tội: ước muốn, hiểu biết, ưng thuận và làm. Nhưng ước muốn, ý thức phân biệt phải trái, tự do lựa chọn, quyết định, ý chí là khả năng của tinh thần hay của xác thịt? Nếu của Tinh Thần, Tâm Trí, tại sao lại đổ tội cho xác thịt chỉ biết làm? Do đó, trong một quan niệm nhị nguyên về con người, phân biệt hồn xác và đề cao tinh thần, miệt thị xác thịt thì Tội, Phúc, Trách Nhiệm là những khái niệm chỉ có nghĩa trong lãnh vực Linh Hồn, Tinh Thần; và chỉ liên quan đến Linh Hồn, Tinh Thần mà thôi. Vậy, chính là Tinh Thần muốn, biết, ưng thuận và chủ động tại sao lại kết tội và trừng phạt thân xác?” (tr.9).

Phải chăng, người ta đã dựa vào “trực quan sinh động” tức dừng lại ở cảm quan thông thường của quan năng để phán đoán, ước định. Điều này, dẫn đến sai lầm. Kỳ thực, đó là, hậu quả của sự thiếu hiểu biết. Do vậy, “Ca tụng thân xác” bộc lộ tinh thần khai phóng ở chỗ rọi thẳng vào nhận thức tối tăm, bạc nhược. Có lẽ, người đọc tự khắc nhận thấy thông qua những dẫn chứng và biện bạch của Giáo sư Nguyễn Văn Trung, rằng: trí năng con người vẫn còn ấu trĩ, lầm lạc, yếu đuối, … Giáo sư Nguyễn Văn Trung cho người ta biết cái người ta vốn chưa biết. Khai mở sự biết về chính cái gần gũi đơn sơ nhất với mỗi người: Thân xác! Vốn dĩ thân xác là điều gần gũi thiết thân nhất với ta, nhưng ta chưa hề hoặc chỉ biết khá sơ sài về nó. Sự hiểu biết sơ sài hoặc thiếu hiểu biết về thân xác lại càng góp phần khiến cho ta dễ dãi khép tội thân xác. Không chỉ riêng thân xác, sự thiếu hiểu biết và hiểu biết sơ sài lõm bõm về điều gì đó còn khiến con người ta dễ dàng khép điều đó vào chỗ sai lệch, tội lỗi. Đó là, xu hướng chung trong tinh thần con người, không riêng gì trường hợp thân xác. Như thế, bạn đọc có nhận ra: cơ hồ sự khép tội thân xác của con người không phản ánh tội lỗi của thân xác, chỉ phản ánh sự thiếu thốn bạc nhược của kẻ khép tội, tức Tinh Thần. Sự khép tội thân xác chỉ cho thấy Tinh thần con người hạn hẹp, yếu đuối, rời rạc, tối tăm…Ít nhiều, trang viết của ông cũng khiến cho mỗi người giật mình tự nhìn lại sự hãnh tiến huênh hoang của bản thân về sức mạnh và độ chính xác của trí năng.

Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã đột phá làm tan vỡ giấc mộng về quyền năng của lý trí. Và, sự thức tỉnh, có lẽ, bắt đầu từ sự vỡ mộng như thế. Chỉ dẫn cho ta nhìn thấy sự lầm lạc, người khai phóng về khía cạnh nào đó có thể xem như người thầy. Một trong số những lầm lạc đó: tệ khủng bố thân xác.

“Trong quan niệm lệch lạc về khổ hạnh, người tu trì tưởng rằng: càng làm khổ thân xác bao nhiêu, càng đẹp lòng Chúa bấy nhiêu, càng khinh chê xác thịt bao nhiêu, càng đề cao Thiên Chúa bấy nhiêu. Đôi khi, họ còn đi đến chỗ bạo động với thân xác, khủng bổ nó và lấy làm hài lòng, thích thú vì đã khủng bổ, đã làm khổ thân xác” (tr.12).

Thật kỳ lạ, khi ta vẫn nhờ đến thân xác để biểu thị sự biết thấy hữu tại của ta; ấy vậy, ta vẫn không ngừng khinh thường và lắm lúc, nhẫn tâm hạ bệ, đày đọa, xỉ vả… thân xác. Giáo sư Nguyễn Văn Trung tỏ ra kinh ngạc trước lầm lạc hiển nhiên của đa phần thiên hạ – tín hữu Kitô trong cách nhìn về xác thịt. Hình như, ông đã nhận ra nguyên do dẫn đến lầm lạc của những người tín hữu. Trước là sự phân biệt nhị nguyên, dẫn đến hậu quả tai hại là cách thế đối lập giữa thân xác và tinh thần như một cặp phạm trù xung khắc.

“Không có sự đối lập giữa giá trị tinh thần và giá trị vật chất. Do đó tranh đấu cho những giá trị vật chất có một ý nghĩa thiêng liêng cao cả và cũng là tranh đấu cho những giá trị tinh thần đích thực như Péguy đã quả quyết: “Cái thiêng liêng cũng là xác thịt” và “Phúc cho những kẻ chết vì đất thịt này” (Heureux ceux qui sont morts pour la terre charnelle)” (tr.187)

Sự nhầm lẫn giữa nguyên nhân và kết quả; nhầm lẫn giữa nguyên do và biểu hiện,; nhầm lẫn giữa cứu cánh và phương tiện –  điều này, dẫn tới chỗ tín hữu thành ra “sadism” đức hạnh. Nhưng, người tín hữu không ngờ được rằng linh hồn và thân xác không thể tách rời; ví như bạo hành tha nhân là một tội ác thì bạo hành tự thân cũng y như vậy. Đây chỉ là biểu hiện sự mê muội, lầm lạc. Với niềm tin và sự mê muội, người ta có thể hủy hoại cõi thế gian và tạo nghiệt ác mà tự thân, vẫn nghĩ  thực hiện điều thánh thiện. Phước cho kẻ nào chưa thấy mà tin, ấy là phước cho Satan.

Xa hơn, ông từ chỗ chỉ ra lầm lạc ngụy tưởng về thân xác còn chỉ ra hành vi phi nhân tính của thiên hạ đối với tha nhân, đối với chính mình. Ông nhận rõ sự vô nhân tính, phản nhân tính của sự hiểu lầm lạc về thân xác. Việc nhận thức một cách sai lạc về thân xác khiến con người hành động như thể không phải một con người bằng xương bằng thịt. Như thể, họ không phải phàm nhân, họ là “thánh nhân” (chí ít là một nhà luân lý, một kẻ đức hạnh) trong khi không thể chối bỏ cốt phàm nhân. Và nhân danh Thiên Chúa với những gì Ngài đã sáng tạo ra, để rồi họ đi ngược lại và chà đạp kết tạo của Chúa – tức phản bội và chà đạp thân xác. Nhân danh Chúa để rồi phỉ báng những tạo vật của Chúa, đi ngược lại lẽ tự nhiên:

“Họ đã vô tình ngăn chận sự phát triển tự nhiên của thân xác một cách có vẻ thiếu nhân loại. Dĩ nhiên, chỉ có vẻ tàn bạo thiếu nhân đạo đối với người đời, chứ đối với nhà dòng và các nữ tu trên thì đó là Đạo đức thánh thiện, một thánh thiện đòi hỏi sự phủ nhận con người, sự chà đạp một phần con người cũng đã là một tạo vật tốt lành do Chúa dựng nên. Sự miệt thịt thân xác kèm theo ý chí kiềm chế, tiêu diệt thân xác không những chỉ có tính chất phi nhân đối với người thực hành quan niệm tu trì sai lầm mà còn làm cho người đó trở thành bất nhân, nghiêm khắc, bất khoan dung với người khác” (tr.13).

Cũng tức là khởi dựng ác niệm với tự thân và tha nhân. Ác niệm ở đây có thể hiểu như việc đi ngược lại lẽ tự nhiên và quy luật của Đấng tối thượng đã tạo dựng. Cái ác này, chẳng những hại cho bản thân mà còn hại cho kẻ khác. Bởi, người là một “hiện thể” không tách rời quần thể liên cư. Bên cạnh đó, Giáo sư Nguyễn Văn Trung nhận ra tính chất phản khoa học, phản nhân tính, ngụy nhân tính trong nhận thức và hành vi sai lạc về thân xác. Đó là, thái độ nhìn nhận trực diện vào quan niệm “bảo thủ” và “cực đoan”. Ấy là khai phóng! Ông đã bóc trần hiện tượng đạo đức bao phủ trên căn cốt phi nhân, giả tạo và độc ác bằng cách dẫn lại lời của thánh Gioan Climaque: “Người nào hướng chiều về sự dâm dục là người hay thương xót, trái lại những kẻ hướng về sự tinh khiết, không biết thương yêu” (tr.13). Ở đây, ông đã phơi bày được hai vấn đề: ngụy đức hạnh và phản nhân loại.

Đã có một số hậu quả, chướng ngại giáng xuống cuộc đời trí thức của Giáo sư Nguyễn Văn Trung từ khi “Ca tụng thân xác” ra đời. Nhưng, dư luận thi phi ấy kỳ thực cũng có những lầm tưởng. Bởi, Giáo sư Nguyễn Văn Trung sử dụng rất nhiều minh chứng thuyết phục có thực trong đời sống nói chung – trong đó, có những ví dụ về đời sống tu trì của giới tu sĩ. Thế nhưng, đa phần những thị phi vây quanh đều bám vào những minh chứng tu trì của giới tu sĩ, không nhìn thấy những ví dụ như vậy chiếm tỷ lệ không nhiều trong “Ca tụng thân xác”. Thực tế, Giáo sư Nguyễn Văn Trung còn đưa ra những minh chứng trong hiện trạng xã hội, chính trị, văn hóa, tín ngưỡng dân gian, thơ ca, lịch sử, âm nhạc, hội họa, … Điều này, có nghĩa là, vấn đề “ca tụng thân xác” là một vấn đề phổ biến trong đời sống con người, không phải chỉ biểu hiện trong đời sống tu trì của tu sĩ. Hơn nữa, sự vin vào đời sống tu trì lại bị xuyên tạc là báng bổ tôn giáo. Thực ra, không phải vậy! Đó là, tinh thần khai phóng, nhằm vạch trần sự lạm dụng tôn giáo (chứ không phải báng bổ tôn giáo, dù là Ki-tô giáo, Phật giáo hay các tôn giáo khác). Cần lưu ý rằng, Giáo sư Nguyễn Văn Trung – với Ca tụng thân xác,  không hề phủ nhận hay đoạn tuyệt với tôn giáo. Đúng hơn, Giáo sư Nguyễn Văn Trung vạch trần sự lợi dụng tôn giáo.

“Thực ra, những sự lợi dụng tôn giáo, lạm dụng địa vị tu trì là do một hoàn cảnh xã hội gây nên. Khi một cuộc cách mạng bùng lên chấm dứt những chênh lệch giai cấp, những bất công xã hội cũng chấm dứt những sự lợi dụng tôn giáo, lạm dụng địa vị tu trì. Chấm dứt sự lạm dụng tôn giáo và địa vị tu trì là chấm dứt một hoàn cảnh mỉa mai, vạch trần một lối làm giàu bằng cách chửi bới sự giàu có, một lối buôn danh lợi ăn bám vào đời bằng cách rao giảng khinh chê đời để bắt buộc những kẻ vô tình hay hữu lý lạm dụng chiếc áo nhà tu phải làm ăn vất vả cực khổ. Trong tình cảnh đó, họ sẽ có dịp hiểu thế nào là khinh chê vật chất xác thịt, cũng như đâu là những giá trị tinh thần, tôn giáo thực sự, đồng thời việc tu trì khổ hạnh cũng tìm lại được ý nghĩa đích thực của mình” (tr.29).

Khai phóng trong trường hợp “Ca tụng thân xác”, thực chất là thanh tẩy những gì gọi là “ngụy tôn giáo”. Tinh thần khai phóng của Giáo sư Nguyễn Văn Trung không đi ngược lại tôn giáo chân chính – tức dựa trên chân lý và hướng đến giá trị nhân bản.

Khai phóng phản biện hay tái thiết nhận thức mới

Sau khi người khiến ta vỡ mộng, người không bỏ ta bơ vơ và người, còn giúp ta tạo dựng lại một thực tại, tùy theo tầm kích nhận thức của ta. Khai Phóng, gồm cả Khai Mở và Khai Thông, để rồi Tái Thiết. Khai mở bằng cảnh tỉnh, tỉnh thức, vỡ mộng. Khai Thông bằng cách chỉ ra nguyên nhân lầm lạc, biểu hiện của sự lầm lạc, vị trí bị ung bế và khả dĩ phương hướng quản trị. Đó là, trường hợp Giáo sư Nguyễn Văn Trung nói đến những lầm lạc và đồng thời, đề xuất việc khai thông sự lạc đường này.

“Nếu tín lý của Kitô giáo chỉ dạy linh hồn bất tử, thì chẳng có gì mới lạ, vì tư tưởng Hy Lạp cũng như nhiều triết lý khác đã chủ trương như vậy. Nhưng tín lý Kitô giáo dạy xác sẽ sống lại và bất tử. Điều đó làm ngạc nhiên những nhà triết học Hy Lạp vì họ không thể hiểu và tin được xác con người sống lại và sẽ không bị tan rã, tiêu diệt. Trên lý thuyết, Kitô giáo coi thân xác cũng như linh hồn đều là tạo vật của Thiên Chúa dựng nên, hơn nữa còn coi thân xác là đền thờ Đức Thánh Linh, nhưng trong thực tế vẫn chịu ảnh hưởng triết lý Hy Lạp, nên Kitô giáo đã không tránh được, lại rơi vào sự phân biệt hồn xác và đề cao hồn, miệt thị cả trong phạm vi nhận thức lẫn đời sống tôn giáo, tu đức…” (tr.10-11).

Sự hiểu lầm tai hại, rất căn cơ trong quan niệm nhị nguyên của tín lý Kitô giáo. Điều này, khiến Giáo sư Nguyễn Văn Trung nhận lấy sự phản ứng dữ dội của cả truyền thống tín lý lâu dài và rộng rãi. Song, ngay ở đó, người đã khai thông để rộng đường tái thiết. “Thân xác là đền thờ Đức Thánh Linh”. Và, hồn xác không ở thế nhị nguyên, tách rời. Do đó, khai phóng trước hết là một vấn đề thuộc về nhận thức. Bằng cách khép tội, khai trừ và trục xuất thân xác; con người đã thành ra vắng mặt trong chính cuộc đời mình. Đây là, nhận thức sâu sắc mà “Ca tụng thân xác” đã khiến ta ngạc nhiên nhận ra. Vậy ra, ta đã viện cớ một tinh thần tuyệt đối nào đó, nằm ngoài thân xác ta, để lấy làm cứu cánh tin vịn và chủ quản để tự trục xuất bản thân mình khỏi cuộc đời mình. Điều này, gây ra hai phản ứng: hoặc đau xót nhận ra sự phi lý trong cách thế sống trải và tái thiết cách sống trải; hoặc tức giận đạp đổ cánh cửa vừa khai mở (Bởi, cánh cửa đã mở ra luồng sáng quá mạnh đến mức ánh mắt chói lòa, không kịp thích ứng và người ta hốt hoảng vội xua đuổi thứ ánh sáng đó). “Ca tụng thân xác”, từng một thời làm dấy lên làn sóng dữ “thị phi” ở “tinh thần đám đông”! Nói theo Gustave Le Bon, hiệu ứng đám đông là một phép lũy thừa từ sự kích động của mỗi cá thể hiệp thành. Nói cách khác, “Ca tụng thân xác” đã kích hoạt cơ chế phản vệ của mỗi người, khiến cho người không đủ bình tâm suy xét những gì gây ra cơn sốc ấy. Nhưng, từ đó, ta cũng thấy, tâm lý và tinh thần con người nói chung chẳng khác gì “hạt nhân nguyên tử” của nguyên tố nặng nhưng tạm bợ, dễ bục vỡ; đó là kiểu tinh thần không bền. Về khía cạnh nào đó, khai phóng trước hết là sự tự vỡ mộng và tan vỡ cuộc mộng chung. Giáo sư Nguyễn Văn Trung, người trí thức dũng cảm dùng ngòi bút đánh vỡ giấc mộng… bằng tuyệt chiêu Khai Phóng!

Trong “Ca tụng thân xác”, Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã sử dụng lối hành văn linh hoạt để truyền đạt tinh thần khai phóng. Có khi lững lờ, nhẹ nhàng, nhưng có lúc cuồn cuộn dồn dập! Đôi khi, ông có phong thái tài tử trong việc sử dụng những ví dụ minh chứng trong thi ca nhạc họa; và cũng có khi lại rất đời thường với những phát hiện gần gũi,  thậm chí vụn vặt. Ấy vậy, ông khiến ta sửng sốt và bàng hoàng nhận ra sự hiện hữu của thân xác chính bản thân mình mà ta, từng lãng quên, xa lạ.

“Tuy nhiên, thân xác chỉ bị quên lãng chứ không phải là vắng mặt theo nghĩa không có đấy. Nó vẫn có mặt nhưng chỉ bị bỏ quên, không được chú ý đến – một sự bỏ quên không thể kể như vắng mặt, vì nó vẫn đóng vai chủ động, là điều kiện nền tảng của mọi chú ý khác” (tr.21).

Đến khi phát hiện ra thân xác, chính xác là phát hiện ra sự hiện hữu của thân xác, ta không khỏi kinh ngạc, pha lẫn niềm cay đắng, chua chát.

“Thường thường mỗi người đều có vẻ điệu riêng, nhất là người già: một cách lên giọng, một cách giơ tay, một cách lên lầu, đi đứng, v.v… ít khi ta biết và để ý tới. Nhưng dự một buổi trình diễn như trên, thấy một người đóng vai của mình đang làm điệu bộ, nói giọng nói hệt mình, ta mới nhận ra mình là như thế đó sau hết mọi người. Chính mình mà lại không biết mình, và khi biết thì chỉ biết sau mọi người!” (tr.36).

Từ chỗ cay đắng, chua xót nhận ra chính mình (sau mọi người), buộc ta phải tái thiết nhận thức về chính bản thân ta. Bởi, nhận thức bản thân, trước đó, hoặc chưa có hoặc đã bị phá vỡ. Ta không thể sống không có nhận thức thức nào về chính mình. Vì rằng, thiếu nhận thức bản thân, ta không có “chất điểm” định vị mình để rồi, từ đó, kết liên hợp quần với tha nhân.

Như đã nói, tinh thần khai phóng trong “Ca tụng thân xác” căn bản là một vấn đề nhận thức luận. Giáo sư Nguyễn Văn Trung sau khi cân chỉnh những lầm lạc vén mở bóng mây che mờ nhận thức con người về thân xác, ông đã phát hiện ra lối biện chứng giấu – mở như khả dĩ tái thiết nhận thức. Từ lối biện chứng này, bạn đọc nhận thấy ông là tín đồ Kitô sâu sắc, thâm trầm với niềm tin tưởng thuần thành tinh khiết.

““Chúa thật là Đấng ẩn giấu” (Tu es verus absconditus). Khi suy tưởng về Chúa ẩn giấu, Pascal cho rằng sở dĩ Chúa ẩn giấu với tôi là vì chính tôi cũng đã ẩn giấu đối với tôi. Tôi tội lỗi, tôi sa đọa và tội lỗi sa đọa làm mờ con mắt tôi, và đánh mất bản chất con người tôi, do đó tôi không thấy cái mình thật của tôi nữa, như thế tôi trở thành ẩn giấu đối với chính tôi (homo absconditus). Làm sao tôi có thể thấy Thiên Chúa khi chính tôi đã là tấm màn che giấu tôi không cho tôi thấy được! Cho nên muốn tìm thấy Chúa, muốn được Chúa mặc khải, trước tiên tôi phải bỏ tội lỗi, tôi phải tìm lại được bản chất con người của tôi, để tôi trở thành sẵn sàng cởi mở, đón nhận Thiên Chúa là đấng chỉ mặc khải, bầy tỏ cho những tâm hồn hướng về Người và khao khát Người” (tr.49-50).

Với lối biện chứng giấu –  mở, ông mở ra cho bạn đọc cơ hội tìm hiểu/tự tìm hiểu chân lý. Do bản chất chân lý là mặc nhiên, là mở; nhưng mấu chốt vẫn từ nơi bạn đọc cần tự tìm thấy cái gì đã che mờ, làm chúng ta không nhận diện được chân lý. Thế nên, tinh thần khai phóng đẩy người đọc đến chỗ phải tự khởi động hành trình đi tìm chân lý. Hướng về phía chân lý, chúng ta thấy cách hiểu của Giáo sư Nguyễn Văn Trung về Kitô giáo cũng chẳng xa lạ gì với Phật giáo, Ấn giáo, … Chân lý là điểm gặp gỡ của tất cả mọi tôn giáo. Thêm điều nữa, trên hành trình hướng về chân lý, con người khai mở chính các giá trị Nguời của mình. Dọc theo hành trình đó, con người hoàn thành cuộc hiện hữu của mình. Tinh thần khai phóng chính vì thế có ý nghĩa nhân bản sâu sắc.

Như vậy, để sẵn sàng cởi mở đón nhận Thiên Chúa, con người cần phải tìm lại được bản chất con người của mình. “Ca tụng thân xác” thường được hiểu một cách thông tục là sự thượng tôn mù quáng tính dục; nhưng “Ca tụng thân xác” nên được nhìn nhận là sự thấu hiểu bản chất thân xác và dục tính; từ đó,  mở đường tìm lại bản chất con người đích thực. Ca tụng ở đây là một hành vi biểu thị sự thấu hiểu và xác lập hiện tượng thân xác một cách đúng đắn, phù hợp. Giáo sư Nguyễn Văn Trung cho rằng: đó là trạng thái quân bình của biện chứng giấu – mở.

“Cách thế xuất hiện của nó là giấu-mở, không ẩn giấu hẳn, cũng không mở hẳn. Một ẩn giấu để cởi mở. Một cởi mở cần được ẩn giấu. Không phải thế này hoặc thế kia một cách dứt khoát, nhưng là vừa thế này và vừa thế kia. Không phải là ẩn giấu hoặc cởi mở; nhưng là vừa ẩn giấu vừa cởi mở. Chỉ giấu mà không mở cũng như chỉ mở mà không giấu đều hỏng. Hoặc mở nhiều quá cũng như giấu nhiều quá đều không được. Một lối nhìn xác thực về tính dục thiết tưởng phải được căn cứ trên ý thức về sự khác biệt quan trọng giữa hai liên tự hoặc, và. Và nếu có một đạo lý chính đáng về dục tính thiết tưởng đạo lý đó cũng là làm sao duy trì được cái thế quân bình của biện chứng giấu và mở” (tr.70).

Song, đó không phải lối biện chứng nửa vời và càng không phải tư duy xét lại. Thế nhưng, có lẽ, nên nói thêm, tinh thần cấp tiến khai phóng (hay nói một cách triệt để hơn rằng chủ nghĩa cấp tiến) ngay từ ban đầu sự khai sinh của nó (từ thời Khai Sáng) là để nhằm chống lại chủ nghĩa bảo thủ. Tuy nhiên, tự thân nó, ngay từ nguồn gốc, không hàm ý một tinh thần phủ định hoàn toàn, hay một sắc thái có phần phái sinh là tinh thần xét lại. Tinh thần cấp tiến khai phóng của Giáo sư Nguyễn Văn Trung không như thế. Do ông không phủ nhận tất cả, không xét lại. Có lẽ, nên hiểu tinh thần cấp tiến này trước hết, như  một sự nhận thức, sự tỉnh ngộ, vì nhận ra sự phi lý của quán tính công thể. Một minh chứng nữa, cho thấy tinh thần cấp tiến của Giáo sư Nguyễn Văn Trung ở cuộc đối thoại giữa Giáo sư Nguyễn Văn Trung với nhóm Sáng Tạo xoay quanh vấn đề Văn nghệ Tiền chiến (Gửi anh em trong “nhóm Sáng Tạo”, tạp chí Bách Khoa, số 94 (01/12/1960), tr.38-44/ Xem phần Phụ lục).

“Không có một liên tục giữa lớp người năm mươi và ba mươi. Phần lớn những anh ở lại bên kia. Đừng nên trách, phán đoán và kết án những người ở trong những hoàn cảnh khó khăn mà mình có may mắn không vướng phải, nhất là đó lại là những người đồng nghiệp, bạn cũ. Thiết tưởng nên tôn trọng trong yên lặng sự đau khổ và những quyết định của những người mà hiện nay mình không có phương tiện tìm hiểu. Tôi vẫn thấy khó chịu mỗi khi nghe người ta ngồi ở đây dễ dàng kết án những người bên kia là “đầu hàng”, “phản bội”, “đồng lõa”, v.v… như anh Tô Thùy Yên đã làm”[1].

Không phủ nhận – đúng hơn là tôn trọng; ông tỏ ra tôn trọng những khuynh hướng nhận thức khác biệt. Và, nếu xét lại dựa trên nền tảng hoài nghi thì những truy xét của Giáo sư Nguyễn Văn Trung dựa trên khả tín của thực tiễn. Một thái độ công tâm, một tinh thần duy lý nghiêm nhặt không cho phép người trí thức có thể dễ dãi phán đoán dựa trên cảm quan cá nhân. Tựu trung, tinh thần khai phóng của “Ca tụng thân xác” nhằm tái thiết một nhận thức mới; nhưng không có nghĩa hư vô hóa, hay phủ nhận hoàn toàn; không lấy hoài nghi làm phương tiện xét lại; cốt lõi ở tinh thần cấp tiến khai sáng – duy lý. Sau nữa, tinh thần khai phóng hướng đến thúc đẩy sự tiến bộ cá nhân và xã hội.

Khai phóng tiến bộ hay thúc đẩy phát triển xã hội

Tinh thần khai phóng hướng đến sự phát triển xã hội gắn liền giá trị người chân thực. Để làm rõ vấn đề này, Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã biện luận và vạch trần bản chất “dụng cụ” của con người, khi con người bị giản lược chỉ còn là thân xác. Thân xác ở đây được sử dụng như là dụng cụ.

“Con người có thể bị vong thân dưới trăm nghìn hình thức khác nhau. Nhưng dưới bất cứ hình thức nào, là vong thân khi con người toàn diện bị giản lược vào một cái xác, một dụng cụ hữu ích, và khi tất cả giá trị làm người thu gọn vào giá trị một dụng cụ. Có giá trị bao lâu “dùng” được – Nếu bị bệnh tật, đau ốm, được đem đi “chữa” như chữa một cái máy hư hỏng; và nếu không chữa được (tàn tật già yếu) sẽ bị coi là vô dụng và bị phế thải” (tr.74).

Đắng cay hơn, dụng cụ “thân xác” mất cứu cánh (hoặc chưa có/không có cứu cánh) khiến nó trở thành phương tiện trơ lì, trống rỗng (thể như không có một thực tính nào trong đó). Cũng tức là, con người rốt cuộc chỉ là dụng cụ thân xác, một phương tiện thuần túy trong hệ thống các phương tiện liên hệ với nhau tạo thành cỗ máy khổng lồ. Sự đánh mất cứu cánh hoặc không có cứu cánh mới thực sự đáng sợ.

“Sự vong thân trở thành toàn diện và triệt để khi mất hẳn mọi cứu cánh. Trường hợp vong thân ở trên chỉ liên quan đến một số người. Một số người trở thành dụng cụ, phương tiện phục vụ một số người khác. Nhưng khi một số người khác là cứu cánh, đến lượt họ cũng biến thành phương tiện, lúc đó không còn con người, cứu cánh mà chỉ còn hệ thống dụng cụ đơn thuần, sự vong thân thật là hoàn tất. Chẳng hạn người chủ dùng máy móc, nhân công để kiếm lợi. Nhưng có thể chính người chủ cũng lệ thuộc đồng tiền, làm mọi sự vì đồng tiền. Rút cục đồng tiền đáng lẽ chỉ là phương tiện đã trở thành cứu cánh sau cùng của hệ thống dụng cụ mà vẫn ở trong hệ thống dụng cụ. Nói cách khác, hệ thống dụng cụ trở thành vô nghĩa, phi nhân nếu không nhằm một cứu cánh ở ngoài nó, và khác nó” (tr.74-75).

Bởi hệ thống dụng cụ đó không có nghĩa lý nào nữa! Đoàn người trên cõi thế không có nghĩa lý nào nữa! Và, vì con người ta không thể sống không có một cứu cánh nào. Những dẫn giải của Giáo sư Nguyễn Văn Trung có thể khiến những ai sẵn sàng về mặt “tâm linh” phải giật mình, choáng váng. Do ta nhận ra sự tiến bộ xã hội thực sự phải là sự tiến bộ của giá trị người – nghĩa là, sự tiến bộ trong nhận thức và hành động tiến về phía cứu cánh; không phải sự tiến bộ chỉ là tiến bộ của các công cụ, của phương tiện… Nhìn rộng hơn, nền văn minh của con người trong thiên niên kỷ thứ III sau Thiên Chúa, liệu chúng ta phải nhìn nhận sự tiến bộ loài người như thế nào cho xác đáng? Lấy tiêu chí hay cứu cánh nào làm nền tảng cho sự tiến bộ?

Giáo sư Nguyễn Văn Trung cũng có lần nhắc đến sự gặp gỡ con người như đồ vật trong bài phỏng vấn của Nguyễn Hữu Ngư. Tính chất công cụ, phương tiện của con người hầu như bao trùm khắp đời sống khiến cho sự gặp gỡ, đối thoại hầu như rất hạn chế. Nếu không có đối thoại, “tương phùng”, xã hội chỉ là hợp quần của những hạt cát rời rạc, ô hợp.

“Cũng như năm ngoái, Đại học Hè được tổ chức không phải như là một trại hè để nghỉ mát, cũng không phải là một lớp học hay huấn luyện, nhưng là một gặp gỡ hiểu theo nghĩa sâu của nó. Ngoài phố, trong chợ, người ta có thể gặp bao nhiêu người, nhưng đó mới chỉ là sự giao nhau giữa hai đồ vật như hai chiếc xe gặp nhau. Trong trường học, nhất là trên Đại học, người Sinh viên và Giáo sư cũng không có, hay rất ít, tiếp xúc trong năm học; học cũng chỉ là giao nhau mà thôi, chưa phải là gặp gỡ giữa hai tâm hồn. Sự gặp gỡ này nhằm mục đích khám phá tha nhân như một huyền nhiệm phong phú với tất cả những nét tư tưởng riêng đặc biệt của họ. Đó là ý nghĩa và mục đích của Đại học hè: tạo ra mọi sự gặp gỡ giữa các tâm hồn. Sự gặp gỡ đó sẽ đưa đến trên phương diện tinh thần một sự gây thức tỉnh nơi những Sinh viên một vài vấn đề quan trọng liên hệ đến đời sống của họ trước bản thân, gia đình, dân tộc, nhân loại trong hoàn cảnh hiện đại”[2].

Lẽ đó, chúng ta có thể tái phát hiện, sự gặp gỡ của bản thân mình với tha nhân. Sự gặp gỡ thật sự phải có đối thoại và giao cảm, phải là sự phát hiện tha nhân như “một huyền nhiệm phong phú”. Và, Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã không ngừng thúc đấy tiến bộ xã hội từ chính việc gặp gỡ, đối thoại trong hành động thực tiễn cũng như trong chữ nghĩa. Gặp gỡ đối thoại, đặc biệt giữa những người khác nhau thậm chí đối nghịch nhau về nhận thức là điều cần thiết để thúc đẩy cả hệ thống “công cụ” của xã hội buộc phải vận động, biến đổi và phát triển. Thế nên, hoạt động xã hội (trong đó có sinh hoạt chữ nghĩa của giới cầm bút) cần được khích lệ, ủng hộ. Nhất là, càng nên ủng hộ những “nhận thức mới – nhận thức khác” với nhận thức công thể, để có thể thúc đẩy tiến bộ xã hội. Một xã hội không có những “nhận thức mới – nhận thức khác” kỳ thực là một xã hội đứng yên, không vận động. Cố nhiên, xã hội đó sẽ thụt lùi và bị đào thải, hoặc tiêu vong. Thế nên, việc ủng hộ, khích lệ “nhận thức mới – nhận thức khác” cần kết hợp hài hòa với việc duy trì ổn định trật tự xã hội và tư tưởng nên cân bằng, hài hòa giữa các biến số và hằng số của phương trình vận động xã hội.

Nhìn lại lịch sử tư tưởng dân tộc, “tam giáo đồng nguyên” là một biểu hiện sinh động và toàn diện của sự cân bằng hài hòa đó. Giữa thống nhất và cởi mở, giữa bền vững và khai phóng đạt đến mức độ nhịp nhàng chặt chẽ mật thiết.

“Còn như “luân lý cũ của ta” thì nhất định theo Nho học Việt Nam là cái hệ thống của Chu Văn An lấy “Cùng Lý Chính Tâm” làm cơ sở như nói ở trên. Cái luân lý này cũng thuộc về luân lý tâm linh khai phóng, đi đôi với hệ thống triết học Tam Giáo của Thiền học thời Trần. Cả hai hệ thống luân lý trên của Việt Nam xưa đều là nhân bản tâm linh thực hiện, mà Cụ Phan Chu Trinh đã đòi chúng ta phải phục hưng thì mới mong chắp với cây luân lý ở các nước Âu Tây để sinh nở sáng tạo ra hoa tươi trái tốt cho dân tộc hiện nay vậy”[3].

Thiết nghĩ, đó là bài học quý báu của thời kỳ Định – Lê – Lý – Trần còn lưu lại trong lịch sử tư tưởng tộc Việt. Cần nhấn mạnh thêm rằng: khai phóng không tách rời và không đi ngược lại thống nhất tư tưởng. Sự thống nhất kiện toàn quốc thể hẳn nhiên không tách rời thống nhất kiện toàn tư tưởng. Nhưng, khai phóng chính là điều kiện cần thiết cho sự thống nhất đó vận động tiến kịp đà “toàn cầu hóa” đương thời.

Tư duy mở trong xã hội khai phóng liệu có phải là tự do cho tính dục? Nên hiểu tự do tính dục trong xã hội khai phóng như thế nào? Tự do – tiến bộ xã hội (trong đó có tự do cho người nữ) liệu có thể đồng nhất với tự do thân xác? Thân xác như một trương độ hiện hữu. Khởi đầu bằng sự có mặt thô sơ của thân xác, Giáo sư Nguyễn Văn Trung đi tới thân xác chính trị – xã hội, thân xác với thân xác khác trong mối quan hệ giao thiệp, thân bằng quyến thuộc và mối quan hệ ân ái. Đó là, quá trình khảo soát từ xa đến gần, từ rộng đến sâu. Và, càng đi sâu càng sắc bén nhuần nhuyễn hơn. Như chỗ ông nói về sự “giao cấu” theo kiểu Tây phương và tình ân ái theo kiểu dân quê Việt Nam. Mới thấy, sao có thể áp dụng thuyết lý về tự do ái tình như kiểu Tây phương vào không gian văn hóa Việt cho được (tr.134-136). “Đương cơn lửa tắt cơm sôi/ Lợn kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem”. Điều này, khiến ta nghĩ lại một số biểu hiện của phong trào “Âu hóa” đầu thế kỷ XX, đòi tự do yêu đương, đòi tự do tình dục, trong đó có cả việc tự do tình dục cho phụ nữ Việt. Về việc này đã gặp phải nhiều phản ứng từ giới trí thức lẫn giới bình dân trong xã hội đương thời. Trở lại với Ca tụng thân xác, tinh thần khai phóng trong xã hội khai phóng và biện chứng giấu – mở trong quan niệm của Nguyễn Văn Trung rõ ràng không tách rời bối cảnh và nền tảng văn hóa dân tộc. Và ông đã chứng minh cho thấy rằng việc du nhập các quan niệm sống của xã hội Tây phương vào văn hóa Việt nói riêng, văn hóa Đông phương nói chung đều vấp phải bất cập. Sự du nhập tư tưởng thiếu suy xét có thể gây ra những “quái thai” kệch cỡm trong hiện trạng văn hóa dân tộc. Vì vậy, khai phóng hay cấp tiến của Giáo sư Nguyễn Văn Trung không sa vào lối “Âu hóa”/ “sính ngoại” một cách thông tục; đó là sự suy xét dựa trên nền tảng văn hóa dân tộc, nhất là văn hóa dân gian người Việt.

Từ vấn đề văn hóa xã hội, “Ca tụng thân xác” còn đề cập đến những vấn đề chính trị xã hội. Trên phương diện xã hội-chính trị, Giáo sư Nguyễn Văn Trung chỉ ra bản chất của chủ nghĩa đế quốc mới. Về cơ bản đó là hành vi sử dụng thân xác con người như sức lực, xem con người không khác gì những động vật được chăn nuôi để lấy sức kéo và bao bọc trong đó những mỹ từ huyễn hoặc.

“Một sư đoàn quân viễn chinh tốn phí gấp năm mười lần một sư đoàn quân đội quốc gia nước chậm tiến, lại tránh được không những cái tiếng đi xâm lăng mà còn được tiếng giúp đỡ viện trợ các nước chậm tiến chống xâm lăng. Đó là chiêu bài hay huyền thoại về viện trợ. Thực chất nước được viện trợ vẫn chỉ là một công cụ của tư bản đế quốc và quân đội quốc gia của nước đó, thực chất cũng chỉ là một đạo quân đánh thuê cho tư bản đế quốc mà thôi” (tr.83).

Đi vào bản chất chủ nghĩa đế quốc, Giáo sư đã nhìn thẳng vào chân tướng bạo lực, bá quyền của nó. Chủ nghĩa đế quốc cũng như khi thân xác có vũ trang trong tay, khuynh hướng bạo động được thúc đẩy. Không thể nào có vũ khí trong tay lại có thể không nghĩ đến việc sử dụng nó. Không thể viện lý do thúc đẩy và bảo vệ tiến bộ xã hội, bảo vệ hòa bình để làm cái  cớ căn bản việc chạy đua vũ trang thời chiến tranh lạnh, phát triển vũ khí hủy diệt. Nhưng:

“Muốn tiến tới giải giới thực sự chấm dứt hiểm họa chiến tranh, không những phải cấm dùng võ khí, mà còn phải hủy diệt võ khí. Vì làm sao vẫn giữ võ khí mà lại không muốn đem dùng? Nước nào cũng có quân đội và lo tăng gia kiện toàn hỏa lực. Nước nào cũng chỉ lấy cớ tự vệ để duy trì quân đội và thi đua võ trang. Cho nên, bộ phụ trách vấn đề quân sự bao giờ cũng chỉ là bộ quốc phòng. Nhưng nói như Tolstoi: Nếu nước nào cũng chỉ phòng ngự, thì tấn công từ đâu đến? Nhưng có nước nào gây chiến tấn công trước mà chẳng rêu rao đó chỉ là một cách tự vệ? Tính hiếu chiến phải chăng gắn liền với một thái độ võ trang?” (tr.124).

Rõ là, Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã lột tẩy những chiêu thức, quân bài quân sự – ngoại giao. Thân xác được nối dài bởi vũ khí sẽ thúc đẩy sự trỗi dậy của ý chí bạo động. Như vậy, thân xác giờ không còn là sức kéo, là bị thịt, là nhu cầu sinh lý một khi được nối dài do vũ khí và nó trở thành mồi lửa chiến tranh. Nhưng, hẳn nhiên, thân xác không phải nguồn cơn mồi lửa chiến tranh, nó được nối dài như một phương tiện, tức bị giản lược thành một thứ vũ khí. Thân xác trở thành vũ khí để hủy diệt thân xác khác. Một khi thân xác bị lược giản trở thành vũ khí thì làm sao có thể thúc đẩy cải tiến phát triển xã hội. Chưa từng thấy bom đạn hoặc tên lửa tạo nên một trường học, một mái ấm gia đình, hay một khu vườn bướm hoa, một cánh đồng lúa trĩu hạt . Ai cũng biết, bom đạn và tên lửa chỉ khiến cho mọi thứ sụp đổ, tàn hoang, chết chóc!

Mang ý hướng thúc đẩy tiến bộ xã hội, bạn đọc có thể thấy từng trang viết của Giáo sư Nguyễn Văn Trung mang lại một góc nhìn về thực trạng chiến tranh ở miền Nam 1954-1975, đồng thời bộc lộ chút tâm tình gắn bó với vận mệnh dân tộc.

Khai phóng giá trị hay dân tộc và nhân tính

Có thể nói ngay rằng, tinh thần khai phóng biểu thị ở sự bênh vực cho con người, kiến tạo và củng cố giá trị Người. Con người phàm tục như vốn dĩ không hề tách rời thân xác. Con người đang hụp lặn trong chính nỗi khổ niềm đau trước mắt, chứ không phải con người lý tưởng, không phải con người luân lý, không phải con người “siêu nhân”. Giáo sư Nguyễn Văn Trung thể hiện tấm lòng đồng cảm, thương xót và thấu hiểu những nỗi thống khổ nhân sinh. Trong “Ca tụng thân xác” (ở các tiểu mục Cái chết của người thân yêu, Cái chết của dân nghèo nhược tiểu) cũng như trong bài viết ngắn “Tự tử”, ông có nhắc đến những người bi quan, tuyệt vọng tìm đến cái chết. Thế nhưng, thay vì đứng về phía các giáo sĩ hay các nhà luân lý để chỉ trích hành vi tự sát, ông phân tích cặn kẽ để thấu hiểu bản chất hành vi ấy. Cớ vì sao người ta tìm đến cái chết. Và, sau khi soi rọi bằng thấu kính của nhà trí thức tiến bộ, ông nhận rằng những chỉ trích của các nhà luân lý đối với hành vi ấy kỳ thực lại rất “vô nhân”. Ngược lại, phải đứng bên cạnh con người, chiêm nghiệm cái tình thế con người, để đối thoại với con người. Khai phóng chính ở tinh thần đối thoại và thấu hiểu như thế. Vì rằng, từ thông mới có thể đến cảm–  sự hiệp thông đó rất Người, cũng tức là rất nhân đạo và nhân bản vậy! Ngoài ra, khai phóng còn gắn liền nhân bản và công bằng xã hội – góc nhìn tiến bộ của Giáo sư Nguyễn Văn Trung trong “Ca tụng thân xác”.

“Thiết tưởng tội nặng nhất phải là tội vi phạm công bình xã hội và tội dâm dục sẽ nặng nhất khi có liên quan đến phép công bằng. Hai người yêu nhau dù trái phép đạo và đời nhưng chính họ ưng thuận nhau và chẳng gây thiệt hại cho ai thì thật là tế nhị, khó khăn khi phải xác định tội. Nhưng nếu họ có con với nhau rồi lừa gạt, bỏ trốn đi thì lúc đó mới thật là khốn nạn, thật là nặng tội” (tr.15).

Xác thịt chỉ là phương tiện cho ý hướng sống trải nào đó của tinh thần, và với lẽ đó, nó không đáng bị hạch tội. Thứ nữa, xác thịt như một phương tiện và tự thân, nó không có thiện ác. Thiện ác nằm ở cái tinh thần sử dụng phương tiện vào mục đích thiện hay ác. Ở đây, bên cạnh vấn đề thân xác, Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã chỉ ra bản chất thiện ác – điều chỉnh cách nhìn nhận của con người về thiện ác. Nhận thức sai lạc về thiện ác cũng là một tội ác. Và, từ vấn đề thiện ác, chuyên luận của ông còn đi tới vấn đề thân phận con người. Ở đó, thân xác cơ hồ là “người bạn đường nguy hiểm” chực chờ phản trắc lại tinh thần. Hai thực tại hàm hồ, khác biệt (Tinh thần và Thân xác) phối hợp mầu nhiệm thành ra thân phận con người trên cuộc đời này. Hay nói khác, ông muốn đi đến tận cùng bản chất cuộc hiện hữu của con người.. Nên chăng, thân xác chỉ là một ngả đường mà Giáo sư Nguyễn Văn Trung bước vào để đi tới vấn đề cốt lõi của con người. Tức truy nguyên về nhân tính. “Ca tụng thân xác” trước hết là một vấn đề nhân bản. Khai phóng đứng về phía con người – những người tồn tại thực bằng xương bằng thịt.

Giáo sư Nguyễn Văn Trung xuất phát từ những vấn đề “trần trụi” nhất, nhưng lại hướng người đọc đến bình diện “thánh thiện” nhất. Ông kêu gọi tìm kiếm một nghĩa lý xứng đáng cho đời sống. “Vậy nếu chết không giải quyết được vấn đề, phải tìm cho đời có một ý nghĩa đáng sống”[4]. Nếu cuộc sống vốn dĩ đã không thể tìm lối thoát ở cái chết như biểu thị sự tự do duy nhất và cuối cùng, thì hãy tìm cho nó một nghĩa lý để đời sống không sa vào hư vô! Đó quả là một lời khuyên hữu ích, lạc quan và đầy niềm tin tưởng.

Lạc quan, tin tưởng và chủ động nữa! Thân xác không phải một bản án mà có lẽ, là một thái độ phản ứng. Từ chỗ nhìn nhận, thân xác tức là “thân xác tôi”, nhà trí thức họ Nguyễn đã nhìn thấy tính chất tự do; có thể nói là tự do tuyệt đối của thân xác trong biểu hiện vận động đời sống. Chí ít, tính dục là hành vi biểu thị tự do cuối cùng của con người; hoặc có thể nói là tự do rất cơ bản của con người. Nhưng, ngay liền đó, Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã trưng ra bản diện bi đát của sự tự do đó. Bi đát không phải vì hành vi tính dục là tự do căn bản mà bi đát, vì con người phải tìm về tự do tính dục căn bản này do sự bất lực trước nỗi bí bách đời sống phủ trùm hầu như mọi phương diện (từ chính trị, tôn giáo, văn hóa, kinh tế, giáo dục, …). Thế thì, có phải, chỉ những kẻ quẫn bách mới ráo riết tìm kiếm tự do tính dục? Phải chăng, vì họ chẳng còn tự do nào khác, nên phải tìm đến nhục cảm như trải nghiệm tự do cuối cùng? Điều này, liệu rằng có phải vừa là nguyên nhân và đồng thời, cũng vừa là hậu quả của yếu tố tính dục tràn lan trong văn chương ở đô thị miền Nam trong giai đoạn 1954-1975?

“Trong ý nghĩa đó, sự tự do tuyệt đối về dục tính được trình bầy trong một vài khuynh hướng văn chương và triết lý hiện nay phải chăng chỉ là một phản ứng bù trừ của một cá nhân hoàn toàn bất lực về xã hội, chính trị. Khi con người bị đẩy vào một tình cảnh nô lệ dưới mọi hình thức: chính trị, tôn giáo, xã hội, văn hóa, kỹ thuật, máy móc, v.v… thì chẳng lạ gì khi thấy con người đó lao mình một cách tuyệt vọng vào cứ điểm tự do cuối cùng còn lại là sinh hoạt dục tình” (tr.142).

Qua đó, phần nào người đương thời hình dung được khuynh hướng phản ánh tính dục trong văn chương 1954-1975 đô thị miền Nam. Hiểu được, rằng vì sao trang văn thời ấy thường chỉ quanh quẩn trong tâm tưởng nhân vật, ở trong phòng, hoặc trên giường… Lời nhận xét của Giáo sư Nguyễn Văn Trung còn khiến ta nghĩ đến một số biểu hiện cực đoan của việc sử dụng yếu tố tính dục trong văn học nghệ thuật đương thời (một trong số nguồn ảnh hưởng không thể không nhắc đến chính là văn học mạng một số nước Đông Á, như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản). Dục tính trên trang văn hôm nay kỳ thực không biểu thị một vấn đề xã hội, chính trị; trước hết biểu thị một vấn đề trong nội tại tinh thần lực lượng sáng tác. Có những lầm lạc, lạm dụng vấn đề thân xác hay không? Vấn đề này, tự thân mỗi độc giả hẳn có nhận xét riêng. Nhưng, dục tính tràn lan trên trang viết hôm nay là điều có thể dễ dàng nhận thấy. Như vậy, ta hoàn toàn có lý do để nghĩ đến việc sử dụng yếu tố thân xác trong văn chương sao cho nâng cao giá trị Người chứ không chỉ đơn thuần là một phản ứng lại sự bí bách của tâm hồn.

Trên phương diện xã hội, Giáo sư Nguyễn Văn Trung cho ta thấy: thân xác con người ngày càng trở nên thừa thải. Đó là, một thực tế không thể phủ nhận. Thảm cảnh thừa thải của thân xác người càng cay đắng hơn bởi nguyên do đến từ chính đồng loại. Người thừa chẳng phải vì dôi ra khởi sinh cảnh, mà vì bị đồng loại đẩy ra ngoài sinh cảnh. Từ đó, mới thấy, vấn đề người thừa đã góp phần bộc lộ tâm tính con người. Tức là, ẩn đằng sau những thân xác ấy là một sinh thể méo mó nhân cách – tức một nhân tính bở nát chưa được cương kiện, thành toàn. Như vậy, “ca tụng thân xác” đưa tới một nhận thức về nhân sinh – nhân tính, đặt ra truy vấn về giá trị người. Con người (phần người và phần con) với thân xác người đã thực đủ tính người hay chưa?

“Đáng lẽ, loài người với nhau, chỉ nguyên sự có mặt của người đồng loại, không cần hữu dụng hay giúp ích gì, cũng đã là một giá trị, một điều đáng quý rồi. Thế nhưng trong thực tế, người đã là thừa đối với người. Không phải vì mặt đất này không còn đủ chỗ ở hay đã cạn tài nguyên, nhưng chỉ vì ích kỷ hoặc bất công, tàn nhẫn … Con người làm ra kỹ nghệ, lo lắng tận dụng đồ vật thừa, phế thải: tại sao không lo lắng tận dụng người đồng loại? Phải chăng những người thi trượt, những người thất nghiệp, những người tàn phế và những người nghèo cực, chui rúc gầm cầu, góc phố, không quý bằng vỏ chai, nước bẩn, sắt vụn han gỉ, và mỉa mai hơn nữa không bằng chính phân người sao?” (tr.153).

Sao chẳng thừa nhận người là một loại tài nguyên – dẫu chỉ là một thứ “sức kéo”, dẫu chỉ là một khối bị thịt, dẫu chỉ là một nhúm sinh lý – nhưng chí ít còn được thừa nhận. Đằng này, người với người đã không thừa nhận lẫn nhau, mặc dù là những đồng loại của nhau. Thực trạng dễ nhìn thấy ở các nước phát triển, phần nhỏ dân số nắm giữ phần lớn của cải xã hội. Tức là lòng ích kỷ, thói tham lam vô độ đã khiến cho cuộc sống bị thu rút lại đến nỗi không đủ chỗ cho tất cả mọi người, dẫn đến trạng thái phi nhân phổ biến.

Bên cạnh phân tích hiện trạng nhân sinh và giá trị nhân tính, tinh thần khai phóng của Giáo sư Nguyễn Văn Trung không tách rời tình tự dân tộc, tự tôn dân tộc. Giáo sư không che giấu nỗi đau thầm kín của người dân mất nước. Khi người đàn bà của dân tộc mình trở thành bị thịt mua vui cho ngoại kiều, hay những kẻ ngoại xâm đến giày xéo quê hương, Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã biết xót cho những người đàn bà Việt, lại thêm hổ thẹn cho những người đàn ông Việt đứng gác cho vợ bán thân. Từ vấn đề thân xác người đàn bà bán thân cho quân xâm lược, ông cho rằng đó là một vấn đề chính trị và dân tộc, chứ không còn là vấn đề hoàn cảnh khó khăn của cá nhân nữa.

“Nhưng tại sao có những người đàn bà buộc phải giữ vai trò bổ túc đó; nghĩa là bị giản lược vào cái máy xác thịt thỏa mãn người khác? Tình cảnh thất nghiệp túng bấn vì những chênh lệch xã hội hay tình cảnh chiến tranh đã thúc đẩy những người đàn bà bước vào nghề mãi dâm để sinh sống, nuôi gia đình, như phương kế độc nhất và cuối cùng bi đát hơn nữa là trường hợp vì túng bấn, chồng ưng thuận cho vợ đi làm điếm với ngoại kiều, còn chính mình đứng canh gác cho vợ làm việc. Khi cả một lớp người mẹ, người chị, người em gái buộc phải lao mình vào nghề bán dâm vì một hoàn cảnh chiến tranh lâu dài, với sự có mặt đông đảo của lính tráng ngoại quốc, thì vấn đề vong thân của người đàn bà bị coi như một xác thịt không còn phải chỉ là một vấn đề tâm lý, xã hội mà đã trở thành một vấn đề chính trị, một vấn đề sống còn của dân tộc” (tr.88-89).

Qua đó, ta có thể thấy ưu tư của Giáo sư trước hiện trạng mại dâm thời ấy của những cô gái Việt. Sâu xa hơn, ông đã nhận thấy đế quốc, chiến tranh và hoàn cảnh bom đạn, ít nhiều đã đẩy những cô gái Việt, những người đàn bà Việt đến bước đường bán thân, tức là tổn hại đến tự tôn dân tộc mà mỗi người (còn chút ý thức dân tộc) phải thấy hổ hẹn. Đó vừa là tình cảm nhân đạo rất con người, vừa là tình cảm dân tộc với nghĩa đồng bào trong “Ca tụng thân xác”.

Thân xác trong “Ca tụng thân xác” còn đề cập đến Dân tộc – Giai cấp – Đấu tranh giai cấp. Từ kinh nghiệm màu đen, Giáo sư Nguyễn Văn Trung chỉ ra thái độ khinh miệt, kỳ thị đối với vấn đề màu da. Rộng hơn, đó là một thái độ phủ nhận nhân tính và nhân quyền. Thế rồi, Giáo sư truy tìm nguồn gốc của sự kỳ thị đó, cũng như chỉ ra vấn đề vượt ra ngoài màu da: nô lệ thuộc địa. “Vậy người da đen cũng như người da vàng bị kỳ thị không phải vì là màu đen, màu vàng, nhưng vì là nô lệ vô sản, người thuộc địa” (tr.101). Vấn đề thân xác đưa tới vấn đề rộng lớn hơn, bản chất hơn, và cấp thiết hơn: dân tộc – giai cấp. Thế nên, “ca tụng thân xác” trở thành sự nhận thức thúc đẩy tranh đấu chống bất công, áp bức và xâm lược – hay đấu tranh chống đế quốc và đấu tranh giai cấp.

“Một phong trào tranh đấu cho sự bình đẳng chủng tộc chỉ hoàn toàn hạn chế trong lãnh vực pháp lý dân quyền có thể là giả dối hay vô ích nếu không bao hàm một tranh đấu cho sự thăng tiến xã hội; nghĩa là tranh đấu xóa bỏ thực sự những bất công, áp bức cho tầng lớp những người nghèo khổ, vô học thoát khỏi cảnh nghèo khó của họ” (tr.101).

Về khía cạnh này, hẳn người đọc sẽ phát hiện điểm tương đồng, gần gũi ở tinh thần khai phóng của Giáo sư Nguyễn Văn Trung với chủ nghĩa bình đẳng (Egalitarianism) mà chúng ta đã thấy ở phong trào cách mạng Ấn Độ nửa đầu thế kỷ XX (song hành đấu tranh chống thực dân Anh và đấu tranh đòi bình đẳng cho tầng lớp “chẳng đáng chạm tới”/ untouchables). Tựu trung, từ vấn đề thân xác, Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã hướng người đọc đến vấn đề vận mệnh dân tộc. Trong đó, đấu tranh chống xâm lược và đấu tranh giai cấp không tách rời. Mục tiêu là hướng đến một xã hội văn minh, công bằng, tiến bộ, phát triển, hòa nhập vào dòng chảy văn minh thế giới.

Thay lời kết:

Tinh thần khai phóng trong “Ca tụng thân xác” của Giáo sư Nguyễn Văn Trung ở chỗ muốn đi đến tận cùng nghĩa lý của hiện hữu. Sự có mặt của tôi, của một “ý thức tôi” có thể mang lại nghĩa lý gì? Bao trùm với tần suất dày đặc là lời tự truy vấn về việc đời này có đáng sống hay không[5]; tinh thần khai phóng của Giáo sư Nguyễn Văn Trung trước hết là tự khai phóng, sau đó mở rộng ra đến tha nhân, xã hội, văn hóa, chính trị, dân tộc, nhân bản, …. Không ai có thể làm thay ai trong việc khai phóng, có chăng, chỉ là mồi lửa để mỗi cá nhân kích hoạt quá trình tự khai phóng. Mỗi người phải là chủ thể thực hiện sự khai phóng trong cuộc đời mình. “Hành trình trí thức” của Giáo sư Nguyễn Văn Trung là minh chứng sống động cho điều này.

Hầu như cả cuộc đời Giáo sư Nguyễn Văn Trung không ngừng hiện thực hóa tinh thần khai phóng bằng chữ nghĩa. Trang sách của giáo sư họ Nguyễn xuyên suốt nhất quán với một tinh thần khai phóng, khởi đi từ ưu tư căn bản của cuộc hiện hữu. Sự truy vấn nghĩa lý Thiên Chúa, sự bí nhiệm của tôn giáo và sự hiện hữu bằng xương bằng thịt của con người, … là những nguyên động lực góp phần hình thành tinh thần khai phóng trong sự nghiệp trứ tác của ông. Do đó, tinh thần khai phóng biểu thị bàng bạc với trữ lượng và chiều hướng khác nhau trong toàn bộ sự nghiệp của ông. Có ít nhất hai dòng chảy bồi tụ trong tinh thần khai phóng của Giáo sư Nguyễn Văn Trung: dòng chảy khai sáng và hiện sinh đã hiệp thông để xuôi về biển cả qua ba cửa: nhận thức mới, tiến bộ xã hội, dân tộc và nhân bản.

Và, có thể nói rằng, trong số những giáo sư đại học ở miền Nam trước 1975, có lẽ, Giáo sư Nguyễn Văn Trung là người trí thức thao thức, dũng cảm và quyết liệt dấn thân với lập trường kiên định: đấu tranh cho sự tiến bộ của xã hội và con người bằng tất cả tinh thần khai phóng đứng về phía con người và dân tộc Việt!.

Chú thích:

[1] Nguyễn Văn Trung (1960). Gửi anh em trong “nhóm Sáng Tạo”. Bách Khoa số 94 (01/12/1960), tr.39 (38-44).

[2] Nguiễn Ngu Í (1960). Phỏng vấn giáo sư Nguyễn Văn Trung – Trưởng ban Tổ chức Đại học Hè 60 tại Đà Lạt (II-6 đến 27-6-1960). Bách Khoa số 84 (01/7/1960), tr.98-99 (98-100).

[3] Nguyễn Đăng Thục (1970). Tư tưởng Việt Nam với triết học hiện đại. Tư Tưởng Bộ Mới Năm thứ Ba số 1 (ngày 01/5/1970), tr.54 (35-54).

[4] Hoàng Thái Linh/ bút danh của giáo sư Nguyễn Văn Trung (1957). Tự tử. Bách Khoa số 19 (15/10/1957), tr.16 (11-18).

[5] Xem Phụ lục bài Tự tử, tác giả giáo sư Nguyễn Văn Trung.

18/10/2024
Trần Bảo Định

Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XXXXXXMột giải phẫu về bản chất bạo lực tồn tại trong con người

Một giải phẫu về bản chất bạo lực tồn tại trong con người Tiểu thuyết “Bản chất của người”, thể hiện tài năng của Han Kang khi viết về nhữ...