Có một vầng trăng trong thi ca
Th.S Lê Tấn Thích
1. Không
biết tự bao giờ, ánh trăng đã là nguồn cảm hứng bất tận muôn đời của các thi sĩ
văn nhân. Có thể gọi đấy là mối lương duyên suốt đời mà ông tơ bà nguyệt đã dành
cho họ. Trong cảm quan của nhà nghệ sĩ, trăng không đơn thuần là nguồn sáng
trong đêm mà đã trở thành một hình tượng nghệ thuật độc đáo. Ở đó, nó đã trở
thành một âm hưởng đa thanh có sức ám ảnh, xoáy sâu vào tâm hồn khơi gợi cho
người đọc nhiều xúc cảm về chiến tranh và hòa bình, hạnh phúc và khổ đau, quê
hương và gia đình, kể cả tình yêu và thân phận con người…
Theo
quan niệm của người xưa trong văn học trung đại, con người là một “tiểu vũ trụ” trong lòng “đại vũ trụ”, con người và đất trời có thể
hòa hợp với nhau trong mối tương cảm, tương thông (thiên - nhân tương dữ, thiên
- nhân tương cảm). Theo đó, trăng trong văn học trung đại không vĩnh hằng bất
biến như trong ca dao (Trăng bao nhiêu
tuổi trăng già, núi bao nhieu tuổi gọi là núi non), cũng chẳng huyền bí xa lạ như trong thần thoại, sử
thi của văn học dân gian mà gần gũi, thân thiết với con người. Mặt khác, trăng
- với lí tính khách quan của nó - là mang đến ánh sáng mát mẻ huyền diệu cho
con người và cuộc đời trong đêm đen, khi bước vào địa hạt thơ ca đã trở thành
một hình tượng nghệ thuật thực sự, được miêu tả khá độc đáo và sắc nét. Ở đây,
nó đã được các nhà thơ vận dụng trong trường liên tưởng một cách tinh tế, sáng
tạo. Có thể đấy là tuổi xuân, hạnh phúc, là vẻ đẹp, niềm vui, là nỗi buồn cô
đơn tuyệt vọng, đôi khi là một người bạn, người tình yêu dấu…
2.
Đọc thơ các nhà thơ trung đại, ta thường chứng kiến cảnh những chinh phụ, cung
nữ, thục nữ hay ngồi một mình vọng trăng, thưởng nguyệt trong đêm dài. Trăng ở
đây không phải là “trăng viên mãn” tròn đầy, “trăng vàng trăng ngọc” mà là “trăng
tàn”, “trăng khuyết”, “trăng xẻ làm đôi”... Trăng ở đây cũng chính là cuộc đời
nhiều dở dang, bất hạnh của họ. Đó là cảnh nữ sĩ Hồ Xuân Hương trong đêm khuya
thanh vắng, một mình uống rượu mong giải buồn nhưng say rồi lại tỉnh, tỉnh ra
lại càng buồn hơn. “Vầng trăng bóng xế
khuyết chưa tròn” (Tự tình II) cứ
như nhắc nhớ thi nhân rằng tuổi trẻ, tình yêu đang trôi qua mà nhân duyên chưa trọn
vẹn. Đó là cảnh nàng Kiều khắc khoải cô đơn trong đêm trường lạnh giá khi chia
tay với Thúc Sinh - cũng là vĩnh
viễn chia li với hạnh phúc “chỉ ấm trôn kim” mà nàng vừa có được: “Vầng trăng ai xẻ làm đôi/ Nửa in gối chiếc
nửa soi dặm trường” (Truyện Kiều -
Nguyễn Du). Đó cũng là cảnh những người cung nữ, chinh phụ trong những đêm
dài xa vắng người thương, nhìn trăng hoa giao hòa quấn quýt: Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm/ Nguyệt
lồng hoa hoa thắm từng bông/ Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng (Chinh phụ ngâm khúc - Đoàn Thị Điểm dịch)
mà thức dậy những khát khao mãnh liệt về hạnh phúc ái ân chồng vợ - khát vọng đầy tính nhân bản, nhân
văn.
Có
thể nói, trăng hiện lên qua cái nhìn của những người phụ nữ đa tài, đa tình
nhưng cũng lắm đa truân này không có cái lãng mạn, thơ thới, ấm áp giao hòa mà
lúc nào cũng vàng rười rượi, cũng “lạnh lẽo buốt xương da”, cũng u ám hắt hiu
và lắng đượm vẻ buồn - bởi ngoại
cảnh đã là tâm cảnh. Trăng gợi nhớ hạnh phúc, niềm vui ở họ dẫu có cũng chỉ
thảng hoặc thoáng qua trong giây lát, không làm vơi đi vết thương lòng mà càng
khắc sâu thêm nỗi tủi hổ bẽ bàng của phận hẩm duyên ôi. Nó như hơi cháo hành
của Thị Nở thoang thoảng hiện ra trong lúc Chí Phèo rơi vào cơn tuyệt vọng cùng
cực của tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Nó như chiếc lá Diêu bông của
Hoàng Cầm hiển hiện đấy mà xa vời đấy. Nó hiện ra như để trêu ngươi họ, chọc
tức họ, đẩy họ vào nỗi đau đớn tột cùng. Nhìn “nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng” quấn quýt mà lòng ngổn ngang
những khát vọng, bộn bề những nỗi đau. Ngẫm lại thấy mình “loay hoay trong cảnh
cô độc giữa đất trời vô tình” mà cảm thương cho thân phận mình”: Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng/ Trước hoa
dưới nguyệt trong lòng xiết đau (Chinh phụ ngâm khúc - Đoàn Thị Điểm dịch). Ánh trăng. Khát vọng và tuyệt vọng.
Cái chập chờn không biên giới giữa thực và mộng, giữa hạnh phúc và khổ đau,
niềm vui và nỗi buồn, đoàn viên và li biệt. Càng kiếm tìm càng lẩn trốn. Càng
đến gần càng lùi xa để cho nỗi lòng khát khao hạnh phúc, tình yêu của những
người phụ nữ đa tài, đa tình, đa truân này lâm vào vĩnh viễn đau thương
Có thể thấy,
trong các tác phẩm văn học thời kì này, ánh trăng có một vị trí đặc biệt quan
trọng trong việc thể hiện tâm trạng của các nhân vật trữ tình. Nó đã trở thành
một thứ không gian nghệ thuật “gắn liền
với ý niệm về sự cảm nhận về giá trị của con người …, là một hiện tượng tâm
linh nội cảm chứ không còn là hiện tượng địa lí, vật lí…” (Trần Đình Sử).
Nó đã được nội tâm hóa rõ rệt, mang đậm màu sắc tâm trạng và thấm đượm tình cảm
con người.
“Có những
ngày tuyệt vọng cùng cực”, các thi nhân -
Nho sĩ, chí sĩ yêu nước - trở về
làng quê với nỗi lòng giông bão mang theo tấn bi kịch của thời đại in dấu trong
từng sáng tác của mình. Ta thường bắt gặp cảnh các thi nhân hay ngồi một mình
trong cô tịch của đêm dài. Ẩn tình của những ẩn sĩ bất đắc dĩ. Một tấc lòng ưu
ái với dân, tận trung với nước đã không còn hợp thời thế. “Đời loạn đi về như hạc độc, tuổi già hình bóng tựa mây côi” (Nguyễn
Khuyến). Tuổi già, sợ cô độc, trốn tránh cô độc, càng cô độc. Duy chỉ có vầng
trăng kia như người bạn cố tri đã không dửng dưng trước sự cô quạnh đơn chiếc
của thi nhân trong lúc lao lung này. Trăng đã chủ động đến với thi nhân để làm
dịu đi cái tối tăm trong “năm gian nhà cỏ”, “ngõ tối đêm sâu ” để tô điểm cho
nét thu thêm huyền ảo: “Lưng giậu phất
phơ màu khói nhạt/ Làn ao lóng lánh bóng trăng loe” (Thu ẩm - Nguyễn Khuyến) và cũng là để xoa dịu nỗi cô đơn trầm mặc
của một nỗi lòng lắm những ưu tư thời thế: “Nước
biếc trông như từng khói phủ/ Song thưa để mặc bóng trăng vào” (Thu vịnh - Nguyễn Khuyến). Cũng như
vậy, thi nhân đến với trăng để tìm một sự lãng quên, nhưng nào có quên được.
Lòng thi nhân còn quá bận rộn với sự đời. Càng nhìn trăng càng xót xa đau đớn
mà chạnh nỗi ai hoài cố quốc: “Năm canh
máu chảy đêm hè vắng/ Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ/ Có phải tiếc xuân mà
đứng gọi/ Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ” (Cuốc
kêu cảm hứng - Nguyễn Khuyến) lại càng tủi nhục cho phận kẻ làm trai không
cứu được nước, giúp được dân: “Xuân ơi
xuân, xuân có biết cho chăng/ Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng/
Hai mươi năm lẻ đã từng chua với xót” (Bài
ca chúc Tết thanh niên - Phan Bội Châu). Điều đó đã cho ta thấy ánh trăng trong văn học trung đại không chỉ đơn
thuần là ánh trăng của vũ trụ thiên nhiên mà còn chính là tấm gương phản chiếu
đời sống nội tâm phong phú, phức tạp của các nhân vật trữ tình. Nó đã trở
thành “vầng trăng nghệ thuật… làm say mê
lòng người không chỉ vì cái ánh sáng huyền diệu và vẻ đẹp lung linh mà chính là
ở cái tình bao la của nó đưa người đọc trở về giao hòa với thiên nhiên vũ trụ
và trở về với quan niệm thẩm mĩ mang nét đẹp nhân văn của người phương Đông
(thiên nhân tương dữ) đã có tự ngàn xưa” (Hồ Thúy Ngọc).
3. Từ
những năm đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, xã hội Việt Nam có
nhiều thay đổi lớn lao. Sự gặp gỡ, giao lưu văn hóa phương Tây đã mang lại
những biến đổi sâu sắc trong ý thức và tâm lí của con người. Đúng như Hoài
Thanh nói: “Tình chúng ta đã đổi mới, thơ
chúng ta cũng phải đổi mới”(Hoài Thanh). Sự thức tỉnh của ý thức cá nhân,
của khát vọng “cởi trói” đã mang lại một diện mạo mới cho văn học thời kì này. Ánh
trăng đến đây không còn được miêu tả theo lối ước lệ tượng trưng như thời kì
trước mà đã được các tác giả thổi hồn vào làm cho nó thực sự trở thành một chủ
thể mang một sức sống mới, một màu sắc cá thể hóa rõ rệt, cao độ. Trăng cũng
như người, biết chờ đợi, hẹn hò, có tâm trạng vui, buồn, cô đơn khi xa cách… Trăng
ở đây đã là em, là nàng, là biểu tượng của cái đẹp, là nguồn cảm hứng khơi gợi sáng tạo bất tận
của các thi nhân. Dễ thấy trong thơ Xuân Diệu bàng bạc một thế giới ánh trăng
lung linh huyền ảo với đủ mọi hình hài dáng vẻ và trạng thái cảm xúc. Đó là
trăng ngà, trăng ngần, trăng sáng, trăng xa, trăng mộng, trăng vú mộng, trăng
tàn, trăng lạnh… Trăng cơ hồ đã trở thành hóa thân của nhà thơ - một tâm hồn cô đơn muốn tìm chỗ ẩn
tựa nương mình: “Trăng nhập vào dây cung
nguyệt lạnh/ Trăng thương trăng nhớ hỡi trăng ngần” (Nguyệt cầm), nhưng nào có thoát được, “càng lên cao càng thấy
lạnh”, càng trốn chạy lại càng buồn mà sinh ra những giọt trăng, giọt đàn nước
mắt: “Đàn buồn đàn lạnh ôi đàn chậm/ Mỗi
giọt rơi tàn như lệ ngân” (Nguyệt
cầm) để càng cô đơn và càng nhớ người thương: “Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người”. Không biết có phải vì trở
thành hóa thân của nhà thơ hay không mà trăng trong thơ Xuân Diệu rất nhạy cảm
với bước đi của thời gian, nhất là trong những thời khắc chuyển mùa. Thu đến,
thu đi là lẽ đương nhiên của trời đất, vậy mà trăng - như người con gái đẹp
- buồn nỗi buồn u uẩn, se xót, lạnh lẽo, xa xôi: “Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ/ Non xa khởi sự nhạt sương mờ/ Đã
nghe rét mướt luồn trong gió/ Đã vắng người sang những chuyến đò” (Đây mùa thu tới).
Trong số các nhà thơ Mới, có lẽ không ai viết
về trăng nhiều và hay như Hàn Mặc Tử. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, quả đúng như nhận xét:
“Trăng, toàn trăng, một ánh trăng gắt
gao… linh động lòng người. Trăng ở đây cũng ghen, cũng giận, cũng cay nghiệt,
cũng trơ tráo và cũng nao nức dục tình…” (Hoài Thanh). Trong thơ Hàn Mặc Tử,
trăng không những được thi vị hóa, nhân cách hóa như nhiều nhà thơ khác mà còn
được hiện thực hóa ngay trong cái không khí thi vị ấy. Trăng giăng mắc khắp cả
không gian, thời gian của sự sống (Không gian
dày đặc toàn trăng cả/ Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng – Huyền ảo). Trăng là áo quần để mặc (Áo
ta rách rưới trời không vá/ Suốt bốn mùa trăng mặc vải trăng - Lang thang), là rượu để uống (Bóng Hằng trong chén ngả nghiêng)… Quan
trọng hơn, trăng đã là nàng – người con gái xuân thì lơi lả (Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu/ Đợi gió
đông về để lả lơi – Bẽn lẽn; Mới lớn lên trăng đã thẹn thò/ Thơm như
tình ái của ni cô – Huyền ảo). Có thể nói trăng trong thơ Hàn Mặc Tử
đâu còn là một khách thể mà đã trở thành một bản ngã ở trong thơ. “Nó đã hòa quyện vào từng tế bào nơi cơ thể và
độ sâu thẳm của tâm linh. Nó có khả năng vỗ về, yêu đương, đối thoại như một
hiện hữu người”. Và hơn thế, nó như một cứu cánh, một biểu tượng tuyệt mĩ mà
thi nhân khát khao có được. Chẳng thế mà khi bị đày vào “lãnh cung của sự chia
lìa”, cái hố sâu ngăn cách của một tấm tình yêu đơn phương vô vọng, của một
thân phận mặc cảm đang bị giày vò bởi thân xác đớn đau, nhà thơ ước ao trăng về
như một cứu tinh, cứu chuộc, một điểm tựa duy nhất để hóa giải trạng huống đau
thương: Gió theo lối gió, mây đường mây/
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay/ Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng
về kịp tối nay ? (Đây thôn Vĩ Dạ).
Đúng như ai đó đã nói, trăng trong thơ Hàn Mặc Tử “được kết tinh như hạt muối,
vừa có vị mặn của muối, vừa có vị mặn của đời”.
4. “Văn
học là nỗi buồn về cái đẹp¨” (Lê Ngọc Trà). Có phải vì thế mà ánh trăng trong
những tác phẩm trên dù được miêu tả rất đẹp nhưng hiếm thấy để diễn tả dẫu chỉ
một niềm vui, trái lại váng vất bao nỗi buồn biệt li muôn thuở. Điều này có vẻ
đã thay đổi ở những tác phẩm văn học từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 trở đi.
Nói như Chế Lan Viên, văn học Việt Nam đã đi “từ thung lũng đau thương ra cánh
đồng vui”. Ánh trăng từ chỗ chứng nhân cho bao nỗi buồn và nước mắt biệt li
thuở nào, do vậy, đã không còn hợp thời thế mà đã mang một ý nghĩa xã hội và tư
tưởng nhân sinh sâu sắc. Nếu trong thơ cổ, các nhân vật trữ tình đến với trăng
khi đã chán chường thế cuộc, xem nó như là đối tượng để thở than, là liều thuốc
lãng quên để vơi đi nỗi buồn cô đơn tuyệt vọng sau bao mệt mỏi, thăng trầm thì đến
đây, trăng dù ở cảnh ngộ nào cũng là nguồn cảm hứng khơi dậy những xúc cảm lành
mạnh, trong sáng. Trăng trong các tác phẩm thời kì này nằm trong cảm hứng bao
trùm của tình yêu quê hương đất nước, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc
cá nhân - cái riêng - với thế giới con người đang lao động,
đấu tranh, với chủ nghĩa anh hùng cách mạng - cái chung. Cho nên dù thân thiết quá đỗi nhưng khi nhiệm vụ chưa hoàn
thành thi nhân cũng không thể hoàn toàn thư thái đến với trăng: Trăng vào cửa sổ đòi thơ/ Việc quân đang bận
xin chờ hôm sau (Tin thắng trận – Hồ
Chí Minh) mà phải chờ xong công việc mới thanh thản đón nhận nó: “Giữa
dòng bàn bạc việc quân/ Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”.
Có
một điều thú vị, trong các tác phẩm văn học thời kì này, trăng dù nhiều khi
không viên mãn, tràn đầy (trăng tàn, trăng khuyết) nhưng bao giờ cũng đẹp, cũng
gợi lên niềm vui sống lạc quan, lí tưởng. Đó không phải là chuyện ngẫu nhiên mà
do thế giới quan cách mạng của nhà thơ chi phối. Giờ đây, trăng là biểu tượng
của cuộc sống thanh bình yên vui, của đất nước giàu truyền thống văn hóa dân
tộc được kết tinh trong vẻ mặt của người mẹ Kinh Bắc (Lửa đèn leo lét soi tình mẹ/ Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng - Bên
kia sông Đuống - Hoàng Cầm), trong cuộc sống yên vui hòa hợp ấm áp nghĩa
tình của tình quân dân cá nước (Rừng thu
trăng rọi hòa bình/ Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung - Việt Bắc - Tố Hữu). Nhiều khi trăng
là môi trường thử thách người lính trong những giờ phút cam go, khắc nghiệt và
đồng thời cũng là đồng chí, đồng đội sát cánh bên nhau: Đêm nay rừng hoang sương muối/ Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới/ Đầu
súng trăng treo (Đồng chí - Chính
Hữu). Trăng ở đây không chỉ là một vật thể thiên nhiên vừa gợi yếu tố thời
gian, vừa chỉ một không gian nghệ thuật trữ tình lãng mạn, đầy thi vị mà còn tượng trưng cho sự thanh bình của đất nước quê hương đồng thời còn cho thấy mục đích
lí tưởng của cuộc kháng chiến: chiến đấu cho ánh trăng mãi nghiêng cười trên
đỉnh núi. Qua đó cho thấy tư thế, phẩm chất của nhân vật trữ tình - người chiến sĩ - thi sĩ trong bài thơ: bình tĩnh, ung dung, lạc quan, dũng cảm,
lãng mạn ngay trong cả khó khăn gian khổ.
5.
Qua việc khảo sát hình tượng trăng, ta thấy được tài năng độc đáo của các nhà
thơ. Mỗi vầng trăng như mỗi chiếc đinh để treo lên đó những bức tranh tâm
trạng, số phận, mảnh đời của nhân vật trữ tình. Càng về sau, ánh trăng càng có
thêm nhiều nét nghĩa mới. Dù không mới mẻ (chỉ có một) nhưng qua trái tim và
khối óc của các nhà thơ - những bậc
thầy về ngôn từ - trăng đã thoát ra khỏi ý nghĩa cũ càng để tạo
nên những bình diện nghĩa mới mang lại hiệu quả thẩm mĩ ngoài mong muốn, tạo nên
sức cảm thụ mạnh mẽ, cứ khắc khoải nơi đáy lòng của người đọc, của những người
đã từng yêu dấu, từng kì vọng khát khao: “Chỉ
có trăng sao là bất diệt/ Cái gì khác nữa thảy đi qua” (Hàn Mặc Tử).
Với một tinh
thần hết sức dè dặt, vẫn có thể nói qua việc khảo sát hình tượng trăng trong
các tác phẩm văn học đã cho thấy thấp thoáng sự phát triển tư duy nghệ thuật của
nền văn học nước nhà. Từ chỗ xem
trăng như là một hình tượng nghệ thuật có tính
lưỡng trị (vừa là một hình tượng độc lập và hoàn chỉnh để miêu tả khung
cảnh thiên nhiên về đêm nhưng cũng vừa là để miêu tả thế giới nội tâm con người)
trong văn học viết trung đại đến quan niệm trăng như một hình tượng nghệ thuật có
tính đơn trị (hoặc được chủ quan hóa
cao độ, tức được tác giả phổ vào đó những nét cảm xúc chủ quan của con người: có
thể thấy qua trăng trong thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử: nằm sóng soãi, tự ngẩn ngơ, thẹn thò… ; hoặc được miêu tả một cách
khách quan cao độ: trong thơ Tố Hữu, Chính Hữu…) trong văn học hiện đại để qua
đó trở thành những biểu tượng được
tác giả gửi gắm giãi bày những nỗi niềm tâm tư khắc khoải về con người, cuộc
đời, để nhớ và để quên, để suy tư và chiêm nghiệm trong lẽ đời dâu bể, được
mất, đa đoan.… Xét đến cùng, lịch sử văn học của một dân tộc chính là lịch sử văn
hóa, tâm hồn của dân tộc ấy. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, qua hình tượng
trăng, ta thấy được bước tiến dài của văn hóa Việt, tâm hồn Việt từ “thần bản”
của thuở nguyên sơ đến “nhân bản” của ngày hôm nay
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét