Thần đồng âm nhạc
Wolfgang Amadeus Mozart
Wolfgang
Amadeus Mozart, tên đầy đủ Johannes Chrysostomus Wolfgangus Theophilus Mozart
(27 tháng 1, 1756 – 5 tháng 12, 1791) là một trong những nhà soạn nhạc nổi
tiếng, quan trọng, và có nhiều ảnh hưởng nhất trong thể loại nhạc cổ điển châu
Âu. Các tác phẩm của ông được xem là đỉnh cao trong các lĩnh vực nhạc piano,
nhạc thính phòng, nhạc giao hưởng, nhạc tôn giáo và opera.
Trong 2 thế kỷ, câu
chuyện về nhạc sĩ Mozart đã được kể nhiều lần. Sự kỳ diệu và
bí ẩn của một thần đồng âm nhạc và cuộc đời với danh vọng cao sang và kết thúc
bi thảm của Mozart đã là một câu chuyện đặc biệt trong lịch sử âm nhạc.
Wolfgang
Amadeus Mozart 1756-1791
Mozart là một thần
đồng mà tài năng cho tới ngày nay chưa có ai vượt qua được. Nhạc sĩ này đã biết
chơi đàn vĩ cầm và dương cầm khi mới lên 3, bắt đầu viết ra các bản « nhạc
khúc nhịp ba » (minuets) vào tuổi lên 6, soạn bản « giao
hưởng » (symphony) đầu tiên khi chưa đầy 9 tuổi, sáng tác
« diễn ca khúc » (oratorio) khi 11 tuổi và « nhạc
kịch » (opera) lúc mới 12.
Trong số 3 nhạc sĩ bậc
thầy của nền Âm Nhạc Tây Phương là Bach, Beethoven và Mozart,
nhạc của Bach mang tính nguyên thuỷ (original) với nền nhạc đa âm (polyphonic
basis). Beethoven có tính nhạc vừa bí ẩn, vừa mang cá tính và cách mạng, đã
mở đường cho các nhạc sĩ của thế kỷ 19 và 20, thì riêng với Mozart, ông đã viết
nhạc cho thời đại của mình mà không quan tâm tới âm nhạc của tương lai.
Ngôn ngữ âm nhạc của
Mozart cũng giống thứ âm nhạc của các nhạc sĩ đi trước như JC Bach hay J
Haydn. Mozart đã dùng các thể nhạc truyền thống, bao gồm các loại giao
hưởng, nhạc kịch (opera), nhạc hoà tấu 4 đàn (quartet) ... Ông đã
theo đúng các tiêu chuẩn mẫu mực, làm đúng theo các quy thức cổ điển, làm tốt
đẹp hơn mọi phương cách thể hiện âm nhạc, cho nên, nhạc của Mozart là hiện thân
của sự toàn hảo mà nền âm nhạc thời đó có thể đạt được.
Mozart là nhạc sĩ có
năng khiếu đặc biệt về âm nhạc lại được giảng dạy ngay từ đầu về nhạc lý và
nhạc cụ bởi người cha có tài, một nhạc sĩ vĩ cầm đã soạn ra nhiều nhạc phẩm
giáo khoa. Ông Leopold Mozart đã huấn luyện người con trai kỳ
tài của mình rồi đưa cậu nhạc sĩ nhỏ tuổi này vào các hoàn cảnh âm nhạc tốt đẹp
nhất của thời đại. Wolfgang Mozart còn được học âm nhạc với tất cả các nhạc sĩ
tài danh đương thời, đã theo các hành trình tới kinh đô của các nước Pháp, Anh,
Hoà Lan, Ý ... đã sống tại thủ đô âm nhạc của thời đó là thành phố Vienna cũng
như quen thuộc với các thành phố lớn khác của nước Đức.
Mozart đã làm quen với
mọi nhạc thức, cộng thêm vào là thiên tư và bản chất, tất cả đã khiến ông bắt
chước được các kiểu mẫu cũ, tổng hợp và cải tiến các nhạc phong của thời đại
rồi viết ra một thứ âm nhạc mới khác hẳn các nhạc sĩ lừng danh thời đó.
Nhạc phong (mucical
style) của Mozart đã mang nhạc tính tuyệt đối (absolute musicality).
Nếu âm nhạc cổ điển của Beethoven hay âm nhạc lãng mạn
của Berlioz và Chopin hàm chứa các cảm xúc
nội tâm thì âm nhạc của Mozart lại không cho thấy những dấu vết của những đau
khổ của cuộc đời mình. Âm Nhạc của Mozart đã được thăng hoa và chuyển thành các
vẻ đẹp âm thanh trong cách thẩm mỹ cổ điển.
Wolfgang A Mozart đã
trải qua một cuộc sống ngắn ngủi nhưng lại sáng tác ra các tác phẩm rất phong
phú. Cuộc đời của Mozart có thể được chia làm 3 giai đoạn :
(1) thời thơ ấu và
thiếu niên (1756-1774),
(2) thời kỳ viết nhạc phẩm (1774-1781), và
(3) các năm cuối sống tại thành phố Vienna (1781-1791).
(2) thời kỳ viết nhạc phẩm (1774-1781), và
(3) các năm cuối sống tại thành phố Vienna (1781-1791).
1. Thời thơ ấu và
thiếu niên của Mozart (1756-1774)
Wolfgang Amadeus
Mozart sinh
tại tỉnh Salzburg nước Áo vào ngày 27/01/1756. Cha là
ông Leopold Mozart và mẹ là bà Maria Anna. Ông
Leopold là một nhà soạn nhạc hạng thứ của vương triều địa phương, một nhạc sĩ
vĩ cầm và là tác giả một số sách giáo khoa về âm nhạc. Khi lên 3 tuồi và nhìn
thấy chị Nannerl 7 tuổi chơi đàn dương cầm, thời đó gọi là
đàn hapsichord, Mozart cũng đòi học nhạc. Cả hai chị em được
cha dạy âm nhạc và Mozart đã không thua chị, mà còn tập sáng tác các bản nhạc
khúc nhịp ba (minuets).
Ngoài việc học đàn
dương cầm, Mozart còn đòi học vĩ cầm. Một hôm ông Leopold và hai người bạn cùng
họp nhau để hoà 6 bản trio (bản hoà tấu 3 đàn) do Wentzl,
một trong hai nhạc sĩ kia sáng tác, Mozart lúc đó nằng nặc đòi chơi vĩ cầm bè
hai. Rồi do khả năng thực sự, cậu bé Mozart dần dần được phép đàn vĩ cầm bè một
với các nhạc sĩ lớn tuổi khác.
Do nhận thấy năng
khiếu đặc biệt của hai người con nhỏ tuổi, ông Leopold bèn quyết định đưa các
con đi lưu diễn tại nhiều nơi. Gia đình Mozart rờiSalzburg vào
tháng 01/1762, hướng về thành phố Vienna. Tại thị trấn Linz,
buổi hoà nhạc đã thành công vì nhiều người hâm mộ tài nghệ của hai nhạc sĩ tí
hon. Sau đó cha con Mozart lại tới Tu viện Ips. Khi xem chiếc
đàn phong cầm nổi danh của tu viện, chú bé Mozart đã leo lên đàn thử khiến cho
các tu sĩ phải hết sức sửng sốt và thán phục về tài nghệ. Mọi người không hiểu
vì sao một chú bé nhỏ tuổi đến như thế có thể tạo nên các âm thanh tuyệt vời ?
Tiếng đồn về thiên tài
của hai nhạc sĩ tí hon đã đến thành phố Vienna trước đoàn nghệ sĩ. Trong khi
đón tiếp gia đình Mozart tại lâu đài Schoenbrunn, Hoàng Đế nước
Áo Franz Josef đã gọi Mozart là “nhà ảo thuật
bé nhỏ” và đã thử tài cậu nhạc sĩ tí hon này bằng cách bảo đánh ngay các
bản đàn khó hay đánh đàn bằng một ngón tay, cũng như dạo đàn mà dùng vải phủ
kín các phím đàn, không cho nhìn rõ. Chú bé Wolfgang đều vượt qua được các thử
thách và mọi người đã vỗ tay tán thưởng. Để đáp lại sự tử tế của Vua và Hoàng
Hậu, Wolfgand đã leo lên lòng Hoàng Hậu Maria Théresa và ôm
hôn, như cách cảm ơn với mẹ của mình. Wolfgang còn kết thân với công chúa Marie
Antoinette ở cùng lứa tuổi. Rất nhiều quà tặng dồn về hai nhạc sĩ nhỏ
tuổi, đặc biệt là các nhẫn kim cương của Hoàng Đế Franz Josef và các bộ y phục
lộng lẫy. Hoạ sĩ cũng vẽ chân dung của Mozart và bức hoạ còn được lưu giữ cho
tới ngày nay.
Sau đó gia đình Mozart
đi trình diễn tại Frankfurt và các thành phố khác rồi
tới Paris. Trước triều đình Pháp tại cung điện Versailles,
chị em Mozart cũng đã làm cho nhiều người phải thán phục. Từ Paris, đoàn nghệ
sĩ tới London vào tháng 04/1764. Vua George III và
Hoàng Hậu nước Anh, do rất yêu thích âm nhạc, đã yêu cầu Wolfgang đàn ngay các
nhạc phẩm của Bach và Handel. Cậu bé Wolfgang
còn đệm đàn cho Hoàng Hậu hát cũng như ứng tác nhiều giai điệu mỹ lệ. Ngày
04/06 là sinh nhật của Vua nước Anh. Cả thành phố London tràn ngập dân chúng.
Wolfgang Mozart biểu diễn âm nhạc vào ngày mồng 05. Phòng hoà nhạc chật đầy
thính giả sang trọng. Ông Leopold nhờ đó đã thu được rất nhiều tiền bạc. Vào
dịp này, Wolfgang đã sáng tạo ra loại “nhạc khúc hai bè” (duet),
một nhạc thức mới. Tháng 07/1766, gia đình Mozart rời London đi Hoà Lan rồi trở
lại Paris lần thứ hai, cuối cùng quay về Salzburg vào tháng 11/1766.
Nước Ý thời bấy giờ là
quê hương của âm nhạc vì vậy ông Leopold đã quyết định phải đưa Wolfgang tới
nơi đó. Tháng 12/1769, nhạc sĩ thần đồng lại được cha đưa về miền Nam của châu
Âu, nơi có dân chúng ca hát trên các cánh đồng nho, có các đoàn rước lễ vừa đi
dọc theo đường phố hẹp, vừa hát các bản thánh ca, và đặc biệt nổi tiếng là âm
nhạc của các ngôi giáo đường lớn. Wolfgang đã bị thử tài bởi các nhạc sĩ nước
Ý, đã dạo cây đàn phong cầm của nhà thờ Saint Thomas tại thành
phố Roveredo. Vinh quang cũng tới với Wolfgang tại Verona,
nơi bản giao hưởng của nhạc sĩ tí hon được trình diễn và người ta đã vẽ chân
dung của Wolfang.
Nơi trình diễn kế tiếp
là thành phố Milan rồi Bologna. Đây là quê hương
của nhạc sĩ lừng danh Padre Martini, người đã sáng tác ra các bản
nhạc tôn giáo bất hủ. Ít khi ông Martini chịu tham dự vào các buổi hoà nhạc
nhưng lần này, nhà soạn nhạc danh tiếng đó đã phải có mặt tại thính đường của
bá tước Pallavicini để lắng nghe Wolfgang chơi đàn. Martini
sau đó đã giao cho Wolfgang các tẩu khúc (fugue) và đã phải khen
ngợi kiến thức về soạn nhạc của Wolfgang. Các vinh quang khác cũng tới với cậu
bé nhạc sĩ này tại thành phố Florence, nơi triều đình của vương
hầu Leopold.
Hai cha con Mozart
tới Rome đúng vào Tuần Lễ Thánh (the Holy
Week) khi cả thành phố lừng danh này đang ở vào dịp lễ hội lớn. Wolfgang đã
được viếng thăm Giáo Đường Thánh Peter, Nhà Nguyện Sistine,
nơi có bức danh hoạ “Cuộc Phán Xét Cuối Cùng” (the Last Judgment)
của Michael Angelo. Chính tại Nhà Nguyện này, Wolfgang đã được nghe
bản Thánh Ca Miserere của Allegri. Đây là bản
Thánh Ca không được hát tại bất cứ một nơi nào khác và không ai có quyền mang
một phần bản nhạc ra khỏi giáo đường. Sau phần lễ thật trịnh trọng và trang
nghiêm có tên là Tenebrae (Bóng Tối), 7 cây nến thật
lớn trên bàn thờ được tắt dần từng cây một, cho tới khi chỉ còn một cây nến
cháy sáng, rồi cây này được nhẹ nhàng mang lùi về phía sau, toàn thể Nhà Nguyện
chìm đắm trong bóng tối dày đặc và tuyệt đối yên lặng. Chính trong giờ phút
lắng đọng này, bản nhạc Miserere (Hãy Thương Sót) dần dần bắt đầu. Một
giọng đơn hát phần antiphon hay phần nhập đề ngắn, rồi kế tiếp là sự yên lặng,
một sự yên tĩnh tận cùng khiến cho mọi người muốn ngừng thở vì e ngại tiếng thở
có thể gây ra vang động. Chính trong lúc này các nốt nhạc cầu xin vang dần lên,
tới khi cả Thánh Đường chan hoà tiếng thổn thức của thứ âm nhạc thánh thiện.
Hai cha con Mozart đã
rời khỏi Giáo Đường trong yên lặng, trở về nhà trọ. Đêm hôm đó, Wolfgang không
ngủ được vì cảm xúc của bản Thánh Ca. Cậu bé nhạc sĩ bèn thắp đèn lên và bắt
đầu chép lại bản nhạc. Khi trời sáng, toàn thể bản Miserere của Allegri đã được
Wolfgang chép lại qua trí nhớ.
Hôm sau là Ngày Thứ
Sáu trước Lễ Phục Sinh (Good Friday), Wolfgang được nghe lại bản
Miserere lần thứ hai và sau đó đã sửa chữa lại bản chép tay của mình cho thật
chính xác. Tài năng xuất chúng của cậu bé 14 tuổi này đã khiến cho thành phố
Rome phải sửng sốt và quý mến.
Wolfgang Mozart cũng
được chú ý và đạt các danh vọng tại thành phố Naples, nơi đã
cung cấp một cỗ xe ngựa quý đưa cha con Mozart qua đường phố chính, giữa các
đám người nghênh đón, trên xe ngựa Wolfgang mặc áo sặc sỡ có nút áo bằng bạc,
ngồi cạnh cha mặc áo màu nâu có tua viền màu xanh.
Khi trở lại Rome,
Wolfgang Mozart đã được Đức Giáo Hoàng tưởng thưởng huân
chương (the Order of the Golden Spur) vì thế có người đã gọi nhạc sĩ trẻ
tuổi này là « Hiệp Sĩ Mozart ». Rồi khi tới thành phố Bologna,
cậu nhạc sĩ trẻ tuổi lại được nhận làm nhân viên Hàn Lâm Viện Âm NhạcAccademia
Filhamonica. Bài khảo sát gia nhập Viện Âm Nhạc gồm việc sáng tác một nhạc
khúc hát đối đáp (antiphon) 4 phần và cậu thiếu niên bị khoá trong
phòng cho đến khi hoàn tất nhạc phẩm. Wolfgang đã gõ cửa đi ra sau nửa giờ đặt
bút sáng tác.
Hành trình của cha con
Mozart hướng về thành phố Milan. Tại nơi này, Wolfgang được đặt
viết có thù lao một bản nhạc kịch (opera) trong 3 tháng, có tên là
“Mitridate“. Buổi trình diễn vở nhạc kịch này được tổ chức vào ngày
26/12/1770 do chính Wolfgang điều khiển dàn nhạc.
Wolfgang A. Mozart đã
đi khắp châu Âu và nước Anh, và trong 35 năm cuộc đời, nhạc sĩ thiên tài này đã
trải qua 4 năm trên xe ngựa trong các hành trình xuyên qua các miền biên giới.
Trong chuyến du lịch qua nước Pháp, Mozart đã quan tâm tới âm nhạc của Johan
Schobert, rồi khi tới London, lại chịu ảnh hưởng phong cách âm nhạc
của Johann Christian Bach, con trai nhà nhạc sĩ lừng danh Johann
Sebastian Bach. Chuyến đi qua nước Ý từ năm 1769 tới năm 1773 đã cho phép
Wolfgang Mozart học hỏi về đối điểm (counterpoint) với Padre
Martini tại Bologna và trong thời gian này, bản nhạc
kịch kiểu Ý La Finta Semplice (Italian opera buffa) đã
được Mozart viết ra. Các nhà soạn nhạc giao hưởng người Ý, chẳng hạn ôngSammartini,
cũng gây ảnh hưởng tới các tác phẩm của Mozart, như qua các bản nhạc đánh số
K81, 95, 112, 132, 162 và 182.
Mozart đã thực hiện
hơn 600 sáng tác âm nhạc và nhà nghiên cứu L. Von Koechel năm
1862 đã liệt kê và đánh số theo bản thư mục chủ đề (thematic catalogue)
bằng « chỉ số K ». Đây là cách nhận biết được nhiều người công
nhận.
Wofgang A Mozart đã có
một trí nhớ kỳ lạ và một khả năng sáng tác âm nhạc ngay trong bộ óc của mình,
đã xếp đặt các thành phần của bản nhạc khi đang ngồi trên xe ngựa trong các
chuyến đi xa rồi sau đó, Mozart chỉ cần một hay hai ngày để viết tác phẩm trên
giấy, thành các bản nhạc hoàn chỉnh. Nhờ các chuyến đi qua nhiều xứ sở, Mozart
có thể hấp thụ được nhiều nhạc phong (styles), tổng hợp được nhiều nét
nhạc (musical features) của nhiều quốc gia, khác hẳn với Haydn mang
màu sắc âm nhạc đặc biệt của nước Áo, hay Handel với nét nhạc
thuần Đức.
Vào thời đại của
Mozart, nền âm nhạc của châu Âu chịu ảnh hưởng của hai trường phái Ý và Đức.
Nói một cách đơn giản, âm nhạc Ý mang tính nhẹ nhàng, chủ đích nhắm vào giải
trí trong khi âm nhạc Đức trịnh trọng hơn và hướng về diễn tả. Phương tiện âm
nhạc của trường phái Ý là giọng ca (vocal) với các bản nhạc kịch (opera)
và bản thanh nhạc (cantata) trong khi các nhạc sĩ Đức ưa chuộng các nhạc
cụ (instrumental) và dùng các nhạc thể như giao hưởng (symphony)
hay sonate (sonata). Chất nhạc (musical texture) của âm nhạc Ý là
chủ điệu (homophonic) với các giai điệu có tính làm say mê, quyến rũ
trong khi chất nhạc Đức lại thiên về khoa học đối điểm (the science of
counterpoint). Mozart đã hiểu rõ và xử dụng được cả hai trường phái kể trên
nhờ khả năng thưởng thức (taste), nhờ bản năng thiên tư biết dùng những
gì thích hợp, tốt đẹp, nhờ trí thức (knowledge) hiểu rõ lý thuyết âm
nhạc và kỹ thuật với các giới hạn của các nhạc cụ.
2. Thời kỳ viết nhạc
phẩm (1774-1781)
Sau các năm chu du qua
các quốc gia với các thành công huy hoàng và trở về Salzburg,
Wolfgang Mozart bắt đầu gặp phải bóng tối vì sự ghen tị, vì các âm mưu và vì sự
thờ ơ của những kẻ quyền thế. Người che chở và giúp đỡ Mozart là vị Tổng Giám
Mục Salzburg đã qua đời, người kế vị lại lơ là với nghệ thuật, coi thường các
nhạc sĩ nhà nghề. Năng khiếu và tài nghệ của Mozart đã không được coi trọng.
Mozart được giao chức vụ trưởng ban nhạc nhưng lương bổng không đủ sống. Vào
lúc này, Wolfgang Mozart đã 21 tuổi, đã sáng tác được nhiều nhạc phẩm thuộc
nhiều thể loại.
Do tình trạng lợi tức
thấp kém, ông Leopold dự định lại đưa các con thiên tài đi lưu diễn một lần nữa
nhưng vị Tổng Giám Mục mới của miền Salzburg đã không cho phép ông Leopold rời
khỏi địa phận, vì vậy Wolfgang cùng với mẹ ra đi vào sáng ngày 23/09/1777,
hướng về thành phố Munich. Nơi đây, Mozart đã tới lâu đài Nymphenburg nhưng
vị vương hầu địa phương đã từ chối, không còn chỗ trống dành cho nhạc sĩ thiên
tài. Các vinh dự mà Mozart đã thu nhận được tại nước Ý đã làm buồn lòng các kẻ
quyền thế người Đức. Mozart và mẹ lại đi tới thành phố Mannheim và
chỉ kiếm được một chân dạy đàn dương cầm với số lương không đủ sống. Ông
Leopold và con gái đã phải tiết kiệm, gửi tiền tiếp tế cho hai mẹ con Mozart
tại đó.
Không lâu sau khi tới
Mannheim, Wolfgang đã dấu cha, làm quen với hai cô con gái của gia đình Weber.
Cô chị Aloysia 15 tuổi và cô em, Constanza14, là
hai thiếu nữ đang độ xuân sắc. Aloysia lúc đó đang tập hát nhạc kịch (opera)
và Wolfgang sẵn lòng đệm đàn và hướng dẫn cho nàng ca hát. Mối tình đã chớm nở
giữa hai người và Mozart đã đề nghị với gia đình Weber là họ nên cùng với
Aloysia sang nước Ý trình diễn, với Mozart sẽ sáng tác các bản nhạc kịch thích
hợp với nàng. Đồng thời Mozart cũng biên thư cho cha, căn dặn cha và chị đón
đoàn nghệ sĩ tại Salzburg và ông Leopold khi đó sẽ gặp người con dâu tương lai,
người mà ông sẽ quý mến. Nhưng ông Leopold đã không chú ý đến dự tính này. Ông
dặn con trai phải đi ngay Paris, tạo dựng cho mình một danh tiếng.
Wolfgang đành phải rời Mannheim, xa cách người yêu.
Wolfgang Mozart đã tới
Paris. Thành phố này trước kia hân hoan đón chào một thần đồng âm nhạc nhưng
ngày nay, lại dửng dưng trước một nhạc sĩ đã trưởng thành. Trong 3 tháng,
Mozart đã không thành công trong việc kiếm được một công việc xứng đáng, rồi
bà Maria mắc bệnh nặng và qua đời trong cánh tay của người con
trai vào ngày 03/07/1778. Vào lúc này, ông Leopold đã gửi một
bức thư báo tin cho Wolfgang biết vị Tổng Giám Mục Salzburg sẵn lòng giao cho
chàng chức vụ nhạc sĩ đàn phong cầm của vương triều với lương năm là 500
florins và với một số điều kiện về vắng mặt. Nếu Wolfgang chấp nhận, lợi tức
của hai cha con sẽ đủ dùng cho một cuộc sống tương đối thoải mái. Wolfgang không
thể trái ý cha nên đã trở về Salzburg nhưng xin phép được ghé qua thành phố
Mannheim để gặp gia đình Weber. Tới nơi, gia đình này đã dọn đi Munich. Mozart
lại tới Munich nhưng khi gặp gia đình Weber, Aloysia chỉ coi Mozart là một
người bạn cũ.
Trở về Salzburg,
Mozart bị thất bại cả về tình duyên lẫn tham vọng. Mặc dù được gia đình luôn
coi là một nhà soạn nhạc cỡ lớn, một thiên tài trong số các nhạc sĩ, Wolfgang
Mozart vẫn không ưa thích miền Salzburg và các bổn phận phải làm đối với cung
đình này. Tháng 11/1780, Wolfgang lại đi Munich để hoàn thành
một nhạc kịch đã ký hợp đồng, dùng cho ngày đại hội năm sau. Nhạc kịch có tên
là “Idomeneo” lần đầu tiên được trình diễn vào ngày 29/01/1781 và được
mọi người khen ngợi, kể cả vị vương hầu của vùng Munich. Ông Leopold và chị
Nannerl cũng tới Munich để chứng kiến lúc vinh quang của Wolfgang Mozart. Trong
rạp hát, hàng trăm người đã đứng lên, hoan hô nhà soạn nhạc và đây là lúc hãnh
diện nhất cho cả ba người thuộc gia đình Mozart.
Sau đó vị Tổng Giám
Mục miền Salzburg lại ghen tức với danh tiếng do Mozart tạo dựng nên tại một
nơi khác, nên đã ra lệnh ngưng chức nhạc sĩ của Wolfgang trong khi người cha
Leopold cố gắng gọi con trở về. Wolfgang qua chán ghét miền Salzburg nên cuối
cùng đã viết thư cho cha : “xin đừng bắt con trở về Salzburg nữa, cha
hãy bảo con làm việc khác ngoài việc trở về đó”.
Tại Munich,
Wolfgang Mozart bắt đầu cam chịu một cuộc sống thiếu thốn. Nhà nhạc sĩ tài danh
chỉ có được một học trò. Với số tiền quá ít ỏi, Mozart phải sống trọ với một
gia đình bạn, vào lúc này, người yêu cũ là nàng Aloysia đã đi lấy chồng. Bà
Weber và hai cô gái lại dọn đi Vienna và cũng ở trong hoàn cảnh eo hẹp.
Cuối năm 1773 và đầu
năm 1774, Wolfgang Mozart đã sáng tác được 2 bản giao hưởng cung Sol thứ (K183)
và cung La trưởng (K201) với tính nhạc mãnh liệt và trang nghiêm, với đặc tính
đồng nhất về chủ đề (thematic unity) và với đặc điểm về cách khai triển
toàn bộ nhạc thức. Sau đó là thời kỳ Mozart viết nhiều sonate dành cho đàn
dương cầm (piano sonata) : K279-284 soạn tại Salzburg và Munich trong 2 năm
1774-1775, K309 và K311 tại Mannheim,1777-78, và tại Paris vào năm 1778 gồm các
bản sonate cung La thứ (K310), « sô nát » cung Đô trưởng
(K330), sonate cung La trưởng với các biến khúc (K331) ; và 2 sonate mang đặc
tính Mozart nhất là 2 nhạc phẩm cung Fa trưởng và Si giáng trưởng (K332 và
K333). Nhiều biến khúc (variations) cũng được Mozart sáng tác tại Paris
với các bản nhạc dành cho các nhạc sinh, kể cả bản « Ah, vous dirais-je
maman » (K265, Paris-1778). Nhiều bản hoà tấu 4 đàn được Mozart sáng
tác một cách xuất sắc, chẳng hạn như bản Flute Quartet cung Rê
trưởng (K285) và bản Oboe Quartet (K370).
Wolfgang Mozart đã
sáng tác âm nhạc hoặc do tiền đặt trước, hoặc vì một dịp đặc biệt nào đó. Trước
khi viết nhạc, chàng nhạc sĩ thiên tài này đã có trong đầu óc một định kiến về
khán giả và các nhạc sĩ trình diễn, về sự ưa chuộng của người nghe nhạc. Mozart
quả thực là một nhà soạn nhạc thương mại, viết nhạc vừa với ước vọng nhạc phẩm
sẽ được trình diễn, làm vui lòng người đặt hàng, lại mang về tiền bạc cho mình.
Trong các thập niên
1770 và 1780, Mozart đã sáng tác âm nhạc cho các buổi họp mặt ngoài vườn, các
đám cưới, các sinh nhật, các buổi hoà nhạc gia đình và các nhạc phẩm này phần
lớn được gọi là dạ khúc (serenade hay divertimento). Ngoài ra, số nhạc
phẩm của Mozart còn gồm nhạc thính phòng với đàn dây và đôi khi với một hay hai
loại kèn, rồi tới các concerto và các bản giao hưởng phức tạp hơn ... tất cả
đều mang sắc nhạc đơn giản, bay bướm với giai điệu quyến rũ. Bản dạ khúc được
phổ biến nhất của Mozart có tên là « Dạ Khúc Nhỏ » (Eine
Kleine Nachtmusik, K525), một tác phẩm viết cho dàn nhạc nhỏ đàn dây (small
string orchestra). Dạ khúc Haffner năm 1776 là một thí dụ
rõ ràng nhất của thể điệu concerto-symphonic.
Mozart cũng viết các
concerto dành cho vĩ cầm như các nhạc phẩm K216, 218 và 219, lần lượt theo các
cung Sol, Rê và La. Các nhạc phẩm này là những tác phẩm với vẻ nhạc rất trong
sáng, với âm thanh lộng lẫy, đầy nhạc cảm.
3. Thời kỳ sống tại
thành phố Vienna (1781-1791)
Wolfgang Mozart rời bỏ Munich và
dọn qua Vienna, tại đây chàng nhạc sĩ đã quyết định chọn người vợ
là cô Constanza Weber, em gái của người yêu khi trước, mặc dù lời
quở mắng của ông Leopold. Hai người đã làm lễ thành hôn ngày 16/08/1782.
Constanza tuy là một người vợ tận tuỵ song lại là một người đàn bà rất kém về
nội trợ khiến cho gia đình Mozart luôn luôn túng thiếu. Trước hoàn cảnh eo hẹp
về tài chính, Mozart muốn rời đi London hay Paris nhưng ông Leopold đã gửi thư,
hẹn gặp người con trai tại Vienna. Rồi người cha và người chị đã tới, Mozart
rất hân hoan được giới thiệu người vợ mới của mình và ông Leopold cũng vui
sướng khi thấy con trai bận rộn trong việc sáng tác các nhạc phẩm. Có một buổi
chiều, ông Leopold đã cùng với đại nhạc sĩ Josef Haydn nghe
trình diễn các bản tứ hoà (quartets) do Mozart viết ra, và J. Haydn đã
phải nói với ông Leopold : “Trước Thượng Đế, và tôi lấy danh dự mà nói
rằng con trai của ông là một nhà soạn nhạc vĩ đại nhất mà tôi đã gặp. Cậu ta có
khả năng thưởng thức và lại có một điều quý hơn nữa là một kiến thức sâu rộng
nhất về sáng tác âm nhạc”.
Lần gặp gỡ trên cũng
là lần cuối giữa hai cha con vì sau đó ông Leopold trở về Salzburg rồi mắc bệnh
và qua đời vào ngày 28/05/1787. Hung tin này tới với Mozart sau khi chàng nhạc
sĩ vừa mới hoàn tất bản nhạc kịch « Đám Cưới của Figaro » (the
Marriage of Figaro). Tại mỗi góc phố của hai thành phố Vienna và Prague đều
vang lên giai điệu của bản nhạc này.
Mặc dù thành công về
bản nhạc kịch gần đây, Mozart vẫn túng thiếu và vẫn phải kiếm ăn bằng cách dạy
nhạc. Vợ của chàng lại thường hay đau bệnh, không biết tiết kiệm và gia đình
đôi khi không có đồ ăn hoặc củi đốt. Một vài người bạn thân cũng thỉnh thoảng
giúp đỡ chàng lúc quá khó khăn. Lúc bấy giờ Hoàng Đế Josef của
nước Áo vì muốn giữ chàng nhạc sĩ thiên tài lại trong nước mình, nên đã đề nghị
tuyển Mozart làm nhà soạn nhạc cho cung đình với lương 80 bảng một năm, một món
tiền quá nhỏ, khiến cho Mozart đã phải nói ra một cách chua chát : « Đó
là món tiền quá lớn đối với công việc quá nhỏ đòi hỏi tôi phải làm, và cũng là
món tiền quá nhỏ đối với khả năng tôi có thể làm được ».
Tháng 09/1787, Mozart
bắt đầu viết vở nhạc kịch « Don Giovanni ». Nhạc phẩm phải
xong vào ngày 29/10 mà tới tối ngày 28, phần khai khúc (overture) vẫn
chưa được soạn tới. Mozart đã thức suốt đêm để viết nhạc vì tác phẩm đã ở sẵn
trong đầu chàng nhạc sĩ thiên tài. Lúc 7 giờ sáng khi còn chưa khô mực, nhạc
phẩm đã được chuyển tới người chép nhạc rồi dùng cho buổi trình diễn ngay ban
chiều mà không có thời giờ tập dượt. Kết quả của vở nhạc kich “Don Giovanni”
rất rực rỡ, mọi người đều tán thưởng những nét nhạc và giai điệu mỹ lệ của
Mozart. Nhưng khó khăn tài chính vẫn chưa vượt qua được. Ông hoàng Karl
Lichnowsky đề nghị Mozart nên đi theo ông tới Berlin vì
Vua nước Phổ có thể giao cho chàng chức vụ Nhạc Trưởng Thính Phòng với lương
bổng khá lớn nhưng vì lòng trung thành với Hoàng Đế Josef của nước Áo đã khiến
Mozart phải từ chối.
Tháng 07/1791, khi
đang sống tại Vienna, Mozart đã tiếp một người cao lớn mặc áo đen, đến đặt viết
bản nhạc Cầu Hồn Requiem trong khi đó chàng nhạc sĩ cũng đang
bận rộn giúp đỡ người bạn là nhạc sĩ Salieri. Lễ đăng quang của Hoàng Đế Leopold
II đã được ấn định vào ngày 06/09 tại Prague. Trước khi
lên xe ngựa đi Prague, người áo đen đặt viết bản nhạc cầu hồn lại đến và Mozart
phải năn nỉ xin hoãn cho tới lúc từ Prague trở về. Bản nhạc kịch « La
Clemenza Di Tito » đã được soạn xong đúng thời hạn và được trình diễn
nhưng kết quả không vẻ vang. Mozart trở lại Vienna lúc cơ thể quá mệt mỏi vì
làm việc quá độ. Dù thế, ngày 30/09, một nhạc kịch khác cũng xuất hiện mang tên
« Cây Sáo Thần » (the Magic Flute). Thành công của bản
nhạc kịch này tăng dần lên trong khi bản nhạc Cầu Hồn vẫn còn dang dở. Đã nhiều
lần Mozart ngất sỉu vì yếu sức và một hôm, chàng nhạc sĩ thiên tài đã nói với
vợ : « Anh viết bản Cầu Hồn này cho chính anh vậy ».
Chiều ngày 04/12/1791,
Mozart bị nằm liệt giường và trút hơi thở cuối cùng vào sáng ngày 05/12, lúc 35
tuổi, để lại bản nhạc Cầu Hồn chưa viết xong. Một môn đệ ưa thích của Mozart
tên là Sussmayr đã viết nốt bản nhạc lễ đó (mass) từ
các nét nhạc phác thảo của Thầy cùng với một số giai điệu bổ túc của mình.
Ngày đưa đám của chàng
nhạc sĩ thiên tài Mozart chỉ quy tụ được vài người bạn thân. Quan tài được chở
trên xe kéo, ra khỏi thành phố để tới khu nghĩa trang nghèo nàn. Rồi một trận
bão tuyết đổ ập tới, các bạn bè tiễn đưa đã bỏ về và lẽo đẽo theo sau xe tang
chỉ còn người vợ goá. Do thời tiết quá xấu, xe tang đã không thể đi thêm được
nữa, những người phu chôn cất đã đào huyệt và chôn vội vã chiếc quan tài bên
đường. Sáng ngày hôm sau khi tuyết ngừng rơi, người vợ trẻ Constanza đã
không thể tìm ra dấu tích ngôi mộ của chồng vừa mới đào lấp vào ngày hôm qua.
Vào các năm đầu của
thời kỳ sống tại Vienna, các sáng tác nhạc của Mozart khá phong phú. Nhạc khúc
hát nói (singpiel) “Die Entfuhrung aus dem Serail” (the
Abduction from the Seraglio, 1782) đã được trình diễn nhiều
lần. Mozart đã là nhạc sĩ dương cầm và sáng tác thần tượng của dân chúng thành
phố Vienna, là một ngôi sao âm nhạc tự do.
Phần lớn các nhạc phẩm
đã làm cho danh tiếng Mozart trở nên bất tử, đều được sáng tác vào khoảng thời
gian 10 năm cuối với cách tổng hợp toàn hảo về nhạc thức và về nội dung, với
nhạc phong vừa lẳng lơ, vừa uyên bác, với sự duyên dáng và đam mê trong chiều
sâu của nhạc cảm và Mozart đã viết tất cả các thể loại âm nhạc.
Các ảnh hưởng chính
đối với Mozart vào thời kỳ này vẫn là đường nét âm nhạc của Haydn và
sự khám phá của chàng nhạc sĩ về âm nhạc của J. S. Bach. Thời đó bá
tước Gottfried van Swieten là đại sứ của nước Áo tại Berlin.
Vị bá tước này đã là thủ thư viện của vương triều và lại là một người đam mê âm
nhạc. Tại nhà của bá tước Van Swieten, Mozart được làm quen với các tập nhạc
của Bach trong đó có tập “Art of Fugue, the Well-Tempered
Clavier” (Nghệ thuật của Tẩu Khúc dùng cho đàn dương cầm),
một số các sonate và các nhạc phẩm khác. Ảnh hưởng của âm nhạc Bach đã được lưu
dấu trong các tác phẩm về sau của Mozart, chẳng hạn như trong bản sonate cuối
cùng dành cho dương cầm, K576, hay bằng nhạc tính trang trọng trong nhạc phẩm “Cây
Sáo Thần” (the Magic Flute) và nhạc lễ Cầu Hồn
Requiem.
Trong số các nhạc bản
độc tấu dương cầm của thời kỳ Vienna, quan trọng nhất là bản Fantasia và Sonate
cung Đô thứ (Sonata in C minor, K475 và K457). Nhạc phẩm
Fantasia đã có các giai điệu và chuyển cung (modulations) đi trước Schubert trong
khi bản Sonate kể trên đã là mẫu mực của nhạc bản Sonate Pathétique của Beethoven.
Mozart còn viết các nhạc
phẩm dành cho 2 đàn dương cầm (K448, 1781), các sonate 4 tay (K497, 1786), nhạc
thính phòng, sonate vĩ cầm cung La trưởng (K526), nhạc hoà tấu 3 đàn dây (String
Trio K563), nhạc hoà tấu 5 kèn Clarinet (the Clarinet Quintet,
K581) ... Trong 6 « Haydn Quartets »(nhạc hoà tấu 4 đàn),
Mozart đã thể hiện khả năng trưởng thành của mình trong việc hấp thụ tinh tuý
âm nhạc của Haydn mà không phải là một người bắt chước vụng về.
Với nhạc kịch « Đám
Cưới Của Figaro » viết năm 1786 dùng lời nhạc (libretto)
của Lorenzo da Ponte, Mozart đã lên tới tột đỉnh của tài soạn nhạc,
với nét nhạc vừa trong sáng, vừa duyên dáng.
Các nhạc phẩm chính
của Wolfgang A Mozart
Các nhạc phẩm dùng cho
dàn nhạc (orchestral music) của Mozart gồm hơn 40 bản giao hưởng (symphonies),
chẳng hạn như các bản có tên là Haffnersố 35, Linz số 36, Prague số
38, Jupiter số 39, 40 và 41, các dạ khúc (serenade)
như Dạ Khúc Nhỏ (Eine Kleine Nachtmusik,
1787), các hành khúc (marches) và vũ khúc (dances).
Các concerto gồm 5 bản
dành cho vĩ cầm, 27 bản dành cho dương cầm và các bản nhạc khác dùng cho các
loại kèn, sáo và thụ cầm (harp).
Các nhạc kịch (operas)
gồm Idomeneo (1781), die Entfuhrung aus dem Serail (1782), Đám
Cưới của Figaro (1786), Don Giovanni (1787), Cosi
fan tutte (1790) và Cây Sáo Thần (1791).
Nhạc đồng ca (choral
music) gồm 18 nhạc lễ, bản Cầu Hồn Requiem K626 (dang
dở- 1791). Nhạc thính phòng gồm 23 bản hoà tấu 4 đàn dây, các trio,
quintet, sonate ...
17 bản sonate dương
cầm và bản Fantasia (K475, 1785). Ngoài ra còn có các bản nhạc
hát thế tục (secular vocal music).
Vào thời đại của
Wolfgang A. Mozart, số lượng các nhạc cụ của dàn nhạc giao hưởng còn bị giới
hạn và các nhạc sĩ thời đó có phong cách trình diễn âm nhạc khác với ngày nay.
Âm nhạc của Mozart chưa được giới hâm mộ hiểu rõ vào thế kỷ 19, cho tới sau Thế
Chiến Thứ Nhất các nhạc sĩ và các nhà nghiên cứu âm nhạc mới tìm hiểu lại thiên
tài Mozart và Wolfgang Amadeus Mozart được coi là nhạc sĩ có
thiên phú nhất, hoàn hảo nhất mà Thế Giới được biết tới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét