Một chút tình Thu
Giới thiệu
Tôi có điều may mắn là trong mười năm làm giáo sư trung học (1958-1968),
dạy môn văn chương VN, tôi thường phải tìm tòi cổ văn lẫn kim văn nước ta để
làm tròn cái chức năng 'gạch nối' giữa thế hệ đã qua và thế hệ đang tới, đem
cái tinh hoa của người xưa mà truyền thụ lại cho người đời nay, với niềm hy
vọng tha thiết là cái gì người xưa sáng tạo thì người sau cảm nhận nó, đau với
cái đau, vui với cái vui của người xưa, cảm thông tâm sự của họ, để khỏi như
Nguyễn Du phải trách đời rằng, ba trăm năm về sau nữa có ai nhỏ xuống cho ông
đôi dòng lệ tiếc thương một kiếp người tài hoa bạc phận:
'Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Nhứ’
Thế hệ ngày nay và mai sau sẽ nâng niu trân trọng nó và phát triển thêm
ra vì văn hóa VN không chỉ của riêng người Việt.
Bên cạnh đó, phong cảnh hữu tình thơ mộng của Huế đã khắc đậm vào lòng
tôi những cảm xúc bồi hồi, nhung nhớ khó phai, cùng với bao nhiêu kỷ niệm của
một thời trẻ dại. Những hàng phượng đỏ hai bên bờ sông Hương cùng với thành
quách đền đài miêù mạo, những con đường rợp bóng mù u, những ngày nắng xuân le
lói, những đêm mưa âm thầm trong đại nội, trong tử cấm thành như phảng phất đâu
đó linh hồn vua chúa, cung phi mỹ nữ đã quá vãng lâu rồi, làm cho lòng tôi càng
thêm hoài cổ, dẫn dắt người ta tới chỗ mộng mơ mà mộng mơ là chất liệu của thi
ca, đặc biệt thi ca lãng mạn tiền chiến, một nền thi ca sung mãn và đặc sắc,
mới lạ của VN, kể từ 1925, khi Phan Khôi thổi hồi kèn tiên phong với bài 'Tình
già' cho tới cuộc 'Cách Mạng Mùa Thu năm 1945, cuộc cách mạng mở ra một thời kỳ
thi ca đấu tranh cho nền độc lập dân tộc.
Mặc dầu đã xa môi trường văn học ấy hơn ba chục năm, mà đời tôi thì lắm
cảnh thăng trầm, lòng yêu mến thi ca của tôi chẳng bao giờ phai lạt. Nay nhìn cảnh thu màu sắc vô cùng đẹp đẽ, lòng tôi thêm nung nấu nhớ nhung những mùa thu cũ, cả trong thi ca
cũng như ở cảnh sắc quê nhà, viết lại đôi dòng để tỏ bày cùng tri âm, cùng cố
nhân và cả những ai lớn lên ở quê người, chưa từng nghe 'Tiếng thu quê hương
nức nở, chưa từng cảm 'Ý thu VN rạt rào trong trái tim nóng bỏng của cha ông đã
viết nên những trang thơ tuyệt vời làm say đắm biết bao nhiêu người!
Bây giờ là mùa thu, mùa thu mà không nói đến thi ca thì sao được?! Dù
sao thì ta cũng nên để cho lòng ta lắng đọng một chút, để cho lòng xúc động một
chút, dù chỉ là một chút thôi, để ru
hồn mình và nhớ lại đôi chút cảnh thu ở quê nhà qua
những vần thơ cũ.
Thành phố lâu đài cao rộng đến những núi đồi trùng điệp, có chỗ giống như
đường lên Đà Lạt, cao nguyên ở quê mình, dù không 'Đường lên núi rừng sao hãi
hùng' thì cũng làm ta bâng khuâng, lòng vẫn còn mơ tưởng đến những con đường
cũ.
Ngôi nhà nằm lưng chừng một ngọn đồi nhỏ, sau
nhà là một rừng thông bao la, chỉ thấy nhà hàng xóm thấp thoáng trong bóng cây,
và trước mặt cũng là một rừng thông trùng điệp, thoai thoải xuống chân đồi,
dưới đó có một hồ nước rộng mà nước bao giờ cũng xanh biếc, tưởng như sâu thăm
thẳm. Mùa hạ vừa qua, phấn thông vàng bay lã tả, rụng đầy hiên nhà, mui xe,
kính xẹ.. làm tôi nhớ 'Phấn thông vàng' của Xuân Diệu. Tôi không biết Xuân Diệu
thấy phấn thông vàng ấy ở đâu, ở Đà Lạt hay ở những ngọn thông trên núi Ngự
Bình. Rừng thông nầy, sau khi Pháp chiếm lại thành phố Huế năm 1946, đã bị chặt
trụi, làm cho núi Ngự Bình thành ra hòn núi trọc, khiến cụ Ưng Bình Thúc Giạ
thị phải than:
Núi Ngự không cây chim ngủ đất
Sông Hương vắng khách đĩ kêu trời.
Bây giờ là mùa thu ở đây, lá sồi màu xanh non đang chuyển qua màu xanh
già, bắt đầu úa để chuyển qua màu đỏ nâu, rụng đầy trên những con đường lớn,
nhỏ trong các cụm rừng trên các con đường vùng tôi ở. Những cành cây khẳng khiu
giơ lên giữa bầu trời thu xanh, như cánh tay gầy guộc của ai đó, không khỏi làm
cho lòng người xao xuyến, tiếc một mùa hạ qua nhanh.
Mỗi ngày đi từ Barre tới Worcester một hai bận, tôi thấy cảnh sắc khác
đi từng chút, từng ngày. Lớp lá rụng bên đường hôm nay hình như dày hơn hôm
qua, những cành khô giơ lên trời cao nhiều hơn, màu lá thông đen thẫm hơn. Trời
xanh ngăn ngắt nhưng lại thêm nhiều đám mây vần vũ, báo hiệu một mùa đông giá
gần kề. Vài khi tơ trời vương trên kính xe; hay mỗi chiều khi tôi ngồi trước
sân nhà, vướng nhằm những sợi tơ mỏng manh, trắng muốt, nhẹ nhàng bay qua, tôi
không khỏi nhớ đến những câu thơ của Nguyễn Bính tả một cảnh thu ở đồng bằng
Bắc bộ:
Tơ gạo phương xa tản mạn về
Gió vào đồng lúa chín vàng hoe
Một con diều giấy không ăn gió
Ỏng ẹo chao mình xuống vệ đê
Con đường đi về mỗi ngày gần năm mươi dặm, ngồi một mình trong xe, đóng
kín cửa, đừng mở hơi nóng hay hơi lạnh để khỏi nghe tiếng quạt máy kêu vù vù mà
nghe cho rõ 'Buồn Tàn Thu của Văn Cao, nghe Họa Mi hát 'Em Ra Đi Mùa Thu của
Phạm Trọng, nghe 'Mùa Thu Paris' của Phạm Duỵ..
Ôi! nỗi buồn sao thấm thía lắm vậy!? Mùa thu, cái gì trông
cũng có vẽ lãng đãng, mơ màng và vô cùng gợi nhớ, từ những ngày còn niên thiếu,
bước vào tuổi mộng mơ, cho đến bây giờ tóc ngã màu sương muối.
Nhìn đâu đâu cũng nhuốm vẻ thu; thu ở mầu trời, mầu đất, màu hoa lá, màu
cây, màu không gian và cả 'màu thời gian... tím ngắt' trong lòng mỗi chúng ta
nữa. 'Màu thời gian' ấy, Đoàn Phú Tứ thấy trong lòng 'Tần phí và Tương Phố thì
thấy trong “Giọt Lệ Thu”:
Trời thu ảm đạm một màu
Gió thu hiu hắt thêm sầu lòng em
Trăng thu bóng ngã bên thềm
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng
Quả thật mùa thu không có gì vui, không tươi thắm như mùa xuân mới,
không rực rỡ như hè sang. Trăng bao giờ cũng mơ màng, ảm đạm, gió thu hiu hắt
lạnh lẽo và tình thu thì... cô đơn. Thế mà ai cũng thích mùa thu!?
Khi còn trẻ, tôi cứ nghĩ chỉ những ai chịu ảnh hưởng thi ca lãng mạn mới
yêu thu tha thiết, đậm đà. Không phải vậy đâu! Thu là mùa cảnh vật thay đổi nên
gây nhiều xúc cảm trong lòng người. Xúc cảm đó là gì? Là nỗi chia lỵ Mùa thu là
mùa chia ly, xa cách, một chút lạnh đã về làm cho người ta thấy lạnh lẽo; cô
đơn và nhung nhớ cũng theo về, làm cho kẻ cô đơn thêm đợi chờ khắc khoải.
Hãy đơn cử một ví dụ trong truyện Kiều. Trong đời cô Kiều có biết bao
nhiêu lần ly biệt: Kim Trọng chia tay Kiều về Liêu Dương, Kiều bán mình chuộc
cha, ra đi theo Mã Giám Sinh. Nhưng lần Thúc sinh chia tay Kiều để về thăm nhà
là lần chia tay đẹp nhứt trong đời cô kỹ nữ:
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Dặm hồng bụi cuốn chinh an
Người đi đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nguyễn Du vẽ một cảnh chia ly giữa Kiều và Thúc Sinh vào mùa thu, chắc
hẵn có chủ ý. Nguyễn Du muốn nói lên cảnh chia ly trong lòng người sao cho phù
hợp với cảnh chia ly của thiên nhiên. Người đi xa xôi lạnh lẽo được trao chiếc
áo ngự hàn. Rừng phong cũng nhuốm màu chia cách (quan san), Kiều và Thúc sinh
ai cũng cảm thấy cô đơn. Tuy nhiên, nếu hiểu hoàn cảnh Kiều và Thúc sinh, ta
thấy cách tả của Nguyễn Du không hợp. Những chữ như 'lên ngựa', 'chia bào',
nghe có vẻ như chinh phu mặc áo giáp, lên ngựa ra biên ải, phảng phất hình ảnh
chinh phu trong Chinh Phụ Ngâm. Những chữ như 'chinh an' (Kẻ lên ngựa đi xa),
'quan san' (Cửa ải trên núi), cũng na ná hình ảnh chia tay của người đi lính
thú.
Nếu nói đoạn trên có vẽ như tả một chinh phu ra trận thì đoạn thơ sau
đây đúng hơn, cũng mùa thu, chia ly:
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,
Hỏi ngày về ước nẽo quyên ca
Nay quyên đã giục oanh già,
Ý nhi lại gáy trước nhà liù lo
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió,
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông
Nay đào đã quyến gió đông
Phù dung lại nở bên sông bơ thờ
Lúc ra đi (lâm hành) chim oanh chưa về đậu trên cành liễu (xuân chưa
về), chàng hẹn mùa hạ sẽ về (ước nẽo quyên ca), nay đã mùa thu rồi (quyên giục
oanh già). Lúc ra đi, mai chưa dạn gió (mai chưa có, xuân chưa về), chàng hẹn
xuân sẽ về (độ đào bông, bông đào nở), nay xuân đã tàn (quyến gió đông, 'đông
phong' là gió xuân, theo 'ngũ hành' mùa xuân thuộc phương đông). Trong Chinh
Phụ Ngâm cũng có câu:
Xót người lần lữa ải xa
Xót người nương chốn hoàng hoa dặm dài
Hoàng hoa là hoa cúc vàng, mùa thu hoa cúc nở ('Mùa thu hoa cúc vàng
lưng dậu', Nguyễn Bính). Đó là mùa đi thú.
Ngày xưa đi lính thú (lên mạn ngược để canh phòng biên ải, cứ ba năm đổi
phiên một lần) vào mùa thụ Mùa thu là mùa chia ly, gió tây (gió thu, cũng theo
'ngũ hành', mùa thu thuộc phương tây) lạnh, làm cho người vợ nhớ chồng đang
xông pha ngoài biên ải, thương chồng chịu cảnh lạnh lùng:
Gió tây nổi không đường hồng tiện
Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa
(Chinh
Phụ Ngâm)
Khi gió thu nổi lên, chim hồng không bay ra biên ải được, người vợ không
thể gởi thư bằng chim hồng (chim hồng đưa thư).
Trong Cung Ốn Ngâm Khúc, dù không có cảnh chia ly vợ chồng như trong
Chinh Phụ Ngâm, nhưng cũng có tâm trạng cô đơn lạnh lẽo của cung nữ vì bị vua
bỏ bê:
Đền vũ tạ nhện giăng cửa mốc
Gác thừa lương thức ngủ thu phong
(Vũ tạ: nhà để múa hát, gác thừa lương: nhà để hóng mát) Nơi cung nữ múa
hát ngày trước, nay vắng vẻ (nhện giăng cửa mốc). Nơi hóng mát cùng nhà vua thì
nay gió thu thổi lạnh lùng (thức ngủ thu phong). Đi xa hơn chút, với thơ Đường,
thời đại thi ca cực thịnh của Trung Hoa thì cái ý thu trong thơ Tàu và thơ ta
không khác nhau bao nhiêu (dĩ nhiên là thơ ta chịu ảnh hưởng thơ Tàu). Rõ nhất
là trong Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, Phan Huy Vịnh dịch:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa, khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ty.
Tiễn bạn canh khuya ở bến Tầm Dương, hơi thu lạnh, lau lách đìu hiu. Kẻ
xuống ngựa, kẻ dừng chèo, chào nhau ly biệt, mời nhau chén rượu nhớ chiều nghe
tiếng sáo (trúc ty).
Nói chung, cách làm thơ, mô tả khung cảnh thiên nhiên cũng như lòng
người, trong cổ thi thường có tính ước lệ. Chẳng hạn như khi nói tới mùa thì
mùa nào thức nấy. Mùa xuân thì có hoa mai, đào để đón tết; hạ thì có hoa lan,
thu thì có hoa cúc, đông thì có trúc. Mai Lan Cúc Trúc là hoa (trúc không phải
hoa) của bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông. Ngoài ra, trong thi ca, về các mùa còn có
những ước lệ khác nữa. Mùa thu, ngoài hoa cúc, còn có lá ngô đồng (rụng):
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu
(Một lá ngô đồng rụng, ai cũng biết thu về).
Theo Kinh Dịch: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là
ngũ hành, mùa thu ở hướng tây, thuộc kim. Cho nên gió thu còn gọi là 'gió tây',
'kim phong'. Bên Tàu như thế mà ta cũng vậy. Gió thu thổi theo 'Gió mùa'
(mousson), theo hình thể địa lý của ta là từ hướng bắc xuống, mang theo cái
lạnh của Tây Bá Lợi Á, nên gọi là gió Bấc (đọc trại của bắc).
Ca dao có câu:
Ra về để áo lại đây,
Để khuya em đắp (ngọn) gió Tây lạnh lùng.
Mùa thu cái gì cũng riêng. Trăng riêng, gió riêng, hoa riêng, lá cũng
riêng, chim chóc cũng riêng, đó là chim di thệ Mùa thu gió bắt đầu lạnh, chim
bay từng đoàn về phương nam trốn tuyết. Thời thơ ấu, tôi từng thấy trên bầu
trời sông Thạch Hãn hay thời niên thiếu tôi thấy trên bầu trời sông Hương,
những đàn chim bay thành hình tam giác, con đầu đàn đi trước, bay ngang khung
trời xanh. Tôi thường xao xuyến vì cảnh thu ở quê nhà, mơ ước những chuyến đi
xa. Nay ở bên nầy cũng vậy. Mùa thu, vài khi chợt thấy những con thiên nga dừng
chân bên các hồ nước rộng trong các công viên. Chúng dừng 'chân' nghỉ trên con
đường trốn tuyết bay về Nam Bán Cầu.
Trên là nói về thơ cổ; còn thơ nửa cổ nửa kim thì có Tản Đà. Ông là cái
gạch nối giữa những 'linh hồn cũ' của thế hệ làm thơ văn bằng 'chữ vuông' và
thế hệ làm thơ văn bằng chữ quốc ngữ. Thu của Tản Đà cũng buồn lắm:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi
Trần thế em nay chán nữa rồi
Cung quế đã ai ngồi đấy chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi
Có bầu có bạn can chi tủi
Cùng gió cùng trăng thế mới vui
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Cùng nhau trông xuống thế gian cười.
Cái cười Tản Đà cũng chỉ cười gượng đó thôi, vì một người đa tình như
ông, sống ở cõi đời này cũng chỉ để buồn vì những cái rất bâng quơ:
Ngọn gió thu phong rụng lá vàng
Lá bay hàng xóm lá bay sang
Vàng bay mấy lá năm già nửa
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng
Ngọn gió thu phong rụng lá hồng
Lá bay tường bắc lá sang đông
Hồng bay mấy lá năm hồ hết
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng trông
Lá vàng là lá đầu thu: mới quá nửa năm; lá hồng là lá cuối thu: năm gần
hết. Lá từ bắc sang đông, lá từ hàng xóm bay sang, lá rụng khắp mọi nơi, làm
tác giả nhớ cảnh chia ly, nhớ chuyện thiếp phụ chàng, nhớ cảnh cô đơn, ai đó
vẫn chờ ai trong tuyệt vọng. Người VN thường giữ tình xóm làng, kể cả lòng yêu
trộm nhớ thầm một cô hàng xóm, chờ đến khi người ta đã đi lấy chồng về thăm nhà
mới dám nói ra thì đã quá trễ:
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay!
(ca dao)
Hay hoàn toàn im lặng như Nguyễn Bính:
Từ độ mồng tơi thôi trổ lá
Thì cô hàng xóm cũng thôi sang
Mồng tơi trổ lá vào mùa hạ. Khi thu lạnh tới thì cây mồng tơi cũng tàn,
còn nữa đâu mà trổ lá, và cô hàng xóm đã đi lấy chồng. Ngồi đó mà tiếc ngẫn
tiếc ngơ!
Tản Đà là thiên tài làm thơ, xuất thần làm thơ, thơ thần. Đọc thơ ông
người đọc cảm nhận cái hay một cách tự nhiên trong mỗi chữ, mỗi câu chứ giải
thích thì không giải thích được, đặc biệt là bài 'Thề Non Nước':
Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non
Trong những người làm thơ mới, kế cận với Tản Đà nhất có lẽ là bà Tương
Phố với bản 'Giọt Lệ Thu' khóc chồng là ông Thái Văn. Dù chỉ một tác phẩm nầy,
bà để lại cho đời một áng văn vừa xuôi vừa thơ làm 'chết đứng' tâm hồn bao
người mê thơ (*):
Trời thu ảm đạm một màu
Gió thu hiu hắt thêm sầu lòng em
Trăng thu bóng ngã bên thềm
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng
Anh ơi!
Thu về như gợi mối thương tâm
Mỗi độ thu sang em lại vò lòng than khóc
Mỗi năm có một lần thu
Nhưng thu năm nay đi, năm sau còn trở lại
Hỏi ba sinh hương lửa
Thì ái ân kia dễ mấy kiếp hẹn hò nhau
Chẳng hay cơ trời dâu bể vì đâu
Xui nên chăn gối vừa êm
Sắt cầm dìu dặt ngón đàn
Bỗng ai xô lộn
Bình tan gương vỡ
Cho người dỡ duyên
Anh đi hồi ấy
Năm tháng thường về
Người không dấu vết
Năm tháng bâng khuâng
Sầu lại nhớ
Thương nhau vò võ khóc vì nhau...
Hình ảnh và chữ dùng trong 'Giọt Lệ Thu' không ra khỏi những ước lệ thơ
cổ, điều đó đương nhiên vì tác giả là người của đầu thế kỷ 20, lúc phong trào
thơ mới vừa lên, chưa mạnh, nhưng cách phô diễn tình cảm như của bà trong đó
thì đã mới mẻ lắm, mãnh liệt lắm. Bốn câu đầu bà làm theo thể lục bát, một thể
thơ dân gian rất phổ cập; phần sau viết theo thể trường đoản, niêm luật không
cần nghiêm nhặt lắm nhưng lại là văn 'biền ngẫu' (lời văn đối nhau), rất phổ
thông trong cổ văn.
Ngay cả những người làm thơ mới như Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư
thường đã phá những khuôn mẫu, ước lệ thơ cũ nhưng nhiều khi vẫn không thoát
khỏi ảnh hưởng của nó.
Chẳng hạn như bài 'Nguyệt Cầm' của Xuân Diệu, ngôn ngữ và thi tứ mang
rất nhiều âm hưởng Tỳ bà Hành:
Thu lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước lạnh trời ơi
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người.
(Nguyệt Cầm, XD)
Thu lạnh, tiếng đàn lạnh, trăng càng thêm tỏ. Tiếng sỏi vang dưới bước
chân người. 'Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người'. Rõ ràng Xuân Diệu tả lại
cảnh chia tay một đêm thu trên bến Tầm Dương giữa Bạch Cư Dị và người bạn.
Trăng nhớ bến xưa và nhạc nhớ ngón đàn tuyệt vời của kỷ nữ đêm trăng đó đã đàn
cho Bạch và người bạn nghe. Tâm sự người ca kỷ về già đã làm cho Bạch Cư Dị
khóc. Cái hay Xuân Diệu thấy mà không có trong Tỳ Bà Hành là tiếng sỏi kêu lên
dưới chân người đi. Tiếng sỏi ấy như tiếng hận của cõi lòng ly biệt.
Điều tôi thắc mắc là loại đàn của người kỷ nữ đánh hôm đó là đàn tỳ-bà
(Tỳ bà hành), rất phổ cập trong nhạc Tàu, hình bầu ở dưới, phía trên nhỏ lại mà
cũng là cần đàn. Hình cây đàn tỳ bà như quả lệ (Xem bài 'Tỳ bà hay Nguyệt cầm?'
cùng tác giả) Xuân Diệu đổi thành Nguyệt cầm (đàn nguyệt), dưới là bầu tròn như
mặt trăng, trên là cần đàn.
Nói về thơ mới mà cũ, không thể không nói đến một thi nhân nổi tiếng,
một tác phẩm nổi tiếng: Quách Tấn với tập thơ 'Mùa Cổ Điển'. Như ông đã nói
trong nhan đề cuốn thơ của ông, mặc dầu thơ ông xuất hiện trong cùng phong trào
thi ca lãng mạn đầu thế kỷ 20, thơ ông là thơ cổ điển, có nghĩa phần nhiều làm
theo thể thơ Đường luật, và cả ý thơ, lời thơ đều cổ điển cả. Bài thơ hay nhứt
của ông được nhiều người ưa thích là bài 'Đêm Thu Nghe Quạ Kêu':
Từ ô y hạng rủ rê
sang,
Bóng lẫn đêm thâu
tiếng rộn ràng
Trời bến Phong
Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích
Bích nguyệt mơ màng
Bồi hồi thương kẻ
nương sông bạc.
Lặng lẽ nhà ai
rụng giếng vàng
Tiếng dội lưng
mây đồng vọng mãi
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang.
(Quách Tấn)
Ông là nhà thơ mới nhưng thơ ông rất nhiều điển tích, là tính cách đặc
biệt của thơ cổ: 'Ô y hạng' là 'Ngõ áo thâm'. Theo tục xưa, các gia đình làm
quan to nhiều đời ở chung một xóm, ai ai cũng mặc áo thâm, để chứng tỏ thuộc
nhà quan. Dòng họ Nguyễn Du ở Hà Tĩnh mấy đời đều làm quan to trong triều vua
Lê chúa Trịnh; dòng họ Phan Đình Phùng, 12 đời, đời nào cũng có người đỗ đại
khoa (tiến sĩ), họ ở chung trong một 'ô y hạng'. Bến Phong Kiều là lấy chữ
trong bài thơ 'Phong Kiều Dạ Bạc' của Trương Kế bên Tàu, bến sông Xích Bích là
chỗ Khổng Minh bày mưu cho Tôn Quyền phá quân Tào trên sông Trường Giang, về
sau ông Tô Đông Pha có làm bài phú Xích Bích nói tới trận đánh lớn nầy trong
lịch sử Tam Quốc. Thụy Khuê thuật lại trên đài RFI rằng khi còn trẻ, một hôm
Quách Tấn qua làng bên bốc thuốc cho mẹ, trên đường về, đi qua một rặng tre,
bỗng một đàn quạ trong tre thức giấc kêu vang lên làm ông kinh hãi. Ban đầu đề
bài thơ là 'Nghe quạ kêu', sau Lưu Trọng Lư đề nghị ông thêm vào hai chữ 'Đêm
thu (Đêm Thu Nghe Quạ Kêu) cho bài thơ thêm chút thi vị.
Về thơ mới, Xuân Diệu là một trong những người đi tiên phong. Không như
bài trên của Quách Tấn, thêm vào chữ 'Đêm Thu' thành ra bài thơ nghe có vẽ tả
cảnh mùa thu, bài 'Đây Mùa Thu Tới' của XD là chọn ngay đề tài mùa thu để làm
thơ:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới, mùa thu tới,
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò.
Mây vẫn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia ly
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?
Trong thơ cổ, cây liễu tượng trưng cho người đàn bà hoặc sắc đẹp người
đàn bà. Trong Kiều có câu:
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Giải thích theo thơ Tàu: 'Bồ liễu chi tư vọng thu nhi tiên diêu'. Cây bồ
cây liễu là thứ cây yếu ớt, hễ trông thấy mùa thu tới thì rụng và héo rồi, ví
như người đàn bà yếu ớt vậy. (Truyện Thúy Kiều, Trần Trọng Kim-Bùi Kỷ chú
thích, trang 98).
Trong Kiều cũng có câu:
Khi về hỏi liễu Chương Đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên ta
Sách Thái Bình Quang Ký chép rằng Hàn Hoành đời Đường lấy người kỷ nữ là
Liễu thị, đi làm quan xa để lại tại phố Chương Đài ở kinh đô Trường An, làm bài
thơ gởi về có câu: 'Chương Đài liễu! Chương Đài liễu! Tích nhật thanh thanh kim
tại phủ, giả ưng phan chiết tha nhân thủ'. Nghĩa là: 'Liễu Chương Đài! Liễu
Chương Đài! Ngày nọ xanh xanh nay còn không, hay là tay khác đã bẻ mất rồi.'
Cuối đời Thiên Bảo, Liễu thị bị tướng Phiên cướp mất. Sau Hứa Tuấn cướp lại
được, trả lại cho người cũ.
(Theo Tự điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh và truyện Thúy Kiều của Trần
Trọng Kim và Bùi Kỷ) tả nhan sắc Dương Quí Phi, Lý Bạch có câu:
Phù dung như diện, liễu như mi
(Mặt như hoa phù dung, mày như lá liễu).
Hoặc ta thấy câu:
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Chợt thấy cây dương liễu đầu đường, lấy làm hối hận xui chồng ra đi tìm
khanh tướng. Đoàn Thị Điểm diễn như sau trong Chinh Phụ Ngâm:
Chợt ngoảnh lại thấy màu dương liễu
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.
Dù là thơ mới, Xuân Diệu cũng khó thoát ra khỏi những ý cổ. Lá liễu như
tóc người con gái với những giọt nước mắt đọng lại trên đó:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Với Xuân Diệu, lá liễu còn là tóc quấn khăn tang. Cái buồn và tang tóc
đó làm cho Xuân Diệu phải thốt to lên: 'Đây mùa thu tới! Mùa thu tới!' Áo mùa
thu, may bằng lá vàng. Trước ông, ít khi người ta nói vậy.
Cảnh thu bây giờ buồn: Hoa rụng. Lá vàng trong vườn chuyển qua sắc đỏ.
Những cành khô như xương giơ cao lên, mỏng manh. Gió thổi làm những chiếc lá
còn lại trên cành rung rinh theo gió.
Trăng buồn ngẫn ngơ, nhớ buồn và chia ly. Trời nhiều sương khói nên
khung cảnh ở xa đã mờ đi. Rét mướt đã luồn theo gió thu trở về. Mùa thu tới,
cuộc sống như chậm lại như cổ nhân nhận xét: Xuân sanh, Hạ trưởng, Thu thâu,
Đông tàng (trữ). Thu thâu là cuộc sống chậm lại, nhựa sống trong thân cây chảy
chậm lại, dồn nén trong thân, rễ cây. Người ta ít ra ngoài hơn và những chuyến
đò ngang trở nên vắng khách. Chim bay về phương nam tìm hơi ấm. Trời, đất,
người, chim chóc vạn vật đều nhuốm vẽ chia lỵ Truớc cảnh buồn và chia ly đó,
các cô gái bỗng thấy lòng bâng khuâng với một nỗi buồn xa xôi vô cớ, đứng tựa
cửa nhìn ra khung trời xa rộng. Hình ảnh nầy rất mới. Trong thơ cũ, con gái
phải kín cổng cao tường, khép kín ở phòng thẹ
Tư tưởng đã mới, cách diễn đạt của Xuân Diệu không những mới mà Tây, rất
Tây. Không ai nói 'Hơn một loài hoa mà nói 'Đã có một loài hoa. Chỉ 'rủa'
(jurer) gốc là tiếng tây; người ta không nói: Nàng trăng tự ngẫn ngơ (động từ
tự phản hồi) mà nói trăng ngẫn ngơ; sương mờ, khói làm nhạt non ở xa, chứ không
nói ngược như Tây: 'Non xa khởi sự nhạt sương mờ'. Trong gió đã có rét, không
nói 'Rét mướt 'luồn' trong gió'. Đặc biệt những chữ rung rinh (lá) diễn tả độ
rung chiếc lá khi gió thổi.
Có thể đây là một trong những bài thơ đầu tay của Xuân Diệu, ý tưởng tuy
có mới nhưng kỹ thuật chưa hoàn hảo. Bài ‘Ý Thu sau đây hay hơn nhiều:
Ý Thu
Những chút hồn buồn trong lá rụng
Bị nhầu ai tưởng dưới trăm chân
Bông hoa rứt cánh, rơi không tiếng
Chẳng hái mà hoa cũng hết dần
Dưới gốc nào đâu thấy xác ve
Thế mà ve đã tắt theo hè
Chắc rằng gió cũng đau thương chứ
Gió vỡ ngoài kia, ai có nghe
Hôm nay tôi đã
chết trong người
Xưa hẹn nghìn năm
yêu mến tôi
Với bóng hình
xưa, tăm tiếng cũ
Cách xa chôn hết
nhớ thương rồi
Yên vui, xây dựng
bởi nguôi quên
Muốn bước trong
đời phải giẫm trên
Muôn tiếng kêu
than thầm lẵng lặng
Nhưng hoa có thể
cứ lâu bền
Ơ nhỉ! Sao hoa
lại phải rơi
Đã xa sao lại hứa
yêu hoài
Thực mà dị quá!
Mà tôi nữa
Sao nghĩ làm chi
chuyện nhạt phai!
Cái ý thu của Xuân Diệu chính là chiếc
lá có linh hồn, có phải ông chịu ảnh hưởng từ La Mélacholie de René của
Chateaubriand (*). Lá rụng xuống đất, tưởng như có trăm bàn chân dày xéo lên
nó. Hoa âm thầm rụng. Chẳng ai hái mà hoa cũng không còn trong vườn. Những con
ve chưa chết, không thấy xác chúng dưới gốc; sao tiếng ve đã tắt? Gió mang đau
thương về, và vỡ ở ngoài kia. Bài nầy chỉ có hai đoạn đầu là hay.
Ít ai như Xuân Diệu, ông thường sợ mất
hiện tại. Tiếng thu nầy là tiếng thu cũ, tất cả rồi qua, sẽ phai nên Xuân Diệu
cũng sợ hiện tại phôi phạ Ý thu của Xuân Diệu là xa cách, ly biệt, là nhớ, là
thương, là giẫm đạp lên từng chiếc lá là giẫm đạp lên đau khổ của lòng. Ông nói
tới sự lâu bền của hoa. Ý hoa Xuân Diệu nói có lẽ là tình yêu, như một đóa hoa
nảy nở trong lòng người, có thể chỉ có hoa đó, hoa tình yêu, mới lâu bền. Bài
nầy khác với bài 'Đây Mùa Thu Tới', nói tới 'cảnh thu thì ít mà nói tới 'ý thu
thì nhiều, y như đề bài: Yêu đương, đau khổ và ly biệt thì nhiều, quả thật đó
là ý nghĩa của mùa thu vậy.
Nói tới thu, người ta phải nói tới
trăng vì vào mùa thu bao giờ trăng cũng đẹp. Có lẽ vì thế mà có tết Trung Thụ
Trong các thi sĩ tiền chiến, ai cũng ít nhiều nói đến trăng nhưng nói nhiều
nhất có lẽ là Hàn Mặc Tử. Ông viết cả tập văn xuôi 'Chơi Giữa Mùa Trăng' và
trong rất nhiều bài thơ, ông nói tới trăng. Tuy nhiên, trước khi nói tới trăng
của Hàn Mặc Tử, ta hãy trở lại với trăng Xuân Diệu:
Cũng trong bài 'Nguyệt Cầm', Xuân Diệu
có mấy câu khá hay:
Trăng nhập vào
đây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng
nhớ hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn
lặng, ơi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tràn
như lệ ngân
Mây trắng trời
trong đêm thủy tinh
Lung linh bóng
nguyệt bỗng rung mình
Vì nghe nương tử
trong câu hát
Đã chết đêm rằm
thu nước xanh
Nói tới ngón đàn của người kỹ nữ đêm
nào trên bến Tầm Dương, Tỳ Bà Hành viết là:
Tiếng cao thấp
lựa chen lần gảy,
Mâm ngọc đâu lần
nảy hạt châu
Trong hoa oanh
riù rít nhau
Nước tuôn róc
rách chảy mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh
giây manh ngừng đứt
Ngừng đứt nên
phút bật tiếng tơ
Âm thầm đau giận
ngẫn ngơ
Xem ra lặng lẽ
bây giờ càng hay
Lấy ý trong Tỳ Bà Hành, thơ Xuân Diệu
cũng lạ: Trăng nhập vào cung đàn lạnh. Trăng rất sáng (trăng ngần) mang cả niềm
thương nỗi nhớ, không phải nhớ thương người đi xa mà nhớ thương tuổi trẻ đã qua
mất rồi, vì chính trong Tỳ Bà Hành có câu tả thân phận kỹ nữ khi già:
Về già phải kết
duyên cùng khách thương
Khách trọng lợi
khinh đường ly cách
Mãi buôn chè sớm
tếch ngàn khơi
Thuyền không đỗ
bến mặc ai
Quanh thuyền
trăng dãi nước trôi lạnh lùng.
Trong Tỳ Bà Hành, Bạch Cư Dị tả tiếng
đàn của kỹ nữ nghe như tiếng ngọc (hạt châu) rơi trên mâm ngọc. Xuân Diệu thì
ví như giọt nước mắt rơi xuống, không nói có rơi xuống mâm ngọc hay không, dĩ
nhiên, giọt nuớc mắt rơi không tạo thành tiếng như viên ngọc rơi trên mâm ngọc.
Phải nói là trí tưởng tượng của Xuân
Diệu khá phong phú, ông vừa chịu ảnh hưởng cổ văn, vừa chịu ảnh hưởng thơ văn
Pháp, có cách diễn đạt mới hơn, thoáng hơn.
Bài 'Chiều' của Xuân Diệu, tôi đoán
tác giả tả một cảnh chiều thu vì mở đầu Xuân Diệu nói ngay đến sương. Chiều thu
rất nhiều sương:
Sương trinh rơi
kín từ nguồn yêu thương
Phất phơ hồn của
bông hường
Trong hơi phiêu
bạt còn vương maù hồng
Nghe chừng gió
nhớ qua sông
E bên lau lách
thuyền không vắng bờ
Không gian như có
dây tơ
Bước đi sẽ đứt,
động hờ sẽ tiêu
Êm êm trời ngẫn
ngơ chiều
Lòng không sao cả
hiu hiu sẽ buồn
Đúng là cái lãng mạn thi ca tiền
chiến. Người ta buồn là phải có lý dọ Xuân Diệu buồn chẳng có cớ nào hết. Chỉ
là một buổi chiều êm, ngẫn ngơ, lòng buồn hiu hiụ Đúng là tính chất đặc biệt
của thời kỳ lãng mạn mà trước và sau nó, ít khi thấy có. 'Gió nhớ' (qua sông)
là một ý rất lạ và rất hay. Không phải một lần Xuân Diệu nói như thế, ông nói
nhiều lần:
Hôm nay trời nhẹ
lên cao
Tôi buồn không
hiểu vì sao tôi buồn
Lá hồng rơi lặng
ngõ thuôn
Lá hồng rơi, có nghĩa hôm nay là mùa
thu. Cảnh thu làm ông buồn vớ vẫn.
Xuân Diệu (?) có hai câu thơ tả cảnh
thu, được đánh giá là hai câu hay nhứt trong thi ca lãng mạn:
Ô hay vàng rơi
cây ngô đồng
Vàng rơi, vàng
rơi thu mênh mông!
Trong các thi sĩ tiền chiến, không ai
nói thu vui, tươi sáng. Họ chịu ảnh hưởng cả hai nền văn học Tàu và Tây; Tây
thì có Chauteaubrian, Lamartine, Verlaine, Valerỵ.. với những nỗi buồn mênh
mông và sâu sắc của anh chàng René trong Mélancholie De René, của Chanson
d'Automne thì làm gì có vui, mà rặt một thứ buồn lãng mạn, vô cớ; Tàu thì có 'Phong
Kiều Dạ Bạc' của Trương Kế, thơ của Thôi Hiệu, của Lý Bạch, 'Tỳ bà Hành' của
Bạch Cư Dị, mùa thu bao giờ cũng nhuốm đầy cả màu quan tái, bẽ bàng, lạnh lẽo.
Điều đáng nói hơn nữa, cái buồn của thi sĩ tiền chiến khác với thơ xưa của ta
hay của Tàu ở chỗ nó thê lương hơn, ảm đạm hơn, buồn đến nỗi như Hàn Mặc Tử
'Không nói được nửa lời':
Ấp úng không ra
được nửa lời
Tình thu bi thiết
lắm thu ơi
Vội vàng cánh
nhạn bay đi trớt
Heo hắt hơi may
thoảng lại rồi
Nằm gắng đã không
thành mộng được
Ngâm tràn cho đỡ chút
buồn thôi
Ngàn trùng bóng
liễu trông xanh ngắt
Cảnh sắp về đông,
mắt sẽ vơi.
Cảnh thu buồn bi thiết, ông muốn nhờ
nhạn đưa thư cho 'ai đó' (*) ở Gia Hội (Huế) mà nhạn đã bay đi mất rồi ('Vội
vàng chi lắm nhạn lưng mây, chầm chậm cho mình gởi chút đây' -Gởi nhạn HMT).
Gió heo may thổi lại rồi, cảnh mênh mông toàn là bóng liễu...
Như đã nói, thu thường đi với trăng,
trăng trung thu tròn và đẹp, nhưng khi trăng còn chỉ một nửa, người thơ lại
trách:
Hôm nay có một
nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai
cắn vỡ rồi.
Dùng chỉ 'cắn vỡ' (trăng) như ông là
mới lắm, xưa nay chưa ai nói vậy. Dùng chữ 'ai' (cắn vỡ) không những là hỏi mà
hàm ý trách!
Mùa thu là mùa ly cách, lạnh lẽo, cô
đơn và buồn bã. Đó là tính ước lệ trong thơ cũ cũng như thơ mới:
Đây bãi cô liêu
lạnh hững hờ
Với buồn phơn
phớt, nắng trơ vơ
(Cuối thu HMT)
Người ta nói buồn dìu dịu, buồn nhẹ
nhàng, buồn bâng khuâng. Ông nói buồn phơn phớt. Có lẽ Hàn Mặc Tử làm bài thơ
nầy khi về sống ở bãi biển Qui Hòa (Ghềnh Ráng) sau khi bị bệnh phung. Thời bấy
giờ, khu này rất vắng vẽ làm cho Hàn Mặc Tử thấy cô đơn và buồn. Gia đình dựng
cho Hàn Mặc Tử một cái chòi lá bên bờ biển, để ông ở đó một mình. Bãi cô liêu
ông nói trong câu thơ trên là bãi biển Qui Hòa nầy chăng? Theo thi sĩ Quách Tấn
kể lại, mái lá căn chòi bị thủng nhiều chỗ, Hàn Mặc Tử phải lấy bìa che lại.
Bãi cô liêu hay vũng cô liêu như trong bài thơ sau đây:
Ai đi lẵng lặng
bên làn nước
Với lại ai ngồi
khít cạnh tôi
Cớ sao ngậm cứng
thơ đầy miệng
Không nói không
rằng nín cả hơi
Chao ơi ghê quá
trong tư tưởng
Một vũng cô liêu
cũ vạn đời
Có người viết là 'bãi cô liêu'. 'Bãi
cô liêu' là nói về chiều rộng, 'vũng cô liêu' là nói về chiều sâu. Sự cô liêu
của Hàn Mặc Tử lớn như thế, có khi ông cảm nhận nó bằng nỗi rộng mênh mông, có
khi bằng nỗi sâu hun hút.
Mây biến thành mưa, Hàn Mặc Tử không
nói thế, ông viết là:
Mây vỡ hằng hà sa
số lệ
Là nguồn ly biệt
giữa cô đơn
Sao không tô điểm
nên sương khói
Trong cõi lòng
tôi buổi chập chờn.
(Cuối thu, HMT)
Mưa đem ly biệt tới, trong khi đã cơ
đơn rồi. Có thể Hàn Mặc Tử rơi vào cảnh cô đơn cùng cực. Lúc nầy, với ông, cái
chết đã gần kề nên thơ ông có nhiều hình ảnh kinh khiếp: 'Và ai gánh maù đi
trên tuyết'. Có lẽ ông thấy maù đó trên trên tay chân bệnh tật của ông ta
chăng? Tội nghiệp, ông qua đời lúc mới 28 tuổi. Không những cảnh thu muộn đang
héo hon mà chính lòng ông, đang bị ám ảnh vì cái chết, cũng đang héo hon vậy:
Thu héo nấc thành
những tiếng khô,
Một vì sao lạc
mọc phương mô
Người thơ chưa
thấy ra đời nhỉ
Trinh bạch ai
chôn tận đáy mồ.
Đúng là lời nói của một người sắp
chết, 'Điểu chi tương tử kỳ minh giả ai, nhân chi tương tử kỳ ngôn giả thiện'.
Thơ ông, khi ông sắp chết, trở nên khó hiểu mà đó cũng là điều thiện chăng? Các
nhà phê bình văn học cho rằng khi biết mình còn sống chẳng bao lâu nữa, thơ của
ông thành bí hiểm. Sự bí hiểm đó nằm trong tôn giáo, cũng là điều thiện vậy.
Người ta nói thu mênh mông sương khói, ông thì tả cảnh thu héo, cành khô đi và
có tiếng nấc trong cành cây lá cỏ khô héo đó. Ông tìm một vì sao lạ, một vì sao
lạ trong kinh thánh hay một vì sao của đời ông, như Vũ Trọng Phụng viết: 'Tôi
sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu'. Vì sao đó là bản mệnh của mỗi chúng tạ
Trong những năm cuối đời, bị đau khổ tinh thần cũng như thể xác dằn vặt, bị ám
ảnh bởi cái chết, và mong cầu một cuộc đời hạnh phúc mai sau, thơ ông mang màu
sắc tôn giáo, -Thiên chúa giáo, khá đậm. Vì sao lạ tượng trưng cho thánh thần
xuất hiện. Hàn Mặc Tử tìm một vì sao lạ nhưng lại để mong cầu một nhà thợ
Đặc biệt thơ ông hay nói tới maù, là
nói tới maù khô ở những vết thương trên da thịt ông đó chăng? Maù ở đây không
phải là maù trong đấu tranh chém giết như những nhà thơ Cộng Sản.
Maù đã khô rồi,
thơ cũng khô
Tình ta chết yểu
tự bao giờ
(Trút linh hồn, HMT)
Thơ ông là maù, nên khi maù khô thì
thơ cũng khô, thơ cũng không còn. Nếu maù là tượng trưng cho đau khổ thì thơ
ông cũng vậy. Nó làm cho Hàn Mặc Tử trở thành điên dại:
Thưa tôi không
dám say mê
Một mai tôi chết
bên khe ngọc tuyền
Bây giờ tôi dại
tôi điên
Như đã nói, thơ mới chịu ảnh hưởng thi
ca lãng mạn Pháp khá đậm. Muốn cho tình cảm thật dạt dào, sôi động, thắm thiết,
người ta nhiều khi vay mượn tình cảm, vay mượn đề tài, vay mượn nỗi buồn, nỗi
nhớ của người khác để rên xiết than vãn, như Chế Lan Viên chẳng hạn. Ông là
người kinh, họ Phan (Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ, Quảng Trị), lấy bút hiệu là
Chế Lan Viên, để người ta lầm tưởng ông là người Chiêm (Có thời ông làm thông
phán ở Phan Rang) để dễ khóc với 'Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đí.
Vay mượn, người ta cũng gọi là thương
vay khóc mướn thì không hay dù có khi người ta cố viết cho thật não nùng:
Tôi có chờ đâu,
có đợi đâu
Đem chi xuân lại
gợi thêm sầu
Với tôi tất cả
như vô nghĩa
Tất cả không
ngoài nghĩa khổ đau
Ai đi trở lại mùa
thu trước
Nhặt lấy cho tôi
những lá vàng
Cùng với lá vàng
tan tác rụng
Về đây đem chắn
nẽo xuân sang.
Ông không chờ mùa xuân vui tươi, ông
chỉ muốn mùa thu có lá vàng rụng tan tác.
Trong khi đó, Hồ Dzếnh, một người
không phải là một trăm phần trăm VN (bố ông là người Tàu, không nói sõi tiếng
Việt) thì thơ của ông lại rất VN:
Trời không nắng,
cũng không mưa
Chỉ hiu hiu rét
cho vừa nhớ nhung
Đúng là cảnh dịu
dàng của mùa thu!
Đâu hình tàu chậm
quên ga,
Buâng khuâng gió
nhớ về qua lá dày
(Mùa thu năm ngoái, HD)
Làm gì có tàu quên ga, chỉ ông có khi
quên mất đường về vì cái tính giang hồ lãng đãng của nghệ sĩ thì có. Nhớ về
trong gió và qua lá cây. Ý đó thật lạ! Ông lấy ý của Xuân Diệu hay Xuân Diệu
lấy ý của ông. Xuân Diệu viết 'Gió nhớ qua sông' còn ông thì viết: 'Gió nhớ về
qua lá dày.'
Chữ 'năm ngoái' ở đề bài thơ là một
chữ rất VN và rất dễ yêu. Nguyễn Khuyến cũng có 'Mấy chùm trước giậu hoa năm
ngoái'.
Cái đặc biệt trong thơ Hồ Dzếnh là sự
chừng mực, không có cái gì quá lắm, đúng là cái dìu dịu của thu: 'Không nắng
cũng không mưa', rét cũng vừa phải: 'hiu hiu rét'. Thương nhớ cũng chừng mực:
'vừa' (nhớ thương). Nhưng cái dìu dịu vừa phải của Hồ Dzếnh thì lại có một kết
quả sâu sắc: 'quên gá, như trong câu đầu. Bài 'Thú của ông, bốn câu trên không
được hay lắm, nhưng các đoạn sau thì ý tưởng thật mới lạ mà thơ thì rất nhẹ
nhàng:
... tất cả một
mùa thơ
Tất cả lều tranh,
cả khói mờ
Cả gió mây đưa
buồn lắng xuống
Cả lòng tôi với
cả lòng cô
Có một nghìn cây
rũ rượi buồn
Một nghìn sông
rét, vạn hoàng hôn
Dăm thân thiếu nữ
gầy như trúc
Đứng chịu tang
trời đổ bóng đơn
Thu xa bằng gió
bằng mây
Không gian thở
nhẹ buồn vây chìm chìm
Lòng không ai cấm
mà im
Không dưng bỗng
nhớ, không tìm bỗng mong
Nơi tôi còn ít lá
lòng
Chiều nay rơi nốt
vào trong lá rừng.
Khổ thơ giữa thật hay. Rừng có một
nghìn cây là một rừng cây buồn, một nghìn sông rét, vạn hoàng hôn. Hai câu nầy
tả cảnh toàn bộ không gian và thời gian, tất cả đều buồn. Những cây tre vươn
lên qua các lều tranh có khói mờ bốc lên, giữa cảnh cô đơn, ảm đạm.
Có một độ, trên con đường lưu lạc Bắc
Nam trước 1945, Nguyễn Bính ghé lại Huế, thấy người ở hoàng thành còn mang màu
cổ kính:
Mùa thu hoa cúc
vàng lưng giậu
Thiếu nữ mơ màng
áo trạng nguyên
Hoa cúc nở vào mùa thu mà ở Huế, trước
1945 còn rất nhiều vườn, nhiều phủ của các ông hoàng bà chúa, quan quyền. Hoa
cúc nở vàng bờ giậu khiến các cô thiếu nữ mơ màng việc lấy chồng, mơ được làm
vợ một ông trạng nguyên (áo trạng nguyên màu vàng phải là trạng nguyên được vua
chọn làm phò mã (?), dù các khoa thi đình của triều đình Huế không chấm trạng
nguyên. Huế đổi thay kể từ khi Pháp đặt nền đô hộ, và càng nhiều hơn nữa khi vị
vua cuối cùng triều Nguyễn không còn ở trong Tử Cấm Thành. Cùng với vua quan và
cung phi mỹ nữ, hoa cúc vàng cũng lui sâu vào dĩ vãng, và chiếc áo màu vàng của
quan trạng trở thành huyền sử cố độ
Ngay từ thời kỳ đó, khi bước chân
giang hồ của Nguyễn Bính dừng lại Huế cũng chỉ để thấy:
Trường Tiền vắng
ngắt người qua lại
Đập đá mênh mông
bến nước đầy
Đò vắng khách
chơi nằm bát úp
Cầu Trường Tiền vắng khách, đò vắng
khách, đập đá mênh mông nước, gió heo may đã về. Cơn lạnh của gió heo may xô
người ta vào trong nhà, đóng cửa lại. Ai từng ở Huế, mới biết cái lạnh của Huế
khá đặc biệt, thấm thía. Trong cái lạnh của Huế, nhiệt độ không xuống thấp như
ở Bắc Mỹ nầy, nhưng sao nó lại nhức buốt xương tủy, xót xa da thịt đến làm
vậy?!
Mùa Thu VN.
Tôi muốn nhắc lại đây một mùa thu rất
xưa, bài Vịnh Thu của bà Ngô Chi Lan:
Gió vàng hiu hắt
cảnh tiêu sơ
Lẻ tẻ bên trời
bóng nhạn thưa
Giếng ngọc sen
tàn bông hết thắm
Rừng phong lá
rụng tiếng như mưa
Kể từ bài nầy cho đến những bài tả
cảnh thu về sau như trong truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung Ốn Ngâm Khúc, Hoa
tiên, v, v... bài nào tả cảnh thu cũng hay nhưng nghe ra có vẽ là thu bên Tàu:
Có giếng ngọc (ngọc tỉnh), có lá ngô đồng, có rừng phong, có bóng nhạn. v v...
Ngay cả những tác phẩm thi ca lãng mạn, cũng không hoàn toàn thoát khỏi những
ước lệ đó. Trong thơ Hàn Mặc Tử ta thấy:
Vội vàng chi lắm
nhạn lưng mây
hoặc:
Trước sân anh thơ
thẩn,
Đăm đăm trông
nhạn về
(Gái
quê)
Thu Điều
(Mùa Thu câu cá)
Ao thu lạnh lẽo
nước trong veo
Một chiếc thuyền
câu bé tẻo teo
Nước biếc theo
làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió
sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lững
trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co
khách vắng teo
Tựa gối ôm cần
lâu chẳng được
Lá vàng trước gió
sẽ đưa vèo
Thu Vịnh
(Vịnh cảnh thu)
Trời thu xanh
ngắt mấy từng cao
Ngõ trúc quanh co
gió hắt hiu
Nước biếc trông
như tầng khói phủ
Song thưa để mặc
bóng trăng vào
Mấy chùm trước
giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên
không ngỗng nước nào
Nhân hứng cũng
vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn
với ông Đào.
Thu Ẩm
(Mùa Thu uống rượu)
Năm gian nhà cỏ
thấp le le
Ngõ tối đêm khuya
đốm lập lòe
Lưng giậu phất
phơ làn khói nhạt
Làn ao lóng lánh
bóng trăng loe
Lưng trời ai
nhuộm mà xanh ngắt
Mắt lão không
viền cũng đỏ hoe
Rượu tiếng rằng
hay hay chẳng mấy
Độ năm ba chén đã
say nhè.
Nguyễn Khuyến mô tả ba cái thú vui đặc
biệt của người Việt trong mùa thu: câu cá, uống rượu và làm thợ Đó là những thú
vui thanh cao ngày xưa. Câu cá là thú vui cô đơn. Vần 'eo' là một vần nghèo (ít
chữ), lại khó gieo. Cảnh câu cá ở đây là một cảnh rất quen thuộc ở miền quê
nước ta, nhất là vùng trung châu Bắc bộ và vùng quê Trung bộ, vùng có nhiều hồ
ao. Đây là ao làng, nơi dân làng có thể ra đó tắm giặt, lấy nước. Cảnh Nguyễn
Khuyến mô tả ở đây như một bức tranh quê VN. Những chi tiết trong tranh đơn sơ,
giản dị, bình thường, màu sắc rất quen thuộc. Một chiếc thuyền câu trên mặt ao
màu xanh. Phải là thiên tài mới vẽ được cái lạnh lẽo trên mặt hồ thu; mặt nước
lăn tăn sóng (gợn tí), có chiếc lá vàng (tương phản mặt hồ xanh) bay ngang trên
mặt nước (đưa vèo). Bầu trời xanh ngắt, vắt ngang qua đó là mấy tầng mây.
Để tiện lấy nước sinh hoạt, làng quê
VN thường nằm bên một con sông hay một hồ nước. Do đó, ngồi trên hồ, tác giả
thấy cái ngõ làng quanh co, vắng bóng người. Tất cả hình ảnh trên, rất thường
thấy ở miền quê VN, ngay cả cái ngõ trúc cũng không lạ gì với chúng tạ Những
người ở thành phố cũng có thể thấy ngõ làng qua 'Xóm Giếng Ngày Xưa' của Tô
Hoài: 'Ngõ thăm thẳm xuyên vào ruột hai hàng tre, tre mọc liền sát khít gốc, ở
trên, cành và lá giao nhau, lối mòn đi giữa đôi bờ tre cũ. Bốn mùa màu lá tre
bóng rợp che con đường đất mịn. Ngoài kia, lượn một con sông xinh. Dòng nước về
mùa hè trong và mát, liếm vào bờ cỏ chảy lừ đừ. Con sông bé bỏng đựng bóng bờ
tre theo đường ngõ xóm rồi vòng ngoèo sang phía khác, đến đằng kia sông lại ló
hình, nhưng đã xa đi rồi, con sông vui vẻ! Nó đem nước dẫn vào những cánh đồng
xa lạ khác để cái ngõ tre ngơ ngác đứng lại một bên bờ. Con đường xóm thì ngẫn
ngơ bò vào trong ngõ, qua một vòm cổng gạch phủ cỏ và rêu xanh hun hút'.
Tất cả những hình ảnh đó, vắng và
buồn, lặng lẽ; lặng lẽ đến nỗi tác giả nghe được cả tiếng cá lâu lâu móng nước
dưới chân bèo. Âm thanh và màu sắc được phối trí rất hài hòa. Thi sĩ không cần
sáng tạo vì âm thanh đó, màu sắc đó là những cái rất tự nhiên ở làng quệ Cái
tài của tác giả là phô diễn ra bằng lời. Cái tĩnh lặng của miền quê VN là cái
tĩnh lặng của cuộc sống, của thiên nhiên cả ngàn năm không có gì thay đổi trước
khi có cuộc 'Cách mạng mùa thú, tiếp sau là cuộc 'Cải cách ruộng đất' mà tiếng
than khóc và maù đỏ tuông ra tương phản với không khí tĩnh lặng của ruộng đồng,
các lũy tre làng êm ã.
Bài 'Thu Vịnh' vừa tả cảnh vừa tả
tình. Đó cũng là cảnh thu VN, một cảnh thu ở miền quê giống như bài 'Thu điêù'.
Trời xanh cao, ngõ xóm vắng vẻ, gió thổi nhẹ (hắt hiu), cửa sổ mở cho bóng
trăng chiếu vào (song thưa). 'Mặc' là chữ nôm (Song thưa để mặc) đưa vào thơ
khó hay. Tuy vậy, sau nầy Thế Lữ lại dùng cũng khá hay ('Điềm nhiên mặc kệ con
người vớ vẫn', Khách Chinh Phu). Trước hàng rào, lại thấy mấy chùm hoa nở. Hoa
nầy năm ngoái nở rồi, nay lại nở. Chữ 'năm ngoái' biểu lộ một sự gần gủi thân
quen, một cố nhân, làm nhớ câu thơ của Thôi Hộ (Đào hoa y cựu tiêù đông phong)
mà Nguyễn Du diễn ý đó trong Kiều là 'Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông'.
Hoa thì biết rồi, năm ngoái, như cũ,
nhưng ngỗng thì không biết từ nước nào bay tới. Nguyễn Khuyến gọi nôm na là
ngỗng, không văn chương như các nhà thơ làm thơ ước lệ, gọi là nhạn, là hồng.
Trước cảnh thiên nhiên đẹp một cách
đơn sơ, gần gủi và gợi tình như thế, tác giả tính làm thơ, vài câu ngẫu cảm
nhưng lại hổ thẹn với Đào Tiềm, nhà thơ Trung Hoa nổi tiếng. Đó là sự khiêm
nhượng chăng, chứ xem ra cả ba bài thơ tả cảnh thu của ông, người ta khó phủ
nhận đó là tuyệt tác.
Xin trở lại vần 'oé hay 'é, hai vần
nầy hơi giống nhau, đi với nhau cũng được, là một vần nghèo, như đã nói trong
bài 'Thu Điêù'. Phải là người có tài mới gieo vận nhanh khi dùng vần nầy. Bài
thứ ba có vài ý mâu thuẫn nhau. Mới đọc, người ta tưởng tác giả tả cảnh thu về
đêm. 'Ngõ tối đêm khuya đốm lập lòe'. Trời tối mới thấy đom đốm lập lòe trong
ngõ. Nhưng tiếp đó, ở câu ba, Nguyễn Khuyến lại viết: 'Lưng giậu phất phơ làn
khói nhạt'. Phải trời còn sáng mới thấy làn khói nhạt bay lên, hơi sương bay
lên thì đúng hơn, tương tự như 'Yên ba giang thượng' vậy. Phải trời tối mới
thấy bóng trăng loe dưới ao (Làn ao lóng lánh bóng trăng loe), nhưng tiếp đó
lại là cảnh ban ngày 'Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt'. Chắc chắn cảnh nầy không
phải là cảnh sáng hay trưa, mà chiều hay chập choạng, chạng vạng, hoàng hôn. Lúc
đó, ngõ tre thì đã tối lắm, có thể tối như lúc đêm khuyạ Xem lại bài 'Xóm
Giếng' như tôi ghi lại ở trước, độc giả có thể hiểu, nhất là ai từng sống ở quê
.
Con đường làng có hai hàng tre hai
bên, che kín trên đầu là kín lắm, có khi nhìn lên không thấy trời, thành ra
trời mới chiều ngõ đã tối om, đom đóm bay ra kiếm ăn. Lúc hoàng hôn, dưới ao
sâu, cảnh cũng đã tối nên dễ thấy bóng trăng. Thực ra, tác giả tả cảnh chiều và
sắp tối ở miền quệ Vì cấu trúc thơ Đường khắt khe, nên Nguyễn Khuyến khó tả
cảnh theo thứ tự thời gian. Tác giả cũng tả phong thái của ông khi uống rượu,
hòa mình với khung cảnh thiên nhiên của mùa thu nơi thôn dã, thung dung nhàn hạ
của một ông già điềm đạm, vui với thời gian và không gian. Thời gian có tính
tổng quát, không cần xác định một cách máy móc sớm trưa chiều tối, không gian
là khung cảnh êm đềm tĩnh lặng, thanh thoát gần gủi thiên nhiên của vùng quê
VN. Nói chung, đó chính là vô vi của Lão Trang, sống hài hòa cùng thiên nhiên,
không có gì trái nghịch với tạo hóa, là thông đạt triết lý Lão Trang một cách
sâu sắc vậy.
Da trời ai nhuộm
mà xanh ngắt
Mắt lão không
viền cũng đỏ hoe
Phép đối ở đây khá hoàn chỉnh, tự
nhiên, đạt tới cao điểm của nghệ thuật, đến nỗi không còn thấy sự đẻo gọt công
phu, cầu kỳ thường có ở những người làm thơ Đường. Chữ lão là một nhân xưng đại
danh từ ngôi thứ nhất số ít, người già thường dùng để tự xưng. Hai câu kết tả
tình, cái sở thích của tác giả. Mùa thu lạnh. Người già thích uống rượu, có
tiếng là hay rượu nhưng thực ra cũng chẳng có gì là hay.
Cả ba bài nầy đều nói về thu, bối cảnh
hơi giống nhau: Cảnh thôn quê VN cho nên không có rừng phong (cây phong chỉ mọc
ở hàn đới), không quan tái, tóc liễu, lá ngô đồng. Nét đặc biệt của thôn quê VN
là tĩnh lặng, êm đềm, vắng vẽ. Sự rộn ràng của những bến sông, tiếng đùa vui
những lúc thả diều trên cánh đồng sau làng chỉ rộn lên ngắn ngủi trong những
ngày hè nay biến mất khi gió heo may bắt đầu thổi, khi những đám mây đen vần vũ
báo hiệu thu sang. Tác giả cũng gởi tình cảm vào thơ nhưng không như các nhà
thơ lãng mạn, tình cảm của ông chừng mực, vừa phải, không có những cái bi
thiết, quay quắt, rên siết trong khi cảnh thu ông tả đẹp thì đẹp vô cùng mà
thực cũng là rất thực, không vay mượn cảnh sắc của Tàu như những người làm thơ
trước ông hay cảnh sắc của Tây ở những thế hệ sau ông.
Bàn tới mùa thu trong thi ca lãng mạn
mà không nói tới 'Tiếng Thu' của Lưu Trọng Lư có thể là một thiếu sót bởi bài
thơ nầy được nhiều người biết, nhiều người thích, Thi Nhân VN của Hoài Thanh có
bàn tới. Lưu Trọng Lư có một tập thơ nhan đề là 'Tiếng Thu' xuất bản trước
1945, trong đó, ông có một số bài nói về mùa thu tôi sẽ bàn sau đây. Lưu Trọng
Lư lại là người rất mơ mộng. Sự mơ mộng làm cho ông đãng trí đến nỗi, như Hoài
Thanh giới thiệu trong Thi Nhân VN có lần Lưu Trọng Lư đọc hai câu thơ:
Giật mình ta thấy
mồ hôi lạnh,
Mộng đẹp bên nhau
đã biến rồi
mà cứ tưởng đó là hai câu thơ của Thế Lữ, nhưng chính lại là của
Lưu Trọng Lự. Nói chuyện thơ thẩn mơ mộng như thế nầy, phải nói rằng ai đã từng
ở Huế, lớn lên ở Huế, chỉ trước 1945 mà thôi mới thấy những cái lạ lùng của xứ
Thần Kinh. Đọc 'Nửa Bồ Xương Khố của Vũ Anh Khanh, tôi hơi ngạc nhiên không
biết Vũ Anh Khanh quê ở đâu mà ông ta biết khá rõ về Huế trước 1945. Huế có
cảnh sắc thơ mộng, núi Ngự sông Hương thì điều đó đã hẵn, nhưng trai gái Huế
cũng mơ mộng không kém. Vũ Anh Khanh kể lại một cảnh thực. Cứ cuối tuần, học
sinh trai gái Huế phần đông của trường Đồng Khánh, Khải Định rủ nhau đi chơi
lăng hay chơi núi Ngự Bình. Núi Ngự hồi ấy còn thông dày đặc, còn bậc cấp đá đi
lên ở mặt tiền ngọn núi. Người ta vào chơi trong rừng thông, ca hát, đàn sáo,,
v.v... và cũng có người thổi sáo khá tuyệt. Người ta mơ mộng và say mê thi ca
đến độ xảy ra những trường hợp đặc biệt, như có cậu học trò tên là B. mê 'Giọt
Lệ Thu (tôi có dẫn mấy câu đầu ở trên) đến độ si tình, điên loạn. Khi vào thi
vấn đáp Brevet (tốt nghiệp cấp hai), anh ta đọc một lèo 'Giọt Lệ Thu rồi bỏ về.
Sau anh ta thi vào sở Xe Lửa Huế, cũng chỉ đọc 'Giọt Lệ Thu mà thôi. Về sau,
ông ta bị điên hẵn.
Lưu Trọng Lư là người mơ mộng nên ông
thường ngơ ngác trước cuộc đời, y như con nai vàng trong bài thơ ‘Tiếng Thú’
của ông:
Em không nghe mùa
thu
Dưới trăng vàng
thổn thức
Em không nghe rạo
rực
Hình ảnh kẻ chinh
phu
Trong lòng người
cô phụ
Em không nghe
rừng thu
Lá thu kêu xào
xạc
Con nai vàng ngơ
ngác
Rất nhiều người khen và thích bài thơ
nầy. Phạm Duy đã phổ nhạc. Cũng có người cho rằng bài nầy Lưu Trọng Lư phỏng ý
thơ bài 'Chanson d'Automné của Verlaine. Điều nầy, nếu có cũng không gì lạ vì
các nhà thơ lãng mạn tiền chiến chịu ảnh hưởng thơ ca lãng mạn Pháp và chính
Xuân Diệu cũng gián tiếp xác nhận như thế khi viết:
Tôi nhớ Rimbeau
với Verlaine
Hai chàng thi sĩ
choáng hơi men
Say thơ xa lạ mê tình bạn,
Phá bỏ khuôn mòn, những lối quen.
Trong thơ cổ của ta, có lẽ không ai tả cảnh thu mà có hình ảnh con nai;
thơ xưa thường thì có nhạn, loài chim di thệ Hình ảnh 'con nai vàng ngơ ngác'
trong mấy chục năm trở lại đây trở thành một 'thành ngữ' trong câu nói thường
ngày của người Việt chúng ta, bắt nguồn từ trong câu thơ của Lưu Trọng Lư vậy.
Tác giả hỏi một em vô hình nào đó có nghe tiếng lòng thổn thức của một cô phụ.
Tại sao cô phụ thổn thức. Cũng là tại cảnh thu nhắc nhở người đàn bà việc xa
chồng. Bao giờ cũng vậy, ý nghĩa mùa thu là ly cách, làm cho người ta, nhất là
phụ nữ nhớ cảnh ly biệt.
Trong rừng thu, lá thu đã rụng nhiều, tiếng chân nai đi xào xạc trên lá
khộ May mắn tôi ở đây là vùng cấm săn nai, trên xa lộ có nhiều bảng hiệu cảnh
giác nai băng qua đường, và tôi không giấu được niềm vui vì nhiều lần thấy bóng
những con nai xuất hiện bên đường đi, ngơ ngác nhìn xe chạy qua, hoặc có khi
chúng cũng vào vườn nhà người ta tranh nhau ăn những trái táo rụng trong sân.
Chúng chỉ bắt đầu xuất hiện khi mùa thu tới. Mùa hạ, nai lên vùng cao kiếm ăn.
Khi những cơn lạnh đầu tiên tới, nai theo những con đường quen, tìm về vùng
thấp, như Huy Cận mô tả:
Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây bay lũng thấp, giăng màn âm u
Nai cao gót lẫn sương mù
Xuống rừng nẽo thuộc nhìn thu mới về
Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi lá rụng cành nghe lạnh lùng
Sầu thu lên vút song song
Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu
Sắc xanh nhạt cả buồn chiều
Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia
(Thu rừng, Lửa thiêng,
Huy Cận)
Có thể bài thơ nầy được gợi hứng từ hoàn cảnh sống thực tế: Huy Cận họ
Cù, thuộc người sắc tộc, sinh trưởng ở mạn thượng du tỉnh Thanh Hóa. Những nhận
xét của ông về một mùa thu ở rừng rất thật và rất thi vị. Khung cảnh thiên
nhiên được Huy Cận bắt rất nhanh qua tâm hồn một nhà thơ lãng mạn, điều đó xác
định thêm nỗi buồn khi ông thấy không gian thay đổi, có lẽ chính yếu ở trời và
cây rừng. Trời thì nhiều mây, trên các thung lũng, như giăng màn che bớt núi
non. Huy Cận tả cảnh trời không bằng cách nhìn lên mà nhìn xuống: 'Sắc trời
trôi nhạt dưới khé. Lá rụng nhiều, các bờ khe trống ra, in bóng trời cao rọi
xuống. Con nai xuống khe uống nước, nhìn nước trôi trong lòng khe mà tưởng trời
cũng trôi theo nước. Khi con chim bay đi, sự nhún nhảy của nó tạo một sức động
làm cho chiếc lá rụng.
Đây là một nhận xét tinh tế khác với người xưa. Xưa, khi tả chim và lá,
như bà Tiết Đào thì cho rằng: 'Chi nghinh nam bắc điểu, diệp tống vãng lai
phong'.
Hoàng Long Hải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét