Mùa Thu và lá vàng
Xuân, Hạ, Thu, Đông bốn mùa là chuyển biến và tuần hoàn tự nhiên của thời
tiết và khí hậu trên trái đất. Tại Việt Nam, ngoài Nam bộ khái quát chỉ có hai
mùa mưa nắng, phần còn lại của dải đất chữ S này có bốn mùa rõ rệt với đặc điểm
khí hậu có thể diễn tả vắn tắt bằng một tính từ đi kèm như: Xuân ám áp,
Hạ nóng nực, Thu mát mẻ và Đông lạnh lẽo. Nghĩa là thời tiết chuyển biến
từ cái lạnh của mùa Đông năm trước sang cái ấm mùa
Xuân, đến cáinóng mùa Hè, chuyển qua cái mát mùa
Thu, rồi trở về với cái lạnh mùa Đông và lại tiếp tục tuần
hoàn như vậy hết năm này sang năm khác.
Mỗi “mùa” đi qua đều chi phối, hấp dẫn con người và vạn vật theo một đặc
điểm riêng, nhưng tại sao trong cả bốn mùa chỉ có mùa Thu – mà không phải là
mùa Xuân, mùa Hạ, hay Đông – đã khiến cho biết bao thế hệ văn nhân, thi, nhạc
sĩ phải hao tốn quá nhiều tâm sức và giấy mực mà vẫn chưa thỏa mãn? Tại sao mùa
Thu lại có sức cuốn hút mãnh liệt như thế? Mời các bạn hãy cùng tôi, chúng ta
thử cùng đi tìm một lời giải – nếu không trọn vẹn thì ít ra cũng thỏa mãn được
phần nào tính tò mò…
*Ngoại
cảnh
“Ao
thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng
biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió
sẽ đưa vèo
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ
trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Đây là bài thơ Đường nổi tiếng của Tam Nguyên Yên Đỗ tiên sinh tả về cảnh thu
đi câu (Thu điếu). Có lẽ đây chính là khung cảnh mùa thu ở làng quê Bắc, Trung
bộ tiêu biểu nhất. Ở đó có ao thu nước trong lạnh lẽo, mặt hồ phẳng lặng có
sóng gợn lăn tăn theo làn gió thu, có mây trắng bay thấp dưới trời xanh cao, có
ngõ vắng quanh co và đặc biệt là lá vàng rơi nhẹ. Một khung
cảnh êm ả, tĩnh mịch như vậy dễ khiến lòng người bâng khuâng, không khỏi dâng
trào cảm xúc. Còn biết bao nhiêu lời thơ khác nữa diễn tả cảnh thu, như Lưu
Trọng Lư với “Tiếng thu”:
“Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?”
“Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng
khô?”
Quả thật với “Tiếng thu”, cái “tĩnh lặng” mùa thu đã được lột tả một cách
trọn vẹn, bởi chỉ trong cái không gian yên lặng tuyệt đối của núi rừng
thì người ta mới cảm nhận được tiếng xào xạc của lá vàng khô dưới đôi chân của
con nai vàng ngơ ngác. Trăng thu, gió thu, sương thu, hơi thu, hay chiều thu,
đêm thu,…tất cả những cái “tĩnh” của không gian ấy dễ khơi gợi tâm sự riêng của
lòng người hơn bao giờ hết. Đó cũng là khung cảnh lý tưởng cho những cuộc
gặp gỡ, hẹn hò, của những cuộc tình lãng mạn, để rồi mai sau có lúc lại trở
thành những hoài niệm của tan vỡ, chia ly…
Nhưng trên tất cả cái không gian tĩnh lặng quyến rũ ấy, hình ảnh chiếc lá
vàng rơi rụng nổi lên như một biểu tượng của mùa thu. Bởi vậy
mà có “mùa thu lá vàng” hay gọi tắt là“thu vàng”. Nó như một hình
ảnh nhắc nhở về sự úa tàn, rơi rụng, chia lìa của thiên nhiên cây cỏ – sau một
mùa xuân tươi thắm trổ lộc đơm hoa, một mùa hè ngọt ngào trái chín
đã qua đi trong tiếc nuối – và phía trước là một mùa đông ảm đạm, lụi tàn, khô
héo và chết chóc.
*Nội
tâm
Đó là mùa thu của năm, hay khung cảnh xế chiều của một ngày. Phải chăng đời
người cũng vậy, cũng phải qua cái tuổi niên thiếu, thanh xuân rồi mới đến chín
muồi, đến “đỉnh dốc” trước khi đành phải ngậm ngùi “trượt xuống” phía bên kia
sườn dốc cuộc đời. Phải chăng ở cái tuổi bắt đầu “đi xuống” ấy chính là
buổi xế chiều của một ngày, là mùa thu của năm, là buổi xế chiều của đời người
với tất cả tiếc nuối, có khi còn ngậm ngùi ân hận… Đây làmùa thu đến từ nội
tâm con người chứ chẳng thấy đâu là cảnh thu thiên nhiên trước mắt cả.
Hàn Mặc Tử đã viết “Buồn thu” cũng từ cái mùa thu và gió heo may nội tâm
ấy chăng?:
“Ấp úng không ra được nửa lời
Tình
thu bi thiết lắm thu ơi
Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt
Hiu
hắt hơi may thoảng lại rồi”
Nữ sĩ TTKH cũng đã luyến tiếc một mùa thu cũ vô tư năm nào, khi hôm nay
lại phải lo sợ cho một chiều thu gặp gỡ “người ấy” bất chợt:
“Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn…”
“Tôi sợ chiều thu nắng phớt mờ
Chiều thu hoa đỏ rụng. Chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng
Người ấy sang sông đứng ngóng đò…”
Huy Cận thì với “rừng thu”, nội tâm của ông còn sâu lắng hơn cả Lưu Trọng Lư:
“Nai cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về.
Sắc trời trôi nhạt dưới khe;
Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh lùng.
Sầu thu lên vút, song song
Với cây hiu quanh, với lòng quạnh hiu…”
Còn với nữ sĩ Xuân Quỳnh, thì còn bức “thư tình cuối mùa thu” nào xao
xuyến, ngọt ngào hơn ?:
“Cuối trời mây
trắng bay – Lá vàng thưa thớt quá
Phải chăng lá về rừng –
Mùa thu đi cùng lá
Mùa thu ra
biển cả - Theo dòng nước mênh mang
Mùa thu và hoa
cúc – Chỉ còn anh và em
Chỉ còn anh và
em – Là của mùa thu cũ…”
Chuyển sang âm nhạc, từ Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, cho đến các nhạc sĩ nổi tiếng
khác, đều có những cảm nhận mùa thu riêng. Nhưng hầu như tất cả đều là mùa thu
của nội tâm. Nói khác là các tác giả chỉ “mượn” mùa thu thiên nhiên để nói lên
“mùa thu nỗi lòng” của mình. Với Phạm Duy thì mùa thu có lúc đã là chết chóc,
là vĩnh biệt, có lúc chỉ toàn là nước mắt:
“Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: mùa thu đã chết rồi!”
“Nước mắt mùa thu khóc ai trong chiều
Hàng cây trút lá nghĩa trang đìu hiu
Từng chiếc từng chiếc lệ khô vàng héo…”
“Nước mắt mùa thu khóc trong đêm dài”
“Nước mắt mùa thu khóc than triền miên…”
Với Trịnh Công Sơn thì mùa thu đi qua vẫn để lại nuối tiếc tuy có phần nhẹ
nhàng, mông lung, hư ảo hơn:
“Nhìn
những mùa thu đi…
Em
nghe sầu lên trong nắng
Và lá rụng ngoài
song…
Nghe tên mình
vào quên lãng
Nghe tháng ngày
chết trong thu vàng…”
*Tương tác
Quả thật, với một áng văn thi ca hay âm nhạc, việc phân tích hay chứng
minh tác động của ngoại cảnh hay nội tâm thật không hề đơn giản. Bởi chúng có
khi tương tác, có khi nội tại lẫn nhau: nội tâm chi phối ngoại cảnh hoặc ngược
lại, hoặc cả hai cùng tác động theo hướng “cộng hưởng”:
“Cảnh nào
cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ…”
Trong Truyện Kiều, Tố Như tiên sinh đã từng dùng bút pháp tả cảnh nhưng ngụ
tình, nghĩa là qua thiên nhiên mà gởi gắm cái tình của nhân vật. Và
bút pháp ấy đã đạt đến mức tài tình khi ông diễn tả tâm sự của nàng Kiều
ở lầu Ngưng Bích qua tám câu thơ với mở đầu bằng những “buồn trông”, tức nhìn
cảnh vật qua con mắt sầu muộn của nội tâm:
“Buồn trông cửa bể
chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm
xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ
rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió
cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi…”
Tóm lại, đến đây hẵn bạn
và tôi cũng đã “mường tượng” ra một lời đáp cho câu hỏi: tại sao mùa Thu
lại có sức hút mãnh liệt trong thi ca và âm nhạc đến thế. Bởi khung cảnh thiên
nhiên mùa thu vốn đã ẩn chứa dồi dào cái chất thơ lãng mạn. Mùa thu lá vàng là
hình ảnh quyến rũ không chỉ ở Việt Nam mà còn hấp dẫn du khách trên khắp
thế giới qua những “con đường vàng” rực rỡ ở Nhật Bản, Trung Quốc, Pháp, Canada
và Mỹ. Thế nhưng trên hết, sự thu hút của mùa Thu trong thi
ca và âm nhạc Việt Nam lại không đến từ gam màu “rực rỡ” tươi vui ấy mà
là đến từ những “úa tàn” – sự tàn úa không thể khước từ của thiên
nhiên và của chính đời người: một sự gặp gỡ và cộng hưởng tuy tình cờ mà lại có
“tiền duyên”. Chính nó đã thăng hoa cao độ cảm xúc của người trong cuộc.
Nói cách khác, nếu không có lá vàng thì không thể gọi là mùa Thu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét