Thiên nhiên - Nguồn cảm hứng bất tận của văn chương phương Đông
Từ xa xưa, người phương
Đông đã biết dựa vào tự nhiên để sống.Hầu hết các nền văn minh Ai Cập, Lưỡng
Hà, Ấn Độ, Trung Hoa đều dựa vào bồi đắp phù sa của các con sông. Nguồn gốc văn
hóa nông nghiệp khiến con người học cách sống hài hòa với thiên nhiên, thấymình
là một phần không thể thiếu của tự nhiên thanh sạch, thuần khiết. Điều này ánh
xạ vào tôn giáo, triết học rồi đi vào văn chương. Đứng trong nguồn mạch chung,
thiên nhiên là một mạch ngầm xuyên suốt của văn học phương Đông từ xưa đến nay.
1.Từ cội nguồn tư tưởng
phương Đông
Văn minh phương Tây
không phát xuất từ những vùng đất bồi đắp phù sa màu mỡ, họ sớm phải vươn ra
biển, chiến đấu với đại dương bao la nên cách ứng xử với thiên nhiên trong tư
duy của họ là chinh phục để phục vụ cho con người. Vậy nên, cảm hứng chủ đạo
của văn học phương Tây là ca ngợi con người - con người là thước đo của
vạn vật. Ngược lại, từ xa xưa, người phương Đông đã học được cách sống hài hòa
với tự nhiên. Thiên nhiên đóng vai trò rất lớn trong đời sống của cư dân nông nghiệp
- đó vừa là môi trường vừa là nguồn lợi nhưng cũng vừa là nỗi âu lo. Điều này
xuất phát từ cách cảm nhận về tự nhiên từ cổ xưa của người phương Đông về vạn
vật hữu linh. Người nguyên thủy dựa vào tự nhiên để sinh sống.Trước sức mạnh
của tự nhiên, thái độ của con người là khiếp nhược nên con người tôn sùng tự
nhiên, ngưỡng vọng tự nhiên. Theo Trần Lê Bảo, tư tưởng đăng cao xuất phát từ
việc những cư dân phương Đông đầu tiên xem vạn vật đều có linh hồn, sinh ra
nghi thức tế lễ thần sông núi. Đăng cao ban đầu thể hiện sự khiếp sợ trước tự
nhiên, sau này trở thành sự ngưỡng mộ tha thiết với núi sông, trở thành sự gắn
bó với tự nhiên [1]. Đó là lí do vì sao ta thấy người phương Đông nào cũng có
xu hướng đăng cao: không chỉ người Trung Quốc bước lên đài cao mà các anh hùng
Ấn Độ cũng thường hành hương lên núi, người Nhật Bản ngưỡng vọng Phú Sĩ, các
nhà sư đều chọn thâm sơn cùng cốc... Khi chọn nơi núi cao, hòa làm một với
thiên nhiên khiến cho trong cảm quan phương Đông, sự gắn bó với tự nhiên trở
thành máu thịt. Tư tưởng sùng thượng thiên nhiên thấm đẫm từ triết học Lão
Trang cho tới triết lí “bất tổn sinh” của người Ấn hay tấm lòng ưu nhã với
thiên nhiên của người Nhật Bản.
“Thiên nhân hợp nhất” -
tư tưởng Chu Dịch đã trở thành tiền đề cơ bản trong cách ứng xử, nguồn cảm hứng
vô tận của văn chương phương Đông. Điều đó khẳng định sự thống nhất giữa con
người và tự nhiên, con người là một phần của tự nhiên, giữa con người và tự
nhiên có mối liên quan, dung hòa nhau. Lão Tử cho rằng con người gắn với tự
nhiên, là một bộ phận không tách rời tự nhiên: “Đạo sinh ra một, một sinh ra
hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật”, cho nên mọi vật đều sinh ra từ Đạo,
là biểu hiện của Đạo, do vậy trời đất với ta cùng sinh ra, vạn vật với ta là
một. Tự nhiên có trước con người, tồn tại và vận động theo quy luật khách quan,
con người theo quy luật của tự nhiên để hành động cho hợp lẽ “Thiên nhiên và
hoạt động tự nhiên, sự âm thầm diễn ra của các biến cố đời đời kiếp kiếp, sự
tuần hoàn của bốn mùa, sự vận chuyển uy nghi của tinh tú, đó là cái đạo mà ta
thấy trong mỗi dòng suối, mỗi phiến đá, mỗi ngôi sao, đó là cái luật của vũ
trụ, vô tư, vô ngã, mà lại hợp lí, và loài người phải hành động theo luật ấy
nếu muốn sống khôn ngoan và yên ổn” [4, tr.53]. Bởi vậy, người phương Đông
thường lựa chọn cách sống hài hòa với tự nhiên để được thanh thản, đủ đầy.
Những hình ảnh “áo mỏng”, “dậu thưa” là những phương cách hòa hợp với vạn vật.
Trong các trang sử thi
hùng tráng về người anh hùng phương Đông, chiến công trên chiến trận chỉ là một
phần của công trạng, mà chủ yếu là cần phải học bài học về sự hòa hợp tự nhiên.
Các anh hùng của người Ấn trong hai thiên sử thi vĩ đại Ramayana, Mahabharatatrước
khi lên ngai vàng trị vì đất nước đều vào sâu trong núi, hành hương về với tự
nhiên, học bài học triết lí về nhân sinh bằng cách tĩnh tâm, hòa mình sống với
thiên nhiên. Trước khi trở thành đấng Giác Ngộ, Đức Phật đã trải qua kiếp sống
không chỉ là con người, thần linh mà còn là chim chóc, muông thú để có thể hiểu
về cuộc đời của muôn loài bình thường, với đủ mọi quan hệ thế tục. Đấng minh
quân Trần Nhân Tông sau khi thực hiện xong việc thế sự, xuất gia vào núi sâu để
được trong sạch, giác ngộ tràn đầy. Thiên nhiên, do đó là người thầy minh triết
vĩnh cửu trong tâm thức của người phương Đông.
Trong tâm thế của người
phương Đông, người ta thấy một tâm hồn đối với thiên nhiên rất sâu nặng. Trong
khắp các trang viết, không chỉ thấy vẻ đẹp của cảnh vật mà còn thấy một tấm
lòng tha thiết với cảnh vật.Đó là tình yêu vĩnh cửu với thiên nhiên vô tận, với
vẻ đẹp tráng mĩ, hùng vĩ của núi cao vực sâu, cũng có thể là vẻ giản dị, gần
gũi của nhành hoa, ngọn cỏ, con cò, con ếch, con dế...Mỗi tâm hồn Đông phương
đều đồng cảm trước tấm lòng nghe thấy tiếng gió mưa ngoài cửa mà xót xa cho thân
phận mỏng manh của cánh hoa rơi rụng (Dạ lai phong vũ thanh/ Hoa lạc tri đa
thiểu– Nửa đêm nghe tiếng mưa/ Hoa rụng nhiều hay ít – Mạnh Hạo Nhiên); mỗi
tâm hồn Đông phương đều xem thiên nhiên như là người tri kỉ (Cửbôi yêu minh
nguyệt/ Đối ảnh thành tam nhân– Nâng chén mời trăng sáng/ Mình với bóng là
ba – Lý Bạch), như là gia đình thương mến (Cò nằm hạc lẩn nên bầu bạn/ Ấp ủ
cùng ta làm cái con– Nguyễn Trãi); mỗi tâm hồn Đông phương đều nâng niu vẻ
đẹp giao hòa giản dị của thiên nhiên bình dị (Một cành bìm bìm hoa tía/ Quấn
quanh cây cầu/ Ta sang hàng xóm xin nước thôi- Chiyo), đều xúc động trước
những sự việc rất tầm thường của vạn vật (Lá chuối xanh trôi/ Một con ếch
nhỏ/Run run đang ngồi -Kikaku)…
Chỗ “vô ngôn” của thơ
Thiền thường là sự im lặng vĩnh cửu của tự nhiên. Chính cái không lời vĩnh viễn
ấy mới thấu biết được mọi lẽ trong cõi hiện sinh đầy mệt nhọc này. Bởi vậy,
tràn lấp trong các trang thơ Thiền là vẻ đẹp của hoa cỏ núi sông, là nhành mai
cao khiết (Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận/ Đình tiền tạc dạ nhất chi mai – Chớ
bảo xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua sân trước một nhành mai), là đôi bướm vui
tươi trong một buổi sáng mùa xuân (Nhất song bạch hồ điệp/ Phách phách sấn
hoa phi - Song song đôi bướm trắng/ Phấp phới cánh hoa bay - Trần Nhân
Tông), hay là cảnh chiều muộn của ngôi chùa xưa (Cổ tự thê lương thu ái
ngoại/ Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ – Chùa xưa lạnh lẽo khói thu
mờ/ Chiều quạnh thuyền câu, chuông vẳng đưa – Trần Nhân Tông) hoặc cảm giác an
nhiên viên mãn đủ đầy giữa tự nhiên khoáng đạt (Ngư ông thụy trước vô nhân
hoán/ Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền – Ông chài ngủ tít ai lay/ Quá
trưa tỉnh dậy, tuyết bay đầy thuyền – Không Lộ thiền sư)...
Bước sang thế kỉ XX,
người đọc vẫn nhận ra cốt cách gần gũi thiên nhiên của tâm hồn Đông phương
trong các tác phẩm dù cho trong dòng chảy hợp lưu Đông – Tây, người phương Đông
phần nào đã bỏ rơi thiên nhiên. Nhưng niềm ưu ái với thiên nhiên có lẽ chưa bao
giờ ngừng trong văn chương phương Đông từ cổ xưa đến hiện tại, nó vẫn âm ỉ chảy
trong một dòng mạch thông suốt. Bằng chứng là qua các tác giả đạt giải Nobel
như Kawabata hay Mạc Ngôn, ta thấy một tâm thế phương Đông rất nặng “thiên
nhiên cũng có sinh mệnh riêng của nó” [11, tr.5], người đọc vẫn thấy những cánh
đồng trù mật, những rặng núi mù xa, những vườn anh đào, những dòng sông thao
thiết chảy qua những trang văn.
Để thấy được vị trí của
thiên nhiên quan trọng như thế nào trong văn học phương Đông, chúng ta thử so
sánh với văn học phương Tây. Ngay khi cùng viết về tự nhiên, nhưng điểm khác
biệt cơ bản của phương Đông và phương Tây là người phương Đông xem thiên nhiên
như là một sinh mệnh độc lập “cỏ cây quanh mình và cả bò dê nữa đều có thể trò
chuyện với con người, chúng chẳng những có sinh mệnh, mà còn có cả tình cảm
nữa” [11, tr.5], trong khi đó dù ca ngợi tự nhiên, cảm hứng chủ đạo của người
phương Tây vẫn là xem thiên nhiên là nền cảnh để làm nổi bật con người. Bởi
thế, khi A. Daudet mô tả bầu trời sao tuyệt đẹp là ông muốn làm nổi bật
hình ảnh con người: tất cả những vì sao lung linh trên trời kia là nền cảnh cho
vẻ đẹp của con người trên đồng cỏ và trong tâm hồn cậu bé chăn cừu, không có vì
sao nào đẹp bằng vì sao kiều diễm, sáng trong đang thiếp ngủ trên vai của cậu
“tôi tưởng đâu một trong những ngôi sao kia, ngôi sao thanh tú nhất, ngời sáng
nhất lạc mất đường đi đã đậu xuống vai tôi mà thiêm thiếp giấc nồng” [3,
tr.254].
Để chứng minh rõ hơn cho
luận điểm này, chúng ta thử so sánh cách cảm nhận về một hình tượng tự nhiên:
hình tượng sói. Ở các tác phẩm của J. Lodon (Tình yêu cuộc sống, Tiếng gọi
nơi hoang dã), cảm hứng chủ đạo là chinh phục tự nhiên, trong khi ở Tôtem
sóicủa Khương Nhung là cảm hứng mãnh liệt về triết lí tôn trọng tự nhiên.
Tình yêu cuộc sốnglà bài ca về ý chí, nghị lực của con người. Câu
chuyện kể về cuộc chiến đấu của một người đào vàng bị thương, bị bỏ đói nhiều
ngày trong giá lạnh của vùng Bắc cực với một con sói già nua ốm yếu: “hai sinh
linh kéo lê thân xác hấp hối qua cảnh hoang sơ và bên nọ rình cướp sự sống của
bên kia” [6, tr.26], đi đến giới hạn sức chịu đựng của thể chất mà vẫn chiến
đấu ngoan cường. Và dù cả hai vét đến hơi thở cuối cùng để dành sự sống thì
chiến thắng vẫn thuộc về con người “Hai bàn tay không đủ sức để bóp nghẹt con
sói nhưng mặt người áp sát vào họng con sói và mồm con người đầy những lông.
Hết nửa giờ, con người nhận thấy một dòng âm ấm chảy vào họng mình” [6, tr 28].
Trong Tiếng gọi nơi hoang dã, con người bắt sói phải phục tùng hoặc
bằng “luật dùi cui và răng nanh” hoặc bằng tình yêu thương. Dù cho đó là hai
cách trái ngược nhau thì vẫn là khát vọng chinh phục tự nhiên. Trong khi đó
hình tượng sói trong Tôtem sói(Khương Nhung) hoàn toàn khác biệt.
Sói sống hoang dã, tự nhiên như bản tính của nó, con người không bao giờ có thể
chinh phục được. Nếu như Bấc yêu quý Giôn Thóctơn với một tình cảm quyến luyến,
quỵ lụy, yêu thương xen lẫn phục tùng “Bấc thấy không có gì sung sướng bằng
được cái ôm ghì mạnh mẽ ấy và những tiếng rủa rủ rỉ bên tai ấy, và mỗi cái lắc
qua đảo lại, nó tưởng chừng như quả tim mình muốn nhảy tung khỏi lồng ngực vì
quá ngây ngất, rạo rực” [6, tr.307], thì dù Trần Trận nuôi sói con từ nhỏ, yêu
thương chăm sóc bằng cả tấm lòng, đem hết tâm huyết, sức lực, tình cảm, thậm
chí cả tính mạng nhưng con sói vẫn sống với bản tính hoang dã của nó, không bao
giờ chịu thuần phục. Bởi thế, tộc du mục sống trên lưng ngựa lại thờ phụng sói
(chứ không phải là ngựa) vì “logic trái khoáy này lại bao hàm sâu sắc logic của
thảo nguyên (...) con sói thảo nguyên thì chưa bao giờ bị thuần dưỡng” [7,
tr.537]. Người thảo nguyên thờ phụng sói cũng còn vì một lí lẽ lớn hơn nhiều
nữa – sói là nhân tố điều hòa môi trường sinh thái. Sói thống soái tự nhiên,
đứng trên tầm cao mà điều phối các mối quan hệ chồng chéo của tự nhiên, sói cân
bằng sinh thái trên thảo nguyên: diệt chuột, rái cá, dê vàng, ngựa, cừu, thậm
chí cả con người – những kẻ phá hoại không thương tiếc thảo nguyên. Theo họ “cỏ
và thảo nguyên là sinh mạng lớn, tất cả những thứ khác là sinh mạng nhỏ: sinh
mạng nhỏ sống nhờ sinh mạng lớn” [7, tr.482]. Như vậy, sói là chủ thể của tự
nhiên, giữ gìn và cân bằng môi trường tự nhiên, bảo vệ vẻ đẹp thuần khiết của
thảo nguyên trước những can thiệp thô bạo.
3. Thiên
nhiên – biểu tượng cơ bản của thơ ca phương Đông
Phương Đông huyền bí có
thể coi là vương quốc của thơ ca, nhân loại vẫn mãi ngưỡng vọng Đường thi,
Haiku như là những di sản tinh thần vĩ đại. Cảm xúc trong thơ trữ tình hư
huyền, khó nắm bắt, thi nhân thường mã hóa cái thế giới huyền hồ sương khói ấy
bằng những hình ảnh tự nhiên: nỗi nhớ nhà bảng lảng khói sóng hoàng hôn (Hoàng
hạc lâu– Thôi Hiệu), thiếu phụ nhớ chồng trách con chim oanh (Xuân oán–
Kim Xương Tự), nhìn nhành liễu biếc tiếc tuổi xuân qua (Khuê oán– Vương
Xương Linh )…
Thơ Haiku của Nhật Bản
mặc dù số chữ rất ít ỏi, vỏn vẹn chỉ có 17 âm tiết nhưng vẫn dành cho tự nhiên
một chỗ đứng trang trọng. Một bài thơ Haiku phải thể hiện được cảm thức về
thời gian qua quý ngữ (kigo). Quý ngữ có thể là từ miêu tả các mùa xuân, hạ,
thu, đông hoặc là các hình ảnh, hoạt động mang đặc trưng của mùa, biểu hiện
những bước đi của thời gian bằng những hình ảnh của cảnh sắc cây cỏ, ví
như mùa thu – con quạ(Trên cành khô/ cánh quạ đậu/ chiều thu- Basho),
mùa đông – mưa gió (Mưa đông giăng đầy trời/Chú khỉ con đơn độc/ Cũng mong
chiếc áo tơi - Basho), mùa xuân – anh đào nở rộ (Từ phương trời xa/
cánh hoa đào lả tả/ gợn sóng hồ Bi-wa- Basho), mùa hạ - ánh trăng (Con
mực trong bẫy/nằm mộng phút giây/mùa hạ trăng đầy – Basho). Việc
dùng quý ngữ chỉ mùa thể hiện tâm hồn nhạy cảm với sự thay đối của thiên nhiên,
có cảm quan tinh tế về thời tiết, sự gắn bó sâu sắc của người Phù Tang với tự
nhiên.
Các thi sĩ Thiền gia
cũng quay trở về thiên nhiên, biểu hiện cái “tâm không” bằng tâm hồn rỗng rang
hòa điệu cùng vũ trụ, cảm nhận vẻ đẹp của tự nhiên. Tư Không Đồ, người mở đầu
cho thi học Thiền gia đã viết trong bài Nhàn dạ: Thử sinh nhàn đắc dịch
vi gia/ Nghiệp thị ngâm thi dĩ khán hoa (Cuộc đời nhàn nhã lấy xê dịch làm nhà/
Nghề nghiệp là ngâm thơ và xem hoa). Trần Nhân Tông trả lời môn đệ câu hỏi
“Thế nào là gia phong hòa thượng?” bằng câu thơ: Áo rách ôm mây, ban
mai húp cháo/ Bình xưa dốc nguyệt, trời khuya nấu trà. Đối với thi nhân
Thiền gia, sự hòa hợp trong tâm hồn được biểu hiện trong sự hòa điệu với tự
nhiên. Và đôi khi, sự tương thông của lòng người với nhau không phải qua lời
nói bề ngoài ồn ào mà sự tương giao ấy biểu hiện qua cái tĩnh lặng say mê với
cảnh vật :
Dương liễu hoa thâm điểu
ngữ trì
Họa đường thiềm ảnh mộ
vân phi
Khách lai bất vấn nhân
gian sự
Cộng ỷ lan can khán thúy
vi
(Xuân cảnh- Trần
Nhân Tông)
Chim nhẩn nha kêu, liễu
trổ dày,
Thềm hoa chiều rợp bóng
mây bay.
Khách vào chẳng hỏi
chuyện nhân thế,
Cùng tựa lan can nhìn
núi mây
(Huệ Chi dịch)
Hai tâm hồn nhập vào
nhau không cần bằng lời nói hoa mĩ, ồn ào mà chỉ bằng một cử chỉ thật giản dị
là lặng ngắm khung cảnh về chiều rộn rã tiếng chim và rợp bóng mây.
Mặc dù thơ điền viên với
thơ sơn thủy cùng chung đối tượng thẩm mĩ là cảnh sắc thiên nhiên, nhưng điểm
khác biệt lại ở chỗ thơ điền viên gần gũi với cuộc sống của con người hơn. Sơn
thủy hướng đến núi cao vực sâu ngàn dặm, điền viên gần gũi với “ao rau muống”,
“lảnh mùng tơi” (Nguyễn Bỉnh Khiêm); cảnh sắc giản dị, gần gũi của cây hòe, cây
chuối, cây lựu, hoa sen, hoa xoan... (Quốc âm thi tập- Nguyễn Trãi).
Nguyễn Khuyến được coi là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” có lẽ bởi thơ ông
thể hiện cảnh sắc và sinh hoạt nông thôn gần gũi và thân thiết. Có thể nói, ông
đã mở ra cho thơ ca Việt Nam trường phái thơ điền viên mà sau này thơ Mới sẽ
tiếp tục với những tác giả xuất sắc như Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ,
Nguyễn Bính…
Con người từ trời đất
sinh ra. Sự sinh tồn của con người không thể tách khỏi trời đất nên hành vi con
người cũng tương thông, nhất trí với sự vận hành của trời đất: “Con người là
sản vật của tự nhiên, cũng là một phần của tự nhiên, mà sự sinh tồn và phát
triển của con người là lấy các điều kiện vật chất do tự nhiên cung cấp làm tiền
đề” [5, tr.215].Bởi vậy, học cách sống hài hòa, phù hợp với quy luật phát triển
sẽ khiến cho con người cảm thấy hạnh phúc. Đạo gia coi trọng sự thuần phác, tự
nhiên. Triết lí “vô vi” của Lão Tử nghĩa là “không làm gì” trái với tự nhiên
(Đạo). Lão – Trang chủ trương xa rời những hệ lụy của cõi đời, sự phiền nhiễu
của ý chí, dục vọng để được tự do, tự tại trong bản chất tự nhiên thuần phác.
Kêu gọi về với thiên nhiên là một phương cách để nuôi dưỡng cái bản tính tự
nhiên thuần phác đó (Đạo pháp tự nhiên). Do vậy ứng xử của các nhà Nho truyền
thống là “dụng chi tắc hành, xả chi tắc hàng” (Dùng thì ta hành đạo, không dùng
thì ta quy ẩn). Quy ẩn bằng cách trở về với thiên nhiên để tìm lại sự bình an,
tĩnh tại, tự do. Thiên nhiên trở thành điểm tựa tinh thần trong cơn bĩ cực,
thiên nhiên nuôi dưỡng cái phần thiên tính chất phác của con người khỏi những
phồn tạp, tị hiềm, ganh ghét, trói buộc chốn quan trường.Hầu hết cách ứng xử
của thi nhân thời trung đại Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam… là sống gần gũi tự
nhiên. Khi con người xã hội bất như ý họ thường đi ở ẩn, một hình thức xa lánh
xã hội nhiêu khê, trở về với thiên nhiên để quên nỗi buồn thế sự. Nhà nho nhàn
dật có khuynh hướng vui với cây cỏ, chối từ con người lí trí, rũ bỏ áo khoác xã
hội để hòa mình vào thiên nhiên xa lánh cảnh trầm luân, nhiễu nhương của thế
sự. Bởi vậy, từ Khuất Nguyên, Đào Tiềm cho đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Khuyến… do mệt mỏi với quan trường ganh ghét, lòng người hiểm độc đã
“quy khứ lai” - trở về với mây trắng núi ngàn để xoa dịu, thanh thản. Những vần
thơ ca ngợi hoa cúc của Đào Tiềm, những vần thơ “tìm nơi vắng vẻ” của Nguyễn
Bỉnh Khiêm hay tư tưởng sùng thượng tự nhiên của Nguyễn Trãi đều thể hiện một
tư tưởng sống khiêm nhường, ẩn dật và hòa hợp vào “dòng sống thâm áo của thiên
nhiên”. Đối với kẻ sĩ phương Đông, có lẽ tiền tài, danh vọng, chức tước không
phải là mục đích của sự sống mà việc con người trở về với cõi thiên nhiên, với
bản thể của vũ trụ mới là mục đích chân chính nhất. Phò vua giúp đời chỉ là
nghĩa vụ trong chốc lát còn tâm thế họ vẫn hướng về tự nhiên sâu thẳm trời xanh
mây trắng vĩnh cửu muôn đời. Phải vậy chăng mà Lí Bạch tâm sự:
Đãi ngô tận tiết báo
minh chủ
Nhiên hậu tương huề ngọa
bạch vân
(Chờ ta tận tiết báo đền
ơn minh chủ
Sau đó sẽ cùng nhau về
nằm nơi mây trắng)
Sự hóa thân vào tự nhiên
để được gột rửa là motif quen thuộc trong văn chương phương Đông. Chỉ khi hòa
nhập vào tự nhiên con người mới thấy thanh thản, bình yên, tĩnh lặng; được cứu
rỗi khỏi những muộn phiền, hệ lụy của đời sống phồn tạp. Người Ấn Độ từ cổ xưa
đến nay đều thực hành nghi lễ tắm nước sông Hằng vì quan niệm nước sông có thể
thanh tẩy; họ cũng cho rằng thần lửa Anhi thiêu cháy tất cả để trở nên trong
sạch. Vậy là, trong tâm thức Ấn, thiên nhiên có thể gột rửa được tội lỗi, khiến
con người có thể trở nên thanh khiết. Trước thái độ hờn ghen của Rama, Sita đã
hai lần chứng minh tấm lòng nàng, lần thứ nhất là với thần lửa Anhi, lần thứ
hai xin được trở về đất mẹ, hóa thân vào luống cày, nơi mà cô đã sinh ra. Môtip
hóa thân vào tự nhiên được thể hiện trong văn học phương Đông qua rất nhiều
dạng thức khác nhau: có thể là sự rẽ nước xuống biển của An Dương Vương, là
hành động bay về trời hóa vào vĩnh cửu của Thánh Gióng, có thể là sự hóa thân
trở lại thành cây Giáng Châu của Lâm Đại Ngọc dứt khỏi mối sầu muộn ở dương
thế... Trong văn học hiện đại, sự hóa thân vào tự nhiên ấy được biểu hiện qua
motif hòa nhập vào tự nhiên, buông thả mình theo tự nhiên tách mình ra khỏi cái
ồn ào đô thị để sống thanh thản. Đó là một trong những chủ đề cơ bản của văn
học lãng mạn, là khuynh hướng “ngược về ngoại ô” để thả mình vào hương đồng cỏ
nội của văn học đương đại - thái độ lánh mình vào tự nhiên của con người
thời hiện đại bị bao bọc bởi văn minh kĩ trị.
Tự muôn đời, thiên nhiên
luôn là nguồn an ủi. Mỗi khi thấy lòng đau, lại tìm về tự nhiên như một bến bờ
tĩnh lặng để nguôi quên. Thiên nhiên là người bạn lớn vĩnh hằng của con người
mà ở đó, những muộn phiền, day dứt, đau đớn vơi đi. Thấu được nỗi chán chường
cuộc sống ồn ào quanh mình, chỉ có tự nhiên vĩnh cửu không lời là vĩnh viễn.
Thorber, một nhà nghiên
cứu phê bình sinh thái của Đại học Havard đã khẳng định mặc dù khuôn mẫu của
Đông Á là tình yêu thiên nhiênnhưng hiện tại,“Đông Á đã là nơi của một số
các vấn đề và các cuộc khủng hoảng môi trường khó khăn nhất trên thế giới”
[10].Trong xã hội hiện đại, do ỷ lại vào khoa học kĩ thuật nên người phương
Đông đang ngày càng quay lưng với tự nhiên, khai thác tự nhiên quá mức khiến
cho tự nhiên ngày càng vắng bóng trong đời sống. Mặt khác, trong một thời gian
dài, văn học phương Đông mải chạy theo những vấn đề thời thượng của cõi người
như tính dục, thân thể, đạo đức, phê phán xã hội… nên dường như người phương
Đông đang bỏ rơi mất truyền thống hòa hợp tự nhiên.
Trước tình trạng khủng
hoảng của môi trường sinh thái, các thảm họa, thiên tai và đáng sợ hơn cả là sự
biến mất của chính thiên nhiên, người phương Tây – kẻ luôn giương cao lá cờ
chinh phục thiên nhiên – nhìn nhận lại thái độ ngạo mạn của mình. Văn học sinh
thái xuất hiện và đặt ra vấn đề tranh luận: có phải con người sinh ra để thống
trị thiên nhiên – làm chủ và sở hữu thiên nhiên? Hay là những phát minh khoa
học, sự ngạo mạn của con người đã đẩy thiên nhiên ra xa khỏi con người và con
người đang gánh chịu những hậu quả do chính mình gây ra vì đã coi thường tự
nhiên? Thiếu vắng thiên nhiên, tâm hồn con người trở nên xơ cứng, lạnh lùng,
vậy nên cần phải trở về với tự nhiên, bảo vệ vạn vật trong tự nhiên và duy trì sự
cân bằng của hệ sinh thái. Như vậy, văn học sinh thái phương Tây đã tìm lại
giúp người phương Đông tâm hồn hòa nhập tự nhiên, tình yêu đối với thiên nhiên
mà những hệ lụy của đời sống đô thị đã khiến họ có lúc xao nhãng.
Người phương Đông sau
khi “trải qua một cảm giác lịch sử: cảm giác thiếu thiên nhiên” [8, tr.399], đã
trở lại với các đề tài tự nhiên, nhưng không phải chỉ để thể hiện tình yêu đối
với thiên nhiên mà còn thể hiện một niềm khắc khoải với những nguy cơ sinh
thái, bày tỏ nỗi đau đớn vì những vẻ đẹp tự nhiên ngày một biến mất… Thức tỉnh
tinh thần sinh thái, từ các tác phẩm của văn học Trung Quốc: Hoài niệm
sói của Giả Bình Ao, Tôtem sóicủa Khương Nhung, tản văn Tôi
yêu động vật nhỏcủa Băng Tâm…, cho đến Bộ sưu tập những bài thơvề bomnguyên
tửtập hợp 181tác giả của văn học Nhật Bản, cho đến những ý tưởng sinh thái của
các tác giả Việt Nam (Sống mãi với cây xanh– Nguyễn Minh Châu; Muối
của rừng, Con thú lớn nhất, Sói trả thù– Nguyễn Huy Thiệp; Khói
trời lộng lẫy, Nước như nước mắt– Nguyễn Ngọc Tư; Thập giá giữa
rừng sâu– Nguyễn Khắc Phê; Chuyến đi săn cuối cùng– Sương
Nguyệt Minh…) cũng đã rung lên những hồi chuông về sự khủng hoảng môi trường,
những nỗi đau, niềm tuyệt vọng trước cái mong manh của sự cân bằng tạo hóa và
cắt nghĩa căn nguyên của những thảm họa sinh thái.
Cảnh tỉnh con người về
mối quan hệ của con người với tự nhiên, đặt con người trước những thảm họa khi
đánh mất tự nhiên, như một lẽ tất yếu, phương Tây dường như đi tìm lại tâm thức
tự nhiên mà từ lâu họ đã đánh mất, tìm về phương Đông để nối lại các mạch sống
tự nhiên của họ.
Như vậy, từ xưa đến nay,
thiên nhiên đối với người phương Đông không phải là một chuỗi dài chinh phục mà
là sự gắn bó, hài hòa. Mỗi tâm hồn phương Đông đều có một tình yêu vĩnh cửu với
cỏ cây. Phương Đông đang tìm cách quay trở về với những giá trị vĩnh hằng của
thiên nhiên, tìm lại chính quá khứ ngàn đời của mình – tâm thức hòa hợp với tự
nhiên. Bằng cách đó, phương Đông đã giữ gìn cho nhân loại khỏi trượt xa cách cư
xử lí trí, ngỗ ngược đối với tự nhiên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét