Thứ Hai, 3 tháng 3, 2025

Chùm truyện ngắn của tác giả Cao Chiến

Chùm truyện ngắn
của tác giả Cao Chiến

Ở những năm tám chín, chín mươi, giao thông đi lại chưa thuận tiện như bây giờ. Cuộc hành trình của hai chúng tôi khá vất vả. Nhưng, khi người ta trẻ thì chẳng có gì là không thể. Tôi với Khương đi tàu ra Bắc. Tới Hà Nội lại bắt xe đi tiếp. 
Người yêu tớ đẹp nhất trung đoàn
Khương quê ở Vĩnh Phúc. Sau khi xuất ngũ, anh đi học rồi vào Thành phố Hồ Chí Minh làm báo. Tôi biết Khương năm tám chín, lúc anh ba mươi mốt tuổi. Người đàn ông cao lớn, trắng trẻo, râu quai nón xanh, trông rất hào hoa, nam tính. Một buổi chiều, Khương gọi cho tôi hẹn đi uống chút gì. Sau khi làm vài ve, Khương đột ngột hỏi tôi:
– Tuần tới ông kẹt gì không?
– Không!
– Không kẹt gì thì đi với tớ!
– OK! – Tôi đáp chẳng cần suy nghĩ.
Ở những năm tám chín, chín mươi, giao thông đi lại chưa thuận tiện như bây giờ. Cuộc hành trình của hai chúng tôi khá vất vả. Nhưng, khi người ta trẻ thì chẳng có gì là không thể. Tôi với Khương đi tàu ra Bắc. Tới Hà Nội lại bắt xe đi tiếp.
Tôi chỉ có vài bộ quần áo, đi tàu, xe, quăng dưới chân là xong. Nhưng Khương thì không thế, hắn đem theo một ba-lô. Suốt cuộc đi không lúc nào hắn rời tay. Lúc ngủ cũng ôm. Tôi cảm thấy ngạc nhiên nhưng không hỏi. Một người anh tôi từng đi lấy hài cốt, gói ghém vào trong ba-lô, cũng như Khương, ôm hàng ngàn cây số.
Nhà hắn ở Lập Thạch. Phía trước là rừng cọ bát ngát, phía sau là sông Lô mênh mang. Trên đầu bầu trời xanh thẳm. Miền trung du không có nhiều thứ để mô tả nhưng chẳng hiểu sao tâm trạng xốn xang lắm. Vừa chân ướt chân ráo về nhà, mọi người chưa kịp mừng rỡ thì Khương đã nhấp nhổm đi tiếp.
– Mày đi đâu? – Bố Khương thảng thốt.
– Con qua bên nhà Vân một lát! – Khương đáp, rồi ôm ba-lô vọt đi luôn.
Tôi ở chơi nhà Khương sau đó xuống Hà Nội ít ngày rồi lại lên tàu xuôi Nam.
– Anh khuyên nó lấy vợ giúp tôi! – Bố Khương bảo tôi, giọng buồn buồn khi mọi người chia tay nhau.
– Khương còn trẻ mà! – Tôi trấn an ông già.
– Trẻ cái gì mà trẻ, một đống tuổi rồi đấy! – Ông bố thở hắt ra.
Sau chuyến đi Bắc, Khương lấy vợ. Tôi gặp lại ông già trong đám cưới của Khương tổ chức ở Thành phố Hồ Chí Minh. Bố Khương tỏ ra vô cùng mãn nguyện, không ngớt lời cảm ơn các bạn của con. Ông đâu biết không chỉ tôi mà rất nhiều bạn của Khương lúc ấy đều chưa gì.
Vợ chồng hắn không có con. Thể trạng hai người đều bình thường. Tôi biết có vài trường hợp như vậy. Một người em của bạn tôi ở Hà Nội, vợ chồng lấy nhau chục năm chẳng con cái gì, ly hôn đường ai nấy đi năm trước năm sau hai bên đều đề huề. “Phụ nữ có thì..!” – Khương bảo tôi sau khi vợ chồng họ chia tay, giọng buồn buồn.
Do đặc trưng của nghề báo nên Khương lúc ở Nam, lúc ở Bắc, ra vô như đi chợ. Có bài viết nào hay hắn đều đem khoe với tôi. Ở đâu chứ ở trong miền Nam làm báo nói chung kiếm được. Hắn mua căn hộ để bạn bè thỉnh thoảng tụ tập. Nhưng thường thì chúng tôi rủ nhau ra ngoài quán. Ngắc ngư từ chiều đến tối rồi lại từ tối đến đêm. Có vài quán quen, gọi nhau cứ bảo chỗ ấy là biết.
Mười năm sau cuộc chia tay với người vợ đầu, Khương làm tập hai. Không ai có bất cứ manh mối nào về người đàn bà này. “Tớ cũng bất ngờ..!” – Khương bảo tôi. Trước đó một tuần tổng biên tập cử Khương đi Hà Nội tác nghiệp. Hắn gặp người đàn bà, sau vài câu chuyện họ quyết định hôn nhân luôn. Khương báo tin cho mọi người rồi bảo: “Tớ đã làm giấy cho cô ấy căn hộ..!”. Người đàn bà thua Khương hai chục tuổi, trẻ trung và rất xinh đẹp. Ai cũng mừng, thậm chí ghen tỵ với hắn.
Ít ngày sau khi người đàn ông U50 báo tin vợ đã được nhập hộ khẩu thành phố thì họ ly hôn. Tôi chưa thấy người đàn ông nào tốt tính như Khương. Chưa một lần tôi nghe Khương trách vợ. Nhưng tôi biết trong thâm tâm hắn buồn ghê gớm.
– Ông còn nhớ lần bọn mình về Bắc không? – Một buổi chiều, chẳng biết lúc ấy nghĩ gì, Khương bỗng hỏi tôi.
– Nhớ! – Tôi trả lời, trong đầu vụt hiện lên chuyến đi năm xưa, Khương ôm cái ba-lô như ôm báu vật, lúc ngủ vẫn ôm.
Mãi tới lúc này, sau hai chục năm chơi với nhau tôi mới biết Khương còn một mối tình. Khi làm lính trung đoàn hắn yêu một người cùng đơn vị. Cô gái tên Vân. Nhà chỉ có hai chị em gái. Vân đã đưa hắn về nhà ra mắt bố mẹ. “Vợ chồng tôi chỉ có hai mụn con gái là con Vân với chị nó. Chị của con Vân thì đã lấy chồng và ra ở riêng, tôi nói trước để anh khỏi mất lòng, nếu anh chịu ở rể thì tôi gả con Vân cho, bằng không thì thôi!” – Cha cô gái nói giọng dứt khoát. “Con đồng ý!” – Khương trả lời bố vợ mà mắt lại nhìn người yêu đang cười rạng rỡ.
Sau lần ra mắt cha mẹ Vân, cuối năm 78 Thủ trưởng đơn vị cử Khương đi công tác Hà Nội. Mấy tháng xa nhau Vân viết cho người yêu hàng trăm lá thư.
– Có ngày Vân gửi hai ba lá, đọc xong là tớ lập tức viết thư hồi âm, thư của Vân thì cất vào trong ba lô treo ở đầu giường ngủ.
– Ông còn giữ lá nào không? – Tôi hỏi Khương.
– Lần bọn mình đi Bắc tớ đã đưa lại toàn bộ số thư ấy cho chị gái của Vân! – Khương bảo tôi rồi bấm điện thoại gọi đi đâu đó. Tôi đoán là hắn gọi cho chị gái của Vân.
– Sao? – Tôi hỏi bâng quơ.
– Chị gái của Vân bảo cái ba-lô thư cậu đưa cho chị bị nước lũ cuốn trôi. Bữa ấy mưa lớn, chị với mấy cháu chạy không kịp thì cũng bị lũ cuốn đi rồi! – Khương thở hắt ra.
Trên đường từ Hà Nội trở lại đơn vị, hắn được tin chốt của trung đoàn bị mất. Hôm ấy Vân ở tuyến sau làm chị nuôi, cơm canh chuẩn bị xong xuôi thì đưa lên chốt. Người nữ chiến sĩ đi băng băng. Anh em mình hẳn đói lắm rồi. “Cơm canh đến rồi các đồng chí ơi!” – Vân gọi to. Nhưng đáp lại chỉ là sự im lặng.
Vân đã đến gần chốt lắm. “Các đồng chí ơi!” – Cô gọi. Chim rừng dáo dác bay lên, rồi nhô ra mấy cái đầu cua. Cơm canh đổ tung tóe. Trong giây phút hiểm nguy người nữ chiến sĩ giật lựu đạn nhưng không nổ. Khi đồng đội giành lại chốt, chỉ còn xác người đàn bà trần truồng trên vũng máu.
Người nữ chiến sĩ được chôn cất tại nghĩa trang Vị Xuyên. Một lần Khương đã cho tôi coi tấm hình chụp mộ chí của cô. “Lúc nào tớ cũng nhớ Vân, nhắm mắt lại thấy Vân, mở mắt ra thấy Vân, ngồi ăn thấy Vân, ngủ thấy Vân, yêu nhau là thế nhưng tớ và Vân chưa từng hôn nhau mà mới cầm tay, hôm chia tay Vân đi Hà Nội hai đứa không nói được gì mà chỉ nhìn nhau cười!” – Khương thầm thì bảo tôi.
Cuối 2013, khi đang viết bài cho số báo xuân Khương bị đột quỵ. Mấy người ở tòa soạn gọi cho tôi. Thấy bạn, tự nhiên Khương chảy nước mắt. “Năm ấy Vân mười chín tuổi, người yêu tớ đẹp nhất trung đoàn..!” – Tôi nghe tiếng Khương lao xao như tiếng gió.
Cây duối ở mảnh vườn cũ
Cây duối mọc dưới bụi tre um tùm ở cuối mảnh vườn sát bờ sông. Mặc dù cớm nắng nhưng cây duối vẫn xanh mướt, những cái lá răng cưa căng nhựa đâm ra tua tủa. Trưa hè nắng gắt cháy da cháy thịt, tôi ôm manh chiếu cói ra đấy, bữa nào không đem chiếu thì nhặt một cái mo tre lót xuống đất, thế là có buổi trưa mát mẻ, thanh bình.
Một bữa đi học về tôi thấy ông Hanh nhà ở trong khu Bãi Bay ghé chơi. Thầy tôi và ông Hanh đang uống trà, nói chuyện khá vui vẻ. Thầy tôi hỏi ông cái vó bè có cất được nhiều cá không, ông Hanh cười, bảo cũng tàm tạm. Sông Cầu, ở khúc chảy qua Đồng Bẩm, có mấy chỗ nước lặng dân bản địa gọi là “hờm”, rất tiện để đặt vó bè. Nhiều đêm ông Hanh ngủ lại bè không về nhà. Ngần ngừ giây lát, ông cất tiếng hỏi thầy tôi:
– Mấy bữa nay vợ chồng chú có chuyện gì không?
– Vợ chồng nhà em bình thường, chẳng có chuyện gì cả! – Thầy tôi tỏ vẻ ngạc nhiên, nhưng vẫn đáp.
– Vậy là con cái nhà ai nhỉ – ông Hanh lầm bầm như tự lục vấn mình – rõ ràng tôi nghe có tiếng đàn bà khóc, ba hôm nay rồi.
– Ở đâu? – Thầy tôi hỏi, giọng thảng thốt.
– Ở chỗ cái cây duối ấy. Tôi hỏi thì tiếng khóc im bặt, lát sau lại khóc nên tưởng vợ chồng nhà chú có chuyện gì!
Mấy hôm sau đến lượt bà Cá xông nhà. Cũng lại là chuyện nghe tiếng người khóc ở chỗ cây duối. Bà Cá thêm chi tiết người khóc là đàn bà mặc áo trắng nên nghi là mẹ tôi. Đúng là mẹ tôi có sở thích mặc áo cánh trắng. Có vẻ bà hợp với tông màu này.
– Mày làm gì phật ý con vợ phải không, thôi mau mau tìm cách làm lành đi đừng để nó đêm hôm ra cây duối khóc lóc nữa phải tội! – Bà Cá bảo thầy tôi.
– Vợ chồng em có gì đâu, em nói sai em chết! – Thầy tôi bảo bà Cá.
– Tao đánh mày bây giờ, chết chóc cái gì! – Bà Cá mắng át đi.
Cặp mắt to, rất lanh lợi của người đàn bà chớp chớp, giờ thì bao nhiêu sự ngạc nhiên đã chuyển hết từ thầy tôi qua cho bà. Bất giác bà Cá rùng mình, cảm thấy tay chân ớn lạnh. Tiếng khóc ấy chẳng phải của người thì chỉ có thể là ma. Đêm ấy và những đêm sau bà Cá không giăng câu ở khúc sông mé sau nhà tôi nữa mà bơi thuyền xuống Ba-Đa-Tắc-Kun, cách đó chừng mười mấy hai chục cây số. Ông Hanh thì vẫn thả vó bè ở chỗ cũ, chỉ có một chút thay đổi là tối ông không ngủ bè mà về với vợ con.
Để tôi nói thêm một tí về bà Cá. Người đàn bà này tên gì tôi không biết nhưng ở Đồng Bẩm mọi người đều gọi là bà Cá. Bà sát cá kinh khủng. Tôi đã từng chứng kiến bà câu cá bống cát, là loài cá tinh khôn bậc nhất sông Cầu. Chả mồi mốc gì cả, bà thả cái dây câu xuống nước và giật. Cứ thế, cá bay lên và rơi vào lòng thuyền của bà. Mẹ tôi bảo tài câu của bà Cá ở Đồng Bẩm chẳng có người thứ hai. Sau này tôi nghe người lớn nói bà ấy chết trong một tai nạn sông nước. Người làm nghề sông nước chết vì sông nước, chẳng biết có phải là sinh nghề tử nghiệp hay không.
Hình như thầy tôi cũng nghe thấy tiếng khóc ở gốc cây duối!
– Mình nghe thấy không? – Người đàn ông hỏi vợ. Nghe chồng hỏi, người đàn bà hơi nghiêng đầu, nhưng rốt cuộc chỉ nghe thấy tiếng cọt kẹt đều đều của mọt đang gặm chân giường.
– Ông hoang đường vừa thôi! – Người đàn bà bảo chồng, giọng hơi gắt.
Một ngày, thầy tôi xách dao ra chặt cây duối. Chặt xong, bỗng dưng không đi lại được. Quanh cổ chân có một vệt thâm như sợi dây thít lại. Thầy đã chỉ cho tôi coi cái vệt thâm ấy.
– Mình đau nhiều không? – Người đàn bà hỏi chồng, giọng vô cùng lo lắng. Mà không lo lắng cũng không được. Thầy tôi là lao động chính trong nhà. Ông đau, không đi làm được, thì lập tức nồi cơm gia đình bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
– Chỉ là không đi lại được thôi! – Thầy tôi nói, tự nhiên mắt ngân ngấn như muốn khóc. Ông bảo từ bữa chặt cây duối, đêm nào ngủ cũng thấy một người đàn bà tầm tuổi trung niên đến đòi nhà. Ông hỏi nhà nào thì bà ta bảo là cái cây duối ông mới chặt đi ấy, rồi khóc.
– Ông chặt cái cây chứ nhà cửa gì, hơn nữa đất của nhà mình chứ có phải của ai mà bảo đòi, để tôi mắng cho bà ta một trận! – Mẹ tôi nói cứng.
Chẳng biết mẹ có mắng người đàn bà ấy không. Đêm ấy, khi tất cả đã chìm vào yên lặng, tôi giật mình thức giấc vì bị lạnh đột ngột. Thầy tôi đã tuột khỏi giường, mở cửa đi lần ra sau vườn. Trong ánh sáng le te của những hạt sao trời, tôi thấy một con đom đóm rất to, tựa hồ như có bóng người, từ bờ sông bay về phía thầy. Thật sự là lúc ấy tôi đã rất sợ. Nhưng thầy tôi vẫn thể hiện sự bình tĩnh.
– Nếu ông muốn tôi chết thì cho chết luôn chứ đừng bắt tội thế này, tôi còn phải đi làm nuôi vợ con!” – Tiếng thầy tôi nghe vẳng trong gió. Con đom đóm bay đi. Cái bóng cũng biến mất.
Hôm sau thầy bảo tôi con đom đóm tối hôm qua là ông thần đất. Thầy đã xin với ông bảo người đàn bà đi tìm cho mình chỗ khác thay vì cây duối thầy tôi đã chặt rồi.
Một thời gian sau, từ cái cây bị chặt những chồi mới lại đâm lên. Bụi duối bây giờ vẫn còn, thầy mẹ tôi thì đã đi xa. Mỗi khi trở lại mảnh vườn cũ, nhìn thấy bụi duối là tôi lại thấy hình ảnh thầy mẹ mình năm xưa, lại nghe đâu đây giọng nói, tiếng cười ấm áp của họ.
Thọ Mùi
Ở Đồng Bẩm có mấy người tên Thọ. Thọ trong câu chuyện này là Thọ Mùi, học cùng lớp với tôi. Gọi Thọ Mùi vì nó là em của anh Mùi, đơn giản vậy thôi. Nhiều người khác cũng vậy. Ví dụ như gọi anh Phúc là Phúc cò, bởi người Phúc gầy nhẳng, khi nói cái cổ cứ vươn như cổ cò. Túm lại gọi như thế chỉ là để phân biệt người này với người kia và giữa những người trùng tên nhau cho khỏi lẫn. Nếu như có người không thích thì thôi, nhưng như tôi thấy thì chẳng ai bày tỏ thái độ gì.
Thọ lớn hơn tôi mấy tuổi, người cao ráo, trắng trẻo, hát rất hay. Ngày ấy, học trò hơn thua nhau vài tuổi là bình thường. Lớp học vào ban đêm. Mỗi trò có một đèn dầu được nhốt trong hộp gỗ do phụ huynh làm, có cửa kéo lên kéo xuống, ánh sáng lọt ra chỉ vừa đủ rọi trang sách. Khi còi báo động hú lên là phải lập tức thổi tắt. Có đêm tắt mấy lần.
Giờ giải lao hoặc trước khi kết thúc buổi học, cô giáo thường bảo Thọ và tôi hát. Chúng tôi thường hát bài Diệt phát xít của Nguyễn Đình Thi. Bao giờ cũng vậy, cứ đến đoạn “Việt Nam Việt Nam Việt Nam ôi đất Việt yêu dấu ngàn năm” là cả lớp vỗ tay theo nhịp hát hòa theo. Có lúc lại hát Kim Đồng, sáng tác của Phong Nhã, “Hờn căm bao lũ tham tàn phát xít dấn bước ra đi Kim Đồng lên chiến khu”. Tận bây giờ, khi nhiều thứ đã lùi vào dĩ vãng, viết đến đây, tôi vẫn cảm thấy xúc động, trước mắt chợt hiện lên hình ảnh lúc Thọ vừa hát xong. Nó nhìn cô, nhìn các bạn cười bỡ ngỡ.
Vì anh Mùi không làm tài công xe trâu bánh lốp mà làm nghề cắt tóc, nhà có gương soi lớn và lược thưa nên mặc nhiên Thọ được liệt vào hạng con cái gia đình trí thức, bởi chỉ gia đình trí thức mới có gương lớn và lược thưa. Những nhà khác chỉ có lược bí chải chấy. Chải đầu thì dùng lược năm răng. Đưa tay vuốt một phát là xong!
Một buổi tối, lúc giải lao, Thọ lấy đèn ra đốt cái xơ áo. Sợi vải lâu ngày mủn như bông bắt lửa phụt cháy. Nó cuống, hất đổ cái đèn dầu thế là thành cháy lớn, như cây đuốc sống.
– Cô ơi cứu em! – Thọ kêu cứu. Trong mọi tình huống cô giáo luôn là người thông minh nhất.
– Lăn xuống đất! – Cô Quý ra lệnh, rồi giật phăng cái áo khoác cô đang mặc chụp xuống đám cháy. Cái áo khoác rất đẹp cô phải nhịn ăn mấy tháng mới đủ tiền mua. Lần đầu thấy cô Quý mặc cái áo ấy, mấy cô như cô Loan, cô Lan, đã xúm xít lại, có người đưa tay sờ, có người xin mặc thử.
Ngọn đuốc sống được khống chế. Ngay trong đêm Thọ được đưa đi viện. Cũng may vết bỏng không quá sâu nên ít ngày sau Thọ bình phục và đi học trở lại. Nó kéo cái ống quần rộng thùng thình lên rồi lật cả áo cho tôi xem đống sẹo trên đùi trên bụng. Rồi hai chúng tôi lại tiếp tục hát vang Diệt phát xít, Kim Đồng.
Sau Mậu Thân, Mỹ tuyên bố tạm ngừng ném bom miền Bắc. Chúng tôi được học ban ngày. Học đêm quen giờ chuyển qua ngày cũng thoáng bỡ ngỡ. Nhiều cơ quan, xí nghiệp lục tục rời khỏi nơi sơ tán. Những bãi đất tăng gia bỗng thành vô chủ.
Đồng Bẩm xưa từng là rừng. Đất tăng gia nửa năm bỏ hoang đã um tùm. Một bữa đi ngang qua một bãi dứa, đứa nào cũng thèm nhưng không dám bẻ. Thọ thấy thế, bảo:
– Dứa của nhà tao đấy, chúng mày lấy ăn thoải mái đi!
Thế là vặt. Có đứa vặt một, có đứa vặt hai trái. Đập bốp vào đá rồi cạp răng vào hít lấy hít để. Chao ôi ngon không thể tả.
– Không phải dứa nhà tao đâu, của xí nghiệp tăng gia đấy! – Chợt Thọ nói vống lên.
Ai nấy đều hoảng hốt. Có đứa đang hít buông tay cho trái dứa rơi tự do. Lát sau biết là bãi bỏ hoang mới bớt sợ. Nhưng chẳng đứa nào dám vặt nữa. Hoang. Nhưng đã từng có chủ. Thì vẫn là của người ta!
Tôi với Thọ học cùng với nhau sáu năm. Một ngày cuối hè, nó đột ngột xuất hiện ở nhà tôi.
– Tao đến chào mày, mai tao đi. Mày chịu khó học nhé, thay cho cả phần của tao! – Nó nói, nắm tay tôi lắc qua lắc lại hồi lâu.
– Cháu đến chào thím để ngày mai cháu lên đường! – Nó lại nói với mẹ tôi.
Lúc ấy ngoài đường nắng hanh hanh. Một cơn gió quét qua, bụi bay mù mịt. Năm ấy Thọ mười sáu tuổi.
– Thằng Thọ khai tăng tuổi để đi thanh niên hỏa tuyến. Là nó đi thay cho thằng Mùi. Nó không đi thì thằng Mùi phải đi! – Mẹ tôi bảo. Tôi biết anh Mùi đã có vợ con. Em đi, thì anh được ở lại.
Đi năm trước thì năm sau có tin Thọ hy sinh ở miền Trung. Người lớn bảo lúc ấy có hai xà-lan đang cặp mạn. Đã xảy ra một sự cố kỹ thuật và Thọ lặn xuống nước để sửa, lúc trồi lên cũng là lúc hai chiếc xà-lan dập vào nhau. Thọ ơi sao mày đi vội vã thế. Nhiều năm sau, tôi viết bài thơ “Tuổi 17”, tặng Thọ. “Bạn nằm lại nơi nào trên mảnh đất miền Trung/ôi rực rỡ vàng sao ngày thu xa ấy/tuổi 17 chúng mình ra đi lòng nhẹ tễnh/rộn rã một con đường bụi đỏ cuốn sau xe..!” Năm 89 Báo Sài Gòn Giải Phóng đã in bài thơ này.
Sau khi Thọ hy sinh, anh Mùi dằn vặt khôn nguôi. “Thằng Thọ là em anh thì nó cũng là em của tôi!” – Chị Mùi bảo chồng rồi khóc thành tiếng. Anh Mùi im lặng, cảm thấy trong lòng buốt nhói. Một hôm, lựa lúc vợ con vắng nhà, anh đã thắt cổ tự tử.
Chén cơm cuối cùng
Bác tôi ở Hà Nội bảo hàng tháng đều được mua gạo theo sổ, tùy theo tuổi và ngành nghề, dao động trong khoảng từ 13 đến 18 ký-lô một người với giá như cho không, thì ở Thái Nguyên phải ăn đong theo giá chợ đen. Cuối mỗi tháng, sau khi thầy tôi nhận tiền công hợp tác xã trả, ông đưa cho vợ để chi tiêu trong gia đình. Việc đầu tiên của mẹ tôi là mua gạo đổ đầy chum, xong việc này là thở phào nhẹ nhõm, các khoản rau cỏ thịt thà không đáng ngại, đều có thể tự cung tự cấp được.
Một bữa cả nhà đang ăn cơm thì ngoài đường có người la lớn:
– Mấy đứa con nhà Bính chết cả rồi!
– Sao chết? – Mẹ tôi buông chén hỏi giọng thảng thốt.
– Nghe có người mách thịt cóc bổ dưỡng, những đứa còi cọc ăn vào là lớn phổng phao lên ngay, thế là nhà Bính bắt mấy con dưới gầm giường làm thịt nấu cháo, ăn được lưng chén thì bọn trẻ con lăn ra, sùi bọt mép, thằng lớn nhường cho các em nên ăn ít, bệnh viện đang súc ruột cho nó là còn sống, mấy đứa kia đi cả rồi!
Tôi biết nhà chú thím Bính. Họ ở đường vào khu Bãi Bay. Những buổi sáng đi học qua đây tôi vẫn thấy đám trẻ con nhà họ, đứa nào đứa nấy gầy xác. Trước đó đã có người làm thịt “cậu ông trời” ăn không sao, nhà Bính thấy thế mới dám làm cho con ăn, ngờ đâu lại gánh hậu quả thảm khốc.
– Nhà mình còn may mắn hơn nhà họ! – Mẹ tôi nói, giọng rớm nước mắt.
Bữa ăn tối là vui nhất bởi cả nhà được quây quần đông đủ. Ban ngày thì ai cũng có việc của mình nên cơm canh được chia theo suất, ai về lúc nào thì ăn lúc ấy.
Mẹ tôi bới cơm cho mọi người. Thầy là lao động chính nên dĩ nhiên suất ăn nhiều hơn những thành viên khác. Chén cuối cùng luôn là của mẹ. Bao giờ cũng vậy, bới xong, bà kiếm một cái chén khác xớt phần cơm của mình ra rồi mới ăn. Khi mọi người đã rời mâm, lúc bấy bà mới ăn xong. Phần cơm xớt lại bà cất vào nồi.
Tôi có tật hay thức khuya. Thực ra lúc ấy mới đủ yên tĩnh để đầu óc tập trung học bài. Hôm nào cúp điện thì thắp đèn dầu ngồi làm bài tập. Ra ngoài hiên, vươn vai một cái, làm mấy động tác hít thở cho tỉnh táo, đột nhiên thấy bụng đói, thế là theo phản xạ lại đi lục nồi coi còn gì ăn không, may quá vẫn còn chén cơm mẹ xớt lại. Trong sự tĩnh mịch của đêm, trong tiếng rỉ rả của giàn côn trùng, tôi nghe có tiếng trở mình và tiếng ho khẽ của mẹ như đang cố kìm nén sự xúc động.
Tôi đã may mắn thi đậu vào trường đại học tổng hợp Hà Nội với phổ điểm khá cao sau đó xa nhà đi học và đi làm. Cái tật thức khuya và ăn đêm tôi không bỏ được và vẫn giữ từ bấy đến nay. Trước thức khuya ăn đêm vì đói, giờ thức khuya ăn đêm để nhớ về ngày xưa.
20/2/2025
Cao Chiến
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bến nguyện

Bến nguyện Bước chậm chậm, Dã Quỳ để mặc cho làn mưa bụi hắt vào mặt những sợi nước li ti mát lạnh, gió xuân mơn man vuốt nhẹ từng lọn tóc...