Thứ Bảy, 27 tháng 12, 2025

Gia tài của cha

Gia tài của cha

Chơi xuân nhắp chén sảy sày say,/ Lại có câu thần… ngáy ngảy ngay/ Góp với trời cao hừng hửng hứng/ Hòa cùng đất thấp hảy hày hay/ Mắt hoa vẫn thấy sường sương sướng/ Chân bước mà như báy bảy bay/ Cố… đến trăm năm nhè nhẻ nhé…/ Xuân còn còn lão đẩy đầy đây…
Xin được bắt đầu từ những vần thơ xuân, một chủ đề xuyên suốt tháng năm của cha mà cũng là đất nước vắt qua hai thế kỉ, để thấy vằng vặc một tình yêu, dù bãi bể có biến thành nương dâu, khổ đau hay hạnh phúc. Đưa cho tôi tập bản thảo viết tay bằng nét chữ phóng khoáng và rắn rỏi của mình, cha cười hiền: “Tùy con bỏ bớt những bài dở đi để đỡ tốn giấy mực và phiền người đọc. Bố chỉ bày giãi lòng mình trước mỗi cảnh tình cuộc sống; xem như là cuốn nhật kí cho riêng mình, chứ không có mưu cầu thành nhà nọ, nhà kia gì cả. Lập thân tối hạ thị văn chương . Thơ là từ lòng người mà ra. Mỗi người cảm nhận một cách. Lục bát, song thất lục bát, đường luật thất ngôn và tứ tuyệt thì quen thuộc và nhiều người làm được. Nhưng thể vĩ tam thanh hay thuận nghịch đọc, liên hoàn Tô Đông Pha thì khá lạ và không dễ làm. Đó là thú chơi ngôn từ xướng họa giữa các cụ ngày xưa, nay ít người còn biết đến, nên bố muốn giữ lại cho con cháu đời sau”. Chính là bài “Xuân 2001” ở trên hay bài mời họa dưới đây, vừa là thú vui riêng, mà cũng có phần trách nhiệm của bố với di sản của cha ông, như một mã DNA trong mạch ngầm văn hóa dân tộc:
Đời vui chữ thọ chúc xuân tươi/ Lợi với danh nghe mỉm miệng cười/ Lơi lả oanh chào hoa chốn chốn/ Nhặt khoan đàn gió thoảng nơi nơi/ Người nên chẳng quá nhiều ham muốn/ Lão cảnh thanh nhàn ấy thú vui/ Thôi nhé cũng rằng tiên Phật đấy
Trời cho vật báu  giữ mà chơi/
Đọc ngược:
Chơi mà giữ báu vật cho trời/ Đấy Phật tiên rằng cũng thế thôi/ Vui thú ấy nhàn thanh cảnh lão/ Muốn ham nhiều quá chẳng nên người….
Mùa xuân thứ 21, cha đã cố gắng mà không đến được trăm năm như đã hẹn. Chỉ còn đây những vần thơ ngập tràn tình yêu đời, yêu người, yêu sự sống; cho dù đời và người chẳng phải lúc nào cũng đáng yêu, cuộc sống cũng chẳng mấy khi dễ dàng… Một đời người với ba dòng máu  thắm, thăng trầm cùng đất nước qua ba cuộc chiến tranh, với bao biến cố lịch sử đau thương lẫn hào hùng, đổi thay tích cực và cả tiêu cực nữa. Con cháu họ Lê, nhất là những người từng trải, hẳn sẽ hình dung ra những cảnh, những tình, và nghe chính tiếng lòng mình qua những dòng tự vấn:
Ngày qua từng quãng đời qua/ Tưởng đâu xóa sạch lòng ta vui buồn/ Tưởng như tờ giấy trắng trơn,/ Không đâu! Vẫn đọng trong hồn thời gian…
Cháu con dòng tộc ở khắp hoàn cầu từng chứng kiến “thương hải biến vi tang điền” qua cơn bình địa ba đào hẳn trào nước mắt khi gặp chính tâm tư mình:
Bến Sỏi  là đây hay bến mê?/ Đá to  ai giặt, đợi ai về?/ Nước trong gạo trắng mùa cơm mới/ Nghĩa nặng ơn sâu khắp xứ quê/ Nuốt giận… ngàn năm ừ chóng nhỉ/ Ôm sầu… một khắc thấy dài ghê!/ Nắng chiều có biết lòng sông lạnh/ Rặng vải nghiêng mình bóng tái tê
Tôi hiểu ý cha muốn tinh lọc vì chất lượng nghệ thuật và tính phổ quát của tác phẩm. Thực tình, tôi không thấy có bài nào là dở như cha bảo, mà chỉ có bài hay và bài chưa thật đặc sắc nghệ thuật thôi, cũng như “trong một bài thơ hay cần có những câu dở” như ý tưởng độc đáo của cụ Viên Mai (theo GS. Nguyễn Khắc Phi). Nhưng bỏ đi bài nào cũng tiếc, vì mỗi bài thơ đều gắn với cái tình riêng với người và hoàn cảnh ra đời của nó, vì hầu hết đều làm ra để tặng người thân, một thói quen ứng xử của cha; như văn học dân gian trong hoàn cảnh diễn xướng; lời ít, ý nhiều, dí dỏm, thân mật, và chỉ ai trong cảnh ấy mới thật sự thấm thía tình cảm và thông điệp mà người viết muốn chuyển đến họ, và chắc chắn sẽ cười vui vì hạnh phúc hoặc khóc vì xúc động.
Vì thế, hầu hết các bài thơ của cha có ngôn từ giản dị, mộc mạc như lời ăn tiếng nói thường ngày, có cả từ địa phương của quê hương Thanh Hóa, Nam bộ, Huế, thậm chí cả khẩu ngữ dân tộc Mường. Có đôi chỗ câu từ chưa thật gọt giũa, cũng không quá câu nệ vần, đối chỉn chu. Sự cuốn hút lay động người đọc ngoài lối chơi chữ rất hoạt và rất hóm, thể hiện mối liên hệ sâu sắc với đối tượng quy chiếu, chủ yếu là ở cấu tứ, nói như các nhà nghiên cứu là ở mạch vận động cảm xúc đưa đến sự bất ngờ, “hiểu lại” văn bản, khám phá ra ý nghĩa hình tượng nghệ thuật, thông điệp tình cảm- thẩm mĩ của nhà thơ. Ví như “Gửi chú em”: …Thợ trời… khéo khéo vẽ nên tranh/ Bày xóa… riêng đâu bức hận tình/ Ta vững tay nghề, ta vẽ lấy/ Chuyển từ thủy mặc hóa đan thanh!
Những từ “tranh”, “vẽ”, “bày xóa”, “thủy mặc”, đan thanh” tạo thành trường từ vựng về hội họa, thấp thoáng nụ cười mà đậm ân tình của sự sẻ chia, niềm vui thấu hiểu bởi người được tặng – “chú em” vốn là họa sĩ, có hoàn cảnh “gà trống nuôi con” khi người vợ đầu bỏ đi, sau tục huyền và hạnh phúc.
Đó cũng là cách tác giả “Gửi cụ Sinh”, mừng Tết Mậu Dần ông chú họ: …Gần xa nô nức đón tin xuân/Quốc sách thông nên tiết kiệm dần/Kính chúc ông bà cùng nội ngoại…khiến người ta chờ đợi “an – khang – ninh – lộc – thọ” như mong ước lệ thường, thì bất ngờ là: Cọp về! Bắt cọp nấu cao ăn! làm nên tiếng cười sảng khoái, ý vị vừa hài hước với hiện thực đất nước còn khó khăn nên đón xuân tùng tiệm, mà cũng đầy hăm hở, yêu tin với khí thế của dân tộc từng chiến thắng “hổ giấy”  đế quốc Mỹ, quyết tâm đổi mới để “dân giàu, nước mạnh” trong năm Dần!
Một nụ cười hóm hỉnh, bao dung xuyên suốt cả tập thơ qua mỗi chặng đường chìm nổi cuộc đời, cùng bao cảnh ngộ và “những điều trông thấy”. Có thâm trầm Nguyễn Khuyến, sắc sảo Tú Xương, đớn đau Vũ Trọng Phụng, mà lại rất Lê Triển, không chỉ bởi chất liệu đời sống hiện tại, mà còn từ cách nhìn riêng của một nhân cách cá nhân. Có những tiếng cười làm ấm lòng người, như tiếng cười động viên người vợ già tao khang:
Cớ chi bà sứt rẳng rằng răng/ Cứng cỏi… nào ai bắng bẳng bằng/ Vẫn nhá ngô rang đồm đốp đốp,/ Lại nhai mía tước hẳng hằng hăng./ Gian nan… thoáng cái… lào lao lão/ Sung sướng gì đâu? Sắng sẳng sằng/ Thương lắm! Đi “hàn” lài lái lại/ Lại giòn, lại đẹp tẳng tằng tăng!
Trêu đùa đấy mà thương lắm đấy, cô gái xinh đẹp thẹn thò năm xưa của phố chợ Lò chả mấy đã nên bà lão! Cũng như thế là tiếng cười vui đùa mà trân trọng giành cho những người lao động bình dị như chú hàng xóm từng là lính Trường Sơn trở về gánh nước tưới rau, ông lão đánh cá, anh công nhân về quê cưới vợ, hay các cụ họp hội người cao tuổi xóm: Nụ cười, ánh mắt, chòm râu… mỡ màng…
Và đặc biệt là nụ cười âu yếm, hóm hỉnh mà đầy tin yêu giành cho các cháu, từ thằng cháu nội cho ông cái quân hàm ông nội oai ra phết mà ông hy vọng Hai chữ trượng phu mong mỏi cháu/ Lớn khôn mau rạng vẻ con nhà, đến đứa cháu ngoại tọt ngay ra đúng định kỳ, rồi  hai chị em thỏ thẻ đầu dây nói khiến ông vui vì “Có đường dây nối mãi/ Cái không gian thảo hiền; Lớn lên, học lấy gương nhà nhé/ Hiếu đễ cùng soi chẳng thẹn thùng…
Dành tiếng cười hồn hậu cho người thân, bè bạn; mà đối tượng được cười nhạo nhiều nhất lại chính là bản thân. Ông tự cười mình trong hình hài ông lão tóc râu, về hưu không danh phận khiến xóm giềng chẳng biết tên nên gọi bằng tên vợ “mà cái tư duy vẫn cứng đờ”; cười cảnh “buồng trong luộm thuộm như hang chuột/ Gian giữa lôm côm tựa thiết triều” với bộ “salon tức sự” thời bao cấp:
Gỗ mọt, đinh long, chốc vec-ni/ Quý như đồ cổ chứ thua gì/ Lại thêm giẻ rách nhồi làm đệm/ Phòng khách nhà ta mốt cực kì…
Và chủ nhân của nó vẫn đợi chờ/ Những người không bán, chẳng mua thơ/ Ngâm vang trời đất câu đồng điệu/ Hết hứng thì đem bịt bỏ vò, vẫn kiêu hãnh với cái Xưởng máy nhà ta, xưởng máy thơ  Cao như thông vút, đẹp như mơ  Tự tiêu, tự sản, còn chưa bán/ Dẫu bán, người đời biết có mua… Đến cả khi bệnh tật, ốm đau phải cắt râu  thì cũng phải tìm ra sự thi vị Ngẫm trong trời đất bao la/ Cắt râu chỉ có mình ta với Tào; thấy Thân già! Kể cũng thật nên thơ, và còn băn khoăn: Đường lên hạnh phúc nơi nào nhỉ?/ Liệu có còn xa… để lão chờ?!
Bài thơ cuối cùng của cha cũng là một bài thơ xuân như thông lệ – “Mừng năm Dê”- Vẫn hóm hỉnh, vui đùa, ôn cố tri tân với tích Tô Vũ chăn dê và Tôn Ngộ Không chăn ngựa, vẫn một niềm ước mong muôn thưở cho dân mình Ăn ngon, mặc đẹp, vui như Tết/ Khắp thị thành và cả xứ quê. Gượng ngồi dậy đáp lễ bạn của con đến thăm, cha còn cố hài hước để động viên những người thương yêu mình cũng bằng…thơ: …Vui cùng thiên hạ mấy vần thơ/ Dù hay, dù dở không quan trọng/ Đừng vội mang theo xuống dưới mồ…. Thơ với cha là cách giao tiếp với người, với đời một cách vui vẻ, làm vui cho mọi người, trước hết là những người thân… Những câu thơ cha cười mà khiến tôi bật khóc…
Trong dòng đời trong đục, cũng chẳng hiếm khi gặp nước mắt trong những tiếng cười của cha khi phải Nhìn đời… lẫn lộn đen như trắng / Thấy việc bàng hoàng thực tưởng mơ với những tiêu cực “Tham nhũng điều trần”, “Tệ bán/mua dâm”, “IDS”, “Hoàng kim hắc thế tâm” khiến niềm vui bay trên chín tầng mây thành niềm khắc khoải: “Bao người nghèo khổ/ Trời cao biết không ! Một điều không thay đổi từ khi viết những câu thơ đầu tiên khi còn là cậu thiếu niên 14 tuổi Ví thử thằng Tây không đến được / Thì vui lòng nhé hỡi Hàm Rồng cho đến khi thành một ông già, dù ngắm bồn sen cạn mùa lụt, đi máy bay hay tàu hỏa, thì vẫn một tấm lòng canh cánh về số phận chung của những người dân, những con sâu cái kiến vô danh luôn gánh trách nhiệm vinh quang nhọc nhằn: “Chẳng vào lễ được, xin ban phúc/ Cho cả toàn dân lẫn lão tôi…’’
Đôi khi, cái nhân sinh quan luôn tìm cách nâng người và mình lên trong mọi hoàn cảnh ấy khiến tác giả chắt từ nước mắt ra những tiếng cười. Đó là khi “Khóc bác bà” chỉ còn ít năm nữa là tròn trăm tuổi mà cũng là động viên gia quyến: Tin đến! Lòng con trộm nghĩ thầm/ Bây giờ “tiên tổ” mới quan tâm/ Và chê “áo lụa” nào ai tặng? / Tiêu cực! Không chờ hưởng đủ trăm! Là khi “Viếng chú Bắc”: Khóc chú lòng tôi những ước thầm/ Bao giờ cõi ấy được về thăm/ Tử vi giở sách cùng tra cứu/ Có đúng? Hay ông giữ sổ nhầm?!…Chưa bao giờ đến phương Tây nhưng cha lại gặp triết lý văn hóa của họ trong phong tục tang ma: thương cảm, sẻ chia trong cách tìm các chi tiết hài hước, những kỉ niệm vui để lại ấn tượng sống động trong người ở lại, “như không hề có sự chia ly” …
Nhưng cũng có khi, tiếng khóc chỉ có thể là tiếng khóc. Đó là khi “Khóc cha”: Mở mắt! Mắt khô dòng lệ / Xé lòng… lòng cạn nguồn thơ/ Cha ơi! Nỗi nhà, sự thế…/ “Dốc Cun” sương trắng mờ mờ…, “Viếng mộ chú Ba”: Thế sự chưa quên chuyện đổi dời/ Dẫu về cõi Phật chắc gì nguôi?/ Nén hương lòng cháu – hương hồn chú / Một nấm mồ lưu lạc quê người; “Khóc chú Nghĩa”: Ơi tình. Ơi Nghĩa! Xót xa nỗi lòng…Thì chỉ riêng tiếng gọi đã là tiếng khóc của nỗi đau mà điều duy nhất có thể làm là để cho nước mắt được tuôn rơi…
Những tiếng khóc, nụ cười như thế là nghệ thuật hay không nghệ thuật, hay hay không hay? Tôi xin giữ lại vẹn nguyên để những nhân vật, sự tình ấy tìm thấy mình trong đó. Và không phải là con thì cứ nhất thiết phải nói hay cho cha. Là người có chút theo đòi văn chương, với “căn bệnh di truyền” sẵn trong huyết quản chất thơ không tiền, tôi cho rằng ngoài việc duy trì, phổ biến những thể thơ cổ quý hiếm như Liên hoàn Tô Đông Pha, vĩ tam thanh, thuận nghịch độc… cho đời sau; những trang lịch sử cuộc đời, họ tộc, gia đình; những ân tình bè bạn; thì chỉ vài nét phác họa đơn sơ qua tấm “Bia Lê Lợi”  mà thấy, mà nghe và cảm được: Thác đổ ầm ào voi ngựa thét/ Chiêng hồi lanh lảnh giáo gươm khua/ Con người Bắc địch, Nam di hãi…cũng cho thấy tâm sự một cá nhân chân thành chắc sẽ không chỉ là sự chia sẻ cho một người, và tiếng lòng ấy sẽ tự tìm được những hình tượng phù hợp để diễn tả đích đáng tư tưởng cảm xúc của mình.
Con thắp lòng con một nén hương….
Một chiều xuân thật tĩnh lặng nơi xứ tuyết. Từ chối nơi lễ hội ồn ào. Không đến chốn linh thiêng để mong cầu những điều muôn thuở nữa. Nhấp chén trà thơm tưởng dáng người xưa bên dậu tưới cúc vàng, lặng lẽ mường tượng về “Hàng xoan Nguyễn Trãi” qua thơ cha mà thấy một mùa xuân vĩnh cửu nối liền hai bờ Thái Bình dương, qua suốt 600 năm, và ngàn năm sau nữa. Một mùa xuân thật mong manh, vô hình, mà lại cảm nhận được thật rõ ràng bằng các giác quan; thật âm thầm mà trường tồn, bất diệt; cứng cỏi và kiêu dũng:
Vạch ngược trời xanh nét khẳng khiu/ Khuấy hồ nước lặng gió đìu hiu…/ …Mơ màng… bỗng tiếng chồi non cựa/ Ồ! Nhựa luân hồi vẫn chắt chiu
Như thế là thơ hay không thơ? Nghệ thuật hay không nghệ thuật? Xin nhường quyền thẩm định cao nhất cho bạn đọc trân quý. Và xin được cúi đầu trước hàng xoan mùa xuân muôn đời của cha ông…
2/7/2024
Lê Thị Tuyết Hạnh
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nửa khuya

Nửa khuya Trong đời Liêm, anh có hai lần chứng kiến cảnh một người đàn bà hôn tay một người đàn ông. Lần thứ nhất trong một phim Liêm xem ...