Chân dung người mẹ
qua thơ Nguyễn Ngọc Tung
Người mẹ vốn cao đẹp trong cuộc đời, khởi đầu của sự sống và suối nguồn yêu thương không bao giờ cạn. Mẹ là nguồn cảm hứng dồi dào của thi ca, đã khơi nguồn để nhà thơ Nguyễn Ngọc Tung (1950 – nguyên Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Phúc ), hội viên Hội nhà văn Việt Nam, sáng tác nên nhiều áng thơ hay. Qua thơ ông, chân dung người mẹ hiện lên dung dị, chân thực với nhiều đức tính và phẩm chất tốt đẹp.
Mẹ tuy không chăm sóc chiến sĩ khi “bị thương nằm lại một mùa
mưa” như trong bài thơ “Mẹ” của nhà thơ Bằng Việt; mẹ cũng không đào
hầm lập nên kỳ tích “giấu cả sư đoàn dưới đất” như trong áng thơ “Đất quê
ta mênh mông” của Bùi Minh Quốc. Người mẹ sinh thành của Nguyễn Ngọc Tung
chỉ là một nông dân thuần phác, giản dị, lam lũ trong công việc đồng áng và
sinh hoạt đời thường. Mẹ đã lao động không ngừng vừa để nuôi con vừa làm tròn
nhiệm vụ cao cả của người ở hậu phương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, dâng hiến
cho Tổ quốc những đứa con mẹ yêu quý nhất lên đường chiến đấu giải phóng miền
Nam, thống nhất non sông.
Mẹ “một đời lặn lội nắng mưa”
Sinh ra, lớn lên từ đồng đất Vĩnh Phúc, mẹ hay lam hay làm,
thức khuya dậy sớm, công việc luôn tay là căn tính của mẹ cũng như bao bà mẹ Việt
khác. Bài thơ “Tép dầu” cho thấy cuộc đời của mẹ là cả những chuỗi
ngày dài lam lũ nối nhau. Mượn lời nói về tép dầu, đối thoại với loài tép dầu
nhưng thực chất nhà thơ nói về người mẹ thân thương lam lũ, tần tảo sớm hôm của
mình: “Tép dầu là tép dầu ơi/ Ăn sương nằm gió ngủ nơi góc đầm/ Mẹ ta nắng
dãi mưa dầm/ Vừa buông giọt mặn lại cầm giọt cay”. Tép dầu là loại cá nhỏ, có
nơi gọi là thầu dầu, mài mại. Loại cá này sống được và sinh trưởng nhanh trong
điều kiện tự nhiên khắc nghiệt nơi ruộng đồng. Nhà thơ đã phát hiện ra sự tương
đồng giữa Tép dầu và mẹ qua việc “ăn sương nằm gió” và “nắng dãi mưa dầm”.
Giống như nhiều bài khác, nhà thơ sử dụng sáng tạo nhiều
thành ngữ dân gian, có sự hoán cải phù hợp trong biểu đạt cảm xúc, nhấn mạnh nỗi
nhọc nhằn của mẫu thân: “Một đời lặn lội nắng mưa/ Thân cò gầy guộc sớm
trưa ngoài đồng”. Hình ảnh thơ gợi tả, gợi cảm bao nhiêu nỗi thương xót mẹ. Người
mẹ không chỉ lặn lội nắng mưa, mẹ còn vượt qua bao khó khăn khác nữa. Mẹ hiện
lên trong thơ tuy nhỏ bé về hình hài nhưng tầm vóc lớn lao vô cùng “Con
tôm cái tép nhọc nhằn/ Lùa giông đạp bão đồng gần đồng xa”. “Giông bão” là
những hiện tượng thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt đe dọa cuộc sống con người. Đối
mặt trước thử thách đó của ngoại cảnh, mẹ chủ động “lùa giông đạp bão” cảnh để
chiến thắng. Tình yêu thương các con và gia đình là nguồn năng lượng vô cùng lớn
tiếp thêm sức mạnh giúp mẹ vững vàng vượt qua mọi thử thách trong cuộc sống.
Hằng ngày, công việc quen thuộc của mẹ được tác giả – người
con trai cả – thấu cảm bằng trái tim. Vì thế, chân dung mẹ hiện lên qua những lời
thơ thật gần gũi. Chăm lo việc đồng áng, mẹ còn làm bao công việc nội trợ của một
gia đình đông đúc với mười miệng ăn: bố mẹ và tám anh em, nhà thơ Nguyễn Ngọc
Tung là con đầu lòng, dưới ông có sáu em trai và cô em gái út.
Chân dung mẹ được tái hiện thật sống động qua cảm xúc của người
con trong bài “Ngọn khỏi”: “Mẹ lội ruộng cấy gió bên sông/ manh áo tơi che
không kín rét/ mái tranh nghèo mẹ giồng khói bếp/ ngọn khói cay, ngọn khói ngọt
ngào”. Nhan đề của bài và cách dùng từ ngữ ở đây thật mới lạ, thật độc
đáo. Thông thường người ta vẫn hay nói đám khói, luồng khói, đây tác giả lại
dùng điệp từ ngọn khói – “ngọn khói cay, ngọn khói ngọt ngào”. Hình ảnh ẩn dụ
này vừa biểu tượng cho sự khó nhọc vừa gợi tả niềm hạnh phúc của người mẹ. Để
đun nấu đủ đồ ăn, thức uống cho ngần đấy con người – chưa kể nấu cám bã chăn
nuôi, thời bấy giờ chỉ bằng rơm rạ – biết bao nhiêu thời gian, công sức và vất
vả. Nhưng mỗi khi cơm canh vừa chín, ngắm cả đàn con quây quần bên mâm cơm, ăn
rào rào như tằm ăn rỗi, lòng mẹ cảm thấy thật ngọt ngào, có ấm áp, hạnh phúc
nào lớn hơn?
Lẽ thường nhà nông cấy lúa nhưng đây tác giả lại dùng từ “cấy
gió” thật sáng tạo. Là phụ nữ nông dân, công việc quen thuộc của mẹ là đi cấy.
Cấy mùa thường là tháng cuối của năm âm lịch, rét buốt căm căm, tê cóng cả chân
tay. Tác giả nói “cấy gió” là nhấn mạnh cái gió nhân thêm cái giá rét, tăng
thêm sự cơ cực, vất vả của mẹ và càng thương mẹ hơn.
Ngoài đồng đã vậy, khi về nhà, mẹ lại chẳng lúc nào ngơi tay,
từ băm bèo, thái rau, xay lúa, giã gạo… Và còn bao việc không tên khác nữa: “Con
ngồi học mẹ băm bèo thái rau/ cái đèn ngủ lúc nào chẳng biết/ mẹ xay lúa cơn
giông cánh liếp/ trang sách con bỗng ướt mưa rơi”. Đọc nhưng câu thơ này,
mấy ai lại không rưng rưng vì xúc động? Nghệ thuật ẩn dụ nhân hoá thường xuyên
xuất hiện trong thơ Nguyễn Ngọc Tung. Các vật dụng vô tri ở đây như: cái đèn,
cánh liếp, trang sách qua sự cảm nhận tinh tế của người con – một kỹ sư xây dựng
có tâm hồn thi sĩ – bỗng trở nên có hồn. Những đồ vật ấy cũng đồng cảm với chủ
thể trữ tình, thấu hiểu sâu sắc “Đời mẹ nắng mưa khó nhọc/ Nắng mưa áo vá
sờn vai” (Nồi đất) nên lại càng thương yêu, cảm phục mẹ hơn.
“Mẹ là vầng trăng”, chan chứa tình thương
Xuất phát từ yêu thương con vô bờ, nhưng không phải bằng lời
nói mà chủ yếu bằng việc làm, bằng hành động. Mong muốn các con được no ấm nên
mẹ làm luôn tay không nghỉ. Bài thơ “Vầng trăng, tình mẹ” của Nguyễn
Ngọc Tung có những câu rất ám ảnh: “Trăng lên đã vượt ngọn cau/ mẹ còn
thái khoai, xay lúa/ thương mẹ đường kim mũi chỉ/ vá sao tròn mảnh trăng gầy?”.Tất
cả mọi vui buồn, hy vọng trong đời sống tinh thần của mẹ đều gắn với gia đình.
Hạnh phúc cả cuộc đời của mẹ là chăm lo cho các con, vun đắp để gia đình thực sự
là tổ ấm.
Đọc thơ của Nguyễn Ngọc Tung, bạn đọc gặp nhiều câu, đoạn thơ
nói về lời ru của mẹ. Dùng thể thơ lục bát truyền thống có âm điệu êm ái, du
dương, tiêu biểu, bài Thơ dâng mẹ có những câu: “Kẽo kà kẽo kẹt trưa hè/
Nghe như vọng tiếng võng tre thuở nào/ Ngọt ngào một giọng ca dao/ Lời ru mẹ dắt
ta vào đường thơ”. Có người từng nói: “Không yêu thương không thể hát ru
con”, đúng vậy. Bao tình cảm yêu thương, bao mơ ước khát khao, người mẹ gửi
vào câu hát. Lòng của người mẹ lúc nào cũng mong con ăn ngoan, mau lớn, sống
yên ấm giữa cuộc đời. Đoạnthơ là nỗi nhớ và niềm hoài niệm da diết của thi nhân
về kỷ niệm tuổi thơ. Chính sự thông minh của trái tim dạt dào tình yêu thương của
mẹ và sự dâng hiến thầm lặng vì các con đã góp phần định hướng để tác giả bước
vào con đường thơ để giờ đây chúng ta có một nhà thơ đích thực.
Mẹ nhẫn nại “Biết hy sinh nhưng chẳng nhiều lời”
Mẹ của nhà thơ Nguyễn Ngọc Tung cũng giống như bao bà mẹ: “Một
đời đi mãi mà không ngoài ruộng/ một đời giấu mãi vẫn trong cánh cò” (Trần
Quang Quý) nhưng mẹ rất giàu lòng nhẫn nại và đức hy sinh. Mẹ nhận về
mình “đi sớm về khuya/ Gánh bao mùa rụng lá”. Bài thơ “Nếu một
ngày vắng gió” được thể hiện qua dạng thơ ngũ ngôn là sự ghi nhận, thấu hiểu
và biết ơn sâu nặng của người con: “Lòng biển rộng sông sâu/ Mẹ nuôi con
trời biển/ Bao mặn mòi cay đắng/ Mẹ lẫn vào cơn mưa”. Người mẹ của nhà thơ chưa
bao giờ nghĩ đến nhàn nhã, hưởng thụ. Ngày Tết, mẹ cũng vẫn quên mình trong
công việc.
Bài “Tết về nhớ mẹ ta xưa” đọc lên khiến lòng ta
rưng rưng xúc cảm: “Tết về nhớ mẹ ta xưa/ chiều Ba mươi vẫn nắng mưa ngoài
đồng/ áo tơi che tấm lưng còng/ cấy xong mẹ mới yên lòng đón xuân”. Những câu
thơ chứa chan tình yêu thương và tri ân vô hạn. Tuy gia cảnh mẹ còn thiếu người
lao động xốc vác nhưng khi cuộc chiến tranh chống Mỹ của dân tộc vào giai đoạn
ác liệt, mẹ sẵn sàng dâng hiến tài sản vô giá nhất Lần lượt từng đứa, mẹ đưa tiễn
ba con trai khỏe mạnh của mẹ vào bộ đội:“Tiễn con ra chốn chiến trường/ Gạt thầm
nước mắt mong đường con khô” (Nguyễn Ngọc Oánh). Đức tính hy sinh thầm lặng
và khiêm nhường “biết hy sinh nên chẳng nhiều lời” (Tố Hữu) của người
mẹ khiến chúng ta càng thêm yêu kính, cảm phục mẹ nhiều hơn.
Hình ảnh người mẹ trong thơ Nguyễn Ngọc Tung hiện lên qua nhiều
bài thơ rất phong phú. Đó là người phụ nữ giàu tình yêu thương và đức hy sinh,
đảm đang, trung hậu. Phẩm chất bình dị mà cao đẹp của mẹ nhà thơ rất tiêu biểu
cho phẩm chất của phụ nữ Việt Nam.
21/7/2024
Nguyễn Thị Thiện
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét