Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới
tư duy trong việc phản ánh hiện
thực
chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu đã xác quyết: “Không có một thứ nghề nào mà kết quả công việc lại có thể cắt nghĩa rõ rệt chân giá trị của người làm ra nó như nghề viết văn”
1. Mở:
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền
văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc
chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với
những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn
bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Với bản lĩnh, tài năng và sự trung thực của một nhà văn – chiến
sĩ, luôn đặt quyền lợi đất nước, dân tộc, nhân dân lên trên hết, cùng với những
trăn trở, ưu lo trước số phận con người, Nguyễn Minh Châu trở thành một trong
những chiến sĩ tiên phong, góp phần cho việc khai mở hệ hình tư duy đổi mới
trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng, với một cái nhìn đa diện,
đa chiều mang tính đối thoại trên tinh thần dân chủ và khát khao tự do sáng tạo.
Đó là sự đổi mới cách nhìn, cách nghĩ, cách thể hiện của Nguyễn Minh Châu trong
đề tài viết về chiến tranh, về thân phận con người, về sự trung thực của người
cầm bút, về “mối quan hệ giữa văn học và đời sống thực tại”, về “lương tri của
truyền thống văn học và lương tri của nhà văn”… được thể hiện không chỉ qua những
tiểu luận đặc sắc mà còn được xác chứng qua các sáng tác trong hành trình sống
và viết của nhà văn, trong kháng chiến cũng như trong hòa bình cho đến lúc ông
lìa xa cõi sống nhằm xác lập một hệ giá trị riêng có của Nguyễn Minh Châu. Đây
là dấu ấn của ông đối với việc khai mở hệ hình tư duy lý luận – phê bình văn học
cho thời kỳ đổi mới qua việc phản ánh hiện thực về đề tài chiến tranh cách mạng.
2. Nội Dung
2.1.Từ thực tế vấn đề phản ánh về chiến tranh cách mạng trong
văn học.
Là một nhà văn lại là một người lính trực tiếp chiến đấu ở
chiến trường trong những tháng năm khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến, có lẽ,
Nguyễn Minh Châu đã từng chứng kiến cái đói, cái khổ, cả nỗi đau trên thân thể,
thậm chí cái chết của những người lính là đồng đội của ông, cho nên hơn ai hết
ông luôn nhìn hiện thực chiến tranh trong một cái nhìn chân thực như nó vốn có
chứ không phải như nó phải có. Vì vậy, ông luôn nêu cao ý thức về sứ mệnh của
người cầm bút với tư cách là một chiến sĩ – nghệ sĩ, nên khi vừa ra khỏi cuộc
chiến tranh trước những niềm vui quá “hồn nhiên” và có phần “tự mãn”, Nguyễn
Minh Châu đã cảnh báo: “Cần tránh một điều: đừng bao giờ biến cuộc sống kháng
chiến thành một cảnh “non bộ” xinh xẻo, tĩnh mịch” (1). Và để tránh cái
nhìn quá “lạc quan” về cuộc kháng chiến giành độc lập tự do mà cả dân tộc phải
hy sinh bao máu xương mới giành được, Nguyễn Minh Châu đã chỉ ra những điều
“không nên có” của văn học khi phản ánh về cuộc chiến tranh cách mạng nên ông
chia sẻ: “Hình như cuộc chiến đấu anh hùng sôi nổi hiện nay đang được văn xuôi
và thơ ca đôi khi tráng lên một lớp men “trữ tình” hơi dày, cho nên ngắm nó thấy
mỏng mảnh, bé bỏng và óng chuốt quá khiến người ta phải ngờ vực” (2).
Có thể nói, với cái nhìn tinh tế, mẫn cảm và sâu sắc của một
nhà văn đã có một quá trình nghiệm sinh từ trong cuộc chiến. Hơn ai hết, Nguyễn
Minh Châu hiểu rằng chiến tranh không phải là “ngày hội”, cũng không phải “trò
đùa” mà đó là nơi để người ta chọn lựa giữa sự hy sinh của cá nhân và sự tồn
vong của đất nước, dân tộc. Điều này được thể hiện rõ trong cuộc chiến tranh
cách mạng. Bởi, để có được nền độc lập và sự phồn vinh cho đất nước, chúng ta
phải đổ bao xương máu của nhiều thế hệ mà đến nay vẫn còn biết bao người không
có cả nấm mồ và trên đất nước vẫn còn biết bao người phụ nữ biến thành vọng phu
ở những “Bến không chồng”. Đây là điều Nguyễn Minh Châu luôn trăn trở,
day dứt để tìm ra phương thức phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng một cách
trung thực nhất, đúng với bản chất của chiến tranh. Thế nên, trong sáng tác của
mình, Nguyễn Minh Châu không chỉ miêu tả chiến tranh cách mạng qua những trận
đánh, những chiến công với cảm hứng mang âm hưởng sử thi mà ông còn nhìn chiến
tranh qua phận số con người đặt trong vận mệnh của dân tộc với những được, mất
mà họ đã trải qua từ cuộc chiến. Vì thế, trong suy niệm của Nguyễn Minh Châu:
“Viết về chiến tranh…Mấy tiếng ấy không chỉ đơn thuần là chuyện một đề tài văn
chương, mà còn có gì đây? Có máu thịt của mình. Kẻ còn sống và người đã chết.
Có kỷ niệm: đồng đội, đồng chí của mình. Có cuộc đời mình và cuộc đời dân tộc”. (3) Bởi
lẽ, với thiên chức của một nhà văn và ý thức của một nghệ sĩ – chiến sĩ, Nguyễn
Minh Châu hết sức tỉnh táo và trung thực với mình, với đất nước, khi ông nhận
ra: “Trong bão tố của cách mạng và chiến tranh, con người phải phơi bày cái bản
chất của mình ra nhanh chóng hơn lúc bình thường. Trong cách mạng và chiến
tranh không có sự ve vuốt để yên tâm, thói lịch sự để che đậy, mọi con người đều
là chính mình nhất”(4). Cái nhìn của Nguyễn Minh Châu về thực tế của cuộc
chiến tranh cách mạng mà ông đã dự phần như một chứng nhân của lịch sử với tư
cách người lính vừa cầm bút vừa cầm súng là vô cùng đáng kính vì không phải
trong thực tế của cuộc chiến đấu, ai cũng đủ dũng khí để nhìn nhận một cách
trung thực về “phẩm tính người” như Nguyễn Minh Châu, kể cả những người cầm bút
viết về chiến tranh cách mạng. Vì vậy, khi nhìn lại những tác phẩm văn nghệ viết
về cuộc kháng chiến vừa qua, Nguyễn Minh Châu nhận thấy: “Các nhân vật thường
khi có khuynh hướng được mô tả một chiều, thường là quá tốt, chưa thực. Hình
như tất cả những mặt tính cách đa dạng phải phơi bày trong đời sống thực thì lại
có thể tạm thời giấu mình trên trang sách. Vì ý thức cổ động kháng chiến một phần,
một phần khác có phải do quan niệm sơ lược về nhân vật anh hùng?”(5)
Và để truy tìm cái nguyên nhân vì sao việc phản ánh hiện thực
chiến tranh cách mạng trong một số tác phẩm còn đơn giản và sơ lược, thậm chí
công thức như thế, Nguyễn Minh Châu đã nêu một thực tế không kém phần day dứt
khi ông nhận ra: “Cho đến ngày nay những người viết chúng ta đã tiếp thu được
những kinh nghiệm các nền văn học của các nước xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn
ấu trĩ, không đến nỗi những người cầm bút vẫn còn nhìn nhận nhân vật anh hùng
cách mạng như một siêu nhân, nhưng tại sao các nhân vật của họ rồi cũng như thế?”. (6) Rồi,
Nguyễn Minh Châu tự lý giải nguyên nhân với một cái nhìn khách quan, công bằng
khi ông nhận rõ trách nhiệm nhà văn trước sự tồn sinh của dân tộc, đó là:
“Trong cả hai cuộc kháng chiến, bao giờ chúng ta cũng là một kẻ yếu phải đánh
nhau với những kẻ thù mạnh, mà bắt buộc chúng ta phải thắng bằng bất cứ giá
nào, vì sự sống còn của đất nước. Phải chăng những đặc điểm đó bắt buộc chúng
ta tạm gác lại những sự thực đau lòng, những thất thiệt, những mặt tính cách
nào của từng con người không trực tiếp tạo nên chiến thắng (…) Trách nhiệm ấy
không cho phép mỗi người nói đến sự sợ hãi, nỗi lo âu và tính toán cá nhân. Đó
chẳng phải là một thói quen trong những năm kháng chiến? Như thế là, một khuynh
hướng sơ lược vấn đề văn học đã được đẻ ra từ một thói quen của đời sống”(7).Đây
chính là cơ sở để hình thành cái nhìn nhân văn, độ lượng, cảm thông của Nguyễn
Minh Châu đối với khuynh hướng miêu tả chiến tranh cách mạng còn dễ dãi, công
thức đến sơ lược, nhiều khi nhìn lại chúng ta cũng khó chấp nhận, vậy mà, Nguyễn
Minh Châu đã chân thành chia sẻ: “Không có gì đáng lên án cái khuynh hướng văn
chương ấy trong hoàn cảnh một đất nước phải huy động toàn dân, toàn diện kháng
chiến.
Nhưng trước nhiệm vụ xây dựng một nền văn học làm sao có những
tác phẩm xứng đáng với dân tộc và đất nước, chúng ta phải dám nhìn thẳng vào những
quan niệm, những khuynh hướng văn học đẻ ra từ một đất nước hàng chục năm phải
nỗ lực lấy thắng lợi chính trị và quân sự làm gốc, Những quan niệm, những
khuynh hướng ấy có khi nằm trong các sáng tác đã ra đời, có khi vẫn còn nằm
trong thị hiếu muôn màu muôn vẻ của các giới người đọc đông đảo”. (8) Phải
chăng vì đã nhìn thấy thực trạng và hạn chế tất yếu của việc phản ánh hiện thực
chiến tranh cách mạng trong văn học những năm kháng chiến và kể cả những ngày
hòa bình nên Nguyễn Minh Châu đã tự phản tỉnh mình bằng cách suy ngẫm lại, nhìn
nhận lại vấn đề này, tìm ra phương thức mới trong việc phản ánh hiện thực chiến
tranh cách mạng, đáp ứng yêu cầu của công chúng văn học thời kỳ đất nước đổi mới,
trong đó có sự đổi mới tư duy sáng tạo văn học. Điều chúng tôi muốn lưu ý ở đây
là những diễn ngôn thể hiện tư duy đổi mới của Nguyên Minh Châu trong việc phản
ánh hiện thực chiến tranh cách mạng đều được ông viết ra từ rất sớm ở thập niên
70, khi đất nước vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh đã được đăng trên Văn
nghệ Quân đội, Nhân Dân, Văn nghệ… và được tập hợp lại trong tiểu luận
Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học Xã hội, ấn hành năm 2002, nên nhiều người cứ
nghĩ các diễn ngôn này được Nguyễn Minh Châu phát ngôn trong thời kỳ đổi mới của
đất nước. Điều này đã cho thấy tính tiên phong của một nhà văn lớn với những dự
cảm đi trước thời đại – Nhà văn Nguyễn Minh Châu.
2.2. Đến sự đổi mới tư duy trong phản ánh hiện thực chiến
tranh cách mạng Không phải nhà văn nào khi cầm bút cũng luôn trăn trở về vai
trò và trách nhiệm của mình trước vận mệnh đất nước, nhân dân và phận số con
người. Nhiều khi họ chỉ dùng ngòi bút của mình như môt sinh kế để lo cho cuộc sống
bản thân và gia đình. Nguyễn Minh Châu thì khác, với ý thức của một nhà văn dấn
thân cho sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc, cho công lý, chính
nghĩa, với khát vọng đi tìm con đường kiến tạo một xã hội tốt đẹp cho tương
lai, nên ông luôn trăn trở về trách nhiệm của nhà văn trước cuộc đời. Bởi,
trong suy niệm của Nguyễn Minh Châu: “Người viết văn là người rất nặng nợ với đời.
Cuộc đời của anh ta là cuộc đời không bao giờ được phép ngừng lăn lộn trong cuộc
sống thực tế, không bao giờ ngừng quan sát và nghiên cứu xã hội và trong khi
chăm chú đọc cái “cuốn sách khổng lồ” đó, anh ta phải đặt hết tất cả tâm hồn và
trí tuệ của mình vào, phải tỏ rõ chính kiến và lập trường của mình trước mỗi một
sự việc, mỗi một hoàn cảnh, mỗi một con người”. (9) Phải chăng, vì ý
thức được trách nhiệm của nhà văn như thế nên Nguyễn Minh Châu đã không ngừng đổi
mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng mà ông đã từng gắn
bó suốt hành trình sống và viết. Và một trong những ưu tư hằn sâu trong tâm thức
ông là vấn đề tiếp nhận của người đọc đối với các tác phẩm viết về chiến tranh
cách mạng. Thế nên, vấn đề Nguyễn Minh Châu đặt ra để nhà văn suy ngẫm, khi viết
về đề tài chiến tranh cách mạng ở thời hậu chiến, mà theo ông: “Trong dáng dấp
một anh hùng ca, chúng ta đã có những tác phẩm tốt, nhưng liệu người đọc có chấp
nhận và đòi hỏi những cuốn tiểu thuyết về chiến tranh đặt ra những vấn đề xã hội
và tâm lý? Và còn thái độ của người viết? bao giờ chúng ta mới thực sự có những
cuốn tiểu thuyết về đề tài chiến tranh?” (10) , đáp ứng được nhu cầu
mỹ cảm của người đọc trong hiện tại. Và để có một cách nhìn mới, cách nghĩ mới,
cách cảm mới trong việc đổi mới tư duy khi phán ánh hiện thực chiến tranh cách
mạng, Nguyễn Minh Châu đã thẳng thắng chỉ ra những hạn chế trong cách nghĩ cũ,
cách viết cũ vốn đã thành nếp đã và đang diễn ra trong các tác phẩm phản ảnh hiện
thực chiến tranh cách mạng, đó là: “chúng ta đang có một xu hướng: đã nói đến
tiểu thuyết chiến tranh là không thể ngắn được, không thể một vài trăm trang được.
Nhìn vào tình hình tiểu thuyết dài của ta, thú thực chúng tôi hơi phân vân cho
hai chữ “sử thi” chỉ e ngại chồng chất đầy bối cảnh sự kiện, nhân vật cùng với
“vốn sống thực tế” ngỗn ngang chung quanh những chủ đề bình thường mà các tác
phẩm ra trước đó đã đề cập đến”. (11) Có thể nói, đây là lối mòn
trong tư duy sáng tạo của các nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh không dễ đổi
thay. Nêu lên thực trạng này, Nguyễn Minh Châu muốn thức nhận cho cả người sáng
tác – nhà văn và người tiếp nhận – người đọc sự đổi mới tư duy trong việc nhìn
nhận về vấn đề phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng phù hợp không chỉ với
truyền thống văn hóa dân tộc mà còn của nhân loại, nhất là khi chúng ta đang
trên con đường hội nhập với xu hướng toàn cầu hóa.
Nghĩa là, mọi cuộc chiến tranh đều phải nhìn qua lăng kính của
phận số con người với những cảm xúc mang tính nhân bản của hạnh phúc và khổ
đau, vinh quang và cay đắng, chứ không chỉ qua cái nhìn giản đơn thắng hay bại.
Điều này đã thể hiện rõ trong diễn ngôn về mối quan hệ giữa văn học và cuộc sống,
khi Nguyễn Minh Châu trả lời phỏng vấn đầu xuân năm 1986 của báo Văn Nghệ: “Văn
học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm – mà tâm điểm là con người. Người viết
nào cũng có thể có tính xấu nhưng tôi không thể nào tưởng tượng nỗi một nhà văn
mà không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con
người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là niềm hân hoan say mê, vừa là nỗi
đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của
người chung quanh mình. Cầm giữ cái tình yêu lớn ấy trong mình, nhà văn mới có
khả năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ, bất hạnh của người đời, giúp
họ có thể vượt qua những khủng hoảng tinh thần và đứng vững trước cuộc sống” (12) .
Phải chăng, với Nguyễn Minh Châu vấn đề thân phận con người trong văn học không
chỉ thể hiện qua những diễn ngôn khi phát biểu với báo chí mà đã được hiện thực
hóa trong sáng tác của ông ở các tác phẩm như; Những người đi từ trong rừng
ra, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Cỏ lau, Phiên chợ
Giát…
Lấy số phận con người trong quan hệ với số phận dân tộc làm cảm hứng chủ đạo để nhà văn chọn lựa cách tiếp cận hiên thực cuộc sống, trong đó có hiện thực viết về chiến tranh, cách mạng, làm thế nào để văn học gần với cuộc đời, chân lý nghệ thuật song hành với chân lý đời sống, Nguyễn Minh Châu đã đặt ra một câu hỏi mang tính tự vấn khi ông cho rằng: “không biết từ ngàn năm xưa hay bao giờ, người Việt Nam mình mang một quan niệm: Đã phàm cái gì đem chép vào sách vở thì không thể dung tục như đời sống bình thường hàng ngày được mà phải là những điều tốt đẹp, tinh khiết (…) Hình như trong ý niệm sâu xa của người Việt Nam chúng ta, hiên thực của văn học có khi không phải là cái hiện thực đang tồn tại mà là cái hiện thực mọi người đang hy vọng, đang mơ ước. Có lẽ nhân loại ít có dân tộc nào lúc nào cũng canh cánh ước mơ như chúng ta” (13). Và từ suy niệm này ông lại đặt ra một cách nhìn mới, để từ đó tìm ra một phương thức phản ánh mới đối với người cầm bút mà theo Nguyễn Minh Châu: “Những người cầm bút của chúng ta vô cùng cảm thông với dân tộc mình nhưng chẳng lẽ chúng ta có thể làm yên tâm mọi người bằng cách mô tả cái hiện thực ước mơ? Những điều trên chỉ cho thấy: trên con đường đi đến chủ nghĩa hiện thực đôi khi chúng ta phải khai chiến cả với những quan niệm tốt đẹp và lâu dài của chính mình” (14) . Và, khi nhận ra nếp nghĩ cũ đã chi phối hành trình sáng tạo của nhà văn trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng, Nguyễn Minh Châu thấy cần thiết phải thay đổi tư duy nên ông đã đề ra những yêu cầu như một định hướng làm thế nào việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng cho trung thực để “tạo điều kiện ra đời những cuốn sách về chiến tranh có giá trị lột tả được những vấn đề bản chất nhất của đời sống dân tộc ta, rọi cho con đường đi của dân tộc và từng con người trong tương lai, góp phần vào việc chiến đấu bảo vệ tổ quốc”(15).
Hành trình sáng tạo của nhà văn trong suy niệm của Nguyễn
Minh Châu là hành trình của những ưu tư, trăn trở trước hiện thực cuộc sống, viết
về chiến tranh cách mạng điều ấy lại càng phải suy ngẫm nhiều hơn, sâu hơn, Bởi,
trong quan niệm của Nguyễn Minh Châu: “Một tác phẩm trước khi đặt bút viết phải
trải qua rất nhiều dự đoán và kết luận về đủ mọi mặt. Nhà văn viết về chiến
tranh lại càng phải như thế. Những cân nhắc những băn khoăn, thậm chí những vật
vã xảy ra đối với một người cầm bút trước khi những dự định sáng tác hình thành
là điều thường xảy ra, chính nó sẽ làm nên chiều sâu tác phẩm”(16). Vì, theo
Nguyễn Minh Châu việc đổi mới tư duy trong vấn đề phản ánh hiện thực chiến
tranh cách mạng là một tất yếu của quá trình nhận thức ở người cầm bút. Thế
nên, trong việc đổi mới tư duy viết về tài chiến tranh cách mạng trong suy cảm
của Nguyễn Minh Châu, nhà văn cần chú ý đến mối quan hệ giữa văn học với: “Những
xu hướng chính trị, những biểu hiện tâm lý và diễn biến tính cách của các tầng
lớp người trong xã hội, lúc hòa bình yên ổn và khi cơn bão lốc của cách mạng và
chiến tranh ào ào đổ xuống như thế nào? Có những qui luật nào và những yếu tố
nào đã chi phối con người ta lúc khởi phát chiến tranh, lúc chiến ranh xen kẻ
hòa bình, và khi chiến tranh kết thúc? Trong chiến thắng khải hoàn, những điều
gì đã xảy đến trong tâm lý, tính cách của người chiến thắng” (17). Những
suy tư này thể hiện rõ trong sáng tác Nguyễn Minh Châu qua tác phẩm ở thời hậu
chiến, đặc biệt là những tác phẩm ông viết thời kỳ đổi mới như: Chiếc thuyền
ngoài xa; Mảnh đất tình yêu; Cỏ lau, Phiên chợ Giát… Có thể nói, Nguyễn
Minh Châu là nhà văn luôn nhất quán trong quan niệm văn học và sáng tác của
mình. Ông không chỉ trung thực với cuộc sống, với cách mạng mà còn trung thực với
chính mình trong hành trình sống và viết. Bởi, với ông: “Nhà văn rất cần thiết
có mặt ở trên đời, để làm công việc cảnh tỉnh nhân loại và báo hiệu trước những
tai họa” và “Văn học bao giờ cũng phải trả lời những câu hỏi của ngày hôm nay,
bao giờ cũng phải đối thoại với những người đương thời về những câu hỏi cấp
bách của cuộc sống”. (18)
3. Thay lời kết:
Không phải ngẫu nhiên trong sổ tay viết văn của mình, Nguyễn
Minh Châu đã xác quyết: “Không có một thứ nghề nào mà kết quả công việc lại có
thể cắt nghĩa rõ rệt chân giá trị của người làm ra nó như nghề viết văn”(19). Bởi
chính quá trình nghiệm sinh của mình trong hành trành trình sống và viết, với
tư cách là một nhà văn chiến sĩ, luôn ý thức về trách nhiệm của mình trước cuộc
đời, trước vận mệnh dân tộc và nhân dân, Nguyễn Minh Châu đã nhận ra: “Những
người viết sử chép truyện hàng trăm năm về trước hoặc những nhà họa sĩ vẽ tranh
các vị thánh ngày xưa cũng chỉ để bày tỏ cái lý tưởng xã hội và lý tưởng thẩm mỹ
của mình với những người đương thời mà thôi”.(20)
Có lẽ vì ý thức được vai trò quan trọng của văn học và của người cầm bút nên Nguyễn Minh Châu đã tự đổi mới tư duy sáng tạo của mình khi đặt ra trách nhiệm phải “đối thoại với người đương thời” về những vấn đề cấp bách đặt ra trong cuộc sống. Đây chính là tiền đề dẫn đến sự đổi mới hệ hình tư duy của Nguyễn Minh Châu trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới. Không những thế, đây cũng là điều kiện tất yếu để văn học cách mạng và kháng chiến luôn song hành với văn học dân tộc, với cuộc sống của nhân dân, không chỉ trong quá khứ, mà cả trong hiện tại và tương lai như tâm. nguyện của Nguyên Minh Châu: “Có một điều tưởng như chẳng thuộc phạm vi văn học nhưng lại là cái gốc của văn học. Đó là tấm lòng, cái nhìn và thái độ của người cầm bút trước cuộc sống hiện tại đang chuyển mình, trước một giai đoạn cách mạng đang biến đổi. Từ lâu, tôi vẫn luôn luôn tự khuyên nhủ mình hãy hết lòng trân trọng và yêu mến và nhất là phải có tinh thần trách nhiệm đối với thực tế cuộc sống của ngày hôm nay”. (21) Vì vậy, sự đổi mới tư duy của Nguyễn Minh Châu trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng, xét về một ý nghĩa nào đó chính là sự đóng góp của ông trong việc làm thế nào tìm ra phương cách để văn học cách mạng và kháng chiến luôn hằng sống trong tâm thức dân tộc, không chỉ ở thời kỳ đổi mới mà cả khi đất nước đang vững bước trên con đường hội nhập và phát triển của xu hướng toàn cầu hóa…
Tài liệu tham khảo:
(1) Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.32;
(2) Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.33;
(3) Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.50;
(4) Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.57;
(5) Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.57;
(6) Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.57;
(7) Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, Nxb.. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.58;
(8) Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.58;
(9) Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.40
(10) Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.59;
(11) Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.60;
(12) Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.111;
(13) Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, NXB. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.62;
(14) Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.62;
(15) Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.63;
(16) Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.671;
(17) Nguyễn Minh Châu Trang giấy trước đèn, NXB. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.72;;
(18) Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, NXB. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.78;
(19) Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.25;
(20) Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, NXB. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.78;
(21) Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.87.
22/7/2024
Trần Hoài Anh
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét