14 điều răn của cổ nhân
14 điều răn của nhà Phật
Xã hội phát triển đến mức nào đi nữa thì những giá trị truyền
thống phương Đông, tức là cội nguồn văn hóa của mỗi dân tộc Châu Á vẫn cần phải
được bảo tồn và trân trọng. Tuy là vốn cổ, nhưng nếu xét về nhân sinh quan đối
với con người hiện đại thì dường như không cổ chút nào hay nói đúng hơn là câu
chữ cũ, còn ý nghĩa thực tế vẫn hoàn toàn mới mẻ.
Đây chính là điều đáng bàn luận và suy ngẫm, vì như sách
"Minh tâm bảo giám" nhận xét: "Người xưa tuy hình dáng như thú,
nhưng lòng như có đại thánh ở trong. Người nay tuy hình dáng người nhưng lòng
lại thú, biết đâu mà lường. Có lòng không có tướng, tướng sẽ tự lòng mà sinh
ra. Có tướng mà không có lòng, tướng sẽ theo lòng mà mất đi”. Phải chăng, vì lẽ
ấy mà vô số điều khuyên răn của các bậc tiền bối vô cùng hữu ích cho cách đối
nhân xử thế của những người chịu ảnh hưởng giáo dục của Nho giáo, Phật giáo.
Tựu trung lại, đó chính là những tâm bệnh như sau:
1
Không có kẻ thù nào to lớn và nguy hiểm bằng chính bản thân ta. Tà ý xấu xa vốn là kẻ thù tiềm ẩn lớn
nhất của đời người mà tự ta khó vượt qua nổi. Thật là nghịch lý khi bao khó
khăn, thử thách, gian nan do khách quan mà nhờ tinh thần, ý chí quyết tâm ta
đều vượt qua. Nhưng, khi trong tâm có bệnh thì lại chịu thua, như dao sắc không
gọt được chuôi vậy. Đúng như nhận định trong thế giới có bốn điều tự hủy hoại
là: Cây nhiều hoa, quả nặng quá, sẽ gãy cành, rắn độc mang nọc độc nhưng lại bị
giết để lấy nọc, kẻ làm việc nước không hiền tài, thì sẽ hại dân hại nước, kẻ
làm điều bất thiện sẽ bị quả báo, cho nên sách Kinh dạy rằng: "Sự độc ác
do tâm sinh ra, sẽ quay lại tự hại bản thân mình, cũng như sắt tạo ra chất gỉ
rồi chất han gỉ ấy sẽ tiêu hủy dần thân hình của sắt". Suy nghĩ xa hơn và
kỹ hơn về giáo lý ấy thì càng rõ, nếu ta không vượt qua được chính bản năng của
mình thì lương tâm và trí tuệ, lương tâm và trí tuệ của ta cũng sẽ bị xói mòn
mục ruỗng, chẳng mấy chốc mà thành phế nhân. Ngạn ngữ vẫn cho rằng: “Tốt gỗ hơn
tốt nước sơn”, nội dung bên trong hoặc phần tinh thần không nhìn thấy được ấy
mới quyết định bản chất của một chính nhân thực thụ, bởi đơn giản là: "Con
người biểu lộ tính ưu việt của mình ở bên trong, chỉ có con vật mới lộ ra bên
ngoài thôi".
Những thất bại lớn nhất của con người đều do tính tự cao tự đại
sinh ra.Sách Cảnh hành lục cho
rằng: "Sự tự mãn (tự cho mình đầy đủ) làm cho mình hư. Sự kiêu căng (tự
cho mình giỏi) làm mình trở thành ngu. Chuyện kể rằng: Có đứa con nhà giàu
không coi ai ra gì, thích đứng trên cây tè xuống đầu người đi đường, ai cũng ngại
nhà ấy mạnh tiền của chẳng dám nói gì. Một hôm có đoàn quan binh đi qua dưới
gốc cây, tay kia tè ngay vào viên quan văn đi đầu, viên quan này gật gù khen
giỏi, rồi đi tiếp. Lúc sau viên quan võ đi qua, tay kia vẫn tiếp tục tái diễn
trò ấy, nhưng không ngờ viên quan võ nóng tính bèn rút kiếm ra chém phăng đầu
đứa xấu chơi. Người đời thường cười tên ngu dốt và thán phục mưu sâu của viên
quan văn, nhưng cái chết thì vẫn dành cho kẻ cao ngạo. Chẳng thế những nước
nông nghiệp vùng Đông Nam Á thường dùng biểu tượng cây lúa để đề cao tính khiêm
nhường: khi cây mọc càng cao, càng trổ bông trĩu hạt chín vàng thì cây càng cúi
thấp để tránh gió đồng ập đến. Lã Khôn thì rút ra bài học: "Khí kiêng nhất
là hung hăng, Tâm kiêng nhất là hẹp hòi, Tài kiêng nhất là tự cao", nếu không
hiểu được những điều này thì sống trên đời chẳng mấy chốc sẽ thất bại.
Ngu dốt lớn nhất của con người là sự dối trá. Kinh Phật cũng liệt kê điều này vào
trong 7 tội lỗi lớn nhất mà người muốn đắc đạo không được mắc phải. Tục ngữ
cũng nhận định rằng: Đường đi hay tối, nói dối hay cùng. Trên phương diện y học
thì nói dối hại tim, suy yếu phổi vì luôn ở tâm trạng đối phó bất ổn. Xét về
khía cạnh tâm sinh lý, thì nói dối bao giờ cũng tạo ra những phản ứng trái
ngược trong cùng một chủ thể, khiến con người luôn bí bức vì không thể sáng tạo
mãi ra những điều không có thật. Đành rằng, cuộc đời là một sân khấu lớn, nhưng
không phải tất cả những nhân vật biểu diễn trong vở kịch đều là nghệ sĩ vĩ đại,
thế nên mới nói đổi vai diễn thì dễ còn nhập vai chính hoặc phụ đạt yêu cầu là
cả một khoảng cách. Sở dĩ phải phân tích điều này vì lắm kẻ vẫn huênh hoang và
tự hào về khả năng diễn vở trắng - đen mà không biết đang tự mua dây trói mình.
Châm ngôn Trung Quốc nói: Nếu có lương tâm trong sáng cả đời bạn sẽ không phải
sợ tiếng gõ cửa lúc nửa đêm. Còn Trình Di lại đúc kết rằng: Lấy lòng chân thật
cảm động người ta, thì người ta cũng lấy chân thật mà đãi lại, Lấy cách trí
thuật cài đạp người ta, thì người ta cũng lấy trí thuật mà xử lại. Nếu cứ lẩn
quẩn mãi như thế, cuộc đời liệu có yên ổn và an nhàn không?
Dối trá với cuộc đời thì chẳng hay ho gì, bởi gieo hạt nào thì
gặt quả nấy. Sách Minh tâm dạy rằng: Độ lượng to lớn bao nhiêu thì phúc trạch
càng to lớn bấy nhiêu, Mưu sâu độc bao nhiêu thì tai vạ cũng sâu độc bấy nhiêu.
Nhưng khi đã tự lừa dối cả bản thân mình, thì quá tội lỗi. Nhẹ nhất là tự huyễn
hoặc khả năng, bản chất của cá nhân để yên lòng tồn tại. Nặng hơn tự cho mình
là thiên tài, luôn cao giọng răn dạy cuộc đời. Nghiêm trọng nhất là tự cho mình
cái quyền quyết định, hay phán xử tất cả mọi sự việc, mức độ này thường dẫn đến
hành động oai hùng thái quá gây tổn hại đến tinh thần và tính mạng người khác.
Thường thì người ta hay tự an ủi bằng những lý do không đúng sự thật về những
điều xấu mình đã gây ra, cốt để yên tâm tạm thời còn phần lớn thời gian luôn
cảm thấy bất an, nơm nớp. Nên Kinh thư mới nhắc: Làm điều thành thật thì bụng
yên ổn và mỗi ngày một hay. Làm điều gian dối thì bụng băn khoăn và mỗi ngày
một dở. Không tự lừa dối mình và mọi người cũng có nghĩa là phải chứng minh sự
thật bằng mọi giá. Chuyện cổ kể rằng, có người thợ đào được hòn đá bên trong có
ngọc đem dâng vua, vua không tin, kết tội nói dối nên chặt chân trái. Vua sau
lên ngôi, người này cũng đem ngọc đến dâng và vua cũng bảo gian dối, chặt nết
chân phải. Đời vua sau nữa lên ngôi, người thợ đến chân núi khóc suốt 3 ngày
đêm đến chảy cả máu mắt. Vua đến hỏi thì người thợ nói, khóc vì ngọc mà nhầm là
đá - thật mà cho là dối! Vua bèn sai đập hòn đá ra, thì quả có hòn ngọc bên
trong.
Nỗi bi ai lớn nhất của con người chính là lòng đố kị. Tính ganh ghét và đố kị như mốt ngọn lứa nhỏ
leo lét trong tâm mỗi người. Với những ai điều chỉnh được bản thân hướng thiện
thì sẽ chế ngự được ngọn lửa ấy và hóa nó thành khát vọng tốt đẹp ham muốn vươn
lên, với những kẻ bản năng tầm thường thì ngọn lửa này sẽ thỏa sức cháy, thiêu
rụi hết những gì gọi là nhân đức - giáo dục - văn hóa biến người ta thành một
con thú hoang lồng lộn cắn xé giành giật miếng mồi và kết cục lại bị chính ngọn
lửa tham này đốt cháy thành tro bụi. Đúng là: Lòng tham thì hại mình, Sướng
miệng thì tổn thân! Bệnh ghen tị luôn khiến nội tâm con người bức xúc, hậm hực
khó mà khuyên giải được nếu như không được thỏa mãn một tý chút gọi là. Thế mới
biết, sự đời đâu phải chỉ con gà tức nhau tiếng gáy, mà con ngựa ghen nhau
tiếng hí, con chó ganh nhau tiếng sủa, con chim đua nhau tiếng hót, còn con
người thường ghen tị mà hãm hại lẫn nhau. Có lẽ nên tra lại Minh tâm bảo giám
để ghi nhớ thêm một câu: Miếng ăn sướng miệng, sẽ sinh ra bệnh tật, việc làm thỏa
chí, sẽ đưa tới tai vạ. tranh hơn chạy tắt hay thành ác, nói lỡ lời đâm ra
tiếng đồn đại. Cho nên, để bệnh rồi uống thuốc sao bằng tự ngừa trước bệnh tật?
Nho giáo là một đạo học về cuộc sống có nội dung giản đơn chủ
yếu thuận theo lẽ sống tự nhiên của khuôn khổ xã hội nhất định. Người có học
Nho bao giờ cũng có chất nền nếp, giữ phép tắc, có lòng nhân đạo bác ái. Tuy
nhiên, Nho giáo nhiều khi khó hiểu, rườm rà khiến cho người học khó theo kịp và
không thể lấy mức nào để làm chuẩn mực. Chỉ có những tính chất trí tuệ và triết
lý của Nho học là mang tính giáo dục lưu truyền phổ thông với tác dụng thực
tiễn cao nhất, đặc biệt là về bản chất và phong cách sống của con người - đây
là lĩnh vực mà cổ nhân đưa ra nhiều triết lý vô cùng sâu sắc:
Sai lầm lớn nhất của con người là tự đánh mất mình. Ta chỉ là một cá thể nhỏ, một hạt cát trong vũ
trụ bao la và trên hành tinh có 7 tỷ cá nhân khác nhưng điểm khác biệt duy nhất
khiến ta làm chủ được cuộc sống riêng không phải là cái tên khai sinh mà chính
là sự khẳng định khác biệt với những người khác trong cá tính nhân cách, năng
lực và tư duy phát triển vươn lên đa dạng. Ai cũng muốn tự khẳng định mình và
càng muốn những người khác công nhận mình trong một hoặc nhiều lĩnh vực trong
cuộc sống theo phương châm hiện đại: giỏi một - biết nhiều. Nhưng cũng nhiều
người đã không tự chứng minh được mình mà còn đánh mất luôn cả bản thân vì
những tác động khách quan bất ngờ và chủ quan không may mắn! Thường thì khách
quan bị cột vào việc mất phẩm chất hoặc danh dự như vì nghèo quá hóa liều.
Nhưng Lã Khôn cho rằng: Nghèo không xấu, nghèo mà không có chí mới là xấu, hèn
không đáng ghét, hèn mà không có tài mới đáng ghét, già không nên than thở, già
mà sống thừa mới đáng than thở, chết không nên bi ai, chết mà vô bổ mới đáng bi
ai. Nhưng tội lỗi quả là sinh ra chỗ giàu sang vì sức mạnh của đồng tiền rất
đáng kinh ngạc. Cho dù chưa phải là Tiên, Phật hay chân lý, nhưng đồng tiền
cũng, làm hắc nhân tâm, xét từ cổ chí kim thì: Người ngồi trên đống cát ai cũng
có thể là quân tử hiền nhân, nhưng ngồi trên đống vàng thật khó thay, đã có ai
là hiền nhân quân tử đâu?
Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu. Nếu như không có cha mẹ thì làm sao mình
có thể hiện diện trên cõi đời này? Tại sao lại có thể quên đi người đã sinh ra
mình?
Những người con bất hiếu này chỉ nhìn thấy cái trước mắt và họ
không hiểu được nguồn gốc và tình cảm của cha mẹ họ. Sau này, nếu con cháu họ
đối xử cũng như vậy thì họ sẽ cảm nhận được thế nào là tội lỗi. Gieo nhân nào
gặt quả nấy!
"Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn
chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha.Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con". Trong
mỗi người Việt chúng ta, người được đi học tử tế đến những người vì hoàn cảnh
khó khăn mà thất học, từ bé đều được nghe 4 câu ca dao đầy ý nghĩa này. Nó là
bài học căn bản đầu tiên của mỗi con người.
Cuộc đời nhiều nỗi thương cảm xót xa nhưng có lẽ con người đáng
thương nhất là tự ti. Đây
là cách suy nghĩ, biểu hiện, hành động không đúng với bản chất và khả năng của
mình. Biểu hiện tích cực của tự ti là thu nhỏ lại không va chạm, không bon
chen, ngại đưa ý kiến, sợ phản đối trong mọi hoàn cảnh. Biểu hiện tiêu cực thì
tệ hơn là luôn khúm núm, xun xoe, bợ đỡ, xu nịnh, tâng bốc ai đó để lấy chỗ dựa
bởi mặc cảm: phải có bờ rào thì dây leo mới có chỗ dựa! Chuyện xưa kể. Có một
tay nhà giàu nứt đố đổ vách được nhiều người trong làng tâng bốc, nịnh hót
nhưng anh nông dân nghèo rớt mồng tơi bên cạnh nhà lại dửng dưng, không cần
biết. Tay nhà giàu gặng hỏi, anh nông dân trả lời: ông giàu kệ ông, tôi nghèo
kệ tôi cớ gì phải xu nịnh? Tay nhà giàu hào phóng: Nếu tôi cho anh 1/2 tài sản
thì anh có nịnh tôi không? Anh nông dân vẫn đáp: Nếu thế hai bên ngang hàng
nhau, cần gì nịnh ai? Tay nhà giàu tức khí: Nếu cho anh tất cả tài sản thì anh
có nịnh tôi không? Anh nông dân thản nhiên: Lúc ấy ông phải xu nịnh tôi mới
đúng! Thực tế bây giờ cũng chứng minh rằng: tiền bạc và địa vị tác động ghê gớm
đến suy nghĩ tự ti, nếu ai không đủ cứng rắn để giải thoát khỏi nỗi ám ảnh này
thật vô cùng đáng thương. Đường đời vốn không bao giờ bằng phẳng, chuyện vấp
ngã hoặc trượt chân rất bình thường. Triết lý cho rằng: mỗi lần ngã là một lần
bớt dại. Điển tích thơ, ca ngợi tài ứng khẩu của bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương
khi ngã cơ học vần giải thích kiểu triết học: Giơ tay với thử trời cao thấp -
Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài? Trong cuộc sống không đơn giản như thế có những
cú ngã vô hình tác động và ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần và làm suy sụp ý chí
quyết tâm gượng dậy. Có thể nói từ vị trí ngã cho đến lúc đứng dậy được phải
trải qua động tác trung gian là quỳ gối - khom lưng đây cũng chính là thời điểm
quan trọng nhất nếu không đủ bản lĩnh để vươn lên thì không những chẳng đáng
khâm phục mà còn vĩnh viễn tình nguyện gia nhập đội ngũ những kẻ không tiên hóa
được chỉ đi bằng đầu gối. Bởi thế, Chu Hy mới dặn rằng: Đời suy, đạo vi, lòng
ham muốn loài người đầy rẫy, không phải người cương nghị thì đứng vững sao
được?
Có một câu châm ngôn sống dạy rằng: Mất xiềng xích thì được tự
do, mất tiền sẽ được kinh nghiệm, mất sức thì được sung sướng nhưng đừng bao
giờ mất hy vọng, mất hy vọng là mất tất cả! Đây đúng là chân lý thực dụng kiểu
phương Tây nhưng có một ý chính trùng với người phương Đông. Sự mất mát
lớn nhất của con người là tuyệt vọng.
Không được tuyệt vọng tức là phải luôn luôn có hy vọng để sống
và sống vì hy vọng. Khi ta có hy vọng vào mốt con người, sự việc, hoàn cảnh nào
đó cũng đồng nghĩa với việc ta đặt trọn mềm tin vào đấy để có động lực sống, do
đó sự phấn đấu vươn lên sẽ mạnh mẽ và đạt hiệu quả thiết thực. Tình cảm bị
tuyệt vọng sẽ tạo nên trạng thái tâm lý dở khùng, hoang mang, không biết sắp
xếp mọi mặt của cuộc sống ra sao. Nếu sự nghiệp bị tuyệt vọng sẽ gây ra sự phẫn
uất, chây ì với bản thân, còn nếu tuyệt vọng với cả hai điều này thì dẫn đến
kết cục bi thảm: một kẻ trắng tay thường tự kết thúc cuộc sống của mình rất
nhanh. Vậy muốn giữ được hy vọng, không sa vào tuyệt vọng thì mỗi con người
phải có ý chí, nghị lực như Vương Dương Minh nhận định: Người không có ý chí
như thuyền không lái, như ngựa không cương, trối giạt lông bông, không ra thế
nào cả.
Các cụ xưa cũng nhấn mạnh rằng: Tài sản lớn nhất của con
người là sức khỏe. Người bình thường không ai nghĩ đến sức khỏe của
mình, chỉ khi nào bị tác động của bệnh tật hoặc tuổi già mới giật mình nghĩ
lại, chủ yếu là cảm giác nuối tiếc. Bão Phác Tử nói: Ai cũng muốn sống lâu mà
không biết cách dưỡng sinh. Ai cũng biết ăn uống quá độ thì ốm đau mà không
biết giữ miệng. Ai cũng biết tình dục quá độ thì khô héo mà không biết phòng
thân? Mạnh Tử thì cho rằng: Dường sinh không gì hay bằng ít lòng ham muốn, say
mê. Tư Mã Thiên cũng nhận xét: Tinh thần dùng quá thời kiệt, hình thể làm quá
thời mệt. Đúng là khi đã ốm đau bệnh tật rồi thì có tặng, biếu ham muốn cũng
không còn cảm hứng đón nhận nữa. Tuân Sinh Tiên lại có ý sâu xa: Muốn cho thân
không có bệnh, trước hết phải để tâm không có bệnh. Nên ít sắc dục để nuôi
tinh, ít ngôn ngữ để nuôi khí, ít tư lự đế nuôi thần. Còn danh y Tuệ Tĩnh luôn
nhắn nhủ: Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần, Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện
hình (ý là: giữ tinh, dưỡng khí, bảo tồn thần, giữ cho lòng thanh thản, hạn chế
dục vọng, giữ chân khí, luyện tập thân thể).
Trong cuộc sống còn nhiều mối liên quan, tác động đến nhau về cả
vật chất và tinh thần, những món nợ tiền còn có thể trả được nhưng nợ tình thì
khó khăn hơn nhiều, cho nên món nợ lớn nhất cuộc đời con người là tình
cảm.Kinh Lễ đặt câu hỏi: Thế nào là tình cảm con người? Mừng, giận, thương,
sợ, yêu, ghét muốn. Bảy loại tình cảm đó chẳng cần học ai cũng biết. Thế nhưng,
bảy sắc tình đó chẳng phải mang đến đã cho con người ta mọi điều tốt đẹp, như
sách Khuyết giới toàn thư nhận định: Bể tình dục lấp mãi không đầy thành sầu
khổ phá mãi không tan, vì vậy món nợ tình cảm ở đây cần hiểu là món nợ của
thương yêu, quý mến, gia ân. Nếu có điều kiện, thời gian, hoàn cảnh cũng có thể
trang trải tượng trưng để lưu lại chữ tình, nhưng cũng có nhiều tình thế khó xử
không thể cân, đong, đo đếm được, đành để kiếp sau. Một tích cổ kể câu chuyện
vua muốn thử tài trí tân Trạng Nguyên nên đưa ra tình huống khó xử: Trên một con
thuyền bị đắm có ba người là đức vua, thày dạy và cha đẻ đều gặp nguy hiểm đến
tính mạng, vậy sẽ cứu ai trước? Nếu chủ định cứu một trong ba người thì Trạng
Nguyên sẽ mắc một trong ba tội lớn: bất trung, bất hiếu hoặc bất nghĩa. Nhưng
Trạng trả lời nhanh và dứt khoát là, cứ nhảy xuống sông, quờ được ai trước thì
cứu trước. Tuy cách ứng phó ngẫu nhiên rất thông minh nhưng giả thiết có chuyện
này thật thì món nợ dưới sông với hai người còn lại biết bao giờ trả xong? Chắc
cũng khó khăn, trắc ẩn như chuyện của Trương Chi và Mỹ Châu: Nợ tình chưa trả
cho ai? Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan!
Thế giới có thể đại đồng về mặt lý thuyết, nhưng thực tế trên
đời người không tránh khỏi va chạm, xích mích gây ân oán to nhỏ trên dưới, xa
gần nhằng nhịt như dây leo không thể giũ bỏ triệt để được, vì thế tha thứ là
báu vật của mọi quan hệ và lòng khoan dung là quà tặng đáng giá nhất
trên đời.Đức Thích Ca dạy: Oán trả oán, oán ấy chồng chất, lấy ân trả oán,
oán ấy tiêu tan Sách Luận ngữ cũng viết: Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân. Phương
pháp luận của Lão Tử cụ thể hơn: Với kẻ lành, lấy lành mà ở, với kẻ chẳng lành,
vẫn lấy lành mà ở. Với kẻ thành tín, lấy thành tín mà đãi, với kẻ không thành
tín vẫn lấy thành tín mà đãi. Nghĩ kỹ thêm mới thấy, hai chữ khoan dung thốt ra
nhẹ nhàng biết bao nhiêu mà thực hành lại nặng nề bấy nhiêu, bởi nếu lòng dạ
hẹp hòi không chứa nổi hai chữ ấy. Cách tốt nhất là chủ động: không nên lấy cái
hay của mình mà trách cái không hay của người. Không nên lấy cái sở trường của
mình mà trách cái sở đoản của người. Khi trách người, thì đừng nên khoe mình.
Tuy vậy, sách Minh Tâm Bảo Giám viết: ở đời chẳng việc gì khó Không xong việc
là do lòng mình không chú trọng. Thà kết ơn làm nghĩa với nhiều người, chớ nên
gây oán với một người. Nên nhịn những việc khó nhịn, tha thứ những người không
sáng suốt. Lòng khoan dung không những cởi mọi ân oán tạo nên cách sống cao
thượng, mà còn chính là nguồn phúc để lại cho đời sau vì: Chứa vàng để lại cho
con cháu chưa chắc đã giữ được, chứa sách để lại cho con cháu chưa chắc đã học
được, cách để lại lâu dài cho con cháu không gì bằng chứa âm đức ở trong chỗ
minh minh!
Khổng Tử là một bậc thầy của giáo dục. Ngài cho rằng: có được
học vấn không phải là việc một sớm một chiểu, cần phải có nhiều năm thu lượm,
tích lũy. Giành được học vấn như đắp hòn núi cao, từng sọt đất mà đắp ngày lại
ngày bền bỉ mới thành núi, cho nên thành bại của học vấn trước hết là tự mình
chế ngự được bản thân, phải biết cách tránh mọi diều cám đỗ trên đời vì nếu
người đọc sách còn mơ tưởng an nhàn thì không thể coi là người học chân chính.
Và nếu không hoặc có học không đúng đắn thì dẫn đến kém hiểu biết, đó
chính là khiếm khuyết lớn nhất của con người, không gì bổ sung, thay thế
được. Đại dương kiến thức thật mênh mông, vốn hiểu biết như giọt nước dưới ánh
nắng mặt trời, long lanh đấy nhưng rồi sẽ bay hơi nhanh chóng, vì thế phải
tranh thủ và tiếp nhận tích cực vốn tri thức, hiểu biết của cuộc sống, không
nên phân biệt, cân nhắc cao thấp.
Khổng Tử dạy: Ba người cùng đi tất có một người làm thầy ta
được. Khổng phu tử cũng viết: kẻ ngốc than phiền là mọi người không hiểu hắn.
Kẻ thông thái than phiền là mình không hiểu mọi người. Như vậy có nghĩa chỉ cần
lắng nghe cũng có thể thu nạp được kiến thức rồi và nguồn kiến thức như vậy vô
cùng quan trọng như Vương Dương Minh nói: Kiến thức là sự bắt nguồn của hành
động. hành động là thành tựu của kiến thức. Sự học của thánh nhân chỉ có công
phu là kiến thức và hành động không tách rời nhau. Vậy nên Trần My Công cho
rằng: Người ta sống trong một ngày, có được nghe một câu phải, trông thấy một
điều phải, làm một việc phải, ngày ấy mới không uổng. Danh ngôn phương Đông cho
rằng: Hoàng kim cũng có giá của nó, nhưng kiến thức học được thì vô giá và nếu
như ruộng của bạn không được cày bừa thì kho vựa của bạn sẽ trống rỗng, nếu
sách của bạn không được đọc thì con cháu bạn sẽ dốt nát. Như thế đủ thấy kiến
thức còn hữu dụng đến bao đời.
Cuộc đời cũng còn có nhiều niềm vui và nỗi buồn, nhưng niềm
vui lớn nhất của con người chính là làm phúc. Chúng ta nên chia sẻ cảnh
ngộ, lòng thương cảm để giúp đỡ tinh thần hoặc vật chất cho mọi người. Làm được
điều thiện cũng là một cách tích đức để lại cho con cháu, như Tử Thần ông nói:
Bình sinh làm điều lành thì trời ban thêm phúc cho mình, ví bằng ngây dại mà
làm điều dữ thì phải mắc tai họa. Còn ý tưởng của Thái Thượng Công là: Điều họa
phúc vốn không có cửa ngõ, chỉ có ta mời nó đến thôi. Sự đền đáp việc lành dữ
cũng như bóng với hình. chỉ tùy theo lòng người. Chuyện làm phúc cũng còn lấy
kết quả, có thể người làm phúc không vui vẻ gì mà phải làm, cũng có khi người
được làm phúc không thỏa mãn mà vẫn phải nhận, ấy là do phụ thuộc vào thái độ
và cách thức thể hiện nữa. Làm phúc vì chân tâm thì cả hai bên cùng thoải mái, nhẹ
lòng, hạnh phúc còn nhón tay vì điều kiện hay mưu tính thì không hề có thiện ý,
tất cả những điều này phần lớn do tâm tính, hoàn cảnh sống và địa vị xã hội tạo
ra. Vì thế Đông Nhạc Thánh Đế viết rằng: Phàm người có quyền thế, không nên cậy
vào quyền thế của mình, người có phúc đức may mắn không nên tận hưởng hết cái
phúc ấy, cũng như thấy kẻ nghèo hèn chớ có khinh miệt người ta quá mức. Một
ngày mình làm điều thiện, phúc tuy chưa đến nhưng cái họa đã tự bỏ đi xa, một
ngày làm điều ác, cái họa dẫu chưa đến nhưng cái phúc đã tự bỏ đi xa mình rồi.
Người ở dời sau mà làm điều lành thì giống như cỏ trong vườn xuân, tuy không
thấy lớn nhưng ngày một dày thêm, người làm điều ác giống như viên đá mài dao,
không thấy hao mòn nhưng ngày càng khuyết dần.
Nỗi đau đớn và dằn vặt trên đường đời cũng rất nhiều và đa dạng
do những nguyên nhân khác nhau, nhưng có lẽ đau khổ lớn nhất là sự
trống rỗng. Đó là một trạng thái vô cảm, không còn cảm nhận về buồn vui
sướng khổ yêu ghét hay dở. Đời sống tinh thần lúc ấy không còn gì là ham muốn
nữa, thật sự giống một hòn đá lăn. đám mây trôi chứ chưa so sánh bằng thực vật
động vật vì cây cỏ muông thú còn có cảm xúc riêng của mình. Người rơi vào trạng
thái này thường bị hụt hẫng, thất vọng hoặc tan vỡ một dự tính quan trọng hay chịu
một mất mát không gì bù đắp được. Cần phải hiểu rằng mưu tính sự việc là do con
người, nhưng việc thành bại là do may rủi. Người muốn như vậy, mà trời lại
không cho là như thế, do đó, đành phải chấp nhận cái đã có hay vốn có, thế mới
là người hiểu cái đạo sống giữa cuộc đời: lý trí phải mạnh mẽ - hành động phải
linh hoạt, như Gia Cát Khổng Minh nói cách trừ bỏ sự trống rỗng này: Nên giữ
chí thật cao xa, mến chuộng bậc hiền tài, dứt hẳn tình dục, phá tan sự ngưng
trệ, khiến cho lòng mong muốn có chỗ tồn tại rõ ràng, có chỗ cảm động mà sinh
ra thương mến. Giận lắm thì cũng nên duỗi, bỏ qua sự nhỏ nhặt. Rộng thăm dò học
hỏi, trừ bỏ tính nghi ngờ bủn xỉn. Sao lại để tổn hại về sắc đẹp? Sao lại lo
buồn về việc không thành? Nếu chí không mạnh mẽ, ý không ngoan cường khảng khái
sẽ bị chìm đắm vào chỗ phàm tục, suốt đời bị trói buộc vào cõi vô hình.
Dù sao đi nữa, tội lỗi đến đâu cũng cần phải giữ một chút nhân
tính và lương tâm, chỉ có kẻ vô liêm sỉ nhất mới bán cả lương tâm và tâm hồn
mình. Nên nhớ rằng: Trước nghĩa rồi sau lợi là vinh, trước lợi rồi sau nghĩa là
nhục. Vinh ấy thường thông, nhục ấy thường cùng. Kẻ thông ấy thường trị được
người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét