TS. Ngô Minh Hiền
Trong bức tranh văn chương đẹp đẽ của Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT), thiên nhiên
là một mảng màu đầy ý nghĩa. Nó trầm lắng và tỏa sáng bằng sự hòa tan của những
sắc màu văn hóa. Tất cả đất, trời, sông, núi, bãi biển, con đèo, rừng cây, khí
hậu... đều hiện tỏa sức sống cùng khả năng nuôi dưỡng, tái sinh văn hóa của
chúng.
Khám phá tác phẩm văn học từ góc độ văn hóa trên cơ sở nhận thức mối quan hệ
giữa văn hóa và văn học, có thể thấy thiên nhiên trong văn xuôi của HPNT đã
được xây dựng thành những thế giới tinh thần của con người. Ở đó, cái
nhìn về thiên nhiên trong tư duy văn hóa phương Đông đã kết hợp với ý niệm bình
đẳng, dân chủ của văn hóa phương Tây, khối tri thức uyên bác về khoa học, nghệ
thuật, triết học, cái tôi nghệ sĩ và tài năng nghệ thuật của HPNT, tạo thành
một sự hòa điệu tuyệt vời giữa thiên nhiên và con người trong tác phẩm của nhà
văn.
Thiên nhiên là nơi HPNT khao khát tìm về để có thể được sống sâu, sống thực
cuộc đời mình. Nếu ở Nguyễn Tuân, thiên nhiên được nhìn nhận, đánh giá trong sự
phấn khích của con người khi phát hiện ý nghĩa to lớn của cái tôi trong cuộc
đời thì ở HPNT, thiên nhiên lại được cảm nhận bằng sự hòa điệu tuyệt vời của
tâm hồn con người trong ý thức sâu sắc của chính họ về tầm quan trọng của nó
với sự tồn tại của con người cả về khía cạnh vật chất lẫn tinh thần. Bởi khi
nhịp sống hiện đại gấp gáp đã tạo ra sức ép lớn, làm biến động thế giới tâm hồn
của con người thì nỗi khao khát được giao hòa với thiên nhiên, mong tìm thấy ở
thiên nhiên sự đồng điệu nhằm giải tỏa bớt những nặng nề, u tạp của con người
càng trở nên đậm nét. Do đó, với HPNT, thiên nhiên là ảnh hình của một không
gian có thực, đang hiện tồn cùng với con người làm thành một thế giới sống đầy
ý nghĩa. Và ông đã viết về thiên nhiên trong khát vọng được khám phá, hòa hợp
để thanh lọc tinh thần và được cảm nhận cuộc sống đang diễn ra xung quanh (Ngọn
núi ảo ảnh, Ai đã đặt tên cho dòng sông, Côn Sơn, Mùa xuân thay áo trên cây…).
Thiên nhiên trong cái nhìn của HPNT được thể hiện nhất quán trong suốt hành
trình sáng tác của ông. HPNT đã quan sát, khám phá, thể hiện nó bằng sự quan
tâm đặc biệt của một con người khao khát hòa mình vào thiên nhiên không phải đề
trốn đời mà để được sống và hòa điệu hồn mình cùng với nó.
Thiên nhiên trong văn xuôi của HPNT thường được cảm nhận bằng những suy tư
chiêm nghiệm, bằng những rung động từ chiều sâu tâm thức. Điều này có căn
nguyên của nó. Bởi trong tâm thức văn hóa phương Đông, thiên nhiên đã trở thành
một bộ phận hữu cơ gắn bó mật thiết với con người. Nó thể hiện tần số rung động
của tâm hồn con người trong sự chan hòa linh diệu giữa con người - thiên nhiên
- vũ trụ. Đó là thế giới siêu việt, vùng tâm linh vĩnh hằng để tâm hồn con
người có thể nương náu mà vượt lên trên cõi tầm thường. Vận dụng triết lý “nhân
dữ thiên địa tương tham” (người và trời đất chen dự vào nhau), trong suốt hành
trình sống của mình, người Việt Nam đã nỗ lực tìm cách tổ chức lại thiên nhiên
thành một giá trị văn hóa để cùng tham dự vào cuộc sống nhân văn thay vì thô
bạo chế ngự nó.
HPNT không miêu tả thiên nhiên như một cách để hưởng thụ mà đã sống cùng với nó
bằng tâm niệm “thiên nhân hòa hợp”, bằng ý thức văn hóa luôn khát khao truyền
hơi thở của mình qua từng mạch gỗ, thớ cây, để được cắm đời mình bền sâu trong
đất. Với ông, thiên nhiên là một người bạn vô cùng quan trọng, là đầu mối nhận
thức của con người. Mỗi dáng hình, mỗi động cựa của thiên nhiên đều có khả năng
“chạm thấu từng tế bào của trí nhớ” và đánh thức trong tâm hồn “nhiều điều như
đã quên trong đời”. Tâm hồn ông đã hòa nhập với thiên nhiên, gắn bó và tìm thấy
ở thiên nhiên những niềm vui hồn hậu. Chính môi trường thiên nhiên núi sông
diễm lệ của Huế, lối sống thanh tao, gần gũi với thiên nhiên của người Huế đã
tác động mạnh mẽ đến tâm hồn HPNT. Chúng tạo nên trong ông những tình cảm rất
đỗi đặc biệt với thiên nhiên để rồi được ông cụ thể hóa một cách sinh động
trong tác phẩm của mình. Tri thức văn hóa dân gian, kiến thức triết học Nho
giáo, cái nhìn tĩnh mà động của Thiền học hòa quyện với tâm thức văn hóa - lịch
sử trong HPNT đã thực sự làm sáng lên cái tinh thần hòa hợp, màu sắc triết lý
cho cảnh sắc thiên nhiên trong tác phẩm của ông.
Một cách hết sức tự nhiên, ý niệm về thiên nhiên đã thấm vào tâm hồn thanh
khiết và nhạy cảm của HPNT bằng chính cuộc chuyển vận mùa màng kỳ ảo của nó, để
mãi mãi trở thành một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm hồn ông. Qua năm
tháng cuộc đời, dấu ấn ấy đã được di dưỡng, thăng hoa thành tình cảm gắn bó,
hòa hợp tuyệt vời, “tình bạn không thể thiếu” mỗi khi HPNT nghĩ suy về một vùng
đất đai nào đó.
Trong tác phẩm của HPNT, thiên nhiên nói chung, thiên nhiên Huế nói riêng được quán
chiếu trong mối quan hệ tổng hòa với kiến trúc, hội hoạ, âm nhạc, ẩm thực...
mang sắc màu triết học, hòa hợp với con người một cách tuyệt vời. Trầm cả
hồn mình vào văn hóa Huế, HPNT cảm nhận nét đa tình mà chung thủy của núi sông,
cảnh vật, con người nơi đây. Ông nhận ra trong những đường cánh cung cong mềm
của dòng sông Hương đẹp như cổ thi, huyền sử, qua bao tháng năm chỉ chảy có một
dòng kia một “một chút lẳng lơ kín đáo” của tình yêu trong khoảnh khắc chia tay
“dõi xa ngoài mười dặm trường đình”. HPNT đã viết về sông Hương bằng một tình
yêu thiết tha, đầy ngưỡng mộ, tự hào trong sự dẫn dắt của “văn hóa sông ngòi”
trong tâm thức người Việt (Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoa trái quanh tôi...).
Ông tìm thấy vẻ đẹp “bình dị nhưng không tầm thường, trầm mặc nhưng không ủy
mị, dịu dàng nhưng vẫn tiềm ẩn khí mạnh của đất đai” của “dòng sông đời người”
của Huế trong mối liên kết kỳ diệu các cấu trúc địa lý của Huế. Do chảy qua một
địa hình có độ nghiêng rất nhẹ nên mặt nước sông Hương thường có độ phẳng lặng,
êm đềm như mặt nước hồ. Những kiến thức về cơ tầng địa chất, dòng chảy, kết hợp
cùng độ nhạy bén trong quan sát, suy ngẫm, và cách lý giải của HPNT đã khiến sông
Hương được vẽ lại trên bản đồ tâm hồn thật sắc nét. HPNT đã để tâm hồn mình dõi
theo bước chuyển hóa của dòng sông từ thế giới huyền thoại của rừng già đến với
thế giới kinh kỳ, rất xa mà rất gần với tiền thân A pàng của nó. Mỗi đoạn
chuyển dòng, mỗi khúc quanh đột ngột của con sông, dưới mắt ông đều hiện lên
một giá trị văn hóa như “một cuộc tìm kiếm có ý thức” để con sông tìm về và
biểu hiện sống động tính cách cư dân sống cùng với nó. Sông Hương không chỉ
trầm buồn, lặng lẽ như triết lý, như cổ thi mà còn đẹp, vẻ đẹp mạch nguồn văn
hóa sâu thẳm, thiết tha và đầy quyến rũ. Sông Hương chính là cái nôi văn hóa
Huế.
Để tâm quan sát, tìm hiểu các khu vườn Huế, HPNT đã khám phá “tính tổng hợp đặc
biệt của môi trường sinh thái riêng” của vùng văn hóa đặc sắc này. Vườn Huế,
trong sự khám phá văn hóa của HPNT, là “nơi cư ngụ của tâm hồn” con người giữa
thế gian. Như một triết gia mơ mộng, HPNT trân trọng giở từng trang hoa lá cỏ
cây trong “cuốn tự truyện” được “viết bằng nét chữ của cây cỏ”, nghiền ngẫm và
khám phá từng chi tiết, sự kiện, từng rung động, nghĩ suy của cuộc đời cỏ cây,
hoa lá. Ông phóng chiếu cái nhìn của mình về phía thiên nhiên, thức nhận những
giá trị vô giá của đời người đang âm ỉ trong những vỉa ngầm văn hóa. Ông trân
trọng, lắng nghe “tiếng nói vô ngôn” của cây cỏ, tìm thấy nét văn hóa “thật là
Huế” trong tổng hợp và đa dạng của văn hóa đất nước từ khu vườn An Hiên nổi
tiếng (Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoa trái quanh tôi...). Và đặc trưng văn
hóa đẹp đẽ, đầy tính nhân văn của những khu vườn Huế thực sự là một phát hiện
mới mẻ, đầy giá trị văn hóa của HPNT. Từ cái cổng có mái che rộng với vài
cây ăn quả phía trước đến cái “ngõ hạnh” nối dài vào sân hay ngôi nhà kín đáo
cuối vườn đều ẩn tàng những giá trị văn hóa, nhân văn sâu sắc. Với HPNT, cái
cổng vườn là lẽ nhân hậu của con người, cái “ngõ hạnh” là lối kiến trúc đầy trí
tuệ mang đến cho con người “một món quà tâm hồn nửa thực nửa ảo rất khó tả, một
chút hương đăng đắng của rừng mùa thu, một mảnh nhỏ xa xôi của biển”, làm xao
xuyến tâm hồn người. Và cả khu vườn là tổng hòa của tri thức nông nghiệp, kiến
trúc, hội hoạ... Tất cả đều tỏa sáng một thần thái yên tĩnh và khoáng đạt.
Chúng đem đến cho con người “sự tự do nội tâm” cùng niềm hạnh phúc được sống
đến tận cùng thiên nhiên, sự sống.
Nếu vẻ đẹp của thiên nhiên trong tác phẩm của Nguyễn Tuân được tạo tác từ một
cái tôi độc đáo luôn nồng nhiệt nỗi khát thèm sống và thể hiện mình thì vẻ đẹp
thiên nhiên trong tác phẩm của HPNT lại được khám phá từ một góc nhìn khác.
Bằng sự điềm tĩnh, thâm sâu của một nhà triết học đã trải nghiệm cuộc đời mình
cùng cỏ cây, núi sông diễm lệ, HPNT đã khám phá, phát hiện từ thiên nhiên những
nét văn hóa truyền thống của dân tộc cùng những triết lý đẹp đẽ, sâu sắc về vũ
trụ, con người. Thiên nhiên trong tác phẩm của HPNT mang đậm chất triết lý.
Từng bước quan sát, chiêm nghiệm, HPNT đã thấm sâu cái thần thái dịu dàng, uy
nghiêm và đầy minh triết của thiên nhiên. Ánh sáng văn hóa từ đó hiện ra rất
đậm nét. Ông đã quan sát, đối diện, lắng nghe và trò chuyện với thiên nhiên
khắp nơi, nắm bắt từ đó những thông tin về cái đẹp của vũ trụ. Dù nhìn ở khía
cạnh nào của thiên nhiên, HPNT cũng đều phát hiện, lý giải được những nét đặc
thù riêng của mỗi vùng đất đã làm nên khuôn mặt sinh động của non sông (Côn
Sơn, Rừng hồi, Rừng nước mặn...). Ông tìm thấy ở “trái núi u tịch không người”
Côn Sơn “lượng thông tin về cõi đời”, ở núi Dục Thúy những “ý tưởng của người
hiền” còn lưu hiện, phát hiện nơi châu thổ sông Hồng “chất sử thi, dữ dội và
gần gũi”, trên đỉnh Côn Sơn cái thanh khiết của không khí tâm linh; thấu nhận
từ rừng hồi Lạng Sơn “sự hài hòa vĩnh cửu mà không một thứ địa chấn nào phá
nổi”, và bồi hồi lắng nghe trong thẳm sâu rừng nước mặn Cà Mau sức sinh sôi làm
mạnh mẽ thêm cuộc sống của muôn loài...
Trong chiều sâu tâm thức của người Việt, núi, sông gắn bó với nhau như hai mặt
tồn tại của vũ trụ, biểu hiện mối quan hệ âm - dương trong trời đất. Người Việt
đã tìm thấy ở những ngọn núi vẻ uy linh của trời đất, sự minh triết của trí tuệ
và nét thâm trầm cao khiết của tâm hồn. Trong tâm thức của cộng đồng, những giá
trị tâm linh dường như bao giờ cũng được hun đúc trên những ngọn núi cao.
Với HPNT, núi rừng thâm nghiêm không chỉ gợi lên trong tâm hồn ông sự kính
trọng, ngưỡng mộ với thiên nhiên tráng lệ, chứa đựng bao điều nghĩa lý mà còn
giúp ông nhận thức cái lẽ “có” và “không” đang ẩn hiện giữa cuộc đời.
Bằng sự hiểu biết sâu sắc về triết học, lịch sử và văn hóa, thiên nhiên, HPNT
nhận ra sự tồn tại của xu hướng vũ trụ hóa trong thiên nhiên Côn Sơn được
Nguyễn Trãi miêu tả trong Ức trai thi tập. Ông hiểu, Côn Sơn chính là “môi
trường tiếp giáp” của tâm hồn con người với cõi vô cùng, là “căn nhà vũ trụ” để
Nguyễn Trãi “thực hiện cuộc sống tâm linh trong bản giao hưởng của trời đất”.
Từ cảm quan về thiên nhiên tinh tế của mình, HPNT đã lý giải được vai trò của
thiên nhiên đối với nội tâm Nguyễn Trãi, làm nổi bật ý nghĩa của những cuộc “ở
- về” đầy trăn trở, day dứt của tiền nhân trên sân khấu bi hài của lịch sử. Ông
đã khẳng định nỗi nhớ Côn Sơn chính là nỗi hoài niệm về căn nhà vũ trụ trong
đời sống tâm linh của Nguyễn Trãi. Tính cách lưỡng nguyên anh hùng - hiền triết
của Nguyễn Trãi vì thế được làm sáng tỏ (Côn sơn, Mượn đá để ngồi...). Là một
nghệ sĩ am tường văn hóa, triết học, thích suy tư, chiêm nghiệm về thiên nhiên,
cuộc đời, HPNT đã nhận ra trong vẻ uy nghi, dũng mãnh, trong từng gốc cây ngọn
cỏ của Bạch Mã một phần lịch sử. Bạch Mã là “khuôn mặt nhìn nghiêng của Tổ
quốc”. Nó không chỉ là một cảnh quan thiên nhiên ban tặng cho Thừa Thiên Huế mà
còn là niềm kiêu hãnh của mọi người Việt Nam chân chính. Qua bao biến thiên,
thăng trầm và sóng gió của lịch sử “ngọn núi ảo ảnh” này đã cùng chung chịu bao
điều buồn vui, cay đắng... với con người. HPNT tìm thấy ở ngọn núi Bạch Mã
“không gian huyền nhiệm kiểu phương Đông với thiên nhiên đầy hoa rừng mùa xuân,
nắng rực rỡ mùa hè, và sương khói mộng ảo mùa thu, nơi đó cây và đá sạch như vô
nhiễm, mây trời và tiếng suối reo khẽ, đánh động trong tâm linh giấc mộng tiền
thân”. Cũng như bao ngọn núi khác của đất nước, Bạch Mã mang trong nó “thông
điệp về những giấc mơ thái hòa giữa con người và thiên nhiên nhưng cũng đầy
những ưu tư thế sự”(1).
Sinh ra và lớn lên ở Huế, thành phố nổi tiếng với phong cảnh sông nước hữu
tình, HPNT không thể không bị ám ảnh bởi bóng hình của những con sông. Trong
tâm hồn ông, những dòng sông đất nước được suy tưởng thành những dòng sông văn
hóa, những biểu tượng về những vùng đất văn hóa. Từ thẳm sâu tâm hồn nhà văn
miền Trung này, các dòng sông vận hành trong lẽ tuần hoàn của vũ trụ đã chuyên
chở bao nhiêu điều huyền nhiệm của cuộc sống. “Sông Hồng là nỗi nhớ về phù sa
của đời người, sông Cửu Long là sức mạnh đi tới biển” và sông Hương là “nỗi
hoài vọng về cái đẹp nào đó chưa đạt tới ở đời”. Các dòng sông là nỗi ám ảnh mơ
về cội nguồn, về xa xưa dân tộc. Trong ông, chúng trở thành niềm trăn trở “nỗi
say mê riêng, muốn được tắm mình trong những dòng sông của đất nước...” để
xương thịt và tâm hồn “mãi mãi ướt đẫm chất phù sa nuôi dưỡng”.
Ở tác phẩm của HPNT, chất văn hóa truyền thống đậm như một dòng chảy ẩn ngầm,
trở thành hạt nhân chi phối, quyết định cái nhìn của ông về thiên nhiên. Điều
này thể hiện nhất quán trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của ông mà biểu hiện
cụ thể là suốt quá trình thức nhận thiên nhiên, HPNT không miêu tả nó như một
cách để hưởng thụ mà để chiêm nghiệm. Vì thế, những khu vườn Huế, với ông, là
cõi đời ấm áp song cũng là không gian tâm tưởng của con người. Chúng thể hiện
mối quan hệ thống nhất giữa con người với thiên nhiên trong truyền thống văn
hóa, triết lý sâu xa của người phương Đông. Thế giới vườn của người Huế đẫm
chất văn hóa tâm linh. Trong tâm thức của họ, mảnh vườn là cánh cổng mở vào thế
giới vũ trụ, nơi họ có thể sống cuộc sống tâm linh thanh khiết của mình. Từ
chiếc bình phong trước sân, ngôi nhà ẩn mình dưới cây lá cuối vườn đến lễ tạ
ơn, lễ đeo tang cho cây... đều là sự hiện diện của thuyết phong thủy, triết lý
đạo Phật, quan niệm hòa hợp thiên nhiên trong hồn những khu vườn Huế. Phong tục
đeo tang cho cây khi người chủ vườn qua đời là một ấn tượng đẹp trong tâm hồn HPNT.
Ông cảm nhận ở đó cái triết lý phương Đông ẩn sâu trong tâm thức người Huế, xúc
động trước tình cảm gắn bó thân thiết giữa con người với thiên nhiên. Và hơn
hết, cảm phục cái tâm ân nghĩa của con người Huế với thiên nhiên, cuộc đời.
Thiên nhiên còn đem đến cho HPNT nhiều suy nghiệm về thời gian. Cuộc biến ảo
diệu kỳ của bốn mùa xuân, hạ, thu, đông trong cuốn lịch vĩnh hằng của thiên
nhiên viết trên cây cỏ đã khiến ông thức nhận bao điều nghĩa lý. Trong đĩa hoa
cuối đông được điểm xuyết bằng những bông mai trắng bên nụ đào mới hé nơi phòng
khách của bà Lan Hữu, HPNT cảm nhận “bóng dáng của mùa đông đang ra đi trong âm
vang xa xôi của mùa xuân sẽ về”. Từ tận cùng những rung động sâu xa của tâm
hồn, ông hiểu đó chính là cảm thức thời gian đang hiện diện trong tâm hồn người
đàn bà cao quí này. Nó không đơn giản là nhịp đếm bước thời gian. Nó là “tất cả
niềm cảm hứng tự do”, là cái nhìn hướng vọng của tâm hồn bà được ấp ủ, nuôi
dưỡng, “lặng lẽ qua bao nhiêu cái bi và cái hài, cái ảo và cái thực, cái thiện
và cái đẹp, giữa tháng năm đất nước đời người”.
Thiên nhiên trong tác phẩm của HPNT là những “xáo động khôn cùng của ngổn ngang
trần thế, thâm hậu như những châm ngôn mà vẫn lấp lánh một ánh sáng lạ”(2).
Chúng đã giúp HPNT nhận thức những vấn đề khó lý giải trực tiếp của lịch sử,
cuộc sống (Côn Sơn, Ngọn núi ảo ảnh, Mượn đá để ngồi...).
Cùng với các nhà văn Việt Nam hiện đại, HPNT đã vượt qua lối tư duy truyền
thống để cảm nhận thiên nhiên trong sự giao thoa văn hóa Đông - Tây, trong hài
hòa truyền thống với hiện đại. Song thiên nhiên trong văn xuôi của HPNT là biểu
hiện rất riêng của thế giới tâm hồn phức tạp, nhiều biến động của nhà văn trong
từng hoàn cảnh cụ thể.
Ở tác phẩm của HPNT, thiên nhiên lại hòa điệu tuyệt vời với con người. Con
người với thiên nhiên tuy không hòa tan vào nhau nhưng giữa con người và thiên
nhiên dường như không còn sự ngăn cách. Từng dòng sông, ngọn núi, từng ngọn cỏ,
lá cây... đều mang trong nó dấu tích, thần khí của con người, cùng với con
người làm nên sự sống, làm nên văn hóa. Cái nhìn của văn hóa đô thị cùng cảm
quan thiên nhiên phương Đông kết hợp với tâm hồn nhạy cảm, lối sống khép mình
trong thiên nhiên của người Huế và lối suy tư đậm màu sắc triết học của HPNT đã
làm nên sắc màu riêng cho sự hòa điệu này trong sáng tác của ông. Thiên nhiên
trong tác phẩm của HPNT vì thế thường ẩn tàng trong nó những trầm ngâm suy
tưởng, rất thanh nhẹ nhưng có lúc lại nặng trĩu những ưu du thế sự và thảng
hoặc còn có cả những cô đơn, hoang mang của thân phận giữa sự chảy trôi vô tận
của cuộc đời. Thiên nhiên trong sự hòa điệu với tâm hồn con người không chỉ là
bài ca cuộc sống mà hơn hết tất cả nó còn là sự chiêm nghiệm các giá trị cuộc
đời. Đây cũng có thể được coi như một trong những cơ sở quan trọng để giải thích
lý do vì sao thiên nhiên trong văn xuôi của HPNT giàu tính triết lý và suy
nghiệm. Sự hòa điệu của tâm hồn con người với thiên nhiên trong văn xuôi của
HPNT vì thế, chính là một dấu ấn đặc 1biệt góp phần
làm nên giá trị riêng cho tác phẩm của ông.
(1) Những trích dẫn Hoàng
Phủ Ngọc Tường đặt trong ngoặc kép được rút từ cuốn: Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc
Tường gồm 5 tập. Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 2002.
(2) Lê Đức Dục: Hoàng Phủ Ngọc Tường - người “lễ độ với thiên nhiên” - Cửa
Việt, số 65, 2000.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét