Đỉnh cao chói lọi 4
KÝ ỨC (4)
Trời lại mưa, cơn mưa thẹn thùng của mùa xuân.
Những làn mưa thưa hạt, rắc lổ đổ xuống mặt đất một cách e dè
rồi sau đó tắt ngấm. Gió từ phía biển Đông cuốn lên đuổi những làn mây lang
thang qua khung trời hoang vắng. Mây tím màu hoa cà khiến ông nhớ tới vườn cà
quê hương, một quê hương quá đỗi mờ nhạt xa xôi chỉ còn lại vài hoài niệm mún
manh và huyền hoặc. Rồi màu mây tím ấy lại gợi cho ông những cánh đồng miền
Provence, nơi người ta trồng cỏ thơm lavande để làm nước hoa và xà-phòng. Lần đầu
tiên đứng trước cánh đồng mênh mông màu lơ tím, tâm hồn ông tê dại đi vì vẻ đẹp
của xứ người. Và ông thầm khóc trong tim:
― Ôi, bao giờ những cánh đồng xứ sở, những miệt đồi mênh mông
nắng cháy miền Trung có thể khoác được tấm áo choàng mỹ miều kia? Ôi, bao giờ
những người dân cày quê ta có được vẻ mặt thanh thản như những người nông dân xứ
này khi bước trên đất đai của họ? Ôi, bao giờ những đứa bé chăn bò quê ta có thể
ăn mặc chĩnh chện như đứa bé chăn bò đang rong ruổi dưới bóng những hàng bạch
dương kia? Bao giờ và bao giờ?
Bao nhiêu tháng năm, tim óc ông sôi sục vì câu hỏi ấy. Bao
nhiêu tháng năm, ông bị ám ảnh bởi một biểu tượng song trùng, một sự so sánh
đau đớn bất khả nguôi dịu, bất khả quên lãng: những đôi chân mang giầy da tất ấm
của những người nông dân Pháp đặt bên cạnh những đôi chân nứt nẻ, móng đen xì
bùn phèn, với những ngón chân choẽ toác ra vì ngàn năm phải bấm xuống ruộng bùn
của dân cày Việt nam. Cặp hình ảnh này theo đuổi ông như hình với bóng, trong
những cơn mơ chính ngọ, trong những cơn thổn thức nửa đêm, khi ông ngồi trong
nhà tù cũng như khi ông ngồi trên khán đài danh dự. Dân tộc đau khổ của ông. Số
phận cay nghiệt mà tạo hoá đã dành cho họ. Bao nhiêu giọt nước mắt ông đã nhỏ
vì cái số phận cay nghiệt ấy. Tất cả những gì ông đã cố sức làm, trong hy vọng
can trường là cải tạo nó.
― Ta yêu dân tộc của ta như vậy, tại sao họ chẳng yêu ta? Tại
sao họ không thể thí cho ta chút hạnh phúc cỏn con, tầm thường như mọi kiếp
nhân sinh khác?
― Ồ, dân tộc, đó là một khái niệm trừu tượng, một đám đông vô
nhân dạng, tiếng ồn ào của một biển hơi thở, sự va đập trong phút chốc của con
sóng thời gian. Kẻ ngăn cấm ngươi sống cuộc sống đích thực của con người chính
là các đồng chí thân thiết của ngươi, và trước hết là chính ngươi, bởi ngươi đã
trót đóng vai ông thánh.
― Nhưng dân tộc của tôi nhỏ yếu, để khích lệ niềm tin và sự
can đảm nơi họ, liệu tôi có thể làm gì khác?
― Ngươi đã chọn lối đi dễ nhất, tương hợp nhất với tầm vóc
trí tuệ dân tộc của ngươi, và vì thế ngươi phải trả giá. Trò chơi làm thánh
không mới lạ gì trong lịch sử con người. Bệ thờ nào chẳng trang trí bằng những
đoá hoa giả, dù bằng bạc, bằng đồng trong thời quá vãng hay bằng các loại nhựa
dẻo và kim cương nhân tạo ngày nay. Nhưng mọi trò chơi đều phải trả giá. Trên
cõi đời, chẳng thứ gì được cho không.
Người đối thoại với ông hạ lời cuối, với nụ cười riễu cợt
trên môi. Đoạn ông ta biến đi theo làn gió. Một cơn gió xuân ẩm ướt mang theo
hơi lạnh khiến ông rùng mình. Ông đưa mắt nhìn theo kẻ khinh bạc kia, dường như
ông ta đến từ lối rẽ bên trái ngôi chùa, bước qua mảnh sân với vườn mai. Rồi
ông ta biến đi cũng theo ngả ấy. Cái gã đàn ông giống ông như tạc, nhưng với
làn da xanh màu lá chuối non và cái nhìn đầy vẻ khinh khi.
- Thưa chủ tịch, mời người vào nhà kẻo lạnh.
Cậu lính to béo đã tiến sát lưng ông, cất tiếng đột ngột khiến
ông giật nẩy mình.
- Được, tôi vào đây.
Ông đáp, có chút tức giận mà không dám bộc lộ. Dù muốn hay
không, ông cũng bị kiểm soát từ mọi phía. Không một phút được tự do. Cuộc đời
ông là của dân tộc. Sức khoẻ của ông là của dân tộc. Thời gian của ông cũng là
của dân tộc. Không còn gì riêng cho ông nữa sao? Cuộc chơi này thật cay nghiệt!
- Boong...boong boong...
- Boong...boong...boong...boong...boong...
Chuông chùa bỗng đổ hồi dồn dập, ròn rã.
- Boong...boong...boong...
Ông quay lại hỏi cậu cần vụ:
- Sao hôm nay nhà chùa gióng chuông nhiều như vậy?...
- Con quên không thưa với người rằng hôm nay đích thân sư cụ
chủ trì lễ giải oan, tẩy trần cho ông Quảng. Nhà chùa sẽ kéo chuông và tụng
kinh nhiều hơn thường lệ. Xin chủ tịch thông cảm.
- Chúng ta trú ngụ ở đây là đất nhà chùa. Họ có quyền làm những
gì họ muốn.
- Dạ...Nhưng dẫu sao...
- Hôm nay làm lễ gì, tôi chưa nghe rõ?
- Dạ, lễ rửa oan, tẩy trần cho người đã khuất....Ông tiều phu
dưới xóm đã chết được bốn mươi chín ngày rồi ạ.
- Đã bốn mươi chín ngày rồi? Nhanh đến thế?
- Dạ. Hôm qua chủ tịch xã lên tận văn phòng đề nghị anh Lễ
cho phép gia đình ông Quảng được lên đây cúng. Khi nào họ lên, đại đội sẽ tăng
cường bảo vệ.
- Ra thế...
Ông buông một tiếng hững hờ:
― Đấy chính là việc của họ. Tăng cường bảo vệ để làm gì? Chắc
hẳn để ta khỏi ngã trước nàng vợ goá của ông tiều phu. Còn những người dân quê
kia liệu có nhu cầu gì để ám hại một ông chủ tịch?
Ý nghĩ thầm kín ấy chạy qua óc não ông, vừa như sự riễu cợt lại
vừa như lục vấn.
- Mời người dùng trà cho nóng.
- Cảm ơn.
- Chú kê cái ghế xích-đu ra gần cửa cho tôi...Ở đó, tôi có thể
đọc báo bằng ánh sáng tự nhiên.
- Dạ, đúng vậy. Hôm nay không có mặt trời.
Cậu lính thật thà đáp rồi loay hoay mang chiếc xích-đu ra kê
sát cửa. Ông vừa uống trà vừa nghĩ rằng lát nữa, ông có thể nhìn rõ bầu đoàn
thê tử của người tiều phu, trước hết là đứa con trưởng. Câu chuyện này đã trở
thành nỗi ám ảnh thường xuyên kể từ khi ông biết. Nỗi tò mò khôn cưỡng khiến
ông nảy ra nhu cầu ngắm những nhân vật đích thực xoay quanh tình sử của cặp vợ
chồng chênh lệch, trớ trêu này. Một nụ cười riễu cợt khác lại nảy sinh:
― A, ngươi thèm khát được thấy mặt đám người này vì họ là tấm
gương phản chiếu lại cuộc đời của chính ngươi. Một sự phản chiếu gần như tuyệt
đối nhưng theo chiều ngược lại. Bởi gã tiều phu chẳng đóng vai ông thánh, gã sống
đúng thân phận con người. Gã là kẻ chiến thắng trên mọi nỗi bất hạnh đã trải nếm,
còn ngươi, ngươi là kẻ chiến bại dưới bóng quyền lực và vinh quang. Một kẻ chiến
bại câm lặng và thảm hại.
- Thưa chủ tịch, như thế này đã được chưa ạ?...
- Lui về phía sau một chút nữa là được. Không nên để họ thấy
mặt tôi, như vậy phiền cho cả đôi bên.
- Dạ.
- Hình như có tiếng cậu Lễ?
- Thưa chủ tịch, chính xác như vậy. Anh Lễ đưa quân lên tăng
cường đấy ạ. Sau đội tăng cường mới đến gia đình người tiều phu.
- Bảo cậu Lễ là tôi đang đọc tài liệu, cứ việc bố trí người
bên ngoài, không cần vào đây bẩm báo với tôi.
- Dạ.
Chàng lính béo liếc lần cuối xem chiếc ghế kê đã thuận hay
chưa rồi đi ra đón đội tăng cường. Ông cầm tập tài liệu ra xích-đu ngồi, trong
tư thế tiện lợi nhất để có thể quan sát đám người sẽ đi qua mặt ông trước khi
vào chùa chính.
Không gian ngào ngạt mùi nhang. Tiếng gõ mõ vang rền khi hồi
chuông ngưng lắng. Ông nghe tiếng bước chân đám lính, rồi họ xuất hiện ngay trước
hành lang xếp thành một hàng rào. Tất cả nghiêm trang như những pho tượng gỗ, mặt
hướng ra ngoài, lưng quay lại phía căn phòng của ông, nơi cánh cửa nửa khép nửa
mở để che khuất người ngồi trong. Chừng như Lễ biết ý ông nên đã đứng ở một góc
khuất nào đó. Sự vắng mặt anh ta khiến ông dễ chịu hơn.
- Boong...boong...boong....
- Boong...boong...boong...boong...boong...
Tiếng chuông lại gióng lên để làm hiệu cho đoàn người bước tiến
vào chùa. Sư nữ bước ra sân, hai tay chắp hình búp sen đón khách. Người đầu
tiên ông nhìn thấy chẳng phải là một thành viên trong gia đình kẻ tiều phu xấu
số mà là một sư bác, chắc chắn ngoại ngũ tuần. Theo sau ông ta còn hai sư nữa rồi
mới tới người con trai trưởng của ông Quảng. Chủ tịch nhận ra anh ta tức khắc
ngay từ cái nhìn đầu tiên và có đôi phần thất vọng. Trên phương diện hình thức,
anh ta chẳng gây được chút ấn tượng nào. Một gã đàn ông nhỏ thó, vai lệch,
gương mặt nhọn hoắt, không gợi lại chút xíu hình ảnh người cha cũng chẳng có một
hạt cỏn con sự quyến rũ nam tính. Anh ta bận quân phục thu-đông cũ, thứ y phục
thông dụng của đám cán bộ xã. Anh ta chẳng có râu hùm, cũng không có hàm én,
nhưng ngay cả dáng đi cũng lạ kì, dáng đi của anh ta giống hệt dáng đi của những
người đàn bà mà đa phần trong số họ phải chấp nhận kiếp cô đầu hay kĩ nữ. Vừa vặn
vẹo như rắn trườn vừa nhón gót như loài chim sẻ. Tuy nhiên, với bộ dạng sầu khổ
và èo ọt, con người anh ta vẫn toát ra một sức mạnh âm hiểm rất khó miêu tả hay
cắt nghĩa. Chủ tịch bất giác buông ra một tiếng: A!...
― Đây chính là con người kiểu mẫu của thứ xảo võ, lối đánh
trông tưởng chừng như múa lượn nhưng toàn nhằm vào hiểm huyệt của đối phương.
Khi xuống đòn, họ có thể kết thúc đối phương một cách bất ngờ. Nói cách khác,
đây là thứ đô vật không bao giờ bước lên võ đài, là kiếm sĩ không xuất hiện lúc
thanh thiên bạch nhật mà chỉ quật đổ đối phương bằng cách đứng rình trong bóng
tối để đâm họ từ phía sau lưng. Kiểu người này chẳng bao giờ lùi bước trước bất
cứ trở ngại nào để đạt được tham vọng của mình, bất chấp lương tri cũng như bất
chấp sự khinh bỉ của tha nhân. Nhưng thần hộ mệnh của Quý không đủ quyền năng để
giúp anh ta thành công, nên cuộc chiến đấu của kẻ thất phu chỉ tạo ra một đàn
những đứa trẻ thiếu dinh dưỡng lẫn sự chăm sóc.
Ông thầm nghĩ vì đã thấy đội quân ấy đi sau vị gia trưởng, tất
cả đều chít khăn tang trắng thay cho khăn sô, sắp hàng theo thứ bậc. Tiếp theo
gia đình này là một đám ông bà già; chắc họ là bà con gần gụi của kẻ đã khuất.
Cuối cùng là mẹ con cô vợ trẻ với một thanh niên bảnh bao mà ông đoan chắc là
chàng sinh viên tên Quỳnh. Đám người không gây ấn tượng nào đặc biệt.
Chủ tịch bất giác nhắm mắt. Nỗi ám ảnh khiến ông quay lại với
hình ảnh người con trưởng, lúc này đã vào hẳn trong chùa:
― Một đứa con èo ọt thảm thương như thế mà quyết liệt chống lại
cha, hòng dùng vị thế của mình bắt ông ta làm nô lệ? Phi lý thay cõi đời. Một kẻ
sống trong vòng bảo hộ của bậc gia trưởng nhưng lại muốn thực thi quyền năng của
y trên chính ông ta, phải chăng đó là sự điên rồ có tính cá biệt hay là nguyên
lý chung của muôn loài, tất cả những đứa con cần phải giết cha và những con thú
lớn khôn cần phải cắn chết đám thú già để tìm thực phẩm? Nếu vậy thì khoảng
cách giữa con người với muông thú đâu có xa?
Ngoài sân, chuông gióng giả vang lên, hồi nọ ngưng lắng hồi
kia lại tiếp diễn khiến những vọng âm reo như sóng trên khắp các giải núi và
không gian chùa Lan Vu ngập tràn một sắc thái thần diệu. Sân chùa vắng tanh vì
đoàn người đã vào hết bên trong, chỉ còn lại mớ lá vàng rải rác. Chủ tịch nhìn
lên khoảng trời lơ vừa ló rạng sau cơn mưa xuân, tìm lời giải đáp. Nhưng lời giải
không tới. Bởi ông không có kinh nghiệm trực tiếp. Bởi ông yêu cha ông, và ông
không có nhu cầu cạnh tranh quyền lực hay tiêu diệt kẻ đã sinh thành mình. Ông
cũng không tin nhu cầu ấy là phổ biến cho toàn nhân loại:
― Phải chăng vì ta đã giã từ gia đình quá sớm, và ta luôn thiếu
vắng người cha, nên trong tim ta ông chỉ là mong mỏi và buồn nhớ? Nhưng còn
hàng triệu người khác vẫn sống với cha mẹ họ một cách an lành? Bi kịch kiểu gia
đình kẻ tiều phu kia lần đầu ta mới nghe và mới thấy. Có những đứa con hiếu đễ
và những đứa con ngỗ ngược, vô ơn. Nhưng vì dục vọng mà biến thành kẻ cừu thù
huyết chiến với bậc sinh thành hẳn chỉ là những cá nhân đặc biệt. Nếu phụ tử
tình thâm mà còn những kẻ như vậy thì kể làm chi lũ khác máu tanh lòng?
Sau cùng, ông nhận thấy ông đã quay lại với cái ngục luyện tội
quen thuộc, cái pháp đình mà nơi ấy, ông vừa là quan toà vừa là người biện hộ.
Bên kia chùa, tiếng đọc kinh tập thể đã vang lên. Hôm nay, ba
vị sư dưới núi được phép lên đây để hỗ trợ sư cụ và sư nữ. Tiếng mõ vọng nhịp
nhàng điểm xuyết tiếng ngân nga vang rền của chuông bát, hoà lẫn tiếng đọc
kinh. Đám người bên kia chùa đang sống cuộc sống của họ, niềm tin của họ. Họ
tin chắc rằng trời phật, các đáng thần linh tối cao hiểu được những ước nguyện
chân thành ấy, rằng những gì họ đang làm giờ đây là để giải đi những oan khuất
cho người đã chết, để xoá đi những lỗi lầm của ông ta, để hoàn lại danh dự bị vấy
bùn và những thua thiệt phải cam chịu trong câm nín. Và sau rốt, để con đường dẫn
tới cõi cực lạc đón nhận kẻ đã từ bỏ cõi trần. Còn ông, ông sống với niềm tin
nào bây giờ?
Một cơn đau chạy dọc sống lưng, khiến hai đùi ông tê lạnh. Chủ
tịch khép chặt cánh cửa, quay vào buồng trong. Ông đi nằm. Chưa bao giờ ông đi
nằm vào giờ này trừ những trận ốm. Hôm nay, ông không ốm nhưng ông muốn đi nằm.
Ông thấy bại hoại. Một sự bại hoại cả phần xác lẫn phần hồn. Ông không thể và
cũng không còn muốn giữ đúng những chuẩn mực sinh hoạt của một bậc quân vương.
Ông chẳng còn muốn đóng vai một người lãnh đạo có sức khoẻ vô biên, làm việc
như cỗ máy không han rỉ
― Suốt đời ta đã phải chèo chống, phải cố gắng hành xử cho thật
giống máy inoc. Nhưng con người không thể là cỗ máy. Con người phải han rỉ với
tháng năm.
Ông thầm nghĩ, nhưng trước khi nằm xuống vẫn liếc nhìn chiếc
đồng hồ treo tường và trải qua một thoáng chùng chình vì đồng hồ mới chỉ chín
giờ rưỡi sáng:
― Có ích gì vào lúc này, tinh thần gương mẫu của ông vua già
bị giam hãm? Thôi, hãy chấp nhận thực tế là cõi người hữu hạn và sức người chẳng
phải là dòng sông không cạn kiệt với thời gian. Ta đã ngoại thất tuần, ở tuổi
này chớ nên bám vào ảo vọng. Suốt đời ta đã hy sinh vì những giấc mơ lớn, những
giấc mơ người ta thường gọi là lý tưởng, là mục đích cao thượng. Suốt đời ta
quay mặt về phía thánh đường nơi con người dâng hiến tuổi trẻ cũng như sinh mệnh
một cách vô tư. Nhưng sau rốt, ta mới nhận ra rằng lý tưởng ấy cũng chỉ là ảo vọng.
Nó giống như lâu đài huyền bí đứng trong sương mù bên kia bờ sông quyến rũ những
kẻ đứng bên này. Người ta xuống thuyền để bơi sang. Nhưng khi cập bến, thuyền
nát ván rơi mà chẳng thấy lâu đài cũng không gặp châu báu. Chỉ đơn thuần là một
bãi đất hoang trên đó, ngoài những đống đổ nát là trăm nghìn mảnh thuỷ tinh vỡ
phản chiếu ánh cầu vồng.
Ý nghĩ ấy khiến tay chân ông bủn rủn còn tâm hồn ông vật vờ
như đám xác phù du bập bềnh sóng đánh. Ngay tức khắc, một cơn giận bùng lên,
ông lại cao giọng tự xỉ vả mình:
― Ồ, chớ nên bị lung lạc bởi những ý tưởng bi quan như vậy.
Chớ nên dẫm lên vết chân của đám hư vô chủ nghĩa. Ngươi có muốn quay lại thứ chủ
nghĩa đó hay không? Hay ngươi muốn theo dòng tu loã thể, sống cuộc sống của cỏ
cây và muông thú? Với ngần ấy thời gian, cách mạng đã tiến trên một đoạn đường
dài. Chấp nhận hay không chấp nhận, sự thật cũng bày tỏ trước mắt ngươi như năm
ngón tay trên một bàn tay đang xoè ra trước mắt. Đích sở thị, chúng ta đã có một
đất nước độc lập, chúng ta có quốc kì, có chính phủ, có quân đội, hiện thực của
những giấc mơ dài dặc được nuôi dưỡng trên chiến khu.
Gã đàn ông có nước da nhợt nhạt màu xanh nõn chuối chợt quay
lại, đứng tựa lưng vào tường và nhếch mép mỉm cười:
― Nhưng chính phủ để làm gì, quốc kì để làm gì khi những người
dân còn sống lầm than hơn thuở trước? Guồng máy quyền lực này có ích gì nếu nó
chỉ dùng để bảo đảm lợi ích cho một số ít ỏi trong khi nó đè nén toàn thể dân
chúng và đẩy họ vào những cuộc tàn sát tập thể mà cuộc tàn sát tự nguyện lớn nhất
chính là cuộc chiến tranh này? Những đồng chí của ngươi mơ ước một khải hoàn
môn lớn hơn nữa để làm vinh danh chúng. Chúng mơ ước một cuộc chiến tranh vĩ đại
hơn. Danh từ vĩ đại là con điếm vĩnh hằng tồn tại, vĩnh hằng lừa mị chúng sinh.
Cả ngươi nữa, ngươi cũng đã từng bị nó huyễn hoặc. Vì muốn là bó đuốc dẫn đường
cho dân chúng, vì muốn là con người vĩ đại, bậc quốc trưởng vĩ đại, ngươi đã tự
nguyện đóng vai ông thánh. Và ngươi đã hại nàng, một người đàn bà ngây thơ,
hoàn toàn tin cậy nơi ngươi, điều này ta nói đúng hay sai?
Ông không dám trả lời. Ông không đủ can đảm để trả lời. Kẻ
khiêu khích chẳng còn cười mỉm mà nhún vai một cách khinh bỉ. Sau khi ném cho
ông cái nhìn hạ cố gã bước qua đầu ông đi ra ngoài qua lối cửa sổ.
Chủ tịch chợt thấy sống mũi cay xè:
― Trời đất ơi, cớ sao ta dễ chảy nước mắt thế này? Bệnh già
chăng, hay vì cơn cớ nào khác nữa? Một người đàn ông không nên khóc dễ dàng như
vậy. Ta đã đổi thay, ta đã đổ đốn ra tự lúc nào?
Ông tự rủa xả một cách dữ dội, nhưng nước mắt cứ chảy, từ từ
lăn xuống hai thái dương rồi chui vào đám tóc. Và bên tai ông, câu hát quen thuộc
của chàng bác sĩ vang lên:
― Người yêu dấu ơi...
- A ha ha ha...
- A ha...ha...ha...ha...ha...ha...ha...
Những tràng cười khành khạch cất lên một cách hỗn xược và
ngay tức khắc ông nhìn thấy gương mặt to tròn, má xệ, cằm xệ của chủ tịch Mãn.
Ông ta hiện lên trong quầng sáng màu tro tím, nước da xanh vằn vện như da tắc
kè. Vởi vẻ vui thú đặc biệt, ông ta ngắm nhìn ông như tuồng đứa bé quan sát con
dế mèn. Chủ tịch nổi giận lên tiếng:
- Tại sao ông đến đây, thưa chủ tịch?
- Ý ngươi nói ta là vị khách không mời mà đến, đúng hay
chăng?
Ông ta vặn lại.
Chủ tịch lặng im.
Chủ tịch Mãn tủm tỉm cười:
- Sao không trả lời thẳng thắn? Đây đâu còn là cuộc cờ thế sự,
là võ đài ngoại giao mà phải diễn trò? Ta với ngươi âm dương cách biệt, dù muốn
hay không cũng chẳng có ảnh hưởng đến nền chính trị của hai lân bang. Vả chăng,
ngươi giờ đây khác nào Na-pô-lê-ông trên đảo, còn lý do chi để giữ gìn?
- Tôi không quen, thưa chủ tịch.
- Ồ, ngươi lịch sự lắm, thứ lịch sự của bọn da trắng. Nhưng
ta và ngươi vốn xuất thân là kẻ quê mùa, ta ở Hồ nam và ngươi ở Nghệ An, cái tỉnh
nghèo mạt rệp, nơi dân cày nhai khoai khô trừ cơm, còn khốn khổ hơn cả đám dân
Hơ-mông làm bánh ngô hay nấu cháo ngô. Đã là dân quê thì cứ ứng xử theo gốc rễ
của mình, phô trương làm chi thứ lịch sự học mót ở xứ người?
- Xin ngài chuyển đề tài cho, thưa chủ tịch.
- Ta không chuyển đề tài thì ngươi làm gì được ta?
- Thưa ngài, chớ quên rằng ngài là khách.
- Ô, ta đã quên từ lâu sự phân ngôi chủ khách, dù ta vẫn diễn
trò ngoại giao. Đối với ta, tất thảy ngoại nhân hiện diện trước mặt ta đều là
những con mồi trong cuộc đối đầu với chúa sơn lâm.
- Tôi biết ngài vẫn tự coi mình là chúa sơn lâm thực sự còn Mỹ
cũng như các nước phương Tây chỉ là đám hổ giấy. Vậy nếu tin ở sức mạnh của bản
thân, tại sao ngài không trực tiếp đảm nhiệm cuộc chiến tranh này?
- Ngươi nhầm, nếu quả thực Mỹ và bọn quỷ da trắng phương Tây
đều là hổ giấy thì can cớ chi ta lại để cho lũ chư hầu phương Nam khởi sự cuộc
chơi? Ta chưa nuốt được bọn da trắng vì trong thâm tâm, ta hiểu chúng chính là
những con mồi quá to đối với họng của ta. Ngươi đã đọc chuyện Trăn nuốt gỗ
chưa?
- Nước tôi nhỏ, dân tôi nghèo, tôi chưa hề có ý định trở
thành trăn nên tôi không quan tâm đến chuyện nuốt kẻ khác.
- Đó chính là điều ngu xuẩn thứ nhất của ngươi. Đã làm vương
mà chỉ bó gọn ý tưởng trong một giấc mơ thì không xứng đáng đặt đít ngồi lên
ngai báu. Giấc mộng vương giả phải khác giấc mộng lương dân. Không có con đường
trung dung giữa kẻ cầm quyền với đám người bị trị. Vì cốt cách như vậy nên
ngươi bại trận. Cũng vì cốt cách như vậy nên ngươi bị điều khiển bởi đám lâu la
của mình. Cổ nhân nói ― Quần hồ đánh bại mãnh hổ là như thế.
- Đám quần hồ đó hành động dưới sự chỉ dẫn của ông. Vì lòng
khát khao vinh quang làm mờ lương tri và chọc mù mắt họ. Vì u mê tăm tối họ đã
bị phỉnh nịnh bởi mớ danh từ hào nhoáng của các bậc đàn anh nên nhất quyết lao
vào cuộc chiến tranh này bằng mọi giá. Họ tin vào lời khích lệ của ông ― Đánh Mỹ
đi, đó chỉ là một con hổ giấy....
- A...ha...ha...ha...Ngươi khá lắm! Xưa nay ta vẫn cho ngươi
là tên tiểu tốt đáng gờm nhất ở phương nam. Ức đoán của ta không lầm. Linh cảm
chưa bao giờ lừa bịp mà trái lại, luôn luôn là kẻ tôi đòi cần mẫn. Ngươi khá lắm!
Ta xác nhận rằng ngươi đáng mặt quân tử. Chỉ tiếc thay, ngươi thiếu chữ thời.
Xưa nay, đàm luận về các bậc anh hùng thế nhân thường thiên về chiến tích. Ta
thực tế hơn, ta tin ở mệnh trời. Trời không phù trợ ngươi. Hoặc nói cho đúng
hơn, mệnh ngươi yếu hơn mệnh của ta nên ngươi không thắng nổi ván bài này. Đấy
là thứ xưa nay cổ nhân vẫn quy cho định mệnh. Mệnh trời xui khiến nên ngươi có
mắt như mù, trông gà hoá cuốc, ngươi giao quyền bính vào tay những kẻ phản trắc.
Vì mệnh trời xui khiến nên lũ lâu la của ngươi tin vào những lời ta nói như tin
vào bậc thánh nhân. Nhưng đá tảng dẫu có sơn trắng cũng không biến thành bông,
hộp các-tông dù có hình vuông cũng không biến thành gạch. Ta, muôn đời chỉ là
vua bắc triều, và bờ cõi của ngươi muôn đời chỉ là cửa thềm để dân con những tỉnh
phía nam Trung hoa mượn tạm tiêu dùng những khi cần thiết. Giải đất cỏn con mà
các ngươi gọi là giang sơn gấm vóc chỉ là một quận huyện lơ láo, mà chúng ta sớm
hay muộn cũng phải thâu về. Bây giờ, ngươi đã hiểu rằng cuộc chiến tranh này là
một trong những cuộc chơi hay nhất đời ta, một cuộc chơi nhẹ nhàng, không tốn
kém. Trong cuộc chơi đó, thậm chí ta cũng chẳng cần đào mưu tính kế mà chỉ lặp
lại một trong ba mươi sáu phương sách cổ xưa:
- Vâng, điều ấy tôi biết từ khởi thuỷ. ― Toạ sơn quan hổ đấu
chẳng phải là phát minh của chính ông nhưng ông mượn của cổ nhân cũng đã nhiều
lần. Thời chiến tranh Nhật - Trung, các ông gõ mõ khua chiêng mồm kêu― Kháng Nhật,
cứu nước nhưng quân đội của ông nép ở đường biên để bảo toàn lực lượng, bỏ mặc
cho quân Quốc dân đảng đối đầu với phát xít. Thực chất, ông mượn tay Nhật để
tiêu diệt địch thủ chính trị của mình. Chờ khi đại chiến kết thúc, quân đội được
bảo toàn của ông dồn sức tiêu diệt quốc dân đảng. Giờ đây, không những dân tộc
Trung hoa mà hơn một nửa thế giới tưởng rằng công diệt phát xít là của các ông.
Nhưng lịch sử không viết một lần như những dòng chữ khắc trên bia mộ. Mọi trò lừa
đảo sớm hay muộn rồi cũng bị phơi bầy. Hậu thế có quyền viết lại lịch sử, và
quyền lực này nằm ngoài tầm tay với của ông.
- Hậu thế? Ta chưa nhìn ra gương mặt hậu thế. Ít nhất là vào
lúc này. Cái bóng của ta sẽ trùm lên đất nước Trung hoa một cách lâu dài.
- Ông cần thiết vinh quang như một kẻ đốt đền? Ông tạo dựng
vinh quang bằng mọi phương thức giả mạo?
- Chỉ có những kẻ ngu mới chơi một cách thật thà trong canh bạc
chính trị. Tại sao ngươi tỏ tường mọi sự mà ngươi không bắt chước nổi ta?
- Bởi vì tôi là tôi và ông là ông, thưa chủ tịch, không ai đổi
được chỗ cho ai, cũng không ai dạy khôn được cho ai vì thế nhân là khác biệt.
Tuy nhiên, tôi biết rằng cuộc chiến tranh này là trò chơi độc ác nhất của số phận,
và nếu nó là hình phạt phân thây thì trong bốn cỗ xe ngựa, cỗ xe hung hăng nhất
đã được điều khiển bằng bàn tay của chính ông.
- Ngươi biết. Ta xác nhận điều ấy. Nhưng ngươi chỉ biết khi
đã bị trói chặt chân tay. Ngươi biết khi ngươi chỉ là thây ma sống, kẻ làm vua
mà không còn quân tướng là hình nộm được trang điểm mà thôi.
- Cuộc đời tranh đấu của tôi chưa dạy tôi đủ kinh nghiệm để
phán đoán và xử trí mọi tình thế.
- Ta cho rằng ngươi cũng khá đủ kinh nghiệm, nhưng điều yếu
kém nhất của ngươi chính là vị thế dùng dằng giữa phương đông với phương tây.
Cái thế lưỡng phân này đã gieo trong ngươi thứ mầm của sự tự huỷ diệt. Trước hết
là ảo thức về dân chủ, thứ bánh mì của bọn quỷ trắng. Nguyên nhân cội rễ sự thất
bại của ngươi chính là ở đó. Ngươi là gã học trò ngoan của phương tây trong khi
lũ bộ hạ tay chân ngươi lại là dân bản xứ. Vì thế cùng một lần chúng ngờ vực
ngươi thân Pháp và lợi dụng nguyên lý biểu quyết đa số của phương tây để cột
trói ngươi như lái lợn trói con lợn trước khi chọc tiết. Dòng máu phương đông
chảy trong huyết mạch lại kêu gọi ngươi quay về ngôi miếu cũ, trong đó mấy ngàn
năm các nho sinh hương khói xì xụp trước môn bài Đức trị. Ngươi quên rằng chưa
ai từng thấy mặt Nghiêu Thuấn trên cõi đời này. Hai hình nộm đó chính do người
cầm quyền tạo ra để răn dạy lũ sai nha và thuần hoá chúng sinh. Ngươi áp dụng
tinh thần xả thân vì nghĩa, hy sinh vì ích lợi tập thể nên ngươi phải tuân phục
lũ đàn em như một thằng ngốc. Ngươi quên rằng người phương đông ăn cơm bằng đũa
và phân ngôi vua tôi một cách rạch ròi. Giữa vua tôi không thể có bình đẳng
cũng không có tin cậy. Chỉ có sử dụng và không sử dụng mà thôi. Danh từ ―đồng
chí ta mượn ở phương tây để điều khiển lũ quần thần và dân đen theo đúng cách bọn
phù thuỷ điều khiển âm binh bằng phép thuật. Nó là vỏ trái cây, là bóng ma
nhưng ngươi tin nó là ruột quả, là người thật. Cái chết đến với ngươi chính do
sự nhầm lẫn này.
Ô...đồng chí! Danh từ mỹ miều của mấy thằng rậm râu bày đặt.
Ngươi đã thấy ta hành xử ra sao với cái lũ ta gọi là đồng chí
hay chưa?
Ta rút máu trong huyết mạch chúng ra như nông phu tháo nước
ruộng. Ta lấy máu chúng để rửa những bậc thềm dẫn lên ngôi báu bởi màu đỏ là
màu của quyền lực và vinh quang. Không có gì tượng trưng cho màu đỏ đẹp hơn là
máu người. Những kẻ đứng bên tả hay bên hữu một vị vua luôn luôn là đao phủ dự
phòng của chính ông ta. Phải biết cách giết chúng trước khi chúng kịp rút dao
khỏi ống tay áo. Nói cho chính xác hơn, phải biết giết chúng ngay khi chúng
chưa kịp nghĩ tới việc giấu dao vào trong tay áo. Đó là nghệ thuật cai trị đã
được chứng nghiệm mấy ngàn năm. Là một vị vua phương đông mà ngươi không hiểu
điều luật ấy. Ngươi muốn xây dựng đất nước theo hình mẫu phương tây, nên giao
việc cắt đặt nhân sự vào tay kẻ khác. Ấy là tự giao gươm cho lũ cừu thù. Trong
cuộc chơi quyền lực tình máu mủ còn chẳng thể tin cậy, huống chi người dưng?
- Về điều này có thể là ông đúng...
- Không phải có thể mà là đúng. Đúng, với nghĩa khẳng định.
Ngươi chớ dùng dằng trong cõi đỏng đảnh của ngôn từ. Thế nhân thường phải trả
giá rất đắt cho sự hiểu lầm chữ nghĩa. Còn ta, ta sẽ phải hiểu ra sao sự nhầm
tưởng của ngươi?
- Hoặc tôi thiếu kinh nghiệm hoặc tôi thiếu thông minh. Hoặc
trong tình thế riêng biệt của đất nước tôi, khó tìm được giải pháp khác.
- Ngươi khá thông minh nếu nhìn một cách đại thể. Nhưng ngươi
ngu đần khi lẫn lộn giữa thật và giả, giữa sự đóng trò và sự nhập vai. Làm vua
chính là cuộc sắm vai lớn nhất giữa sân khấu cuộc đời. Nhưng phải có ý thức là
mình đang diễn. Và cái ý thức đó phải được duy trì, bảo dưỡng thường xuyên như
con người phải thường xuyên chăm sóc bản thân phần hồn cũng như phần xác. Cái
khốn nạn của ngươi chính ở chỗ ngươi có máu kép hát, đôi khi ngươi khóc ngươi
cười thật sự, có nghĩa là ngươi nhập thân thật sự vào nhân vật. Bởi thế, ngươi
chẳng thể chơi đến cùng vai diễn của đấng quân vương. Bây giờ, ta sẽ giải thích
cho ngươi nghe sự khác biệt giữa một ông vua với một thằng kép hát. Vua diễn
trò nhưng luôn luôn ý thức đó là vai diễn, bất kì lúc nào ông ta nhấc chiếc mặt
nạ lên, ném nó vào tủ là ông ta có thể làm mọi điều theo ý thích, thậm chí trái
ngược hoàn toàn với vai diễn, nhưng bắt quần thần và dân chúng phải coi đó là sự
đương nhiên. Càn Long là ví dụ sáng tỏ nhất trên phương diện này. Ông ta cực
thông minh, văn võ kiêm toàn, chữ viết đẹp như có tinh hoa tiên cốt, thơ cao
sang như ngọc bích trân châu. Ông ta dạy dỗ quần thần và dân chúng đủ tứ thư
ngũ kinh lẫn các cẩm nang đạo đức khác. Nhưng đó là lúc sắm vai làm vua. Trong
khoảnh khắc, ông ta có thể gỡ cái mặt nạ quân vương xuống, ném vào bất cứ xó xỉnh
nào, và sống đích thực con người của ông ta. Ngươi còn nhớ tích ông ta đá hoàng
hậu đến xảy thai ngay trên thuyền rồng, trước mắt triều thần văn võ?
- Tôi nhớ.
- Ngươi còn nhớ cuộc tình của ông ta với Hoà Khôn?
- Đương nhiên, tôi nhớ.
- Tốt lắm, vậy ngươi có nhớ Hoà thân đã từng bày mưu sát hại
thái tử Phúc Khánh mấy lần hay không?
- Hai lần, nếu tôi không nhầm.
- Đúng, hai lần và nếu không có sự trì độ dai dẳng của tể tướng
Lưu gù thì vị đông cung thái tử này đã hoá thành cát bụi. Vậy mà Hoà Khôn vẫn
được trọng dụng, tài sản riêng của ông ta lớn hơn cả kho báu quốc gia. Điều đó
chứng minh rằng lòng sủng ái của Càn long với Hoà Khôn còn lớn hơn sinh mạng
đông cung thái tử và lợi ích của non sông. Mà Càn Long chắc chắn chẳng phải kẻ
nhu nhược hay hão huyền mơ mộng. Vậy lý do nào khiến cho ông ta hành động như vậy,
nếu không vì thoả mãn lòng dục? Nếu không vì muốn ve vuốt no nê cái thân xác chứa
đựng linh hồn của đấng quân vương? Là kẻ lưỡng dục, Càn Long ham mê một lần cả
trai lẫn gái nhưng ta cho rằng trong thực tiễn khuynh hướng đồng tính mạnh hơn,
cốt yếu hơn. Bởi thời ấy, kẻ đồng dục thường bị riễu cợt khinh bỉ nên ông ta mới
dựng một loạt cung điện cho phi tần quanh khu thượng uyển để che mắt thiên hạ.
Giá như triều đình hạ lệnh thả đám phi tần cung nữ này cho về quê lấy chồng ắt
hẳn hai phần ba bọn họ vẫn còn trinh. Thế đấy, ngươi hãy mở to mắt mà nhìn trò
chơi của bậc quân vương. Chẳng riêng Càn Long, vua chúa thời nào cũng vậy.
- Tôi biết. Và ông chắc chắn là kẻ kế thừa xuất sắc truyền thống
này.
- Ngươi đánh giá ta quá thấp, nói cho đúng hơn ngươi nhìn ta
với con mắt hỗn xược. Tính hỗn xược của bọn chư hầu Bách Việt vốn có từ xưa.
Ngươi cần hiểu rằng ta không phải kẻ kế thừa mà là người sáng tạo. Ta cười khẩy
trên lối xài mỹ nhân tốn kém mà ít hiệu quả của đám vua chúa xưa. Ta chẳng cần
xây lầu son, gác tía. Ta không cần trình duyệt các phí tổn cho lũ yếm thắm quần
hồng. Dồn tụ chúng vào một xó, lũ mèo cái sẽ cào cấu lẫn nhau và phá hoại giấc
ngủ an lành của ta. Dinh thự của ta di động. Một con tầu khiêm cung trên đất liền
thuận tiện ngàn lần hơn chiếc thuyền buồm xa xỉ trên mặt đại dương vì nó xuyên
lục địa. Đất nước rộng dài, giang sơn mênh mông, đi đến đâu ta tuyển phi tần ở
đó. Không phải thứ gái đã hai mươi như sơn nữ của ngươi mà thuần loại đào tơ từ
mười hai tới mười sáu. Càng trẻ tuổi, nguyên khí càng tươi tốt. Ta lấy lại tuổi
trẻ và bồi dưỡng nguyên khí của ta nhờ những đứa trẻ dạy thì này.
- Vâng...
Chủ tịch nhếch mép cười:
- Tôi biết câu nói nổi tiếng của ông: ― Ta rửa bộ phận sinh dục
của ta trong bụng họ.
- Cái gì là bộ phận sinh dục? Ngươi quả là kẻ sính danh từ của
bọn mũi lõ mắt xanh? Ta vốn là dân Hồ Nam, ta thích nói theo giọng của nông phu
bản địa:―Ta rửa con cặc của ta trong những cái hẽm của bọn gái non cho nó được
dồi dào nhuận khí.Thế đấy,ngươi đã nghe rõ chưa?
Dứt lời, ông ta cất tiếng cười bỡn cợt và thách thức, đôi mắt
nhỏ hấp háy bắn lên những tia lửa tinh quái. Chủ tịch nhìn rõ hai hàm răng đều
tăm tắp vàng khè. Ông lặng im không đáp. Một khoảnh khắc trôi qua, chủ tịch Mãn
hắng giọng nói tiếp:
-Bẻ nhuỵ xong, ta trao lại các― nữ đồng chí này cho đám quan
sở tại giải quyết. Họ buộc phải cho chúng tăng lương, kết nạp đoàn hay đảng, nếu
chưa có việc thì thâu nhận vào công trường nhà máy, nếu muốn đi học các giảng
đường sẽ mở sẵn cánh cửa đón chào. Nếu đứa nào yểu mệnh chết, đó là sự rơi rụng
của một trái đào trong rừng đào Vân nam. Đứa nào may mắn hứng tình và hân hạnh
mang hạt giống của ta, nó sẽ được trọng dụng và đứa trẻ sẽ được bí mật nuôi dưỡng
rồi gửi vào vườn trẻ Trung Nam hải. Sao, ngươi đã thấy tư chất kẻ sáng tạo
trong ta hay chưa? Ngươi đã thấy trò chơi của ta hay hơn lối chơi của Càn Long
chưa?
Dứt lời, ông ta lại cất tiếng cười ròn rã.
Chủ tịch lặng im nhìn người đối diện. Những lăm thịt tràn đầy
trên chiếc cổ áo kiểu Tôn trung Sơn của ông ta cũng vằn vện như da tắc kè khiến
người ta liên tưởng tới một đống bột nhão mốc. Khuôn ngực ông ta căng đầy dưới
áo. Nhưng từ phần bụng trở xuống, chỉ còn là đám sương. Hồi nhỏ, ông nghe người
làng nói rằng ma không bao giờ có chân. Chúng đi lướt trên cỏ và chỉ hiện hình
từ phía gối trở lên. Giờ, ông thấy điều đó là chính xác. Điều lạ lùng là trong
thực tế ông vua phương bắc đang còn sống, đang điều khiển cuộc hành quyết các
quần thần ; vậy mà ông ta luôn hiển hiện trước mắt ông dưới ảo dạng của hồn ma,
dù trong giấc mộng canh ba hay giấc mơ chính ngọ. Tiếng cười của ông ta vang
lên những âm thanh vừa chói vừa xỉn, nếu người ta thể hiện bằng màu sắc thì nó
sẽ là màu sắt đen trộn rỉ đồng. Không hiểu vì đâu, tiếng cười của chủ tịch Mãn
khiến ông buồn. Vẻ kiêu mạn của ông ta cũng không còn làm ông tức giận. Lần đầu,
ông cảm thấy một nỗi buồn vô căn cứ, một nỗi bâng khuâng kì dị như khi đọc truyện
Liễu Trai. Chủ tịch Mãn chừng như cũng ngạc nhiên khi thấy ông im lặng. Ông ta
hạ giọng:
- Sao? Ngươi tiếc thời đã qua hay ngươi hối tiếc những việc
đáng lẽ phải làm?
- Không. Mọi sự hối tiếc đều vô dụng.
- Vậy ngươi nghĩ gì?
- Tôi nghĩ rằng âm dương cách trở, ông đã cất công đến thăm
dù là cừu thù giờ cũng thành khách quý. Nhưng mọi lời khuyên trên đời đều vô
giá trị. Bởi con người khác biệt nhau.
- Đúng, con cừu gặm cỏ còn chim ưng xé mồi. Nhưng đã là bậc
cai trị thì dù thống lĩnh một vương quốc lớn hay coi sóc một hòn đảo nhỏ cũng đều
phải quan tâm tới nghệ thuật cai trị. Ngay lũ mọi châu Phi cũng còn biết cách nắm
vương quyền. Ngươi, thông minh hơn chúng ngàn lần, cớ sao để bọn lâu la dồn đến
nông nỗi này, đó là điều khiến ta muốn biết?
- Ông chẳng còn việc gì làm dưới U tỳ quốc hay sao? Vả chăng,
thân nhân những kẻ bị ông sát hại trên đất Trung Hoa giờ này đâu đã mất hết trí
khôn hoặc mắc chứng mất trí nhớ. Ông tin rằng họ sẽ mãi mãi im lặng trước mấy
chục triệu thây ma oan uổng kia sao?
- Tin hay không tin, điều đó có gì quan trọng? Cuộc chơi đã
xong, các quân cờ đã xếp vào hòm. Giờ, ta đi tìm miền đất khác. Ngươi chính là
một trong những đối tượng khiến ta thú vị. Mọi sự thú vị đều kèm theo nỗi tò
mò. Vả chăng, Trung hoa và Việt nam từ ngàn xưa đã là những anh em cừu thù, ta
và ngươi cũng vậy.
- Tôi thấy ông cũng khá thành thật.
- Âm dương đôi ngả, ván bài ngoại giao không còn hữu ích.
- Nếu đã xác nhận quan hệ anh em - cừu thù, cớ sao ông còn đến
đây?
- Ngươi đặt một câu hỏi ngu ngốc, chính vì là anh em- cừu thù
nên ta mới đến đây.
- Để đặt dấu nhấn trên quyền lực của ông, để chứng minh rằng
vai diễn quân vương của ông là xuất sắc, để nói rằng suốt đời ông ông đã thoả
thuê no nê trên đủ mọi phương diện và thân xác ông bao giờ cũng được đặt trên bệ
thờ cao hơn lợi ích của giang sơn. Và chính vì thế, ông không dừng tay trước bất
cứ cuộc huỷ diệt nào. Cũng chính vì thế, ông trở thành kẻ cầm lái vĩ đại. Bởi
dân tộc ông quen chiêm ngưỡng những vĩ nhân đứng trên các khải hoàn môn xây cất
bằng xương người. Rằng người ta cần phải đứng trên các bệ cao, nên xương người
chất càng cao càng hoàn mỹ. Và sau cùng, đó chính là cách thức tốt nhất để giáo
huấn cho những kẻ muốn làm vua?
- Đích thực là như vậy. Lần này, ngươi thông minh xuất sắc.
Ta đến đây để khuyên giải ngươi hay làm nhục ngươi, hiểu theo cách nào cũng được!
Bởi muôn đời ngôn từ vẫn chỉ là gái hồng lâu, quân tử Nam kinh hay quân tử Bắc
kinh đều nhảy được vào giường. Ta đến đây để dạy ngươi rằng vai diễn quân vương
khác biệt một trời một vực với sự nhập thân của thằng kép hát. Lẽ ra ngươi nên
học nghề sân khấu, hoặc nên lui về cuộc sống êm ả của chúng sinh với giấc mơ «
Một túp lều tranh hai trái tim vàng ». Làm vua, nghề này đòi hỏi cách xử thế
khác. Hai điều cốt tuỷ mà những kẻ cầm vương trượng không bao giờ được quên. Điều
thứ nhất là phải biết trút tinh dịch của mình ra một cách hoàn hảo. Ấy là phép
vệ sinh thân xác không thể thiếu để giữ óc não sáng suốt, máu huyết lưu thông.
Điều thứ hai là phải biết rút máu kẻ khác để tưới những bậc thềm cung điện vì
máu người là thứ nước duy nhất có thể dùng tưới mảnh đất trồng loài cây đơm
trái quyền lực và vinh quang. Ngươi có thấy loài cây nào không được tưới tắm mà
đơm cành kết trái được không?...Hai nguyên tắc vàng để bảo dưỡng thân tâm và bảo
trì ngôi báu. Hai nguyên tắc ấy vua chúa từ thượng cổ tới nay đều biết ứng dụng.
Vậy mà ngươi không làm nổi. Tồi tệ hơn, ngươi làm ngược lại. Đấy là sự nhầm lẫn
lớn nhất trong đời ngươi. Sự nhầm lẫn này không chỉ tiêu diệt sự nghiệp của
ngươi mà còn đẩy ngươi vào cảnh tù đầy. Tù đầy trên cả hai phương diện, thân
xác ngươi bí bức khí huyết ứ trệ, tinh thần ngươi u ám khắc khoải vì ở trong thế
bị dùng. Bọn lâu la của ngươi đã từng mượn nhà an dưỡng Quảng Châu để trói cẳng
ngươi ở đó. Nếu ta chưa nhầm, ngươi đã yên vị chừng sáu bảy tháng, đã bắt đầu
quen lại thông thổ, đã bắt đầu thích món ăn sở tại, thích nhìn gái đẹp sở tại.
Cớ sao chúng lại rời chuyển ngươi về đây?
Ông im lặng.
Một luồng khí trắng đục phả từ phía bóng ma bay về phía ông
khiến mặt ông tê lạnh, nhất là hai gò má. Chủ tịch Mãn thấy ông không đáp lời
thì cười và nói tiếp:
- Ồ, mà ta hỏi đùa đấy thôi. Ngươi làm sao biết nổi?Tấm thân
cá chậu chim lồng.
Rồi lắc đầu như tỏ vẻ thương xót, ông ta giơ tay vẫy chào và
biến mất.
KÝ ỨC (5)
Cốc cốc cốc...
Tiếng gõ mạnh vào cánh cửa khiến ông giật mình. Hai cây kim
trên mặt đồng hồ treo tường đã chập lại trên con số mười hai:
― Đã đến giờ cơm trưa „
Ông nghĩ, và lên tiếng:
- Tôi đang nhức đầu. Các chú cứ để cơm ngoài bàn rồi về đại đội.
- Dạ...
Có tiếng đáp khẽ khàng. Sau đó, tiếng cánh cửa sập lại. Chủ tịch
tiếp tục nằm nhưng cảm thấy bồn chồn. Mươi phút sau, ông vùng đứng lên, lau mặt
và bước ra ngoài. Mấy chiếc phích điện ủ cơm và thức ăn để trên bàn, nhưng nhóm
cấp dưỡng lẫn bác sĩ vẫn đứng ngoài hành lang. Họ chưa dám xuống núi mà tụ tập
phía sau đội lính gác, ngắm cảnh chùa. Bên kia sân, tiếng mõ, tiếng chuông bát
lẫn tiếng đọc kinh vẫn vang lên không mệt mỏi.
Chủ tịch bước ra ngoài:
- Sao các chú không quay xuống núi? Lát nữa cận vệ sắp cơm
cho tôi cũng được...
- Thưa chủ tịch, chúng con phải hoàn tất nhiệm vụ của mình.
- Thôi được, nếu thế vào sắp cơm cho tôi rồi dọn đi cho tiện.
Hôm nay, quả tình tôi không thấy đói.
- Thưa người, hôm nay nhà bếp nấu món cà bung và hoa bí xào
mà người vẫn thích. Chủ tịch cố gắng ăn cho hết phần cơm.
- Được rồi...Tôi sẽ cố.
Ông đáp, đoạn đứng nhìn người lính sắp bày thức ăn trên chiếc
khay lớn hình chữ nhật. Khi đã xong xuôi, anh ta chúc ông ăn ngon miệng và lui
ra. Ngồi xuống trước khay thức ăn, ông nhớ lại lời chủ tịch Mãn:
― Ngươi quên rằng người phương đông cầm đũa và phân biệt ngôi
thứ vui tôi một cách rạch ròi.
Cầm đôi đũa mun lên, ông ngắm nghía như lần đầu nhìn thấy
chúng:
― Có nghĩa gì, sự khác nhau giữa những con người cầm đũa, cầm
nĩa và ăn bốc? Có nghĩa gì sự phân biệt giữa các thói quen?
Ý nghĩa ấy lướt qua ông hờ hững, vô cảm như một gương mặt xa
lạ và tẻ nhạt. Ông bắt đầu gảy những sợi rau tía tô rắc trên bát cà bung.
Trước kia, ông đặc biệt thích ăn món này. Hồi dạy học ở Phan
Thiết, ông có một người hàng xóm lấy vợ Bắc kì, chính người đàn bà này đã cho
ông nếm món cà bung. Đấy là người nội trợ theo đúng nghĩa, sống với khát vọng
duy nhất là chăm sóc chồng con và vun vén ngôi nhà của mình. Ông chồng là
thương gia sành sỏi trên đường sắt Bắc-Nam, quanh năm ăn cao lâu, tiệm khách với
bạn buôn cũng như chủ đại lý nhưng vẫn một niềm thán phục tài nấu nướng của vợ.
Chính chị ta vạch cho ông cái chân lý cay đắng này:
― Muốn nói rồng nói phượng thì cứ việc nói, nhưng đã nghèo mạt
rệp thì làm sao có được món ăn ngon?
Rồi, chị lại cất cao giọng:
― Nhưng giàu cũng chưa hẳn đã biết đường ăn uống. Vàng bạc đầy
rương cũng có khi ăn thùng uống vại, hoặc phí phạm đồng tiền mà chỉ chuốc về những
thứ tạp nham.
Những lời lẽ thẳng thắn ấy vô tình làm ông tủi hổ khi nghĩ rằng
thứ cà lẫn nhút mà dân quê ông lấy làm hãnh diện chẳng qua chỉ là cảm thức tự
ti nguỵ trang của cảnh đói nghèo. Vợ người thương gia cũng mở mắt cho ông thấy
khẩu vị con người là khác nhau do tập tục và văn hoá. Chị ta dạy ông cách nhận
biết một món ăn ngon. Một con cá xẻ đôi đưa cho hai người đầu bếp khác nhau, chế
biến khác nhau, gia vị khác nhau có thể đưa tới hai hiệu quả khác biệt. Kỉ niệm
về món cà bung là một trong những kỉ niệm vĩnh định thời trai tráng, gắn liền với
mảnh đất Phan thiết, với những sườn đồi rậm rì cây cỏ và những tháp Chàm cô
liêu trên cồn cát đỏ rực ánh dương.
Một chiều, hết giờ dạy ông trở về nhà cùng lượt với vị thương
gia khả kính. Chưa kịp tới xóm trời bất thần đổ mưa. Cả hai buộc phải tạt vào
hành lang một ngôi nhà nguyện. Họ vốn là những người láng giềng nhưng chưa bao
giờ cùng ngồi một nơi, cùng nói một chuyện. Quan hệ chỉ khuôn định trong những
lời chào hỏi lịch sự bên ngoài hàng rào. Cơn mưa ấy chính là cơ hội để họ trò
chuyện với nhau. Vị thương gia kia tỏ ý quyến luyến. Khi mưa tạnh, trời đã xẩm
tối, ông ta cất tiếng:
- Có thể là tôi quá sỗ sàng, nhưng nếu được xin mời anh sang
dùng cơm tối....Một thân trai loay hoay nấu nướng xem ra bất tiện.
- Cảm ơn ông.Tôi vốn đã quen cuộc sống độc thân.
- Ồ không!
Ông ta nằn nì:
- Tôi cũng đã từng sống như anh trước khi lấy vợ. Nhưng chúng
ta là láng giềng. Anh một nghề, tôi một nghề, không có gì liên luỵ đến nhau,
anh không tranh mối hàng của tôi, tôi cũng không nhằm cướp việc của anh. Nếu
chúng ta trở thành thân tình thì hay lắm.
Ông cười thầm vì chưa từng thấy ai đi buôn mà nói năng một
cách "thẳng như gậy tre" theo kiểu đó. Nhưng cũng chính vì thế mà ông
có cảm tình với người láng giềng và nhận lời. Trở về nhà, ông cất dọn đồ đạc,
thay quần áo rồi sang bên nhà vị thương gia. Ông ta đã đứng chực ở cổng, người ở
gái đang cho đứa con nhỏ nhất của ông ta ăn cơm trong sân. Chủ nhân mời ông vào
nhà và họ ngồi vào bàn tức khắc:
- Đây chỉ là bữa cơm thường. Vì tin rằng ông dễ tính nên
chúng tôi mới dám mạo muội mời ông sang. Có gì sơ xuất, xin ông thứ lỗi.
Ông láng giềng nói. Đoạn gọi vợ ra:
- Mợ nó không cần phải lo lắng quá. Hôm nay là bữa cơm nhạt kết
giao. Vài bữa nữa ta sẽ làm tiệc thết khách cũng chưa muộn.
Ông lặng thinh nhưng nghĩ thầm:
― Cơm nhạt mà như thế này cũng đã hơn hẳn mâm cỗ ngày tết quê
ta.
Chiếc bàn mặt đá của vị thương gia hình rất rộng, nhưng chỉ
có ba thực khách. Trên chiếc ghế trống còn lại, chủ nhân đặt một bình hoa xum
xuê cắm cúc đại đoá trắng kèm cây lưu ly. Bình hoa vĩ đại đó cao non một thước
và có vẻ trang trọng hơn là sự hiện diện của một quan khách. Nó khiến cho gian
phòng sang trọng và đem lại cảm giác thoải mái cho mọi người. Trên mặt bàn, bà
chủ đặt liễn cơm sứ trắng ủ trong dành vào một góc, góc đối diện là bình rượu
thập toàn đại bổ của đức lang quân. Những món ăn bày chính giữa bàn. Vừa nhìn
chúng ngay tức khắc nước bọt ông trào ra liên tục. Ông xấu hổ nuốt nước bọt một
cách thầm lén nhưng không có cách nào cưỡng chế thứ dịch vị phản thùng này. Nó
không ngừng tuôn tràn, bởi hương vị và màu sắc những món ăn không ngừng kích
thích. Thoạt tiên, là một con gà giò hầm quỳ trong thẫu, thứ gà ri nhỏ nhưng da
mỏng tang, vàng ươm mỡ và bốc mùi thơm của nấm hương tươi. Nấm hương, để nguyên
cái, xếp xung quanh con gà như những cánh hoa cúc, tầng tầng lớp lớp chen chúc
nhau. Rồi tiếp đấy là món cá cam, đặt trong chiếc đĩa mênh mông, sâu lòng. Cá để
nguyên con, nhìn vào chúng như thấy cả biển khơi lẫn các vàng lưới vì cá tươi
nguyên, mắt còn đen nhánh, da óng ánh sắc cam. Lũ cá như đang bơi giữa nước sốt
trong suốt, lấm tấm điểm ớt đỏ lẫn rau mùi thái vụn. Ông chưa thấy ai làm được
món cá cam như vậy, bởi khi ăn, hương vị cam thấm vào khứu giác lẫn vị giác. Vừa
nhận thấy chất thịt ngọt lừ của loài cá biển, vừa nhận thấy vị vỏ cam và nước vắt
của trái cam. Mọi thứ mùi vị đều rõ rệt, rạch ròi, nhưng hoà quyện vào nhau mà ớt
đỏ với rau mùi là những chất gia cố khiến các hương vị kia thêm nổi trội. Ông
nhớ rằng tối hôm đó, tuy đã hết sức cố gắng tự kìm giữ, nhưng ông đã ăn món cá
cam nhanh như húp cháo. Tuy trong lòng có đôi phần hổ thẹn nhưng sau rốt ông đã
tự an ủi mình:
― Nữ thực như miu, nam thực như hổ. Ta đang tuổi tráng niên.
Món thứ hai ông cũng ăn một cách vội vàng hào hển là món cà
bung tỏi. Ở quê ông, người ta chỉ quen ăn cà muối xổi hoặc muối chườm. Cà muối
xổi thay rau bởi vùng đất ấy rau rất hiếm. Nếu không muối xổi thì họ sẽ luộc dở
sống dở chín để chấm nước mắm ớt xanh hay mắm ruốc, thứ nước chấm mặn se lưỡi
và cay trào nước mắt. Cà muối chườm là thứ gia bảo của tất cả những loại dân cầy
nghèo khổ, không chỉ ở miền Trung mà còn ở cả xứ Bắc. Có câu ca dao riễu cợt
đám phú ông tiện tằn bóc lột những chàng rể tương lai:
― Năm năm làm rể chưa qua
Mẹ em đã tốn hết ba vại cà
Giếng đâu thì dắt anh ra
Kẻo anh chết khát vì cà nhà em
Bữa cơm hôm đó dạy ông rằng người ta có thể chế biến thứ rau
này một cách hoàn toàn khác, không còn một chút vị hắc đậm của những món cà nơi
quê ông. Món cà bung hôm ấy là thứ hỗn hợp tuyệt vời gồm những miếng đậu mềm
nõn rán vàng, thịt rọi rán cháy cạnh rồi thái khẩu, cà chua bột chín đỏ như son
cho nước sốt sóng sánh nổi đầy sao mỡ, còn cà chắc chắn đã được ngâm kĩ theo
công thức nào đó khiến cho những miếng cà trở nên trắng và thấm đầy mùi vị của
các loại rau thơm khác nhau: tía tô, lá lốt, hành tăm. Thêm vào đấy, ê hề tỏi,
cả tỏi chiên lẫn tỏi sống. Tỏi chiên chắc chắn để xào cà từ khởi thuỷ, còn tỏi
sống dành nêm vào phút chót trước khi múc món ăn đặt lên bàn.
Sau này, trên những con đường của số phận, ông đã từng dự nhiều
đại tiệc với những món ăn của các dân tộc từ đông đến tây nhưng chưa ở đâu ông
tìm thấy loại thức ăn đứng giữa món canh với món xào, chẳng thể liệt kê được
vào loại nào nhưng cho hương vị ngon lành như món cà bung tỏi của người đàn bà ở
tỉnh Phan thiết.
- Thưa chủ tịch, mời người dùng cơm kẻo nguội.
- A...
Ông giật mình. Nhóm lính làm bếp đứng ngoài cửa sổ vẫn theo
rõi ông:
- Tôi ăn đây.
Ông đáp rồi gắp một đũa cà bung như cái máy. Ông ngửi thấy
mùi tỏi, mùi lá lốt lẫn tía tô. Ông cũng ngửi thấy mùi đậu rán, mùi thịt cháy cạnh,
mùi cà tím xào mỡ. Nhưng tất thảy những mùi vị ấy không còn giống như những mùi
vị ông từng biết thuở xưa. Chúng chỉ còn là những cái bóng mờ nhạt của mùi vị.
Nước bọt không tiết ra, và miếng ăn trở nên nhạt nhẽo. Hương vị thơm tho quyến
rũ không còn nữa. Không còn nữa tuổi trai tráng. Không còn nữa những chân trời
mời mọc. Không còn nữa niềm tin. Và như thế món cà bung cũng không còn tồn tại.
Chỉ còn lại trước mặt ông, trong chiếc đĩa viền chỉ vàng sang trọng này bóng ma
của nó. Bóng ma của bữa ăn tối Phan thiết năm xưa.
- Thưa chủ tịch, món cà con nấu có vừa hay nhạt ạ?
- Vừa, vừa lắm. Cả độ mỡ xào cũng vừa vặn, không nhiều không
ít.
Ông vội vã đáp lời, vội vã nuốt, vội vã gắp tiếp gắp cà thứ
hai, cố tình chọn mấy nhân tỏi trắng và rau thơm để người đầu bếp yên lòng. Thức
ăn mắc trong họng nên ông phải dùng nước canh chiêu cho nó trôi xuống. Người đầu
bếp vẫn theo rõi ông qua khuôn cửa sổ một cách chăm chú và thành kính. Ông cố gắng
kết thúc bát cơm, chọc đũa sang đĩa thứ hai, lượm mấy nụ hoa bí đỏ xào nhấm
nháp như để hoàn tất những thủ tục của một cuộc trình diễn rồi buông đũa:
- Các chú dọn đi cho tôi. Cơm hôm nay rất ngon nhưng tôi
không được khoẻ. Có lẽ do nhức đầu. Nhiệm vụ của các chú đã hoàn thành xuất sắc.
Chỉ có phần tôi là kém thôi. Nhưng tuổi già là thứ không ai tránh khỏi.
- Thưa chủ tịch, người chưa dùng hết một phần ba xuất cơm.
- Khi nào đến tuổi tôi, các chú sẽ hiểu.
Ông nói, phác một cử chỉ vừa để trấn an nhóm cấp dưỡng, vừa để
kết thúc câu chuyện. Bác sĩ biết ý, bước vào chuẩn bị thuốc uống cho ông. Anh
ta mở va-ly đồ nghề ra đong đếm, thêm vài ba viên thứ này, bớt vài ba viên thứ
kia. Sau rốt, anh ta nhìn nắm thuốc trong lòng tay một cách cẩn trọng trước khi
rót nước cho ông chiêu. Xong xuôi, cả bọn rút lui để cần vụ mang cho ông khay
trà. Đám lính tăng cường buổi sáng đã được xuống doanh trại ăn cơm, tốp khác vừa
lên thay thế.
Bên kia chùa, tiếng đọc kinh vẫn vang lên không ngưng nghỉ. Họ
không dừng lại ăn bữa trưa. Nghe nói trước đây, Phật và các đệ tử của ông chỉ
ăn ngày một bữa, sau giờ ngọ:
― Tại sao họ có thể chịu đựng suốt đời một chế độ dinh dưỡng
khắc nghiệt như vậy mà vẫn mạnh khoẻ? Nếu ta không nhầm người sáng chế ra tôn
giáo này thọ đến tám mươi. Nguồn năng lượng nào bồi bổ cho họ ngoài sức mạnh của
niềm tin?
Ông tự hỏi nhưng tức khắc xoá đi câu hỏi đó vì biết nó nằm
ngoài vùng tri thức của mình. Tiếng chuông bát ngân nga điểm nhịp cho những giọng
đọc kinh khiến ông quay về với thực tại. Dàn hợp xướng kia là bản kinh cầu hồn
cho một kẻ làm cha bị tấn công bởi chính đứa con mình. Nó được tấu lên một cách
thực sự bởi những ăn năn hối lỗi của đứa con phản trắc hay chỉ là thứ trò diễn
cho hợp với phong tục và thói quen? Và nếu người cha kia không chết đột ngột bởi
tai nạn, nếu ông ta vẫn sống với đầy đủ sự cường tráng của thân xác cũng như sự
minh mẫn của trí não, liệu đứa con có bày tỏ lòng sám hối hay không?
― Dường như câu trả lời sẽ là: "Không"
Ông nghĩ tiếp:
― Than ôi, câu trả lời đã sắp sẵn trong óc não, bởi thế sự đặt
bày.
Rồi đột ngột, một nỗi tò mò ập đến:
― Liệu khi ta chết, lũ đồng chí phản nghịch kia có khóc không
nhỉ?
Ông hình dung đám người ấy đứng trên khán đài của quảng trường
Ba đình, ắt hẳn là mọi sự phải diễn ra như thế. Trên đầu họ nào cờ rủ, nào chân
dung ông viền khăn tang đen, nào những khẩu hiệu thống thiết và hoành tráng, đại
loại như:
― Đời đời thương tiếc chủ tịch, người cha già vĩ đại của non
sông.
― Chủ tịch sẽ sống mãi trong lòng chúng ta.
Hoặc là:
― Đất nước còn, dân tộc còn, tư tưởng của chủ tịch còn là kim
chỉ nam soi đường cho tất cả.
Có thể là tất thảy những mỹ từ hào nhoáng nhất sẽ được sử dụng
để ca ngợi công đức của ông. Mỹ từ là thứ ít tốn kém nhất, chúng đề nghị rất
nhiều nước bọt nhưng rất ít đức độ lẫn trí thông minh. Thêm vào các mỹ từ, hẳn
họ sẽ sử dụng âm nhạc, vì âm nhạc xưa nay vẫn là thứ bùa mê hiệu nghiệm. Đã sẵn
bản: "Hồn tử sĩ" Liệu họ sẽ tìm thêm những bản nhạc cổ kim nào để làm
mùi mẫn đám quốc tang? Làn thảm chẳng? Hay Sa lệch chênh? Khúc Nam bình hay
khúc Nam ai? Lý chiều chiều hay hát dặm xứ Nghệ? Ô, xứ sở của ta quá sẵn những
khúc hát bi thương để tiễn biệt những kẻ chầu trời.
Bỗng nhiên ông thấy hiển hiện trước mắt ông tấn tuồng hài hước
của thế sự, và hình dung đám người đứng trên khán đài trong tang lễ ông sẽ nhất
loạt đưa khăn tay lên để lau những giọt nước mắt dù thật hay vờ:
― Chúng sẽ buộc phải làm như khóc và trong thâm tâm chúng
vang lên tiếng nghiến răng trèo trẹo: Sao bây giờ mày mới chịu chết, lão khọm
già kia? Bọn ta đã mất bao nhiêu công dàn dựng để tống tiến ngươi sang cõi khác
mà cái mạng sống dai nhoách của ngươi vẫn kéo cho đến tận phút này. Quả là một
cuộc chịu đựng quá sức.
Nhưng cũng có thể chúng sẽ khóc thật.
Những giọt nước có hoà muối sẽ tuôn ra một cách thật sự từ mắt
chúng, bởi chúng khóc trước cho thân phận của mình. Bởi chúng biết rằng chắc chắn
sẽ có ngày chúng xuống tuyền đài, nơi hội ngộ cuối cùng của kiếp nhân sinh. Điểm
hẹn chung cuộc mà chẳng kẻ nào có thể trốn thoát. Ở nơi đó, chúng sẽ phải đối mặt
với ta.
Ý nghĩ ấy khiến ông ngao ngán lắc đầu. Nhưng ông vội vàng
chiêu một ngụm nước trà vì sợ đám lính canh bên ngoài nhìn thấy. Họ sẽ cho rằng
ông đã đánh mất tự chủ, trở thành con bệnh già. Thuở trước, nhiều lần ông gặp
trên đường phố Paris những người già vừa đi vừa lẩm bẩm hoặc cười một mình, ông
thầm nghĩ:
― Tội nghiệp thay cho tuổi già.
Giờ đây, sự thương hại đó có thể dành cho chính ông?
Một tiếng cười câm nín vang lên trong tâm tưởng:
― Giá như ta có thể cười một mình, lẩm bẩm một mình như họ?...Nhưng
điều tệ hại là ngay thứ tự do ấy ta cũng chẳng có. Điều tệ hại hơn nữa là trí
nhớ của ta không hành trình cùng với tháng năm, nó không chịu chìm đắm trong
sương mù, nó không chịu nhạt phai cùng tuổi tác. Hình phạt lớn nhất đối với con
người là cái thân xác già nua của họ lại chứa đựng một trí nhớ quá sắc bén.Trí
nhớ buộc ta phải sống trong một địa ngục thường hằng. Trí nhớ là kẻ dựng nên một
pháp đình miên viễn. Trí nhớ là kẻ đồng hành không thể lẩn tránh cũng chẳng dám
khước từ. Nếu ta không còn trí nhớ, có thể cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn chăng?
Ông cúi xuống uống tiếp ngụm trà thứ hai, nhìn chất nước màu
vàng ốc sóng sánh lưng chén, giống hệt màu món cà-ri đã ăn trước khi rời Quảng
Châu. Nhà an dưỡng Quảng châu, cuộc nghỉ ngơi được bố trí lớp lang như một vở
chèo hiện đại. Suốt thời gian ông ở đó, nhà bếp chỉ làm những món ăn Việt nam
và Trung quốc. Nhưng bữa cuối cùng, bỗng nhiên người đầu bếp Tầu nổi hứng nấu một
món ăn Ấn độ đãi ông khi ông ta biết ông sắp ra đi. Đó là sự bí ẩn của ngẫu
nhiên. Bữa ăn rất ngon. Khi bước lên máy bay ông vẫn nhớ mùi vị đặc biệt của thứ
bột ca-ri lẫn thứ dầu gia chế vào gạo. Chúng khiến cho màu sắc của món ăn thật
đẹp. Một màu vàng nhuyễn mịn và óng ánh. Màu sắc ấy gợi sự ấm áp hoặc niềm vui.
Máy bay chở ông trở về Hà nội buổi tối hôm ấy là máy bay trực
thăng quân sự. Họ nói với ông rằng cần phải dùng trực thăng, bay thật thấp để
tránh lưới cao xạ phòng không. Chiến tranh thường tạo ra trò đùa của sự nhầm lẫn.
Muốn bảo đảm tính mạng cho ông, người ta buộc dùng thứ máy bay cổ lỗ, xộc xệch
như cỗ máy khâu Xanh-de được lưu giữ trong những gia đình thợ may từ thế kỉ mười
chín nhằm tránh cho ông một cái chết không mong muốn bởi chính những người lính
của mình. Ông mỉm cười:
- Sống chết của nhân gian, sổ thiên tào đã ghi sẵn. Tổ chức
quyết định ra sao, tôi chấp thuận như vậy.
- Thưa chủ tịch...
Người phi công lộ vẻ áy náy, anh ta định nói điều gì đó nhưng
lại thôi. Ông nhìn người lính, ngay tức khắc cảm thấy tin cậy:
- Tôi đã từng ngồi xe trâu kéo. Cưỡi máy bay của chú giờ đây
cũng đã là sang. Chẳng cần băn khoăn nhiều.
- Thưa vâng.
Anh ta đáp rồi ngồi vào ghế lái.
Bốn người cần vụ tháp tùng ông ngồi bốn góc theo quy định. Cuộc
bay bắt đầu. Khi máy bay vừa lên đủ độ cao cần thiết trên vùng trời Quảng châu,
nó đã lúc lắc chồm nẩy như cỗ xe trâu lăn trên đường núi sụt lở. Không khí chao
động xung quanh tựa hồ muôn đợt sóng liên tục bổ xuống, nhào trộn với những đám
mây. Đêm đen như mực. Ông không thấy gì ngoài một không gian đen mù mịt, không
trăng không sao. Cứ như thế họ lặng lẽ bay qua vùng tiếp cận. Nhưng bắt đầu từ
lúc máy bay vượt qua biên giới, những làn đạn phòng không túa lên, cày chi chít
những rạch lửa đỏ. Mỗi lúc, những đường lửa đạn mỗi thêm chằng chịt. Ông biết rằng
họ đã lọt vào vùng trời khống chế bởi cao xạ pháo miền đông bắc, kéo dài từ Lao
cai cho đến Quảng Ninh. Người phi công đưa máy bay luồn dưới đám lửa đỏ. Vẻ mặt
căng thẳng khiến đôi mắt anh ta như lồi hẳn lên. Mồ hôi anh ta chảy thành dòng
lũ lượt sau gáy, thấm ướt đẫm cổ áo quân phục. Mồ hôi cũng nhỏ xuống từ đôi bàn
tay. Ông vẫn nhớ hình ảnh đôi bàn tay đó, chúng to dày vững chãi, với đám lông
trên mu và trên đốt cuối cùng của các ngón. Ông nhớ rằng ông đã nhìn vào đôi
bàn tay ấy, gần như không rời mắt. Những người lính cũng vậy. Họ cũng không thể
làm gì hơn là thở một cách hồi hộp và dán mắt vào đôi tay cầm lái của phi công.
Sinh mạng cả sáu người phụ thuộc hoàn toàn vào chúng. Đấy là chuyến bay dài nhất
trong đời ông. Mỗi phút trôi qua, là một phút hồi hộp lắng nghe tiếng động cơ
già nua xọc xạch trong cuộc vận hành khốn khổ và khắc khoải chờ xem điều gì có
thể xảy đến ngay phút sau. Mỗi phút trôi qua, người ta biết rằng mạng sống của
mình còn thêm một phút và phập phồng vì không hiểu nó còn tiếp tục đứng vững
hay không. Ông đã già, cuộc đời đối với ông chẳng bao lăm ý nghĩa. Nhưng người
phi công và bốn cậu lính trẻ măng, trong số ấy có những đứa râu chưa kịp mọc. Họ
không dám nói gì nhưng ông biết cơn sợ hãi kiến tất cả dường như hoá đá.
Sau cùng, người phi công thở một hơi dài và chỉ cho ông thấy
cầu Long biên. Ông nghiêng đầu nhìn qua ô kính, thấy cây cầu quen thuộc hiện ra
trong vùng sáng mờ nhạt của thành phố thời chiến tranh. Không ngoảnh lại phía
sau, người phi công lên tiếng:
- Báo cáo chủ tịch, vài phút nữa chúng ta sẽ hạ cánh.
Lưỡng lự đôi chút, anh ta nói thêm:
- Nếu không có gì đặc biệt.
Ông đáp:
- Có hay không có sự cố đặc biệt cũng chỉ một người giải quyết
được. Trên chiếc máy bay này chú là người cầm lái chứ không phải tôi.
- Vâng.
Người lính đáp, mắt vẫn nhìn thẳng về phía trước. Ông nhìn rõ
những đường gân phập phồng một bên cổ anh ta, trong gờ sáng rọi lại từ phía trước.
Cũng lúc ấy, máy bay bắt đầu lượn vòng tròn. Những người lính ngồi quanh ông vừa
thở phào một hơi giờ lại bắt đầu sợ hãi. Cơn khắc khoải của họ nhiễm đầy không
gian chứa trong khoang máy bay hẹp. Họ dán mắt vào đốm lửa phản chiếu trên đôi
mắt người cầm lái. Và hơi thở của họ phả từng làn hơi nóng sực quanh ông.
Máy bay lượn tiếp vòng thứ hai, rồi vòng thứ ba.
Im lặng đè nặng lên không gian. Nhưng thật lạ lùng là cùng
lúc đó, một sự thanh thản bất chợt đến với ông kèm theo nụ cười dí dỏm:
― Sau cùng, mọi cuộc chơi đều đi đến kết thúc. Ít nhất, người
ta cũng thấy được màn chót của tấn tuồng. Phải chăng đó cũng là điều hữu ích?
Người phi công đột ngột quay lại nhìn thẳng vào ông, sau khi
đã đưa máy bay lượn ba vòng liền trên bầu trời thành phố:
- Thưa chủ tịch, đèn ba-li đặt sai vị trí.
- Chú chắc chắn là như vậy?
- Thưa chủ tịch, trăm phần trăm.
- Điều đó có nghĩa gì?
- Điều đó có nghĩa là nếu chúng ta hạ cánh theo ánh sáng của
đèn ba-li đặt sẵn, máy bay sẽ rơi chính giữa hồ Định Công.
Ông lặng im, gần như nghe rõ nhịp đập rối loạn trong lồng ngực
bốn người cần vụ trẻ. Ngừng lại vài giây, ông cất tiếng hỏi:
- Chú vào nghề đã lâu?
- Thưa chủ tịch, chưa hẳn là lâu nhất nhưng mọi sân bay trên
đất nước con đều thuộc như lòng bàn tay.
Anh ta đáp với vẻ quả quyết của một người có bản tính thận trọng
và ý thức trách nhiệm. Ông hài lòng vì ngay lúc đầu đã đặt niềm tin vào con người
này, một người lính trong trăm vạn người lính mà ông mới gặp lần đầu. Ông mỉm
cười, đáp:
- Thời xưa những người thợ dệt giỏi dệt gấm trong bóng tối. Họ
chỉ cần nghe tiếng thoi đưa và tiếng đập nhịp của guồng sợi mà biết mọi điều xảy
ra. Triều đình tuyển chọn thợ dệt đặc biệt tinh xảo cho hoàng cung cũng nhờ
phương pháp này. Thứ đó người ta gọi là thủ thuật thử thách bản lĩnh nghề nhiệp.
Tôi thấy chú là người lái giỏi. Vậy chú cứ hành xử theo bản lĩnh nghề nghiệp của
chú.
- Thưa vâng.
Người phi công đáp. Anh ta hoàn tất nốt vòng lượn thứ tư rồi
bắt đầu cho máy bay hạ xuống chính tâm một khoảng không đen kịt. Đôi mắt anh ta
phản chiếu lửa đèn, hắt lên những đốm sáng li ti. Cặp hàm vuông, gần như bạnh
thêm ra trong sự tập trung cao độ. Đột nhiên, bàn tay người cần vụ ngồi bên
trái ông túm lấy cánh tay ông, xiết chặt lại trong một cử chỉ vô thức nửa như
muốn tìm nơi ông sự trợ giúp lại nửa như muốn che chắn bảo vệ ông trước hiểm
nguy. Những ngón tay cậu ta rắn như đinh khiến ông đau điếng nhưng ông nín
thinh chịu đựng. Rồi cuộc hạ cánh hoàn tất. Họ nghe rõ tiếng càng máy bay chạm
đất, cảm nhận sự va đập cuối cùng. Tất cả xảy ra trong đêm đen.
Người phi công quay lại hỏi:
- Thưa chủ tịch, chúng ta cứ để đèn hay tắt đèn?
- Cứ để đèn cho sáng.
Ông đáp.
Liền lúc ấy, giống như phép thuật của quỷ hoặc thần, cả một
toà nhà sáng trưng hiện lên trước mắt họ. Toà nhà trung tâm khu sân bay quân sự.
Tất cả các khung cửa kính đều sáng loá nhưng không thấy bóng ai. Do linh giác
xui khiến, ông quay đầu nhìn về hướng dãy đèn ba-li của sân bay, bắt gặp ánh mắt
người phi công cùng lúc. Dãy đèn ấy đặt dọc hồ. Một máng sắt sơn đen dài ngăn
ánh sáng tiếp cận với mặt nước. Thời khắc mà họ nhìn rõ cảnh tượng đó cũng
chính là thời khắc cả dãy đèn phụt tắt như những ngọn lửa ma trơi. Đồng thời,
khuôn cửa lớn của toà nhà trung tâm sân bay mở rộng. Từ trong đại sảnh bước ra
một nhóm người. Tất cả có tám nhân mạng. Ba Danh, Sáu, bốn cận vệ và hai người
nữa, chắc chắn là cán bộ lãnh đạo phi trường:
― Họ sẽ chết nay mai, những kẻ xấu số này. Bốn cận vệ sẽ bị
tiêu diệt tức khắc. Còn hai sĩ quan của trường bay? Cuộc sống của họ sẽ kéo dài
một ngày hay hai ngày, ba ngày hoặc đủ một tuần lễ?„
Ông thầm nghĩ và bất giác rùng mình. Lúc ấy, đèn trên sân cỏ
cũng theo nhau bật sáng. Người phi công hỏi:
- Thưa chủ tịch, con có thể tắt động cơ được chưa?
- Được. Đã tới lúc làm điều đó.
- Vâng.
Anh ta đáp và thi hành mệnh lệnh.
Thang máy bay được chuẩn bị do chính các sĩ quan phi trường.
Ông bước xuống, lần lượt bắt tay hai người đàn em thân thiết:
- Chúc mừng anh Cả trở về.
- Xin chào chủ tịch, phong cảnh lẫn con người đất Quảng châu
hữu nghị có làm người hài lòng chăng?
Ông cười:
- Ồ, tôi rất hài lòng, tôi vô cùng hài lòng. Xin cảm ơn các
chú.
Và cuộc sống lại tiếp diễn bình thường.
Nhiều ngày sau đó, tâm trí ông quẩn quanh bởi hình ảnh người
phi công lái trực thăng. Chắc chắn anh ta đã bỏ mạng cùng với bốn cậu cận vệ trẻ
măng kia. Không bao giờ ông gặp lại bốn chàng trai ấy nữa. Đội cận vệ của ông
thường xuyên thay đổi nhân sự, nhanh hơn gió thay mùa. Còn người phi công tài
năng kia? Anh ta là ân nhân cứu mạng đối với ông. Một trong số những gương mặt
ám ảnh ông gần như thường trực. Gương mặt ấy là tấm gương phản chiếu một sự thật
chua chát: Ông là kẻ vô năng đối với tất cả những người đã gia ơn cho mình.
― Ta là kẻ vô năng nhất trong tất cả những kẻ vô năng. Ta là
kẻ chịu ơn bội bạc nhất trong những kẻ bội bạc. Đó là một sự thật mà thế gian
không tin nổi. Đó cũng là nỗi nhục nhã mà ta chẳng dám thú nhận với ai.
Vũ khoác áo, bước ra hành lang.
Ở đó, ông ngồi trên chiếc ghế gỗ dài, lắng nghe một cách ơ hờ
những tiếng động vẳng lại. Khoảng năm giờ sáng, người bệnh nằm đối diện với ông
tắt thở, sau một tuần sống cuộc sống nhân tạo. Ông ta tắt thở ngay khi máy hô hấp
vẫn vận hành. Bác sĩ trực phòng gọi nhân viên dưới nhà xác cùng với cán bộ quản
lý nhân sự lên làm thủ tục để chuyển tử thi đi. Những người bệnh khác ngọ nguậy
cổ như những con sâu để quan sát mọi sự. Cặp mắt họ lơ láo, thất thần. Nỗi kinh
hoàng khiến những gương mặt vốn đã bợt bạt trở nên vô khí sắc. Một người kéo
chăn che kín đầu và lát sau tấm vải lót chăn thấm ướt. Ông ta khóc vụng bên
trong. Bầu không khí đó làm Vũ ngột thở nên ông khoác áo, lẳng lặng đi ra.
Hành lang vắng ngắt, chỉ những ngọn đèn dọc tường hắt xuống
dãy ghế sơn xanh. Sự vắng vẻ lẫn yên tĩnh tạm thời làm nhẹ lòng người. Tựa lưng
vào ghế, Vũ đưa mắt nhìn bức tường đối diện và cứ ngồi như thế hồi lâu, không
nghĩ ngợi gì. Lát sau, khuôn cửa rộng trổ ra khu vườn chính của bệnh viện dội lại
tiếng chim. Vậy là bình minh đã tới. Chim chóc bắt đầu cuộc sống thường hằng của
loài chim. Sau khúc dạo đầu của vài ba con chim cần mẫn nhất là bản hoà tấu của
tất thảy các giống chim hội tụ trên vòm cổ thụ. Bản hoà tấu bất tận của đất và
trời.
« Duyên cớ gì khiến ta chú tâm đến tiếng chim hót ban mai? »
Vũ tự hỏi, bởi những năm ở rừng Việt bắc, tiếng chim hót chẳng
khiến ông quan tâm đến thế, dù nơi đó chim chóc là một phần cuộc sống chiến
khu. Không tìm thấy câu trả lời nên ông nhắm mắt lại, tiếp tục nghe tiếng ríu
ran, tiếng líu lo, tiếng thánh thót, tiếng sửng sốt thất thần, tiếng trầm tĩnh
rời rạc hay tiếng hối hả tươi vui mà bất khả phân biệt tên gọi của các loài.
Ông không thể phân biệt đâu là tiếng hoạ mi, tiếng sơn ca, tiếng vàng anh, tiếng
chích choè, tiếng sáo sậu, tiếng sẻ di hay sẻ đồng. Không, ông sẽ hoàn toàn tuyệt
vọng nếu muốn trở thành người nuôi chim hay dạy chim chuyên nghiệp. Nhưng ông
say mê hoà điệu của tất thảy các giọng hót, bởi chúng đem cho ông niềm vui sống
lạ lùng mà mọi thứ giải trí khác đều bất khả.
Đúng lúc ấy, chiếc xe lăn chở tử thi trùm kín vải trắng từ từ
tiến đến. Người đẩy xe là nhân viên nhà xác, một người đàn ông to lớn, gương mặt
sưng vù như mắc chứng phù thũng bởi tiếp xúc quá nhiều với các thây ma. Đôi mắt
anh ta đờ đẫn, nửa như đang nhìn, nửa như đã bất động. Da mặt anh ta cũng vậy,
nó có màu vàng ệnh của xác chết. Theo sau anh ta là vài nhân viên hành chính và
y tá. Cô bác sĩ trực đứng lại một mình cuối hành lang, nhoài qua khuôn cửa nhìn
xuống vườn cây. Hoặc cô ta tìm hơi lạnh của sương mai, hoặc cũng như ông, nghe
chim hót. Giờ, Vũ đã hiểu, cơn cớ nào dẫn đến sự chú tâm quá mức của ông tới tiếng
chim lúc rạng đông. Lần đầu tiên chính là buổi sáng nghe tin Xuân bị giết. Dưới
bóng các vòm lá sấu và mít, ông bất thần đứng như tượng để nghe chim hót, mặc
dù người lái xe đã nổ máy dưới lòng đường. Chỉ là một khoảnh khắc, nhưng khoảnh
khắc định mệnh. Những con vật nhỏ bé kia không biết rằng chính chúng đã đem cho
ông sức mạnh; chính chúng là chiếc phao cứu nạn vào giây phút ông cảm thấy sắp
chìm.
Giờ này là lần thứ hai.
Lần này là cái chết của một kẻ xa lạ, nhưng nó đến vào chính
lúc ông đang bị uy hiếp. Bởi ông đang ở trong cơn chấn động cả tâm thần lẫn thể
xác. Bởi môi trường gợi nên cảnh chìm tầu trong khi ông đang là con thuyền bị
sóng đánh tròng trành. Ông buộc phải truy tìm cứu cánh. Nhưng lần này, ông ý thức
rõ ràng một sự tìm đến chứ không phải là sự bắt gặp ngẫu nhiên.
« Ta tìm đến khúc nhạc này như kẻ chết đuối nắm lấy mảnh bè
mà thần hộ mạng ném xuống. Tiếng chim hót, vẻ đẹp bất tử của thiên nhiên. Phải
chăng ngươi là kẻ đồng hành không bao giờ phản trắc, là nơi tựa đỡ không bao giờ
sụt lở đối với con người? »
Cô bác sĩ trực tiến lại phía ông, sau khi đã nhoài người khỏi
khuôn cửa sổ khá lâu để hít thở. Đêm lao động căng thẳng còn lưu lại những nếp
nhăn trên trán. Lần đầu ông chú ý đến cô ta: một nhan sắc bình thường, dấu vết
của cuộc sống thôn dã còn in khá đậm. Cô ta có dáng đi tất bật, thân lao về
phía trước, hai đuôi tóc tết sam đánh lúc lắc theo bước chân. Đến trước mặt
ông, người đàn bà dừng lại, tươi cười cất tiếng:
- Chào bác, công việc của chúng tôi khiến bác mất ngủ?
- Tôi còn rất nhiều thời gian để ngủ bù. Bác sĩ không cần lo.
- Hôm nay cơ quan và gia đình có vào thăm bác hay không?...
- Có chứ. Như thường lệ. Cảm ơn bác sĩ.
Cô ta mỉm cười, nhưng sau đó giơ tay che miệng ngáp rồi đi.
Người đàn bà này vừa được chuyển từ một quân y viện sang nên
chưa đủ thời gian nắm vững hoàn cảnh các con bệnh. Cô ta không biết rằng ngay
lúc ông nhập viện, bác sĩ trưởng khoa đã yêu cầu vợ ông không được vào thăm ông
như thân quyến những người bệnh bình thường khác. Bởi cuộc đối thoại với bà
chính là nguyên nhân gây nên cơn chấn động tâm thần dữ dội, kèm theo sự tăng
huyết áp và co giãn vành mạch đột ngột, vượt qua mọi lô-gíc bình thường của bệnh
học, dẫn đến cơn ngất xỉu của ông. Người ta buộc phải coi bà như tác nhân gây bệnh.
Do đó, cuộc tiếp xúc giữa họ cũng phải chờ chỉ định của thầy thuốc. Vũ cảm thấy
dễ chịu. Ông tự do. Thời gian đầu, dường như ông không còn mảy may lưu luyến đến
gia đình. Ngay tên bà ông cũng quên. Hình ảnh của bà mất tăm tích. Nhan sắc mặn
mà thuở xưa trở thành vô hình vô dạng trong lỗ hổng đen ngòm của trí nhớ. Có lẽ
cơ thể ông phải sản sinh ra những phản ứng tích cực để tự bảo toàn.
Nhưng hôm nay, khi chiếc xe tang đưa kẻ xấu số khuất rồi, chợt
một nỗi âu lo ập tới:
― Nếu ta ra đi đột ngột, liệu Vân và những đứa trẻ sẽ ra sao?
Ý nghĩ ấy vừa tới, ông đã tự cười mình:
― Ta lại nhớ đến cô ấy. Đó phải chăng còn là tình yêu hay chỉ
đơn giản là tinh thần trách nhiệm? Hoặc chính xác hơn là một sự lạc hướng tâm
lý: ta nhớ cô ấy như nô lệ nhớ chủ nô, như kẻ mắc chứng khổ dâm nhớ kẻ bạo dâm,
như kẻ bị hành quyết nhớ đến gương mặt tên đao phủ. Một sự tưởng nhớ bệnh hoạn.
Nó chứng thực con người vốn dĩ là con vật bị điều khiển bởi thói quen.
KÝ ỨC (6)
Ông vùng đứng lên, đi dọc theo hành lang vì cảm thấy nếu còn
ngồi lại, ông sẽ bị đè bẹp bởi sự khinh bỉ của chính mình. Vừa đi, ông vừa đưa
mắt nhìn xuống sân viện. Chiếc xe chở người chết đang vượt qua sân chính để tiến
về phía nhà xác, một khối bê-tông trắng cao ngất, vuông vắn như hộp đựng
bích-quy nằm khuất sau khu nhà mổ. Trên những chiếc ghế đá dài xếp quanh các bồn
hoa, đã lác đác có người ngồi. Hoặc là những con bệnh sắp bình phục ra ngắm cảnh
để tránh không khí ngột ngạt trong các phòng điều trị. Hoặc là đám người nhà bệnh
nhân ra nhấm nháp bữa ăn sáng của họ, thường là chiếc bánh mì rắc muối hoặc gói
xôi. Thấm thoắt ông đã vào đây đã trọn hai tuần, bắt đầu quen với nhịp điệu cuộc
sống mới, hiểu rằng khả năng thích ứng của con người lớn hơn họ vẫn tưởng. Mấy
ngày đầu, sau khi được giải phóng khỏi cơn hôn mê nhân tạo, ông hồi phục rất
nhanh, cũng căm ghét rất nhanh cuộc sống của con bệnh. Các loại mùi khác nhau của
thuốc tiêm cũng như thuốc uống, mùi hôi hám của những cơ thể đau ốm, bạc nhược;
mùi thuốc tẩy trùng trong phòng tắm và phòng vệ sinh. Gương mặt của những người
bệnh, đa phần gợi đến những chiếc mặt nạ bằng sáp ong hay vải liệm hồ bột. Những
ánh mắt khi lờ đờ như mất hết sinh khí, khi bày tỏ sự cầu khẩn quỵ luỵ, khi ánh
lên vẻ tò mò hay nỗi tuyệt vọng, khi bộc lộ sự thèm muốn hay ganh ghen... Một
thế giới tâm lý gớm nghiếc khiến ông ghê tởm. Nhưng dần dà, vì bắt buộc phải chịu
đựng nó, ông tìm được những kẽ hở mà ở đó, ông có thể thở hít, có thể tự cứu
vãn và gạt đi những ý nghĩ u sầu. Ông tự so sánh mình một cách hài hước với những
kẻ sống dưới hầm sâu hay địa đạo, dán mũi vào lỗ thông hơi để tìm ô-xy và hương
vị của bầu trời. Cái phao cứu hộ lớn nhất của ông chính là vườn cây trung tâm
viện. Vũ có thói quen lượn quanh khu vườn bất kể giờ nào rảnh rỗi. Ngay cả lúc
trời lất phất mưa, ông cũng lững thững đi quanh các bồn hoa, ngửa mặt nhìn vòm
cây xum xuê, tìm bóng chim và nghe tiếng kêu chành choẹ của chúng. Trong túi
ông lúc nào cũng dự phòng vài chiếc khăn tay vì ông là nạn nhân thường trực phải
hứng chịu các bãi cứt chim. Ông hài lòng vì đã biến thành một cái đích thuận tiện
để lũ chim thải bã, chẳng phải vì ông tin vào lý thuyết ― "thấy phân là có
lộc" như những người dân quê, nhưng vì ông muốn gần gũi một thế giới sống
động đầy cảm hứng. Thế giới ấy tồn tại ngay giữa các khu nhà ảm đạm trong đó đầy
ních kẻ sống dở chết dở hoặc các thây ma. Thế giới chim chóc ấy là trạm trung
chuyển giữa một bầu trời cao rộng với ông, con người đang quay cuồng trong cơn
bão tâm tưởng. Tiếng hót của loài vật bé nhỏ này là tiếng nói của thiên sứ, quà
tặng của vị thần bảo mệnh, chiếc bè được chúa Trời ném xuống một cách bí ẩn
trong cơn hồng thuỷ vô hình này.
Những cuộc lượn chơi ấy khiến ông quen với một số bệnh nhân
có tâm trạng gần như ông, họ cũng bám lấy khu vườn như bám lấy mảnh thiên đường
còn rớt lại. Mọi người chạm trán nhau, cúi chào nhau một cách thân thiện và lặng
lẽ, rồi đường ai người nấy đi. Khi mỏi gối chân chồn, Vũ lại tìm đến căng-tin,
ngồi vào góc bàn sát cửa sổ trông ra mảnh vườn sau của bệnh viện. Ở đó, ông nhấm
nháp một ấm trà với một chiếc bánh trong vài ba giờ liền, lắng nghe tiếng ong
rù rì sau lưng, nghe mấy cô gái bán hàng chuyện gẫu hoặc tán tỉnh các chàng
trai trong đội bảo vệ bệnh viện. Đấy là thời khắc yên tĩnh nhất cho phép ông đối
thoại với chính mình.
Cuộc sống, lý tưởng, công việc, gia đình, những con đường đã
đi qua, những đoạn đời đang đợi chờ phía trước.
― Phải chăng đại cuộc đã hỏng rồi?...
Câu hỏi ấy quay vòng như bánh xe luân hồi trong óc não. Câu
nói nhẹ nhàng như rỡn cợt của gã đàn ông đeo đôi kính cận dày như trôn chén kia
chính là bản án tử hình: Thuyền tình đã vỡ, ước mộng đã tan? Cuộc cách mạng mà
cả dân tộc dấn thân sau rốt chỉ là sự khuấy đáy bùn để làm nổi lên xác thuỷ tộc
lẫn rong rêu thối rữa? Làm sao có thể chấp nhận nỗi đắng cay này? Biết bao sinh
linh đã nằm xuống? Biết bao đời trai bị đốn như những thân cỏ tháng giêng bị cắt
ngang bởi lưỡi hái của tử thần? Biết bao và biết bao?
Nỗi ngờ vực càng ngày càng có nguy cơ trở thành lời khẳng định.
Ông tự thán âm thầm:
― Chẳng phải vì ta xiêu lòng bởi hai gã đàn ông bẻm mép mà vì
sự thật đã hiển lộ từ lâu nhưng không ai đủ can đảm đương đầu. Những kẻ đứng
ngoài ngoài guồng máy quyền lực chắc chắn phải có cái nhìn khách quan. Có lẽ do
thân phận của họ, hoặc nói chính xác hơn do lựa chọn rong chơi mà họ nhìn thời
cuộc một cách tỉnh táo. Ta không thể chối cãi rằng đa số những kẻ đứng quanh ta
chính là đám cóc nhái chốn sình lầy.
Cùng với ý nghĩ cay đắng ấy, lướt qua một chuỗi dài những
gương mặt của đám người chen chúc đứng cùng ông trên khán đài quyền lực. Cái guồng
máy nhà nước này đầy rẫy những quân vô lại, những bọn chôm chỉa cướp giật, những
con điếm hạ cấp....Tất thảy loại người được gom chung vào một danh từ: bọn vô sản
lưu manh. Vì vừa vô sản vừa lưu manh nên chúng hoàn toàn bị điều khiển bởi một
niềm say mê bạo liệt, niềm say mê này cho phép dung chứa tất thảy mọi hành động
tàn bạo, mọi biện pháp phi nhân tính. Sức mạnh nội tại tiềm tàng trong chúng:
Khát vọng quyền lực. Sự tham lam buông thả vô cùng vô tận nảy sinh trên gốc rễ
đói nghèo. Nhu cầu không nguôi dịu của một cuộc trả thù vô thức do những khổ
đau, thua thiệt, căm giận, thù oán tích tụ trường kì qua năm tháng.
Kỷ niệm về hội nghị 9 chưa phai. Bởi nó đánh dấu bước ngoặt định
mệnh của dân tộc cũng như sự ngã ngựa của con người khoác tấm áo bào đẹp nhất.
Buổi sáng ấy oi nồng, oi nồng như bầu không khí bao trùm hội
nghị. Mặc dù những chiếc quạt trần xoay tít và những cây quạt đứng xung quanh
cũng không ngừng tạt gió nhưng mọi người vẫn cảm thấy ngột ngạt. Đây là phút trọng
đại nhất: Người ta lấy biểu quyết cho đường lối chính trị quốc gia. Trên ba
trăm năm mươi đại biểu, phe chủ chiến chiếm tuyệt đại đa số, phe chủ hoà là thiểu
số bị nghiền nát: Họ đếm chưa đủ mười đầu ngón tay. Thế nhưng họ vẫn can đảm đến
giây phút cuối cùng vì trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc. Người đứng lên trước
hết là Lê Liêm, thứ trưởng bộ văn hoá. Vì ngồi ngay hàng ghế phía sau nên ông
nhìn rõ đám mồ hôi thấm trên lưng áo ông ta. Đám mồ hôi đó thoạt tiên chỉ lớn bằng
hai quả quýt, chấm đúng nơi nhô lên của cặp xương bả vai. Chỉ vài phút sau, nó
đã loang ra bằng hai bàn tay, rồi rất nhanh thấm ướt toàn bộ tấm lưng và dán chặt
vào chiếc may-ô bên trong. Đường gờ hai bên nách may-ô nổi hằn lên rõ mồn một
qua lớp vải ướt sũng khiến vị thứ trưởng có vẻ như vừa bước lên từ bể bơi Trúc
bạch. Tuy nhiên, ông ta vẫn nói, không bớt một lời, không dè xẻn một ý:
- Tôi nghĩ rằng chúng ta là đại biểu của một dân tộc độc lập.
Chúng ta có quyền lựa chọn cho mình một đường lối tối ưu phù hợp với lợi ích quốc
gia. Cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc ngày hôm qua, còn biết bao nhiêu
vấn đề cần giải quyết. Mìn trên các cánh đồng Mường Cúm, Him-lam chưa đảm bảo
đã gỡ hết. Lúa chưa mọc kín những chiến địa cũ. Thương phế binh trong các trại
còn đang cần tiếp tục điều trị và giúp đỡ. Nhân dân đang còn thiếu những nhu cầu
thiết yếu như thực phẩm, quần áo, thuốc men. Ấy là chưa kể đến các loại sách vở
và học cụ của trẻ nhỏ. Trong hoàn cảnh như thế, chúng ta không có lý do gì để dấn
thân vào cuộc chiến tranh mới chỉ nhằm chứng minh tính ưu việt của chế độ xã hội
chủ nghĩa. Hai phe đối nghịch vẫn có thể tồn tại song song trên cùng một hành
tinh bởi hành tinh này đủ rộng để dung chứa các quốc gia khác nhau và các hệ thống
chính trị khác nhau. Chúng ta có thể chiến thắng Mỹ không phải trên chiến trường
mà trong cuộc cạnh tranh khoa học, chiến thuật công nghiệp và hiệu năng kinh tế.
Ông không còn nhớ chính xác những gì Lê Liêm đã nói sau đó,
nhưng mắt ông dán vào tấm lưng áo ướt sũng mồ hôi khiến ngay cả những đốt xương
sống của vị thứ trưởng cũng hiện lên rõ mồn một. Trong lúc ấy, một màu đỏ loang
từ từ trên gương mặt ông ta, thoạt tiên từ thái dương và quầng mắt. Sau đó màu
đỏ tràn qua hai gò má rồi lan qua cằm, xuống vùng cổ và gáy. Ông cũng nhớ rõ những
nét rùng mình thoáng gợn qua khuôn mặt ấy và cơn tự chế khiến cặp môi của Lê
Liêm gần như tái nhợt đi. Ông cũng nhớ một cách chi tiết những ánh mắt thù nghịch
của đám người xung quanh chiếu vào vị thứ trưởng. Những kẻ ngồi hàng trên quay
hẳn lại, nhìn chõ vào mặt người đang phát biểu bằng cái nhìn của kẻ côn đồ, hứa
hẹn một cách thẳng thắn đá ném vào đầu hay dao đâm vào cổ. Những kẻ ngồi hàng
ghế sau không thể bộc lộ được tinh thần phản đối bằng ánh mắt đe doạ và khinh bỉ
đối với "tên xét lại" thì xì xào gây ồn ĩ...Một khoảnh khắc trôi qua,
bất thần một đại biểu vọt đứng lên, tách hẳn hàng ghế bước đến trước Lê Liêm, xỉa
tay vào mặt ông và hét:
- Nếu mày không câm họng lại. Nếu mày còn tiếp tục phun ra giọng
điệu của bọn xét lại, tao sẽ treo cổ mày lên.
Lê Liêm ngừng lời, dường như bị một cú đòn phang vào gáy. Ông
trân trân nhìn kẻ vừa sỉ nhục mình, thứ trưởng bộ nội vụ Lê chí Thân, lâu la ruột
của Quốc Tuỳ. Đưa tay lên gỡ kính, thứ trưởng bộ văn hoá chớp mắt một cách bối
rối. Ông không thể tìm được lời đối thoại, dầu ông là người nổi tiếng có tài ăn
nói. Hội nghị cũng im lặng theo. Đây là lần đầu, họ chứng kiến cảnh tượng các đồng
chí xử sự với nhau theo đúng cung cách của bọn đầu đường xó chợ. Dầu gốc tích
ra sao, nhưng khi đã trở nên những kẻ mũ cao áo dài, những đại diện cho dân
chúng, bọn họ đều cố gắng giữ một sự nhã nhặn tối thiểu. Đây là lần thứ nhất, sự
cặn bã được tự do lên ngôi. Hơn ba trăm con người cúi mặt xuống.
Trên khán đài, Ba Danh và Sáu lặng im.
Một khoảnh khắc trôi qua, chủ tịch đứng lên, quay về phía Lê
chí Thân, cất giọng thản nhiên, ôn tồn:
- Nếu chú muốn treo cổ chú Lê Liêm, hãy treo cổ tôi trước đã.
Lê chí Thân mím môi, cúi gằm mặt rồi quay về chỗ của y. Hội
nghị chết lặng đi trong khoảnh khắc.
Rồi Sáu rung chuông:
- Giờ giải lao đã đến. Mời các đồng chí tạm nghỉ.
Sau hội nghị, Lê Liêm đã viết một bức thư gửi bộ chính trị,
trong đó ông yêu cầu những người lãnh đạo cao nhất của đảng giải quyết vụ việc
này, bởi ông không tin rằng đảng có thể dung túng cho những hành vi và ngôn từ
có tính côn đồ lưu manh được phép tồn tại giữa những uỷ viên trung ương, những
đại biểu của dân tộc.
Thứ trưởng bộ văn hoá quá thơ ngây. Ông là con người duy mỹ.
Sự duy mỹ không tồn tại được trong xứ sở này. Bộ chính trị mà ông kì vọng sẽ
làm trọng tài phân xử giữa ông với kẻ hạ nhục mình lại chính là đám người một đồng
một cốt với y. Để xây dựng một khải hoàn môn hùng vĩ, đảng ắt cần đến loại người
có khả năng tàn phá và huỷ diệt. Chiến tranh cần các tội phạm, những kẻ sát
nhân chuyên nghiệp và nghiệp dư trong số đó đám đâm thuê chém mướn nghiễm nhiên
trở thành lớp người đặc biệt có năng lực, được mau chóng nhận diện như lớp tinh
hoa. Sự thật ấy đã liệt kê, sơ đồ hoá. Huống chi một số lớn kẻ cầm quyền cũng
có gốc rễ là quân lừa đảo, trộm cướp, các phiên bản của tầng lớp lưu manh?...Tiếng
hú của chó sói khiến mọi loài run sợ nhưng lại là tiếng gọi ấm áp thân quen đối
với bầy đàn của chúng. Con người như Lê Liêm chính là kẻ lạc loài. Trong khi chờ
đợi lá thư trả lời của các « đồng chí lãnh đạo », ông đã bị khai trừ khỏi đảng,
thải hồi và quản thúc tại gia, tất thảy mọi hình thức kỉ luật được thi hành gần
như một lúc. Vài ngày sau đó, tướng Đặng kim Giang, viện trưởng viện triết học
Hoàng minh Chính, nhà văn hoá Nguyễn kiến Giang và non một trăm nhân sĩ khác,
những người được định danh là bị đầu độc bởi tư tưởng của tên trùm xét lại
Khơ-rút-xốp bị bắt giam. Cùng một tuần lễ, hơn hai mươi tướng lĩnh bị tống vào
nhà ngục bởi họ đã từng được đào tạo lâu dài trong trường quân sự Cu-tu-dốp hoặc
có quan hệ gần gũi tướng Long. Tuần sau, trên năm trăm sĩ quan quân đội từ cấp
đại tá trở xuống, những người từng cộng tác hoặc được nhiệm chức trực tiếp dưới
quyền của tướng Long cũng lần lượt bị bắt theo. Họ bị dẫn độ trong các đoàn xe
của tổng cục 2, sau đó bị giam tại nhà tù Thanh Liệt ở ngoại ô Hà nội, và hai
nhà tù trung ương khác đặt tại Hà Tĩnh và Thái nguyên.
Cuộc chiến tranh mới bắt đầu.
Hành trình của dân tộc đổi hướng.
Cùng với nó là tất thảy những bi kịch của con người thân thiết
nhất với ông.
° ° °
Bừng mắt dậy, chủ tịch thấy hoa mai nở trắng xóa khuôn cửa sổ.
Phải chăng đây là đợt hoa cuối cùng của mùa xuân? Ông đứng lên, dán mắt qua tấm
kính nhìn những cành mai phủ kín hoa giống hệt những chuỗi bông tuyết đọng trên
cành thông mùa Noel. Những cánh hoa trắng tinh như tạc bằng sương băng và vườn
mai trắng bơi giữa biển sương trắng mênh mông khiến ông hồi tưởng khung trời
mùa đông Paris những ngày tuyết đổ.
Paris, chân trời xa xôi không ngừng thiếu vắng nơi ông.
Paris, thành phố của những đam mê mặn nồng và cay đắng.
Ông đã trải qua biết bao mùa đông trong thành phố ấy? Biết
bao lần ông đứng nhìn tuyết rơi trên những mái nhà nhấp nhô với cảm thức phức tạp
trong đó sự xa cách chen cùng gần gũi, nỗi buồn xen lẫn những ngất ngây. Bởi
không có tiền, ông luôn luôn phải thuê những căn buồng áp mái, thứ quán trọ
dành cho đám sinh viên nghèo, đám thợ thuyền tỉnh lẻ tới kiếm bánh mì đô thị và
đám người lưu vong khốn khổ. Ở những gian phòng áp mái ấy, ông phải chịu đựng
cái rét thấu xương nhưng bù lại, có cảm giác gần bầu trời hơn, có thể nhìn những
bông tuyết quay cuồng múa lượn một cách ngoạn mục hơn trước khi chúng rơi xuống
mặt đất. Đôi khi, vào những rạng đông, thành phố vắng người và ngổn ngang tuyết
rơi trở nên hoang vắng lạ lùng, xa cách lạ lùng như chẳng còn là Paris mà chỉ
là một bình nguyên tuyết phủ. Đôi khi, vào những hoàng hôn rét cóng, ông nhìn
các bông tuyết bay xiên giữa không trung, làm nhập nhoà thêm ánh sáng yếu ớt của
những ngọn đèn đường, khiến bầu trời ám mây trở nên âm u huyền bí như bức hoạ đồ
được vẽ bằng bàn tay phù thuỷ. Đôi khi, vào những trưa hiu quạnh, ông bước trên
hè phố đầy ngập các đống tuyết, ngơ ngẩn nhìn làn tuyết trắng in những vết giày
đen bẩn của khách bộ hành. Mùa đông Paris, hơi thở ấm áp ngon lành của những lò
bánh mì là thứ hương thơm nồng ấm nhất với chàng trai châu Á. Rất nhiều khi,
ông bắt gặp mình đi đi lại lại hàng chục lượt trước ô cửa không cánh trổ sát
hè, được chắn bởi những dóng sắt thô đen sì như cửa sổ nhà ngục. Từ những ô cửa
chẳng chút gợi cảm đó, hơi nóng của các loại bánh mới ra lò bay lên không ngừng.
Và không ngừng, những làn hơi ngào ngạt quyến rũ khách qua đường bởi thứ mùi
thơm vô cùng trần thế.
Paris!
Sao đột nhiên nỗi nhớ hoá cồn cào?
Những cành mai trắng bồng bềnh trong sương trắng đỉnh Lan Vu
bỗng gọi về đây một khung trời tràn đầy kỉ niệm. Khung trời xa xôi và gần gũi.
Quãng đời tươi thắm nhất. Tuổi trẻ của ông. Đã quá lâu ông không còn thấy thành
phố đó. Liệu nó đổi thay nhiều hay vẫn như xưa? Những quán rượu cũ kĩ hẳn sẽ được
đổi thay bàn ghế, thay kiểu trang trí và thêm các món nhắm. Các cô hầu bàn sẽ
thay trang phục. Những ngôi nhà sẽ thay chủ và thay nước sơn. Những ngọn đèn đường
kiểu cổ hẳn sẽ được thay bằng các loại đèn mới. Nhưng tựu trung, nước sông
Seine đâu có đổi giòng? Và những hàng cây vây quanh đảo Saint Louis vẫn trút lá
ào ào khi mùa đông tới. Hẳn là thành phố ấy vẫn sống cuộc sống bình thường của
nó, ở ngoài ông, không có mặt ông. Ông chỉ là khách trọ một mùa nếu Paris là
quán trọ. Ông chỉ là kẻ qua sông một lần nếu nó là con thuyền vĩnh cửu qua lại
giữa hai bờ quên nhớ của một dòng sông. Ông chỉ là một khách hàng nghèo khổ,
trong túi không đủ tiền để mua một vật ra hồn, đi qua chợ mà đau đáu buồn tủi,
nếu Paris là thứ siêu thị miên viễn của phương Tây, nơi sự choáng lộn của xa
hoa làm chóng mặt những kẻ nhát gan và làm rơi lệ những kẻ có quá nhiều thèm muốn
nhưng túi tiền lại rỗng.
Ồ, nhưng ông đâu có ham muốn tiền tài? Suốt đời, ông chưa bao
giờ dành dụm nổi một món tiền, để tiêu cho riêng ông hoặc trợ giúp một người
nào ông muốn giúp. Ngay giờ đây, làm chủ tịch nước mà tiền phúng viếng kẻ tiều
phu ông cũng không biết rõ ít nhiều, và không thể tự tay định liệu. Điều đó phải
chăng do số phận đặt bày? Bởi chính ông cũng dửng dưng trước một sự thật lạ
lùng như vậy. Nhưng quả tình, ông chưa bao giờ thèm khát sự xa hoa của Paris.
Ông nhớ về nó như nhớ một mối tình bất thành và bất khả quên lãng.
Ngoài kia, một cơn gió vừa tới, xô dạt những cành mai. Từng
đám cánh hoa rơi lả tả. Chao ôi, sao mà giống những nụ tuyết ở phương trời bên
kia? Lần đầu, nhìn những bông tuyết nhỏ vừa đúng bằng hạt ngô rang nở, ông thốt
kêu thành tiếng: « Ồ, xinh xắn làm sao thứ nụ tuyết tí hon này! ». Nhiều năm
sau, ông vẫn tự cười mình vì sự ngô nghê ấy. Với ông, kỉ niệm về tuyết đã trở
thành nỗi sầu thương vĩnh cửu, điệp vào nỗi sầu thương một tuổi trẻ bị chôn
vùi. Khi đã trở thành một người đàn ông từng trải, vào những ngày tuyết bay mù
mịt, con tim ông vẫn thổn thức vì bài hát cũ: Tuyết rơi! Phải chăng màu trắng của
tuyết bay đã làm thành một phần đời ông, một phần không thể thiếu? Phải chăng
những câu ca xưa cũ, một khi đã găm chặt vào tâm khảm, trở thành thứ điệp khúc
bất tử vượt qua mọi thăng trầm của số kiếp và mọi sụt lở của thời gian?
«....... Tombe la neige
Tu ne viendras pas ce soir
Tombe la neige
Mon coeur s’ habille de noir.... »
Suốt đời ông, đeo đuổi nỗi nhớ tình yêu. Suốt đời ông, bài
hát ấy vang lên như một điệp khúc vô chung và vô thuỷ. Khốn khổ thay cho ông,
không thể lấp đầy nỗi trống vắng này. Khốn khổ thay cho kẻ nào tóc đã trắng như
sương mà còn nhớ bài « Tuyết rơi » và con tim còn se sắt vì những mối tình bất
cập.
- Thưa chủ tịch, xin mời người dùng cháo cho nóng.
- Ồ, nhà bếp đã mang lên?
- Vâng, bác sĩ yêu cầu người ăn thêm bữa sáng còn bữa trưa
rút đi nửa xuất cũng được. Như thế có lợi cho sức khoẻ hơn.
- Tôi đã nghe chú ấy giải thích. Nhưng tôi đã quen ăn hai bữa
từ khá lâu.
- Vâng....Nhưng bác sĩ...
- Thôi được, tôi ra đây.
Ông bước ra phòng ngoài. Một mùi thơm lạ lùng từ sân tràn vào
khiến ông dừng lại. Ông vừa hồi tưởng mùi thơm của những lò bánh mì Paris mùa
đông, phải chăng mùi hương này là mùi hương mộng ảo của ký ức?
Hồ nghi, ông giương mũi lên hít thở. Cậu lính thấy vậy nói
luôn:
- Thưa chủ tịch, đó là mùi chả đậu xanh của nhà chùa. Sáng
nay, sư nữ trổ tài rán chả đậu.
- À ra thế. Quả là khác.
- Thưa chủ tịch, khác cái gì ạ?
- Ồ, tôi muốn nói là mùi thơm này chẳng giống mùi thơm của
các món ăn khác.
- Vâng.
Cậu lính lập tức khẳng định:
- Mùi món ăn chay phải khác mùi các món ăn trần ạ.
Ông cười:
- Đúng rồi. Nếu không ai còn dám gọi là chay?
Cậu lính nhìn ông thăm dò rồi hỏi:
- Thưa chủ tịch, người có muốn nếm thử món ăn nhà chùa không ạ?
Ông lắc đầu:
- Đừng làm phiền họ như vậy. Chúng ta ở đây đã là xâm phạm
vào bờ cõi cũng như tự do của các nhà sư rồi.
- Ồ không.
Chàng trai đáp một cách hăng hái:
- Chính sư nữ đem cho con một đĩa tú hụ. Chả hãy còn nóng
nguyên. Con lấy lên một chút để người nếm thử.
Ông chưa kịp trả lời cậu ta đã chạy vụt ra và mất hút trong
đám mây trắng khổng lồ đang lướt qua sân. Một phút sau, anh chàng trở lại với
đĩa chả đậu bọc trong tấm vải bông dày:
- Mời chủ tịch dùng cho nóng.
- Cảm ơn.
Mùi chả đậu quả là hấp dẫn. Hoặc nó ngon lành thực hoặc vì nó
là món ăn lạ nên vị giác của con người bị kích thích và ở trong trạng thái chờ
đón. Ông gắp miếng chả lên ăn thử trước cặp mắt hồi hộp của chàng lính trẻ.
- Ngon lắm. Lần đầu tôi mới ăn món này.
Cậu lính toét miệng cười:
- Chả đậu là một trong những món chay ngon nhất đấy ạ. Những
dịp đặc biệt nhà chùa mới làm vì mất công.
- Người ta làm theo cách nào?
- Dạ, trước hết phải đồ đậu xanh lên như đồ xôi. Sau đó cho
vào cối giã nhuyễn thành bột. Thứ bột này nhào với một chút bột mì hoặc bột gạo
nếp cho đủ độ dính kết, rồi thêm muối và gia vị cho vừa vặn. Sau đó đem nặn
thành bánh thả vào chảo dầu rán. Hôm nay, sư nữ rán bằng dầu lạc. Nhưng muốn
ngon hơn, phải rán bằng dầu vừng hay dầu hướng dương.
- Giỏi lắm. Cậu có thể chuyển thành đầu bếp được rồi đấy.
- Sáng nay con ngồi phụ sư nữ giã đậu, được nghe giảng về mọi
loại ăn chay.
- Đời sống của nhà chùa xem ra cũng khá phong phú, phải
không?
- Dạ. Thưa chủ tịch...
Cậu ta lúng búng. Người lính trẻ không biết trả lời ra sao vì
câu hỏi của ông quả là nan giải. Ông cười:
- Tôi hỏi đùa thôi. Đời sống của những người tu hành thật sự
vô cùng đơn giản. Nhưng sự khó khăn chính là ở chỗ duy trì và bảo dưỡng sự đơn
giản ấy.
- Thưa vâng.
Biết rằng chàng trai không thể hiểu những điều mình vừa nói,
ông vỗ vai cậu ta:
- Thôi, không phải căng óc đánh vật với chữ nghĩa làm gì cho
khổ. Cứ tin rằng đời sống của họ hoàn toàn khác biệt với cuộc sống của chúng
ta.
- Thưa vâng.
Chàng trai nói với vẻ sung sướng như vừa trút được gánh nặng,
đoạn cậu ta dọn khay đồ ăn đi với nỗi hân hoan như vị tướng trở về thành dẫn
theo đoàn xe chất đầy chiến lợi phẩm. Ông đã ăn hết đĩa chả đậu mà bỏ lại bát
cháo thịt của nhà bếp.
Chỉ vài tích tắc sau, tiếng cười của chàng trai vang đã lên
bên kia sân chùa. Ông không nhìn thấy cậu ta vì những đám mây trắng lướt bay
không ngừng, giống đàn bò của Thượng đế bị mục đồng rượt đuổi trên cánh đồng
tiên giới. Những đàn bò trắng liên tục diễu hành trước mắt ông. Bỗng nhiên, nỗi
cô đơn hiệp đồng với mây trắng bên ngoài làm buốt lạnh con tim. Chủ tịch sững sờ.
Ông chưa bao giờ trải nghiệm một thứ cô đơn kinh hoàng như hôm nay. Cô đơn lạ
lùng. Cô đơn đến đau buốt ruột gan, tê dại chân tay. Cô đơn như có một thứ lưới
sắt vô hình quây chụp lấy ông, trói thít ông trong những mắt lưới tàn nhẫn. Ông
hụt hơi. Ông thấy ông không đủ sức chịu đựng thêm dẫu là một khoảnh khắc nỗi cô
đơn này cho dù suốt đời ông, cô đơn vẫn là kẻ đồng hành chung thuỷ. Ông bỗng thấy
sợ khi phải ngồi lại đây, mình đối mặt với mình:
« Tại sao ta lại yếu đuối đến mức này? Chẳng lẽ chỉ vì tuổi
già mà ta trở nên một kẻ xa lạ và thảm hại ngay với cả bản thân? »
Ông tự đe nẹt. Trong khi uống từng ngụm trà nhỏ, ông cúi nhìn
vào lòng chén, cố tìm trong chất nước sóng sánh vàng kia một liên tưởng, một kỉ
niệm về sông suối, một kí ức xa xôi dính líu tới những cuộc tiệc trà, làn khói
mềm mại phất phơ bay trên những món ăn nóng hổi. Bất kể thứ chi có thể giúp ông
quên đi nỗi cô đơn. Nhưng điều đó trở thành bất khả. Bởi nỗi cô đơn này chính
là kẻ song sinh với nỗi quên lãng kia. Khi quên lãng quay đầu chạy đi, nỗi cô
đơn này vòng trở lại. Hai thứ thòng lọng thít chặt cổ ông trên giá tử hình.
Chủ tịch đứng lên vì nếu còn ngồi lại ông sẽ ngạt thở. Khoác
chiếc áo bông dài lên vai, ông bước ra. Vừa mở cửa, mây trắng đã phả vào mặt
ông ướt lạnh. Những viên gạch dưới chân sũng nước như láng mưa. Từ bên chái nhà
bên kia khu chùa, cậu lính kêu to:
- Thưa chủ tịch, xin người quay vào. Trời lạnh lắm.
Rồi cậu ta chạy bổ qua sân nhanh như chim cắt và túm lấy
ngang lưng ông khi ông vừa định bước xuống tam cấp:
- Thưa chủ tịch, xin người quay vào nhà.
Ông đáp lại một cách ngang bướng:
- Ồ không. Ngồi trong nhà mãi nhức đầu. Vả chăng, tôi phải
sang cảm ơn nhà chùa vì món chả đậu.
- Thưa chủ tịch, người đụng đũa đến món ăn chay tịnh của
chúng tôi đã là vinh dự cho nhà chùa. Người bất tất phải sang đây.
Ông nghe sư nữ nói rất to, vọng từ bên kia đám mây. Vì đám
mây quá lớn, ông sợ bị cảm lạnh nên chờ nó lướt qua sân rồi mới bước tiếp. Chỉ
vài chục bước chân mà không nhìn rõ hình người. Đúng là cảnh tượng nơi tận sơn
cùng cốc. Đặt chân lên bậc thềm của gian chùa ngang, ông mới nhìn thấy sư nữ
đang ngồi giã trầu cho sư cụ. Ông chưa kịp nói thêm lời nào, bà cụ đã từ trong
nhà bước ra:
- Xin mời chủ tịch vào nhà ngay vì trời rất lạnh. Nếu chẳng
may người vàng mình sốt mẩy, nhà chùa chúng tôi không biết lấy gì để chuộc lỗi
trước nhân dân.
- Bạch sư cụ, người còn nhiều tuổi hơn chúng tôi.
Ông nói vậy nhưng cũng bước vội vào nhà vì sau lưng ông, những
đám mây vĩ đại khác đang lù lù tiến đến. Chúng không chỉ bay ngang sân mà sẽ
tràn vào tất thảy những khuôn cửa mở khiến các gian nhà ướt lạnh. Sư nữ bỏ cối
trầu bước liền theo ông rồi khép luôn cánh cửa. Tiếng cánh cửa quay cót két
trên trục gỗ khiến chủ tịch giật mình. Chợt nhớ rằng tiếng cót két này vô cùng
quen thuộc với ông thời niên thiếu. Những ngôi nhà gỗ cổ xưa của xứ sở đều xây
dựng theo cùng một mẫu, và tiếng cánh cửa nghiến trên trục gỗ vọng lên nỗi buồn
nhớ thời đã qua...
- Xin mời chủ tịch ngồi.
Sư cụ mời ông ngồi đối diện với bà, trên chiếc ghế lim cũ
nhưng vững trãi mà thời gian khiến nước gỗ bóng như gương. Cậu lính ngồi phía
sau lưng ông, trên chiếc ghế đẩu bằng mây đan do sư nữ đem lại. Giữa căn phòng,
một lò than hoa tí tách cháy. Thi thoảng, sư nữ lại lấy que khơi cho những viên
than cháy đỏ và tiếp thêm than mới. Căn phòng toát lên vẻ ấm cúng mộc mạc và cũ
kĩ. Giống như mùi thơm của trầu cau, hơi ấm của cánh tay bà ngoại, nỗi phấp phỏng
thần tiên của những câu chuyện cổ tích được nghe kể đêm xuân. Sư nữ rót nước
vào bộ chén Bát tràng mời khách. Nhà chùa uống nụ vối hãm gừng. Thứ nước ấy
cũng gọi về một mùi hương cổ xưa khiến ông lập tức nhớ đến mẹ ông:
- Bạch sư cụ, nước vối hãm gừng thơm lắm. Vậy mùa hè nhà chùa
cũng dùng thứ giải khát này?
- Thưa chủ tịch, mùa hè chúng tôi uống chè tươi hay cánh cúc
khô.
Nói đoạn, bà cụ quay sang bảo sư nữ:
- Con có thứ chè lam mềm để ăn sau bữa cơm. Sao không đem ra
mời chủ tịch?
- Bạch thầy, con xin sám hối. Con vô tình nên quên.
Sư nữ đi sang gian bên, hẳn là nơi cất thứ chè lam đãi khách.
Ông im lặng nhìn theo người đàn bà trong tấm áo nâu dài, lơ mơ nghĩ:
« Tại sao cô ta không tìm một mái ấm như nhiều người đàn bà
khác? Liệu nơi này thực sự là miếu đường hay chỉ là nơi tránh nạn tạm thời hoặc
là chốn ẩn náu để lãng quên một quá khứ khổ đau, chất chồng tì vết? Một thứ quy
phục số phận, giống như ta vị vua già trong oubliette đỉnh Lan Vu?»
Sư nữ quay ra cung kính đặt lên bàn một đĩa chè lam trắng xoá
bột nếp áo. Thứ chè lam được thái sẵn hình quân cờ, đặc biệt mềm dành cho người
cao tuổi hoặc trẻ nhỏ:
- Xin mời chủ tịch nếm thứ quà của các bần tăng.
- Xin cảm ơn nhà chùa. Vừa rồi tôi đã được nếm món chả đậu rất
ngon. Chắc chè lam cũng sẽ ngon như vậy.
Ông đáp đoạn cầm miếng chè lam lên cắn. Sau đó ông chiêu một
ngụm vối hãm gừng. Quả là ngon. Nhưng điều quan trọng hơn là cuộc đối ẩm này cứu
ông khỏi những giây phút trầm cảm. Ông đưa mắt nhìn gian nhà gỗ cổ lỗ một lần nữa,
tự hỏi vì sao cho đến tận buổi sáng này ông mới đặt chân vào đây, vượt qua mảnh
sân gạch như vượt qua bức tường thành phân định giữa tồn sinh thế tục với cuộc
sống của kẻ tu hành, như vượt qua cõi biên thuỳ giữa các vương quốc nếu không đối
nghịch thì cũng bất khả tương thích. Ồ, tại sao?
Chủ tịch uống một ngụm lớn như để nuốt trôi những ý nghĩ nặng
nề và ông trầm trồ:
- Chè lam ngon thật. Thứ quà này tương hợp một cách tuyệt vời
với nước vối.
Đoạn ông cười và nói thêm:
- Tôi ở đây đã hơn một năm mà hôm nay mới dám đặt chân vào
nhà chùa. Quả là thiệt thòi. Giá tôi mạo muội phá rối nhà chùa sớm hơn hẳn đã
được nếm món chè lam này từ lâu.
- Thưa chủ tịch, nơi ăn chốn ở của bần tăng làm sao đủ thanh
lịch để mời người. Vì thế chúng tôi chẳng dám mạo muội.
Sư cụ đáp rồi nở nụ cười. Hai hàm răng bà cụ còn nguyên vẹn,
vững trãi và đen nhánh. Chủ tịch cũng cười:
- Chúng ta là láng giềng, lẽ ra phải thăm hỏi kết thân từ lâu
mới phải. Lỗi chính là tôi bận quá.
Uống cạn chén nước, ông tiếp:
- Bạch sư cụ, hình như hôm trước nhà chùa làm lễ cầu siêu cho
người dưới xóm Tiều Phu?
- Thưa vâng. Chủ tịch bận trăm công ngàn việc mà vẫn quan tâm
đến số phận nhỏ mọn của lê dân, vậy là tâm người lớn lắm. Tôi nghe sư nữ kể lại
việc người xuống tận dưới xóm dự lễ tang.
- Bạch sư cụ, tôi chỉ rẽ vào viếng người xấu số.
- Thưa chủ tịch, thế đã là đại hồng phúc cho gia chủ.
- Bạch sư cụ, tiện thể xin người giảng cho tôi rõ thế nào là
lễ cầu siêu? Phải chăng mọi người chết đều cần đến lễ cầu siêu hay chỉ riêng những
kẻ có số phận oái oăm, trắc trở?
- Thưa chủ tịch, đạo Phật không bị ràng trói bởi nghi thức.
Cũng không quy định rõ người nào cần được cầu siêu và người nào không. Tất thẩy
đều tuỳ thuộc sự động tâm của chúng sinh. Chỉ có động tâm chúng sinh mới khai
minh, sáng trí ; khi sáng trí họ mới đủ cơ duyên để nhìn ra nghiệp quả của
mình. Nhà chùa chỉ làm theo thỉnh nguyện của chúng sinh. Thế nhân thường nói: «
Tâm động, quỷ thần tri ». Kẻ tu hành biết là phật tính được khơi như ngọn đèn,
vừa rọi sáng cả tinh thần lẫn sinh thể chúng sinh, vừa chiếu qua bẩy vùng trời
để làm nở đoá sen phước hạnh.
- Bạch sư cụ, chúng tôi là kẻ ngoại đạo, dù có cố sức cũng
không thể hiểu được ngay những kinh điển trong tôn giáo của ngài, nhưng ở góc độ
kẻ phàm trần, chúng tôi vô cùng quan tâm đến câu chuyện giữa cha con người tiều
phu dưới xóm. Không hiểu nhà chùa cắt nghĩa việc này ra sao?
- Thưa chủ tịch, Đức Thế Tôn chỉ ra rằng trong mọi kiếp nạn của
con người, chữ Tham đặt lên trước hết. Lòng dục che mờ lương tâm như đám mây
đen che khuất mặt trời, mặt trăng. Tình cha con, tình thày trò, tình huynh đệ đều
bị lòng dục phỉ báng và phá huỷ. Ngay Đức Thế Tôn cũng bị sát hại bởi chính người
em họ thân thiết của mình, đại đức Devadatta. Lịch sử các triều đại, từ cổ chí
kim, chuyện thái tử giết vua cha đâu có thiếu. Chắc chắn ngài còn đọc nhiều hơn
bần tăng.
Dứt lời, sư cụ từ tốn mỉm cười. Và ông lại nhìn thấy hai hàm
răng hạt na đen nhánh:
« Ồ, rõ ra đây là một bà già Việt cổ xưa, răng đen váy lĩnh.
Trước đây bẩy mươi năm hẳn là một thôn nữ tươi ròn, tràn đầy sức sống. Nhưng
nàng không chấp nhận cuộc sống bình thường với những thú vui bình thường nơi
thôn xóm mà dùi mài đèn sách để trở thành đệ tử của Như Lai.»
Ông thầm nghĩ, không ngăn được mối thiện cảm với người đối
thoại:
- Bạch sư cụ, ngài dẫn giảng thật hay. Quả là ngài đã dày
công đèn sách.
- Thưa chủ tịch, bần tăng không dám nhận lời khen. Bất cứ ai
ăn mày cửa Phật, đọc kĩ lời dạy của Đức Thế Tôn đều có thể dẫn giảng hay hơn bần
tăng gấp bội.
Không chờ ông lên tiếng đáp, bà cụ quay về phía sau hỏi sư nữ:
- Con không thấy là đĩa chè lam sắp hết rồi sao? Nhà chùa
thanh bần nhưng không bao giờ hẹp lòng đãi khách.
- Con xin sám hối. Con mải nghe chuyện của thầy.
Ông mỉm cười vì thấy sư cụ đầy mẫn tiệp ; lối lảng tránh những
chủ đề không mong muốn của bà cụ chứng tỏ khả năng phản ứng của cụ nhanh không
kém người đang độ thanh xuân. Ông ăn miếng chè lam cuối cùng còn lại trên đĩa,
giống như một người hàng xóm quen thuộc đã nửa thế kỉ nay:
- Chè lam quả là ngon. Bạch sư cụ, xin cảm ơn ngài lẫn sư nữ
vì sự đón tiếp thịnh tình này. Nếu ngài cho phép, chúng tôi sẽ còn được dịp quấy
quả.
- Thưa chủ tịch, ngài đặt chân đến đây là vinh dự cho các bần
tăng.
Ông đứng lên.
Và sư cụ cũng đứng lên, chắp tay hình búp sen đáp lễ.
Khi ông trở lại phòng, đồng hồ chỉ chín giờ hai mươi lăm
phút. Vậy là cuộc trò chuyện với nhà chùa kéo dài một tiếng rưỡi. Một tiếng rưỡi,
mùi nước vối hãm gừng lẫn nụ cười với hai hàm răng đen nhánh của nhà sư cứu ông
thoát khỏi vực sâu tuyệt vọng. Bây giờ, ông còn lại với chính ông. Chủ tịch ngồi
xuống ghế, bắt đầu sợ hãi khoảng thời gian phía trước. Nỗi cô đơn sẽ quay trở lại.
Giá treo cổ sắp hiện hình. Ông biết trốn đi đâu?
Vào rừng chăng? Bất khả. Xuống núi chăng? Không có lý do. Vả
chăng, ông không thể tự biến mình thành con bệnh tâm thần trước mắt đám người
canh giữ cái nhà ngục mỹ miều này. Lòng tự tôn không cho phép ông hành động
buông thả. Đưa mắt nhìn lên giá sách, ông bắt gặp vài chục cuốn đang đọc dở,
găm đầy những tấm thẻ tre đánh dấu. Rút một lần ba cuốn, ông bắt đầu lật giở từng
trang. Các dòng chữ lướt đi như dãy chấm đen vô hồn, không mảy may ý nghĩa. Khi
thì chúng giống như những dãy hoa văn đơn điệu và thô mộc, khi thì chúng trở
nên xám xịt như nắm cát và ông không thể phân biệt nổi con chữ. Chủ tịch thở
dài, gấp lại cuốn sách, đặt chiếc thẻ tre vào đúng trang cũ. Trên sân chùa, những
đám mây trắng khổng lồ vẫn lũ lượt lăn qua. Và những cành mai phủ đầy hoa trắng
vẫn nhè nhẹ rung bên ngoài khung cửa khiến con tim ông lại cồn cào nhớ màu tuyết
trắng.
« Ta không thể tiếp tục chịu đựng những dày vò khủng khiếp
này. Điều đó tồi tệ hơn cả cái chết. »
Ông lại đứng dậy, cầm chiếc áo bông, định bước ra cửa. Nhưng
chiếc áo ướt lạnh buộc ông hiểu rằng ông không thể đi đâu vào lúc này. Ông
không có cách nào hơn là ngồi lại giữa bốn bức tường tù ngục, đối mặt với chính
pháp đình của chính ông.
Mắc lại chiếc áo lên giá treo, ông buông mình xuống ghế, đưa
mắt nhìn đám mây cuồn cuộn như đống bông lăn qua sân chùa và nhớ lời sư cụ:
« Đến đức Thế Tôn cũng còn bị sát hại bởi đàn em. Đã khoác áo
cà-sa, đã tu luyện đến bậc đại đức mà còn bị lòng dục xui khiến thì huống chi
đám người trần tục? Ta chẳng nên oán trách bọn đồng chí thù nghịch ấy. Kẻ đáng
oán trách trước hết là ta. Chính bản thân ta. Hoặc yếu hèn hoặc ngu ngốc, hoặc
cả hai. »
Lần này, ông không còn muốn tự bào chữa. Gã luật sư biện hộ
cho ông chết rồi chăng? Ý nghĩ đó lướt qua ông một cách ơ hờ trong khi ông đăm
chiêu nhìn một đám mây rách nát đang kéo lê qua sân chùa mớ áo tả tơi của nó. Đột
nhiên, hình ảnh ấy xui khiến ông thương cảm chính mình:
Đường đời ngoắt ngoéo quanh co, nào ai biết được nẻo nào mà dấn
bước? Ta đi tìm cho dân tộc ta một thành Paris, nhưng số phận lại dẫn ta đến Mạc-tư-khoa
băng giá. Ta đi theo ngọn gió phương tây, nhưng định mệnh lại xua đuổi ta quay
về bờ biển phương đông. Suốt đời ta, những ngẫu nhiên tác tạo và xô đẩy. Kiếp
người phải chăng cũng chỉ là bèo dạt mây trôi?...
Một nước Pháp của Đi-đơ-rô và Voltaire mở cánh cửa gọi ta bước
vào. Một nước Pháp khác của các quan chức đội mũ cao ống, mặc áo nhấn hai hàng
khuy vàng đóng sập cánh cửa đó trước mũi ta như gia nhân một lâu đài đóng sập
cánh cửa trước tên hành khất. Những dân tộc nhược tiểu và nô lệ bị xua đuổi khắp
các nẻo đường kiếm tìm hạnh phúc, và con dốc lát đá duy nhất mời đón những bước
chân của họ lại chính là con dốc dẫn thẳng xuống địa ngục. Khi ta hiểu ra điều
đó thì mọi sự đã muộn mằn.
Cái địa ngục đó giờ đây chẳng còn hồ nghi nữa. Nhưng không kẻ
nào đủ lòng ăn năn và sự can đảm để mở mắt nhìn vào. Ông nhớ cảm giác choáng
váng khi lần đầu thấy dân chúng xếp hàng lũ lượt như rồng rắn chờ mua thực phẩm.
Xe ông gắn kính đen, không ai biết được sự hiện diện của ông. Xe lướt rất nhanh
nhưng cũng đủ thời gian để ông nhìn rõ đám dân đen. Và cảnh tượng khổ não ấy đập
vào cân não ông như nhát búa. Năm đó, con tim ông đang còn tưng bừng khúc hát «
Tiến về thủ đô ». Hai năm chưa đủ làm phai nhạt những vàng son của vinh quang
và chưa làm nguội những cơn sôi sục trong huyết mạch. Bận rộn, ông không có thời
giờ vi hành. Quãng thời gian tằn tiện bòn mót được ông dành dụm cho nàng nhưng
các cuộc gặp gỡ của họ bao giờ cũng vào lúc quá nửa đêm, thông thường sau mười
hai rưỡi hoặc một giờ, khi xe ông lướt qua phố xá, mọi sinh hoạt của dân chúng
dường như đã kết thúc. Sớm hôm đó, ông hẹn làm việc với một giáo sư lịch sử ngoại
quốc. Vì đề tài liên quan đến viện bảo tàng quốc gia nên ông đề nghị điểm hẹn ở
ngay nhà bảo tàng. Rồi ông yêu cầu lái xe chọn một lộ trình mới để ông có dịp
nhìn phố xá. Đó chính là cơ hội đầu tiên kể từ ngày rời chiến khu về thành phố
ông chứng kiến cảnh sinh hoạt của dân. Cảnh tượng không mỹ miều hay lạc quan
như ông từng mường tượng. Đám đông hiện lên trước ông, bằng xương bằng thịt,
chen chúc, bấn loạn, như đàn cừu trên lối dồn trở lại chuồng. Những gương mặt đập
vào thị giác ông là những gương mặt võ vàng đói khát; những gương mặt lầm lụi tối
tăm, những gương mặt u uất vì nhẫn nhịn, nhục nhã; những gương mặt kinh hoảng
vì bị dồn ép dưới những cảm xúc của sợ hãi, chờ đợi, đau khổ, căm thù. Đấy
chính là gương mặt của những kẻ đang đứng mấp mé trên ngưỡng cửa bước vào các bệnh
viện thần kinh.
Cố gìm giữ cơn thảng thốt, ông lấy giọng thản nhiên hỏi lái
xe:
- Gia đình chú có phải xếp hàng mua gạo như thế kia không?
Anh ta trả lời tức thì, với nỗi hân hoan không che giấu:
- Thưa chủ tịch, rất may mắn là gia đình chúng con thuộc diện
ưu tiên. Nhà nước đem gạo và thực phẩm tới tận cơ quan phục vụ.
- Những ai thuộc diện được ưu đãi như vậy?
- Thưa chủ tịch, tất thảy những ai trực thuộc bộ máy văn
phòng chính phủ hoặc ban quản trị trung ương đảng. Ngoài ra là các bộ phận đặc
biệt thuộc các bộ đặc biệt như bộ nội vụ, bộ quốc phòng...và trước
hết là bộ thương mại và thực phẩm vì đó chính là đất sở tại của
họ. Nhân viên thuộc các bộ ấy được coi như con vua cháu chúa thời xưa.
- Thế nào là con vua cháu chúa?
- Thưa người, câu nói đó hàm ý là họ có quyền hưởng thụ ở mức
cao nhất. Cùng một thứ sổ gạo nhưng họ được ăn gạo mùa mới, còn thơm phức mùi
cám ; trong khi dân chúng phải ăn gạo mục vì nhà nước chỉ bán cho dân những thứ
gạo đã qua năm sáu mùa lưu cữu trong kho. Cùng là thịt, nhưng những phần ngon họ
lấy trước, còn thịt bụng, thịt mỡ, đầu lợn, họ đem bán cho dân. Nếu không thuộc
diện ưu tiên có kiếm được miếng thịt cũng nhục nhã như tù khổ sai đi đập đá vậy.
Anh cả của con làm việc trong thư viện quốc gia, cán bộ cấp lãnh đạo nên mỗi
tháng được mua năm lạng thịt. Tháng một lần, vợ anh ấy phải dậy từ ba giờ sáng
ra chợ Hôm xếp hàng mua. Nhưng lần nào cũng đến non trưa mới trở về nhà, mà lần
nào cũng toàn xỏ lợn với thịt bụng vì đám mậu dich viên tuồn thịt bên trong quầy
cho người nhà và các cơ quan có mặt hàng đổi chác, ví như các cửa hàng bán gạo,
bán vải, đường sữa hoặc nhu yếu phẩm khác. Khi đã thoả mãn tất cả những cuộc
trao đổi lợi quyền như vậy, họ mới nhìn ngó đến dân.
- Tại sao các cán bộ lãnh đạo nhà nước không hay biết chuyện
này?
- Dạ.
Người lái xe ấp úng. Anh ta đưa mắt liếc ông rất nhanh, vừa
như thăm dò vừa như ngờ vực. Và ông biết rằng ông đã buông ra một câu hỏi vô
cùng xuẩn ngốc.
- Có thể là các đồng chí ấy đã biết nhưng chưa đủ thời gian
báo cáo lên trên.
Ông tự trả lời. Và anh chàng lái xe vội đáp theo:
- Thưa chủ tịch, đúng là như thế.
Đêm hôm đó, ông ngồi nhìn trăng. Nỗi phân vân khiến ông không
ngủ được. Trước mắt ông là vành trăng lưỡi liềm điêu bạc như lá lúa. Dường như
nó không toả ra một chút ánh sáng nào. Lũ đom đóm lập loè trên bãi cỏ còn rực rỡ
muôn phần hơn nó. Ông nhìn vầng trăng ấy, liên tưởng đến sự suy tàn của mọi sự
vật:
« Cuộc đời vốn là cuộc vận hành bất tận, từ nương dâu biến
thành bãi biển, con người từ hư vô đến rồi lại quay về với hư vô. Nhưng cớ sao
ta bỗng buồn thảm nhường này? Phải chăng vành trăng chết lụi kia có liên quan
ngầm ẩn nào đó với số phận của quốc gia? Và nó chính là điềm báo triệu cho một
sự sụp đổ không chóng thì chày, một kết thúc buộc phải đến? »
Ý nghĩ đó như lưỡi dao bén của đao phủ gại trên cổ ông, kẻ sẽ
bị hành quyết không chầy thì chóng. Ông bỗng thấy buốt lạnh sống lưng. Trước mắt
ông lại hiện lên đám đông đói khát, nhục nhằn và bấn loạn chen chúc nhau trước
quầy bán gạo. Ông nhìn thấy những cánh tay vươn lên, giằng giật huých đẩy nhau;
những cặp mắt trợn ngược tròng, những cần cổ vươn dài về phía khuôn cửa chắn
dóng sắt với tất thảy sự chú tâm điên cuồng của loài thú dữ lao về phía con mồi
trong nỗi thúc bách của cơn đói. Chao ôi, đó là những đồng bào của ông, những
công dân trong cái xã hội mà ông là người khai sinh, những con người mà vì họ
ông đã nuôi giấc mộng giải phóng. Đó là ảo ảnh hay sự thật? Phải chăng mọi cố gắng
của ông chỉ là sự lầm tưởng và cái hiện thực này chính là bóng lâu đài soi trên
mặt nước dòng sông ma? Ông tự hỏi rồi không dám tự trả lời. Nỗi hãi hùng quây
chụp trí não. Những gương mặt ông nhìn thấy buổi sáng chỉ còn là những tấm
gương phản chiếu cuộc sống của một bầy súc vật bị ngược đãi hoặc trạng thái
tinh thần của những kẻ nhiễu tâm. Nếu không là những con bệnh tâm thần ắt phải
là đám cừu chen chúc bên máng cỏ. Con người bị đầy ải vì miếng ăn. Con người
không còn cảm thấy nhục nhã nữa sẽ chỉ còn là con vật trong chuồng chờ đến giờ
vục đầu xuống máng. Còn nếu con người biết phẫn nộ, hẳn họ sẽ nuôi lòng thù hận,
chờ phút thuận tiện để cắt cổ những tên chúa ngục. Những kẻ giam cầm họ trong
kiếp súc sinh.
Ôi, cái chế độ mà ông ra công gây dựng cuối cùng chỉ là một
chuồng cừu vĩ đại hay sao? Hay nó chính là một trại giam khổng lồ, nơi giam hãm
con người trong những nhu cầu vật chất hạ cấp nhất, nơi thực thi một cuộc hành
xác tập thể, nơi ngự trị một sự tự sỉ nhục có tính triệt để và đại chúng, nơi
đào luyện ra nếu không phải những con bò cúi đầu trước bó cỏ thì sẽ là những
tên trộm cướp, những kẻ bị rối loạn nhân cách hoặc nhiễu tâm? Không có cách
phân tích nào khác. Và nếu không có cách giải thích nào khác, cái xã hội hiện
hành chính là sự thụt lùi bất khả hình dung so với cái xã hội đau khổ thời xưa.
Chao ơi, bao nhiêu con người đã hy sinh, bao nhiêu tài sản đã
hao tán, thiêu huỷ, bao nhiêu nỗi gian truân dân tộc của ông đã phải trải nghiệm
để sau cùng nó lãnh nhận một cuộc sống dã man như vậy hay sao? Nếu vậy thì cuộc
cách mạng này là cuộc phiêu lưu rủi ro nhất trong các cuộc phiêu lưu của kiếp
người. Và nếu vậy, cuộc đời ông là một sự thảm bại không gì có thể so sánh.
Da ông nổi gai ốc. Những cơn buốt lạnh chạy dọc sống lưng khiến
ông không kìm được tiếng kêu. Nhưng ngay lúc đó, cần vụ lẫn bác sĩ đã chạy vào.
Ông buộc phải bịa ra một cơn đau thể chất để đánh lừa họ.
Vào cuộc họp của bộ chính trị ngay sau đó, ông yêu cầu lật lại
chính sách kinh tế để tìm phương sách cứu vãn tình thế. Ông nhấn mạnh ý nghĩa của
hai từ: Hạnh phúc. Mọi cuộc giải phóng không có ý nghĩa nếu nó không làm cho
con người hạnh phúc hơn. Mọi cuộc cách mạng cũng chỉ là trò tiêu khiển rồ dại
và tàn ác nếu nó không đem cho con người tự do và cuộc sống xứng đáng. Độc lập
cũng thế thôi. Độc lập không có mảy may giá trị nếu những dân cư của một nước độc
lập lại không thể độc lập với những nhu cầu thiết yếu nhất của sinh tồn, giống
những con bò không thể độc lập với mớ cỏ.
Không ai phản đối ông.
Nhưng cũng không ai nghe ông nói cho dù họ vẫn ngồi quanh chiếc
bàn đồ sộ, và với ông làm đủ con số mười ba. Ông hiểu điều đó khi nhìn những cặp
mắt lơ đãng của họ, những ngón tay gẩy tàn thuốc không mệt mỏi hay xoay tròn
chiếc bật lửa một cách nhẹ nhàng và kiên nhẫn. Hôm qua, họ còn là những chiến
sĩ tranh đấu cho một lý tưởng. Giờ đây, họ đang ngồi tính những con tính khác.
Cuộc chiến tranh hôm qua đã kết thúc. Hôm nay là lúc các tướng lãnh chia phần
xôi thịt trong dinh. Hôm qua ở trên rừng tất cả đều nhận một xuất cơm và một
góc suối, không có gì để so đo, chẳng có chi để tính toán. Hôm nay, sự vật xoay
vần bởi nếu biệt thự của anh lớn hơn biệt thự của tôi cả ích lợi vật chất lẫn
danh tiếng của tôi trước mắt tha nhân sẽ bị thuyên giảm. Ngôi thứ của mỗi kẻ ngồi
đây sẽ kèm theo muôn vạn quyền lợi đo đếm được và không đo đếm được ảnh hưởng đến
cả một tập đoàn những kẻ dưới trướng trong phủ và những người cùng huyết tộc. Họ
không còn quan tâm đến những điều ông quan tâm vì lợi ích của cá nhân bao giờ
cũng là thứ gần gũi nhất và là cám dỗ lớn nhất với con người. Những dằn vặt của
ông giờ đây, với họ trở nên nhạt nhẽo hoặc bất khả tri. Cả một bộ máy phục vụ bản
thân họ cũng như gia đình họ bất kể thời gian và vô giới hạn. Họ sống hoàn toàn
theo nguyên tắc vàng của chủ nghĩa cộng sản. Nguyên tắc đó chỉ dành riêng cho một
nhóm người và loại trừ cả một dân tộc, một dân tộc cừu bò đang chen chúc nhau
chờ những bó cỏ ngoài kia.
Ông nhắc lại lần thứ hai, rồi lần thứ ba. Không ai phản đối.
Không ai đáp lời. Không ai có nhu cầu tranh luận. Rồi sau đó là giờ giải lao.
Sau đó một vấn đề khác được đề cập tới, thiết thực hơn, cụ thể hơn nỗi nhục nhằn
đau khổ của nhân dân. Nỗi đau khổ của kẻ khác bao giờ cũng mơ hồ và khó cảm nhận.
Nỗi đau khổ của nhân dân lại càng mơ hồ và khó cảm nhận hơn. Bởi nhân dân là thứ
vô hình vô dạng, không có chân để chạy, không có cánh để bay, không có mỏ để
hót. Độc lập không còn là một khát vọng lớn lao của một dân tộc nô lệ và đau khổ
mà chỉ còn là một chiến lợi phẩm cụ thể, giống như một con lợn rừng bị hạ dưới
ngọn lao của thợ săn. Chừng ấy thịt da chỉ đủ chia cho những kẻ biết cầm lao, cầm
mác còn đám đông đứng ngoài hội phường săn là đám chúng sinh ăn chực chầu rìa.
Ông hiểu rằng khi cần thiết, con người trở nên câm và điếc một cách dễ dàng.
Cũng dễ dàng trở nên tàn nhẫn. Họ, những kẻ quây quần quanh ông, chia chác phần
thịt của con lợn rừng vừa bị hạ...Họ trở thành xa lạ với ông. Ông trở thành khó
hiểu với họ. Lục địa đã nứt đôi, họ đứng một bờ còn ông bờ khác. Đó là lần đầu
tiên ông hiểu sự rạn vỡ của những mối quan hệ thường gọi là đồng chí hay huynh
đệ. Những sợi dây gắn bó có thể dệt hàng chục năm hay lâu hơn nữa. Sự phân ly xảy
ra chỉ trong khoảnh khắc, khi nhát kiếm hạ xuống. Nhát kiếm của quyền lực. Trước
nó, mọi sợi dây tương thân tương ái chỉ là mớ tơ nhện mong manh.
― Lẽ ra, ta phải hiểu sự tình từ ngày ấy. Phải xoay nước cờ từ
ngày ấy. Nhưng ta là kẻ chậm chân nên bị dòng lũ cuốn đi.
― Ồ, nhưng bọn họ quá đông còn ta đơn chiếc. Và thảm hại thay
ta phải thuận tình theo họ bởi tin rằng sự thoả hiệp đó cứu vãn được đại sự. Rằng
nếu ta vì họ mà hy sinh thì chắc chắn họ phải vì đại nghĩa mà quên đi những
tham vọng riêng tư. Sự ngu xuẩn là ở đó. Nước cờ vào thế bí. Họ lợi dụng sự thoả
hiệp này để nhấn ta vào hậu cung.
« Nhưng gốc rễ sự thất bại này nằm ở nơi đâu? Sự ngu xuẩn của
chính ta hay con đường ngoắt ngoéo của định mệnh? Ta đi cùng họ trên một con
tàu để rồi khi đến bờ bên kia đại dương thì một mình ta ở lại trên cô đảo? Hoặc
bản chất ta là con sói lẻ bầy nên bất cứ cuộc tụ hợp nào cũng chẳng bền lâu?»
Phải chăng và phải chăng....
Những câu hỏi không ngừng quần đảo ông.
Con tim già mệt mỏi của ông thổn thức.
Mây trắng vẫn trôi không ngừng trên đỉnh Lan Vu. Trôi không
ngừng mùa tuyết Paris và những hồi quang của một tuổi xuân xa ngái. Óc não ông
khoan xoáy bởi những nghi vấn. Rồi lát sau, con tim buồn nhớ của ông chợt quay
về thành phố phương tây, nơi vĩnh định một liên kết thầm kín, nơi ghi khắc mãi
mãi những khát vọng yêu đương và những cuộc tình chết yểu. Nơi tâm hồn ông ở lại
như ngôi nhà côi cút trên bãi biển hoang sau những ngày hè náo nhiệt khách vãng
lai. Paris! thật lạ lùng là khi rời xa nó, ông đã ngoái nhìn lại như nhìn một
quán trọ ; vậy mà giờ đây thành phố ấy hiển hiện lên trong trái tim ông như hải
cảng cuối cùng mời mọc kẻ lữ hành. Ông nhớ những giảng đường, nơi ông thường đi
qua với một nỗi ước ao tuyệt vọng. Ông nhớ những con chim câu dạo quanh căn gác
xép nơi ông trú ngụ và tiếng gù của chúng vào lúc xuân sang. Ông nhớ một đứa
con thiếu vắng bởi sau khi ông rời xa căn ngõ hẻm sát phố Saint John sáu tháng,
một đứa bé đã ra đời. Một đứa con gái, được đặt một cái tên vô cùng thông dụng
trên đất Pháp, Louise. Ông không ngờ rằng những đêm chăn gối với cô thợ mũ đã để
lại trái cấm. Một sự sao nhãng ngu xuẩn. Phải chờ bẩy năm sau, nhờ một cuộc gặp
ngẫu nhiên trên đường ông mới biết được sự thật. Ông hiểu rằng đó chỉ là trái
cây không chờ đợi của những cơn điên cuồng thân xác. Nhưng dẫu sao, đứa bé ấy vẫn
mang dòng máu của ông, của chính ông. Ông dùng dắng nhiều lần, định quay lại
nơi ngõ cũ, tìm gặp cô thợ mũ và Louise. Nhưng trong túi ông không đủ tiền để
mua cho con gái một món quà xứng đáng. Và rồi, cơn lốc phiêu dạt của cách mạng
cuốn ông đi. Sau rốt, ông chưa từng mua cho con ông một chiếc váy, một đôi giầy.
Ông chưa từng bồng con bé lên tay và nhìn vào đôi mắt nó.
« Giờ này nó đã trở thành một người đàn bà, chắc chắn. Hẳn nó
đã có chồng con. Có bao giờ nó lục tìm hình ảnh một người cha vắng bóng? Có bao
giờ nó nuôi ý định tìm về Việt nam, miền nhiệt đới xa xôi, để nhìn ngó một thứ
người xa lạ nhưng ràng buộc với nó bởi sợi dây huyết mạch? Hoặc nó đã quên ta
hoàn toàn trước khi biết ta, một sự quên lãng cố tình?
Ý nghĩ đó khiến ông tê tái. Ông rờ ấm trà, muốn uống một ngụm
nhưng nước đã nguội. Gương mặt ông hiện lên trên mặt bàn gỗ bóng láng như
gương. Ông cúi nhìn cái bóng của mình. Nhìn lặng lẽ. Một tiếng nói thầm thì cất
lên trong tâm tư:
"Gã đàn ông này là kẻ làm cha tồi bại nhất trên trái đất.
Rồi mai đây, ngươi sẽ phải đối mặt với những người ruột thịt trước pháp đình tối
cao của con tim. Cuộc cách mạng mùa thu rồi sẽ chìm mất tăm trong dòng chảy triền
miên của lịch sử như tất thảy những cuộc cách mạng khác. Giống như những trận động
đất, những cơn sóng thần và những trận lôi đình khạc lửa của các hoả diệm sơn.
Thời gian sẽ xoá đi mọi dấu vết. Mọi vương miện đều sẽ rách nát cùng với tháng
năm. Mọi ảo tưởng về vinh quang rồi sẽ tan vỡ như vầng trăng trên dòng sông u tịch
của các nhà thơ thời trung cổ. Nhưng pháp đình của con tim sẽ mãi mãi dựng lên
trên cõi đất của cuộc đời thế tục và pháp đình ấy cũng sẽ mãi mãi dựng lên bên
kia bờ con sông Mê, nơi linh hồn những kẻ ra đi chen chúc trên những con thuyền
kết bằng tro bụi, với cặp mắt rỗng và ba đồng xu đặt trên chiếc lưỡi lặng
câm."
Một tấm lưới vô hình thít chặt lấy chủ tịch khiến ông như ngạt
thở.
Đầu ông buốt lạnh trong khi gan ruột bỏng rát như bị lửa
rang. Ông nghĩ rằng đây là cơn đau đớn của riêng ông, một mình ông. Bởi là người
duy vật, ông không tin vào chuyện thần giao cách cảm. Từ trước tới nay, ông chỉ
biết một thế giới hữu hình, chỉ coi là sự thực những gì tác động vào các giác
quan, cũng như số đông người.
Tuy nhiên, cơn đau đớn của chủ tịch lại chính là kết quả của
sự cộng hưởng với một nỗi đau đớn khác. Bởi trên mảnh đất này còn có một kiếp
đoạ đầy khác. Một kẻ vô danh. Một người mà ông không còn nhớ tên và cũng chưa
bao giờ biết mặt. Một cái bóng của hư vô. Nhưng cái bóng đó vẫn luôn luôn là một
sinh thể bằng xương bằng thịt. Sinh thể ấy không ngừng nghĩ về ông. Kẻ bất hạnh
ấy liên kết với ông bởi một số phận oái oăm, một nỗi đau khổ trường kỳ và một
cuộc săn đuổi tàn khốc. Nhưng sự đỏng đảnh của số phận lại muốn rằng tất thảy
những gì xảy ra với anh ta phải nằm trong bóng tối, bên ngoài vùng hiểu biết
cũng như trí tưởng tượng của ông.
NGƯỜI ANH EM ĐỒNG HAO KHÔNG BIẾT MẶT
Theo thông báo của ban chỉ huy sư đoàn, bảy giờ tối chương
trình biểu diễn mới bắt đầu. Nhưng bữa cơm chiều đã xê dịch từ bốn rưỡi lên ba
giờ rưỡi, và cơm nước xong lính tráng đã kéo lên đầy trước sân khấu, nhốn nháo
chuyện trò, nhốn nháo chờ đợi, với tất cả vẻ hăm hở của đám đàn ông từ lâu thiếu
vắng bóng đàn bà. Mấy anh chàng háu ăn còn cầm trong tay tảng cháy to tướng vừa
gặm vừa ngong ngóng nhìn lên mớ phông màn như muốn tìm sau những tấm vải màu
loè loẹt ấy hình bóng « công chúa của lòng anh ». Các công chúa mộng tưởng đang
còn ngủ trong hầm ban chỉ huy, phần vì mệt mỏi sau quãng đường dài, phần vì
nàng nào cũng có nước da xanh rờn và làn môi trắng nhợt vì sốt rét nên chẳng ai
muốn lộ diện trước khi son phấn. Các nàng đang còn nằm cuộn lấy nhau như đám
sâu tằm trên ván, cố chợp mắt thêm một vài giờ trước khi lên sân khấu. Ban chỉ
huy sư đoàn hẹn sẽ đánh thức các cô lúc năm rưỡi. Nhưng chưa đến năm giờ, lính
tráng đã hò hét ầm ầm bên ngoài:
- Các nàng tiên ơi, ngủ làm gì nhiều thế? Mấy năm trời mới được
gặp mặt nhau ai mà nỡ quay mặt vào tường ngủ hoài như vậy?
- Các cô em ơi, dậy đi thôi. Mong mãi mới tới ngày hôm nay.
- Các nàng công chúa đâu rồi?Cho chúng tôi được chiêm ngưỡng
dung nhan một chút?
Những tiếng gọi, tiếng kêu, tiếng cười đùa mỗi lúc mỗi ầm ĩ vọng
xuống hầm khiến các cô không thể nằm lì, đành ngồi dậy. Cô nào cô nấy ngáp lên
ngáp xuống đến sái quai hàm. Trợ lý của sư đoàn trưởng hắng giọng một hồi rồi
chui vào hầm, nghiêng đầu ngoẹo cổ nói:
- Xin chị em thông cảm, lính tráng lâu ngày quá không nhìn thấy
bóng phụ nữ. Đã hơn ba năm trời trên không cử các đoàn văn công tới đây.
Cô đoàn phó đáp:
- Chúng em đi đến đâu cũng vậy, anh không cần băn khoăn. Chiến
trường quá rộng, các đoàn không đủ để phục vụ.
- Cảm ơn, được chị em thể tất là đại may mắn cho sư đoàn. Giờ,
tổ anh nuôi mang cơm đến cho chị em dùng bữa rồi hoá trang kẻo muộn.
- Trưởng đoàn đâu rồi?
- Trưởng đoàn đã dùng bữa với ban chỉ huy ngoài kia. Các nam
diễn viên cũng vậy.
Đoàn phó quay lại hét quân:
- Đã thấy chưa? Riêng chúng ta được ưu tiên ngủ nướng. Mọi
người đã cơm nước xong đang lo bố trí phông màn. Còn ai muốn ngáp thì ngáp cho
đã thèm rồi chuẩn bị ăn cơm.
Các cô chưa kịp đáp lời tổ anh nuôi đã lóp ngóp chui vào, lục
cục xoong nồi với các loại ga-men quân dụng. Anh nào anh nấy hí hửng như bắt được
vàng. Họ được ưu tiên gặp các cô trước tiên, mà lại gặp khi chưa son phấn,
không nói cũng biết được sự thân tình, giống như khách lạ thì được tiếp ở
sa-lông, còn khách thân quen hay họ hàng thì được quyền chui vào bếp:
- Hôm nay chúng tôi đặc biệt làm món nộm rau chuối thịt gà và
nấu chè đỗ xanh đãi các cô nương. Sư đoàn phải cử người vào bản Vân-kiều từ tuần
trước mua gà, mua đỗ. Chúc các nàng tiên ăn ngon miệng.
- Cảm ơn các anh. Ăn chè này đêm nay múa chắc dẻo tay hơn.
Các cô xúm lại ăn cơm trong khi ba chàng cấp dưỡng ngồi chầu
xung quanh, anh xới cơm, anh đơm chè, anh thứ ba hấp háy mắt và ngoác mồm ra cười
một nụ cười vô duyên cớ. Trợ lý sư đoàn đứng trong góc hầm, chẳng có việc gì
làm nhưng cũng không muốn đi ra sớm hơn ba gã lính nuôi quân, nên vờ rút trong
túi ra cuốn sổ tay, xem đi xem lại. Cơm nước xong, ba chàng nuôi quân lễ mễ thu
dọn bát đĩa đem đi. Trước khi quay ra còn hẹn là đêm nay, sau khi biểu diễn sẽ
có cháo gà đãi khách quý. Hẳn là những con gà này đã được đổi bằng lương khô
hay gạo cho dân bản Vân-kiều. Trợ lý sư đoàn liếc đồng hồ rồi hỏi:
- Lúc này đã năm giờ hai mươi phút. Liệu chị em cần bao lâu để
hoá trang và thay áo quần?
- Hai mươi lăm phút, không hơn.
- Hoan hô. Tôi sẽ thông báo cho anh em biết.
Anh ta chui khỏi hầm. Chưa đầy chớp mắt đã nghe tiếng vỗ tay,
tiếng hét ầm ĩ của lính bên trên.
Đoàn phó tủm tỉm cười:
- Lính sư này ngầu thật.
Một cô đáp:
- Toàn dân Bắc mà lại.
- Đúng rồi.
Cô thứ hai tiếp lời:
- Họ chờ đợi chúng ta vì vừa muốn xem biểu diễn vừa muốn gặp
đồng hương. Nghe nói đoàn văn công tới đây phục vụ mấy năm trước là đoàn Dân ca
liên khu năm.
- Liên khu năm ở đâu nhỉ?
- Rõ là dốt, phục vụ quân đội năm sáu năm mà không phân biệt
được các quân khu.
- Ai hơi đâu mà biết. Trên bảo đâu thì đi đấy. Lối nào cũng
chỉ thấy suối với rừng...Hết rừng đến suối, hết suối lại rừng, hết bản Vân kiều
lại đến bản Lào nưng, Lào thọng. Nơi nào cũng chỉ nhăm nhăm trông vào cái gậy của
giao liên mà bước.
- Ờ, tao cũng thế, chẳng biết liên khu là cái gì. Đi đâu cũng
chỉ nhìn vào lưng hay vào mông của người đi trước.
- Mông còn là may. Chúng mày không nhớ hồi leo núi Khỉ đái
hay sao? Dốc dựng như tai mèo, gót chân thằng đi trước chạm vào đỉnh đầu thằng
đi sau, lấy đâu mà nhìn mông với đít?
- Ờ, trận ấy khiếp thật. Mây quấn lấy mắt, leo núi mà rờ rẫm
như thằng mù. Phúc đức tổ tiên nên không đứa nào rơi xuống vực.
Các cô chưa kịp thay quần áo xong đã nghe trợ lý sư đoàn hắng
giọng bên ngoài. Đoàn phó nói với lên:
- Đúng bẩy phút nữa.
Đoạn quay lại bảo chị em:
- Nhanh tay lên. Lính nhảy cỡn lên trên kia rồi. Chắc sư đoàn
này bị tù lâu quá trong rừng sâu, không thoáng khí như sư đoàn trước.
- Đúng đấy. Lần trước lính tráng không hò hét loạn xị như hôm
nay.
- Thì đã bảo là họ bị nhốt trong sâu lâu quá.
- Đây là đâu vậy?
- Biết được. Nhưng nghe đoàn trưởng nói mình đang ở trên đất
Lào. Mà là vùng xa vùng sâu trên đất Lào.
- Thế hả? Bốn bề mịt mù những rừng với núi. Bọn mình mà bị lạc
chắc chết rũ xương ở đây, chẳng thể tìm được lối quay về.
- Chắc chắn là vậy. Nhưng sống chết có số, lo gì. Bao giờ
lính chết hết bọn mình mới phải chịu số phận hẩm hiu như thế. Văn công là mì
chính cánh, là vàng ròng của chiến tranh. Không ai để cho chúng ta thất lạc.
Các nàng trang điểm và diện đồ biểu diễn xong nối đuôi nhau
chui khỏi hầm. Lính tráng đứng chen chúc hai bên từ cửa hầm cho đến tận sân khấu
vỗ tay ran ran, hò hét loạn xạ:
- Các nàng tiên xinh đẹp, nói lên vài câu cho anh em nghe giọng
Bắc.
Phó đoàn lúng liếng cười và hỏi:
- Biết nói gì bây giờ nhỉ?
Thế là đám lính nhao nhao, tranh cướp nhau trả lời:
- Nói bất cứ câu nào...Hoặc kêu to lên cũng được.
- Em ơi, chúng tôi là dân Hải Hưng. Em chỉ cần kêu to lên hai
tiếng: Hải Hưng ơi!...Thế là đủ mát dạ lính tráng.
- Gọi riêng Hải Hưng nhà chúng mày, thế còn Hà nội, Hà Tây,
Hà bắc, Vĩnh phú nhà chúng tao thì vứt cho chó nhá à?Thằng này đúng là quân ích
kỉ.
- Hải phòng nữa chứ? Thành phố hoa phượng đỏ mà bị bỏ quên
thì bom Mỹ sẽ giáng xuống đầu cả bọn.
- Thôi, không phải cãi nhau nữa. Chị em ơi, cứ chửi cha chúng
nó lên một câu cũng được.
Rồi các cánh tay vươn ra sờ vào vai vào áo, ve vuốt đuôi tóc
của các nàng. Họ đi đến đâu, lính tráng cuốn theo đến đấy. Ban chỉ huy sư đoàn
đứng phía xa, tủm tỉm cười, quan sát cảnh tượng với con mắt thèm thuồng không
che giấu. Tuy nhiên, là lãnh đạo, họ phải biết dằn lòng, dù muốn hay không.
Theo thông lệ, các cô chia thành từng tốp nhỏ, mỗi tốp hai ba cô để hàn huyên với
lính, trước khi biểu diễn. Lần này cách thức đó xem ra bất ổn vì sư đoàn vừa được
bổ sung quân nên vượt số khung. Cả một ngàn lính đứng chen nhau tầng tầng lớp lớp.
Đoàn phó ra lệnh:
- Đông thế này không thể nào tâm tình cho xuể. Tôi đề nghị chị
em chia theo địa phương, hát phục vụ binh lính ngoài chương trình chính thức. Tổ
nhạc công cũng sẽ chia theo.
Được lời, các vị lãnh đạo ban đồng hương hò hét loạn xị:
- Hải Hưng đâu? Đi theo tôi về phía trái sân khấu, ngay sát
chân cột loa phóng thanh.
- Hà nội đâu? Lính thủ đô rút về phía sau sân khấu, xếp hàng
lối cho có trật tự.
- Hà Tây quê lụa đâu, tập trung sát cánh quân Hà nội, phía
bên phải hậu trường.
Đám lính tập hợp theo địa phương, anh nọ gọi anh kia, ồn ào
hơn chợ vỡ. Đội phó đoàn văn công khoa chân múa tay với tốp nhạc công, chắc hẳn
để thương lượng trước một cuộc lao động căng thẳng. Rồi sau đó, người ta thấy kẻ
ôm đàn phong cầm, người cầm ghi-ta hay măng-đô-lin, người mang sáo mang tiêu lần
lượt tản vào các nhóm lẻ. Cảnh tượng đó đem lại một sắc thái tưng bừng kì lạ
cho khu rừng, vốn bình thường chỉ có tiếng gió rung cây, tiếng mưa bẻ lá, tiếng
lính trò chuyện hay cãi lộn, hoặc tiếng bom dội.
°
Đại đội trưởng An đứng bần thần nhìn đám đông vui vẻ ấy, chợt
ai đó vỗ vai anh:
- Cậu không tìm được đồng hương Lạng sơn ở đây sao?
Tiểu đoàn trưởng đã đứng sát lưng An, tủm tỉm cười sau cặp
kính cận dày như trôn chén.
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, ở đây tôi đơn thương độc mã.
- Bên tiểu đoàn hai cũng có mấy anh Tày mà?
- Báo cáo, họ là dân Tày Cao- Bằng, sát biên giới. Tôi chưa
bao giờ đặt chân lên đất họ mà họ cũng chưa bao giờ xuống Lạng sơn, để thăm
vùng Đồng Mỏ quê tôi.
- Ra thế. Cùng là dân Tày cả mà thông thổ khác nhau, tập tục
cũng khác nhau. Nhưng tôi là dân Kinh, tôi không thể phân biệt được ai là Tày Lạng
sơn, ai là Tày Cao bằng. Tôi thấy các đồng chí đều có những nét tương tự.
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, sự khác biệt không nhiều. Nhưng
vì các hội đồng hương được chỉ đạo theo đơn vị tỉnh nên chúng tôi không có lý
do thành lập hội người Tày trong đơn vị.
- Nguyên tắc ấy là chính xác. Bởi chúng ta không thể cho phép
sự phân biệt tồn tại giữa các dân tộc trong lòng một đất nước, giữa những con
người cùng mang chung một quốc tịch Việt nam.
- Vâng. Tôi hiểu.
Tiểu đoàn trưởng Nhã rút thuốc lá mời anh, và họ cùng phì
phèo nhả khói. Phía sân khấu, trợ lý sư đoàn trưởng đang đứng ngó nghiếng bốn
phía, tay cầm loa phóng tay, tay cầm sổ. Đúng khoảnh khắc thuận tiện, khi các
bài hát tạm ngừng, anh ta giương loa lên gào:
- Alô, alô....Xin các đồng chí chú ý. Chương trình biểu diễn
sẽ lui lại một giờ rưỡi, có nghĩa là sân khấu sẽ mở màn vào lúc tám giờ rưỡi vì
lý do đột xuất: Chúng ta phải chờ tiểu đoàn 209 vừa được bổ sung từ miền Bắc
vào, đang đóng quân bên kia núi Gấu trúc. Họ không trực thuộc sư đoàn chúng ta
mà tác chiến độc lập. Tuy nhiên, vì cùng một chiến trường chúng ta có nghĩa vụ
chờ đợi anh em để thưởng thức chương trình văn nghệ đêm nay. Trong lúc chờ đợi,
đoàn văn công sẽ tiếp tục biểu diễn lẻ theo yêu cầu của các hội đồng hương kết
hợp với sự tham gia của các cây văn nghệ trong đơn vị.
Nghe tới đó, lính tráng nhảy cỡn lên, hò hét vang rừng núi:
- Hoan hô....Hoan hô....
- Ban chỉ huy sư đoàn cứ cho hoãn đến nửa đêm cũng được. Hoãn
càng lâu càng tốt.
- Đêm nay sẽ là đêm tuyệt vời nhất từ ba năm nay. Ai có bài tủ
thì dọn giọng sẵn đi. Chúng ta sẽ có đàn đệm và cây nhà lá vườn sẽ được dịp trổ
tài.
Tiểu đoàn trưởng Nhã hỏi An:
- Đồng chí có biết hát không?
- Dạ, tôi hoàn toàn ngu dốt trong lĩnh vực này.
- Tôi cũng thế. Chúng ta có thể tranh thủ ngả lưng cho đến
lúc sân khấu mở màn. Ít nhất cũng còn hai tiếng rưỡi.
Chính lúc đó, sư đoàn trưởng tiến về phía họ, oang oang cảnh
báo:
- Trông điệu bộ các cậu, tôi ngờ rằng các cậu sắp chuồn khỏi
đây. Mấy khi được dịp vui mà bỏ phí hoài?
- Báo cáo sư trưởng, tôi vốn không biết hát, mà tuổi cũng đã
ngót nghét ngũ tuần, xương sống hơi bị yếu.
- Vậy tôi trẻ hơn đồng chí hay sao?
Sư trưởng vặn lại. Quả tình, sư trưởng hơn tiểu đoàn trưởng
Nhã dăm tuổi nhưng vốn gốc gác dân chài, năng lượng trong ông còn rất dồi dào.
Dẫu chiến tranh và năm tháng tàn phá, ông vẫn giữ được những bắp thịt săn chắc.
Vai ông ngang và rộng nhưng vì thiếu chiều cao, thân hình ông gần như một khối
vuông. Khi ông đi cạnh tiểu đoàn trưởng, đám lính có chữ thường ví ông với anh
hầu Sân-xô trong khi vai Đon-ky-sốt được dành cho người hạ cấp. Sư trưởng không
lấy thế làm mếch lòng, thường giả miếng rằng:
―Người ta bảo nhất là sắc tướng, nhị là khí tướng, tam là
thanh tướng, tứ mới tới hình tướng. Cậu hơn tớ ở cấp độ thứ bốn nhưng tớ lại
hơn cậu ở cấp độ thứ ba. Thế nên tớ mới cầm đầu sư còn cậu thì cầm thằng tiểu.‖
Về mặt thanh tướng, rõ là chẳng ai dám vượt mặt ông. Không chỉ
trong sư đoàn mà khắp chiến trường nơi bốn sư đoàn đang quần thảo, giọng nói của
ông không ai lẫn được. Giá là danh ca ắt ông phải rung vỡ vô số tấm kính nhà
hát. Giọng ông vang như lệnh, thứ giọng đào luyện nhiều đời của những kẻ quen
hét thi với sóng. Chỉ cần nghe ông cất tiếng, người ta hiểu ông đang còn là bậc
"Chân cứng đá mềm". Vì thế, tiểu đoàn trưởng không ngần ngại đáp lời:
- Ồ, đồng chí già dẻo già dai, không phải loại cua ọp như
tôi.
Sư trưởng đành chịu thua:
- Thôi tôi giơ tay hàng các cậu.
Tiểu đoàn trưởng tiếp tục trêu cợt:
- Đồng chí hùng mạnh nên chịu khó ở lại hát thi với đám lính
trẻ. Tha cho bọn xương dòn thịt nhão là chúng tôi đây.
Nói rồi ông kéo An đi. Nhưng trong khi ông trở về hầm kiếm giấc
ngủ, anh lẳng lặng ra suối tắm. Con suối mênh mông này đẹp hơn cả dòng suối quê
anh. Gọi là suối nhưng nó rộng dài đâu kém một dòng sông, và chính nó cũng đổ
vào con sông lớn nhất trong vùng. Nước suối trong như thuỷ tinh, không có màu
rêu hay màu rỉ đồng như các con suối độc. Các tảng đá sạch bóng, tha hồ ngả
lưng nằm hoặc phơi quần áo vào những trưa khô ráo dòn dã mặt trời. Hai bờ suối
thoai thoải rải đầy cuội trắng. Đi ngược lên non trăm thước là thác Voi gầm, nước
xả từ độ cao hơn chục mét khiến quãng suối bên dưới sôi sùng sục và tất thảy những
vật bị cuốn theo dòng nước đều trở thành vũ khí có thể làm thương tổn những kẻ
ngu ngốc hoặc vô tình mon men đến tắm dưới chân thác. Nhiều lần, đám lính trẻ
tinh nghịch bẻ cành khô ném xuống. Những cành củi này lập tức bị dòng nước lôi
vun vút, biến thành một thứ mũi tên có thể đâm chết bất cứ con dê dại dột nào
dám liều mạng lội qua. Mỗi lần tới đây, lòng hồi nhớ quê hương lại thiêu đốt
trái tim An. Anh trút bỏ quần áo, định lội xuống tắm. Nhưng khi làn nước trong
suốt, lăn tăn bọt dâng lên trên gối, anh đột nhiên rùng mình quay lên bờ, mặc lại
áo quần. Sự ngăn cản của một bóng ma khiến anh làm những cử chỉ kì quặc như vậy?
Sự khôn ngoan của linh giác đưa đường? Anh không biết? Người ta không thể hiểu
hết mọi hành vi của mình trong suốt cuộc đời. Nhưng lần này, anh biết chắc chắn
một sức mạnh vô hình đã xui khiến anh hành động.
« Là em, chính là em? Hay là cô Nhỏ? Đích thị một trong hai
nàng đã giơ tay ngăn cản bước chân tôi. »
Anh cất tiếng thầm hỏi.
Nhưng chỉ có tiếng lá rì rào trong gió, và tiếng hát từ phía
sau bờ cây vẳng đến. Thứ âm nhạc vi vút đó phả vào lưng anh một hơi lạnh mơ hồ.
An khoanh tay lên gối, lắng nghe tiếng thác gầm réo phía thượng
nguồn. Như mọi ngày, tiếng thác réo gọi về tiếng đổ của một con thác khác. Một
con thác nhỏ bé hơn, dịu dàng hơn, với bề cao không quá ba thước, không đe doạ
ai, không hứa hẹn làm thương tổn hay chết chóc một ai, chỉ đơn thuần đem lại vẻ
đẹp cho rừng núi. Con thác đó có tên là Sơn Ca ; bởi sơn ca làm tổ trong các
khu rừng hai bên và tiếng hót của chúng như khúc nhạc bất tận vang trong không
gian tĩnh lặng của núi non. Từ thác Sơn ca vượt qua một cánh rừng thưa và một
thung lũng là bản Xíu, nơi chôn rau cắt rốn của anh. Nơi trái tim anh ở lại
trong khi đôi chân anh càng ngày càng rời xa, không biết đến bao giờ mới tới
ngày quay gót.
« Nhưng quay lại để gặp ai bây giờ nếu còn có ngày ấy? Hai
người thân nhất với ta đã nằm dưới đất đen. Chú thím ta lúc này chắc cũng đã
qua đời, em Mai lấy chồng nơi tỉnh khác. Chỉ còn lại một người già. Nhưng rồi
ông ấy cũng sẽ phải ra đi theo tiên tổ! »
Ngày anh lên đường, ông bố vợ sáu mươi chín tuổi. Mười hai
năm đã qua. Giờ nếu còn sống, không chắc ông vác nổi bó củi từ dưới gầm sàn lên
bếp.
« Ta có còn ai ở nơi ấy nữa, khi ông cụ qua đời? »
Nhiều lần, anh thầm nhủ. Nhưng quê hương vẫn là quê hương, một
dư âm bất tận theo đuổi suốt cuộc đời. Tưởng chừng đã quên, hoặc cố tình quên
nhưng bất thần nó quay lại lúc nào ta không biết. Một cành cây gẫy trước mặt, một
hòn đá lở ven bờ suối, tiếng hót trong lèn đá của lũ sơn ca...Mọi duyên cớ cỏn
con đều khiến nó bị triệu hồi và khiến tim ta nức nở. Đôi khi bừng mắt dậy,
trong căn hầm tối đen, An lại nhìn thấy sườn núi rực nắng chiều, nơi bóng áo
chàm của nàng xuất hiện. Nàng bước về phía anh, bởi hai nhà cách nhau một sườn
núi, đứng bên này có thể nhìn thấy bên kia. Khi nàng đi một mình, khi nàng dắt
theo cô Nhỏ, đứa em kém nàng chín tuổi. Tuy là hai chị em nhưng họ gần giống
như hai mẹ con vì nàng phải nuôi em từ lúc nó mới lọt lòng. Ngày đứa em gái ra
đời cũng là ngày mẹ nàng rời cõi thế. Hai chị em, một người sinh vào mùa đông
nên được đặt tên là nàng Đông, một người ra đời vào mùa xuân nên mang tên nàng
Xuân. Trong trí nhớ của An, họ luôn luôn xuất hiện trong ánh nắng vàng rực của
sườn non, luôn luôn tiến lại phía anh trong vẻ đẹp lộng lẫy mà họ thừa kế của
người mẹ đã khuất. An nhìn thấy những hàng mi đen nháy của họ khép lại khi cười,
ánh sáng trong vắt rọi lên từ những cặp mắt bồ câu. Anh nhìn thấy khoé môi đỏ
thắm màu hoa chuối rừng. Những chiếc vòng bạc xô lanh canh trên cổ tay trắng
nõn của họ. Trong cái bản nhỏ xíu mang tên Xíu, trời đã ban tặng cho hai người
con gái ấy thứ nhan sắc phi phàm để rối số phận đổi lại bằng những nỗi bất hạnh
cũng phi phàm như nhan sắc của họ.
« Các em có làm gì xấu xa đâu?
Các em không làm hại một con chim huống chi nói đến con người!
Cớ sao trời nỡ bắt các em chịu tai ương như vậy? »
Tâm hồn anh không ngừng gào thét. Đại đội trưởng An không tin
có trời. Anh cất tiếng gọi trời như thói quen, như tất thảy mọi người thường cất
tiếng kêu trong cơn tai hoạ nhưng óc não anh ghi khắc đinh ninh gương mặt những
kẻ sát nhân bằng xương bằng thịt.
« Có thể chúng quá mạnh mà ta thân côi thế cút nên kiếp này
ta sẽ phải nuốt hận bước xuống mồ. Nếu vậy ta sẽ tiếp tục cuộc truy đuổi vào kiếp
sau. Nếu kiếp sau chưa đủ, ta sẽ xin trời cho ta thêm một kiếp nữa. Ta sẽ đi đến
tận cùng địa ngục để tìm những kẻ đã giết nàng và cô Nhỏ của chúng ta.»
Phía sau bờ cây, ồn ào tiếng các đoàn quân đổ tới. Cửa rừng hẹp
nên khi các đơn vị chen lấn một cách vội vã, mọi thứ tiếng động đều dội đi bốn
phía và các hồi âm cũng ném trả từ bốn phía vách núi lẫn rừng cây. An biết rằng
tiểu đoàn 209 từ bên kia núi Gấu trúc đã sang và giờ biểu diễn sắp tới. Anh đứng
dậy, quay lại trảng. Nắng đã tắt từ lâu. Rừng đen thẫm vây bốn bề khiến trảng cỏ
trở nên lung linh dưới ánh đèn như nơi chốn nào đó trong thần thoại. Dưới những
tấm bạt khổng lồ can nối lại thành một mái nhà mênh mông để bảo đảm an toàn cho
cuộc biểu diễn, những ngọn đèn lớn sáng rực. Chiếc máy nổ hai mươi nhăm ngựa của
sư đoàn đặt không đủ xa sân khấu khiến tiếng nổ của nó vọng lại, chen lẫn tiếng
đàn sáo và tiếng hát. Đám lính mới tới đã tập hợp ở một góc, chờ lệnh, anh nào
anh nấy mặt nhễ nhại mồ hôi và hớn hở như trẻ được quà. Các tốp văn công thu
quân, tập trung về phía sau cánh gà. Lính tráng rời các hội đồng hương lại tập
hợp theo phiên chế. Tiếng còi, tiếng gọi nhau í ới vang khắp nơi.
Tiểu đoàn trưởng Nhã có vẻ tươi tỉnh hơn sau giấc ngủ dặm đã
quay lại điều hành lính tráng. An nhìn cảnh tượng một cách ngỡ ngàng. Anh còn
đang bị dằng kéo bởi những kỉ niệm. Anh cảm thấy mình đang còn đứng ngoài cuộc
vui. Tựa lưng vào một gốc cây, anh đưa mắt nhìn về phía sân khấu, trong khi những
tốp lính của đơn vị 209 vẫn tiếp tục từ phía sau vượt lên để chiếm lĩnh khoảnh
đất dành cho họ.
- Chí văn Thành! Chí văn Thành!
Một tiếng gọi đột ngột vang lên bên tai khiến An giật nảy người.
Anh quay đầu lại một cách vô thức và khi chợt hiểu điều đó là sai lầm thì một
gã trai đã tiến đến sát mặt anh:
- Anh Chí văn Thành!
-!...
- Thành! Anh không nhận ra em sao?
Một gương mặt nhoẻn cười trong bóng tối. An tì lưng vào thân
cây, toàn thân run như bị điện giật:
- Đồng chí nhầm. Tôi là Hoàng An.
- Anh Chí văn Thành. Mã Lỳ đây. Em là Mã Lỳ.Anh quên em rồi
sao?
- Tôi là Hoàng An.
- Ồ...
Người mới tới quay ngược cây đèn pin để rọi sáng vào chính mặt
anh ta.
Gương mặt nhễ nhại mồ hôi bầu bầu theo kiểu mặt đàn bà. Đôi
mày vừa ngắn vừa xếch và cặp mắt lá dăm nhỏ nhưng rất sâu nheo lại trong nụ cười.
Một chiếc mũi ngắn, lộ thiên. Hai hàm răng nhỏ như răng con nít, có chiếc răng
nanh bên trái bịt bạc. An rùng mình. Không còn từ chối được nữa. Đó chính là
người đồng đội cũ, Mã Lỳ, dân Mèo, tiểu đội phó tiểu đội một trong trung đội
năm xưa anh từng là trung đội trưởng. Chính anh đã đề bạt cậu ta vào chức vụ
này. An nắm chặt cánh tay Mã Lỳ, kéo lại gần:
-Giờ tôi đã đổi tên thành Hoàng An. Tôi cấm cậu gọi tôi bằng
tên cũ.
Anh buông từng lời, gần như thì thầm.
- A!... Em hiểu. Em hiểu.
Gã trai gật đầu lia lịa.
An nói tiếp:
- Cậu vào xem đi. Lát nữa chúng ta sẽ hàn huyên.
Mã Lỳ dặn:
- Nhớ đấy. Lâu quá chúng ta chẳng gặp nhau.
An gật đầu:
- Các cậu ở đây bao lâu?
Anh chàng Mèo lắc đầu oai oái:
- Chỉ có trời mới biết. Nhưng tiểu đoàn trưởng báo rằng có thể
bọn em còn găm quân ở đây khá lâu để tập luyện trong khi chờ sát nhập vào một
sư đoàn thiếu ở chiến trường miền tây. Chưa biết chừng là dăm bảy tháng.
- Vậy còn có nhiều dịp gặp mặt. Bọn tôi vẫn thường qua núi
bên ấy.
- Tốt. Thế nào anh em mình cũng phải gặp nhau. Em đi đây.
Cậu ta chạy theo đồng đội. Tích tắc sau, tất cả chỉ còn là một
đám đông chuyển động nhập nhoạng hoà với cây rừng, một khối đen bất khả phân biệt.
An sực nhớ ra điều gì đó, tức khắc vùng chạy theo Mã Lỳ:
- Mã Lỳ, Mã Lỳ!
- Đợi tôi với, Mã Lỳ!
Anh xô đám lính 209 sang hai bên bờ cây, đuổi theo người đồng
đội cũ.
- Mã Lỳ!
- Em đây.
Anh nghe tiếng đáp trả vọng từ đám đông phía trước. Mã Lỳ dừng
lại, tách khỏi hàng quân đứng sang mép lối đi để chờ anh. Chẳng bao lâu, họ tìm
thấy nhau. Cùng là dân miền núi, rừng cây làm thành một phần đời của họ. Đuổi bắt
nhau trong cảnh tối tăm này chẳng phải là điều quá khó đối với An. Khi chợt đến,
An thấy Mã Lỳ đang đứng với một người khác nên anh nép mình sau một gốc cây, chờ.
Trong bóng đêm, nghe anh chàng Mèo nói:
- Bọn tôi là đồng đội cũ...cậu cứ đi trước rồi lát nữa tôi
tìm. Chúng ta sẽ tập hợp theo đơn vị sau giờ biểu diễn.
- Nhất trí.
- Đưa cây đèn pin của cậu cho tôi mượn ; đèn tôi sắp hết pin.
- Dè sẻn thôi đấy. Đường còn dài.
- Được rồi.
Gã trai kia chạy vụt đi. An còn dừng lại vài giây trong bóng
tối rồi mới đi tới trước mặt Mã Lỳ:
- Chúng ta cùng nhau xem. Tôi có nhiều điều muốn hỏi cậu.
- Đồng ý.
Họ cùng nhau nhập vào cánh quân 209 để tiến đến sân khấu. Vì
là khách, lính 209 được chia nửa phần đất bên trái khiến quân nhà xôn xao ghen
tị. Quả là đứng bên trái nhìn lên sân khấu rõ hơn, và tiếng máy nổ nghe nhỏ
hơn. An cùng Mã Lỳ ngồi xuống, anh liếc đồng hồ, nói:
- Tôi chỉ được xem đến chín giờ mười lăm. Sau đó phải đổi
gác.
- Chính anh phải đảm nhiệm sao?
- Đại đội tôi đảm nhiệm. Là đại đội trưởng tôi không có quyền
ngồi xem khi bọn lính trẻ hơn phải bỏ sân khấu đi tuần.
- Anh luôn luôn là cán bộ gương mẫu. Em chưa quên điều ấy. Kể
từ..ngày chúng ta mới làm quen.
- Chẳng cứ tôi, ở sư đoàn này cán bộ nào cũng xử như vậy.
Gã trai Mèo im lặng một lát rồi hỏi:
- Ở đây đất dữ lắm a? Em nghe phổ biến đây đã là vùng sâu của
quân ta, tựa hồ như an toàn khu thuở trước?
An cười:
- Đây đúng là vùng sâu của chiến trường. Nhưng không thiếu
thám báo địch. Bởi thế ba năm chờ đợi mới có một buổi liên hoan mà lính vẫn phải
cắt nhau đi tuần.
- Bọn nó dám luồn vào tận đây sao?
- Cậu đùa? Đây không phải thao trường Hà Tây mười hai năm trước.
Bây giờ đang là chiến tranh. Cậu tưởng bọn chúng toàn là đồ bị thịt hay búp-bê
gỗ chắc?
Mã Lỳ lặng thinh một lát rồi hỏi:
- Ngần ấy năm anh mới lên đại đội?
- Cậu quên là tôi bị rượt đuổi phải thay họ đổi tên hay sao?
Còn cậu?
- Em bây giờ cũng đại đội trưởng rồi. Cấp trên nói nếu tình
hình tiến triển tốt, quý sau em sẽ được thăng vượt cấp. Người Mèo đặc biệt
trung thành với cách mạng và dũng cảm trong chiến đấu.
- Chúc mừng cậu...
- Ồ....Ồ....Gái đã ra kìa...
Mã Lỳ cất tiếng, chỉ lên sân khấu.
°
Quả nhiên hai cánh màn lụa đỏ đã mở ra, cô gái giới thiệu
chương trình tiến đến trước micro cúi chào yểu điệu. Áo dài tứ thân xanh đổi
vai hồng vai tím, váy lụa mỡ gà, một vẻ đẹp bị lãng quên, một mẩu đời bình yên
bị ngăn cách chợt hiển hiện khiến lính vỗ tay như rồ như dại. Rồi tiếng nhạc cất
lên, vang lừng, nao nức. Cả sư đoàn đã chờ đợi bao lâu giờ phút hạnh phúc này!
Nhưng đại đội trưởng An không còn nghe thấy gì, không còn nhìn thấy gì ngoài
gương mặt bóng nhẫy mồ hôi của người đồng đội cũ. Mã Lỳ hoàn toàn chú tâm vào
cô gái dẫn chương trình, đôi mắt nhỏ của cậu ta như mờ đi, môi dưới trễ xuống
khiến cái miệng há hốc ra một cách vô tình và bất khả kiểm soát:
« Cậu ta sẽ hành động ra sao? Cậu ta sẽ lặng im vì tình bạn,
vì chính ta là người đầu tiên giúp cậu ta hiểu những điều sơ đẳng nhất trong cuộc
sống miền xuôi, cũng là người đề bạt cậu ta và giúp cậu ta tiền về quê làm ma
cho ông bố. Hoặc cậu ta sẽ tố cáo ta để bày tỏ lòng trung thành với thượng cấp
và được cất nhắc một cách đặc biệt hơn? Nào ai biết được đường đi ngoắt ngoéo của
con người?»
Mười hai năm đã qua nhưng gã trai này dường như không thay đổi.
Cậu ta không già đi bao nhiêu vì nước da trơn nhẵn. Nhưng cặp mắt nhỏ và sâu
kia thì khôn dò nổi. Hoàng An im lặng theo rõi Mã Lỳ. Gã trai Mèo chắc đang khốn
khổ vì thèm đàn bà. Hai mắt gã ướt rượt. Gã thở hổn hển và thè lưỡi liếm môi
liên tục. Những người dâm đãng, đàn ông cũng như đàn bà không thể cưỡng chế cử
chỉ này. Đó là một trong những dấu hiệu khiến người ta nhận ra họ một cách mau
lẹ. An nhớ hồi ở đơn vị cũ, Mã Lỳ đã khổ sở ra sao khi kiếm đàn bà. Và mặc dù
là dân Mèo thuần tuý, chân ướt chân ráo xuống miền xuôi, gã cũng đủ ranh ma để
tìm một cô gái dở người trong vùng, nhằm giải quyết những nhu cầu cấp bách. Giờ
thì cậu ta đang há hốc mồm nhìn các nàng tiên áo xống xênh sang trong điệu Múa
Đèn:
- Cậu thấy thế nào? Hay hơn hay tồi hơn Múa Nón của người
Thái?
An cất tiếng hỏi.
- Hay hơn, hay hơn rất nhiều lần.
Mã Lỳ đáp, mắt không rời sân khấu.
- Cậu có thích điệu múa khèn của dân Mèo hay không?
- Không.
Mã Lỳ đáp gọn lỏn khiến anh ngạc nhiên. Dường như hiểu sự ngạc
nhiên đó, gã Mèo giải thích:
- Dân Mèo múa không hay. Múa hay nhất chính là các dân tộc
Tây nguyên. Bất kể là Ê-đê, Ba-na hay ai khác.
Tới đó, Mã Lỳ chợt cất tiếng kêu:
- Ô, đã hết rồi.
Và cậu ta tắc lưỡi lắc đầu một cách tiếc rẻ. Hoàng An cười:
- Tôi không ngờ cậu mê văn nghệ đến thế.
- Anh khinh người Mèo không biết thưởng thức văn nghệ hay
sao?...
- Không nên nói thế. Đây là sở thích của từng cá nhân, không
liên quan gì đến sắc tộc. Bản tôi toàn dân Tày nhưng có người mê thổi sáo, có
thể thức thổi sáo cả đêm trong lúc người khác chỉ uống rượu rồi vùi đầu ngủ.
- Em mê văn nghệ.
Mã Lỳ đáp. Rồi sau một phút chần chừ, nói thêm:
- Nhưng chỉ những tiết mục văn nghệ do con gái làm thôi. Em
không thích nhìn bọn đàn ông hát múa.
Tới đó, màn lại mở. An lặng im vì không muốn làm phiền gã
Mèo. Dường như toàn bộ tâm trí của cậu ta đang quay đảo dưới ánh đèn sân khấu.
Như thế, thời khắc dần trôi, tới chín giờ mười lăm. Anh giơ đồng hồ lên xem rồi
bảo Mã Lỳ:
- Đã tới giờ đổi gác. Tôi đi đây.
- Vâng. Rồi chúng ta sẽ gặp nhau.
- Đồng ý. Sau giờ biểu diễn cậu rán chờ tôi nhé.
- Yên tâm. Em sẽ chờ anh.
Hoàng An rút lui về phía sau. Khi đã hoàn toàn ra khỏi đám
đông, anh vào sâu trong bìa rừng, chọn một góc thuận tiện để có thể thu mình
trong bóng đêm quan sát. Trước mắt anh là một khối đen mênh mông, Mã Lỳ đã mất
hút trong đó. Cậu ta vốn nhỏ con, giống số đông đàn ông Mèo, bao giờ cũng chỉ
cao ngang vai vợ. Người ta bảo một cặp Mèo ôm nhau giống hệt con chẫu chàng ôm
quả dưa ếch là vì thế. Màn đóng rồi màn mở, các tiết mục nối tiếp nhau. Đồng hồ
chỉ mười giờ kém hai mươi phút. Như thế đã hai mươi lăm phút trôi qua không xảy
ra chuyện gì. An cảm thấy hơi thở của anh bắt đầu trở lại nhẹ nhõm:
« Có lẽ cậu ta không đủ tàn ác để làm điều ấy. Có lẽ cậu ta
chưa quên những kỉ niệm tốt đẹp của một thời. »
Nhưng chính lúc niềm lạc quan khởi sự, một bóng người nhỏ bé
lom khom đã đứng lên, tách khỏi khối khán giả đông đặc và đen ngòm. Cái bóng đó
lách giữa hai cánh quân, với dáng đi lom khom tiếp tục tiến về khán đài phía
trước, nơi ban chỉ huy sư đoàn cùng ngồi với ban lãnh đạo tiểu đoàn 209 trên một
tấm bạt trải đến tận chân sàn diễn.
Tức khắc, đại đội trưởng An dập tắt niềm lạc quan mong manh vừa
chợt nhú như tay đồ tể lành nghề chọc một nhát dao chính xác trăm phần trăm vào
cổ lợn:
« Ra thế. Điều ta nghi ngờ là không tránh khỏi. »
An nghĩ, với một chút cay đắng, một chút buồn rầu nhưng cùng
lúc đó, trái tim anh không còn phập phồng nữa, nhịp đập của nó trở lại bình thường.
Sự hồ nghi và nỗi chờ đợi mong manh bị thiêu cháy. Trạng thái lạnh lùng băng
giá xâm chiếm tâm hồn, óc não anh trở nên trống rỗng và trong suốt:
« Việc ắt phải xảy đã xảy ra. Giờ không còn đắn đo, chỉ còn
hành động. Ta không muốn tình cảnh này nhưng nó đã tới. Vậy ta sẵn lòng chào
đón. »
Anh đưa tay rờ cây tiểu liên cưa nòng bên hông như kiểu nông
phu rờ lưng con trâu trước khi bước xuống rạch cày, như gã xà-ích vuốt bờm ngựa
trước giờ cho xe chạy. Động tác ấy đã quen thuộc từ thuở mười ba, tuổi bắt đầu
theo ông chú lên rừng săn thú. Khi những ngón tay An chạm vào thớ thép lạnh ngắt
đó, một luồng xúc động mãnh liệt truyền ngược lại da thịt, lan toả khắp toàn
thân và xuyên thấu lên tận óc não anh, đem lại cùng một lần sức mạnh, niềm tin,
và ý chí sắt đá. Hơi lạnh của vũ khí truyền cho anh ngọn lửa. Chạm vào nó, giống
như người xưa chạm vào hòn đá ước, anh thấy bình tâm, ví như kẻ lữ hành mùa
đông bình tâm khi được ngồi dưới mái nhà và được hơ tay lên lửa sưởi. Đối với
An, vũ khí tựa hồ con ngựa chiến hoặc con chó săn trung thành. Nó chẳng còn là
vật vô tri mà trở thành một phần cơ thể và ý chí. Đời anh là một cuộc tôi luyện
trường kì để thứ thép lạnh ngắt đó trở nên một vật có linh hồn.
Trong bóng tối, đại đội trưởng khẽ nhếch mép cười:
« Ta không muốn!Ta không muốn chút nào cuộc săn này. Nhưng
chính vì bị săn đuổi, ta đành phải trở thành kẻ đi săn đuổi. »
Anh nhìn thấy Mã Lỳ ngồi thụp xuống, lẫn vào đám cán bộ lãnh
đạo. Hẳn đây chính là lúc cậu ta tường trình sự việc một cách vắn tắt và đề nghị
sư trưởng đi theo mình vì một «...bí mật quân sự có tầm quan trọng quốc gia. »
An thầm đoán. Quả nhiên, một phút sau, Mã Lỳ đứng lên cùng sư trưởng, cả hai
men theo bục sàn diễn để vòng ra phía sau. An ước lượng:
« Hai người vừa xoẳn cao bằng nhau. Nhưng sư trưởng to gấp ba
lần gã Mèo còi cọc. Cánh tay ông ta hẳn phải xuýt xoát bằng cẳng chân của gã. »
An không hiểu họ sẽ đi đâu? Nếu họ lùi ra phía sau sân khấu,
sẽ vô cùng bất tiện cho anh vì tổ lính kĩ thuật đang chạy máy nổ ở đó. Nhưng có
lẽ giả thuyết này là sai vì một câu chuyện trọng đại không thể thổ lộ ở nơi tiếng
nổ ầm ầm và cả tốp người tò mò có thể nhìn nghiêng nhìn ngó. Họ sẽ lùi sâu vào
các đám rừng xung quanh chăng? Nếu vậy, có khả năng đụng độ tốp lính đi tuần.
Hoặc chính họ, hoặc chính anh và cuộc xử trí sẽ khó khăn. Tuy nhiên, sư trưởng
vốn là người có tật nói rất to, ông ta sẽ phải dẫn gã Mèo đen ra bờ suối, đó là
nơi tiếng nói của ông sẽ bị cuốn trong tiếng thác gào và không thể lọt vào lỗ
tai bất cứ ai. Và, thật may mắn, đó cũng chính là nơi thuận tiện nhất cho việc
xử trí vì bên kia suối là vùng núi chết. Từ bờ suối, chỉ đi qua một bãi sỏi hẹp
như dải áo là tới các tường đá dựng thẳng đứng như lưỡi gươm, trên bức tường
thành vĩ đại ấy, không một cọng gai nào có thể trồi lên được. Vì thế, không chỉ
con người mà đến lũ sơn dương cũng không dám trèo lên. Chẳng phải lính bắc việt
mà chính thám báo phía nam đã đặt tên nơi đó là Vùng Núi chết.
An luồn sau các thân cây để theo rõi đường đi của hai con mồi.
Quả nhiên, sư trưởng dẫn gã Mèo ra bờ suối. Đoạn đường khá dài để tiếng nhạc mờ
dần đi và tiếng thác réo vang dần lên. Cây đèn pin của sư trưởng bịt vải dù, chỉ
vẩy ra một tia sáng bằng trái mận. Đèn của gã Mèo rọi sáng nhiều hơn, quét đi
quét lại không ngừng trên lối đi. Giống như một con báo, An bước theo họ. Anh
không nhận ra rằng gió đã đổi chiều thổi lật nghiêng các vòm lá khiến rừng xao
động và tiếng bước chân của các con mồi cũng như kẻ săn mồi đều chìm nghỉm
trong tiếng lá reo. Chừng mươi phút, họ tới đúng bãi tắm ; gần như chính xác
nơi An vừa ngồi lúc tàn chiều. Một ý nghĩ thoáng qua, ngắn như tia chớp:
« Phải chăng vài giờ trước, ta không muốn tắm trên dòng suối
này vì cuộc xử trí ắt phải xảy ra chính nơi đây? »
Nhưng anh không kịp suy ngẫm thêm vì cuộc đối thoại đã cất
lên, rành rẽ từng lời, từng tiếng:
- Thưa sư trưởng, người Mèo chúng tôi vốn tuyệt đối trung
thành với cách mạng nên tôi cho rằng tôi có nghĩa vụ báo cáo với đồng chí sự việc
này. Một sự việc vô cùng nghiêm trọng.
Mã Lỳ cất tiếng, run rẩy. Có lẽ gã hồi hộp. Có lẽ gã đang
dùng dằng giữa nỗi sợ hãi bản thân và nỗi sợ hãi « lương tâm của một kẻ trung
thành với đảng và chính quyền »...Hoặc gã đang phân vân giữa nỗi sợ hãi chính
anh, kẻ đã thoát khỏi lưới vây của cả một đội quân, con người đáng gờm ; với
lòng khao khát quyền lực. Hoặc gã cảm thấy một sự nguy hiểm nào đó ẩn giấu
trong cuộc chơi này, giống như một tay thợ săn cảm thấy khí núi bốc lên hơi thở
của tử thần khi rẽ vào ngả đường mà sau đó vài khoảnh khắc, anh ta sẽ biến
thành con mồi bị nghiền nát giữa hai hàm răng cọp? An không thể xác định duyên
cớ, nhưng anh nghe rõ từng tiếng run rẩy thốt ra và hơi thở ngắt quãng của Mã Lỳ.
« Đồ chó ghẻ...Quân vừa đéo vừa run... »
Trong thâm tâm, anh buông một tiếng chửi thề khinh bỉ.
Lúc đó, giọng sư trưởng cất lên, đĩnh đạc:
- Tất thảy chúng ta đều có nghĩa vụ trung thành với cách mạng.
Đồng chí xác định tư tưởng rõ ràng như vậy là rất tốt. Tôi chờ nghe đồng chí
đây.
- Thưa sư trưởng....
Mã Lỳ nói, không còn quá run rẩy sau khi được khích lệ. Tuy
nhiên gã Mèo vẫn phải nuốt nước bọt mấy lần để dọn giọng, trước khi tiếp lời:
- Thưa sư trưởng, phải chăng trong sư đoàn ta có đại đội trưởng
Hoàng An, người Tày Cao Bằng đang chiến đấu dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng
chí?
- Đúng!
Sư trưởng khẳng định tức khắc và sau đó tiếp tục nói với cái
giọng bất khả điều chỉnh cường độ của ông:
- Đại đội trưởng Hoàng An là người chỉ huy gan dạ, mưu trí và
có rất nhiều triển vọng, có thể nói đó là cánh tay phải của tiểu đoàn trưởng
Đinh quang Nhã..Nhưng quê đồng chí ấy ở Đồng Mỏ Lạng sơn chứ không phải Cao bằng.
Tôi thuộc lý lịch đại đội trưởng An như thuộc tiểu sử cá nhân của các tiểu đoàn
trưởng dưới quyền tôi vậy.
- Báo cáo sư trưởng, Hoàng An quê chính ở bản Xíu, huyện Thất
khê, Cao bằng. Anh ta từng là trung đội trưởng số ba, thuộc đại đội Một, tiểu
đoàn 109 đơn vị đặc nhiệm đóng tại Hà Đông năm I957, lúc đó tôi là tiểu đội phó
trong trung đội của anh ta. Tên thực của anh ta là Chí văn Thành, được kết nạp
đảng sau ngày nhập ngũ, tháng chín năm I95I, ba năm trước ngày giải phóng thủ
đô.
- Đồng chí nói sao? Anh ta đã từng là đảng viên?
An thấy giọng sư trưởng vói cao lên, ngờ vực. Khi nhập vào
cánh quân này dưới cái tên Hoàng An, anh đã sử dụng giấy tờ của một tử sĩ đứng
ngoài đảng. Và anh vừa được kết nạp hai năm tròn. Chính sư trưởng đã hạ lệnh kết
nạp đảng tại chỗ, sau những thành tích chiến đấu dồn dập của đại đội. An lại
nghe Mã Lỳ cười khẩy, và sau một khoảnh khắc ngưng lặng, tiếp tục nói:
- Khi tôi nhập ngũ, Chí văn Thành đã sáu tuổi đảng. Anh ta được
kết nạp ngay trên chiến khu Việt bắc.
- Thôi được. Đồng chí nói tiếp đi. Tôi nghe.
- Chính Chí văn Thành giác ngộ tôi vào đảng và đề bạt tôi lên
tiểu đội phó.
- Rồi sao?
- Rồi đột nhiên anh ta bỏ trốn sau một ngày chủ nhật vào thăm
Hà nội. Ban chỉ huy không biết lý do ra lệnh truy tìm nhưng không có kết quả.
Khoảng một tuần sau bộ tham mưu cử người xuống chính thức thông báo Chí văn
Thành là điệp viên do quân đội nguỵ gài vào để đánh phá lực lượng cách mạng. Do
bị lộ anh ta đã bỏ trốn cùng với một tên điệp viên khác, trong đội cảnh vệ. Cả
hai đều là Tày Cao bằng và quê cùng huyện Thất khê. Lực lượng biên phòng đã đuổi
theo họ, qua tận biên giới Việt-Lào nhưng chỉ tìm thấy xác hai người bị hổ ăn
và hai cây súng bỏ lại.
- Nếu đã thẩm định là bị hổ ăn thì làm sao còn quay trở lại sống
dưới một cái tên khác? Nhất là khi cả hai cây súng bị ném lại? Đồng chí có tin
rằng một người bỏ trốn có thể vứt bỏ vũ khí để dấn thân vào rừng núi với hai
bàn tay trắng, khi trước mặt là thú dữ lẫn kẻ thù?
Giọng sư trưởng oang oang như đang thuyết trình kế hoạch tấn
công trước giờ mở màn chiến dịch. Anh có cảm giác như ông không tin những điều
gã Mèo nói và cố sức dẫn dụ gã sang một ngả đường khác. Mã Lỳ ậm ừ hồi lâu vì
không tìm được lời giải thích. Nhưng sau đó, gã cất tiếng một cách quả quyết:
- Tôi biết. Điều đồng chí nói là có lý. Nhưng tôi không thể
nhầm bởi chính Chí văn Thành cũng đã nhận ra tôi. Chính anh ta dặn tôi rằng
không được gọi anh ta bằng tên cũ, rằng anh ta đã bị truy đuổi, đã thay họ đổi
tên và...
Tiếng hoan hô đột nhiên ào ào vang lên, vượt qua các bờ cây vọng
đến tận bờ suối. Tiếng lính huýt còi miệng, tiếng hét cuồng nhiệt vang khắp rừng
lẫn trảng:
-Hoan hô, hoan hô....
- Lại....Múa lại....
- Một lần nữa!Hoan hô....Một lần nữa đi!
- Một lần nữa.! Xin múa lại lần nữa.
An chắc chắn đó là điệu múa Chàm rông, điệu múa của mùa xuân,
điệu múa của tình ái, hội hè và ước vọng. Anh tưởng tượng ra những gương mặt phấn
khích của đám đông dưới ánh đèn. Cùng lúc đó, óc não anh vang lên tiếng thầm
thì:
― Sư trưởng ơi, tôi với ông không thù oán, không có kỉ niệm
buồn phiền. Ông đối với tôi như một người anh hào hiệp nhưng tôi không có cách
xử trí nào khác. Xin ông tha thứ cho tôi.
Anh nhắm vào lưng Mã Lỳ, tiêu điểm cách một gang rưỡi từ vai
trái lui xuống. Khẩu súng trong tay anh tựa hồ con quay gỗ hồi thơ bé. Tựa hồ
con thoi dệt trong tay bà thím. Tựa hồ cái gương tròn khung bạc trong tay nàng.
An nhấn cò. Một tiếng nổ. Chắc chắn qủa tim gã Mèo đen phải vỡ tung. Nhích nòng
súng chừng nửa ly sang bên trái, hai phát tiếp theo bởi lần này con mồi to khoẻ
gấp bội. Cần găm hai lần đạn vào một quả tim ngoại cỡ. Kết quả sẽ bảo đảm một
cách tuyệt đối. Tất thảy xảy ra trong ánh chớp. Hai tấm thân đổ sập gần như đồng
thời, cùng hướng.
An gỡ cây súng, đặt xuống gốc cây quen thuộc, nơi anh vẫn ngồi
một mình buổi chiều. Chéo khẩu súng là cây đèn pin, bọc kín trong tấm vải dù. Mắt
anh đã hoàn toàn thuần thục với bóng tối. Chỉ những gợn nước phản chiếu lửa đom
đóm bên kia dòng suối, cùng ánh sáng xanh run rẩy của lân tinh dưới các bụi cây
là đủ cho anh soi tìm mọi vật. Sau khi đã cất gọn gàng những đồ lủng củng, An
bước tới nơi hai tử thi gần như chồng lên nhau thành một khối. Hai cái xác còn
nóng hổi. Trước hết anh lột quần của cả hai một cách thận trọng để máu ở phần
trên ngực không dây vào chúng. Vũ khí, đèn pin. Rồi bao thuốc lá, bật lửa, bấm
móng tay trong túi áo. Lọ đựng tăm và hộp dầu cù-là. Sổ tay và bút...Tất thảy
được gom thành một đống trên cỏ. Sau đấy, anh lột giầy lẫn tất, sắp thành hàng.
Ước tính mọi sự chuẩn bị đã tinh tươm, An vác gã Mèo đi ngược lên thác Voi gầm.
Dừng lại thở một vài hơi anh lẳng gã xuống chính ngọn thác,
nghe trong đêm tiếng rơi bõm của thây ma, tiếng gào réo của các xoáy nước và
nhìn thấy ngọn nước hung dữ cuốn phăng cái vệt đen đen đó đi một cách hăm hở.
Quay trở lại, An kéo sư trưởng lên. Ông ta rất nặng. Phải trầy trật lắm anh mới
hất được cái xác vạm vỡ, y hệt một bao tải gạo lên lưng. Lần này, anh phải bước
lom khom như dân công cõng đạn trèo ngược dốc, rồi bước từng bước một. Nhưng dẫu
sao An cũng đến được đỉnh thác mà không phải dừng chân nghỉ một lần nào. Ở đó,
An đặt xác chết xuống bờ suối, rút trong túi quần sợi dây dù bất ly thân, tháo
nút một cách thận trọng để sợi dây không bị gút rối. Khi đã gỡ được sợi giây một
cách hoàn hảo, An buộc một bên chân mình vào gốc cây gần nhất. Rồi, anh thở vài
nhịp chậm và sâu để chuẩn bị trước khi thu hết sức lực nâng bổng tử thi lên,
ném xuống dòng thác. Tấm thân bất động tròn trùng trục kia rơi xuống tức khắc,
kèm theo một tiếng động trầm đục và ngắn ; tựa hồ một thân cổ thụ rớt xuống
dòng sâu. Lúc thây ma rơi xuống, An cũng ngã nhào theo, một cánh tay lẫn một
bên vai đập vào bờ đá đau điếng. Nếu không có sợi dây bảo mạng kia, chắc chắn
anh sẽ trở thành thây ma thứ ba, theo cùng một hành trình với hai kẻ xấu số. Nằm
úp mặt xuống bờ suối vài giây cho cơn đau dịu đi, An vùng dậy tháo sợi dây dù,
đoạn quay trở lại khúc suối bên dưới. Ở đấy, anh lội xuống dòng nước lạnh buốt,
lặn ngụp hồi lâu. Khi ngửi đi ngửi lại, áo quần không còn chút mùi tanh của
máu, An trèo lên bãi sỏi lượm cây đèn pin và khẩu súng định bụng trở về hầm.
Nhưng chính lúc ngẩng đầu lên, anh chợt nghe tiếng chân chạy, chợt nhìn thấy một
bóng đen vụt khuất giữa đám cây đen. Vô cùng mơ hồ, nhưng chắc chắn không phải
là một hồn ma. Đó chắc chắn là một sinh thể.
« Có kẻ nào rình rập ta? Bởi chỉ có tiếng chân đơn lẻ. Không
thể là tiếng chân đội lính đi tuần ngẫu hứng đến đây. »
Anh tức khắc đuổi theo bóng đen kia.
Nhưng phải chăng nó là một con người?...Anh tự hỏi một cách
ngờ vực bởi cái sinh vật gây tiếng động kia cũng có thể là chồn hay cáo. Nó biến
đi trong chớp mắt, hoàn toàn mất tăm mất dạng như hoà nhập thành một khối với rừng
cây. Tuy nhiên, anh vẫn tiếp tục đuổi theo hướng tiếng động cho đến sát cửa rừng.
Tới đó, An buộc phải dừng lại. Dù con mồi kia là người, là ma, hay là chồn cáo
anh cũng đành để nó chạy thoát. Nếu không, chính anh cũng có nguy cơ bị bắt gặp
trong bộ dạng kẻ sát nhân ướt rượt từ đầu xuống chân.
« Thôi được, tao sẽ tính chuyện với mày sau. »
An nghĩ, quay sang lối trở về hầm. May mắn cho anh vì khu trú
quân vắng ngắt. Có lẽ ngay toán lính tuần cũng lượn loanh quanh rồi lại tạt vào
trảng, nghếch mắt xem văn công. Trong khu nhà ngầm trung tâm của tiểu đoàn Một,
An mắc bộ quần áo ướt vào dàn sấy áo quần. Dàn cây ấy thường xuyên là tủ sấy áo
quần cho các sĩ quan, bởi nơi đây, nếu không có lửa quần áo giặt sẽ không bao
giờ khô. Hầu như đêm nào cũng có mưa. Những cơn mưa rừng thấm vào quần áo lẫn
xương tuỷ. Mưa dứt, hơi sương còn quẩn quanh từ nửa đêm cho đến non trưa. Mặt
trời có lên cũng phải vài giờ sau sương mới tan hết. Sương vừa tan được vài giờ
chiều đã ngả và lớp sương mới lại ngùn ngụt kéo từ các khe vực lên. Như thế,
làm sao áo quần không ẩm mốc. Chẳng có cách nào hơn là phải gây một lò sấy suốt
ngày đêm. Những đống củi cháy liu diu không ngừng, không ngừng toả hơi ấm lẫn
làn khói đặc ngái mùi các loại nhựa cây bị hun đốt. An đứng ở đó một giây, nhìn
đám lửa, cảm thấy buồn nản và dửng dưng. Anh muốn ngủ. Nhưng điều đó là bất khả
nên anh lại mặc quần áo mới và quay trở lại trảng, tìm đúng đơn vị của mình, ngồi
thu hình phía sau đồng đội một cách lặng lẽ.
Chờ mươi phút trôi qua, anh đặt tay lên vai cậu lính phía trước:
- Thoả mãn chứ?
Gã trai giật bắn người, quay lại nhìn anh:
- Thủ trưởng đi đâu, giờ mới lại đây?
- Thủ trưởng Nhã rủ tôi quay lại hầm ngủ nướng. Không dè quá
giấc.
- Ôi chao, mất toi nửa đêm rồi còn gì?
- Đành vậy...Nhưng được dịp béo mắt. Vả chăng, tôi già hơn cậu
mươi tuổi, lòng ham hố nhìn gái đẹp cũng phải giảm đi. Điều đó liệu có đúng hay
không?
Cậu lính cười hì hì:
- Thủ trưởng hỏi câu ấy, em xin chịu.
- Thôi xem đi, kẻo lỡ dịp vui.
An nói, cắt đứt câu chuyện một cách đột ngột rồi lấy bàn tay
bên phải bóp cứng vào huyệt vai bên trái. Lúc này, anh mới thấy thân thể đau nhừ
sau một cuộc vận động căng thẳng và quá sức. Hai mí mắt anh bắt đầu cứng lại
như chì và có vẻ như chúng không còn tuân theo sự điều khiển của chủ nhân:
« Mình không thể ngủ. Không có quyền ngủ lúc này.Ta vừa mới
tuyên bố với mọi người là gỡ được giấc ngủ dặm cùng với tiểu đoàn trưởng. Giờ
không còn lý do ngủ thêm. »
Nhưng anh bắt đầu ngáp. Và ngáp thì không thể kiềm chế được.
Đại đội trưởng đành móc bao thuốc, đốt một điếu. Mùi khói thuốc vừa lan toả, lập
tức năm sáu cái đầu quay lại, những cặp mắt thèm thuồng nháo nhác tìm kiếm. Những
cánh tay chìa ra tua tủa châu về phía anh:
- Em đã, đại đội trưởng. Em giơ tay trước nhất.
- Láo, tao mới là người giơ tay trước nhất. Mày ngồi hàng
trên làm sao ngửi ngay ra hơi khói mà xin?
- Em đăng kí thứ ba, xin đại đội trưởng đừng quên.
- Tôi nữa chứ? Phải chăng lính già không được chia phần?
An bảo:
- Tôi tưởng các cậu đang say sưa xem văn công nên mới dám mở
bao thuốc...Hoá ra mũi người thính thật...
Đám lính nhao nhao đáp:
- Văn công cũng thích mà thuốc lá cũng thèm. Chẳng thứ nào nhịn
được thủ trưởng ạ.
- Tôi chỉ xin một hơi thôi, rồi quay lại xem văn công tức khắc...
Bảo đảm với đồng chí là như thế.
Điếu thuốc chuyền đi theo hàng quân, đốm lửa đỏ lập loè. Sau
cùng nó mất hút trong khi các cánh tay còn tiếp tục giơ lên chờ đón. Mấy hơi
thuốc giúp An chống lại cơn buồn ngủ đang muốn kéo anh đổ sập. Anh đưa mắt nhìn
lên sân khấu nhưng tai anh lại vang lên tiếng động ầm và đục khi cái xác nặng nề
của sư trưởng rơi xuống nước.
« Ông ta quả là một con người cường tráng. Hẳn là một người
cha đầy quyền uy với các con và một người chồng không biết mỏi trên giường. Dân
xứ biển ăn nhiều cá nên bẩm sinh đã cường dương, chẳng cần cao gấu hay cao hổ.
Quả tim ông ta bơm đầy máu. Máu chảy như nước tuôn từ ống lồ-ô... »
An nghĩ và bất giác đưa tay sờ lên cổ xem da thịt anh đã sạch
hay chưa?...Trên đoạn đường tiến lên đỉnh thác, máu tử thi ở trên lưng anh
không ngừng chảy, không ngừng tràn qua hai vai sau vòng qua hai bên cổ, rồi đổ
chung vào chỗ hõm giữa lồng ngực. Máu chảy như nước tuy chậm hơn, một thứ nước ấm
nóng dính dáp. Có lẽ thân thể ông ta chứa một lượng máu nhiều gấp ba lần máu gã
Mèo, và quả tim ông ta hẳn cũng to gấp ba lần quả tim của gã...An nhớ lại cảm
giác nhầy và ấm của dòng máu bao phủ quanh cần cổ, tràn qua ngực, chảy qua rốn
lan xuống tận đám lông mu khiến anh ngứa ngáy. Rồi máu rẽ sang hai bẹn và tiếp
tục bò xuống hai đùi dính nhơm nhớp như một thứ nước sốt chắt ra từ nồi hầm thịt
lẫn xương. Cảm giác đó thật rõ ràng. Cảm giác đó không thể nào quên được. Máu gần
giống một thứ nước sốt hoặc nhựa cây nhưng có hơi ấm và bốc mùi tanh.... An bỗng
thấy tay chân rã rời. Niềm oán hận dội lên thành tiếng thầm thì trong tâm khảm:
« Tại sao mày không câm miệng lại, thằng Mèo chết tiệt kia?
Tao đâu có làm tổn hại đến bản thân mày? Vả chăng, mày đâu biết được vì cơn cớ
nào mà tao phải chạy trốn khỏi quê hương? Làm sao mày hiểu được nỗi khổ đau của
kẻ phải xa lìa xứ sở? Ngọn gió tối tăm nào thổi qua để tai mày nghe lời kẻ khác
một cách ngu dại, tấm vải đen độc địa nào che mắt mày để mày nhìn tao một cách
độc ác như thế? »
Trên sân khấu, người ta đang diễn vở chèo ngắn của người
Kinh. Tích chèo có tên: « Xuý Vân giả dại ». An không thuộc tích chèo này, anh
chỉ nhớ mang máng đó là câu chuyện về một người đàn bà bị tình phụ hoá điên. Cô
gái điên trên sân khấu mặc một chiếc váy đỏ như hoa gạo, tóc cài hoa đại trắng.
Những động tác rối loạn của cô và gương mặt xinh đẹp tỉnh táo hoàn toàn chẳng
ăn nhập vào nhau. Tiếng hát của cô thánh thót, thuần tuý sầu khổ và gợi tình,
cũng chẳng phải tiếng hát của người điên mà chỉ là tiếng hót của một con chim
mái gọi chim trống vào mùa ân ái.
« Những đôi chim trống mái gọi nhau vào mùa xuân, gù nhau suốt
mùa hè, phủ nhau suốt mùa thu và thay nhau ấp trứng suốt mùa đông. Những đôi
chim sung sướng. Chỉ có chúng ta là đau khổ. Chúng ta không bao giờ còn có thể
gọi nhau, ve vãn nhau bằng lời hay bằng câu hát. Chúng ta không còn được làm
tình và không bao giờ còn có thể sinh con đẻ cái để được ấp iu nuôi dưỡng chúng
như lũ chim kia nuôi dưỡng lũ chim non. »
Những ý nghĩ ấy chầm chậm lướt qua óc não anh, chầm chậm như
những lưỡi dao nung đỏ trong lò rèn áp lên da thịt. Anh nghe thịt da mình bốc
cháy xèo xèo dưới lưỡi dao tàn khốc đó. Anh nhớ nàng, người vợ xinh đẹp của
anh. Mối tình đầu và cũng là mối tình sau chót. Người đàn bà duy nhất của đời
anh. Nàng đã ở trong da thịt anh mười sáu năm tròn, nàng sẽ cư ngụ trong tâm hồn
anh cho đến muôn kiếp.
« Nàng Đông! Em ở đâu bây giờ? Người tôi yêu? Hãy mượn gió,
mượn cây, mượn lời chim hay tiếng thú trả lời cho tôi biết? Em ở đâu? và cô Nhỏ
của chúng ta ở đâu? »
Họ trở thành tình nhân vào năm mười lăm tuổi. Nhưng họ đã là
bạn từ thuở chập chững tập đi. Hai nhà là láng giềng gần nhất, cách nhau đúng một
sườn đồi. Hai bà mẹ cùng có thai một năm, đẻ họ cùng trong một tuần trăng, nàng
đầu tháng và anh cuối tháng. Sang tháng sau, hai gia đình rủ nhau chọn ngày
trăng tròn để cùng làm lễ đầy tháng tuổi cho hai đứa trẻ. Dân bản đến nhà nàng
ngả bò ăn mừng vào buổi trưa, buổi chiều kéo sang nhà anh quay lợn, thịt gà, nấu
cỗ. Cả một ngày vui vẻ, trống phách vang lừng. Cuộc vui kéo thâu đêm, ai nấy đều
ngủ lại cho đến hôm sau mới trở về nhà mình. Khoảng sườn đồi mênh mông giống
như sân chơi chung của họ thời thơ ấu, nơi nàng lẽo đẽo theo anh lần mò khắp
các bụi cây tìm quả chín, bắt cánh cam, bọ rùa hay đào hang dế. Lên năm tuổi,
anh dẫn nàng vào những cuộc thám hiểm đầu tiên, họ rời khỏi ngọn đồi quen thuộc
để tìm đến những mạch nước khe dẫn về bản, những cọn nước bằng tre quay chậm
rãi tưới xuống các cánh ruộng bậc thang, rồi ngược lên cánh rừng lảnh lót tiếng
sơn ca. Mùa đông năm ấy, bệnh dịch yết hầu lan khắp huyện. Bản Xíu vốn khuất nẻo,
nằm sâu trong một thung lũng cách biệt mà cũng không thoát khỏi tai hoạ chung.
An mồ côi từ ngày đó. Cha anh chết hôm trước, hôm sau tới lượt mẹ anh trong trận
dịch yết hầu mà đa phần người chết toàn là trẻ nhỏ. Họ là hai nạn nhân duy nhất
ở tuổi trưởng thành. Lạ lùng là cùng ở một mái nhà nhưng anh hoàn toàn khoẻ mạnh,
trong khi cha mẹ anh và những đứa trẻ bị chết đều phải tập trung vào một dàn hoả
táng, chôn chung một góc thung lũng để phòng dịch lây lan.
Người ta vẫn bảo: « Chết cha còn chú, xảy mẹ bú dì ». Không
phải nói thêm lời nào trong đại gia đình họ Nông truyền thống. Sau lễ tang, chú
thím An nhượng lại ngôi nhà của họ cho gia đình láng giềng, rồi dọn về ngôi nhà
sàn của bố mẹ anh để có thể nuôi cháu một cách thuận tiện. Lúc ấy, họ còn là vợ
chồng son. Bốn năm sau, anh lên chín, họ mới đẻ đứa con gái duy nhất, đặt tên
là Nàng My. Chẳng có điều chi phân biệt giữa hai đứa trẻ ấy, và vốn dĩ chúng
cũng thương yêu nhau như cùng mẹ cùng cha. Nàng My ra đời cùng năm với Nàng Nhỏ
và như thế, tới lượt chúng, hai cô bé lại trở thành những người bạn từ thuở lẫm
chẫm tập đi. Năm anh mười bẩy, chú thím làm lễ cưới cho nàng và anh rồi sau đó,
thuận tình ông bố vợ cô đơn, họ được phép về sống với ông trong ngôi nhà sàn
bên kia sườn đồi. Một cuộc sống mặn nồng như sự kết nối của các tuần trăng mật.
Nói cho đúng hơn là một mùa trăng mật miên viễn. Bởi sau khi cưới hai tuần, anh
lại xuống huyện Thất Khê tiếp tục đèn sách. Một tháng một lần, cặp uyên ương được
tình tự cùng nhau. Thời gian đó, trường huyện thường không đủ học sinh nên
chương trình học kéo dài. Vì lẽ đó anh phải lẽo đẽo đi về hơn mười năm mới kết
thúc được chương trình trung cấp. Vào khoá tốt nghiệp năm ấy, người Tày duy nhất
chính là anh, Nông văn Thành, niềm tự hào của dân bản Xíu và giấc mơ chung cho
tất cả đám dân Tày có của ăn của để.
Lớn lên dưới sự chở che của chú thím như vậy, An không thể
làm gì khác hơn là ngoan ngoãn chuẩn bị hành lý khi chú anh ra lệnh:
- Tuy rằng con đã khá cứng tuổi nhưng vẫn còn trong thời
tráng niên. Ta đã lần lữa nhiều năm nay nhưng lần này chính con sẽ phải lên đường
tham gia cuộc kháng chiến. Chúng ta thưa nhà, hẹp đất, nhưng không được để cho
các bản lớn chê cười.
- Thưa chú, con đã rõ.
- Thím sẽ lo chuẩn bị quần áo, thuốc men và tiền bạc cho con.
Con có cần gì nữa không?
- Dạ, con cần vài ngày để từ biệt bạn bè trong bản và xuống
huyện chào mấy ông thầy.
- Được. Chúng ta còn năm ngày mới tới hạn tập trung.
Sau một lát ngần ngừ, anh nói thêm:
- Con chưa làm được gì để giúp chú, từ nhỏ đến lớn chỉ vác gạo
vác tiền của gia đình đi học. Giờ lên đường, bỏ lại gánh nặng gia đình.
Chú anh mỉm cười:
- Nuôi con ăn học là để con nên người. Ấy là sở nguyện của
chính ta. Giờ con lên đường cũng vì ta thấy gia đình mình không thể trốn tránh
nghĩa vụ với đất nước. Việc của con ra đi, cứ yên tâm ra đi. Ở nhà, chúng ta sẽ
đùm bọc Nàng Đông. Vả chăng, ta với ông Cao cũng là bạn hữu..
NGƯỜI ANH EM (2)
An không dám nói thêm. Anh còn có thể nói thêm được điều gì
trước một người đích thực vừa làm chú vừa làm cha? Vả chăng, đang tuổi tráng
niên, anh cũng muốn lên đường. Những chân trời mới lạ mời mọc anh. Những tiếng ầm
ì từ khoảng không xa xôi vẳng lại khiến tâm hồn anh nôn nao. Cuộc chiến tranh
sôi động của dân tộc vọng đến tận những rẻo rừng hẻo lánh nhất. Nhiều bạn đồng
môn của anh đã lên đường. Nàng Xuân cũng rời bản Xíu ra đi khi tròn mười ba tuổi,
gia nhập đội thiếu sinh quân của chiến khu. Mai đây, em gái anh có thể được gửi
đi học Liên-xô hay Trung quốc theo chương trình đào tạo của chính phủ cách mạng.
Như thế đấy, làm sao anh ngồi yên?Thung lũng êm đềm quê hương bị quây bọc bốn bề
bởi rừng núi. Những giải rừng hiền hoà anh đã thuộc kĩ từng lối mòn. Những rặng
núi thân quen anh có thể đếm đủ bao nhiêu dòng nước róc rách trên các khe đá chảy
xuống. Con thác Sơn ca reo khúc nhạc bất tận từ thuở anh lẫm chẫm tập đi cho tới
lúc anh biết làm tình. Những dấu chân của đàn trâu dẫm trên con đường lầy lội
vào bản ngày mưa. Tiếng lục lạc reo dưới cổ chúng vang lên trong các hoàng hôn
vắng vẻ. Tất cả quá quen thuộc, quen thuộc đến sờn mòn và bí bức. Anh hiểu rằng
anh cần rời bỏ thung lũng thân quen này để biết được thế giới bên ngoài tồn tại
ra sao. Anh phải ra đi, tuy anh yêu nàng.
- Anh đi, rồi bao giờ quay về?..
Nàng hỏi.
- Anh đi đánh giặc. Hết giặc anh sẽ về.
Anh đáp, như hết thảy những người trai thời tao loạn ; nói những
lời lẽ đẹp đẽ cổ xưa mà họ đã thuộc lòng.
- Em nhớ anh.
Nàng nói tiếp và bắt đầu khóc.
- Anh cũng nhớ em. Nhưng để làm tròn nghĩa vụ với non sông,
anh phải ra đi. Nhớ anh thì hãy chờ anh. Nhất định anh sẽ về.
Anh đáp lại. Cũng những lời lẽ mà các chiến binh ngàn đời đã
nói với người vợ trẻ của họ trước khi rời khỏi xóm thôn. Những lời an ủi ấy hẳn
dành cho cả kẻ ra đi lẫn người ở lại bởi tuy nói để trấn an người yêu nhưng sống
mũi anh cũng bắt đầu cay như ăn nhầm dưa cải muối còn xanh. Nàng gục mặt lên
vai anh và nước mắt nàng thấm ướt tấm áo chàm anh đang mặc. Nước mắt nàng ấm
nóng. Ấm nóng như là...
Ý nghĩ ấy khiến An sởn gai ốc. Anh vội nhắm mắt lại. Một hơi
gió lạnh thổi tạt từ phía sân khấu vào mặt anh, và cùng lúc ấy, tiếng hát của
người đàn bà điên dại mặc váy đỏ, tóc cài hoa đại vang đầy không gian:
― Con gà rừng,
Sao mày ăn lộn với lũ công...
Sao mày gian dối, hỡi con gà rừng?...„
An thầm nói với chính mình:
― Cuộc sống vốn dối gian như vậy. Tựa như con gà rừng ăn lộn
với bầy công. Nước mắt thơ ngây của em làm nóng vai ta đêm năm xưa. Còn đêm
nay, vai ta lại ấm nóng bởi máu người. Máu kẻ phản bội trộn lẫn máu người vô tội.
Một kiểu như con gà rừng ăn lộn với bầy công. Nhưng đấy chính là con đường của
số phận dẫn đưa. Ta không có cách nào thoát khỏi con đường ấy. Ta sẽ còn tiếp tục
đi theo con đường ấy để tìm đến nơi em trú ngụ. Em và nàng Nhỏ của chúng ta „
- Hoan hô........
- Hoan hô....Hoan hô....
Mọi người ào ào đứng lên xung quanh An. Anh vội vã đứng lên
theo họ. Đêm biểu diễn kết thúc. Tất cả các diễn viên, các nhạc công cùng đổ ra
sân khấu một lần để chào binh lính. Ban chỉ huy lên sân khấu tặng hoa. Gọi là
hoa nhưng thực sự chỉ là các bó cỏ lau, kẹp ở giữa một bông chuối rừng hoặc một
chùm mẫu đơn núi. Nhưng tất thảy đều tràn đầy phấn khích. Đàn phong cầm kéo
vang hết cỡ trước máy phóng thanh để cả người diễn lẫn người xem cùng hát lên
bài ca chung cuộc trước lúc chia tay. Người đứng bên trên sân khấu vẫy hoa,
lính bên dưới vỗ tay theo nhịp trống:
Ta vượt trên triền núi cao Trường sơn
Đá mòn mà đôi gót không mòn
Ta không nề gian lao không nề xông pha
Quân về theo gió đang dâng triều lên...
Tiếng vỗ tay dội vang rừng núi. Rồi sau một vài phút ồn ào,
sư đoàn phó bước lên trước micro cảm ơn đoàn văn công, đồng thời chúc các đơn vị
một thời kì huấn luyện tốt đẹp...An nhìn rõ vẻ nháo nhác tìm kiếm của ông ta
trước khi bước lên sân khấu. Bởi người có sứ mạng nói lời kết thúc đêm nay lẽ
ra phải là sư trưởng.Vị lãnh đạo đã biến mất một cách thần bí.
Rồi các đơn vị trong tiểu đoàn 209 bắt đầu kiểm lại quân lính
trước khi rút lui. Quân của sư đoàn chia ra các ngả về trại. An nhìn thấy tiểu
đoàn trưởng Nhã vẻ như đang tìm kiếm mình. Anh giơ tay lên cao vẫy:
- Tiểu đoàn trưởng, đại đội chúng tôi ở đây.
Phía xa, Nhã cao tiếng gọi:
- Đồng chí cho anh em về nghỉ rồi đến gặp tôi.
An ra lệnh cho các trung đội trưởng:
- Các đồng chí có thể về lán. Chẳng còn gì để làm vào lúc
này. Sáng mai, chắc chắn lãnh đạo sư đoàn cho anh em ngủ bù. Tôi đoán vậy.
- Báo cáo đại đội trưởng, cho anh em ngủ bù là hợp lý. Giờ đã
là ba giờ kém hai mươi nhăm.
Các cánh quân 209 theo nhau rút lui. Gấp gáp, chen lấn, hối hả
không thua gì lúc đến. Từng đợt sấm ì ầm đã vọng bên trên các cánh rừng.
- Mau chân lên mày! Thằng này hậu đậu hay sao thế?
- Mau thế chó nào được. Đường hẹp bỏ cha.
- Thế thì mày dẹp sang một bên cho tao vượt lên trước.
- Các cậu cãi nhau ngậu xị làm gì vậy? Vượt lên hay tụt xuống
thì cũng chỉ hơn nhau vài thước, trốn không khỏi mưa. Biết điều thì chuẩn bị sẵn
vải nhựa ra.
- Lậy trời đừng mưa vội. Lạy trời chờ chúng con về lán rồi
hãy đổ mưa. Mưa có to đến mấy cũng được.
- May ra thì thoát được, sấm đằng đông vừa trông vừa chạy,
nhưng đêm nay lại sấm đằng tây.
- Đồ ngốc, sấm đằng tây mưa giây gió giật, tuy có muộn hơn
nhưng lại dữ dội gấp muôn phần.
- Rồi xem.
Gió đêm cuồn cuộn chảy trên các vòm cây hùng vĩ. Tiếng lắc rắc
của các cành lá nghe như chúng sắp gãy ngay trên đầu ta. An chờ cho lính rút
lui hết mới thong thả tiến về phía tiểu đoàn trưởng. Ông đang đứng với sư đoàn
phó và đám lãnh đạo các tiểu đoàn. Họ đứng thành hình vòng tròn, khi anh bước tới
vòng tròn đó mở ra như một cách chờ đợi và chào đón. An hiểu rằng họ không biết
tìm thông tin ở đâu ngoài một mình anh:
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, đồng chí cho gọi tôi?
Anh dừng lại trước tiểu đoàn trưởng Nhã, cất tiếng hỏi:
- Lại đây! Lại gần đây!
Nhã vồn vã:
- Không phải để gặp mình tôi mà toàn thể ban lãnh đạo. Chúng
tôi đang lo lắng vì không rõ sư trưởng đi đâu. Vào nửa chừng cuộc biểu diễn, đồng
chí ấy đã đi theo một cán bộ đại đội bên tiểu đoàn bạn...Đến bây giờ cũng không
thấy hai người quay trở lại. Tiểu đoàn 209 báo cáo rằng trước khi vào bãi xem đại
đội trưởng người Mèo này đã gặp đồng chí tại cửa rừng. Và sau đó đồng chí đã
cùng với anh ta nhập vào đơn vị 209?
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, chính xác là như thế. Tôi ngồi
xem với cậu ta cho đến hơn chín giờ. Đột nhiên bị đau bụng nên phải quay về lán
lấy thuốc uống. Lúc trở lại trảng tôi tìm về đại đội của mình vì e lính sốt ruột
không thấy thủ trưởng đâu.
- Đồng chí là đồng đội cũ với đại đội trưởng người Mèo?
- Dạ, tôi cùng trung đội với Mã Lỳ từ hồi trên rừng Việt bắc.
Nhưng lúc đó cậu ta chỉ là giao liên ngoài phiên chế vì chưa đủ tuổi. Rồi sau
ngày giải phóng thủ đô, trên cử người về tuyển lính vượt biên giới làm nhiệm vụ
đặc biệt. Một số anh em đã tình nguyện lên đường, trong đó có tôi. Như thế, đã
mười lăm năm chúng tôi không gặp nhau.
- Những ngày còn gần gũi cậu ta trên Việt bắc, đồng chí có biết
gì về hoàn cảnh riêng tư của cậu ta hay không?
- Tôi không biết nhiều lắm vì tuổi tác chênh lệch. Cậu ta
thân với mấy anh Sán dìu, Sán chỉ vùng Lạng giang Hà bắc hơn tôi. Nhưng thi thoảng
nhóm dân tộc chúng tôi gồm sáu chủng loại cũng góp tiền rủ nhau liên hoan. Những
dịp ấy, Mã Lỳ thường khoe rằng máu chảy trong người cậu ta không phải thuần tuý
máu dân Mèo mà là một thứ hộn huyết. Bà ngoại cậu ta vốn là dân Kinh buôn cá mắm
khô gặp thời ly loạn bị cướp hết bạc tiền nên đành ở lại miền núi, lấy ông ngoại
cậu ta vốn là tay buôn thuốc phiện có tiếng trong vùng. Hồi nãy, khi chúng tôi
mới gặp nhau, Mã Lỳ có nói rằng cậu ta sẽ đi tìm một người bà con trong sư đoàn
của chúng ta.
- Sư trưởng?
Cùng một lúc sư đoàn phó và các tiểu đoàn trưởng bật lên câu
hỏi. Không ai trả lời. An hỏi lại họ:
- Các đồng chí nói rằng sư trưởng đã ra đi cùng với Mã Lỳ?
- Đúng thế. Sau tiết mục hề chèo thứ sáu.
Sư đoàn phó đáp.
- Lúc đó chắc tôi chưa kịp quay lại.
An nói.
Cả đám sĩ quan giương mắt nhìn nhau, người nọ nhìn vào mặt
người kia như học trò vỡ lòng nhìn vào tấm bảng đen ghi đầu đề toán cấp một. An
chờ đợi vài phút rồi quay sang tiểu đoàn trưởng Nhã:
- Tôi nghĩ họ sang bên kia núi Gấu trúc trước lúc đêm diễn kết
thúc. Nếu quả thực sư trưởng là họ hàng của Mã Lỳ, cậu ta sẽ phải gọi đồng chí ấy
là cậu. Với người Kinh, họ nhà nội thường coi là gần gụi nhưng với người Mèo, cậu
cháu, họ đằng mẹ hay bà ngoại mới thật sự là thân thiết. Ngần ấy năm cách biệt,
họ phải có rất nhiều chuyện để nói với nhau.
- Có thể...
Nhã đáp.
Một tràng sấm ầm ì liên tiếp đuổi nhau từ phương tây vang tới.
Vài tia lửa mờ rọi lên vùng trời đêm đen như than. Sư đoàn phó đưa mắt nhìn khắp
lượt rồi nói:
- Dù sao chúng ta cũng phải chờ đến sáng mai mới rõ được sự
tình. Quả là kì cục. Nếu sư trưởng cần thiết đi đến như vậy, ít nhất đồng chí ấy
cũng phải nhắn cho tôi một lời.
Ông móc chiếc đồng hồ trong túi áo ra xem rồi nói tiếp:
- Ba giờ đêm rồi. Chúng ta về hầm thôi. Ngày mai, chín rưỡi
sáng ban chỉ huy tập trung. Lính tráng cho ngủ thoả sức.
Quay sang An, ông bảo:
-Cảm ơn đồng chí. Chúc ngủ ngon.
Đám người tản ra theo các lối khác nhau trở về nơi trú ẩn. Tiểu
đoàn trưởng Nhã cùng An theo một lối. Trên chặng đường tối đen như mực, bất chợt
Nhã buông tiếng thở dài:
- Không hiểu sao tôi bỗng cảm thấy đêm nay vô cùng ảm đạm. Thật
phí hoài cả cuộc vui.
- Vâng.
An đáp.
Một chuỗi sấm nữa lại nổ rền. Hơi gió lạnh thổi ràn rạt qua
trảng cỏ làm tê lạnh da mặt họ.
Tiểu đoàn trưởng bảo:
- Chạy đi! Gió đã đổi mùi.
- Vâng.
Hai người cùng cắm đầu chạy. Ánh đèn nhoang nhoáng vẩy trong
bóng đêm. Mươi phút sau, họ chui được vào hầm. Cũng chính lúc đó, đêm bừng lên
từng đám tia chớp, te tướp loằng nhoằng như những bó gân người bị tước nhỏ. Tiếp
đó, những hồi sấm liên tục nổ vang ngay trên đầu họ. Rồi mưa quất xuống những
loạt liên thanh. Gió bắt đầu gào hú từng cơn, bổng trầm xen những loạt roi mưa
quất ràn rạt. Cây cối vặn mình răng rắc, nghiêng ngả bốn bên. Hai người đứng lại
trước của hầm một giây, nhìn ra ngoài trời:
- Khiếp thật. Đúng là cơn đằng tây mưa giây gió giật.
Tiểu đoàn trưởng nói.
- Vâng.
An gật đầu.
- Giờ là lúc chúng ta có thể yên tâm ngủ. Ít nhất cũng được
đêm nay.
Nhã nói tiếp.
- Vâng, chiến tranh mà. Sống ngày nào hay ngày ấy.
An hoạ theo.
Rồi hai người vào hầm.
Khi đã chui vào màn, An lắng nghe tiếng mưa tuôn như thác xối
ngoài trời, thầm nói:
― Ngày mai, không dấu vết nào còn lại trên bờ suối. Có một
trăm thứ kính hiển vi cũng không tìm nổi vân tay kẻ sát nhân. Sư trưởng ơi, chớ
thù oán tôi mà tội nghiệp. Ông đã trót là người nắm quyền trong bộ máy này. Quyền
càng cao thì nguy hiểm càng sâu. Vinh càng dầy thì nhục càng đậm. Xưa nay sự thế
vẫn xảy ra như vậy. Ông hãy ngủ yên nơi chín suối với những người thân thuộc của
tôi.„
Anh thở dài. Rồi tức khắc chìm vào giấc ngủ.
°°°
Giấc ngủ ấy không có ác mộng, cũng chẳng có cơn mơ vàng.
Không một hình bóng quá khứ, cũng chẳng một nét vẽ về tương
lai.
Giấc ngủ ấy đen kịt như đêm đông, dầy đặc như sương mù tháng
chạp, nặng nề như cỗ xe bò chở gỗ. Giấc ngủ ấy như con thuyền bơi trên một dòng
nước mênh mông, lặng lờ không sóng vỗ, chẳng ra sông cũng chẳng ra hồ, không phải
đầm nước trong cũng chẳng phải vùng biển đục. Con thuyền ấy chở anh trôi đi,
trôi triền miên giữa một vùng đen thăm thẳm...
Đại đội trưởng An ngủ liền một mạch cho đến tận mười giờ sáng
hôm sau, khi ban chỉ huy tập trung, tiểu đoàn trưởng Nhã thấy thiếu mặt anh cho
lính quay về gọi. An vùng dậy, đi ngay.
Trong hầm chỉ huy, tất cả đã tề tựu, người đứng kẻ ngồi, túm
tụm thành từng nhóm. Thấy anh, tiểu đoàn trưởng Nhã tiến ra đón:
- Ngủ kĩ vậy? Tôi ăn sáng rồi đi luôn không quay lại hầm. Tưởng
cậu phải nhớ giờ mà dậy?
- Thủ trưởng biết tính tôi hay ngủ nướng mà. Khi tôi thức dậy
hãy còn tối đất nên đành nằm xuống ngủ thêm giấc nữa. Giấc ngủ lại bao giờ cũng
nguy hiểm. Sao? Các đồng chí đã có tin tức của sư trưởng hay chưa?
- Không thấy gì hết...nhưng...
- Có chuyện gì vậy?
- Lính tìm thấy hai chiếc quần của họ, cùng vũ khí và những
thứ đồ lặt vặt trên bờ suối. Sư đoàn đang đứng trước sự lựa chọn nan giải: Hoặc
là báo cáo lên trên, chờ phán xử. Hoặc phải tìm cho ra lý do
hợp lý hoá việc này. Sư đoàn phó và tất cả chúng tôi hy vọng
sự gợi ý của đồng chí. Ở đây, đồng chí là người duy nhất từng quen biết đại đội
trưởng dân tộc Mèo, đối tượng tác nhân.
- Xin cảm ơn sự tin cậy của các cấp lãnh đạo. Nhưng khả năng
hiểu biết của tôi vô cùng hạn chế. Mã Lỳ là người Mèo. Anh ta ở nhà đất, ăn
bánh ngô, trồng thuốc phiện là nghề chính.Tôi là dân Tày. Dân Tày chúng tôi ở
nhà sàn, nuôi trâu bò gà lợn và trồng lúa nương, ăn cơm tẻ lẫn xôi nếp. Thông
thổ, tập tục khác nhau. Thêm nữa, cũng đã mười lăm năm cách biệt.
- Dẫu sao các đồng chí cũng đã từng là đồng đội. Vả chăng,
cùng là dân miền núi.
An cất tiếng cười:
- Bây giờ tất cả chúng ta đây đều là dân miền núi bởi chúng
ta sống trong dãy Trường sơn. Gọi dân miền núi chung chung có nghĩa rằng chẳng
biết gì về đám dân sơn cước.
- Ồ....thành thực mà nói...
Nhã lúng túng đáp rồi gỡ kính xuống lau, cử chỉ quen thuộc mỗi
khi bối rối. Lúc đó sư đoàn phó đã nhìn thấy An nên ông vội vã tiến đến. Theo
sau ông là nhóm cán bộ đứng đầu các tiểu đoàn. Mọi người chào nhau rồi tất thảy
xúm quanh An với vẻ chờ đợi. Nhưng anh quay sang tiếp tục nói với tiểu đoàn trưởng
Nhã:
- Thú thực, lần đầu tôi nghe chuyện ấy. Quê tôi ở ven sông Hồng.
Từ ngày vào lính cũng chỉ tiếp xúc với dân Kinh. Đồng chí là người dân tộc đầu
tiên tôi quen biết.
- Lãnh thổ của người Mèo nằm trên tam giác vàng, miền trồng
cây anh túc và sản xuất thuốc phiện cho nửa phần châu Á. Vua Mèo Hoàng-su-Phì từng
thống lĩnh một đội quân đặc biệt tinh nhuệ, có nhiệm vụ bảo vệ những chuyến
hàng vượt biên giới, đánh trả lại bất cứ quân lính của quốc gia nào cũng như
các toán lục lâm. Dân Mèo vì thế buộc phải trồng thuốc phiện cho nhà vua để đổi
lấy gạo, muối, cá mắm khô và dầu hoả. Nhiều đời như thế, họ trở thành nghiện
thuốc phiện như người Kinh nghiện ăn cơm trắng. Không hiểu vì lý do nào, những
người nghiện thuốc phiện thường rất sợ nước. Họ ít khi tắm suối, tắm khe hoặc
đun nước nóng tắm trong nhà. Họ thường cởi quần áo ngồi cạnh đống lửa để hơi
nóng làm mồ hôi toát ra khắp các lỗ chân lông, rồi họ lấy tay vê ghét lại thành
viên và ném vào đống tro hoặc vun vào một góc rồi đổ ra vườn.
- Trời đất ơi, thật thế à?
Một cán bộ tiểu đoàn bật lên tiếng kêu kinh ngạc.
An quay sang nhìn ông ta:
- Đồng chí cho là tôi bịa chuyện? Hoặc là tôi phân biệt sắc tộc
nên nói xấu người Mèo?
- Ồ không...
Sư phó gạt đi:
- Đơn thuần chỉ là sự ngạc nhiên thôi. Đồng chí chớ hiểu lầm.
Chính tôi đây cũng chưa từng biết điều đó.
An biết rằng câu chuyện về cách tắm của người Mèo kích động
trí tò mò của đám cán bộ sư đoàn nhưng họ cố ghìm nén mà không dám hỏi thêm. Cứ
nhìn những ánh mắt thầm lén trao đổi là đủ biết.
Tiểu đoàn trưởng Nhã nói với sư phó:
- Đồng chí An muốn xem hiện trường bởi không tin vào giả thuyết
là hai người rủ nhau tắm suối. Tôi hy vọng lính còn giữ nguyên mọi dấu vết?...
- Yên tâm...Tôi đã ra lệnh bảo vệ hiện trường trong khi chờ đợi
kết luận. Đồng chí có thể đưa đồng chí An ra xem.
- Chúng tôi sẽ trở lại ngay sau khi xem xét.
Nhã nói. Rồi tiểu đoàn trưởng ra khỏi hầm chỉ huy trước tiên.
An đi sau ông, nhìn mái tóc hoa râm phủ trên cổ áo đã bạc
màu. Ở tuổi năm mươi, trông ông già hơn sư trưởng đến mười năm. Trong cuộc chiến
tranh này, rõ ràng là dân miền biển và dân miền núi chịu đựng tốt hơn nhiều đám
dân đồng bằng. Những bông hoa nở ven bờ sông Hồng, sông Luộc tàn rất mau vì mưa
nắng Trường sơn.
Đồng hồ chỉ mười giờ hai mươi phút nhưng lính tráng đã đứng
túm năm tụm ba khắp trảng. Lẽ ra họ có quyền ngủ hoặc ngồi chơi bài trong hầm.
Nhưng tin tức rỉ từ tai nọ sang tai kia, nên khi hai người đi đến bờ suối, lính
sư đoàn đã đổ ra đông nghịt. Một sợi dây dù chăng giữa ba thân cây, làm ranh giới
bảo vệ hiện trường. Tiểu đội trực thuộc văn phòng ban chỉ huy sư đoàn làm nhiệm
giữ đám lính tò mò bên ngoài sợi dây dù đó.
An đưa mắt nhìn bờ suối. Dấu vết con lũ còn hằn lên các ngấn
cát và những đám sỏi bị nước bào. Những thứ đồ vật chiều qua xếp gọn thành đống
giờ tẩu tán khắp nơi. Hai chiếc quần trôi tụt xuống phía dưới chừng dăm thước rồi
dạt vào một gốc cây. Một chiếc đèn pin chúc đầu xuống cát chỉ còn nhô lên hai
phần ba than đèn, chiếc kia bị nước cuốn trôi tít xuống chừng ba mươi thước rồi
mắc vào một đám cành khô. Những thứ lặt vặt như lọ tăm, hộp thuốc lá, bật lửa,
bấm móng tay....biến mất tăm không dấu vết. Chỉ hai khẩu súng là còn nguyên vị
trí cũ cùng với một chiếc giầy. Tuy nhiên, chúng cũng phủ đầy bùn cát. Ồ, cơn
mưa rừng đêm qua quả là trác tuyệt, nó đích thực là một gã phù thuỷ cao tay đã
biến đổi hoàn toàn cảnh tượng sau lời thần chú.
- Ồ, cơn đằng tây mưa giây gió giật.
An bất giác thốt lên tiếng kêu:
- Đồng chí nhìn xem ngấn bùn đọng trên chiếc giầy.
- Quả là hung dữ, cơn mưa rừng đêm qua...
Tiểu đoàn trưởng Nhã gật đầu rồi nói tiếp:
- Sao tôi không nhớ chuyện đó nhỉ?
- Nhớ làm sao được? Chuyện đó chỉ phổ biến trong nội bộ lãnh
đạo ban sư đoàn. Ai dám chấp nhận sự thật ấy?
Tiểu đoàn trưởng chép miệng và hạ giọng gần như thì thầm:
- Khổ thay! Miếng ăn đổi lấy mạng người.
An trầm ngâm nhìn dòng suối và thầm nhủ:
« Đêm qua nếu ta không cột chặt một bên chân vào gốc cây, hẳn
ta cũng lãnh được một cái chết như cậu lính vớt nai kia. »
Quay lại, An thấy đám lính đang chằm chằm nhìn anh và Nhã. Họ
là những khán giả của một vở tuồng thần bí không có cốt truyện cũng chẳng có
phông màn. Nhân vật chính không xuất hiện. Chỉ duy nhất vài mẩu trang phục và
dăm thứ đạo cụ ném ngổn ngang. Nhưng vở tuồng này kích động tâm trí biết bao
người vì nó liên quan cùng lượt đến cái chết hữu hình và cái chết vô hình. Nếu
không hẳn là cái chết tuyệt đối thì cũng là sự thương tổn nghiêm trọng đến danh
dự các cấp lãnh đạo. Chưa đầy ba tháng trước, toà án binh vừa xử bắn hai cậu
lính hiếp một người đàn bà Vân kiều đốt than trong núi. Cuộc xử tử được thông
báo khắp bốn sư đoàn quần thảo nơi chiến trường để làm gương răn đe. Vậy mà giờ
đây, sư trưởng sư đoàn danh tiếng nhất, nhiều thành tích chiến đấu nhất khắp miền
biến mất tiêu với một gã Mèo, trong đêm khuya, không một lời nhắn nhe, và vào
buổi sáng hôm sau người ta tìm thấy hai chiếc quần trôi dạt trên bờ suối. Hẳn
không cần thông minh lăm lắm cũng có thể mường tượng được tất thảy những gì xảy
ra trong óc não đám lính đang xúm đông xúm đỏ kia.
Có lẽ tiểu đoàn trưởng đã đoán được điều ấy nên sau một lát
chờ đợi, ông lên tiếng giục An:
- Chúng ta quay về hầm chỉ huy được chưa?
- Vâng.... Nhìn thế cũng là đủ.
An đáp. Rồi họ quay gót. Tiếng lào xào bàn tán của đám đông
đuổi theo họ. Nhất là khi hai người đi khuất trong rừng, gần như tức thời tất
thảy những tiếng nói đều cất cao lên, giọng nào cũng oang oang như ra-đi-ô mở hết
cỡ. An hiểu rằng đám lính trẻ chủ tâm để cho họ nghe thấy:
- Tôi đoan chắc là hai ông này rủ nhau ra nơi vắng vẻ chơi
trò kê giao. Họ chọn đúng thời cơ đấy chứ? Lính đang mê mải xem văn công, các
ngài ra đây giải quyết nỗi buồn cho củ hành bí bức.
- Kê giao là cái gì nhỉ?
- Đừng vờ vịt, tiên sư bố khỉ. Mày không biết thì còn ai biết
cái trò ấy?
- Mày muốn gắp lửa bỏ tay người phải không?
- Lửa với than! Bữa trước thằng mặt mẹt nào kể với tao là
lính Lào chuyên trị chơi trò lắp đít?
- Thế lắp đít với kê giao là một hay sao? Giờ tao mới biết...
- Bố sư thằng hề đểu.
- Không đểu thế làm sao chúng mày được mặc sức cười?
Những tiếng cười náo loạn chen chúc nhau, rú rít, sằng sặc,ha
hả....Những tiếng cười bắn liên tục như đạn liên thanh. Những tràng cười rặn ra
từng cục như kẻ táo bón trong cơn sổ ruột.
An nhìn thấy Nhã cúi đầu rảo bước thật nhanh, dường như muốn
chạy trốn những lời đàm tiếu của đám lính. Chắc tiểu đoàn trưởng khổ tâm lắm.
Đó là một con người nho nhã, có đôi phần đơn giản. Mọi tổn thất của cuộc sống
tinh thần thường khiến ông hoảng hốt và bị dằn vặt nặng nề hơn những người
khác.
An rảo bước tiến sát lưng ông, lên tiếng:
- Chẳng ai sinh ra để làm lính. Chiến tranh là sự chẳng đừng.
Thủ trưởng chớ nên nghĩ ngợi nhiều quá.
- Tôi vốn là người không thích đa sự. Nhưng quả tình không muốn
nghĩ cũng không được. Đồng chí lý giải ra sao sự việc này?
- Tôi cũng bất lực. Tôi không thể thông minh hơn các đồng
chí.
- Chúng ta sẽ giải thích ra sao trước anh em?
- Nếu chúng ta không hiểu thì tốt nhất là đừng giải thích.
- Nhưng điều đó là bất khả. Muốn hay không cũng phải giải
thích lý do trước tất thảy mọi người. Trong quân đội, mọi cái chết đều phải
tuyên bố rõ ràng vì nó còn liên quan đến những người trong gia đình họ. Hoặc là
một cái chết nhục nhã của kẻ phản bội, hoặc là sự hy sinh vì nhiệm vụ trước
nhân dân và như thế, thân nhân của họ có quyền được hưởng sự đền bù.
- Vâng.
Nhã đáp.
Cùng lúc, trong thâm tâm anh bật lên tiếng cười chua chát:
« Nhưng cuộc đời không đơn giản như thế. Còn có rất nhiều cái
chết nằm ở ngoài vùng đất quy hoạch của các vị. Có những cái chết oan uổng, những
cái chết nghẹn ngào câm lặng, những cái chết vô ý vô tình, những cái chết bò đến
như loài rắn độc, những con rắn độc của định mệnh mà không ai có thể phòng ngừa
và chống đỡ. »
Chẳng mấy chốc họ đã trở lại hầm chỉ huy.
Mọi người lặng lẽ uống nước chè hoặc rít thuốc trong khi chờ
đợi họ. An biết người ta muốn có một lời giải thích. Nhất thiết phải có một lời
giải thích. Vì thế, tốt nhất là anh lên tiếng mà không chờ phải nì nèo.
- Báo cáo sư phó và toàn thể ban lãnh đạo...Tôi đã cùng tiểu
đoàn trưởng xem xét kĩ những vật còn lại trên bờ suối. Tôi tin chắc sư trưởng
và Mã Lỳ không thể rủ nhau tắm bởi dù còn khoẻ mạnh sư trưởng cũng đã ngoại ngũ
tuần. Thời điểm đó, nước suối rất lạnh. Thứ hai, chắc chắn Mã Lỳ không dám lội
xuống nước. Suốt quãng thời gian ở trên rừng Việt bắc, tôi chỉ chứng kiến cậu
ta tắm hai lần, cả hai lần đều vào giữa trưa hè nóng nực và do nhóm bạn Sán
dìu, Sán chỉ rủ. Bình thường, Mã Lỳ không bao giờ nhúng mình xuống suối, dù có
phải lội qua thì cậu ta cũng mau chóng lau khô người để mặc quần áo. Chúng tôi
vẫn gọi các cậu Mèo là lũ mèo nhát nước. Do đó, không có lý do để họ điên khùng
bỗng dưng lội xuống tắm trong bóng đêm. Còn những lý do khác, tôi chưa đủ thời
gian hoặc kinh nghiệm để phán đoán...
Nói xong, anh ngồi xuống bên tiểu đoàn trưởng. Đám người câm
lặng. Ai đó khúc khắc cất tiếng ho. Rồi sư phó nghiêm giọng tuyên bố:
- Tôi buộc phải yêu cầu tất cả các đồng chí cho ý kiến để đi
đến quyết định cuối cùng. Muốn hay không tất cả chúng ta cũng có trách nhiệm giải
quyết sự việc này. Muốn hay không nó cũng liên quan trực tiếp đến danh dự của mỗi
người ngồi đây. Chúng ta phải đương đầu với trên một ngàn lính và sau đó, dư luận
sẽ lây lan sang các sư đoàn bạn. Thêm nữa, chúng ta cũng không thể báo cáo lên
cấp trên, chờ cấp trên xuống mở cuộc điều tra, lập hồ sơ toà án binh theo thông
lệ, bởi điều đó là chuyện không tưởng. Riêng thời gian chuyển công văn đi lại
cũng mất nửa tháng là tối thiểu, đó là trường hợp thuận lợi tuyệt đối, giao
liên an toàn không gặp thám báo, lũ cuốn hoặc thú dữ...Vả lại, chỉ đêm nay mưa
rừng sẽ cuốn trôi sạch nếu chúng ta không gom nhặt những đồ vật còn sót lại
trên bờ suối. Những thứ lưu vật đó cần phải được giữ lại cho gia đình những người
mất tích. Tôi dùng chữ mất tích ở đây vì chúng ta không rõ số mệnh của sư trưởng
và đại đội trưởng người Mèo kia ra sao?...Chúng ta hy vọng rằng họ có thể còn tồn
tại, trong một cách thức nào đó mà chúng ta chưa biết rõ.
- Tôi nghĩ rằng chúng ta nên gạt bỏ giả thiết mất tích. Nó
không thuyết phục được ai. Tưởng tượng xem hai người đang còn tồn tại, không mảnh
vải trên thân. Liệu ai có thể bắt họ làm điều đó?
- Năm trước bọn biệt kích chẳng tóm gọn cả tốp lính đang tắm
suối là gì? Nếu tôi không nhầm họ là lính sư 887.
- Ồ, tôi quên khuấy chuyện ấy.
- Trí nhớ ông ngắn thế? Vừa mới mùa hè năm trước đã quên?
- Ờ, bốn mươi chín rồi còn gì? Khôn đâu tuổi trẻ, khoẻ đâu tuổi
già?
- Nói các đồng chí đừng cho là mê tín. Tôi không tin sư trưởng
còn sống. Sáu giờ sáng hôm nay thức dậy, tôi nghe tiếng chim kền kền kêu như
rít lên trong núi. Từ dạo lính của ông Thắng dính bãi mìn đến giờ đã hơn bốn
tháng, có bao giờ nghe kền kền rít lên từng bầy náo loạn như thế đâu?
- Đúng! Tôi cũng nghe chim kêu rợn cả hồn. Lúc đó mới lờ mờ
sáng, vậy mà cả bầy chim đã rít lên như vậy có nghĩa chúng gặp mồi. Tiếng kêu vọng
từ mạn Núi Mỏ chim. Mạn đó là nơi con suối đổ vào sông Nậm Khuốt.
Sư đoàn phó quay sang hỏi trợ lý quân sự:
- Đồng chí cho chúng tôi biết từ đây đến đấy hết bao nhiêu thời
gian?
Anh trợ lý đáp:
- Báo cáo đồng chí chỉ hai mươi phút nếu chúng ta có trực
thăng. Nhưng đi đường bộ thì năm ngày là tối thiểu. Từ nơi chúng ta đóng quân đến
sông Nậm Khuốt không có đường vượt rừng, cũng không có đường qua trảng. Đi dọc
suối lại càng bất khả vì ngay khúc suối dưới cách đây chừng non hai trăm thước,
núi đá tai mèo đã dựng lên giống hệt Vùng Núi Chết bên kia. Chỉ có cách duy nhất
là đi theo lối mòn của người Vân kiều. Lối ấy, không thể dưới năm ngày đường,
đó là với tốc độ của một giao liên khoẻ mạnh và thành thục. Tiếng chim kêu mà
các đồng chí nghe thấy không vọng lại từ sông Nậm Khuốt mà ngay ở hang núi sau
cánh rừng nơi chúng ta trú quân. Bởi từ sông Nậm Khuốt đến đây đường chim bay
cũng hơn ba cây số. Không tiếng chim nào có thể vượt qua đoạn đường dài như thế.
Nhưng tôi nghĩ rằng loài chim gặp mồi thường có cách liên lạc và truyền tin
riêng nên chúng kêu rít lên như vậy. Đó có thể là tiếng kêu để gọi bầy.
- Tôi cũng nghĩ như vậy. Phân tích của trợ lý sư đoàn hoàn
toàn có lý.
Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai bật nói theo. Đoạn ông quay
sang hỏi sư đoàn phó:
- Liệu chúng ta có thể xin được một chuyến trực thăng hay
không?
Sư đoàn phó lắc đầu:
- Chiến trường chúng ta chưa bao giờ được hưởng ân huệ ấy.
Ngay trận Đồi con Công, thương binh nặng nằm la liệt hàng trăm xin trực thăng
cũng còn không nổi huống chi trường hợp này?
- Bộ tham mưu coi chúng ta thuộc loại lính cưng chắc?
Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai vặn lại.
- Không lính cưng thì cũng được nằm sâu trong vùng đất Lào. Đất
Lào được hiểu một cách ngầm ẩn là nơi ít hiểm nguy hơn các vùng khác. Đồng chí
quên lời thượng tướng Đồng nói bữa trước rồi sao?
Sư đoàn phó đáp lời.
- A...
Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai bật một tiếng kêu lửng lơ rồi
ngậm miệng tức khắc. Chẳng ai nói thêm lời nào nữa.
Sau một hồi lâu lặng lẽ, Nhã bỗng nhiên buông tiếng hỏi bâng
quơ:
- Liệu chúng ta có nên cử người xuống sông Nậm Khuốt hay
không? Dẫu sao cũng phải hành động ở mức tối đa. Như thế, sau này chúng ta chẳng
còn ân hận nữa.
Sư phó đưa mắt bất bình nhìn Nhã:
- Đồng chí nằm mơ hả?
Nhã còn ngơ ngác chưa kịp trả lời, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn
Hai đã quay sang đập vào vai ông:
- Khổ quá, đầu óc ông để trên trời hay dưới biển? Từ giờ đến
chiều sẽ chẳng còn một mẩu da sót lại. Ông chưa từng thấy cảnh lính ông Thắng
dính bãi mìn, có đúng không? Mười tám cậu cả thẩy mà chỉ hai ngày chim dọn sạch.
An thấy Nhã rùng mình. Rồi ông cố trấn tĩnh bằng cách thọc
hai tay vào túi quần và cúi đầu xuống. Bình thường các cuộc họp ban chỉ huy chỉ
dừng lại ở cấp lãnh đạo tiểu đoàn. Sự việc này là trọng đại nên sư đoàn phó mới
quyết định mở rộng đến các đại đội trưởng. Lần đầu tiên, An có dịp quan sát người
lãnh đạo trực tiếp của mình. Rõ ràng Nhã hiền lành, tốt bụng nhưng có phần kém
khôn ngoan hơn lãnh đạo hai tiểu đoàn kia. Vậy mà thành tích chiến đấu của tiểu
đoàn Một luôn luôn nổi trội. Có lẽ trời vốn thương kẻ khờ khạo. Hoặc nói cách
khác là tất thảy những sĩ quan dưới quyền Nhã đều yêu quý ông nên họ hành động
hết mình vì ông. Con người này giống một gã học trò hơn là một sĩ quan quân đội.
Sau một hồi im lặng, sư đoàn phó cất tiếng:
- Tôi đề nghị các đồng chí lần lượt phát biểu. Sự việc này xảy
ra vô cùng bất ngờ. Mấy chục năm trong quân ngũ cũng không cho tôi đủ kinh nghiệm
để giải quyết. Thế nên, tôi quyết định lấy ý kiến tập thể, và chúng ta chịu
trách nhiệm tập thể.
Lại im lặng.
Mọi người đưa mắt nhìn nhau, dường như tra vấn, dường như cầu
cứu, dường như tìm một sự thông cảm. Bởi ai cũng hiểu họ đang bước trong ngõ cụt.
Sư đoàn phó móc gói thuốc sợi ra lăn một điếu. Những bàn tay khác chìa về hướng
ông. Gói thuốc chuyền đi theo kiểu dây chuyền, mỗi người bốc một nhúm thuốc,
bóc một mẩu giấy cuốn. Khi nó quay lại chủ nhân thì chỉ còn vẻn vẹn nhúm thuốc
cuối cùng vừa đủ điếu thứ hai. Sư đoàn phó đã rít hết điếu thuốc kia nên vớ lấy
nhúm thuốc cuốn nốt đoạn vo viên tờ giấy gói, nhét vào túi quần.
Tất cả đều im lặng nhả khói. Căn hầm mù mịt. Trợ lý sư đoàn đứng
dậy mở cánh cửa thông sang căn hầm phía sau cho gió lùa khói ra cửa hầm. Ai
cũng có cảm tưởng sự việc mịt mù như khói và không biết tìm ngả nào mà ra.
Nhưng khi hút tàn điếu thuốc, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Ba, người lặng câm như
hến suốt từ đầu cuộc họp đến giờ bỗng giơ tay:
- Tôi có ý kiến.
― A, cóc mở miệng rồi đây.
An thầm nghĩ. Trong lúc đó tất thảy mọi cặp mắt đều đổ dồn
vào ông này và sư đoàn phó hấp tấp bắt lời:
- Chúng tôi nghe đây.
- Tôi nghĩ rằng...
Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn ba vừa nói được hai tiếng đã dừng
lại uống nước. Mọi người tuy sốt ruột cũng phải nén bụng chờ vì ông nổi tiếng
là chậm rãi, đủng đỉnh và ít lời. Cậu trợ lý của ông kể rằng có lần hai người
đi công tác lẻ. Bốn ngày liên tục đi đường rừng mà ông không cậy răng nửa câu,
ngoài những mệnh lệnh cụt lủn, kiểu như: ― Chúng ta nghỉ, ăn cơm, hoặc: Đi
thôi, đến giờ rồi...Hơn nữa, vẻ mặt ông lầm lì, kín như bưng khiến lính không
dám gợi chuyện, kể cả những anh nổi tiếng bẻm mép. Thành ra, cậu nào bị phân
công đi thị sát chiến trường hoặc làm công việc gì đó đột xuất với ông cũng tự
coi như chịu kỉ luật: Tù mồm.
Giờ cũng vậy. Mặc kệ mọi cặp mắt đang dán vào mình, ông cứ đủng
đỉnh nhắp từng ngụm cho hết chén trà rồi cẩn thận đặt xuống khay nước. Xong đó,
ông khề khà hắng giọng rồi mới nói tiếp:
- Tôi nghĩ rằng chúng ta bỏ quên một khâu quan trọng: người
Mèo rủ sư trưởng cùng đi. Ở đây, riêng đồng chí Hoàng An là có quen biết anh
ta, nhưng cũng đã mười lăm năm về trước. Trong mười lăm năm sau đấy, không ai
kiểm soát được người Mèo này làm gì, quan hệ với những ai. Thông tin chúng ta
có được từ tiểu đoàn 209 rất mỏng. Tiểu đoàn này cũng vừa được gom góp từ hai
tiểu đoàn thiếu sau các trận đánh nhiều tổn thất và một phần lính bổ sung vừa cập
bến. Đại đội trưởng người Mèo này chính thuộc bộ phận mới từ Bắc chuyển vào.
Bây giờ, tôi giả định....
Tới đó, ông ta lim dim mắt lại, dường như đang nhìn vào những
cảnh tượng xảy ra trong trí tưởng của mình. Cả phòng họp nín thở chờ đợi. An
cũng dán mắt vào đôi mắt khép hờ kia vì anh muốn phỏng đoán những gì xảy ra
phía sau chúng. Nhưng tiểu đoàn trưởng đã mở choàng mắt ra, chăm chú nhìn sư
đoàn phó:
- Tôi giả định rằng đại đội trưởng này đã từng có quan hệ với
vua Mèo Hoàng-su-Phì, một kẻ thù đáng gờm của lực lượng cách mạng trước ngày giải
phóng Thủ đô. Tôi giả sử rằng anh ta có mối dây huyết tộc hoặc chịu ơn sâu nặng
của Hoàng-su-Phì. Như thế, chắc chắn anh ta sẽ nuôi dưỡng mối oán thù thâm căn
cố đế với cách mạng. Như vậy, việc anh ta lợi dụng quan hệ họ hàng về phía ngoại
mà hành động trả thù là đương nhiên. Các đồng chí đã quên rằng quân đội của
chúng ta từng chịu những tổn thất rất lớn trong cuộc chiến đấu với Vua Mèo trên
cao nguyên Đồng văn ở biên giới phía bắc. Chính đồng chí Hoàng An cũng biết đội
quân của vua Mèo vô cùng tinh nhuệ. Vốn dĩ là dân miền núi, họ leo núi leo cây
thần tình trong khi lính của chúng ta ở đồng bằng không chịu quen khí hậu băng
giá và không vượt qua được những đỉnh núi tai mèo nhọn hoắt. Họ được nuôi ăn đầy
đủ và tập bắn từ thuở lên mười. Đội quân này nổi tiếng là những thiện xạ bắn
trăm phát trúng cả trăm phát. Hoàng-su-Phì vô cùng giàu có nên trang bị cho đội
quân của ông ta những thứ vũ khí hiện đại mà lúc đó quân đội chúng ta cũng chưa
có được. Với tất thảy những ưu thế như vậy, họ khống chế hầu hết những con đường
độc đạo và từ trên núi xả đạn xuống tàn sát quân của chúng ta. Lính ngã xuống
không biết bao nhiêu mà kể xiết. Thắng lợi của mặt trận Đồng Văn đã phải trả bằng
một giá rất đắt. Tôi nhắc lại một đoạn sử để các đồng chí có thể hình dung được
bối cảnh câu chuyện. Giờ, giả định rằng đại đội trưởng Mã Lỳ này là hậu duệ của
Hoàng-su-Phì đã thay tên đổi họ để trà trộn vào quân đội chúng ta. Gặp sư trưởng
chính là dịp thuận lợi nhất để anh ta trả thù...Anh ta vừa tiêu diệt được một
cán bộ quân đội tầm cỡ, vừa bôi nhọ danh dự ông. Chúng ta đã từng sống với sư
trưởng nhiều năm. Không ai có thể tin được ông làm chuyện bậy bạ ô nhục, mà
trong tình cảnh oái oăm khó hiểu như vậy. Tôi cho rằng người Mèo này đã gợi những
chuyện gia đình gia tộc có liên quan tới người bà con sư trưởng rồi bắn lén
ông. Sau đó, y lột quần của ông và của y bỏ lại để tạo nên hiện trường giả của
sự dâm loạn. Tôi ngờ rằng sư trưởng chết nhưng y còn sống và đã tẩu thoát. Sự
việc phải được chuẩn bị kĩ trước khi hành động. Các đồng chí chớ quên rằng
chúng ta là người Kinh nên đối với chúng ta rừng núi lẫn bóng đêm là một thế giới
xa lạ, đáng sợ. Nhưng với người Mèo, họ vào rừng như cá trở về với nước. Nhất
là khi họ đã chuẩn bị áo quần lẫn vũ khí tuỳ thân.
Mọi người ồ lên tán thưởng:
- Đúng rồi!
- Đơn giản thế mà chẳng ai nghĩ ra được?
- Tất cả chúng tôi đều phải biết ơn đồng chí. Thiên hạ nói
không ngoa: Một khi cóc đã mở mồm.
Ai nấy chen nhau ào ào lên tiếng. Tất cả đều thở phào. Mọi
gương mặt đều trở lại nhẹ nhõm và mọi ánh mắt đều trở lại linh hoạt. Cuối cùng
họ cũng đã tìm ra được lối thoát. Ý kiến của tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Ba giống
như ánh sáng cuối đường hầm. Không ai không tán dương ông. Sư đoàn phó vươn qua
mặt bàn, vỗ vai ông và nói:
- Tuyệt vời!
An nhìn mọi người, trong lòng thầm nói:
― Thằng Mèo chó chết kia. Cuối cùng, chính mày mới được liệt
kê là kẻ thay tên đổi họ chứ chẳng phải tao. Giờ thì bản án đã tuyên bố: Mày là
kẻ sát nhân. Mà sự thật cuối cùng cũng đích xác là như vậy.
Như một sự trớ trêu của định mệnh, bên tai anh lại văng vẳng
câu hát Con gà rừng:
« Con gà rừng;
Sao mày ăn lộn với lũ công,
Sao mày gian dối, hỡi con gà rừng?... »
NGƯỜI ANH EM (3)
Cuộc họp vừa tan, An đã trở lại hầm và tức khắc lăn xuống giường
ngủ. Giờ cơm trưa anh cũng không dậy. Đại đội phó đến tận nơi, dựng anh lên:
- Anh ốm hay sao mà bỏ bữa như vậy?
- Không ốm, nhưng buồn ngủ. Điệu này chắc sắp sốt rét trở lại.
- Dậy ăn cơm. Nhà bếp nói sáng nay anh đã bỏ bữa rồi.
- Tôi đắng lưỡi.
- Tôi mang sẵn thuốc phòng sốt rét cho anh đây. Nhưng phải ăn
no mới được uống.
« Thôi mình đành cố ăn vậy. Ốm lúc này cũng quả là bất tiện
cho mọi người. »
Anh nghĩ và tung chăn ngồi lên:
- Nào thì đi ăn. Cậu ăn chưa?
- Tôi chờ anh. Hôm nay cấp dưỡng kiếm được ít rau ngót rừng.
Lại có canh mà ngụp lặn.
- Anh em trong đại đội xong bữa rồi chứ?
An hỏi, đoạn cài khuy áo và bước ra khỏi hầm. Đại đội phó đi
sau anh, đáp thủng thẳng:
- Lính ăn xong quay về lán chơi tu-lơ-khơ hoặc ngủ. Chúng nó
hết trò xem. Ngoài suối tổ trực nhật đã thu gom các hiện vật đem về sư đoàn.
- Ra thế...
An bật cười vì lối giải thích của đại đội phó, anh hỏi tiếp:
- Ban lãnh đạo đã giải thích sự việc này hay chưa?...
- Đâu đã đủ thời gian tuyên bố? Nhưng lính tráng nghe lỏm
cũng biết hết rồi. Tin tức truyền đi từ hành lang sư đoàn xuống các tiểu đoàn,
rồi từ các tiểu đoàn toả xuống các đại đội nhanh hơn tên bắn.
- Ở rừng mà....Còn chuyện gì kích thích hơn đâu?
- Vâng. Chờ mấy năm mới được một buổi xem văn công. Chẳng dè
xem xong lại có người thiệt mạng.
- Cậu có tin ở số phận hay không?
- Tôi tin trăm phần trăm. Chẳng dám nói ra nhưng mọi người đều
nghĩ như vậy. Ở chiến trường có ai tránh được đạn đâu? Chính đạn tự chọn đích
mà bay đến.? Nếu không phải số mệnh định đoạt thì tại sao đạn găm vào người này
mà tránh người khác trong cùng một tình thế, cùng một thời gian?
- Số mệnh có mà cũng không. Nếu quả thực được quyền chọn lựa
thì người ta không bao giờ tự đem thân ra chiến trường, nơi đầu tên mũi đạn.
- A. Vấn đề này hiểu theo mấy ông thầy chiêm tinh là vận mệnh
quốc gia, là số mạng chung của một tập thể. Vận mệnh quốc gia tuỳ thuộc vào người
đứng đầu chứ không thuộc bọn lính quèn hay lũ dân đen như chúng ta đây. Thời
xưa, nó tuỳ thuộc vào vua. Thời nay, nó tuỳ thuộc vào ông chủ tịch.
- Nói như cậu hẳn chủ tịch của chúng ta phải có một lá số tử
vi khốn nạn lắm nên dân mới phải đem thân vào chốn rừng sâu núi thẳm như vầy?
- Ồ. Tôi không định nói như vậy. Ồ, đồng chí đừng trêu cợt
tôi.
Đại đội phó lắp bắp, mặt tái mét. Anh ta nháo nhác đảo mắt
nhìn bốn xung quanh. An bảo:
- Đừng sợ. Chính tôi nói những điều ấy chứ không phải cậu. Mà
tôi cũng không đủ trí khôn để tự cất lên những lời lẽ như vậy. Tôi nghe được từ
ông thầy chiêm tinh người Việt nhưng sống lâu năm trên đất Lào. Tôi chỉ lặp lại
những gì ông cụ đã dạy tôi thôi.
- Vâng.
Đại đội phó cất tiếng thở phào đoạn hạ giọng:
- Anh biết không, tôi cũng nghe một người nói hệt như vậy.
Nhưng ông ấy không phải là nhà chiêm tinh mà là một sử gia.
- A. Một sử gia cũng cần có bộ óc chứa nhiều hòn sỏi như một
nhà chiêm tinh. Nhưng chúng ta sắp đến nhà ăn rồi. Chuyện này riêng cậu với tôi
biết thôi.
- Vâng.
Đại đội phó đáp, gần như thì thầm.
Họ ăn xong, đồng hồ đã chỉ một giờ rưỡi. Năm gian nhà gỗ rộng
rênh chỉ còn lại hai người. Bên ngoài, nắng tràn lên khắp ngả. Gió hiền hoà chạy
dọc các bờ cây làm lung linh trăm ngàn tia phản chiếu của các đám sương còn đọng
trên những phễu lá dày. Ven bìa rừng, hoa dại nở chói lọi. Đại đội phó nhìn những
cánh hoa mỏng như bươm bướm chen nhau khoe sắc đỏ sắc tím và buột miệng thở
dài:
- Tôi nhớ nhà quá...
An lặng im, chờ đợi.
Quả nhiên, đại đội phó không nén được lòng, nói tiếp:
- Đám hoa này khiến tôi nhớ những vườn cải chạy dọc sông. Mùa
xuân, hoa cải nở vàng ươm, bướm ong bay về nườm nượp. Thời con trẻ, tôi chạy
theo mẹ ra bãi nhổ cải. Đến tuổi cập kê, chúng bạn rủ đi tầm hội hết cả tháng
giêng, đi đâu cũng thấy hoa cải vàng chạy dưới chân đê.
- Đúng rồi, tôi nhớ một câu ca dao của người Kinh:
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè.
- Vâng. Ấy là câu ca dao thời xửa thời xưa. Ngày tôi ở nhà, hợp
tác vận động bà con đi làm từ mồng năm tết. Nhưng làm thì làm, rồi người ta vẫn
tìm được cớ để mở hội mùa xuân. Bởi đó là tập tục.
- Trên tôi cũng vậy, người ta gói bánh, rang bỏng mật rồi ngồi
đánh bài suốt cả tháng giêng. Nếu không có hội cũng chẳng làm gì vì trời mưa
phùn liên miên không ngớt. Lúc đó lúa đang chờ mà các nương sắn cũng làm cỏ
xong rồi.
- Trên miền núi ngày hội có kéo dài như ở dưới xuôi không?
- Không dài nhưng cũng đủ đường đất rong chơi. Hội Đàn xuân kết
thúc, chúng tôi rủ nhau đi xem hội Tung còn của người Thái, rồi hội chơi khèn của
người Mèo. Thường chỉ đám trai bản, mạnh chân khoẻ tay và có ngựa tốt là dám đi
chơi xa. Đàn bà con gái quanh năm ở lại nhà.
Hai người lặng im hồi lâu, rồi đại đội phó hỏi:
- Bao giờ chiến tranh kết thúc?
An hỏi lại:
- Bao giờ?
Chẳng ai có thể đem lại lời giải cho bài toán ấy. Một thời khắc
lặng lẽ trôi qua. Đột nhiên, đại đội phó bật lên hỏi:
- Anh có nhớ thằng Toàn híp không?
- Sao không? Nó là cây hề của trung đội Một. Giờ liệu xương
nó mục chưa nhỉ? Hơn hai năm rưỡi rồi còn gì? Mà đất ở đó quanh năm ẩm ướt,
sương tụ, mưa núi rả rích, rêu phủ trơn như bôi mỡ từ chân lèn xuống lòng khe.
Chẳng xương cốt nào trụ được với thứ thổ ngơi ấy.
An không nghe đại đội phó trả lời. Quay sang, thấy cậu ta mím
chặt đôi môi nhưng nước mắt chảy nhoè nhoẹt. Đôi vai xuôi rung từng đợt như
đang cơn sốt rét. Anh đưa mắt nhìn quanh nhưng may mắn chẳng còn ai có thể thấy
họ lúc này. Tổ anh nuôi thu dọn xong về hầm ngủ. Có lẽ chỉ còn bầy chim thóc
mách trong khóm rừng kề cận nhà ăn. Giơ một bàn tay lên, vuốt dọc sống lưng người
đồng đội, anh nói:
- Khóc được như thế là tốt lắm. Khóc đi cho nhẹ lòng.
Một tiếng nói thứ hai cất lên trong con tim anh cùng lúc:
― Cậu còn có may mắn là được khóc với tôi. Còn tôi, tôi luôn
phải khóc một mình. Tôi sẽ còn phải khóc một mình cho đến ngày cuối cùng của kiếp
sống.„
Hai người ngồi ở đó cho đến khi đại đội phó trấn tĩnh lại,
lau mặt, rút trong túi cặp kính rẻ tiền mà anh ta đã khổ công mang theo mấy năm
chiến tranh để nguỵ trang cặp mắt còn đỏ hoe và sưng mọng. Bên kia trảng cỏ, thấp
thoáng đám lính trần truồng. An ngạc nhiên hỏi:
- Họ làm gì bên kia thế?
Đại đội phó xì mũi và đáp:
- Lính bắt nước khe chảy xuống để tắm.
- Sao chúng nó không ra suối? Tắm nước khe dễ cảm lắm còn nước
suối giờ này đã ấm lên rồi.
- Anh quên rằng sư trưởng vừa chết đuối? Sáng nay lính đổ ra
đông nghịt để ngó nghiêng.
- Nhưng nước chảy không ngừng và cuốn trôi tất thảy. Vả chăng
sông cũng như suối chảy qua biết bao miền, làm sao đếm được bao nhiêu kẻ đã chết
đuối từ thượng nguồn xuống đến hạ lưu?
- Vâng...Nhưng sư trưởng lại chết đúng đoạn suối này nên giờ
đây lính sợ. Có lẽ anh là dân miền núi nên không biết nỗi sợ của người
Kinh...Dân châu thổ sông Hồng cũng như những vùng sông khác đều bị ám ảnh bởi
cuộc săn đuổi ráo riết và độc ác của Ma Nam. Theo huyền thoại, Ma Nam chính là
oan hồn những người bị chết đuối. Họ tìm cách dìm chết những kẻ khác. Bởi khi
dìm chết những kẻ khác, họ sẽ có cơ hội được giải thoát khỏi địa ngục, được đầu
thai trở lại kiếp người.
- À, ra thế.
An đáp.
Và một tiếng nói thứ hai lại cất lên trong anh:
« Nếu vậy kẻ đầu tiên bị dìm chết sẽ là ta.
Không chỉ một con ma Nam mà những hai con ma Nam sẽ tìm một kẻ
thù chung cần đổi mạng.
Nhưng đã từ lâu ta không còn biết sợ hãi. Sự sợ hãi đã từ lâu
rời bỏ ta ; cả óc não lẫn tâm hồn.
Anh đứng lên, nói:
- Tôi muốn tắm quá. Cậu có thích ra suối với tôi không?
Đại đội phó nhìn anh một cách hãi hùng:
- Tôi?...Tôi vừa tắm chiều qua.
An cười bảo:
- Đừng sợ, tôi chỉ cần cậu ngồi bên bờ suối xem tôi tắm. Nếu
không dẹp bỏ sự kiêng kị này, làm sao giải quyết được chuyện sinh hoạt bình thường
của lính? Trên một ngàn quân đứng tranh nhau mấy dòng nước khe bé tẹo teo như
nước bò đái để tắm ắt xảy ra đánh đấm nhau. Trong khi con suối mênh mông bỏ trống.
Tôi không tin chuyện ma Nam.
- Vâng.
- Đi theo tôi.
- Vâng.
Đại đội phó đáp như cái máy và rồi bước theo anh cũng như một
cái máy. Họ ra bờ suối. Vài tốp lính quẩn quanh trong rừng tò mò đi theo. Ở đó,
An cất cao giọng hỏi:
- Cậu nào xuống đây bơi thi với Ma Nam?
- Báo cáo thủ trưởng, gan chúng em còn bé.
- Chờ đấy.
An nói rồi cởi quần áo lội xuống suối, bơi ra tận giữa dòng
nhào lên ngụp xuống như một vận động viên nhà nghề trổ tài trước khán giả. Vừa
ngụp lặn, anh vừa đưa mắt nhìn lên con thác Voi gầm trắng xoá:
― Chẳng còn kẻ nào đau khổ hơn ta. Chẳng nỗi tuyệt vọng nào
sâu nặng hơn nỗi tuyệt vọng găm trong tim ta. Như thế, chẳng sức mạnh nào có thể
quật đổ ta trước khi ta trả được mối thù này.
Đám lính trên bờ vỗ tay. Họ thấy An mỉm cười nên càng vỗ tay
hăng hái hơn vì tưởng rằng anh đang cười với họ. Nhưng thực sự, anh đang cười với
chính số mệnh cay nghiệt của mình.
° ° °
Mùa thu năm Quý Tỵ, lúc đó An đang đóng quân ở Tuyên Quang. Một
người bà con trong đoàn dân công tải lương gặp anh vồ vập báo tin:
― Nàng Nhỏ được tiến vua, anh đã biết chưa? Tổ chức cách mạng
tìm cho chủ tịch một người phụ nữ Kinh nhưng chủ tịch lại yêu Nàng Nhỏ của
chúng ta nên giờ đây em vợ anh đã thành hoàng hậu. Nàng được đổi tên là Chí thị
Xuân. Mười hai gia đình bản Xíu giờ đây cũng đổi sang họ Chí sau khi biết tin ấy.
An đã nhập ngũ được hai năm. Hai năm ròng không mảy may tin tức
gia đình. Cuộc gặp gỡ người bà con kia khiến anh vui sướng ròng rã hàng tháng.
Niềm vui ấy như một thứ than cháy chậm, âm ỉ giữ ngọn lửa hoài hoài không tắt.
Ngay ngày hôm đó, An gặp tiểu đoàn trưởng:
- Báo cáo ban lãnh đạo, từ giờ tôi không còn là Nông văn
Thành nữa mà là Chí văn Thành.
- Tại sao?
Tiểu đoàn trưởng ngạc nhiên hỏi.
- Vì chú tôi là chủ tịch xã quyết định như thế. Bản tôi chỉ
có mười hai nóc nhà nên người cầm đầu đã quyết là dân bản cứ thế mà tuân theo.
Người bà con vừa gặp báo cho tôi tin đó.
- Phải chăng người bà con của đồng chí đang ở trong đoàn dân
công đóng trước doanh trại chúng ta?
- Vâng. Chính xác như vậy.
- Tuy nhiên, thay tên đổi họ cũng phải có lý do chứ? Không
dưng, ai làm như vậy?
- Báo cáo thủ trưởng, chắc chắn là phải có lý do. Nhưng lý do
ấy chỉ chú tôi và mấy ông già thông thái trong bản biết với nhau. Chúng tôi, phận
con cháu không được quyền vặn hỏi.
Anh tủm tỉm cười đáp lại.
Thấy thế, tiểu đoàn trưởng liền cười theo và đáp:
- Được thôi. Chúng tôi tôn trọng quyết định của các lãnh đạo
địa phương.
19/1/2007
Dương Thu Hương
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét